" Thiên Nga Hoang Dã PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thiên Nga Hoang Dã PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tác Giả JUNG CHANG sinh năm 1952 tại Nghi Tân, Tứ Xuyên, Trung Quốc. Trong những năm Cách mạng Văn hóa (1966-1976) bà lao động như một nông dân, rồi làm một “bác sĩ chân đất” ở vùng quê, sau đó còn làm thợ điện trong một nhà máy, cho đến khi trở thành sinh viên khoa tiếng Anh tại Đại học Tứ Xuyên. Năm 1978, bà rời Trung Quốc sang Anh theo một học bổng của nhà nước, sau đó bà được trao một học bổng của trường Đại học York, tại đây bà đã giành được tấm bằng tiến sĩ về Ngôn ngữ học vào năm 1982. Bà là người đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhận được học vị tiến sĩ từ một trường đại học của Anh. Hiện Jung Chang sống tại London. Bà là đồng tác giả của cuốn tiểu sử gây nhiều tranh cãi Mao: the Unknown Story, được xuất bản năm 2005. Cuốn sách gần đây nhất của bà nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy của The New York Times: Empress Dowager Cixi: The Concubine Who Launched Modern China. Bìa Gập “Những buổi tối cuối cùng, tôi thường đi dạo quanh bờ sông uốn lượn quanh khuôn viên trường đại học. Mặt sông loang loáng ánh trăng soi, phủ mờ màn sương đêm hè. Tôi nghĩ về tuổi hai mươi sáu của mình. Tôi đã trải nghiệm đặc ân cùng việc đấu tố, can đảm cùng sợ hãi, chứng kiến sự tử tế và lòng trung thành cùng cái xấu xa trong sâu thẳm con người. Giữa đau thương, đổ nát và cái chết, trên tất cả, tôi đã hiểu được về tình yêu và khả năng vô tận của con người trong đấu tranh sinh tồn và mưu cầu hạnh phúc.” Bìa Sau một câu chuyện về ba thế hệ phụ nữ trong một gia đình Trung Quốc trải suốt thế kỷ 20, một tập hồi ức sống động và bi thương khi số phận của họ gắn liền với những biến cố lịch sử đầy thăng giáng, một hồ sơ hấp dẫn về sự tác động của các yếu nhân đối với Trung Hoa, một cửa sổ bất thường về trải nghiệm của phụ nữ khi tiến vào thế giới hiện đại, và trên hết, một tác phẩm đầy cảm hứng về lòng dũng cảm và tình yêu! “Cuốn biên niên sử gia đình của Jung Chang giống như một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự góp mặt của những vai nữ chính xinh đẹp, mạnh mẽ cùng sự xuất hiện của những người đàn ông nổi tiếng. Nhưng đó không phải là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn. Đó là câu chuyện về sự sống sót của một gia đình Trung Quốc qua một thế kỷ thảm họa.” — The New Yorker “Một câu chuyện đầy cảm hứng về những người phụ nữ đã sống sót sau mọi khó khăn, thiếu thốn và biến động chính trị mà vẫn giữ trọn vẹn được nhân tính.” — Hillary Clinton (O, THE OPRAH MAGAZINE) WILD SWANS: THREE DAUGHTERS OF CHINA by Jung Chang Copyright: © Globalflair Ltd, 1991, 2003 All rights reserved. Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2021. Tặng Bà và Cha tôi, những người đã không sống để thấy cuốn sách này. 1 “Ba tấc sen vàng” Vợ lẽ một vị tướng quân phiệt 1909-1933 Mười lăm tuổi, bà tôi trở thành vợ lẽ một viên tướng quân phiệt, người đứng đầu ngành cảnh sát của một chính phủ quốc gia yếu ớt. Đó là vào năm 1924, khi Trung Hoa đang rất hỗn loạn. Hầu khắp mọi nơi, không riêng gì Mãn Châu, nơi bà tôi sinh sống, đều bị các quân phiệt cai trị. Việc hôn phối này là do cha bà sắp xếp, ông là một viên chức cục cảnh sát ở Nghĩa Huyện, nằm ở phía Tây Nam Mãn Châu, cách Vạn Lý Trường Thành khoảng 160 km và cách Bắc Kinh 400 km về hướng Tây Bắc. Cũng như mọi thành trấn khác của Trung Hoa, Nghĩa Huyện được xây dựng như một thành trì. Nó được bao bọc bởi những bức tường cao khoảng 9 mét, dày gần 4 mét, có từ thời nhà Đường (năm 618-907 sau Công nguyên), tường thành có lỗ châu mai, có mười sáu thành lâu xen kẽ, rộng đủ để cưỡi ngựa dễ dàng trên đỉnh. Toàn thành có bốn cổng chính, trấn ở bốn điểm cực, với những cổng ngoài bảo vệ, và các công trình phòng thủ ấy được vây quanh bởi một hào sâu. Điểm nổi bật nhất của thành phố là một tháp chuông cao bằng đá đen được chạm khắc tinh xảo, xây dựng lần đầu từ thế kỷ thứ sáu khi Phật giáo du nhập vào vùng đất này. Chuông được gióng hằng đêm để báo giờ, ngoài ra tháp cũng đóng vai trò báo hỏa hoạn và lũ lụt. Nghĩa Huyện là nơi buôn bán sầm uất. Các vùng đồng bằng xung quanh trồng bông, lúa mạch, cao lương, đậu nành, vừng, lê, táo và nho. Trên những vùng đồng cỏ và các ngọn đồi phía Tây, nông dân chăn thả cừu và gia súc. Ông cố của tôi, Dương Nhữ Sơn, sinh năm 1894, thời toàn bộ nước Trung Hoa còn thuộc quyền cai trị của một vị hoàng đế sống ở Bắc Kinh. Hoàng tộc người Mãn đã chinh phục Trung Hoa vào năm 1644, bắt đầu từ vùng Mãn Châu vốn là quê hương họ. Họ Dương là người Hán, dân tộc Trung Hoa, đã mạo hiểm di cư lên phía Bắc Trường Thành để mưu sinh. Ông cố tôi là con trai duy nhất, điều này khiến ông trở thành nhân vật quan trọng số một trong nhà. Chỉ có con trai mới duy trì nòi giống gia