"Thiên Nga Và Dơi PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thiên Nga Và Dơi PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo 1 Mùa thu năm 2017. Bầu trời nhìn qua khung cửa sổ có nửa bên dưới màu đỏ, bên trên lại xám xịt. Những đám mây dày đặc dần trải khắp bầu trời buổi hoàng hôn. Bảng dự báo thời tiết mà Godai Tsutomu xem trên mạng không có biểu tượng cơn mưa. “Này Nakamachi, cậu có mang ô theo không đấy?” Godai hỏi viên cảnh sát trẻ tuổi ngồi bên cạnh. “Thôi xong, em không mang. Liệu có mưa không ạ?” “Tôi thấy lo nên mới hỏi cậu mà.” “Gần đây có cửa hàng tiện lợi anh nhỉ? Trời mà mưa thì để em chạy ra đó mua ô.” “Thôi, không cần mất công vậy đâu.” Godai nhìn đồng hồ đeo tay. Sắp sửa 5 giờ chiều. Bước sang tháng Mười một, những ngày se lạnh nối tiếp nhau. Mong sao trời đừng đổ mưa. Godai rất ngại phải đối xử với cậu cảnh sát sở tại này như một chân sai vặt. Lúc này hai người đang ngồi trong văn phòng của một nhà máy nhỏ ở Adachi. Ở đây không có căn phòng sang trọng nào kiểu như phòng tiếp khách, chỉ có một góc dành riêng cho khách được ngăn lại bằng loại vách ngăn rẻ tiền. Cạnh tường có đặt giá trưng bày các mẫu sản phẩm như ống, van, khớp nối… Nghe nói sản phẩm chủ lực của nhà máy này là các loại phụ kiện đường ống nước. Cảm giác có người, Godai liền quay ra nhìn. Một người đàn ông trẻ tuổi bước vào, cúi đầu chào. Mái tóc màu nâu sáng không ngờ lại rất hợp với bộ đồ bảo hộ lao động màu ghi. “Tôi là Yamada Yuta,” người đàn ông trẻ tuổi xưng tên. Godai liền đứng dậy, giơ huy hiệu của Sở Cảnh sát Tokyo, tự giới thiệu mình là điều tra viên trực thuộc Ban điều tra số Một, tiện thể giới thiệu luôn cả Nakamachi. Qua chiếc bàn họp, Godai và Nakamachi ngồi đối diện với Yamada. “Tôi xin phép vào đề luôn, chúng tôi có vài điều muốn hỏi anh về ông Shiraishi Kensuke. Anh biết ông ấy, phải không?” Nghe Godai hỏi như vậy, Yamada đáp vâng. Anh ta trông gầy guộc với chiếc cằm nhỏ. Yamada cứ cúi gằm mặt xuống, không chịu nhìn vào mắt Godai, hẳn là bởi anh ta không có ấn tượng tốt đẹp gì với những người làm nghề cảnh sát. “Hai người có quan hệ thế nào?” “Quan hệ?” “Phải, quan hệ giữa anh và ông Shiraishi. Anh có thể cho chúng tôi biết không?” Cuối cùng Yamada cũng chịu ngẩng đầu lên, nhìn về phía Godai. Ánh mắt lộ vẻ bối rối. “Chuyện đó, chẳng phải… các anh biết rồi nên mới tới đây sao?” Godai chợt mỉm cười. “Chúng tôi muốn nghe từ chính miệng anh. Xin hãy cho chúng tôi biết.” Nét mặt Yamada xen lẫn cả sự bất mãn, lo lắng và hoang mang, sau đó anh ta lại cụp mắt xuống, nói. “Tôi từng phạm tội, khi ấy ông Shiraishi đã bào chữa cho tôi.” “Vụ án đó như thế nào, xảy ra bao giờ?” Yamada khẽ chau mày, ý chừng biết tỏng rồi còn hỏi. Bất luận chuyện gì cũng phải để đương sự tự nói ra, đó là quy tắc bất di bất dịch trong điều tra, song vẫn còn một lý do khác nữa. Cảnh sát luôn cố tình chọc tức đối phương, hòng dễ dàng moi ra suy nghĩ thật của họ. Trong cơn bực tức, người ta không còn giỏi quanh co nữa. “Đó là vụ án gây thương tích xảy ra cách đây khoảng một năm. Tôi đã đánh chủ quán karaoke nơi tôi làm việc, khiến ông ta bị thương. Hồi đó tôi còn bị khởi tố về tội trộm cắp, họ nghi tôi đã cuỗm tiền của quán rồi bỏ trốn. Mặc dù tôi đã nói là mình không trộm tiền, vậy mà cảnh sát chẳng chịu tin… Luật sư Shiraishi chính là người bào chữa cho tôi tại phiên tòa đó.” “Trước đó anh có quen biết gì ông Shiraishi không?” Yamada liền lắc đầu. “Không.” Godai gật gù. Chuyện Shiraishi Kensuke là luật sư tòa chỉ định cho Yamada vốn đã được xác nhận. “Thế, kết quả phiên tòa thế nào?” “Tôi được hưởng án treo ba năm. Cũng nhờ luật sư Shiraishi giúp tôi làm sáng tỏ chuyện lấy cắp tiền chỉ là sự hiểu nhầm của ông chủ… hay nói đúng hơn là ông ta đã nói dối. Chưa kể, luật sư còn chứng minh được rằng thường ngày tôi toàn bị ông chủ bắt nạt. Bằng không, tôi đã bị bỏ tù thật rồi.” Câu chuyện của Yamada trùng khớp với những gì nhóm Godai tìm hiểu được từ trước. “Gần đây, anh có gặp ông Shiraishi không?” “Cách đây độ hai tuần, ông ấy có tới đây. Đúng lúc tôi đang nghỉ trưa.” “Ông ấy đến vì việc gì?” Yamada khẽ nghiêng đầu. “Cũng chẳng có việc gì đặc biệt… Ông ấy bảo muốn đến xem tôi thế nào thôi.” “Hai người đã nói những chuyện gì? Nếu không phiền, anh có thể kể cho chúng tôi nghe được không?” “Thì tôi đã nói rồi đấy, chẳng có chuyện gì to tát cả. Luật sư Shiraishi hỏi tôi đã quen với công việc chưa. Chính ông ấy giới thiệu công ty này cho tôi mà.” “Tôi cũng nghe nói vậy. Biểu hiện của ông Shiraishi thế nào? Có điểm gì khác với mọi khi, chẳng hạn ông ấy có nói điều gì khiến anh bận tâm không?” Yamada lại nghiêng đầu, tỏ vẻ suy nghĩ rất lung. “Tôi không dám khẳng định một cách rõ ràng, nhưng không hiểu sao tôi thấy ông ấy hơi thiếu sức sống. Mọi khi ông ấy thường nói mấy lời động viên tôi, nhưng hôm đó thì không, hình như ông ấy đang nghĩ ngợi chuyện gì khác. Nhưng mà…” Yamada xua tay. “Chỉ là tôi cảm giác như vậy thôi. Cũng có thể do tôi cả nghĩ, mong các anh đừng quá để tâm. Cứ bỏ ngoài tai cũng được.” Chừng như Yamada lo cảnh sát sẽ chú trọng lời khai của mình. Có lẽ vì bản thân từng phải ra hầu tòa nên anh ta biết rằng thật dại dột khi phát ngôn thiếu trách nhiệm. “Anh biết vụ án lần này chứ?” Godai xác nhận lại. “Tôi biết,” Yamada gật đầu. Trông anh ta hơi căng thẳng. “Anh nghĩ thế nào?” “Nghĩ thế nào ư… Thì, tôi rất sửng sốt.” “Tại sao?” “Tại vì, tôi nghĩ chuyện đó không đời nào xảy ra được. Ai ngờ luật sư Shiraishi lại bị người ta sát hại như thế. Tôi thật không hiểu nổi tại sao mọi chuyện lại ra nông nỗi đó.” “Vậy là anh không đoán ra chuyện gì nhỉ?” “Không.” Yamada nói giọng chắc nịch. “Anh nghĩ sao về việc có kẻ nào đó thù hằn ông Shiraishi?” “Tôi không biết nữa, nhưng tôi dám chắc là không có đâu. Mà nếu có thì hắn ta đúng là một kẻ ngu xuẩn. Một kẻ ngu xuẩn và hèn hạ, nên chết quách đi thì hơn. Ai đời lại đi thù ghét vị luật sư ấy, chuyện đó tuyệt đối không thể nào xảy ra được.” Giọng Yamada bừng bừng khí thế. Lúc đầu anh ta không dám nhìn vào mắt Godai, vậy mà giờ đây anh ta lại đường hoàng đáp trả ánh mắt của anh. 2 Mọi chuyện bắt nguồn từ một cú điện thoại. Người gọi điện trình báo về một chiếc xe khả nghi đỗ trên đường, đề nghị cảnh sát đến xử lý. Theo lịch sử cuộc gọi được Trung tâm thông tin chỉ huy lưu lại, lúc đó là 7 giờ 32 phút sáng, ngày mùng 1 tháng Mười một. Người gọi đến là nhân viên bảo vệ của một công ty gần đó. Địa điểm nằm trên một con đường gần Takeshiba Sanbashi, nói về địa danh thì đó là khu Kaigan, Minato. Chiếc sedan màu xanh đậm đậu trái phép bên lề con đường chạy song song với tuyến giao thông vận tải mới Tokyo Rinkai. Ban giao thông trực thuộc phòng cảnh sát gần nhất được điều động tới hiện trường, song vụ việc ngay lập tức được chuyển cho ban hình sự. Bởi thi thể một người đàn ông đã được tìm thấy ở băng ghế sau xe. Nạn nhân mặc suit đen, bị đâm ở bụng. Con dao được sử dụng làm hung khí vẫn cắm nguyên tại chỗ, có lẽ bởi vậy mà nạn nhân không bị chảy máu quá nhiều. Ví tiền vẫn còn nguyên ở túi áo trong của nạn nhân. Bên trong ví có khoảng 70.000 yên tiền mặt và bằng lái xe. Bởi vậy danh tính nạn nhân cũng được xác định một cách dễ dàng. Nạn nhân tên đầy đủ là Shiraishi Kensuke, năm nhăm tuổi, trú tại Minami-Aoyama, Minato. Dựa trên danh thiếp mà nạn nhân mang theo người, cảnh sát xác định nạn nhân là một luật sư, có văn phòng riêng gần đường Aoyama. Không tìm thấy điện thoại di động. Số điện thoại nhà riêng của nạn nhân được tìm thấy từ thẻ liên lạc tuần tra nộp cho phòng cảnh sát gần nhất. Điều tra viên gọi điện tới đúng lúc gia đình nạn nhân cũng đang định trình báo mất tích với cảnh sát. Nạn nhân có vợ kém một tuổi và một cô con gái hai mươi bảy tuổi. Nghe nói nạn nhân ra ngoài từ sáng hôm trước đến nay chưa về, vì không liên lạc được nên cả hai đang lo lắng không biết có phải đã xảy ra chuyện gì không. Họ đến phòng cảnh sát, đối diện với thi thể nạn nhân đang nằm trong nhà xác, vừa khóc lóc vừa khẳng định đó chính là ông Shiraishi Kensuke. Theo lời kể của họ thì ông Shiraishi Kensuke sở hữu cả điện thoại di động lẫn điện thoại thông minh, điện thoại di động dùng cho công việc còn điện thoại thông minh để liên lạc với gia đình. Cả hai đều được cho là đã bị hung thủ lấy mất, tuy nhiên trong khi điện thoại di động hoàn toàn mất kết nối thì điện thoại thông minh vẫn có tín hiệu. Không lâu sau, bằng cách lần theo thông tin định vị GPS, cảnh sát đã tìm thấy điện thoại thông minh của nạn nhân tại con đường dạo bộ có tên là Sumidagawa Terrace nằm ngay dưới triền đê, bên cạnh cây cầu Kiyosu bắc qua sông Sumida, thuộc Saga, Koto. Trên nền đất vẫn còn lưu vết máu đổi chỗ, chiếc điện thoại thông minh của nạn nhân cũng dính máu. Kết quả phân tích cho thấy đó chắc chắn là điện thoại của ông Shiraishi Kensuke. Còn điện thoại di động thì vẫn không thấy đâu. Chuyên án điều tra được thành lập ngay trong ngày. Một nhóm các điều tra viên từ Ban điều tra số Một trực thuộc Sở Cảnh sát Tokyo, trong đó có Godai được triệu tập và cuộc họp điều tra đầu tiên đã diễn ra vào lúc 1 giờ chiều. Tại đó họ đã nghe trưởng ban hình sự trực thuộc phòng cảnh sát sở tại giải thích khái quát về vụ án. Thông qua việc phân tích thông tin định vị trên chiếc điện thoại thông minh, cảnh sát đã nắm khá rõ hành tung của nạn nhân. Đầu tiên, nạn nhân rời khỏi nhà riêng ở Minami-Aoyama vào khoảng 8 giờ 20 phút sáng ngày 31 tháng Mười, đến văn phòng lúc 8 giờ 30 phút. Nạn nhân ở trong văn phòng suốt, đến hơn 6 giờ chiều mới bắt đầu di chuyển bằng ô tô. Khoảng ba mươi phút sau, nạn nhân tới khu phố số 1 Tomioka, Koto. Ở đây có ngôi đền Tomioka Hachimangu, nạn nhân đã đậu xe tại bãi đỗ xe tự động ngay gần đó. Sau khi chờ ở đó khoảng mười phút, nạn nhân tiếp tục di chuyển. Khoảng gần 7 giờ tối, nạn nhân tới con đường dạo bộ Sumidagawa Terrace, nơi chiếc điện thoại thông minh được tìm thấy. Xét từ việc có vết máu dính trên điện thoại của nạn nhân, nhiều khả năng đây chính là hiện trường gây án. Giờ đó chưa phải là muộn lắm, theo lẽ thường, đáng ra nơi này phải có rất nhiều người đi dạo hoặc chạy bộ, song tại thời điểm xảy ra vụ án, tình hình lại hơi khác. Bởi người ta đang thi công sửa chữa tại trạm bơm tiêu nước ngay gần đó, con đường dạo bộ bị chặn, không cho người qua lại. Nói cách khác, nó đã trở thành ngõ cụt, rất thuận tiện cho việc gây án. Nếu vì biết rõ điều đó mà hung thủ mới dụ nạn nhân tới đây thì chứng tỏ hắn tương đối thông thuộc địa hình. Sau đó, thi thể được chuyển lên ghế sau ô tô. Shiraishi Kensuke vốn gầy gò, chỉ nặng chừng sáu mươi cân, nếu hung thủ là người có thể lực tốt, hẳn không khó để vác nạn nhân. Chiếc xe được tìm thấy trên một đoạn đường thuộc địa phận khu Kaigan, Minato, song không rõ nó được lái thẳng từ hiện trường gây án tới hay trước đó còn đi qua nơi nào khác. Cảnh sát cho rằng chính hung thủ là người điều khiển chiếc xe, song ở thời điểm hiện tại, vẫn chưa rõ hắn làm vậy với mục đích gì. Sau khi nghe trưởng ban hình sự giải thích xong, tổ chuyên án tiến hành cân nhắc hướng điều tra, đồng thời phân công nhiệm vụ cho các điều tra viên. Godai được xếp cùng nhóm với Nakamachi, cảnh sát tuần tra thuộc ban hình sự, phòng cảnh sát sở tại. Nakamachi là một viên cảnh sát cao ráo, khuôn mặt gan góc, hai mươi tám tuổi, kém Godai vừa đúng mười tuổi. Godai trộm nghĩ sẽ thật phiền toái nếu cậu ta tỏ ra xông xáo thái quá, song khi thử trò chuyện dăm ba câu, anh nhận ra Nakamachi thuộc típ người làm việc với cái đầu lạnh nên cũng yên tâm phần nào. Nhóm Godai được giao nhiệm vụ điều tra về con người Shiraishi nhằm làm sáng tỏ các mối quan hệ của nạn nhân. Công việc đầu tiên của hai người là hỏi chuyện gia quyến nạn nhân. Nhà riêng của Shiraishi Kensuke tọa lạc tại Minami-Aoyama là một căn nhà nhỏ nhắn được xây theo phong cách phương Tây. Godai có đôi chút ngạc nhiên, bởi khi nghe địa danh cũng như xét từ nghề nghiệp của nạn nhân là luật sư, anh đã hình dung trong đầu về một dinh cơ. Ngồi đối diện Godai tại phòng khách, vợ nạn nhân – bà Ayako và cô con gái Mirei dường như đã lấy lại được bình tĩnh. Nghe nói họ đã chia nhau liên lạc với bạn bè gần xa, bà con khối phố và đang trong quá trình lo liệu cho đêm canh linh cữu cũng như lễ tang của chồng và cha mình. Bà Ayako là một phụ nữ nhỏ nhắn, khuôn mặt đậm chất Nhật Bản, trong khi Mirei lại sở hữu khuôn mặt cực kỳ sắc nét. Godai vừa so sánh khuôn mặt Mirei với khuôn mặt của thi thể nạn nhân trong đầu, vừa thầm nghĩ chắc cô ấy giống bố. Sau khi bày tỏ niềm thương tiếc, trước nhất Godai hỏi về biểu hiện của ông Shiraishi Kensuke khi ra khỏi nhà lần cuối. “Tôi không nghĩ ông nhà tôi có biểu hiện gì đặc biệt khác lạ chỉ riêng vào ngày hôm qua,” bà Ayako bắt đầu kể với một dáng vẻ đầy u buồn. “Ông ấy không nói sẽ gặp ai đó vì việc riêng, cũng không báo trước là sẽ về muộn.” Sau khi nói vậy, bà Ayako bổ sung thêm. “Có điều, tôi thấy gần đây ông ấy hơi ủ rũ, như thể có nhiều chuyện phải suy nghĩ. Tôi cứ tưởng ông ấy đang nhận một vụ khó nhằn nào đó.” Cả vợ và con gái đều không biết ông Shiraishi đang nhận vụ gì. Cả hai đều bảo, ông Shiraishi chẳng bao giờ kể lể chi tiết chuyện công việc ở nhà. Godai tiếp tục hỏi theo đúng trình tự. Đại loại như hai người có đoán ra chuyện gì liên quan đến vụ án hay không, gần đây nạn nhân có điều gì khác thường không. “Tôi chẳng đoán ra chuyện gì hết,” bà Ayako khẳng định. “Chắc chắn ông nhà tôi không làm những việc phải chuốc hận vào người đâu. Ông ấy luôn làm việc bằng sự chân thành. Các thân chủ vẫn gửi thư cảm ơn cho ông ấy suốt mà.” Có điều, xét từ tính chất công việc của một người chuyên bào chữa cho các bị cáo, chẳng phải ông Shiraishi cũng thường bị phía nạn nhân thù ghét hay sao? Trước thắc mắc này của Godai, người vợ không biết phải trả lời như thế nào, song cô con gái thì phản bác lại. “Đúng là từ góc độ của nạn nhân, có lẽ họ sẽ coi bố tôi là kẻ thù, nhưng không có nghĩa là bố tôi đứng về phe của bị cáo một cách mù quáng. Mặc dù không kể chi tiết nhưng bố tôi vẫn thường nói về quan điểm sống của mình dưới tư cách một luật sư. Rằng tôn chỉ làm việc của ông là trước tiên phải giúp chính bản thân bị cáo nhận thức được tội ác của họ nghiêm trọng như thế nào chứ không phải chỉ chăm chăm tìm cách giảm án. Và rằng nguyên tắc cơ bản trong công tác bào chữa là điều tra kỹ lưỡng về vụ án nhằm đánh giá chính xác mức độ nghiêm trọng của nó. Một người như thế thì sao có thể bị thù hằn đến mức bị sát hại chứ.” Không rõ có phải trong lúc nói Mirei bị kích động hay không mà giữa chừng cô lại lên giọng. Mắt cô nom cũng hơi đỏ. Cuối cùng, Godai hỏi về hành tung của ông Shiraishi Kensuke trước khi bị sát hại. Anh hỏi hai người xem khi nghe đến những địa điểm như đền Tomioka Hachimangu, con đường dạo bộ Sumidagawa Terrace, khu Kaigan, Minato, họ có nghĩ ra điều gì không. Cả hai mẹ con cùng nghiêng đầu. Họ nói thậm chí còn chưa từng nghe ông Shiraishi Kensuke nhắc đến những nơi đó bao giờ. Rốt cuộc nhóm Godai không thu được thông tin gì hữu ích từ hai mẹ con họ. Sau khi để lại danh thiếp với lời nhắn nhủ “Nếu hai người nhớ ra điều gì, xin hãy liên lạc với chúng tôi,” Godai và Nakamachi đành ra về. Tiếp đó, họ đi tới một văn phòng gần đường Aoyama, tọa lạc trên tầng bốn của một tòa nhà với những bức tường ánh bạc, tầng một là quán cà phê. Đợi hai người ở văn phòng là một phụ nữ đeo kính có tên Nagai Setsuko. Trên tấm danh thiếp chị ta đưa có đề chức vụ là trợ lý. Nghe nói người phụ nữ quãng trên dưới bốn mươi tuổi này đã làm việc cho ông Shiraishi Kensuke được mười lăm năm rồi. Theo lời Nagai Setsuko, ông Shiraishi Kensuke chủ yếu nhận các vụ án hình sự, tai nạn giao thông hoặc tội phạm thiếu niên. Ông ghi danh vào hàng ngũ luật sư công nên cũng thường được tòa mời đến. Godai thử hỏi xem liệu ông Shiraishi đã bao giờ bị thân chủ của mình thù hằn vì bào chữa kém hiệu quả khiến họ phải chịu khung hình phạt nặng hơn dự đoán hay chưa. “Chuyện đó thì, cũng có nhiều kiểu người lắm,” Nagai Setsuko không phủ nhận. “Có những người toàn nói chuyện phi lý thôi. Họ khẳng định mình không làm gì, mình vô tội, nhưng trong mắt luật sư Shiraishi, thì rõ ràng là họ có tội. Những lúc như vậy, luật sư thường kiên trì thuyết phục họ, theo kiểu thành khẩn khai báo thì kết quả sẽ tốt