đình, không có ông, dòng dõi xem như chấm dứt, với người Trung Hoa, điều này là tội bất hiếu lớn nhất. Ông được gửi vào một trường tốt. Mục tiêu của ông là phải đậu các kỳ thi rồi ra làm quan, niềm khát khao của hầu hết đàn ông thời đó. Làm quan sẽ mang đến quyền lực, và quyền lực mang lại tiền bạc. Không có quyền hay tiền, không người Trung Hoa nào thấy bình yên dưới sự bóc lột của chế độ quan liêu hoặc bạo loạn. Chẳng bao giờ tồn tại một hệ thống pháp lý đàng hoàng. Nền tư pháp thì độc đoán và sự tàn bạo thì vừa được thể chế hóa vừa tùy tiện thất thường. Một quan chức có quyền lực chính là luật pháp. Trở thành một vị quan là cách duy nhất để con nhà thường dân thoát khỏi vòng luẩn quẩn bất công và đầy kinh sợ này. Cha của Dương Nhữ Sơn quyết định rằng con ông sẽ không nối nghiệp mình làm nghề vải dạ gia truyền, ông và cả gia đình dồn hết tài lực lo cho cậu con học hành. Phụ nữ trong nhà khâu vá thuê cho các hiệu cắt may cả đồ nam và nữ trong vùng, làm việc cật lực đến tận khuya. Để tiết kiệm tiền, họ vặn đèn dầu tối hết cỡ, khiến mắt họ bị tổn thương kéo dài. Họ làm việc nhiều giờ liền, đến nỗi các đốt ngón tay sưng phồng lên. Theo tập tục, ông cố tôi lấy vợ sớm, khi mới mười bốn tuổi, người vợ lớn hơn ông sáu tuổi. Thời đó, người ta quan niệm rằng một trong những trách nhiệm của người vợ là giúp nuôi chồng ăn học. Câu chuyện về người vợ của ông, bà cố của tôi, tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Trung Hoa khác thời bấy giờ. Bà xuất thân từ một gia đình làm nghề thuộc da họ Ngô. Vì gia đình bà không phải trí thức cũng chẳng có chức vị, và vì là con gái, bà còn không được đặt tên. Là con gái thứ hai, bà được gọi đơn giản là Gái Hai (Nhị nha đầu). Cha mất khi bà mới lọt lòng, bà được một người chú nhận nuôi. Một ngày nọ, khi bà sáu tuổi, ông chú đi ăn với một người bạn có vợ đang mang thai. Trong bữa ăn, hai ông bạn giao ước, nếu đứa bé sinh ra là con trai thì cô cháu gái sáu tuổi sẽ được gả cho thằng bé. Hai đứa trẻ chưa hề gặp mặt nhau cho đến khi tổ chức đám cưới. Thực tế, chuyện yêu đương thời bấy giờ bị coi là điều đáng xấu hổ, một nỗi ô nhục của gia đình. Không phải vì nó là điều cấm kị - xét cho cùng thì cũng có một truyền thống thiêng liêng về tình yêu lãng mạn ở nước Trung Hoa - mà là vì những người trẻ tuổi được cho là không nên lộ mặt trong những tình huống mà tình cảm có thể nảy sinh, một phần vì việc họ gặp gỡ bị coi là trái đạo đức, một phần vì hôn nhân trên hết là một trách nhiệm, một sự sắp đặt giữa hai bên gia đình. Nếu may mắn, người ta có thể yêu nhau sau khi cưới. Ở tuổi mười bốn, sống trong sự bảo bọc của gia đình, vào thời điểm kết hôn ông cố tôi vẫn không hơn gì một đứa con nít. Đêm tân hôn, ông không chịu vào phòng cưới mà vẫn về phòng mẹ, cho đến khi đã ngủ say, người ta mới khiêng ông về với cô dâu. Tuy nhiên, dù là một đứa trẻ được nuông chiều, vẫn cần người khác giúp mặc quần áo cho, ông cố đã biết cách “tạo ra trẻ con”, theo lời bà cố tôi. Bà ngoại tôi được sinh ra khi họ cưới chưa được đầy một năm, vào ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch, đầu mùa hè năm 1909. Bà may mắn hơn mẹ mình, vì bà đã được đặt cho một cái tên: Ngọc Phương (Yu-fang). Ngọc là tên đệm của thế hệ bà, được đặt cho tất cả con cháu cùng thế hệ; còn Phương nghĩa là “mùi thơm”. Bà sinh ra trong một xã hội hoàn toàn không thể dự đoán. Triều đình Mãn Thanh, đã trị vì Trung Hoa được 260 năm, đang lung lay. Năm 1894-1895, Nhật Bản tấn công Trung Quốc ở Mãn Châu; Trung Quốc thất bại thảm hại và mất luôn vùng lãnh thổ. Năm 1900, phong trào chủ nghĩa dân tộc Nghĩa Hòa Đoàn bị Liên quân Tám nước đàn áp, một số nhóm nhỏ của Nghĩa Hòa Đoàn trụ lại, một số ở Mãn Châu, số khác ở ven Trường Thành. Vào năm 1904-1905, Nhật và Nga đánh lớn ở vùng đồng bằng Mãn Châu. Chiến thắng của người Nhật khiến họ trở thành lực lượng nước ngoài chi phối vùng Mãn Châu. Năm 1911, vị hoàng đế năm tuổi Phổ Nghi bị phế truất và nhà nước cộng hòa được thành lập, với hình tượng người đứng đầu lâm thời đầy uy tín là Tôn Dật Tiên. Chính quyền cộng hòa mới sớm sụp đổ và đất nước bị chia cắt thành những vùng lãnh địa. Mãn Châu là vùng đặc biệt bất mãn với nền cộng hòa, vì triều đình Mãn Thanh bắt nguồn từ đó. Các thế lực ngoại bang, đặc biệt là Nhật Bản, tăng cường nỗ lực xâm chiếm vùng đất này. Dưới tất cả áp lực đó, những thể chế cũ sụp đổ, dẫn đến lỗ hổng về quyền lực, hệ thống đạo đức và chính quyền. Nhiều người tìm đường thăng quan tiến chức nhờ đút lót những kẻ cầm quyền ở địa phương bằng những món quà đắt tiền như vàng bạc châu báu. Ông cố tôi không đủ giàu để mua một chức vụ hái ra tiền ở thành phố lớn, đến năm ba mươi tuổi, sự nghiệp thăng tiến của ông dừng lại ở chức vụ viên chức sở cảnh sát quê hương Nghĩa Huyện, một chốn nhà quê khỉ ho cò gáy. Nhưng ông có những dự định, và một tài sản đáng giá, đó là cô con gái. Bà ngoại tôi là một giai nhân. Bà có gương mặt trái xoan, với đôi má hồng và làn da bóng mịn. Mái tóc đen, dài óng ả của bà được bện thành bím dày chạm đến tận eo. Bà có thể tỏ ra e lệ kín đáo khi cần, mà hầu như lúc nào cũng vậy, nhưng ẩn dưới vẻ ngoài nhu mì đó, là ngập tràn những năng lượng bị kìm nén. Bà có vóc người mảnh mai, cao khoảng 1 mét 60, hai bờ vai xuôi, vốn được coi là ngoại hình lý tưởng thời bấy giờ. Nhưng thứ giá trị nhất ở bà là đôi bàn chân bó, tiếng Trung gọi là “ba tấc sen vàng” (tam thốn kim liên). Điều này có nghĩa bước chân bà “tựa nhành liễu đong đưa trong gió xuân”, như những bậc sành sỏi về phụ nữ Trung Hoa truyền thống miêu tả. Hình ảnh người con gái bước đi loạng choạng trên đôi chân bó được cho là hấp dẫn về mặt tính dục với nam giới, phần nào vì sự yếu đuối của họ khơi gợi lên cảm giác muốn che chở nơi người ngắm nhìn. Bà tôi bó chân từ năm lên hai. Mẹ bà, cũng là người có chân bó, trước tiên quấn khoảng 6 mét vải trắng quanh bàn chân bà, gập các ngón chân, ngoại trừ ngón cái, xuống lòng bàn chân. Sau đó, bà đè lên đó một tảng đá to để ép chỗ vồng lên xuống. Bà tôi thét lên đau đớn và cầu xin mẹ ngừng lại. Mẹ bà phải nhét vải vào miệng bà để bà khỏi kêu la. Bà tôi đã ngất đi nhiều lần vì đau đớn. Quá trình bó chân kéo dài đến vài năm. Thậm chí khi các đốt xương đã gãy, hai bàn chân vẫn bị bó cả ngày lẫn đêm trong những lớp vải dày, vì ngay khi được tháo ra, xương sẽ tự liền lại. Hàng năm trời bà tôi sống trong cơn đau tột đỉnh triền miên. Mỗi khi bà ngoại tôi van xin mẹ cởi lớp vải bó, mẹ bà lại rớt nước mắt và bảo rằng đôi chân không bó sẽ tàn phá cả cuộc đời bà, rằng làm vậy là vì hạnh phúc sau này của chính con gái. Thời đó, khi một người con gái lấy chồng, điều đầu tiên nhà trai làm là kiểm tra bàn chân cô dâu. Bàn chân to, nghĩa là chân bình thường, bị cho là làm xấu mặt nhà chồng. Bà mẹ chồng sẽ vén vạt váy cô dâu lên xem, nếu bàn chân nàng dài hơn 10 cm, bà ta sẽ ném vạt váy xuống đầy khinh miệt và hằm hằm bỏ đi, bỏ mặc nàng dâu giữa ánh nhìn đầy chỉ trích của quan khách, những người sẽ chằm chặp nhìn vào bàn chân nàng ta và xì xầm đầy lời khinh bỉ. Đôi khi, một bà mẹ quá xót con, đành tháo mảnh vải ra; nhưng khi cô con gái lớn lên, phải chịu đựng sự khinh rẻ của gia đình nhà chồng cũng như sự chê cười của xã hội, cô sẽ đổ lỗi cho mẹ mình vì đã quá yếu đuối. Tục bó chân bắt nguồn từ khoảng một ngàn năm trước, tương truyền là từ một cung phi của hoàng đế. Hình ảnh phụ nữ lẫm chẫm bước đi trên đôi chân bó nhỏ xíu không chỉ được coi là gợi tình, mà đàn ông còn thấy hưng phấn khi nâng niu những đôi chân luôn được giấu kín trong những đôi hài lụa thêu ấy. Phụ nữ không bao giờ được cởi lớp vải bó chân ra thậm chí cả khi họ đã trưởng thành, vì nếu cởi, chân họ sẽ lại to ra. Lớp vải bó chỉ được nới lỏng tạm thời vào ban đêm khi lên giường đi ngủ, khi đó họ sẽ mang một đôi hài khác mỏng, nhẹ hơn. Đàn ông hiếm khi thấy chân trần của phụ nữ bó chân, những đôi chân lở loét và bốc mùi nếu tháo vải bó. Tôi vẫn còn nhớ những cơn đau triền miền của bà hồi tôi còn nhỏ. Khi chúng tôi đi chợ về, việc đầu tiên bà làm là ngâm chân vào một chậu nước nóng, thở phào nhẹ nhõm rồi bắt đầu cắt bỏ những phần da chết. Cơn đau không chỉ từ những đốt xương gãy mà còn từ những móng chân mọc dài đâm vào đệm thịt dưới lòng bàn chân bà. Thực ra, bà tôi bị bó chân đúng vào lúc tục bó chân sắp bị xóa bỏ. Khi em gái bà ra đời vào năm 1917, hủ tục này hầu như đã không còn, em bà may mắn thoát nạn. Tuy vậy, thời bà tôi lớn lên, quan điểm thịnh hành ở một thành trấn nhỏ như Nghĩa Huyện vẫn là phải bó chân mới có được một cuộc hôn nhân tốt đẹp - nhưng đây chỉ là khởi đầu. Cha bà đã lên kế hoạch đào tạo con gái trở thành một quý phu nhân hoàn hảo hoặc một người tỳ thiếp quyền quý. Coi thường quan niệm phổ biến thời đó - rằng phụ nữ thuộc tầng lớp bình dân thì không biết chữ mới là đức hạnh - năm 1905, cha bà gửi bà đến trường dành cho nữ trên tỉnh. Bà tôi được học chơi cờ tướng, mạt chược và cờ vây. Bà còn được học vẽ và thêu thùa. Hình mẫu ưa thích của bà là cặp uyên ương (tượng trưng cho tình yêu vì chúng luôn bơi thành đôi), bà thường thêu một cặp lên những đôi hài nhỏ mà bà tự làm cho mình. Để cho trọn vẹn, gia đình thuê một gia sư đến nhà dạy bà chơi cổ cầm, một loại nhạc cụ tương tự đàn zither*. Bà tôi được công nhận là hoa khôi của Nghĩa Huyện, người ta nói rằng bà nổi bật như “hạc giữa bầy gà” vậy. Năm 1924, bà tôi mười lăm tuổi, cha bà bắt đầu lo rằng tuổi xuân đang trôi nhanh khỏi tài sản duy nhất của ông - cũng là cơ hội duy nhất để ông an hưởng tuổi già. Cũng trong năm đó, tướng quân Tiết Chi Hoành, Tổng Thanh tra Cảnh sát Thủ đô* của chính phủ quân phiệt ở Bắc Kinh đến thăm tỉnh. Tiết Chi Hoành sinh năm 1876 ở huyện Lư Long, cách Bắc Kinh khoảng 160 km về phía Đông, ngay