hơn. Song lắm người nhất quyết không thay đổi lời khai, thế nên về phần mình, luật sư cũng chẳng biết phải bào chữa thế nào. Cuối cùng lúc ra tòa, ông ấy đành phải bám sát theo câu chuyện vô lý của họ. Dĩ nhiên bị cáo sẽ để lại ấn tượng xấu nên chẳng mong gì được giảm án. Mặc dù chuyện đó hoàn toàn do họ tự làm tự chịu nhưng thi thoảng vẫn có người vô duyên vô cớ trút giận lên luật sư.” Godai hiểu điều đó. Trong số những nghi phạm anh từng bắt giữ, cũng có người như vậy. “Có điều, ngay cả với những người như thế, sau khi tòa tuyên án, luật sư vẫn tận tình hỗ trợ nên đến cuối cùng hầu như mọi người đều hiểu ra. Từng có vài trường hợp lúc tòa ra phán quyết thì buông lời oán trách luật sư nhưng sau khi mãn hạn tù, họ lại tìm đến ông ấy để nói lời cảm ơn.” Nghe câu chuyện của Nagai Setsuko, Godai chợt liên tưởng đến cụm từ “tính hay thương người.” Anh thử hỏi về khả năng ông Shiraishi bị phía nạn nhân oán hận – cũng là câu hỏi anh đã đặt ra cho hai mẹ con nhà Shiraishi. Nagai Setsuko trả lời rằng không phải là không có khả năng đó. “Hình như đã có vài lần luật sư suýt chút nữa thì bị người ta đánh ngay trên ghế hòa giải. Dù sao thì phía nạn nhân cũng đang tức giận mà. Có khi trong mắt họ, thái độ cố gắng giải quyết mọi chuyện trong êm đẹp của ông ấy lại giống như đang lấp liếm một điều gì đó.” Nagai Setsuko nói thêm, “Nói thì nói vậy, nhưng tôi cũng không nghĩ ra vụ nào mà luật sư gây thù chuốc oán đến mức người ta phải ra tay sát hại ông ấy cả. Ngoài luật sư Shiraishi ra, tôi không quen biết nhiều luật sư cho lắm, nhưng tôi thấy ông ấy là một người lương thiện, luôn bào chữa với tất cả sự trân trọng, không chỉ dành cho thân chủ của mình mà còn cho cả đối phương nữa. Tôi thật không tin nổi nguyên nhân ông ấy bị giết lại xuất phát từ sự căm ghét hay thù oán. Dĩ nhiên trên đời này cũng có những kẻ quái đản, vì thế tôi không thể khẳng định chắc chắn được.” “Vậy theo chị động cơ của vụ án lần này có thể là gì?” Godai ướm thử. Nagai Setsuko bèn ậm ừ một cách phiền não. “Có một vài phiên tòa đang bị kéo dài, nhưng thủ tiêu luật sư Shiraishi cũng không đem lại lợi lộc gì cho phía bên kia. Liệu có phải xuất phát từ lý do cá nhân, không liên quan gì tới công việc không nhỉ? Nhưng luật sư Shiraishi không vướng phải bất cứ rắc rối tiền bạc nào, tôi cũng chưa từng nghe thấy lời đồn đại tình ái nào hết. Hay là một kẻ đầu óc có vấn đề đã giết chết luật sư trong cơn bốc đồng chứ cũng chẳng có động cơ rõ ràng nào cả? Tôi chỉ có thể nghĩ đến khả năng đó thôi.” Godai vẫn hỏi Nagai Setsuko về một loạt các địa điểm như đền Tomioka Hachimangu, con đường đạo bộ Sumidagawa Terrace, khu Kaigan, Minato. Nagai Setsuko trả lời rằng chị ta hoàn toàn không có ấn tượng gì về những nơi đó. Sau khi tạm giữ các tài liệu liên quan đến công việc mà ông Shiraishi Kensuke xử lý dạo gần đây cũng như bản photo danh sách các cuộc gọi đến văn phòng, Godai và Nakamachi ra về. Họ quyết định giao hồ sơ các phiên tòa mà ông Shiraishi đảm nhận từ trước tới giờ cho bên phụ trách chứng cứ. Sau đó, hai người tiếp tục đi gặp một vài thân chủ hoặc những người từng là thân chủ của ông Shiraishi để hỏi chuyện. Hay tin ông Shiraishi Kensuke bị sát hại, ai nấy đều ngỡ ngàng, đã vậy họ đều thốt ra một câu na ná nhau. Rằng không thể nào có chuyện vị luật sư ấy bị người ta thù ghét được. Hay còn gọi là tuyến Yurikamome, tuyến tàu vận hành tự động kết nối ga Shinbashi, Minato với ga Toyosu, Koto. Thẻ mà cảnh sát tuần tra yêu cầu người dân điền các thông tin cá nhân của người đó cùng những thành viên trong gia đình vào để liên lạc trong những trường hợp cấp bách. Dòng điện thoại phổ thông chỉ có chức năng nghe gọi chứ không tích hợp hệ điều hành. Luật sư được tòa chỉ định trong trường hợp bị cáo không có khả năng thuê luật sư riêng. 3 Hỏi chuyện Yamada Yuta xong, trên đường về Godai và Nakamachi quyết định ăn tối sớm một chút. Trong lúc hai người đang suy tính xem nên đi ăn ở đâu, Nakamachi bỗng đưa ra một gợi ý đầy hấp dẫn. “Hay chúng ta đến Monzen-Nakacho đi.” “Được đấy. Một ý tưởng tuyệt vời!” Godai đập nắm đấm tay tán thưởng. Monzen-Nakacho nằm trên đường về trụ sở của chuyên án. Đây là một khu sầm uất tiêu biểu của Fukugawa, tấp nập đúng như tên gọi – khu phố trước cổng đền chùa – và tới giờ khu buôn bán ở đây vẫn hoạt động vô cùng nhộn nhịp. Quan trọng hơn cả là, ngôi đền Tomioka Hachimangu được nhắc đến nằm chính trong khu phố này. Hai người chuyển tàu và ra khỏi ga Monzen-Nakacho lúc hơn 6 giờ chiều. Mặc dù chẳng biết quán nào ngon quán nào dở nhưng Nakamachi đã lên mạng, tìm ra một vài cái tên có thể lựa chọn. Trong số đó có một quán nướng theo phong cách robata-yaki, nghe đâu nổi tiếng với món cơm Fukagawa được hấp bằng xửng. Nghe thôi đã muốn chảy nước miếng rồi. Họ quyết định chọn quán đó. Quán nướng nằm ngay gần ga tàu điện ngầm. Bước vào trong, họ thấy một quầy hình chữ U, đứng giữa quầy là một người đàn ông mặc áo choàng đang nướng các loại rau củ và hải sản. Vì vẫn còn nhiều bàn trống nên hai người quyết định chọn bàn nằm sâu bên trong. Ngồi ở quầy không tiện nói chuyện bí mật. Khi nữ phục vụ trẻ tuổi tới ghi món, hai người liền gọi bia tươi, đậu nành luộc và đậu phụ lạnh cắt miếng. Về trụ sở với cái miệng phả ra toàn mùi bia rượu thì chẳng hay ho gì, song trên đường tới đây, hai người đã nhất trí với nhau rằng chỉ uống một cốc bia thôi chắc không thành vấn đề. “Tất cả những người có liên quan tới nạn nhân đều chỉ nói một câu giống giống nhau anh nhỉ,” Nakamachi mở cuốn sổ nhỏ ra, thở dài. “Ý cậu là câu không thể tin có người lại đi thù ghét luật sư Shiraishi hả… Mà có khi đó là sự thực cũng nên. Có khi đúng như lời Nagai nói, ông Shiraishi luôn làm việc rất chân thành. Luật sư vốn là cái nghề dễ gây ác cảm với người khác, trước đây cũng có một số vụ sát hại luật sư, nhưng trên thực tế, chuyện họ bị căm ghét đến mức đấy là cực kỳ hiếm. Xem ra chúng ta nên nghĩ theo hướng là không có sự thù hằn nào ở đây hết.” Bia tươi và đậu nành luộc được mang tới. Godai cầm cốc bia, nói với Nakamachi, “Cậu vất vả rồi,” đoạn nghiêng cốc uống, cái thứ chất lỏng có vị đắng vừa phải đó đang từ từ thấm vào cơ thể đã mệt nhoài sau một ngày rong ruổi khắp nơi khắp chốn của anh. “Nếu không phải thù hằn thì là gì được ạ? Khi nãy chị Nagai đó có nói biết đâu động cơ lại xuất phát từ lý do cá nhân, không liên quan đến công việc.” “Ừm, động cơ gì nhỉ,” Godai ngoẹo cổ, với tay nhón đậu nành. “Không phải rắc rối tiền bạc, cũng không liên quan tới quan hệ yêu đương. Nếu phải nghĩ đến một lý do khác, không lẽ là ganh ghét?” “Ganh ghét? Nghĩa là đố kỵ ấy ạ?” Godai bèn lấy cuốn sổ ra khỏi túi áo khoác. “Shiraishi Kensuke. Sinh tại Nerima, Tokyo. Tốt nghiệp khoa Luật của một trường đại học công lập, sau đó không lâu đỗ kỳ thi tư pháp. Rồi ra làm luật sư tại một văn phòng luật ở Iidabashi. Năm hai mươi tám tuổi, kết hôn với bạn gái cùng trường, hẹn hò từ thời đi học. Năm ba mươi tám tuổi tách ra hoạt động riêng, mở văn phòng hiện tại. Liệt kê ra thế này mới thấy đúng là một cuộc đời thuận buồm xuôi gió, có người ganh ghét cũng chẳng lấy gì làm lạ.” “Công nhận, nhưng vì thế mà giết người ta ư? Với một luật sư thì cuộc đời như vậy cũng bình thường thôi mà.” “Biết đâu lại có người ghen tị với cái bình thường đó thì sao? Ví dụ như đối thủ ganh đua từ thời đi học chẳng hạn. Thiếu gì người đặt mục tiêu trở thành luật sư nhưng vì trượt kỳ thi tư pháp nên đành từ bỏ.” “Ra vậy. Dễ có chuyện như thế thật.” “Nói vậy nhưng trong vụ lần này, dù hung thủ có chủ ý giết người đi nữa thì hành động của hắn có lẽ vẫn là bột phát. Tôi có cảm giác nó không liên quan tới hành vi chuẩn bị hung khí rồi đâm chết nạn nhân. Nhưng đến là nực cười, rõ ràng chính tôi khơi ra khả năng kia thế mà lại tự phủ nhận,” Godai nhún vai, cất sổ vào túi áo. Mặc dù khi nãy anh dùng từ “thuận buồm xuôi gió” song theo lời vợ nạn nhân là bà Ayako thì có vẻ như ông Shiraishi Kensuke tuyệt đối không phải người chưa từng nếm trải cực khổ. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình không lấy gì làm khá giả, học toàn trường công, chưa kể hồi cấp hai, bố ông qua đời vì tai nạn. Lên cấp ba, ông phải lăn lộn làm thêm để phụ giúp kinh tế cho gia đình. Hồi mẹ ông – người mới mất cuối năm kia – mắc chứng đãng trí, nghe đâu ông cũng phải xắn tay áo chăm sóc mẹ, bởi vậy nói gì thì nói ông Shiraishi Kensuke cũng là một người vất vả. Phải chăng chính vì bản thân là người như vậy nên ông ấy mới nhận lời làm luật sư công, công việc vốn được biết đến là thù lao ba cọc ba đồng. Sau khi uống hết cốc bia với đồ nhắm là đậu nành luộc và đậu phụ lạnh cắt miếng, hai người chuyển sang gọi món cơm Fukagawa trứ danh. “Cơ mà, rốt cuộc có cái gì ở thị trấn này nhỉ?” Vừa nhìn tờ giấy giải thích về món cơm Fukagawa dán trên tường, Godai vừa nói ra thắc mắc trong lòng mình. “Hình như nơi này chẳng dây mơ rễ má gì với nạn nhân anh nhỉ? Em cũng tò mò về chuyện đó.” Godai bèn khoanh tay lại, trầm ngâm. Vào ngày xảy ra vụ án, địa điểm đầu tiên ông Shiraishi Kensuke lái xe tới sau khi rời văn phòng chính là bãi đỗ xe tự động nằm ngay sát đền Tomioka Hachimangu. Hình ảnh chiếc xe của ông Shiraishi Kensuke đã được camera an ninh ghi lại, không thể lẫn vào đâu được. Cảnh sát cũng đã xác nhận được hình ảnh ông Shiraishi Kensuke đánh xe ra để trả phí sau khoảng mười phút đậu trong bãi. Tuy nhiên, không thấy người nào khác tiếp cận chiếc xe. Có thể nghĩ đến một khả năng, là ông Shiraishi Kensuke đỗ xe tại bãi đỗ tự động theo chỉ dẫn của hung thủ, nhưng rồi trong lúc đang đỗ xe, hung thủ liên lạc lại. Và có lẽ địa điểm mới mà hắn yêu cầu ông tới chính là con đường dạo bộ Sumidagawa Terrace – hiện trường vụ án. Chọn nơi nào làm hiện trường gây án là quyền của hung thủ. Có điều, đội điều tra đặc biệt quan tâm đến việc ông Shiraishi Kensuke đã dừng xe ở Tomioka Hachimangu trước đấy. Bởi, theo thông tin định vị trên điện thoại của ông Shiraishi Kensuke, trong vòng một tháng trở lại đây, ông ấy đã hai lần ghé đến Monzen-Nakacho. Lần thứ nhất là vào ngày mùng 7 tháng Mười, có dấu vết cho thấy ông ấy đã đi bộ khá nhiều. Lần thứ hai là vào ngày 20 tháng Mười, hôm đó ông Shiraishi Kensuke gần như không chút do dự, tiến thẳng vào quán cà phê nhìn ra đường Eitai. Trong cả hai lần ấy, ông Shiraishi đều đậu xe ở bãi đậu xe lần này. Nhóm cảnh sát phụ trách điều tra về các địa điểm đã đến quán cà phê đó để dò la tin tức, đồng thời xác nhận dữ liệu camera an ninh ghi lại hình ảnh ông Shiraishi Kensuke ra vào quán. Ông ấy mặc suit và chỉ mang theo độc một chiếc cặp đựng tài liệu. Đáng tiếc là không có nhân viên nào còn nhớ về Shiraishi. Xem ra ông ấy không có hành động gì khác thường. Ông Shiraishi Kensuke đến thị trấn này để làm gì? Theo những gì mà nhóm cảnh sát phụ trách chứng cứ tìm hiểu được cho đến thời điểm hiện tại, trong số những người có liên quan đến các phiên tòa mà nạn nhân đảm nhận, không có ai sinh sống, làm việc hay học tập ở thị trấn này. Món cơm Fukagawa được mang tới. Mùi thơm tỏa lên từ xửng hấp khiến Godai bất giác mỉm cười. “Tạm gác vụ án qua một bên cái đã nhỉ!” “Nhất trí ạ!” Nakamachi đáp, mắt cũng đang dán vào chiếc xửng. Ăn tối xong, hai người quyết định thử ghé qua quán cà phê nọ. Nó chỉ cách quán cơm Fukagawa chừng năm mươi mét. Đó là một tòa nhà hai tầng, tầng một chỉ có quầy phục vụ. Sau khi mua cà phê, họ đi lên tầng hai. Mặc dù vẫn còn bàn trống nhưng vì khoảng cách giữa các bàn khá hẹp nên họ đành ngồi cạnh nhau tại khu vực bàn dài cạnh cửa sổ. “Theo thông tin định vị trên điện thoại thì ông Shiraishi đã nán lại đây trong khoảng gần hai giờ đồng hồ. Không hiểu ông ấy làm gì trong suốt hai tiếng tại một quán cà phê ở một nơi chẳng liên quan gì tới mình này nhỉ?” “Khả năng lớn nhất mà chúng ta có thể nghĩ đến là ông ấy đã gặp gỡ ai đó.” “Ừ thì thế, nhưng cậu cũng có mặt trong cuộc họp điều tra mà, theo hình ảnh camera an ninh ghi lại được thì cả lúc vào lẫn lúc ra khỏi quán, ông Shiraishi đều chỉ có một mình. Lúc vào đã đành, nhưng thường thì lúc ra người ta phải đi cùng nhau chứ?” “Hừm…” Nakamachi ậm ừ. “Anh nói cũng đúng. Nhưng nếu không phải để gặp ai đó thì ông ấy làm gì ở đây những hai tiếng nhỉ? Đọc sách, hay là ngồi như thế kia ạ?” Nakamachi nói, đoạn chỉ tay ra đằng sau. Godai lén ngoái đầu lại. Hầu hết khách khứa ngồi tại các bàn đều đang bấm điện thoại. “Chắc không phải đâu,” Godai cười thiểu não. “Làm gì có chuyện ông ấy cất công đến một nơi xa lạ chỉ để làm việc đó. Nếu tôi nhớ không nhầm thì tòa nhà văn phòng của ông Shiraishi cũng có quán cà phê ở tầng một.” “Chắc cũng không phải ông ấy mê cà phê, biết cà phê ở quán này nổi tiếng ngon hảo hạng nên mới cất công tìm đến tận đây đâu nhỉ?” “Suy luận của cậu rất thú vị, nhưng đây chỉ là quán cà phê thuộc một chuỗi thôi.” “Anh nói chí phải,” Nakamachi bèn chưng bộ mặt chán nản, đưa cốc giấy lên miệng. Godai cũng nhấp một ngụm cà phê, quay ra đằng trước, nhìn xuống đường Eitai. Đột nhiên anh nảy ra một ý nghĩ, sau đó thì bật cười hì hì. “Có chuyện gì thế ạ?” Nakamachi hỏi. “Ngồi một mình trong quán cà phê những hai tiếng đồng hồ mà không đọc sách cũng chẳng lướt điện thoại. Người bình thường chẳng ai làm thế. Nhưng có những người bất đắc dĩ phải làm việc đó đấy thôi?” Nakamachi tỏ vẻ bối rối, xem ra cậu ta chưa hiểu ý Godai. Anh bèn chỉ tay vào mặt cậu ta mà nói tiếp. “Thì là cảnh sát chúng ta đây. Đi theo dõi thì bao lâu mà chẳng phải ngồi.” “À,” Nakamachi hơi há miệng. Godai chỉ tay xuống con đường Eitai nơi xe cộ đang qua lại như mắc cửi. “Cậu thử nhìn mà xem. Cậu không thấy đây là địa điểm lý tưởng để theo dõi ai đó à? Những cửa tiệm chính của Monzen-Nakacho đều quay mặt ra con phố này. Với những cửa hiệu nằm bên kia đường, chỉ cần nhìn loáng qua là biết khách vào hàng nào, vào như thế nào. Chưa kể hầu như cả người đến lẫn người rời khỏi thị trấn đều đi qua con phố này.” Nakamachi bèn nhìn xuống con phố, miệng lẩm bẩm “Đúng thật.” “Ý anh là nạn nhân vào quán này là để theo dõi hành động của ai đó?” “Tôi không biết dùng từ theo dõi có phù hợp hay không. Vì ông Shiraishi không phải cảnh sát. Nếu ông ấy ngồi đây chờ ai đó xuất hiện thì sao nhỉ?” “Một người đi bộ ấy ạ?” “Chuyện đó thì tôi không rõ. Cũng có thể là như vậy. Hoặc có thể là một nhân vật đến đỗ xe ở khu vực dừng đỗ bên lề đường, hay một vị khách vừa bước vào quán nào đấy và kiểu gì cũng sẽ đi ra. Có rất nhiều khả năng, song tôi chỉ có thể khẳng định một điều, rằng nếu muốn theo dõi ai đó thì đây chính là nơi lý tưởng nhất. Lại còn có cà phê để uống nữa.” Nakamachi bỗng sáng bừng mắt lên. “Ta sẽ báo cáo chuyện này với cấp trên chứ ạ?” Godai bèn cười nhạt, khẽ xua tay như để phủi thứ gì đấy. “Cứ tạm để đó đã. Đây chỉ là tưởng tượng của tôi thôi, chẳng có căn cứ gì, thậm chí còn không thể gọi là suy luận. Nếu cứ phải nghe những chuyện kiểu như thế thì bao nhiêu vị chủ nhiệm và đội trưởng cũng chẳng đủ mất.” “Vậy ạ,” Nakamachi tỏ vẻ thất vọng. “Tại em cũng muốn đem chút chuyện về làm quà cho tổ chuyên án.” “Tôi hiểu cảm giác của cậu, nhưng không việc gì phải thấy áy náy về chuyện không thu hoạch được gì. Không bắt được con mồi không phải lỗi của chó săn. Mà là lỗi của kẻ thả chó săn vào chỗ không có con mồi. Cứ đường hoàng mà về trụ sở,” Godai nói rồi vỗ vai viên cảnh sát trẻ. Đã bốn ngày trôi qua kể từ khi phát hiện thi thể. Đúng như Nakamachi lo lắng, cũng giống như các nhóm khác, nhóm phụ trách điều tra các mối quan hệ xung quanh nạn nhân không thu được kết quả gì đáng kể. Godai và Nakamachi đang điều tra những nhân vật được cho là có tiếp xúc với Shiraishi Kensuke thời gian gần đây, dựa trên manh mối là lịch sử các cuộc gọi được lưu trong điện thoại di động và điện thoại thông minh của nạn nhân. Cảnh sát vẫn chưa tìm thấy chiếc điện thoại di động, song qua dữ liệu nhà mạng cung cấp, họ đã xác minh được lịch sử các cuộc gọi đi. Số điện thoại của Yamada Yuta cũng lưu trong lịch sử ấy. Tính đến hiện tại, nhóm Godai đã điều tra hơn ba mươi người. Ngoài thân chủ và những người từng là thân chủ của nạn nhân, họ còn gặp gỡ bạn cùng là luật sư, rồi thì cố vấn thuế đang ký hợp đồng với nạn nhân nữa. Thậm chí họ còn cất công đến tận tiệm cắt tóc quen của nạn nhân. Song, tất cả đều nói những câu đại ý là không mảy may đoán ra chuyện gì. Một