phía Nam Trường Thành, nơi đồng bằng Hoa Bắc mênh mông tiếp giáp với vùng núi non. Ông là con trưởng trong số bốn con trai của một thầy giáo. Tiết Chi Hoành tướng mạo tuấn tú, thần thái oai phong khiến ai gặp cũng có ấn tượng sâu sắc. Có tới mấy thầy bói mù, sờ gương mặt ông xong đều đoán ông sẽ trở thành người có uy quyền. Ông là nhà thư pháp tài hoa, một tài năng vượt trội. Năm 1908, một vị tướng quân phiệt tên là Vương Hoài Khánh đến Lư Long, để ý thấy chữ viết tuyệt đẹp trên tấm hoành phi treo ở cổng ngôi đền chính bèn cho gọi người viết đến. Vương tướng quân rất thích chàng trai họ Tiết ba mươi hai tuổi và chiêu nạp làm sĩ quan phụ tá. Tiết Chi Hoành tỏ ra vô cùng có năng lực, và nhanh chóng được đề bạt làm sĩ quan quân nhu. Điều này có nghĩa ông phải bôn ba khắp nơi, và ông cũng bắt đầu mở các cửa hàng thực phẩm của riêng mình quanh vùng Lư Long và phía bên kia Trường Thành, ở vùng Mãn Châu. Ông thăng tiến đã nhanh lại càng nhanh khi giúp tướng Vương Hoài Khánh đàn áp một cuộc nổi dậy ở Nội Mông. Ông mau chóng sở hữu một khối tài sản lớn và đã tự thiết kế, xây cho mình một dinh thự 81 phòng ở Lư Long. Trong thập niên đầu sau khi nhà Thanh bị lật đổ, không chính phủ nào tạo lập được uy quyền đủ để khống chế cả một đất nước rộng lớn. Các quân phiệt có thế lực nhanh chóng lao vào cuộc hỗn chiến hòng giành quyền kiểm soát chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Phe của Tiết Chi Hoành, dưới sự lãnh đạo của vị quân phiệt Ngô Bội Phu, kiểm soát được chính quyền danh nghĩa ở Bắc Kinh vào đầu những năm 1920. Năm 1922, Tiết Chi Hoành trở thành Tổng thanh tra Cảnh sát Thủ đô và là một trong những người đứng đầu Bộ Công trình Công cộng tại Bắc Kinh. Ông quản hạt hai mươi khu vực ở cả hai mé Trường Thành, và hơn 10.000 kỵ binh và bộ binh. Công việc cảnh sát cho ông quyền lực, việc hành chính cho ông sự hỗ trợ về tài chính. Thời đó, lòng trung thành là thứ luôn thay đổi. Tháng Năm năm 1923, phe của Tiết quyết định loại bỏ tổng thống Lê Nguyên Hồng*, người được họ đưa lên nắm quyền mới một năm. Bằng việc liên minh với tướng Phùng Ngọc Tường, một quân phiệt theo đạo Cơ Đốc, người đi vào huyền thoại bằng cách rửa tội cho binh lính một lượt bằng vòi nước cứu hỏa. Tiết huy động 10.000 lính của mình bao vây các trụ sở cơ quan chính phủ trọng yếu ở Bắc Kinh, yêu cầu chính phủ phá sản trả nợ cho người của ông. Mục đích chính là làm nhục tổng thống Lê Nguyên Hồng, buộc ông ta phải rời nhiệm sở. Lê Nguyên Hồng không chịu từ chức, Tiết bèn ra lệnh cho thuộc hạ cắt điện, nước ở dinh tổng thống. Chỉ vài ngày sau, điều kiện sống bên trong dinh thự trở nên không thể chịu nổi, vào đêm 13 tháng Sáu, tổng thống đành bỏ dinh cơ hôi hám, trốn khỏi Thủ đô đến thành phố cảng Thiên Tân, cách khoảng 110 km về phía Tây Nam. Ở Trung Hoa, đại diện cho quyền lực của một cơ cấu không chỉ là người đứng đầu nó, mà còn có con dấu chính thức của cơ cấu ấy. Không giấy tờ nào có hiệu lực nếu không có con dấu đó, dù tổng thống đã ký vào. Biết rõ rằng chẳng ai tiếp quản được ghế tổng thống mà không có con dấu, tổng thống Lê đã để lại con dấu cho một trong những người vợ lẽ của ông khi ấy đang dưỡng bệnh trong một bệnh viện do các nhà truyền giáo người Pháp quản lý ở Bắc Kinh. Khi gần đến Thiên Tân, xe lửa chở tổng thống Lê bị cảnh sát vũ trang chặn lại, họ yêu cầu ông ta trao trả các con dấu. Lúc đầu ông ta không nói nơi giấu chúng, nhưng sau vài tiếng, ông ta đành đầu hàng. Lúc 3 giờ sáng, tướng Tiết đến bệnh viện Pháp để thu hồi các con dấu từ người vợ lẽ. Khi ông xuất hiện cạnh giường bệnh, ban đầu bà ta thậm chí còn không thèm nhìn ông: “Làm sao tôi có thể giao con dấu của tổng thống cho một gã cảnh sát quèn?” Bà ta ngạo mạn nói. Nhưng tướng Tiết, trong bộ quân phục lộng lẫy, trông quá đáng sợ nên bà ta nhanh chóng ngoan ngoãn giao bộ con dấu cho ông. Trong bốn tháng sau đó, Tiết vận dụng lực lượng cảnh sát của mình để bảo đảm rằng người mà phe ông muốn là Tào Côn sẽ thắng cử để trở thành tổng thống trong một trong những cuộc bầu cử đầu tiên ở Trung Hoa. Toàn bộ 804 nghị viên đều phải được hối lộ. Tiết và tướng Phùng cử quân canh gác quanh tòa nhà quốc hội và loan tin rằng sẽ có một khoản kha khá cho những ai bầu đúng ý họ, khiến nhiều nghị viên ở các tỉnh tức tốc tới Bắc Kinh. Vào thời điểm mọi thứ đã sẵn sàng cho việc bầu cử, có khoảng 555 nghị viên ở Bắc Kinh. Bốn ngày trước kỳ bỏ phiếu, sau nhiều phen kì kèo trả giá, mỗi nghị viên nhận được 5.000 đồng bạc đại dương, một món tiền khá hậu hĩnh. Ngày 5 tháng Mười năm 1923, Tào Côn được bầu làm Tổng thống Trung Hoa Dân quốc với 480 phiếu. Tiết được tưởng thưởng bằng việc thăng lên cấp tướng. Ngoài ra, còn có 17 “cố vấn đặc biệt” khác cũng được tưởng thưởng - đó là vợ lẽ và tình nhân thân tín của các tướng lĩnh quân phiệt. Chương này đi vào lịch sử Trung Hoa như một minh