trong những đồng nghiệp cùng ngành thậm chí còn nói, “Giả dụ hung thủ bị bắt và tôi được yêu cầu bào chữa cho hắn, chắc tôi chỉ còn nước bỏ trốn.” Xem ra ý anh ta muốn nói, dù động cơ là gì thì hung thủ cũng khó mà có cửa được xem xét giảm án. Nhóm của Godai trở về trụ sở của tổ chuyên án lúc hơn 8 rưỡi. Thấy Tsutsui – trung sĩ cảnh sát chịu trách nhiệm chỉ đạo điều tra các mối quan hệ của nạn nhân vẫn còn nán lại trụ sở, họ bèn báo cáo cho anh ta kết quả nghe ngóng được. Tsutsui là người sở hữu khuôn mặt góc cạnh, nổi bật với mái đầu bạc trước tuổi. Nghe cấp dưới báo cáo về việc không thu hoạch được gì, anh ta cũng không đến mức thay đổi nét mặt. Với công việc của họ, chuyện liên tục về tay không là hết sức bình thường. “Các cậu vất vả rồi. Hôm nay cứ về nhà nghỉ ngơi đi. Rồi mai lên đường đi công tác nhé,” Tsutsui chìa một tờ giấy về phía Godai. “Đi đâu ạ?” Godai nhận lấy tờ giấy. Đó là bản photo bằng lái xe. Trên đó có ảnh chân dung một người đàn ông gầy gò. Áng chừng khoảng sáu mươi tuổi. Địa chỉ là ở thành phố Anjo, tỉnh Aichi. Robata-yaki trong tiếng Nhật có nghĩa là nướng bên bếp lò. Tại các quán nhậu theo phong cách robata-yaki, các đầu bếp sẽ nướng hải sản, rau củ tươi sống trên bếp than để phục vụ thực khách ngay tại chỗ. 4 Chuyến tàu Kodama xuất phát từ Tokyo đông hơn Godai tưởng, song may mắn là anh vẫn tìm được một chỗ ngồi ở băng ghế tự do. Từ đây đến ga Mikawa Anjo mất khoảng hai tiếng rưỡi. Nếu đến ga Nagoya bằng tàu Nozomi rồi chuyển sang tàu Kodama và quay lại một ga thì sẽ tiết kiệm được chừng ba mươi phút, nhưng tiền vé chênh nhau tận 2.000 yên. Cũng vì muốn giảm bớt kinh phí mà Nakamachi không được duyệt cho đi cùng Godai. Ngồi trên băng ghế cạnh cửa sổ, Godai xem lại tờ giấy anh nhận được từ Tsutsui tối hôm qua. Kuraki Tatsuro là tên người đàn ông mà anh đang trên đường tới gặp. Dựa theo năm sinh thì hiện tại người này đã sáu mươi sáu tuổi. Ngoài ra hầu như không có thông tin gì khác. Tại văn phòng luật Shiraishi, tên những người gọi điện tới kèm theo ngày giờ gọi đều được ghi chép lại. Vì điện thoại có chức năng hiển thị số người gọi nên nếu đã xác nhận được số điện thoại, họ sẽ ghi cả thông tin đó nữa. Nghe đâu từ ngày mở văn phòng riêng, Shiraishi Kensuke có thói quen là sau khi kết thúc một ngày làm việc sẽ luôn nhìn lại bản ghi chép ấy để rà lại xem ngày hôm đó ông đã nói chuyện gì, với ai. Theo những ghi chép đó thì vào ngày mùng 2 tháng Mười, một người có tên là Kuraki đã gọi điện tới văn phòng. Số điện thoại được ghi lại là số di động. Xác nhận với Nagai Setsuko thì chị ta nói vẫn nhớ người này. Tuy nhiên, chị ta chỉ chuyển máy cho Shiraishi Kensuke nên ngoài việc người đó là nam giới ra, chị ta hoàn toàn không biết gì hơn. Đương nhiên, cả lý do ông ta gọi tới cũng là một ẩn số. Trong danh sách thân chủ, không có người nào mang họ Kuraki. Người này chỉ gọi tới duy nhất một lần đó, cũng không thấy ghi chép về việc ông ta ghé đến văn phòng. Rốt cuộc ông ta là ai? Nếu là nghi phạm thì còn có thể xin lệnh yêu cầu nhà mạng cung cấp thông tin, nhưng ở giai đoạn hiện tại việc đó là không thể. Rốt cuộc cảnh sát đành gọi vào số điện thoại đó để trực tiếp xác nhận. Cân nhắc đến việc để người khác giới gọi sẽ dễ nói chuyện hơn nên một nữ cảnh sát đã đảm nhận nhiệm vụ này. Nữ cảnh sát không nói chi tiết về vụ án mà chỉ hỏi họ tên đầy đủ, địa chỉ liên hệ của người đàn ông, nói đây là một phần trong quá trình điều tra. Đối phương không từ chối trả lời, tự xưng mình là Kuraki Tatsuro và còn đọc địa chỉ cho nữ cảnh sát. Trong ấn tượng của nữ cảnh sát, cô không nghĩ đối phương đã tỏ ra bối rối. Sau đó, Tsutsui gọi cho Kuraki Tatsuro một lần nữa, đề nghị ông ta bớt chút thời gian vì họ có chút chuyện muốn hỏi. Kuraki trả lời rằng hiện ông ta không vướng bận công việc nên sẵn sàng tiếp chuyện bất cứ lúc nào. Vì thế hôm nay Godai mới có chuyến công tác tới Mikawa Anjo như thế này. Nghe nói Kuraki đã gặng hỏi Tsutsui xem cảnh sát muốn nghe chuyện gì từ ông ta. Hẳn là vậy rồi. Chắc chắn ông ta đã nghĩ phải có chuyện gì ghê gớm lắm thì cảnh sát mới lặn lội từ Tokyo đến tận nhà mình như vậy. Ngay cả khi không làm điều gì khuất tất, ông ta sẽ vẫn tò mò muốn biết. Song, dĩ nhiên Tsutsui chỉ có thể trả lời rằng, “Chuyện đó khi nào gặp chúng tôi sẽ nói.” Mặc dù chưa rõ Kuraki có dính líu đến vụ án hay không song có một quy tắc vàng trong điều tra là, không cung cấp thông tin thừa thãi cho đối phương nếu chưa trực tiếp gặp. Khoảng hơn 11 giờ trưa, Godai đặt chân đến ga Mikawa Anjo. Bước ra ngoài, anh thấy một vòng xuyến nhỏ. Trong bãi đậu xe, có vài chiếc xe đỗ rải rác. Xung quanh không có nhiều những tòa nhà lớn, cũng chẳng thấy tấm biển hiệu sặc sỡ nào, nơi đây phảng phất một bầu không khí mộc mạc, thôn quê. Ở bãi đậu taxi, chỉ có độc một chiếc xe trống đang đứng chờ khách. Godai cho bác tài xem tấm bản đồ mà anh đã in sẵn. “À, Sasame hử?” Bác tài nói rồi khỏi động xe. “Hóa ra đọc là Sasame, chứ không phải Shinome ạ?” Godai hỏi. Điểm đến của anh là Sasame, thành phố Anjo. “Đúng rồi. Dân từ nơi khác đến chắc không biết cách đọc đúng đâu. Vùng này chẳng có thứ gì nổi tiếng hết trơn mà,” bác tài vừa mỉm cười vừa nói, nghe lẫn chút giọng địa phương. Xem ra đây là giọng Mikawa. Godai đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Đường sá thông thoáng, vỉa hè cũng rộng rãi. Hai bên đường là nhà dân và những hàng quán. Ở đây không có nhà cao tầng, bù lại dù là nhà dân hay hàng quán thì cũng đều chiếm rất nhiều mặt bằng. Godai trộm nghĩ khi đã quen sống ở một nơi như thế này, dễ chừng người ta sẽ chẳng thể sống nổi trong những khu dân cư đông đúc ở Tokyo nữa. Chưa đầy mười phút sau khi lăn bánh, taxi đã dừng lại. “Nó ở đoạn này đây,” bác tài nói. “Dừng ở đây được rồi ạ.” Godai trả tiền taxi rồi xuống xe. Anh vừa đi vừa đối chiếu khung cảnh xung quanh với tấm bản đồ. Những ngôi nhà cả mới lẫn cũ nằm san sát. Điểm chung giữa chúng là nhà nào cũng có chỗ đậu xe. Không khó để bắt gặp những ngôi nhà có tới mấy chiếc xe hơi đang đỗ. Ngay cả ngôi nhà có treo tấm biển đề tên Kuraki ở trước cổng cũng có nhà để xe ngay bên ngoài. Đậu ở đó là một ô tô con màu ghi. Trên gương chiếu hậu bên trong xe có treo một tấm bùa. Bên dưới biển tên là bộ chuông đàm thoại. Godai bấm nút và chờ đợi, đoạn anh nghe tiếng một người đàn ông thưa “Vâng, tôi nghe.” “Tôi từ Tokyo tới.” “Vâng.” Lát sau, có tiếng mở khóa, cánh cửa ngoài hiện mở ra. Một người đàn ông khoác áo cardigan, khuôn mặt gầy gò hệt như bức ảnh trong bằng lái đi ra. Có điều, thân hình ông ta nom rắn chắc hơn Godai tưởng. “Tôi là Godai. Xin lỗi vì đến quấy quả ông như thế này,” Godai vừa rút huy hiệu của Sở Cảnh sát Tokyo ra vừa tiến đến gần người đàn ông, chìa cho ông ta xem rồi lại mau chóng cất ngay vào túi ngực. Thay vào đó, anh giơ danh thiếp của mình ra. Kuraki nhận lấy tấm danh thiếp, nheo mắt nhìn, đoạn mời Godai vào nhà. “Tôi xin phép,” Godai cúi đầu rồi bước vào bên trong. Anh được dẫn vào một căn phòng kiểu Nhật nằm ngay gần cửa. Có điều trên chiếu tatami lại đặt một bộ bàn ghế mây. Cạnh tường có một ban thờ Phật nhỏ, phần tường ngay phía trên ban thờ treo bức ảnh chân dung một phụ nữ mà có lẽ là di ảnh dùng trong đám tang. Người phụ nữ trong ảnh áng chừng trên dưới năm mươi tuổi. Mái tóc ngắn trông rất hợp với khuôn mặt tròn trịa của bà. “Bà nhà tôi đấy,” Kuraki nói, có vẻ ông đã nhận ra ánh mắt Godai đang nhìn về phía bức ảnh. “Bà ấy qua đời cách đây mười sáu năm. Bà xã hơn tôi một tuổi nên tính ra ngày đó bà ấy mới năm mốt tuổi.” “Còn trẻ như vậy mà, tôi rất lấy làm tiếc. Bà nhà gặp tai nạn hay sao ạ?” “Không phải, bà ấy bị bệnh bạch cầu dòng tủy. Nếu được ghép tủy có lẽ mọi chuyện sẽ ổn, nhưng rốt cuộc chúng tôi không tìm được người hiến tủy.” “Ra vậy…” Godai tắc tị, không biết phải đáp lại như thế nào. “Thành thử tôi chỉ có một thân một mình. Bao năm nay tôi chưa pha ấm trà nào. Nếu không phiền anh dùng tạm trà đóng chai vậy.” “Thôi ạ, không cần đâu, ông đừng bận tâm.” “Vậy ư? Thế thì tôi cũng không bày vẽ nữa. À, anh ngồi đi.” Theo lời thúc giục của Kuraki, Godai bèn ngồi xuống ghế. “Chắc hôm qua ông cũng được nghe qua điện thoại rồi, trong quá trình điều tra một vụ án, chúng tôi thấy xuất hiện cái tên Kuraki. Chả là trong lịch sử cuộc gọi tới văn phòng luật Shiraishi ở Tokyo có lưu lại số điện thoại của ông. Sở dĩ chúng tôi coi đây là vấn đề cần quan tâm bởi chúng tôi đang điều tra về việc ông Shiraishi bị sát hại.” Sau khi nói một tràng dài, Godai liền thăm dò phản ứng của Kuraki. Người đàn ông già nua với khuôn mặt gầy tong teo hầu như không thay đổi nét mặt, chỉ khẽ gật đầu. “Ông có biết chuyện ông Shiraishi bị sát hại không ạ?” “Hôm qua sau khi nhận được điện thoại của cảnh sát, tôi có lên mạng tìm hiểu thử. Trông thế này thôi chứ máy tính thì tôi vẫn biết xài. Biết tin về vụ án, tôi kinh ngạc lắm. Cảnh sát có đến tìm tôi, âu cũng đành chịu,” giọng Kuraki rất điềm tĩnh. “Nếu ông đã biết về vụ án thì dễ nói chuyện rồi. Tôi tới đây hôm nay là để hỏi về lý do ông gọi điện cho ông Shiraishi. Ông có quan hệ như thế nào với ông ấy?” Kuraki bèn vuốt mái tóc đã cắt ngắn ra đằng sau. “Chẳng có quan hệ gì đặc biệt cả. Thậm chí tôi còn chưa gặp ông ấy bao giờ. Hôm đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông ấy.” “Tức là ông đã gọi điện cho một người chưa từng gặp mặt ư? Để làm gì kia?” “Để xin tư vấn.” “Tư vấn?” “Tư vấn về luật. Hiện tại tôi đang có chút vấn đề liên quan đến tiền bạc. Tôi đang xích mích với người ta. Vì không biết luật pháp quy định như thế nào nên tôi mới gọi cho ông ấy.” “Tại sao ông lại gọi cho ông Shiraishi?” “Gọi cho ai cũng thế cả. Tôi lên mạng tìm hiểu thử, thấy chỗ đó quảng cáo là nếu cần tư vấn những chuyện đơn giản, họ sẵn sàng giải đáp qua điện thoại. Đã vậy còn miễn phí nữa. Về phần mình, tôi không có ý định nhờ vả họ một cách nghiêm túc, thành thử Tokyo hay Osaka cũng chẳng thành vấn đề.” Nghe câu trả lời không chút vấp váp của Kuraki, Godai bỗng thấy người oải hết cả ra. Anh đã vô cùng hứng thú muốn biết tại sao một người đang sống ở tỉnh Aichi lại cất công gọi điện tới văn phòng luật ở Tokyo, ai dè hỏi ra mới biết câu chuyện lại đơn giản như vậy. Chưa kể nó còn rất thuyết phục. “Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông có thể cho tôi biết cụ thể nội dung cuộc tư vấn đó.” Trước lời đề nghị của Godai, Kuraki bỗng chau mày. “Tôi buộc phải nói ư?” “À không, không hẳn là như vậy. Chỉ là nếu được thôi ạ.” Kuraki liền lắc đầu với vẻ mặt khó đăm đăm. “Xin lỗi anh nhưng vì có liên quan đến chuyện đời tư nên tôi không thể trả lời được. Không chỉ là đời tư của tôi mà còn của cả người khác nữa.” “Vậy ư. Thế thì thôi vậy.” Godai đưa phần đầu bấm của chiếc bút bi lên gãi gãi gáy. Cảm giác chưng hửng khi nghe lý do Kuraki gọi điện cho Shiraishi khiến anh không nghĩ ra nên hỏi gì tiếp theo. Đã vậy anh còn đang mót tiểu nữa. Đúng lúc ấy, anh nghe thấy tiếng chuông điện thoại phát ra từ đâu đó. Có vẻ như điện thoại của Kuraki đang đổ chuông. “À, tôi có điện thoại. Hình như tôi để nó ở đằng kia. Tôi xin phép một chút được không?” Kuraki hỏi. “Đương nhiên rồi. À mà, tôi dùng nhờ nhà vệ sinh được không ạ?” “Anh cứ tự nhiên. Nhà vệ sinh ở phía bên kia hành lang.” Nhìn bóng Kuraki khuất hẳn phía cuối hành lang rồi, Godai liền đi vào nhà vệ sinh. Trong lúc giải quyết nhu cầu cá nhân, điều anh nghĩ đến không phải là câu hỏi dành cho Kuraki mà là nội dung anh sẽ viết trong bản báo cáo. Đúng lúc Godai vừa ra khỏi nhà vệ sinh, chuẩn bị quay lại căn phòng ban nãy, một lá bùa dán trên cột nhà gần đó đập vào mắt anh. Nhìn dòng chữ được viết trên lá bùa, toàn thân Godai bỗng đông cứng lại. Trên đó ghi “Trước đền Tomioka Hachimangu,” bên dưới nữa là “Gia Đình Bình An” và “Làm Ăn Phát Đạt.” Godai liền lấy điện thoại ra khỏi túi ngực. Anh đang định chụp lại lá bùa thì bỗng nghe tiếng bước chân, Kuraki từ bên trong đi ra. “Có chuyện gì vậy?” Ông hỏi. “À, không có gì ạ,” Godai bèn cất điện thoại vào túi. Hai người lại tiếp tục ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn, nhưng lúc này tâm thế Godai đã thay đổi 180 độ so với vài phút trước. “Ông đã lên Tokyo bao giờ chưa?” Godai hỏi. Ngay chính anh cũng nhận ra giọng nói của mình đã trở nên cứng nhắc hơn. “Có, tôi lên rồi. Con trai tôi đang sống ở đó mà.” “Con trai ư? Cậu ấy sống ở khu nào vậy?” “Ở Koenji. Sau khi tốt nghiệp đại học trên Tokyo, nó ở lại đó làm việc luôn.” “Ra vậy. Ông có hay lên Tokyo gặp con trai không?” Kuraki khẽ nghiêng đầu. “Mỗi năm độ vài lần gì đó.” “Lần gần đây nhất ông lên Tokyo là khi nào?” “Khi nào nhỉ? Tôi nhớ là khoảng ba tháng trước… thì phải.” “Nếu ông nhớ được ngày chính xác thì tốt quá.” Kuraki nhìn chằm chằm Godai bằng ánh mắt sắc lẹm. “Tại sao?” “Rất xin lỗi ông. Chúng tôi có lý do riêng,” Godai cúi đầu. “Với bất cứ ai có liên quan, chúng tôi đều hỏi như vậy. Mong ông hiểu cho.” “Nói là liên quan, nhưng tôi chỉ gọi điện thôi mà.” “Tôi thành thật xin lỗi,” Godai lặp lại. Kuraki bèn thở dài bảo đợi một chút, đoạn cầm chiếc điện thoại đang để bên cạnh lên. Đó không phải điện thoại thông minh. Kuraki bắt đầu thao tác gì đó, vẻ mặt nghiêm túc, song Godai ngờ rằng ông ta đang cố tình câu giờ hòng nghĩ cách đánh lạc hướng viên cảnh sát đến từ Tokyo. “Ngày 16 tháng Tám,” Kuraki vừa nhìn màn hình điện thoại vừa trả lời. “Tôi vẫn còn lưu đoạn trò chuyện với con trai qua email. Tôi ở Tokyo hai ngày một đêm. Chẳng là nghỉ lễ obon mà con trai tôi cũng không về nên tôi đành lên đó một chuyến. Năm nào cũng vậy đó.” “Sau khi lên Tokyo, ông ngủ lại nhà con trai luôn à?” “Đúng vậy. Con trai tôi vẫn còn độc thân nên cũng không cần giữ ý giữ kẽ làm gì.” “Nếu không phiền, ông có thể cho tôi xin tên và địa chỉ liên lạc của anh ấy không?” Nghe Godai nói, Kuraki khẽ cụp mắt xuống rồi chớp mấy cái liền. Xem ra ông ta đang do dự. Lát sau, Kuraki mới mở lời. “Tên nó là Kazuma. Nó đang làm ở công ty…” Kuraki đọc tên một công ty quảng cáo lớn, rồi vừa nhìn vào điện thoại vừa đọc số của con trai. Godai nhanh tay ghi lại những thông tin ấy. “Mỗi lần lên Tokyo, ông thường làm gì? Có địa điểm nào ông hay lui tới không?” “Cũng tùy lúc. Nếu có danh lam thắng cảnh nào chỉ có thể chiêm ngưỡng ở Tokyo thì tôi sẽ đến. Vài năm trước tôi đã lên tháp Skytree. Nhưng chỗ đấy chỉ được cái cao thôi chứ cũng chẳng có gì đặc sắc.” “Thế còn đền chùa miếu mạo thì sao? Hình như rất nhiều người thích thăm thú những nơi như vậy.” “Điền chùa miếu mạo… ấy à. Thế nào nhỉ? Tôi không ghét nhưng cũng không đặc biệt thích thú gì.” “Tôi thấy trên cây cột trước nhà vệ sinh có dán một lá bùa của đền Tomioka Hachimangu. Trông nó không cũ lắm, có phải chính ông đã dán nó ở đấy không?” “À, cái đó hả. Tôi được người ta tặng ấy mà. Tôi cũng chẳng tín đâu, nhưng nghĩ bụng người ta đã có lòng tặng nên tôi dán lên đó.” “Được tặng ư? Chứ không phải ông đã đến đền Tomioka Hachimangu à?” “Không phải đâu, người ta tặng tôi đấy.” “Người đó là ai vậy? Ai đã tặng ông lá bùa ấy?” Kuraki nhìn lại Godai với vẻ ngờ vực. Ánh mắt ông càng tỏ rõ sự cảnh giác. “Sao anh lại hỏi chuyện đó? Chuyện ai tặng tôi có phải vấn đề gì to tát đâu.” “Chuyện đó chúng tôi sẽ tự phán đoán. Ông có thể cho tôi biết ông đã nhận nó từ ai không?” Kuraki bèn hít một hơi sâu rồi khẽ nhắm mắt lại. Có lẽ ông ta đang lần lại ký ức, song một lần nữa Godai lại có cảm giác đó là dáng vẻ của người đang cố tình trì hoãn thời gian. “Xin lỗi anh,” Kuraki mở mắt ra, nói. “Tôi quên mất rồi.” “Quên ư? Tôi nghĩ nếu không thân thiết thì chẳng ai lại đi tặng bùa cho người khác đâu.” “Anh nghĩ vậy cũng không phải không có lý, nhưng tôi không nhớ ra được thì đành chịu chứ biết làm sao. Xin lỗi anh, tôi già rồi nên đâm ra lẩm cẩm.” Một trong những câu trả lời phiền toái nhất khi lấy lời khai hay thẩm vấn chính là “quên rồi.” Nếu là “không biết” thì còn có thể đưa vật chứng ra để truy cứu rằng anh không thể không biết, nhưng với “quên rồi” thì đành bó tay. Có điều, Godai cảm thấy mình đã thu hoạch được gì đó. Chuyến công tác lần này của anh đã không công cốc. “Ông gọi điện cho ông Shiraishi chỉ đơn thuần là để nhờ tư vấn về pháp luật nhỉ, vậy ông có trao đổi vấn đề đó với văn phòng luật nào khác không?” Kuraki liền lắc đầu. “Không.” “Có phải vì sau khi trao đổi với ông Shiraishi, vấn đề đó đã được giải quyết không?” “Không phải, ngược lại mới đúng. Tôi chỉ nhận được từ luật sư Shiraishi một câu trả lời chiếu lệ mà chỉ cần tìm hiểu một chút trên mạng là ra ngay. Ngẫm ra thì người ta tư vấn miễn phí nên chuyện đó âu cũng là đương nhiên thôi. Sau đó tôi nghĩ bụng có tìm hiểu thêm cũng chẳng ích gì, đành từ bỏ ý định trao đổi với bên khác,” Kuraki điềm tĩnh trả lời, không hề lảng mắt đi chỗ khác. Dáng vẻ ấy vừa giống như ông ta chỉ đang thẳng thắn trả lời đúng sự thật, lại vừa giống như biểu hiện của sự tự tin tuyệt đối rằng lời nói dối của ông ta sẽ không bị bại lộ. Dù là trường hợp nào, Godai cũng cảm thấy không thể làm sáng tỏ việc này ngay tại đây được. Duy có một điều anh cần phải xác nhận lại. Godai nhìn đồng hồ đeo tay. “Thật xin lỗi vì đã làm mất nhiều thời gian của ông. Vậy tôi xin hỏi một câu cuối cùng. Vào ngày 31 tháng Mười, ông có lên Tokyo không?” “Ngày 31 tháng Mười… Nghe như thể anh đang hỏi bằng chứng ngoại phạm của tôi ấy nhỉ?” “Tôi biết hỏi như vậy là vô cùng thất lễ. Nhưng chúng tôi cũng hỏi câu đó với tất cả những người có liên quan. Mong ông thông cảm.” Kuraki bèn quay khuôn mặt khó chịu sang một bên. Ông ta đang nhìn lên tường. Trên đó có treo một tờ lịch. “Ngày 31 tháng trước đúng không? Tiếc là hôm đó tôi không có lịch gì cả. Tóm lại, đó là một ngày bình thường như bao ngày khác.” “Như vậy nghĩa là thế nào?” Kuraki quay lại, nhìn Godai. “Nghĩa là tôi không đi đâu và cũng không có ai đến thăm tôi cả. Tôi đã ở nhà. Suốt cả ngày hôm đó.” “Ông có thể chứng minh việc đó…” “Chắc là không thể rồi,” Godai chưa nói dứt lời, Kuraki đã trả lời ngay lập tức. “Tôi không có bằng chứng ngoại phạm cho ngày hôm đó. Tiếc là như vậy.” Câu trả lời không đem lại một chút cảm giác nao núng nào. Godai chợt nghĩ rồi đây anh sẽ phải điều tra ngọn ngành xem sự tự tin ấy từ đâu mà có. Anh lại nhìn đồng hồ đeo tay. Đã quá trưa một chút. “Tôi hiểu rồi. Vậy là đủ rồi. Thật xin lỗi vì đã quấy rầy ông.” Thấy Godai đứng dậy, Kuraki cũng đứng lên theo. “Xin lỗi anh nhé. Xem ra tôi không giúp được gì rồi.” “Ồ không, chuyện đó thì…” Godai nhìn thẳng vào mặt Kuraki. “… vẫn chưa thể nói được gì.” “Vậy ư?” Kuraki không định né tránh ánh mắt của Godai. “Tôi xin phép,” Godai cúi đầu, dợm bước ra cửa. “Anh cảnh sát này,” Kuraki liền gọi với lại. “Tôi đã nhớ nhầm một chuyện.” “Nhớ nhầm?” “Về ngày cuối cùng tôi lên Tokyo. Khi nãy tôi nói đó là dịp con trai tôi được nghỉ lễ obon mà quên khuấy mất là sau đó tôi có lên Tokyo một lần nữa.” Godai lấy sổ tay ra. “Lần đó là khi nào vậy?” “Ngày 5 tháng Mười. Cũng chẳng có lý do gì đặc biệt, tự dưng tôi muốn nhìn mặt con trai nên đã lên tàu shinkansen một cách vu vơ vậy thôi. Như thường lệ, tôi ngủ lại một đêm rồi hôm sau về. Vì không có ấn tượng gì đặc biệt nên tôi quên khuấy đi mất.” Ngày 5 tháng Mười… Godai nhanh chóng suy nghĩ. Lần đầu tiên Shiraishi Kensuke ghé Monzen-Nakacho là vào ngày 7 tháng Mười. Tại sao Kuraki lại nói ra chuyện này ngay trước khi Godai chuẩn bị rời đi? Trước đó, ông ta đã thực sự quên mất sao? Nếu vậy thì cũng đành chịu. Song liệu có thể nghĩ đến khả năng nào khác không? Godai đã hỏi địa chỉ liên lạc của con trai Kuraki. Phải chăng Kuraki đoán kiểu gì cảnh sát cũng sẽ tìm đến chỗ con trai ông và trong trường hợp đó thì việc ông giấu nhẹm chuyện xảy ra ngày 5 tháng Mười sẽ rất dở. Bởi cảnh sát chỉ cần xác nhận với con trai ông ta là tất cả sẽ vỡ lở. Nếu đúng là như vậy, Godai rất tò mò muốn biết tại sao ông ta lại phải giấu giếm chuyện đó. Nói vậy nhưng dù có hỏi chuyện đó ở đây xem ra cũng vô ích. Kiểu gì ông ta chẳng khăng khăng là mình đã quên mất. “Tôi rất cảm kích trước sự hợp tác của ông. Cảm ơn ông rất nhiều.” Godai nói lời cảm ơn rồi ra khỏi phòng. Trên đường đi ra cửa, anh chợt dừng chân trước lá bùa ban nãy. “Nếu nhớ ra ai đã tặng, tôi nên liên lạc với anh phải không?” Kuraki hỏi. “Vâng, xin nhờ ông ạ.” “Vậy tôi sẽ thử nghĩ lại xem sao. Mặc dù không biết tôi có nhớ ra nổi không nữa.” “Mong ông giúp cho.” Đi giày xong, Godai lại một lần nữa nhìn lên Kuraki. “Vậy nếu có việc gì tôi lại xin phép đến phiền ông.” Sau một thoáng chau mày tỏ vẻ khó chịu, Kuraki khẽ gật đầu. “Vâng. Có gì mời anh cứ đến, bất cứ lúc nào cũng được.” “Tôi xin phép,” Godai nói rồi bước ra ngoài. Cửa vừa đóng đã nghe tiếng vặn khóa. Godai đang định bước ra ngoài đường thì chợt nhớ ra một chuyện, liền đi lại gần chiếc ô tô đang đậu cạnh đó. Anh rướn người lên, căng mắt nhìn qua kính chắn gió. Trên gương chiếu hậu trong xe có treo một tấm bùa. Đúng như Godai nghĩ. Trên mặt miếng vải đỏ là dòng chữ “Bùa an toàn giao thông – Đền Tomioka Hachimangu” được thêu bằng chỉ màu vàng. Liệu Kuraki có bảo thứ này cũng là do người ta tặng không nhỉ? Và rằng ông ta đã quên mất người đó là ai. Ra đến đường cái, Godai vừa đi vừa ngẫm nghĩ xem tại sao Kuraki không nói là ông ta đã mua lá bùa ấy. Nếu vậy ông ta đã chẳng phải đưa ra lời bao biện khiên cưỡng đến như thế. Cũng có thể chuyện đó là thật không chừng. Trên thực tế, đúng là ông ta được tặng nên mới buột miệng trả lời như vậy. Nhưng vì không thể nói ra tên người đó nên trong lúc rối bời ông ta đành nói là đã quên mất. Chẳng biết từ lúc nào, Godai đã rảo bước nhanh hơn. Anh đồ rằng sau khi trở về Tokyo anh sẽ có thêm rất nhiều việc cần làm. Một trong ba tàu shinkansen chạy tuyến Tokaido, kết nối Tokyo với Osaka. Ba tàu này được đặt tên lần lượt là Kodama, Hikari và Nozomi, trong đó Nozomi là tàu chạy nhanh nhất. 5 Kuraki Kazuma làm việc tại Kudanshita, trong một tòa nhà văn phòng nhìn ra phố Yasukuni. Tuy nhiên, Godai không vào trong mà gọi điện cho anh ta từ bên ngoài tòa nhà. Biết người gọi điện cho mình làm việc tại Sở Cảnh sát Tokyo, con trai ông Kuraki tỏ ra rất ngạc nhiên. Khi Godai ngỏ ý muốn gặp vì có vài chuyện muốn làm rõ, anh ta liền hỏi đó là chuyện gì. Xem ra anh ta chưa nghe gì từ bố mình. May thay Kazuma đang ở công ty và có thể ra ngoài một lát, bởi vậy họ hẹn gặp ở một quán cà phê cũ gần đó. Hôm nay Nakamachi cũng đi cùng Godai, hai người đang ngồi cạnh nhau tại một chiếc bàn nằm sâu bên trong quán, đợi Kazuma. “Không biết ông Kuraki định thế nào nhỉ?” Nakamachi lên tiếng. “Sao ông ta không báo cho con trai biết người của Sở Cảnh sát Tokyo có thể sẽ tìm gặp anh ta? Hay ông ta nghĩ cảnh sát sẽ không làm vậy?” “Không đời nào,” Godai khẳng định. “Con người đó rất mờ ám, không coi thường được đâu. Có lẽ ông ta đã nhận ra mình đang bị nghi ngờ, vả lại tôi dám cá ông ta cũng thừa hiểu lý do vì sao tôi hỏi về con trai ông ta. Không chừng ông ta nghĩ báo trước cho con trai cũng chẳng để làm gì. Chính vì cho rằng việc phím trước với nhau trái lại còn là hạ sách nên ông ta mới nói với tôi chuyện lên Tokyo vào ngày 5 tháng Mười.” “Cũng đúng. Bởi cha con ông ta đã có thể phím trước với nhau hòng che giấu chuyện lên Tokyo vào ngày 5 tháng Mười.” “Chính thế. Giả sử Kuraki có dính líu đến vụ án thì tôi vẫn nghĩ có lẽ con trai ông ta vô can.” Mặc dù nói năng thận trọng song trong thâm tâm, Godai thậm chí cho rằng Kuraki chính là hung thủ, chứ đừng nói là có dính líu. Chuyện ông ta gọi điện cho Shiraishi, chuyện sau đó Shiraishi cất công tới tận Monzen-Nakacho, rồi cả chuyện lá bùa dán trên cột nhà và tấm bùa treo trong xe, tất cả đều quá sức đáng ngờ. Về điểm này, các vị cấp trên cũng chung ý kiến và đã ra lệnh cho một số điều tra viên khác làm rõ các mối quan hệ xung quanh Kuraki. Ngoài ra, tại Monzen-Nakacho, một nhóm rất đông các điều tra viên đã bắt đầu đem theo ảnh chân dung của Kuraki để đi dò la tin tức. Cửa quán cà phê mở ra, một người đàn ông bước vào. Anh ta khoảng ba mươi tuổi. Sống mũi thẳng, khuôn mặt thanh tú. Godai lập tức nhận ra đó chính là con trai Kuraki. Anh ta có cặp mắt y chang bố. Những vị khách khác đều đi có đôi có cặp hoặc đều là phụ nữ. Người đàn ông dừng ánh mắt lại nơi Godai đang ngồi, đoạn tiến đến chỗ anh, vẻ mặt có phần hơi căng thẳng. Godai và Nakamachi liền đứng dậy. “Anh là người đã gọi điện cho tôi phải không?” “Đúng vậy. Xin lỗi vì đã làm phiền anh trong giờ làm việc,” Godai không giơ huy hiệu của Sở Cảnh sát Tokyo mà chìa danh thiếp của mình ra. Kuraki Kazuma nhìn tấm danh thiếp, nhíu mày vẻ nghi hoặc. Có lẽ đó là phản ứng của anh ta đối với dòng chữ Ban điều tra số Một. Gần đây, ngay cả những người dân bình thường cũng biết đó là phòng ban chuyên phụ trách mấy vụ án hình sự, ví như án giết người. Thấy Kazuma ngồi xuống ghế với vẻ mặt bối rối, Godai và Nakamachi cũng ngồi lại vào chỗ của mình. Khi chủ quán với mái đầu bạc trắng bưng nước tới, Kazuma bèn gọi một cốc cà phê. “Thế chuyện anh định nói là chuyện gì? Tôi thật sự rất tò mò,” Kazuma chừng như đang bày tỏ tâm trạng thật của mình. “Tôi xin lỗi vì cách nói trên điện thoại chưa được rõ ràng. Chúng tôi không phải muốn nói chuyện gì cả mà là muốn hỏi vài điều liên quan đến bố anh.” “Bố tôi ư?” Kazuma tỏ vẻ bất ngờ. Như thể anh ta không hề lường trước việc này. “Bố tôi, ý anh là ông Kuraki Tatsuro phải không?” “Đương nhiên là vậy rồi.” Kazuma chớp mắt liên hồi, tỏ vẻ không hiểu. “Bố tôi đã làm gì? Ông ấy đang sống ở thành phố Anjo, tỉnh Aichi cơ mà.” “Chúng tôi biết. Nhưng nghe nói thi thoảng ông ấy có lên Tokyo nhỉ?” “Thì đúng vậy, nhưng…” “Lần gần đây nhất bố anh lên Tokyo là khi nào?” “Khoan đã,” Kazuma khẽ giơ hai tay ra, hết nhìn Godai lại nhìn sang Nakamachi. “Các anh đang điều tra chuyện gì vậy? Bố tôi có liên quan như thế nào? Nếu các anh không nói trước cho tôi biết thì tôi cũng không thể trả lời câu hỏi của các anh được.” Nghe vậy, Nakamachi liền nói bằng giọng như đang cười, “Sao có chuyện đó được. Ngay cả khi không biết chúng tôi đang điều tra về chuyện gì, chắc chắn anh vẫn có thể trả lời bố anh đã lên Tokyo vào ngày nào mà.” “Đây là vấn đề về cảm xúc,” Kazuma đáp lại bằng ánh mắt mạnh mẽ. “Tôi sẽ phải nói ra chuyện riêng tư của gia đình mình, thế nên chí ít các anh cũng phải cho tôi biết lý do mới phải chứ.” Đúng lúc bầu không khí đang có dấu hiệu trở nên đáng ngại thì cà phê được bung tới. Thấy Kazuma không định động vào cốc cà phê, Godai bèn mỉm cười, nói, “Anh uống đi. Nghe nói cà phê ở đây rất nổi tiếng. Để nguội mất thì phí lắm. Nào, xin mời.” Bị giục như vậy, Kazuma đành rót sữa vào cốc cà phê với vẻ mặt bất đắc dĩ. “Đó là một vụ án mạng,” Godai nói trước khi Kazuma kịp đưa cốc cà phê lên miệng. “Một người vừa bị sát hại ở Tokyo này. Vì thế, chúng tôi đang điều tra tất cả những người đã tiếp xúc hoặc có thể đã tiếp xúc với nạn nhân. Tiếp xúc ở đây không chỉ là gặp gỡ trực tiếp mà còn bao gồm các hình thức liên lạc như điện thoại, email hoặc thư từ.” “Tức là trong đó có tên của bố tôi sao?” Kazuma vẫn cầm cốc cà phê trên tay. “Đúng vậy. Bố anh đã gọi điện cho nạn nhân.” Kazuma chỉ nhấp một ngụm cà phê rồi đặt cốc xuống. “Các anh có thể cho tôi biết đối phương là người như thế nào không…?” “Chuyện đó thì chúng tôi không thể trực tiếp nói ra được. Nếu anh muốn biết bằng mọi giá thì hãy hỏi ông Kuraki. Ông ấy biết đấy.” “Các anh đã gặp bố tôi rồi à?” “Hôm trước, tôi đã đến gặp ông ấy. Chính bố anh đã cho tôi biết địa chỉ công ty và số điện thoại của anh.” “Bố tôi chẳng nói nửa lời về chuyện đó…” “Chắc hẳn ông ấy cũng có suy nghĩ riêng của mình. Vậy là tôi đã cho anh biết đại khái rồi đấy. Giờ anh trả lời chúng tôi được chưa? Lần gần đây nhất bố anh lên Tokyo là khi nào?” “Các anh đợi cho một chút,” Kazuma nói rồi lấy điện thoại ra. Anh ta thao tác gì đó, có vẻ như là đang kiểm tra lịch. “Ngày 5 tháng Mười,” câu trả lời của Kazuma đúng như dự đoán của Godai, song câu nói tiếp theo của anh ta không khỏi khiến anh vướng mắc. “Mà chính xác là ngày 6 tháng Mười.” “Sao cơ?” Godai bất giác bật ra thành tiếng. “Thế nghĩa là thế nào?” “Tôi không biết bố tôi đặt chân đến Tokyo vào khoảng mấy giờ ngày mùng 5. Nhưng ông đến căn hộ của tôi tầm một giờ sáng ngày hôm sau.” “Thế cho đến lúc đó, bố anh đã làm gì, ở đâu?” “Tôi không rõ. Tôi hỏi thì ông chỉ bảo là đi loanh quanh đây đó thôi. Lần nào cũng vậy nên tôi cũng không còn để ý nữa.” “Lần nào cũng vậy… Thế hai bố con anh có ăn tối cùng nhau không?” “Hồi đầu, chúng tôi cũng ăn cùng nhau đôi ba lần, nhưng đã mấy năm rồi chúng tôi không còn làm vậy nữa. Tôi cũng thấy ngại phải xếp lịch theo giờ giấc của bố nên hai bố con chỉ ngồi ăn với nhau bữa sáng hôm sau là đủ rồi. Tuy bố và con trai lâu ngày mới gặp nhau nhưng chúng tôi cũng không có chuyện gì để nói cả.” “Bố anh thường trở về ngay sáng hôm sau à?” “Tôi đoán vậy, nhưng cũng không rõ nữa. Gần nhà tôi có một quán cơm suất mở cửa từ sáng sớm, hai bố con thường ăn sáng ở đó rồi chia tay nhau trước cửa quán.” “Tần suất bố anh lên Tokyo có nhiều không?” “Độ hai, ba tháng bố tôi lên một lần.” Điểm này trùng khớp với lời khai của Kuraki. “Anh ở Tokyo được mấy năm rồi?” “Tôi học đại học bốn năm rồi tốt nghiệp, sau đó cứ thế ở lại đây làm mười một năm, tính ra cũng được mười lăm năm rồi.” “Bố anh bắt đầu lên Tokyo chơi từ hồi nào?” “Nếu tôi nhớ không nhầm thì từ dạo bố tôi về hưu. Ông bảo có thời gian rảnh nên lên đây thăm tôi.” “Từ dạo đó, bố anh đã lên Tokyo với tần suất như hiện tại rồi à?” “Để xem nào. Vâng, tôi nghĩ là đúng vậy.” “Trong khoảng thời gian đó có xảy ra điều gì khác thường không? Việc tốt hay xấu gì cũng được. Kiểu hôm nay bố đã gặp chuyện này hay chuyện kia chẳng hạn.” “Thế nào nhỉ,” Kazuma áp lòng bàn tay lên trán. “Có thể đã xảy ra một vài chuyện nhỏ nhặt. Nhưng tôi không nhớ. Xin lỗi các anh.” “Lần nào lên Tokyo bố anh cũng đi một mình thôi à? Ông ấy có gặp gỡ ai không?” “Chuyện đó thì…” Godai đã không bỏ lỡ vẻ lúng túng thoáng hiện trên nét mặt Kazuma. “Tôi chưa nghe bố tôi nhắc đến bao giờ. Ở trên này bố tôi không có người quen nào cả, vả lại tôi cũng không nghe kể ông ấy đã làm quen được với ai. Tôi nghĩ lúc nào ông ấy cũng chỉ có một mình thôi.” “Thế à. Vậy chúng tôi xin phép hỏi hai câu nữa thôi. Nghe đến địa danh Monzen-Nakacho, anh có nhớ ra điều gì không? Hoặc đền Tomioka Hachimangu cũng được.” “Monzen-Nakacho?” Kazuma có vẻ hơi hoang mang trước một cái tên anh ta không ngờ tới. Nom anh ta không giống đang diễn. Kazuma lắc đầu, hỏi ngược lại, “Có chuyện gì với nơi đó à? Sao lại xuất hiện những địa danh đó?” Chừng như anh ta thật sự không đoán biết được điều gì. “Xin lỗi anh nhưng về chuyện đó, chúng tôi xin phép được từ chối trả lời. Sau đây là câu hỏi cuối cùng. Gần đây ông Kuraki có trao đổi chuyện gì liên quan đến luật pháp với anh không?” “Luật pháp? Luật pháp như thế nào cơ?” “Thế nào cũng được. Có thể liên quan đến tiền bạc mà cũng có thể liên quan đến quyền lợi gì đó. Ông ấy có bàn bạc với anh không?” “Không, tôi chưa nghe những chuyện như thế bao giờ.” “Tôi hiểu rồi. Tôi hỏi xong rồi. Cảm ơn anh rất nhiều,” Godai gấp sổ lại. “Tôi hỏi một câu được chứ?” Nakamachi im lặng nãy giờ cất tiếng. “Anh cảm thấy thế nào về những chuyến lên Tokyo của bố mình?” “Cảm thấy thế nào ư? Ý anh là sao?” “Tôi cũng là dân tỉnh lẻ nên rất hiểu, việc bố mẹ cứ dăm bữa nửa tháng lại lên Tokyo khá là phiền nhiễu. Hai, ba tháng lên một lần là tương đối thường xuyên. Theo lẽ thường, chẳng phải người ta sẽ thắc mắc không biết bố mẹ lên Tokyo làm gì mà nhiều thế hay sao? Nói là thăm thú Tokyo nhưng những nơi có thể đi cũng chỉ có từng đấy. Tôi nghĩ khi đó người ta sẽ sinh nghi, liệu có phải bố mẹ mình lên Tokyo vì một mục đích nào khác không?” Kazuma tỏ rõ vẻ khó chịu. Anh ta nhăn trán, nhếch môi, cầm cốc cà phê lên. Sau khi uống hết cốc cà phê xem chừng đã nguội ngắt, anh ta đặt cốc xuống một cách thô bạo. “Tôi không biết ở nhà anh, quan hệ giữa bố mẹ và con cái như thế nào, nhưng nhà chúng tôi theo chủ nghĩa không can thiệp vào cuộc sống của nhau. Chuyện bố tôi thường xuyên lên Tokyo không liên quan gì đến tôi cả. Vì thế, chẳng có chuyện sinh nghi gì hết,” Kazuma chĩa ánh mắt về phía Godai. “Tôi còn phải làm việc, tôi xin phép dừng cuộc nói chuyện tại đây được chứ?” “Đương nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Godai cúi đầu, lúc ngẩng lên đã thấy Kazuma đang sải bước ra cửa. “Đòn cuối của cậu khá lắm,” Godai mỉm cười với Nakamachi ngồi bên cạnh. “Có lẽ thường ngày Kuraki Kazuma vẫn luôn nghi ngờ chuyện đó. Chính vì bị nói trúng tim đen nên anh ta mới mất bình tĩnh như vậy.” “Nghi ngờ, tức là…” Godai cười khẩy. “Hừ, thường xuyên lên Tokyo nhưng lại không cho con trai biết mình đi đâu. Đã vậy còn tới căn hộ của con trai vào nửa đêm. Rồi còn chẳng nói chuyện gì đặc biệt, ngay hôm sau đã ra về. Khi người đàn ông hành động như vậy thì chỉ có thể nghĩ đến một lý do.” “Là phụ nữ, đúng không ạ.” Godai liền gật đầu cái rụp. “Tôi nghĩ cả hai lá bùa thỉnh từ đền Tomioka Hachimangu đều là do phụ nữ tặng. Chỉ cần tìm ra người phụ nữ đó, vụ án ắt sẽ có tiến triển.” “Vậy là chúng ta đã có một món quà ra trò đem về trụ sở rồi nhỉ,” Nakamachi tít mắt vui sướng. 