chứng xấu cho việc người ta đã thao túng một cuộc bầu cử thế nào. Người ta vẫn thường viện dẫn tình huống này để tranh cãi rằng dân chủ sẽ chẳng bao giờ thành công ở Trung Hoa. Đầu mùa hè năm sau, tướng Tiết đến thăm Nghĩa Huyện. Dù không phải thành trấn lớn, Nghĩa Huyện có tầm quan trọng chiến lược. Phạm vi thế lực của chính phủ Bắc Dương kết thúc ở khu vực này; phía Bắc là địa bàn của vị quân phiệt vùng Đông Bắc Trương Tác Lâm, được gọi Trương đại soái. Về việc công, Tiết đi tuần tra Nghĩa Huyện, nhưng ông cũng có một số việc riêng ở vùng này. Tại Nghĩa Huyện, ông sở hữu những cửa hàng lương thực chính và các cửa tiệm lớn nhất, còn có cả một tiệm cầm đồ đóng vai trò như ngân hàng và phát hành đồng tiền riêng của nó, đồng tiền này có thể dùng trong Nghĩa Huyện và một số vùng lân cận. Với ông cố ngoại tôi, đó là cơ hội duy nhất trong đời, là lần ông có thể tiếp cận gần nhất một nhân vật quan trọng thực sự. Ông ủ mưu giành cho mình việc hộ tống tướng Tiết, và bảo với bà cố tôi rằng ông đang tìm cách gả con gái cho vị tướng này. Ông chỉ nói với bà cho có chứ không cần sự đồng ý từ bà. Đây không chỉ là do tập tục thời bấy giờ, mà ông cố tôi vốn sẵn mối khinh thường vợ. Bà cố tôi khóc, nhưng không nói lời nào. Ông cấm bà không được hé nửa lời với con gái. Không việc gì phải hỏi ý kiến con gái họ cả. Hôn nhân là một cuộc giao dịch, không phải vấn đề cảm xúc. Con gái họ sẽ được thông báo khi hôn sự đã được thu xếp. Ông cố tôi hiểu rằng phải tiếp cận Tiết Chi Hoành một cách gián tiếp. Lời đề nghị thẳng thừng sẽ làm giảm giá trị của con gái ông, và cũng có khả năng viên tướng sẽ từ chối. Tướng Tiết cần có cơ hội để tình cờ gặp người đang được nhắm cho ông ta. Thời đó, con gái nhà gia giáo không thể được giới thiệu với đàn ông xa lạ, vì vậy ông Dương đã tạo cơ hội cho tướng Tiết gặp con gái mình một cách dường như hoàn toàn ngẫu nhiên. Ở Nghĩa Huyện có một ngôi chùa nguy nga, 900 tuổi, dựng bằng gỗ quý, cao đến 30 mét. Ngôi chùa tọa lạc ở một khu vực thanh nhã, với những hàng cây bách che rợp rộng gần 3 km2. Bên trong chùa có tượng Phật bằng gỗ sơn bóng, cao 9 mét, tường được trang trí bằng những bức bích họa tinh xảo kể lại cuộc đời Đức Phật. Đây quả là nơi thích hợp để ông Dương đưa khách quý đến tham quan. Và chùa chiền cũng là một trong số rất ít những nơi mà phụ nữ con nhà tử tế được phép tự lui tới. Bà tôi được bảo phải đến đó vào ngày đã định sẵn. Để tỏ lòng kính Phật, bà tắm bằng nước thơm và ngồi hàng giờ trước bàn thờ Phật nghi ngút hương khói. Để đi lễ chùa, bà cần phải ở trong một trạng thái tĩnh tâm tuyệt đối, không bị xáo trộn bởi bất cứ cảm xúc nào. Bà ngồi trên một cỗ xe ngựa đi thuê, có người hầu tháp tùng. Bà mặc áo choàng màu xanh trứng vịt, viền chỉ vàng, phía bên phải là hàng nút hình con bướm. Bên dưới là váy xếp li màu hồng, trên điểm những đốm hoa thêu nhỏ li ti. Mái tóc đen óng của bà được tết thành một bím dài, trên đỉnh đính một bông mẫu đơn bằng lụa màu xanh đậm, loại hiếm thấy nhất. Bà không trang điểm, mà chỉ ướp hương lên người, thế được cho là đúng mực khi đi lễ chùa. Khi vào trong, bà quỳ trước tượng Phật khổng lồ. Bà vái lạy bức tượng gỗ vài lần, và giữ nguyên tư thế quỳ như thế, hai tay chắp lại, cầu khấn. Trong lúc bà đang khấn, cha bà đến chùa cùng với tướng Tiết. Hai người đàn ông đứng quan sát bà trong bóng tối của gian bên cạnh. Cố ngoại tôi đã lên một kế hoạch hoàn hảo. Tư thế quỳ của bà tôi quỳ không chỉ để lộ chiếc quần lụa được viền chỉ vàng giống áo khoác, mà cả đôi bàn chân bé nhỏ ẩn trong đôi hài thêu lụa của bà. Khấn xong, bà tôi cúi lạy Phật ba lần nữa. Khi đứng dậy, bà hơi loạng choạng, không dễ gì để giữ thăng bằng trên đôi chân bị bó. Bà vội vươn ra nắm tay người hầu gái để đứng vững. Đúng lúc này, cha bà và tướng Tiết bắt đầu tiến đến. Bà đỏ mặt thẹn thùng và cúi đầu chào, rồi quay người dợm bước, một hành động đúng mực. Cha bà lúc này mới bước ra giới thiệu bà với viên tướng. Bà khẽ nhún người chào, đầu luôn cúi xuống. Vì phải tỏ ra là người có vị thế, viên tướng không nói nhiều về cuộc chạm trán này với ông cố tôi, một người có địa vị thấp hơn, nhưng ông cố tôi có thể thấy tướng Tiết đã bị mê hoặc. Bước tiếp theo là thiết kế một cuộc gặp gỡ trực diện hơn nữa. Vài ngày sau đó, ông cố tôi đánh liều với khả năng mình có thể phá sản, ông thuê rạp hát lớn nhất trong trấn và cho diễn một vở kịch hát, mời tướng Tiết đến làm khách danh dự. Như hầu hết rạp hát lộ thiên ở Trung Hoa khác, rạp hát được dựng trên một nền đất hình chữ nhật không có mái che, ba bên được làm bằng gỗ, mặt thứ tư là sân khấu, hoàn toàn trơ trọi, không có màn kéo và cảnh dựng. Khu vực ghế ngồi cho khán giả giống ở một tiệm cà phê hơn là một rạp hát kiểu phương Tây. Đàn ông ngồi ở những bàn giữa, ăn uống, và nói chuyện ồn ào trong suốt buổi diễn. Rìa ngoài, cao hơn, theo kiểu ban công rạp