6 Ba ngày sau hôm đến gặp Kuraki Kazuma, cảnh sát tìm ra nhân vật được cho là người phụ nữ kia. Chính những điều tra viên làm nhiệm vụ đem ảnh chân dung của Kuraki Tatsuro đi hỏi han khắp Monzen Nakacho đã lập công này. Sau nhiều ngày kiên trì dò la tin tức, không bỏ sót dù một hàng quán nhỏ nằm trong xó xỉnh của thị trấn, cuối cùng họ đã lấy được lời khai từ nhân viên của một cửa hàng bán rượu rằng “Đã nhìn thấy người này vài lần.” Dù cửa hàng đó không có chỗ cho khách ngồi uống rượu. Nơi người nhân viên đó bắt gặp Kuraki là một quán ăn nhỏ. Anh ta kể trong một lần đến giao rượu gấp cho quán ăn đó vì họ không đủ rượu phục vụ khách, anh ta đã trông thấy Kuraki ngồi ăn uống ở khu vực quầy. Quán ăn đó có tên là Asunaro. Nghe nói họ mở quán ở Monzen Nakacho tính đến nay đã được hơn hai mươi năm. Chủ quán là một bà lão gần bảy mươi tuổi, nhưng trên thực tế người quán xuyến lại là cô con gái, nghe đâu mới khoảng trên dưới bốn mươi. Hoàn toàn có thể nghĩ bà lão sáu mươi sáu tuổi đó chính là người phụ nữ của Kuraki. “Vụ này là chiến lợi phẩm của các cậu. Hãy đến đó hỏi chuyện đi,” Tsutsui nói vậy rồi đưa cho Godai một tấm bản đồ chỉ vị trí của quán Asunaro. Godai cùng Nakamachi đi đến Monzen-Nakacho. Tuy nhiên, trước khi tới quán ăn đó, Godai muốn ghé qua một nơi. Nghe anh đề nghị, Nakamachi cũng tán đồng. “Được đó ạ. Chúng ta đi thôi.” Đó chính là quán cà phê mà Shiraishi Kensuke từng ghé đến. Cũng như lần trước, họ lên tầng hai, ngồi cạnh nhau ở chiếc bàn dài, nơi có thể trông xuống đường Eitai. “Anh Godai,” Nakamachi gọi. Trên tay cậu ta là tấm bản đồ nhận được từ Tsutsui. “Em nghĩ anh đoán đúng rồi đấy.” Godai liền liếc mắt, nhòm vào tấm bản đồ. Trước khi tới đây, anh đã xác nhận được rằng tòa nhà mà quán Asunaro tọa lạc nằm giáp mặt quán cà phê này. Xem ra việc cho rằng Shiraishi Kensuke từng ngồi đây để theo dõi những người liên quan đến Asunaro ra vào quán tuyệt đối không phải là tưởng tượng hoang đường. “Kết luận như vậy quả có hơi sớm, nhưng có lẽ cũng không hoàn toàn trật lất,” nói đoạn Godai cầm lấy cốc giấy. Bên trong là thứ cà phê của một chuỗi của hàng anh đã uống quen, song hôm nay nó lại mang một hương vị rất đặc biệt. Thời nay, dù là thông tin về quán ăn nhỏ đến đâu, thì cũng chỉ cần lên mạng là có thể dễ dàng nắm được. Quán Asunaro mở cửa từ 5 rưỡi chiều. Khi kim đồng hồ chỉ quá 4 rưỡi một chút, hai người bèn đứng dậy. Asunaro nằm trong một tòa nhà nhỏ và cũ kỹ. Tầng một là quán mì ramen, ngay bên hông có cầu thang bộ. Trên đó có biển Asunaro. Sau khi leo thang bộ lên tầng hai, họ thấy ngoài cửa có treo tấm bảng đề dòng chữ Đang chuẩn bị. Họ bèn mở cửa ra, bước vào trong. Thứ kích thích năm giác quan của Godai trước nhất chính là mùi nước dùng dashi. Tiếp đến, cảnh tượng bên trong quán lọt vào mắt anh. Quầy phục vụ làm bằng gỗ thô, đứng bên trong quầy là một phụ nữ trẻ tuổi. Chị ta mặc đồ nỉ, đeo tạp dề, song có vẻ đã trang điểm đâu ra đấy; cặp lông mày được cắt tỉa kỹ càng trông rất ấn tượng. “A, cửa hàng chúng tôi 5 rưỡi mới mở cửa,” người phụ nữ nói. “À không, chúng tôi không phải khách. Chúng tôi là…” Godai giơ huy hiệu của Sở Cảnh sát Tokyo về phía người phụ nữ. Người phụ nữ bỗng dừng mọi động tác, tỏ vẻ bối rối, tay vẫn đang cầm chiếc muôi. Chị ta hít thở sâu, đoạn đáp, “Vâng. Các anh đến đây có chuyện gì vậy?” Trong ấn tượng ban đầu của Godai, chị ta là “một phụ nữ trẻ tuổi,” song để ý kỹ thì đuôi mắt cũng đã có nếp nhăn. Dù vậy, nhìn thế nào cũng không thấy giống phụ nữ đã tứ tuần. Khuôn mặt nhỏ nhắn, nét nào ra nét đấy. “Xin thứ lỗi, cho tôi hỏi chị có phải chủ quán không?” “Không. Chủ quán là mẹ tôi. Bà ấy đang ra ngoài mua chút đồ.” “Đó là bà Asaba Yoko phải không?” “Vâng, Asaba Yoko là mẹ tôi.” “Hình như chị cũng đang làm việc ở quán này nhỉ? Chị có thể cho tôi biết tên được không?” “Tên tôi là Asaba Orie… Anh này, quán chúng tôi có vấn đề gì sao?” Trước câu hỏi của người phụ nữ với đôi mắt long lanh đầy vẻ bất an, Godai không đáp, thay vào đó anh hỏi xem tên chị ta viết như thế nào. Ngồi bên cạnh, Nakamachi liền ghi chép lại thông tin đó. Godai chìa ra một bức ảnh chân dung. “Chị có biết người đàn ông này không?” Orie nhìn bức ảnh, mắt hơi mở to. “Có,” chị ta gật đầu. “Chị có biết tên ông ấy không?” “Đó là ông… Kuraki. Thi thoảng ông ấy có đến quán chúng tôi.” “Chị có biết tên đầy đủ của ông ấy không?” “Hình như là Tatsuro… thì phải. Cũng có thể tôi nhầm.” Giọng Orie không tự tin cho lắm. Nếu hai người có quan hệ nam nữ thì không có lý nào chị ta lại không biết, nhưng cũng nhiều khả năng đây là một màn diễn xuất tài tình. Kinh nghiệm làm cảnh sát bao năm nay đã dạy cho Godai một bài học, rằng tất thảy phụ nữ trên đời này đều là những diễn viên tài ba. “Lần gần đây nhất ông ấy tới đây là khi nào?” Orie nghiêng đầu. “Tôi nhớ là khoảng đầu tháng trước.” “Ông ấy đến đây với tần suất như thế nào?” “Mỗi năm vài lần. Có đợt ông ấy đến liên tục nhưng cũng có dạo lâu lâu mới tới.” “Ông ấy bắt đầu tới đây từ hồi nào?” “Tôi không nhớ chính xác, nhưng chắc khoảng năm, sáu năm trước.” Câu trả lời trùng khớp với lời khai của Kazuma. Xem ra mỗi lần lên Tokyo, Kuraki đều ghé qua quán ăn này. “Chị có nghe ông Kuraki kể cơ duyên nào đưa ông ấy tới đây không? Đại loại như được ai mách cho chẳng hạn.” “Ừm,” Orie nghiêng đầu. “Hình như tôi chưa từng nghe về chuyện đó. Tôi đoán ông ấy chỉ đến đây một cách vu vơ rồi tình cờ yêu thích quán chúng tôi thôi.” “Ông ấy thường đến một mình à? Hay còn dẫn theo ai khác?” “Không, lúc nào tôi cũng thấy ông ấy đi một mình.” “Ông ấy làm gì một mình?” “Làm gì… ư? Thì anh thấy quán chúng tôi rồi đấy, ông ấy vừa ăn vừa uống rượu thôi.” “Ông ấy thường tới đây vào khoảng giờ nào?” “Ông ấy hay đến tầm bảy giờ tối. Và ra về ngay trước khi quán đóng cửa.” “Quán nhà chị đóng cửa lúc mấy giờ?” “Chúng tôi nhận đặt món cuối lúc mười một giờ, và đóng cửa lúc mười một rưỡi.” “Ông ấy ngồi ở đâu vậy?” “Hả?” Orie trưng ra vẻ mặt bối rối vì bị bất ngờ. “Nếu đã thành quán quen, thường người ta sẽ muốn ngồi ở một vị trí cố định. Tôi đang tự hỏi không biết ông Kuraki có cho mình một chỗ ngồi như vậy không” “À,” Orie liền gật đầu rồi chỉ tay về chỗ ngồi cạnh tường. Godai chăm chú quan sát vị trí ấy và mường tượng dáng vẻ Kuraki đang ngồi đó. Chọn một vị trí không làm phiền tới những vị khách khác, một mình ngồi uống rượu suốt bốn tiếng rưỡi đồng hồ cho đến khi quán đóng cửa… Nếu không phải một người có tình cảm đặc biệt với quán sẽ không thể làm điều đó. Mà không, không phải với quán mà là với người của quán mới đúng. “Anh này,” Orie cất lời như thể vừa hạ quyết tâm. “Các anh đang điều tra chuyện gì thế? Đã có chuyện gì xảy ra với ông Kuraki ư?” Thấy Godai không nói gì, Nakamachi liền ôn tồn đáp, “Chị chỉ cần trả lời các câu hỏi của chúng tôi thôi, không nên biết những điều không cần thiết.” “Nhưng nghe các anh hỏi cặn kẽ về ông Kuraki như vậy, tôi rất tò mò. Tôi sẽ không biết phải cư xử với ông ấy như thế nào khi ông ấy đến đây lần tới. Mặc dù thi thoảng ông Kuraki mới ghé qua quán chúng tôi, nhưng ông ấy là một người rất tốt. Ông ấy đối xử tử tế với cả hai mẹ con tôi. Liệu tôi có thể kể cho ông ấy nghe chuyện hôm nay không?” “Đương nhiên là không vấn đề gì,” Godai trả lời ngay lập tức. “Vì chúng tôi cũng đã gặp ông ấy rồi.” “Vậy à…” Godai chăm chú dõi nhìn khuôn mặt Orie, ánh mắt chị ta dao động tỏ ý ngạc nhiên. Nếu Orie có quan hệ đặc biệt với Kuraki thì chẳng có lý gì lại chưa nghe chuyện cảnh sát Tokyo tìm đến tận nhà ông ta ở tỉnh Aichi. Có điều, dĩ nhiên Godai không định tin biểu cảm đó là thật. Một lần nữa anh tự nhủ với bản thân rằng phụ nữ tất thảy đều là diễn viên. “Chị bảo chúng tôi hỏi cặn kẽ nhưng tôi nào đã hỏi chuyện gì ghê gớm đâu,” Godai nhìn xoáy vào khuôn mặt hài hòa của Orie. “Giờ mới đến những câu hỏi chính thức đây. Chị có thể kể cho chúng tôi mọi điều chị biết về người đàn ông có tên Kuraki Tatsuro không? Bất kỳ chuyện nhỏ nhặt gì cũng được. Nakamachi, sẵn sàng giấy bút chưa?” “Em lúc nào cũng sẵn sàng.” Nakamachi mở cuốn sổ nhỏ. Cầm sẵn cây bút trong tay, cậu ta giục Orie, “Mời chị.” “Các anh hỏi vậy nhưng tôi cũng chẳng biết gì nhiều đâu. Ông Kuraki cũng chẳng mấy khi kể về bản thân cả… Nếu tôi nhớ không nhầm thì nhà ông ấy ở Aichi còn anh con trai đang sống ở đây. Hình như ông ấy lên đây thăm con rồi tiện thể ghé qua quán chúng tôi. Hầu như lần nào ông ấy cũng mang quà từ Aichi lên. Ngoài ra…” Orie nghiêng đầu, tỏ vẻ ngẫm nghĩ. “Hình như ông ấy là fan hâm mộ của đội bóng chày Chunichi Dragons. Ông ấy nói bản thân không có sở thích gì đặc biệt, thành thử sau khi về hưu đã rất chật vật vì không biết phải làm gì để giết thời gian. Ngoài ra…” Orie buông tiếng thở dài rồi chậm rãi lắc đầu. “Xin lỗi anh. Chắc hẳn tôi còn nghe nhiều chuyện khác nữa nhưng giờ tôi không nhớ ra ngay được.” “Vậy khi nào có thời gian, chị hãy thử nhớ lại xem nhé. Kiểu gì chúng tôi cũng phải đến quấy rầy chị thêm vài lần nữa cơ.” Nghe Godai nói, Orie chau mày tỏ vẻ rầu rĩ. Mặt chị ta hiện rõ dòng chữ “Lại đến nữa sao?” Xem ra thái độ này thì không phải là đang diễn. Bỗng có tiếng cửa mở sau lưng. Godai ngoái lại, thấy một người phụ nữ nhỏ thó, khoác chiếc áo màu be đang đứng sững lại vẻ ngạc nhiên. Hai tay bà ta xách túi đồ siêu thị màu trắng. Bà ta khoảng trên dưới bảy mươi tuổi, đeo kính, khuôn mặt nhỏ nhắn đã hằn vô số nếp nhăn. Dù vậy, Godai chỉ nhìn thoáng qua đã nhận ra ngay đó chính mẹ của Orie. Bởi khuôn mặt họ giống nhau như đúc. “Bà Asaba Yoko phải không ạ?” Người phụ nữ không trả lời câu hỏi của Godai mà chĩa ánh mắt về phía quầy. “Họ là cảnh sát,” Orie nói. “Họ muốn hỏi chuyện về ông Kuraki.” “Đã quấy rầy hai người rồi ạ,” nói đoạn Godai cho Yoko xem huy hiệu cảnh sát. Yoko chẳng buồn ngó ngàng, như thể bà không hứng thú gì với ba cái huy hiệu này vậy. Bà đi về phía quầy, đưa cho Orie mấy chiếc túi đang xách trên tay. Sau đó, cuối cùng bà cũng chịu quay mặt về phía Godai, hỏi, “Ông Kuraki đã gây ra chuyện gì sao?” “Chuyện đó thì chúng tôi chưa thể nói được gì. Thế nên chúng tôi mới phải đi khắp nơi dò la tin tức. Chúng tôi đến đây cũng vì vậy.” “Ra vậy. Tôi không biết các anh đang điều tra chuyện gì, nhưng nếu các anh nghi ngờ ông Kuraki thì các anh nhầm to rồi. Người như ông ấy không thể làm chuyện xấu được đâu,” Yoko khẳng định chắc nịch. “Chúng tôi sẽ tham khảo ý kiến đó của bà,” miệng nói thế nhưng trong lòng Godai lại có một cảm giác rất kỳ lạ. Anh cảm thấy có gì đó vướng mắc trong câu nói vừa rồi của bà Yoko. Chính anh cũng không biết bản chất vấn đề nằm ở đâu. “Các anh nghe về quán chúng tôi từ ông Kuraki à?” Bà Yoko hỏi. Godai bèn cười thiểu não, khẽ xua tay. “Tôi không thể tiết lộ chuyện đó được.” “Họ bảo chúng ta chỉ cần trả lời các câu hỏi của họ thôi,” đứng trong quầy, Orie nói giọng mỉa mai. “Hừm, thế phỏng? Nếu vậy mong các anh hỏi nhanh giúp tôi. Quán chúng tôi sắp đến giờ mở cửa rồi. Vả lại, nói khí không phải chứ từ xưa tôi đã chúa ghét cảnh sát rồi,” nói đoạn Yoko ngước nhìn Godai, đôi mắt ánh lên những tia lạnh lùng khiến người khác phải giật mình. “Tôi hiểu rồi. Vậy tôi xin hỏi, hai người có biết ông Shiraishi Kensuke không? Ông ấy là một luật sư.” “Tôi không quen ai như vậy. Con thì sao?” Yoko hỏi Orie. Thấy con gái lặng lẽ lắc đầu, Yoko bèn nói với Godai, “Con gái tôi cũng không biết đâu.” “Vậy à. Tiện thể cho tôi hỏi, gần đây có ngôi đền Tomioka Hachimangu, hai người đã đến đó bao giờ chưa?” “Có chứ. Gần như thế cơ mà.” “Thế bà có mua bùa ở đó không…” “Có chứ,” Yoko gật đầu rồi chỉ tay vào bức tường trong bếp, “Anh xem, ở kia có dán kìa.” Một lá bùa giống với lá bùa Godai trông thấy ở nhà Kuraki được dán trên cao gần trần nhà. “Vậy bà có từng tặng mấy lá bùa mình mua cho người khác không?” “Thường xuyên ấy chứ. Chúng tôi tặng những khách quen.” “Còn ông Kuraki thì sao?” “Ông Kuraki? À, phải rồi,” Yoko khẽ vỗ tay. “Nói mới nhớ, tôi cũng tặng cả ông Kuraki nữa. Từ mấy năm trước rồi nhỉ? Chắc khoảng ba năm trước thì phải. Lần nào đến ông ấy cũng quà cáp, thành thử chúng tôi muốn đáp lễ.” Godai suy nghĩ về câu trả lời này. Theo những gì Yoko vừa kể, quả nhiên việc Kuraki nói không nhớ người tặng bùa rất thiếu tự nhiên. Anh phải làm rõ xem tại sao Kuraki lại muốn che giấu về quán ăn này. “Nghe hai người nói, tôi có thể hình dung mối quan hệ thân thiết giữa hai người với ông Kuraki. Không biết trong số các khách quen của quán, còn có ai thân với ông ấy nữa không?” “Thế nào nhỉ? Quán chúng tôi thì nhỏ như mắt muỗi, chắc ông ấy cũng thân với một số người sau vài lần gặp chăng?” “Bà có thể cho tôi biết đó là những người như thế nào không?” “Anh hỏi thế khác nào đánh đố chúng tôi,” Yoko vừa cười vừa nói. “Nếu anh muốn biết bằng được thì sao không đến lúc quán mở cửa, mắt thấy tai nghe rồi tự kiểm chứng? Có điều, anh hãy đến với cương vị là khách. Chứ cứ vung vẩy cái huy hiệu ban nãy thì tôi sẽ kiện anh vì tội cản trở kinh doanh đấy.” Godai cười nhăn nhó rồi gật đầu. “Tôi sẽ suy nghĩ.” “Anh cảnh sát này, nếu vẫn còn câu hỏi thì hôm khác anh lại tới được không? Chúng tôi đang bận cong mông lên đây này,” Yoko vừa nhìn đồng hồ treo tường vừa nói. Đúng vào khoảnh khắc đó, Godai chợt nhận ra chân tướng nằm sau cảm giác kỳ lạ mà anh vừa trải qua khi nãy. Đó chính là ngữ điệu. Cách nói chuyện của bà Yoko có lẫn một chút giọng địa phương. Chất giọng ấy khá giống với một giọng nói mà Godai đã nghe thấy ở đâu đó dạo gần đây. Chính là cách nói chuyện của người tài xế taxi đã chở anh từ ga Mikawa Anjo. Đây là ngữ điệu vùng miền của Mikawa. “Có chuyện gì thế?” Yoko tỏ vẻ ngờ vực. “À, không có gì. Vậy tôi xin hỏi một câu cuối cùng. Ngày 31 tháng Mười, hai người vẫn mở quán như thường lệ à?” “Ngày 31 tháng trước ấy à. Tôi nhớ là thời gian đó quán chúng tôi không tạm đóng cửa gì hết.” “Tức là cả hai đều có mặt ở quán nhỉ?” “Đúng vậy. Cũng nhờ trời thương, chứ nếu chỉ có một mình thì tôi làm không xuể mất. Ngày hôm đó có chuyện gì à?” “Vâng, thì…” “À, phải rồi. Chúng tôi không được phép đặt câu hỏi nhỉ,” Yoko đưa tay che miệng, đoạn nhún vai. “Cảm ơn hai người rất nhiều. Nếu được xin hãy cho tôi biết địa chỉ và số điện thoại của cả hai.” Yoko nhăn nhó. “Các anh còn định mò đến tận nhà riêng của chúng tôi ư?” “À không, ở thời điểm hiện tại chúng tôi chưa có ý định ấy, nhưng cứ hỏi cho chắc.” Yoko thở dài nhưng vẫn viết địa chỉ và số điện thoại của hai mẹ con vào mẩu giấy ghi chú để gần đó cho anh. Họ đang sống cùng nhau trong một tòa chung cư tại Toyocho. “Hai người quê ở đâu vậy?” Godai ngẩng đầu lên khỏi mẩu giấy ghi chú, nhìn Yoko. “Chị Orie thì tôi không nói làm gì, nhưng chí ít bà không phải người Tokyo nhỉ?” Mọi biểu cảm trên gương mặt bà Yoko bỗng dưng biến mất. Ngay cả thái độ căm ghét cảnh sát vẫn để lộ ra cho đến mới đây giờ cũng không còn nữa. Yoko thở dài thườn thượt. Bà nhìn Orie đang đứng trong quầy rồi mới quay về phía Godai. “Anh tinh tường thật đấy. Tôi xuất thân từ Seto, tỉnh Aichi. Sau đó, tôi lấy chồng và chuyển đến ở Toyokawa cho tới năm ba mươi nhăm tuổi. Phải một thời gian sau khi ông nhà tôi qua đời, tôi mới lên Tokyo.” “Ra vậy, hóa ra là như thế. Nếu vậy chắc bà và ông Kuraki phải tán chuyện về quê quán rôm rả lắm nhỉ?” “Không đâu, chúng tôi chưa từng nhắc đến chuyện đó. Tôi cũng không nói với ông ấy mình là người Aichi. Tôi đoán ông Kuraki cũng nhận ra nhưng ông ấy chưa bao giờ hỏi cả. Có thể ông ấy thấy tôi không nói ra nên giữ ý, cho rằng mình không được phép đề cập đến chuyện đó cũng nên.” “Không…. được phép đề cập sao?” Bà Yoko, vẫn với gương mặt giống như mặt nạ kịch Noh, hít một hơi sâu. “Tôi ghét bị điều tra này nọ nên sẽ nói luôn ở đây. Vừa nãy tôi nói mình rất ghét cảnh sát, thực ra