hát, là chỗ mà đám phụ nữ ngồi e dè ở những bàn nhỏ hơn cùng người hầu của họ. Cố tôi đã sắp xếp sao cho con gái ông ở vị trí mà tướng Tiết dễ nhìn thấy nhất. Lần này bà ngoại tôi ăn vận cầu kỳ hơn khi đi chùa. Bà mặc một chiếc váy dài bằng xa tanh thêu thùa tỉ mỉ, và cài trang sức trên tóc. Bà cũng khoe ra sự sống động, năng lượng tràn trề trong khi vui cười và đùa giỡn cùng các chị em của mình. Tướng Tiết hiếm khi nào nhìn lên sân khấu. Sau vở kịch là trò chơi Trung Hoa truyền thống, đố đèn lồng. Trò này diễn ra ở hai sảnh riêng, một cho đàn ông, một cho phụ nữ. Mỗi sảnh có hàng tá lồng đèn giấy trang trí công phu, những câu đố viết dưới dạng câu thơ được dán lên đó. Ai giải được nhiều câu đố nhất là người thắng cuộc. Phía đàn ông, tướng Tiết nghiễm nhiên là người thắng cuộc. Về phía nữ, người thắng cuộc chính là bà tôi. Lúc này ông Dương Nhữ Sơn đã để tướng Tiết có cơ hội thưởng thức nhan sắc và trí tuệ của con gái mình. Phẩm chất cuối cùng là tài năng nghệ thuật. Hai hôm sau, ông mời viên tướng đến nhà dùng cơm tối. Đó là một đêm trăng tròn ấm áp, trời quang mây tạnh, lý tưởng để thưởng thức tiếng đàn. Sau bữa tối, hai người đàn ông ngồi trên hiên nhà, còn bà ngoại tôi được cho vời lên chơi đàn ở trong sân. Ngồi dưới giàn cây, bầu không khí thoang thoảng hương hoa tử đinh hương, màn biểu diễn của bà tôi đã quyến rũ tướng Tiết. Sau này, ông thổ lộ với bà rằng bài biểu diễn dưới ánh trăng đêm đó đã hớp hồn ông. Khi mẹ tôi chào đời, ông đặt tên con gái là Bảo Cầm, có nghĩa là “cây đàn quý”. Đêm thưởng nhạc chưa tàn, viên tướng đã ngỏ lời cầu hôn, dĩ nhiên, không phải với bà ngoại tôi mà với cha bà. Ông không cưới bà về làm vợ chính thất, mà chỉ lấy bà tôi làm thiếp. Nhưng ông Dương Nhữ Sơn chỉ mong đợi từng đó. Nhà họ Tiết trước đây đã sắp xếp một đám cưới môn đăng hậu đối cho viên tướng lâu rồi. Dù gì thì nhà họ Dương cũng quá tầm thường để ông cưới con gái họ làm vợ. Nhưng lẽ dĩ nhiên, đối với những người đàn ông như Tiết Chi Hoành thì lấy thêm thiếp là chuyện bình thường. Vợ cả không phải để thỏa mãn ham muốn mà là những người thiếp. Những người thiếp cũng có thể có được quyền lực đáng kể, nhưng địa vị xã hội của họ khác xa với người vợ cả. Một người thiếp giống như một tình nhân được hợp thức hóa, lấy về bỏ đi tùy ý. Bà ngoại tôi biết mối duyên này lần đầu qua mẹ, bà cố tôi thông báo với bà chỉ vài ngày trước khi làm lễ. Bà ngoại tôi cúi đầu, quệt nước mắt. Bà ghét việc mình trở thành một người thiếp, nhưng cha bà đã quyết định, và việc cãi lại cha mẹ là điều không thể tưởng tượng ra được. Con cái chất vấn về quyết định của cha mẹ sẽ bị coi là “hỗn”, mà hỗn giống như tạo phản vậy. Thậm chí, nếu bà tôi không chịu tuân theo mong muốn của cha, cũng chẳng mấy ai quan tâm, hành động của bà sẽ được hiểu là bà làm eo, muốn ở lại bên cha mẹ. Cách duy nhất để từ chối và khiến mọi người coi việc đó là nghiêm túc, ấy là tự sát. Bà tôi cắn răng im lặng. Thực tế, bà chẳng thể nói được gì. Nếu bà có nói đồng ý thì cũng bị coi là không đúng mực, vì người ta sẽ nghĩ rằng bà ngụ ý mình háo hức muốn rời xa cha mẹ. Thấy rõ nỗi phiền muộn nơi con gái, mẹ bà nói với bà rằng đó là mối tốt nhất rồi. Cha bà đã kể cho mẹ bà nghe về quyền lực của tướng Tiết Chi Hoành: “Ở Bắc Kinh người ta nói, ‘Tiết Chi Hoành giậm chân một cái, cả thành Bắc Kinh rung chuyển.’” Thực tế, bà tôi cũng khá ấn tượng trước tướng mạo, cử chỉ oai phong của viên tướng. Và bà đã lâng lâng sung sướng bởi những lời ngưỡng mộ dành cho bà mà Tiết Chi Hoành nói với cha bà, giờ lại càng như thêu hoa trên gấm. Ở tuổi mười lăm, bà chẳng có khái niệm gì về việc trở thành một người thiếp nghĩa là thế nào, bà nghĩ mình có thể giành được tình yêu của Tiết Chi Hoành và sống hạnh phúc. Tướng Tiết nói bà có thể sống tại Nghĩa Huyện, trong căn nhà mà ông sẽ mua riêng cho bà. Điều này có nghĩa bà sẽ được sống gần gia đình, nhưng quan trọng hơn, bà sẽ không phải sống trong dinh thự của ông, nơi bà sẽ phải trình diện với vợ cả và những người thiếp khác, những người có địa vị cao hơn trong nhà. Sống trong nhà của một kẻ thống trị như tướng Tiết, phụ nữ gần như là tù nhân, đấu đá dằn vặt nhau triền miên, luôn bị tâm trạng bất an hành hạ. Thứ đảm bảo duy nhất mà họ có là sự sủng ái của chồng. Việc tướng Tiết cho bà riêng một căn nhà có ý nghĩa rất lớn với bà tôi, cũng như việc ông hứa sẽ thực hiện nghi lễ nạp thiếp long trọng như lễ cưới vợ cả vậy. Điều này có nghĩa bà và gia đình bà sẽ được nở mày nở mặt. Và còn một điều nữa hết sức quan trọng với bà, giờ đây khi cha bà đã mãn nguyện, bà mong ông sẽ tử tế hơn với mẹ mình. Bà cố Dương bị động kinh, căn bệnh luôn khiến bà cố tôi cảm thấy không xứng đáng với chồng. Bà cố tôi luôn phục tùng chồng, còn ông cố thì đối xử với bà chẳng ra gì, không bao giờ quan tâm đến sức khỏe của vợ. Trong nhiều năm liền, ông luôn đổ lỗi cho bà không sinh được con trai. Bà cố tôi đã nhiều lần sảy thai từ sau khi bà tôi ra đời, cho đến khi người con thứ hai của họ chào đời vào năm 1917, nhưng cũng lại là con gái. Ông cố tôi luôn bị ám ảnh bởi việc phải có đủ tiền để nạp thiếp. Việc gả được con gái đi đã thỏa nguyện vọng của ông, vì tướng Tiết đưa sính lễ rất rộng rãi và người hưởng lợi nhiều nhất chính là ông cố tôi. Các món sính lễ đều xa hoa đắt tiền, đủ để thể hiện thân phận và địa vị của viên tướng. Ngày rước dâu, chiếc kiệu hoa có màn che đỏ chói, nặng nề, thêu dệt tinh xảo bằng tơ tằm và xa tanh, xuất hiện trước cổng nhà họ Dương. Đi trước là đám rước dâu vác cờ xí và lồng đèn tơ tằm sơn hình phượng hoàng màu vàng kim, biểu tượng cao quý nhất của phụ nữ. Theo truyền thống, tiệc mừng diễn ra vào buổi tối, với lồng đèn đỏ rực rỡ trong sắc trời nhá nhem. Có cả một dàn nhạc nào trống, nào chũm chọe cùng những nhạc cụ chói tai khác chơi nhạc mừng. Một lễ cưới phải thật ồn ào, náo nhiệt mới được cho là tốt lành, còn một đám cưới diễn ra lặng lẽ được ngầm hiểu là có gì đáng xấu hổ cần che giấu. Bà tôi lộng lẫy trong bộ đồ cưới thêu hình rực rỡ, khăn tơ đỏ rực trùm kín đầu. Tám người đàn ông khiêng kiệu đưa bà về nhà mới. Bên trong kiệu rất nóng và chật chội, bà cẩn trọng hé rèm nhìn ra bên ngoài. Lén nhìn qua bên dưới tấm khăn trùm đầu, bà lấy làm sung sướng khi thấy người ta đứng đầy đường ngắm đám rước. Những thứ này rất khác những gì một người thiếp có thể nhận được - một chiếc kiệu nhỏ che bằng vải bông trơn màu chàm u tối, được hai hay cùng lắm là bốn người khiêng, chẳng có đám rước cũng chẳng có nhạc nhẽo gì. Kiệu hoa của bà diễu quanh Nghĩa Huyện, ghé qua cả bốn cổng thành, như một lễ rước dâu trọn vẹn, theo sau kiệu là những rương, kiện sính lễ đầy chất ngất. Sau đám rước, bà được đưa về nhà mới, một nơi rộng rãi và sang trọng. Bà tôi rất hài lòng. Sự phô trương và nghi lễ long trọng cho bà cảm giác mình có danh vọng và được tôn kính. Trong ký ức người Nghĩa Huyện, chưa bao giờ có hôn lễ nào long trọng như vậy. Khi bà về tới nhà mới, tướng Tiết Chi Hoành mặc bộ quân phục trang trọng, đang đứng đợi bà, vây quanh là chức sắc địa phương. Phòng khách, nơi họ làm lễ vái lạy thiên địa, rực sáng với nến đỏ và đèn dầu. Sau khi vái thiên địa, đôi uyên ương vái nhau, rồi theo phong tục, bà ngoại tôi một mình về phòng tân hôn, trong khi tướng Tiết ra ngoài tiệc tùng với đám đàn ông. Tướng Tiết ở nhà ba ngày liền. Bà tôi rất hạnh phúc. Bà nghĩ là bà yêu ông, ông cũng cho bà thấy một sự quan tâm theo kiểu thô lỗ. Có điều, ông hiếm khi nào nói chuyện quan trọng với bà, vì theo quan niệm truyền thống, “đàn bà tóc dài não ngắn”. Một người đàn ông Trung Hoa phải tỏ ra uy phong, kín tiếng, ngay cả ở trong gia đình mình. Nên bà giữ mồm miệng, chỉ lặng lẽ xoa bóp chân cho ông mỗi sáng trước khi họ ra khỏi giường, và chơi đàn cho ông nghe vào buổi tối. Được một tuần, ông đột ngột bảo bà rằng ông phải đi. Ông không nói sẽ đi đâu và bà cũng tự hiểu tốt nhất không nên hỏi gì. Nhiệm vụ của bà là ở nhà đợi, tới khi ông quay lại. Bà tôi đợi suốt sáu năm ròng. Tháng Chín năm 1924, chiến tranh nổ ra giữa hai phe quân phiệt ở miền Bắc Trung Hoa. Tướng Tiết được thăng chức phó tư lệnh quân đội đồn trú Bắc Kinh, nhưng ít tuần sau đó, cựu đồng minh của ông, tướng quân phiệt Cơ Đốc giáo Phùng Ngọc Tường, trở mặt. Ngày 3 tháng Mười một, Tào Côn, người được tướng Tiết và tướng Phùng góp sức đưa lên làm tổng thống năm trước, bị buộc từ chức. Cùng ngày, quân đội phòng vệ Bắc Kinh bị giải tán, hai ngày sau, Bộ Cảnh sát Bắc Kinh cũng ngưng hoạt động. Tướng Tiết phải tức tốc rời thủ đô về lánh tại một căn nhà ở Thiên Tân, trong khu nhượng địa của Pháp, nơi có đặc quyền miễn nhiễm với những diễn biến bên ngoài. Đây cũng chính là nơi tổng thống Lê Nguyên Hồng đã đến để náu mình hồi năm kia, khi Tiết Chi Hoành buộc ông ra khỏi dinh tổng thống. Cùng thời điểm, bà tôi cũng bị kẹt vào cuộc chiến mới. Khống chế vùng Đông Bắc vốn đóng vai trò sống còn trong cuộc chiến giữa các phe quân phiệt và các thành phố có đường xe lửa đi qua, đặc biệt là nút giao cắt, Nghĩa Huyện trở thành một mục tiêu tâm điểm. Không lâu sau khi tướng Tiết rời đi, chiến tranh đã lan đến cửa ngõ thành phố, những trận chiến ác liệt diễn ra ngay ngoài cổng thành. Cướp bóc lan tràn khắp nơi. Một công ty vũ khí của Ý đã quảng cáo thuyết phục các quân phiệt đang kẹt tiền mua vũ khí, rằng họ chấp nhận thế chấp bằng “làng mạc có thể cướp bóc được”. Đâu đâu cũng có kẻ hiếp dâm phụ nữ. Như nhiều phụ nữ khác, bà tôi phải lấy nhọ nồi bôi đen mặt để trông gớm ghiếc, dơ bẩn. May mắn thay, lần này Nghĩa Huyện hầu như không bị tổn hại. Cuộc chiến chuyển dần xuống phía Nam và cuộc sống trở lại bình thường. Với bà tôi, “bình thường” có nghĩa là phải tìm cách giết thời gian trong ngôi nhà rộng lớn của mình. Nhà xây theo kiểu