là có lý do.” “Lý do là gì vậy ạ?” “Ông nhà tôi… chồng tôi…” Chiếc mặt nạ kịch Noh bắt đầu bộc lộ cảm xúc. Hai mắt đỏ ngầu, gò má đanh lại, khóe miệng thì méo xệch. Hiện lên trên gương mặt đó là một nỗi đau buồn sâu thẳm. “… đã chết dưới tay cảnh sát,” từ đôi môi hằn những nếp nhăn bao quanh, bà Yoko bật ra câu nói tựa như một tiếng rên rỉ. “Ông ấy bị bắt vì là nghi phạm trong một vụ án mạng, nhưng rồi ông ấy đã một đi không trở về. Ông ấy đã treo cổ trong khu tạm giam.” 7 “Vụ án xảy ra vào thứ Ba, ngày 15 tháng Năm năm 1984. Một người đàn ông kinh doanh trong ngành tài chính bị sát hại tại một căn phòng trong tòa nhà phức hợp nằm gần ga đường sắt Higashi Okazaki tại Nagoya – nơi anh ta đặt làm văn phòng. Nạn nhân tên là Haitani Shozo, năm mươi mốt tuổi. Độc thân. Một nhân viên làm việc cho văn phòng này đã phát hiện sự việc và báo cảnh sát vào khoảng 7 giờ 30 phút tối cùng ngày. Nghe nói nạn nhân bị đâm vào ngực, hung khí là một con dao nhọn.” Giọng trầm thấp của Tsutsui vang lên trong phòng họp không mấy rộng rãi. Ngồi quây xung quanh chiếc bàn, ngoại trừ Godai và Tsutsui ra, còn lại toàn những nhân vật tai to mặt lớn như đội trưởng Đội điều tra tội phạm hình sự thuộc Ban điều tra số Một, cảnh sát trưởng, trưởng ban hình sự, đội trưởng Đội điều tra số Một thuộc Phòng Cảnh sát sở tại. “Ngày 18 tháng Năm, tức ba ngày sau khi vụ án xảy ra, Fukuma Junji bị bắt,” Tsutsui vừa nhìn tập tài liệu vừa tiếp tục. “Không rõ người này bị tình nghi vì chuyện gì nhưng dựa trên những gì xảy ra sau đó thì nhiều khả năng người này bị bắt vì một vụ việc khác. Ngoài những thông tin như thời điểm đó Fukuma bốn mươi bốn tuổi, trú tại thành phố Toyokawa ra, không có thông tin cụ thể nào khác. Fukuma tự tử trong khu tạm giam của Phòng cảnh sát sau đó bốn ngày. Nghe nói người này đã dùng quần áo để treo cổ tự vẫn. Sau đó, cảnh sát chuyển hồ sơ sang Viện công tố trong tình trạng nghi phạm đã chết, và Viện công tố đã quyết định không khởi tố, vụ án coi như được giải quyết. Đến tháng 5 năm 1999, do hết thời hiệu truy tố nên gần như toàn bộ hồ sơ điều tra liên quan đều đã bị hủy bỏ.” Tài liệu mà Tsutsui vừa đọc là kết quả có được sau khi Godai tiến hành điều tra lại dựa theo lời kể của Asaba Yoko. Mặc dù vẫn nhớ chính xác ngày chồng bị bắt song có vẻ bà Yoko không nắm được thông tin khái quát về vụ án. “Một ngày nọ, bỗng dưng một toán cảnh sát ập đến nhà, lôi chồng tôi đi. Chồng tôi bảo chắc ông ấy sẽ được thả về ngay thôi, tôi chớ lo, nhưng mãi mấy ngày sau ông ấy vẫn chưa trở về, để rồi thứ tôi nhận được sau đó lại là tin báo ông ấy đã thắt cổ tự tử trong phòng giam.” Godai không sao quên được gương mặt bà Yoko khi bà điềm nhiên kể lại câu chuyện ấy. Rõ ràng dù đã hơn ba mươi năm trôi qua, vết thương trong lòng bà đến giờ vẫn chưa thể nguôi ngoai. Có điều, xét về mặt hồ sơ ghi chép, vụ án đó đã hoàn toàn phai nhòa. Mặc dù Godai đã liên hệ với cảnh sát tỉnh Aichi và xác minh được nội dung của vụ án, song những thông tin như công tác điều tra được tiến hành như thế nào, quá trình nào đưa họ tới bước bắt giữ nghi phạm thì không thể xác nhận được nữa. Một phần nội dung trong tài liệu Tsutsui vừa đọc được trích dẫn từ những bài báo lúc bấy giờ. “Chính người liên quan đã chủ động kể về vụ án đó nhỉ?” Sakurakawa – đội trưởng Đội Điều tra tội phạm hình sự xác nhận. Anh ta là cấp trên trực tiếp của nhóm Godai. “Đúng vậy,” Godai trả lời. “Bà ấy cho rằng cảnh sát đã tìm đến thì trước sau gì cũng sẽ điều tra những chuyện xảy ra từ hồi mẹ con bà ấy còn sống ở tỉnh Aichi, đó là một thị trấn nhỏ bé nên cảnh sát chỉ cần đi dò la một vòng là hỏi ra được ngay, đã vậy chi bằng tự mình nói ra trước,” chuyện này Godai đã báo cáo cho Sakurakawa từ trước, bởi vậy lúc này anh đang hướng về phía những vị lãnh đạo khác để trình bày. “Vậy, chúng ta nên xử lý vụ này thế nào nhỉ?” Sakurakawa xin ý kiến từ các lãnh đạo. “Điều bí ẩn nhất trong hành tung của nạn nhân chính là trong vòng một tháng trở lại đây, tính cả hôm xảy ra vụ án, ông ấy đã ba lần đặt chân đến Monzen-Nakacho. Nhưng chúng tôi hoàn toàn không biết lý do là gì. Mối liên hệ duy nhất nếu có chính là nhân vật mang tên Kuraki Tatsuro. Tôi đang tính sẽ cho nhóm Godai tiếp tục lần theo mối quan hệ xoay quanh Kuraki, quán ăn Asunaro và nạn nhân. Vấn đề là chúng ta sẽ tiếp cận vụ án Tsutsui vừa trình bày – vốn xảy ra cách đây hơn ba mươi năm ở mức độ nào.” “Hừ…m,” người vừa ậm ừ là vị cảnh sát trưởng có khuôn mặt dài và nhỏ. “Vụ này nghe không được sáng sủa cho lắm nhỉ?” “Đúng là như vậy ạ.” “Tôi nghĩ cảnh sát tỉnh Aichi không muốn bị sờ đến vụ này đâu. Để nghi phạm chết ngay trong thời gian tạm giam thì nói mất hết thể diện còn là nhẹ. Có lẽ họ muốn quên vụ đó đi, hay nói đúng hơn là muốn coi như chuyện đó chưa từng xảy ra.” “Chắc vậy,” Sakurakawa gật gù. “Chính vì thế chúng tôi mới muốn thảo luận với các anh.” “Khả năng hai mẹ con chủ quán ăn đó là hung thủ rất thấp nhỉ?” “Theo lời Godai thì đúng vậy. Vì vào thời điểm xảy ra vụ án, họ đều đang làm việc ở quán.” “Nếu vậy, cứ cho là quán ăn đó có liên quan đến vụ án theo một cách nào đấy, tôi cho rằng việc điều tra về cá nhân họ không có ý nghĩa cho lắm. Huống hồ còn là điều tra về chuyện quá khứ đã xảy ra cách đây hơn ba mươi năm.” Cảnh sát trưởng rõ ràng đang dè chừng. Xem ra ông ấy không muốn làm phiền cảnh sát tỉnh khác. “Godai này,” người gọi tên Godai là vị trưởng ban hình sự. “Linh tính mách bảo cậu thế nào? Cậu có cho rằng chuyện đời tư của hai người phụ nữ đó không liên quan đến vụ án lần này không?” Godai khẽ nghiêng đầu. “Thú thực tôi cũng không rõ. Có điều tôi khá băn khoăn về việc Kuraki Tatsuro cố tình giấu chuyện liên quan đến quán ăn này. Cách ông ta khai rằng đã quên mất ai là người tặng cho mình lá bùa nghe cũng rất thiếu tự nhiên. Tôi cho rằng thứ Kuraki muốn che giấu không phải quán ăn đó mà là sự hiện diện của hai mẹ con nhà ấy. Chính vì thế…” “Tôi hiểu, nói vậy đủ rồi,” trưởng ban hình sự giơ tay ngăn Godai nói tiếp, đoạn nhìn về phía cảnh sát trưởng. “Có thể cảnh sát tỉnh Aichi không muốn bị sờ đến vụ án đó, nhưng hẳn là những người chịu trách nhiệm hồi bấy giờ cũng không còn ai, tôi nghĩ chúng ta không cần quá bận tâm về chuyện này đâu ạ.” Nghe cấp dưới nói vậy, có vẻ như cảnh sát trưởng cũng hạ quyết tâm. Ông ta gật gù với Sakurakawa, vẻ mặt đầy miễn cưỡng. “Tôi hiểu rồi. Vậy nhờ cả vào các cậu.” “Vậy tôi sẽ trao đổi với cấp trên, thu xếp để có thể nhận được sự hợp tác từ cảnh sát tỉnh Aichi,” nói đoạn Sakurakawa đánh mắt ra dấu cho Tsutsui và Godai. Ý chừng việc này vậy là đã được giải quyết. “Tôi xin phép,” Godai cúi đầu trước các vị lãnh đạo rồi cùng Tsutsui rời khỏi phòng họp. “Vụ này có thể sẽ rắc rối lắm đấy,” vừa bước trên hành lang, Tsutsui vừa phe phẩy tập tài liệu anh ta mới đọc khi nãy. “Từ năm 1984 à,” Godai thở dài. “Hồi đó tôi còn chưa đi học.” “Việc họ không còn giữ hồ sơ điều tra cũng là điều đương nhiên thôi. Nếu vậy chỉ còn cách đi hỏi những người phụ trách hồi đó.” “Có lẽ đa phần những người chịu trách nhiệm hồi đó đều qua đời cả rồi nhỉ?” “Cứ cho là những người phụ trách hồi đó trạc tuổi tôi với cậu bây giờ thì nay cũng phải trên bảy mươi tuổi rồi. Dù còn sống thì rất có thể chỗ này của họ cũng không còn bình thường nữa,” Tsutsui gõ ngón tay vào thái dương. Godai cười thiểu não, tâm trạng có phần hơi nặng nề. Cho dù có người còn nhớ rõ về vụ án thì chắc hẳn giờ họ cũng chẳng muốn nhớ lại nữa. Và có lẽ họ cũng chẳng hoan nghênh việc anh đến hỏi chuyện. 8 “Em chưa ăn món thịt heo chiên xù xốt miso bao giờ cả. Anh Godai đã thưởng thức món này bao giờ chưa ạ?” Ngồi ghế bên cạnh, Nakamachi vừa lướt điện thoại vừa hỏi. “Chưa, thực ra tôi cũng chưa ăn bao giờ. Lần trước đi công tác tôi cũng nghĩ đến món đó nhưng rốt cuộc vẫn chưa thử. Tôi không hình dung nổi mùi vị của nó. Thú thực với cậu, tôi bị cái bệnh ghét theo thành kiến ấy.” “Vậy ạ. Nhưng nhìn bề ngoài không thể biết được bên trong thế nào mà.” “Mẹ tôi thường bảo chính vì cái tính đấy nên tôi mới ế vợ. Nhưng nếu cậu muốn ăn thì tôi sẽ đi cùng. Xong việc, thấy quán nào ổn thì chúng ta vào.” “Hình như có nhiều quán lắm ạ. Dù sao đây cũng là Nagoya mà,” Nakamachi vẫn không rời mắt khỏi điện thoại. Loa trên tàu vừa phát thông báo chỉ một lát nữa thôi tàu sẽ đến ga Nagoya. Godai kiểm tra lại tấm vé cất trong túi. Bốn ngày sau hôm tham gia cuộc họp với toàn cán bộ cốt cán, Godai nhận lệnh xuống Aichi công tác một chuyến nữa. Lần này họ sẽ tới Tenpaku, thành phố Nagoya. Vì phải đến ga Nagoya nên họ có thể đi bằng tàu Nozomi. Chưa kể Nakamachi cũng được duyệt cho đi cùng. Cậu ta tỏ ra rất hăng hái, có vẻ lâu lắm rồi cậu mới được cử đi công tác. Quả nhiên hồ sơ điều tra liên quan đến “Vụ án mạng tại văn phòng tài chính trước ga Higashi-Okazaki” hầu như không còn. Xét từ việc vụ án đã hết thời hiệu truy tố cũng như đã xảy ra quá lâu thì đó là điều hết sức tự nhiên, khó mà cho rằng cảnh sát tỉnh Aichi cố tình giấu giếm. Trái lại họ còn tỏ ra khá hợp tác, kiên trì tìm cho bằng được người phụ trách điều tra lúc bấy giờ. Vì không còn lưu lại hồ sơ nên họ chỉ còn cách trông cậy vào trí nhớ của những người đã lớn tuổi, không khó để hình dung ra họ đã vất vả thế nào. Về phần mình, Godai lấy làm kính nể họ. Cuối cùng, cảnh sát tỉnh Aichi đã tìm ra một nhân vật mà lúc này Godai và Nakamachi đang trên đường tới gặp. Nghe nói đó là một cựu điều tra viên, từng phụ trách vụ án. Người này đã bảy mươi hai tuổi. Thời điểm xảy ra vụ án, ông ấy chưa đến bốn mươi. Mong sao ông ấy từng là cảnh sát tuyến đầu. Về vụ sát hại luật sư Shiraishi, đáng tiếc thay, khó có thể nói rằng công tác điều tra đang tiến triển. Con dao dùng làm hung khí là loại có thể mua được ở các cửa hàng bán buôn, tại hiện trường vụ án, không tìm thấy vật gì mà có thể hung thủ đã bỏ lại. Đến thời điểm hiện tại, cảnh sát cũng không thu được bất cứ hình ảnh nào có giá trị từ các camera an ninh gắn xung quanh khu vực xảy ra án mạng. Nhóm phụ trách điều tra về mặt địa điểm trước đó từng làm sáng tỏ việc Kuraki thường lui tới quán Asunaro, về sau cũng không thu được kết quả gì đáng kể. Hiện tại, cảnh sát đang đặt hy vọng vào hướng điều tra dựa trên thông tin định vị lưu lại trong điện thoại thông minh mà Shiraishi Kensuke mang theo người. Rất khó nghĩ đến khả năng Shiraishi Kensuke bị sát hại bởi một người lần đầu gặp mặt, bởi vậy chắc chắn trước đây nạn nhân đã từng gặp hung thủ ở đâu đó rồi. Vì thế, cảnh sát đã lần theo mọi dấu chân của Shiraishi trong thời gian gần đây, nếu ông ấy nán lại một quán nào đó thì nhiều khả năng là để gặp gỡ và chuyện trò với ai đấy, cảnh sát sẽ điều tra hình ảnh trích xuất từ các camera an ninh bố trí trong quán. Trong trường hợp quán không lắp camera, cảnh sát sẽ kiểm tra hình ảnh từ các camera an ninh đặt gần đó, như ở vỉa hè chẳng hạn. Một công việc đòi hỏi sự kiên nhẫn nhưng lại có ưu điểm là giúp cảnh sát biết chính xác gần đây nạn nhân đã tiếp xúc với những người như thế nào. Nói vậy nhưng không có nghĩa là cảnh sát sẽ xác định được hung thủ. Nếu tất cả những nhân vật được camera ghi lại đều là đối tác làm ăn hoặc thân chủ của nạn nhân thì sau đó coi như là ngõ cụt. Vừa ra khỏi cửa soát vé ở ga Nagoya, Godai và Nakamachi đã thấy một người đàn ông, tuổi chừng trên dưới ba mươi, tiến đến gần. Cậu ta đeo kính, nom có vẻ là một người dễ chịu. Hai bên chào hỏi, xác nhận lại thân phận của nhau. Đối phương tên là Katase, tuần cảnh trưởng làm việc cho Ban cảnh sát khu vực trực thuộc Sở Cảnh sát tỉnh Aichi. Hai bên đã họp bàn trước với nhau về việc Katase sẽ dẫn đường cho Godai và Nakamachi. “Chúng tôi rất xin lỗi vì đã đưa ra một yêu cầu phiền phức như thế này,” Godai vừa trao cho Katase món quà mang từ Tokyo, vừa xin lỗi. “Anh đừng khách sáo, đôi bên cùng giúp đỡ nhau thôi mà,” Katase mỉm cười. Có vẻ như từ đây họ sẽ di chuyển bằng ô tô. Ra khỏi nhà ga, Katase bảo Godai và Nakamachi đứng chờ để đi lấy xe. Lát sau, một chiếc sedan trắng xuất hiện. Katase là người cầm lái. Nakamachi toan trèo lên ghế phụ nhưng Godai ngăn lại, tranh ngồi vào chỗ đó. Ngồi ở trên anh sẽ dễ nói chuyện với Katase hơn. “Chắc các cậu đang nghĩ sao cảnh sát Tokyo lại bày ra cái trò rắc rối này nhỉ? Dù sao vụ án cũng xảy ra hơn ba mươi năm trước rồi mà,” xe vừa lăn bánh, Godai đã mở lời ngay. “Cá nhân em thấy thú vị đấy chứ ạ. Đây còn là lần đầu tiên em được điều tra về một vụ án xảy ra trước cả khi mình ra đời nữa chứ,” giọng Katase rất ôn hòa. Nghe không giống lời nói xã giao. “Cậu cũng tham gia vào việc điều tra lần này ư?” “Tuy đối tượng tìm kiếm là một cựu cảnh sát nhưng dù gì người đó giờ cũng là ông lão rồi. Vậy mới đến lượt Ban Cảnh sát khu vực bọn em được ra tay.” Theo lời Katase thì nhân vật mà họ đang trên đường đến gặp có tên là Muramatsu Shigenori, vào thời điểm xảy ra “Vụ án mạng tại văn phòng tài chính trước ga Higashi-Okazaki,” người này đang làm việc cho Đội cảnh sát số Một thuộc Phòng cảnh sát sở tại. Cấp bậc của ông ta khi đó là hạ sĩ cảnh sát tuần tra, tham gia vào lực lượng điều tra tuyến đầu. “Ông ấy khá minh mẫn và vẫn còn nhớ chính xác về vụ án. Ngoài ra, mà có lẽ đây cũng là điều quan trọng nhất, ông ấy vẫn còn lưu giữ những ghi chép về cuộc điều tra lúc bấy giờ.” “Ồ, thật ư?” “Nói vậy nhưng cũng chỉ là những ghi chép cá nhân thôi ạ. Ông ấy nói là vẫn còn giữ, chưa vứt những cuốn sổ hay tài liệu sử dụng từ thời còn đương chức. Nghe nói trong số đó có cả những ghi chép liên quan đến vụ án đó.” “Ra vậy.” Godai hiểu ra. Bản thân anh cũng đang cất giữ toàn bộ các ghi chép điều tra từ trước đến giờ trong phòng riêng. Dẫu biết chúng chẳng giúp ích gì, anh vẫn không nỡ vứt đi. Chỉ mình anh mới hiểu để có được những thông tin ấy, anh đã phải rong ruổi khắp nơi khắp chốn, vất vả đến như thế nào. Sau khoảng ba mươi phút, Katase dừng xe. Đó là một khu dân cư, gần đó có một nhà trẻ. Đập vào mắt Godai là khu nhà chung vách, xem ra có rất nhiều hộ gia đình làm công ăn lương đang sinh sống ở đây. Katase dẫn họ đến một căn nhà cũ kỹ pha trộn giữa phong cách Nhật Bản và phương Tây. Y như rằng chỗ để xe ở đây cũng rất rộng rãi, có thể đỗ thoải mái hai chiếc ô tô. Dù lúc này chỉ có độc một chiếc xe con đang đậu ở đó. Sau khi Katase trao đổi qua chuông đàm thoại, cánh cửa ngoài hiên mở ra, một người đàn ông đầu bạc trắng xuất hiện. Ông ta trông nhỏ nhắn hơn Godai nghĩ, khuôn mặt cũng rất hiền hậu. Ở ông không toát ra phong thái của một cựu cảnh sát. Người đàn ông niềm nở mời khách vào nhà. Họ được dẫn vào phòng khách kiểu Tây – nơi có thể trông ra khoảnh vườn nhỏ – rồi ngồi đối diện với Muramatsu bên chiếc bàn đá cẩm thạch. Sau khi chào hỏi lại một lần nữa, vợ Muramatsu bưng trà Nhật ra. Đó là một người phụ nữ trầm tính, mái tóc ngắn nhuộm màu sáng. Bà trang điểm rất đẹp, xem ra là để tiếp khách. “Xin lỗi vì đã đến quấy quả ông bà trong lúc bận rộn.” Thấy Godai cúi đầu, Muramatsu liền xua tay, nói “Không sao, không sao. Chúng tôi có bận bịu gì đâu. Cho đến mãi gần đây tôi còn làm bảo vệ ở bãi xe, nhưng rồi cũng bị người ta cho về vườn. Ngày nào tôi cũng rảnh đến phát chán ra. Nếu có thể giúp gì được thì tôi rất sẵn lòng.” Giọng Marumatsu nghe rất hoạt bát. Xem ra đúng như Katase nói, ông ấy vẫn còn minh mẫn. “Chắc ông đã nghe chuyện rồi, trong quá trình điều tra một vụ án mạng xảy ra tại Tokyo vài ngày trước, chúng tôi đã xác minh được một nhân chúng xuất thân từ tỉnh Aichi, vốn là vợ của nghi phạm trong một vụ án mạng. Chính là ‘Vụ án mạng tại văn phòng tài chính trước ga Higashi-Okazaki’ xảy ra năm 1984, ở đây.” Nghe Godai nói, Muramatsu gật gù với một vẻ mặt rất bí hiểm. “Tôi cũng nghe nói vậy. Người phụ nữ đó đang sống ở Tokyo à? Tôi cũng từng gặp bà ấy một hai lần gì đấy, nhưng không nhớ mặt.” “Chưa rõ liệu bà ấy có liên quan đến vụ án mà chúng tôi đang điều tra hay không, nhưng trước mắt chúng tôi muốn nắm được xem đó là vụ án như thế nào, vì vậy chúng tôi mới đến tìm ông thế này.” Muramatsu gật gù vẻ hài lòng. “Ừm, nếu vậy thì tôi chính là người phù hợp đấy, mặc dù tự mình nói ra cũng thật ngại. Tôi đã trực tiếp tham gia điều tra từ đầu chí cuối. Dù sao, tôi cũng là người đầu tiên chạy đến hiện trường mà. Người trình báo khi ấy vẫn đứng nguyên bên cạnh thi thể nạn nhân, không rời khỏi phòng.” “Vậy sao?” Godai tròn xoe mắt. Nói vậy thì Muramatsu đúng là người thích hợp rồi. Muramatsu bèn lấy một cuốn sổ ghi chép cũ ra khỏi túi giấy đặt bên cạnh rồi đeo cặp kính đang để trên bàn lên. “Tôi vẫn còn nhớ rõ chuyện xảy ra ngày hôm đó. Dạo ấy tôi sống gần Yahagigawa, trong lúc đang ăn tối, tôi nhận được cuộc gọi khẩn cấp, liền vội vã lao đến hiện trường. Đó là tầng hai của một tòa nhà phức hợp nằm gần ga Higashi-Okazaki thuộc tuyến đường sắt Nagoya. Một người đàn ông mặc com-lê bị đâm chết trong văn phòng có treo tấm biển trông rất mờ ám ‘Thương mại Xanh.’ Có một con dao dính máu rơi dưới sàn nhà nhưng nghe nói nó vốn là đồ dùng trong văn phòng, do vậy cảnh sát nhận định hung thủ gây án trong lúc kích động sau một cuộc cãi vã nào đó chứ không phải có kế hoạch từ trước. Sau đấy, chúng tôi lập tức thành lập tổ chuyên án và tiến hành điều tra, nhưng tìm hiểu ra mới biết nạn nhân, tức người đàn ông có tên Haitani đó chỉ toàn làm những việc xấu xa. Nói thế này hơi khó nghe nhưng việc hắn bị sát hại âu cũng đáng đời.” “Người đó đã làm những chuyện gì vậy?” “Các cậu còn trẻ như vậy có khi không biết rõ lắm, nhưng các cậu có từng nghe đến vụ án Tozai Shoji bao giờ chưa?” “Tozai Shoji… À, tôi nhớ là đã từng học ở trường cảnh sát rồi. Hình như đó là một vụ lừa đảo quy mô lớn thì phải.” Muramatsu chậm rãi gật mạnh đầu. “Đầu tiên, chúng dụ khách hàng mua vàng ròng. Hứa hẹn là nó có giá trị tài sản và kiểu gì cũng tăng giá. Bản thân việc mua bán đó không có vấn đề gì, vấn đề nằm ở chỗ chúng không đưa số vàng ròng đó cho khách hàng. Mà thay vào đó, chúng đưa cho họ những tờ giấy được gọi là trái phiếu. Rồi chúng khăng khăng số vàng kia đang được công ty giữ hộ. Nếu đúng như thế thì đã chẳng thành chuyện, đằng này sự thật lại hoàn toàn khác. Công ty đó chẳng mua vàng viếc gì hết, toàn bộ số tiền nhận được từ khách hàng chúng đều đút túi. Có thể các cậu sẽ lấy làm lạ, không hiểu tại sao chiêu trò đó lại hiệu quả nhưng trên thực tế có rất nhiều người, mà trước tiên phải kể đến là người già đã bị lừa bởi mánh khóe ấy. Dĩ nhiên chúng không thể lừa gạt người ta mãi. Rất nhiều người đã khiếu nại và toàn bộ âm mưu bẩn thỉu của công ty đã bị phanh phui. Công ty bị phá sản, tất cả số tài sản còn lại phải hoàn trả cho những người bị hại. Nói vậy nhưng số tiền đó chỉ như muối bỏ biển thôi,” nói một mạch đến đây, Muramatsu bèn nhấp một ngụm trà. “Vụ án đó có liên quan đến chuyện này ạ?” “Liên quan một cách gián tiếp thôi. Mặc dù Tozai Shoji bị sập nhưng trong số các cán bộ công nhân viên của công ty này, rất nhiều người đã dùng những kiến thức, kinh nghiệm có được từ thời còn đi làm để khơi mào những chiêu trò lừa đảo mới. Nào thì sử dụng đặc quyền hội viên sân golf, nào thì giao dịch hợp đồng tương lai kim loại quý palladium, nào thì dụ khách mua những loại đá quý vốn rẻ như bèo với giá cao ngất ngưởng… Tóm lại chúng dùng mọi thủ đoạn để lừa đảo khách hàng, gom tiền về túi mình. Sau cùng chúng sẽ bỏ trốn hoặc tự lên kế hoạch phá sản công ty. Mỗi lần như vậy, các ông già bà cả lại trở thành nạn nhân của chúng. Đặc biệt, chúng thường nhắm đến những người già neo đơn. Chúng sẽ gọi điện cho hết người này đến người khác, phát hiện người nào đang sống một mình, chúng sẽ dùng đủ mọi cách để lừa họ. Chúng nói những lời nhảm nhí, đại loại như nếu ông bà gửi quá nhiều tiền vào ngân hàng thì lương hưu sẽ bị giảm, vì thế nên mang tiền đi đầu tư thì hơn. Bọn chúng đúng là những kẻ cặn bã của xã hội, vậy mà nạn nhân Haitani Shozo lại hành động chẳng khác nào loài linh cẩu, đi bợ đỡ lũ người ấy để được ăn chia.” Cuối cùng cũng thấy được mối liên quan với vụ án. Godai hơi rướn người về phía trước. “Như tôi vừa nói khi nãy, lũ người kinh doanh vô đạo đức đó lúc nào cũng chăm chăm tìm kiếm con mồi. Haitani đã tiếp cận bọn người ấy, giới thiệu cho chúng những người có thể lừa được. Trước đó hắn từng làm việc cho một công ty bảo hiểm nhân thọ, khi nghỉ việc hắn tự tiện đem theo danh sách khách hàng và dùng nó làm nguồn thông tin. Vì thế, hắn nắm rõ tuổi tác, thu nhập, tiền tiết kiệm, có khi còn biết cả thành phần gia đình của người ta. Đối với lũ người đang âm mưu những trò kinh doanh vô đạo đức thì hắn ta thực sự được việc. Haitani dẫn đám nhân viên kinh doanh của mấy công ty đó đến tận nhà những người già mà chúng đang nhắm đến, mượn việc chăm sóc khách hàng sau khi mua bảo hiểm rồi tiện thể giới thiệu đám người này cho họ luôn. Về phần mình, các ông già bà cả cứ đinh ninh công ty nọ có liên quan đến công ty bảo hiểm mà mình đang tham gia nên dễ dàng bị lừa. Chưa kể Haitani thực chất là một gã rất mồm mép. Thi thoảng hắn lại mang quà cáp đến, đối với những người già neo đơn, họ sẽ có cảm giác muốn mở lòng với gã, coi gã như người trong nhà.” Nghe xong câu chuyện của Muramatsu, Godai trộm nghĩ đúng là gã Haitani đó có bị giết cũng đáng đời. “Vậy là có thể đoán được động cơ khiến hắn bị đâm chết nhỉ?” “Đúng vậy. Phương châm của chúng tôi hồi đó tập trung chủ yếu vào việc điều tra các nạn nhân đã bị Haitani lừa gạt. Tuy nhiên, tìm hiểu ra mới biết vào thời điểm xảy ra vụ án, hóa ra rất ít người nhận ra mình hắn lừa. Trong số đó có bà lão vẫn tin tưởng hắn, nghe tin Haitani chết, bà lão còn khóc lóc, nói tại sao một người tử tế như thế lại ra nông nỗi ấy.” “Khiếp thật,” ngồi bên cạnh Godai, Nakamachi bỗng lẩm bẩm. Có lẽ cậu đang cảm thán trước những mánh khóe lừa đảo của Haitani. “Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã tìm ra một nhân vật có tên là Fukuma Junji. Người này kinh doanh một cửa hàng đồ điện ở Toyokawa, theo lời mời gọi của Haitani, anh ta đã dính vào một vụ giao dịch hợp đồng tương lai palladium. Khi đó anh ta bốn mươi bốn tuổi, thuộc vào hàng trẻ tuổi trong số những người bị hại, nhưng việc anh ta có kiến thức về điện hóa ra lại dở. Anh ta tự mình mày mò chút ít rồi cứ ngỡ palladium thực sự là một kim loại đầy hứa hẹn. Ngặt nỗi về hợp đồng tương lai thì anh ta hoàn toàn là một tay mơ. Lúc giá lên cao nhất thì anh ta bị ép phải mua vào, lúc xuống thấp nhất thì công ty lại tự tiện bán ra, cứ lặp đi lặp lại như vậy, chỉ trong nháy mắt, tài sản của anh ta đã chạm đáy. Vậy trong lúc đó công ty đã làm gì, khi Fukuma mua vào thì họ bán ra, còn lúc Fukuma bán ra thì họ lại mua vào. Trái ngược với Fukuma, họ mua vào lúc rẻ nhất và bán ra lúc đắt nhất nên đã hốt bộn tiền. Như thể Fukuma đã biếu không toàn bộ tiền của mình cho công ty vậy.” “Chúng thật xảo quyệt,” Godai nhăn mặt. “Nhưng tại sao người đó vẫn tiếp tục giao dịch?” “Vì công ty đó bảo đảm với anh ta là sẽ giữ nguyên phần vốn gốc. Có lẽ vì thế mà Fukuma nghĩ rằng cho dù không lời lãi thì số tiền mình bỏ ra vẫn sẽ trở về nguyên vẹn. Nào ngờ công ty đó lại lặn mất tăm. Đến lúc đấy Fukuma mới nhận ra mình bị lừa nên đã khiếu nại với Haitani. Anh ta bảo hắn, ‘mày rõ ràng cùng một giuộc với chúng, mau trả tiền thua lỗ cho tao đi.’ Đương nhiên, làm gì có chuyện Haitani gật đầu đồng ý. Hắn nhất mực nói mình chỉ giới thiệu thôi chứ không biết gì. Haitani có thuê một đứa cháu trai làm chân trực điện thoại cho mình, theo lời cậu ta thì Fukuma đã mấy lần tìm đến văn phòng,” Muramatsu vừa sờ vào cặp kính, vừa nhìn xuống quyển sổ. “Vào hôm xảy ra vụ án cũng có người trông thấy Fukuma. Khoảng ba mươi phút trước khi có người báo cảnh sát, Fukuma và một người giao hàng cho quán mì soba đã đi ngang qua nhau trên cầu thang bộ của tòa nhà. Dĩ nhiên chúng tôi đã yêu cầu anh ta tự nguyện ra khai báo.” “Fukuma có nhận tội không ạ?” Muramatsu liền chu môi, lắc đầu. “Anh ta thừa nhận mình đã tới văn phòng gặp Haitani. Nhưng phủ nhận việc mình là hung thủ. Anh ta chỉ đánh gã thôi.” “Sao cơ?” Godai hỏi lại. “Đánh ấy ạ?” “Hình như anh ta đã đánh gã. Anh ta thừa nhận điều đó. Ngay lập tức, anh ta bị bắt giữ vì tội gây thương tích. Trên thực tế, mặt nạn nhân có dấu hiệu bị chảy máu trong nên cảnh sát cũng suy đoán nạn nhân đã bị hung thủ đánh.” Thì ra chuyện là như vậy, Godai vỡ lẽ. Nếu vậy thì đâu thể nói là bị bắt vì vụ khác được. “Fukuma bị bắt giam từ thời điểm đó ạ?” “Đúng vậy. Sau khi chuyển hồ sơ cho Viện công tố về tội gây thương tích, họ đã tiến hành thẩm vấn Fukuma.” “Ông phụ trách cuộc thẩm vấn đó ạ?” “Không phải. Người thẩm vấn Fukuma là trung sĩ cảnh sát và hạ sĩ cảnh sát tuần tra đến từ sở cảnh sát tỉnh. Tên của họ hình như là…” Muramatsu xem lại sổ rồi nói, “Trung sĩ cảnh sát Yamashita và hạ sĩ cảnh sát tuần tra Yoshioka. Một bộ đôi nổi tiếng với những cuộc thẩm vấn rất gắt gao. Đối với những kẻ lòng vòng khai rắc rối rằng chỉ đánh chứ không đâm chết người ta, cách tốt nhất là buộc họ phải khai ra sự thật, dù có phải đe dọa. Chính vì thế, khi nghe tin bộ đôi đó phụ trách thẩm vấn, chúng tôi cũng cho là hợp lý. Chúng tôi kỳ vọng, với sự tham gia của bộ đôi đó, vụ án sẽ lập tức được giải quyết ổn thỏa. Chắc hẳn sẽ có ý kiến cho rằng cách làm đó là thô bạo nhưng các cuộc điều tra thời ấy vốn dĩ là như vậy mà.” Nói đến chuyện thẩm vấn, ông Muramatsu đột nhiên trở nên ấp úng. “Vậy là ông cũng không có mặt trong buổi thẩm vấn đó ạ?” “Không. Có điều tôi từng nghe một thư ký phụ trách ghi chép kể lại tình hình diễn ra bên trong phòng thẩm vấn. Người thẩm vấn chính là hạ sĩ cảnh sát tuần tra Yoshioka, ông ấy chất vấn nghi phạm cực kỳ hung tợn, bởi vậy Fukuma dường như đã hoàn toàn khiếp vía. Trung sĩ cảnh sát Yamashita thì quay ra quở trách Yoshioka, và nói với Fukuma bằng lời lẽ nhẹ nhàng hơn, đồng thời ngầm ám chỉ với anh ta, nếu không mau chóng khai nhận anh ta sẽ phải hứng chịu những chuyện còn khủng khiếp hơn nhiều. Viên thư ký ấy nói với tôi rằng, bị bức ép đến như thế chắc Fukuma không chịu nổi lâu đâu, sẽ phải tự thú sớm thôi. Nào ngờ…” Muramatsu buông một tiếng thở dài não nề. “Có trong mơ tôi cũng không dám nghĩ chuyện lại thành ra như vậy.” “Tôi nghe nói ông ấy đã thắt cổ tự vẫn.” “Đúng vậy. Anh ta đã cởi áo ra, cuộn dài, vắt qua sắt cửa sổ rồi treo cổ,” Muramatsu cầm tách trà lên, song có vẻ như tách trà đã cạn, sau khi nhòm vào trong, ông lại đặt xuống bàn. “Vừa rồi tôi đã giải thích những điểm chính của vụ án. Đúng là đã có những khinh suất trong công tác quản lý ở khu tạm giam nhưng về mặt điều tra, tôi nghĩ không có sai sót gì đáng kể.” Godai gật đầu. Theo những gì anh vừa được nghe thì Muramatsu nói đúng. Anh cũng hiểu vì sao vụ án được chuyển cho Viện công tố trong tình cảnh nghi phạm đã không còn và khép lại bằng quyết định không khởi tố. Muramatsu gọi vợ đang ngồi cách đó một quãng, sai bà đi pha trà, sau đó quay về phía Godai. “Cậu còn muốn hỏi điều gì về vụ án đó không?” Godai bèn dựng thẳng lưng. “Trong số những người có liên quan đến vụ án, có nhân vật nào tên là Kuraki không ạ? Tên đầy đủ là Kuraki Tatsuro.” “Kuraki,” Muramatsu nói, đoạn nghiêng đầu ngẫm nghĩ. “Chà, sao nhỉ? Nói gì thì nói vụ án cũng xảy ra hơn ba mươi năm trước rồi, trong khoảng thời gian đó tôi đã gặp không biết bao nhiêu người, nếu nhớ hết tên những người có liên quan thì đầu tôi nổ tung mất. Chí ít thì trong số những nhân vật quan trọng của vụ án đó, không có cái tên nào như vậy.” Muramatsu lấy từ trong túi giấy ra một tập tài liệu. Thế rồi, có thứ gì đấy bị lôi ra theo, rơi xuống sàn nhà. Đó là một cuốn sổ tay da nhỏ, màu đen. Muramatsu cất cuốn sổ vào túi giấy, rồi chìa tập tài liệu về phía Godai. “Đây là danh sách những người Haitani đã giới thiệu cho bọn làm ăn thất đức. Trong số này có những người rơi vào cảnh tiền thật mua của giả, rồi có những người thì vướng vào bán hàng đa cấp. Bọn đấy đúng là một phường kinh doanh lừa đảo.” Godai nhận lấy tập tài liệu, đưa cho Nakamachi. “Cậu thử tra xem trong này có tên của Kuraki không.” “Vâng ạ.” Thấy Nakamachi mở tập tài liệu, Godai bèn đưa mắt trở lại chiếc túi giấy. “Cuốn sổ khi nãy ông dùng ở hiện trường ạ?” “Cái này à?” Muramatsu cầm cuốn sổ lên. “Đúng vậy. Tôi đã đem nó đến hiện trường.” “Cho tôi xem được không ạ?” “Xin mời, cậu cứ tự nhiên. Hồi đó tôi mua tích trữ nhiều sổ loại này lắm, mỗi lần có vụ gì xảy ra là tôi lại đem theo một cuốn sổ mới.” “Ra vậy, thế cũng hợp lý ạ.” Godai mở cuốn sổ cũ ra. Trang đầu tiên có ghi dòng chữ “Đến hiện trường lúc 7 giờ 55 phút ngày 15/5, tầng 2 tòa nhà Yahagigawa, Thương mại Xanh, NN: Haitani Shozo.” “NN” có lẽ là viết tắt của từ “nạn nhân.” Chữ viết khá cẩu thả nhưng vẫn đủ để luận ra được. Nhìn nét chữ cũng có thể cảm nhận được sự cấp bách của một viên cảnh sát tức tốc lao đến hiện trường khi đang ăn dở bữa cơm tối. Trang tiếp theo có viết “Số điện thoại của Sakano Masahiko – con của em gái,” từ đoạn đó chữ viết càng ngoáy hơn nữa, rất khó đọc. “Chỗ này viết gì thế ạ?” “Đâu? Chà, xin lỗi cậu, chữ tôi xấu quá. Chỗ nào, đưa tôi xem.” Godai đưa cuốn sổ cho Muramatsu, cùng lúc đó Nakamachi ngồi bên cạnh cũng trả lại anh tập tài liệu. “Trong danh sách này không có tên của Kuraki ạ.” “Vậy à.” Godai cũng đoán trước như vậy. Theo lời kể của Muramatsu thì người bị hại chủ yếu là người già. Rất ít khả năng Kuraki – khi đó mới tầm ba mươi tuổi lại lọt vào tầm ngắm. “Đây là thông tin tôi hỏi được từ cháu trai của Haitani,” Muramatsu nói. “Vừa nãy tôi cũng nói rồi còn gì. Haitani có thuê cậu cháu, vốn là con trai của em gái làm chân trực điện thoại. Chỗ tôi viết chữ Sakano Masahiko chính là viết về cậu ta. Lúc chúng tôi chạy đến hiện trường, cậu ta đang chờ ở đấy nên ngay lúc đó tôi đã hỏi cậu ta xem đại khái đã xảy ra chuyện gì. Xem nào, ở đây tôi có viết là sau khi gọi báo cảnh sát từ bốt điện thoại công cộng, cậu ta đứng bên ngoài tòa nhà.” “Ơ?” Godai nhìn Muramatsu. “Lúc nãy ông nói người gọi báo cảnh sát đứng cạnh thi thể nạn nhân, không rời khỏi phòng kia mà?” “Tôi đã nói vậy. Trong ký ức của tôi thì đúng là như thế. Ô hay, sao lạ thế nhỉ?” Muramatsu bắt đầu lật giở cuốn sổ tay cũ của mình. Cuối cùng ông ta reo lên, “À, phải rồi. Tôi nhớ ra rồi. Xin lỗi cậu. Tôi nhầm một chút. Có hai người cơ.” “Hai người?” “Có hai người phát hiện thi thể. Một người là cháu của nạn nhân – người báo cảnh sát, còn một người nữa ở trong phòng. Xem nào, theo lời kể của cháu nạn nhân thì đó là người lái xe.” “Lái xe? Là lái xe taxi ạ?” “Không phải thế. À, ở đây có viết này,” Muramatsu đưa cuốn sổ ra xa một chút, có vẻ dù đã đeo kính lão ông ấy vẫn thấy khó đọc. “Người đàn ông gây tai nạn, đưa đón để chuộc lỗi… À, hình như có chuyện như vậy thật.” “Là chuyện gì ạ?” “Tôi không nhớ rõ lắm nhưng cũng không phải chuyện gì to tát. Haitani bị thương nhẹ trong một vụ tai nạn giao thông. Vì thế, người đàn ông gây tai nạn đã làm tài xế riêng cho anh ta tới khi vết thương khỏi hoàn toàn. Cháu trai của Haitani đã đến văn phòng cùng với người đàn ông này và phát hiện thi thể nạn nhân. Người đàn ông này không có bất kỳ vấn đề gì nên mau chóng được loại ra khỏi đối tượng tình nghi,” vừa nói Muramatsu vừa lật giở cuốn sổ soạt soạt, thế rồi đột nhiên cánh tay ấy dừng phắt lại, ông “a” lên một tiếng. “Có chuyện gì thế ạ?” Muramatsu mở to đôi mắt sau cặp kính, ông mở cuốn sổ, giữ nguyên trên tay, chìa về phía Godai, tay còn lại chỉ vào một chỗ trên trang giấy. Godai nhổm người dậy, nhòm vào cuốn sổ. Những từ rồi câu ngắn ngủn được viết một cách cẩu thả, nguệch ngoạc. Chữ nào cũng rất khó đọc nhưng riêng chữ mà Muramatsu đang chỉ vào được viết bằng chữ cứng, tương đối dễ đọc. Đó là chữ “Kuraki.” Misokatsu là món thịt heo chiên xù được phủ nước xốt làm từ tương miso, đặc sản vùng Nagoya. 9 Rời khỏi nhà Muramatsu, Katase lại tiễn Godai và Nakamachi ra tận ga Nagoya. Lần này Godai để Nakamachi ngồi ở ghế phụ, còn mình thì gọi điện về cho tổ chuyên án. “Tôi cũng đang định gọi cho cậu đây,” Sakurakawa nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe đầu đuôi chuyện của cậu đã. Nghe giọng cậu có vẻ rất phấn khích nhỉ? Cậu đã thu hoạch được gì à?” “Một sự thật đáng kinh ngạc ạ.” Godai báo cáo cho Sakurakawa những thông tin anh hỏi được từ nhà Muramatsu. “Chuyện này đúng là bất ngờ thật. Không ngờ Kuraki lại dính líu đến vụ án đó.” “Kuraki không chỉ được nhắc tới trong sổ tay của ông Muramatsu thôi đâu, sau khi tra hết các tài liệu ông ấy còn cất giữ, chúng tôi còn tìm thấy bản sao của Biên bản thỏa thuận về việc thu thập dấu vân tay. Ở đó có chữ ký viết tay của Kuraki Tatsuro. Không thể nhầm lẫn được.” “Vậy là xâu chuỗi được với quán ăn nhỏ đó rồi nhỉ? Hừm, khi giải được một câu đố là sẽ như thế này đây. Hết tấm thẻ này đến tấm thẻ khác sẽ được lật ra. “Phía anh cũng có thông tin gì rồi ạ?” “Còn hơn cả thế ấy chứ. Nhóm điều tra camera an ninh đã lập công lớn. Ngày 6 tháng Mười, Shiraishi đã vào một quán cà phê gần ga Tokyo. Camera an ninh đặt ở cửa ra vào quán đã ghi lại hình ảnh một nhân vật bước vào quán sau Shiraishi chừng hai phút. Không cần tôi nói chắc cậu cũng biết người đó là ai rồi nhỉ?” “Kuraki đúng không ạ?” “Chính hắn. Cậu hãy lập tức tới nhà Kuraki, hỏi cho ra nhẽ. Tôi cũng cử phía Tsutsui đến hỗ trợ rồi. Tôi sẽ liên lạc với cảnh sát địa phương, trong trường hợp cần thiết, cậu có thể yêu cầu Kuraki tự nguyện tới đồn cảnh sát.” “Trước khi tới nhà Kuraki, chúng ta không cần xác nhận xem ông ta đang ở đâu à?” “Không cần đâu. Nếu biết cảnh sát Tokyo tìm đến một lần nữa, chắc ông ta sẽ nhận ra là lớn chuyện rồi. Giả sử Kuraki có dính líu đến vụ án, tôi e rằng ông ta sẽ bỏ trốn. Từ chỗ bọn cậu đến nhà Kuraki gần không mà. Kể cả ông ta không có nhà thì cũng chẳng có vấn đề gì cả.” “Anh nói đúng. Chúng tôi sẽ đến đó mà không báo trước.” Godai tắt điện thoại, thuật lại nội dung cuộc trò chuyện với Sakurakawa cho Nakamachi nghe. “Xem ra cuối cùng cũng có tiến triển rồi anh nhỉ?” Ánh mắt Nakamachi sáng lấp lánh. “Cấp trên phái người tới viện trợ chắc là để canh chừng nhà Kuraki, không cho ông ta tẩu thoát. Xem ra đội trưởng đã cho Kuraki vào tầm ngắm, coi ông ta là hung thủ thực sự rồi.” “Tốt quá rồi,” ngồi ở ghế lái, Katase góp chuyện. “Không hiểu sao ngay cả em cũng thấy hồi hộp. Các anh hãy cố lên ạ.” “Cảm ơn cậu,” Godai đáp. Đến ga Nagoya, họ chào tạm biệt Katase ở cổng soát vé rồi lên tàu tốc hành Kodama hướng đi Tokyo. “Dù vậy tôi vẫn không hiểu. Vụ án xảy ra hơn ba mươi năm trước thì mắc mớ gì đến vụ án lần này,” ngồi trên băng ghế tự chọn, Godai khoanh tay lại. “Anh có tò mò chuyện đó không, đúng là Kuraki có liên quan đến vụ án ngày xưa, nhưng hình như đối với đội điều tra, ông ta không phải một nhân vật quan trọng cho lắm. Nếu ví đây như một bộ phim thì ông ta chỉ là diễn viên quần chúng. Chỉ liên quan ở mức độ đấy thôi, chẳng lẽ tới giờ ông ta vẫn chưa quên sao ạ?” “Tôi không biết. Tôi chẳng hiểu gì hết,” Godai nhún vai. Sau khi đến ga Mikawa Anjo, họ đi về phía bãi đậu taxi. Vì là lần thứ hai tới đây nên Godai đã quen. Anh nói với tài xế taxi, “Cho chúng tôi đến Sasame.” Đến trước nhà Kuraki, hai người xuống xe. Godai hít một hơi thật sâu rồi tiến về phía cổng nhà, bấm nút trên chuông đàm thoại. Nhưng chờ một lúc vẫn không thấy ai trả lời. Chắc Kuraki đi vắng. Godai và Nakamachi quay sang nhìn nhau. Đúng lúc đó. Có tiếng người nói từ đằng sau “Các anh vẫn còn chuyện gì muốn hỏi ư?” Ngoảnh lại, họ thấy Kuraki đang đứng đó. Trên tay cầm túi giấy. “Có chuyện này bằng mọi giá chúng tôi phải xác nhận lại với ông” Godai nói. “Vậy à. Nếu vậy thì mời hai anh vào. Mặc dù tôi chẳng có gì để mang ra tiếp đón cả,” Kuraki rút chìa khóa ra khỏi túi áo rồi tiến về phía hai người. Vào trong nhà, họ được dẫn tới căn phòng lần trước. Kuraki nói “Các anh đợi tôi một lát,” rồi lấy hoa tươi ra khỏi túi giấy, đặt lên bàn thờ, cuối cùng chắp hai tay lại. Godai có cảm tưởng tấm lưng ấy càng trở nên nhỏ bé hơn. “Xin lỗi hai anh,” nói rồi Kuraki ngồi xuống đối diện Godai và Nakamachi. “Ông vẫn đều đặn dâng hoa lên bàn thờ như vậy à?” Godai hỏi. “Chỉ lúc nào hứng lên thôi. Chẳng hiểu sao hôm nay tôi lại muốn làm vậy,” Kuraki cười nhạt. Dường như ông ta còn yếu ớt hơn cả lần gặp trước. “Thế các anh muốn xác nhận chuyện gì?” “Về chuyến viếng thăm Tokyo lần trước của ông. Ông nói là lên Tokyo ngày 5 tháng Mười và trở về ngay ngày hôm sau. Mục đích của chuyến đi là gì vậy?” “Chuyện đó chắc hẳn lần trước tôi đã nói với anh rồi. Tôi muốn gặp mặt con trai.” “Chỉ gặp mỗi con trai thôi ư?” “Ý anh là gì?” “Chiều tối ngày mùng 6 tháng Mười, ông đã vào một quán cà phê gần ga Tokyo, đúng không nhỉ?” Gò má Kuraki đanh lại. Ông ta tắc tị. “Chắc ông đang lấy làm lạ, không hiểu tại sao chúng tôi lại biết chuyện đó nhỉ? Mà cũng dễ hiểu thôi,” Godai vừa quan sát nét mặt của đối phương, vừa tiếp tục. “Tôi sẽ bỏ qua phần giải thích chi tiết. Tóm lại, bây giờ ở Tokyo đâu đâu cũng có camera an ninh. Xét từ mục đích tự tăng cường an ninh, việc các cửa hàng ăn uống hay cửa hàng tiện lợi lắp camera là điều đương nhiên, nhưng ngay cả trong thành phố, camera cũng được bố trí khắp mọi nơi. Trước đây điện thoại công cộng từng là một phương tiện hữu ích đối với những kẻ có ý đồ xấu. Nhưng bây giờ nó lại trở thành đồng minh đáng tin cậy của cảnh sát. Nếu biết hung thủ sử dụng điện thoại công cộng, cảnh sát sẽ phân tích hình ảnh do camera xung quanh các bốt điện thoại ở Tokyo ghi lại. Bởi xung quanh các bốt điện thoại công cộng đều có lắp camera – tỷ lệ này gần như chắc chắn đấy – hòng ghi lại hình ảnh những người sử dụng chúng. Nghĩa là ông cũng đã sa vào mắt lưới của cái xã hội mà người dân bị giám sát khắp mọi nơi. Nhân đây tôi cũng nói luôn, camera đã ghi lại rất rõ hình ảnh người mà ông gặp tại quán cà phê đó. Chắc không cần tôi phải nói nữa nhỉ? Đó chính là luật sư Shiraishi.” Kuraki không nói gì. Mắt ông ta chăm chú nhìn vào một điểm trong không trung. Nhìn vào đôi mắt ấy, rõ ràng không phải ông ta đang lơ đãng. Godai trộm nghĩ phải chăng có một sự đấu tranh nội tâm nào đó đang diễn ra. “Lần trước ông trả lời rằng mình chỉ gọi điện cho luật sư Shiraishi để xin tư vấn miễn phí chứ chưa gặp. Nhưng trên thực tế, vài ngày sau đó ông đã lên Tokyo để gặp luật sư Shiraishi. Chuyện này là thế nào? Ông có thể giải thích cho chúng tôi không?” Quả nhiên Kuraki vẫn im lặng, ngồi bất động như thể đã đông cứng. Godai ngồi xích sang vị trí có thể nhìn vào mắt Kuraki. “Chúng tôi đã gặp bà Asaba Yoko và cô Orie.” Mi mắt Kuraki khẽ cử động. “Bà Yoko nói đã tặng ông lá bùa ở chùa Tomioka Hachimangu. Có chuyện như vậy sao ông lại nói là đã quên mất. Chẳng có lý gì ông lại quên được cả.” Kuraki bèn nhắm mắt lại. Thế này thì đúng là Godai cũng không thể nhìn vào mắt ông ta được nữa. “Tại sao ông lại đến quán Asunaro? Lý do ông giấu giếm chuyện đó với cả con trai mình là gì? Không chỉ có vậy. Thậm chí ông còn giấu hai mẹ con bà Asaba một chuyện khác nữa. Ông chính là người đầu tiên phát hiện ra thi thể nạn nhân trong ‘Vụ án mạng ở văn phòng tài chính trước ga Higashi-Okazaki.’ Tại sao ông làm vậy?” “Ông Kuraki…” “Đủ rồi.” “Sao?” Kuraki nhìn về phía Godai và Nakamachi. Godai không khỏi sửng sốt. Bởi khuôn mặt ấy điềm tĩnh hơn bất cứ lúc nào. “Tất cả đều do tôi làm. Hung thủ của tất cả các vụ án đó đều là tôi.” “Tất cả nghĩa là… Không lẽ…” “Đúng vậy,” Kuraki gật đầu. “Người sát hại ông Shiraishi là tôi. Người đâm chết Haitani Shozo cũng là tôi.” 10 Chuyện xảy ra cách đây ba mươi ba năm rồi. Hồi đó tôi làm việc cho một công ty sản xuất phụ tùng tại tỉnh Aichi. Chưa có nhà riêng, hằng ngày tôi đi làm bằng ô tô từ căn hộ ở gần ga Okazaki thuộc tuyến đường sắt quốc gia. Phải rồi, hồi đó người ta vẫn còn gọi là đường sắt quốc gia chứ không phải JR. Một hôm trên đường đi làm, tôi va chạm làm bị thương một người đi xe đạp. Người đó chính là Haitani Shozo. Nói là bị thương nhưng cũng không có gì nghiêm trọng cả. Ngặt nỗi Haitani lại là một kẻ giảo hoạt và thâm độc. Thấy tôi cúi đầu nhận lỗi, hắn được đà lấn tới, đưa ra đủ thứ yêu cầu vô lý. Hắn bắt tôi phải thanh toán phí điều trị thì không nói làm gì, nhưng đó lại là một số tiền trên trời. Đã thế hắn còn bắt tôi phải đưa rước hắn đến văn phòng nữa chứ. Cuối cùng vào buổi tối hôm đó, giọt nước đã tràn ly. Hắn yêu cầu tôi trả tiền sửa chiếc xe đạp bị hỏng nhưng đó lại là một số tiền không thể chấp nhận nổi. Nhìn con số ấy mà tôi nghĩ thà mua chiếc xe mới còn hơn, máu trong người tôi dồn hết cả lên đầu. Tôi bảo hắn rằng tôi không thể trả được số tiền đó. Thế rồi Haitani nói, đã vậy hắn sẽ phanh phui chuyện tôi gây tai nạn cho công ty tôi biết. Thực ra tôi đã giấu công ty chuyện mình gây tai nạn. Bởi công ty tôi vốn là công ty con của một tập đoàn sản xuất xe hơi lớn, họ cực kỳ nhạy cảm với những vụ tai nạn giao thông do nhân viên gây ra, chỉ cần gây tai nạn một lần thôi cũng đủ ảnh hưởng đến kết quả đánh giá cho tới tận khi thôi việc. Không thể chịu nổi việc bị gã đàn ông này đeo bám thêm nữa, tôi đã cầm con dao để trong bếp của văn phòng. Tôi không định giết hắn thật, chỉ định dọa thôi. Nhưng Haitani vẫn không suy chuyển. Hắn cười hềnh hệch, thách tôi có dám thì đâm thử coi. Nhìn bản mặt của hắn, lý trí trong tôi đã bị thổi bay. Lúc nhận ra, tôi thấy Haitani đã ngã xuống đất. Tay tôi vẫn nắm chặt con dao dính đầy máu. Có vẻ như Haitani đã chết. Tôi nghĩ, vậy là mình đã gây ra chuyện tày đình mất rồi. Tôi tự nhủ trước mắt phải rời khỏi hiện trường càng nhanh càng tốt, sau khi lau sạch dấu vân tay trên con dao, tôi liền ra khỏi phòng. Rồi ngay sau khi leo lên xe của mình, tôi trông thấy cậu thanh niên trẻ tuổi, nhân viên trực điện thoại ở văn phòng của Haitani vừa đi đâu đó về. Tôi bèn xuống xe, làm như thể mình vừa mới đến, rồi cùng cậu thanh niên đó đi lên văn phòng. Bằng cách đó, tôi và cậu ta đã trở thành những người đầu tiên phát hiện ra thi thể. Dĩ nhiên tôi cũng bị cảnh sát hỏi chuyện. Nhưng có vẻ họ không nắm được bằng chứng gì đến mức coi tôi là kẻ tình nghi. Tôi không bị hạn chế đi lại, cũng không bị cảnh sát gọi lên hết lần này đến lần khác. Trong khi đó, câu chuyện lại diễn biến theo hướng không ngờ tới. Hung thủ bị bắt giữ. Đó là người đàn ông có tên Fukuma Junji, nghe nói anh ta đang xích mích với Haitani vì chuyện tiền nong. Thú thực, tôi thấy nhẹ cả người. Tôi những mong mọi chuyện sẽ được giải quyết dứt điểm. Chắc chắn bản thân Fukuma sẽ phủ nhận tội danh, nhưng cũng có khi cảnh sát không tin lời anh ta. Kết quả là điều tôi mong mỏi đã thành hiện thực. Như các anh đã biết, Fukuma tự tử, sau đó cảnh sát dừng điều tra. Kể từ hôm đó, tôi sống trong xiềng xích của tội ác tày đình. Ở một góc trong tâm trí, à không, ở ngay chính giữa tâm trí tôi, lúc nào cũng tồn tại cảm giác dằn vặt vì đã cướp đi cuộc sống của một người đàn ông vô tội. Trong tôi tràn ngập cảm giác tội lỗi. Nhưng tôi không đủ dũng khí để tự mình đi đầu thú với cảnh sát. Một phần vì sợ phải vào tù, rồi cứ nghĩ đến vợ và cậu con trai vừa chào đời là tôi lại không dám đứng ra nhận tội. Tôi không muốn vợ con mình trở thành người thân của một kẻ phạm tội. Phải đến vài năm sau tôi mới nhận ra suy nghĩ đó là một sai lầm tai hại. Hồi ấy, Nhật Bản đang ở vào thời kỳ đỉnh cao của nền kinh tế bong bóng, rất nhiều người kiếm lời từ cổ phiếu hay các giao dịch bất động sản. Giữa những ngày như thế, tôi có dịp đi công tác ở thành phố Toyokawa. Tôi tình cờ vào một quán ăn, trong lúc đang bàn chuyện đầu tư với đồng nghiệp, bà chủ quán nói với tôi một chuyện không ngờ tới. Đó là chuyện về một cửa hàng đồ điện từng mở ở thị trấn đó. Chủ cửa hàng đồ điện ấy cách đây vài năm đã bị người ta lừa vào một vụ đầu tư bịp bợm, mất hết tài sản. Không chỉ vậy, sau khi đến khiếu nại với người đứng ra làm trung gian giới thiệu vụ đầu tư, anh ta đã nổi khùng lên, đâm chết gã kia. Đã thế sau khi bị bắt giam, anh ta còn tự tử ngay trong khu tạm giam nữa. Tôi bèn hỏi bà chủ quán tên cửa hàng đồ điện đó. Nghe bà chủ đáp, nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là cửa hàng đồ điện Fukuma, tôi bỗng run lẩy bẩy. Chắc chắn là anh Fukuma đó rồi. Thế nhưng, chuyện tôi nghe được sau đó còn sốc hơn. Theo lời bà chủ quán thì vợ Fukuma đã dẫn theo cô con gái nhỏ, âm thầm rời khỏi thị trấn. Bà chủ quán nói, tất nhiên một phụ nữ không có kiến thức chuyên môn thì sao có thể kinh doanh cửa hàng đồ điện được, nhưng cốt yếu vẫn là do sức ép từ dư luận quá lớn. Chỉ vì là người nhà của kẻ sát nhân mà họ bị người ta quấy rối một cách đầy ác ý. Tôi bỗng hoa mày chóng mặt. Tôi muốn bảo vệ gia đình mình, nhưng đổi lại đã gieo rắc tai ương cho một gia đình khác. Thật không thể tha thứ được. Dù vậy tôi vẫn chưa thể quyết định một cách dứt khoát. Tôi đã ưu tiên việc bảo vệ bản thân và gia đình hơn. Tôi tự huyễn hoặc chính mình rằng đến nước này rồi có nói ra sự thật cũng không giải quyết được gì. Thế rồi thời gian lại tiếp tục trôi đi, tháng Năm năm 1999, vụ án hết thời hiệu truy tố. Tôi chẳng thấy vui vẻ gì, vẫn ở đó gặm nhấm cảm giác tội lỗi. Đúng vào khoảng thời gian này, bà nhà tôi mắc phải căn bệnh máu trắng. Vài năm sau, khi bà ấy sang thế giới bên kia, tôi thầm nghĩ đó chính là quả báo. Thay vì trừng phạt tôi thì ông trời lại cướp đi sinh mạng của bà ấy. Tôi quyết định thuê thám tử. Trước mắt tôi muốn tìm hiểu xem vợ con anh Fukuma hiện giờ đang sống ở đâu, làm gì. Tôi tìm công ty thám tử qua danh bạ điện thoại. Tôi không nhớ tên công ty đó là gì nhưng họ làm việc rất trung thực. Chỉ khoảng một tuần sau khi tôi nhờ, họ đã tìm ra thông tin, trong khi không hề đòi hỏi tôi số tiền trên trời. Theo báo cáo họ gửi cho tôi, vợ con anh Fukuma đang dùng họ cũ của người vợ là Asaba. Trong bản báo cáo có viết mẹ con họ đã mở một quán ăn nhỏ ở Monzen-Nakacho, Tokyo, cô con gái sau khi tốt nghiệp cấp ba cũng đến quán phụ giúp mẹ. Bức ảnh thám tử chụp lén ghi lại hình ảnh lúc hai mẹ con họ ra khỏi nhà. Mặc dù tuổi tác chênh lệch nhưng nét mặt và thần thái của họ giống nhau như hai chị em. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Bởi trước đó tôi cứ lo ngay ngáy, ngộ nhỡ hai mẹ con họ phải lang thang đầu đường xó chợ thì biết làm sao. Dĩ nhiên, để có được cuộc sống như hiện tại, chắc chắn mẹ con bà Asaba đã phải trải qua những cực nhọc mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Hay là thử đến một lần xem tình hình của họ ra sao. Mà không, đến lúc này rồi mình có đến cũng chẳng nghĩa lý gì. Cho dù mình có thú nhận sự thật rồi xin lỗi cũng chỉ khiến họ thấy khó chịu, vì đằng nào chẳng hết thời hiệu truy tố rồi. Họ sẽ chỉ chửi rủa mình là kẻ tự mãn mà thôi… Sau rất nhiều đắn đo, một lần nữa tôi lại không có bất kỳ hành động nào cả. Thế rồi, lại thêm mười năm nữa trôi qua, bản thân tôi cũng đến ngày về hưu. Lúc ngồi suy nghĩ xem nhân dịp này mình phải làm gì nhỉ, điều tôi nghĩ đến trước tiên chính là chuyện về ông Fukuma, à không, là chuyện về mẹ con bà Asaba. Tôi muốn chính mắt mình xác nhận xem hai người họ đang sống như thế nào. Con trai tôi lên Tokyo học đại học rồi cứ thế ở lại đó làm việc luôn. Tôi viện cớ lên Tokyo thăm con, rồi một mình đến Monzen-Nakacho dưới danh nghĩa là đi thăm thú Tokyo. Tôi đã lo lắng không biết quán ăn đó còn trụ được hay không nhưng Asunaro vẫn làm ăn thuận lợi. Trước khi bước vào quán, tôi tự dặn lòng dù có chạm trán với hai mẹ con họ cũng nhất quyết không được dao động, không được buột miệng nói ra điều gì kỳ cục. Bên trong quán có hai người phụ nữ. Mặc dù dấu thời gian đã in hằn trên nét mặt, song tôi dám chắc đó chính là mẹ con bà Asaba trong bức ảnh mà công ty thám tử gửi kèm theo bản báo cáo. Tôi phải chật vật lắm mới kìm nén được thứ gì đó đang trào dâng trong lòng mình. Nó vừa giống cảm giác vui mừng vì cuối cùng cũng gặp được những người mà mình mong gặp suốt một thời gian dài, vừa giống nỗi ăn năn khôn tả, lại vừa giống cảm giác biết ơn trời đất vì đã che chở cho họ bình an vô sự cho đến tận ngày hôm nay. Cả bà Asaba lẫn cô Orie đều tỏ ra cực kỳ niềm nở, chắc chắn họ không nhận ra thân phận thật sự của tôi. Những món ăn họ đem ra món nào cũng rất ngon, họ có thể duy trì quán ăn này suốt mười mấy năm cũng là điều dễ hiểu. Trên thực tế, ngày hôm đó khách khứa ra vào nườm nượp khiến hai mẹ con họ vô cùng tất bật. Lúc ra về, cô Orie tiễn tôi, nghe cô nói mời anh lần sau lại ghé quán ạ, thế là tôi cũng lỡ miệng đáp tôi sẽ quay lại vào ngày gần nhất. Thật vô tâm làm sao khi ngày hôm đó tôi lại hoàn toàn vui vẻ. Thế rồi, chưa đầy hai tháng sau, tôi thật sự đã quay trở lại quán Asunaro. Cả hai mẹ con đều nhớ ra tôi, họ tươi cười đón tiếp tôi. Trong tôi, cảm giác cắn rứt lương tâm chưa hề biến mất, nhưng niềm vui mà tôi có cũng là sự thật. Cứ như vậy, sau nhiều lần ghé chân, tôi đã thật sự trở thành khách quen của quán. Cách hai, ba tháng mới ló mặt đến một lần mà đã đòi làm khách ruột kể cũng hơi trơ trẽn, nhưng chắc vì thấy tôi lặn lội đường xa tới nên hai mẹ con bà Asaba cũng đối xử đặc biệt với tôi. """