truyền thống miền Bắc Trung Hoa, quây quanh ba cạnh của một hình tứ giác, phía Nam của sân là một bức tường cao khoảng 2 mét, có cổng tròn, mở ra một cái sân bên ngoài, bảo vệ bởi hai lớp cổng có khóa tròn bằng đồng thau. Ngôi nhà được xây nhằm chống chọi với thời tiết khắc nghiệt, lạnh thấu xương vào mùa đông, nóng như thiêu đốt vào mùa hè, và hầu như chẳng có mùa xuân hay thu xen kẽ ở nơi đây. Vào mùa hè, nhiệt độ có thể lên đến 35 độ C, còn mùa đông có khi rơi xuống âm 6 độ C, gió rét tràn xuống qua đồng bằng từ vùng Siberia. Quanh năm, bụi bám đầy mặt mũi, bụi kẹt vào hốc mắt, người ta luôn phải đội mũ trùm che kín đầu tóc. Ở sân trong của ngôi nhà, tất cả cửa sổ các phòng chính đều được mở ra hướng Nam để đón được nhiều nhất ánh sáng mặt trời, trong khi các bức tường phía Bắc hứng gió và bụi. Phía Bắc ngôi nhà gồm phòng khách và phòng ngủ của bà tôi, hai chái hai bên dành cho người hầu và các việc khác. Các phòng chính được lát gạch, cửa sổ gỗ dán giấy, mái nhà lợp ngói đen. So với mặt bằng trong vùng, ngôi nhà thuộc loại sang trọng và hơn nhiều ngôi nhà của cha mẹ bà, nhưng bà tôi luôn cảm thấy cô đơn và sầu khổ. Nhà có nhiều người hầu, gồm một người gác cổng, một đầu bếp, hai người hầu gái. Nhiệm vụ của họ không chỉ là phục vụ bà, mà còn là canh chừng và theo dõi. Người gác cổng được dặn là không để bà ra ngoài một mình trong mọi trường hợp. Trước khi rời đi, tướng Tiết đã cảnh cáo bà tôi bằng một câu chuyện về một người thiếp khác của ông. Ông phát hiện người thiếp này quan hệ bất chính với một người hầu, vậy là ông đã trói cô ta trên giường, nhét giẻ vào miệng, rồi nhỏ giọt cồn thô vào miếng giẻ, làm cô ta chết ngạt từ từ. “Dĩ nhiên, ta không cho cô ta được chết nhẹ nhàng. Vì đàn bà mà phản bội chồng là đê hèn tột bậc,” ông nói. Khi dính dáng đến chuyện gian díu ngoại tình, người như tướng Tiết sẽ căm ghét người đàn bà bội phản hơn gã đàn ông kia gấp bội. “Với tên tình nhân kia, ta chỉ cho hắn một viên đạn,” ông thản nhiên nói thêm. Bà tôi không biết những điều ông kể là thật hay bịa, nhưng ở tuổi mười lăm, bà quả thực đã bị câu chuyện làm cho khiếp hãi. Từ đó trở đi, bà luôn sống trong sợ hãi. Vì hiếm khi được ra ngoài, bà phải tự tìm vui trong bốn bức tường. Thậm chí, ngay cả ở trong đó, bà ngoại tôi cũng không phải chủ nhân thực sự của ngôi nhà, bà phải dành nhiều thời gian để lấy lòng đám người hầu, phòng khi họ dựng chuyện nói xấu bà, một hiện tượng phổ biến đến độ người ta coi nó là đương nhiên. Bà cho họ rất nhiều quà, và còn bày ra các buổi chơi mạt chược, vì người thắng cuộc luôn ban thưởng hậu hĩ cho đám người hầu. Bà tôi không bao giờ thiếu tiền. Tướng Tiết đều đặn chu cấp tiền cho bà hằng tháng qua một người quản lý tiệm cầm đồ của ông, đây cũng là người nhận các giấy nợ khi bà chơi mạt chược thua. Mở hội chơi mạt chược là một phần trong cuộc sống của những người vợ lẽ ở Trung Hoa. Thuốc phiện cũng thế, thứ này có ở khắp nơi và được coi như một phương tiện thỏa mãn của những người như bà, khiến họ trở nên lệ thuộc vào chồng bằng cách gây nghiện. Để chống chọi với nỗi cô đơn, nhiều người thiếp đã trở nên nghiện ngập. Tướng Tiết cũng khuyến khích bà tôi hút thử, nhưng bà làm ngơ. Bà chỉ được ra khỏi nhà để đi coi hát. Còn lại, bà phải ở nhà cả ngày, mọi ngày. Bà đọc rất nhiều, chủ yếu là tiểu thuyết và kịch, và chăm sóc những loài hoa yêu thích, hoa phụng tiên, dâm bụt, yên chi, mộc cận trồng trong những chậu ngoài sân, bà cũng uốn vài chậu bonsai nữa. Trong chiếc lồng son này, bà còn có một niềm an ủi nữa, đó là một chú mèo. Bà được phép thăm cha mẹ, nhưng kể cả việc này cũng không thoải mái lắm, và bà không được phép ở lại qua đêm. Mặc dù đó là những người duy nhất bà có thể chuyện trò, bà cảm thấy về thăm họ là một việc rất khó khăn. Cha bà, bởi quan hệ với tướng Tiết, đã được cất nhắc lên chức phó cục trưởng cảnh sát, và đã bắt đầu có đất đai của cải. Mỗi khi bà tôi mở miệng than khổ, ông cố lại bắt đầu thuyết giảng, rằng đàn bà đức hạnh phải biết kìm nén cảm xúc và không được đòi hỏi gì hơn ngoài phục tùng chồng. Nhớ chồng là điều chấp nhận được, đó là đức hạnh, nhưng không được than trách. Trên thực tế, một người đàn bà tử tế không nên có quan điểm, và nếu có, thì rõ ràng cô ta không nên mặt dày mày dạn mà nói ra. Để dạy dỗ bà, ông cố tôi còn dẫn một câu ngạn ngữ cổ,“Lấy gà theo gà, lấy chó theo chó”. Sáu năm trôi qua. Ban đầu cũng có vài lá thư, sau đó hoàn toàn là im lặng. Không sao đốt hết được sức trẻ hừng hực và khao khát yêu đương, cũng không thể sải dài chân bước đi do đôi chân bị bó, bà tôi chỉ biết quanh quẩn trong nhà. Lúc đầu, bà còn mong tin chồng, hồi tưởng mãi quãng thời gian ngắn ngủi sống cùng ông trong tâm trí. Nỗi nhớ giày vò bà cả thân xác lẫn tinh thần. Bà nhớ ông da diết, dù biết rõ bà cũng chỉ là một trong nhiều người thiếp của ông, có lẽ rải rác khắp cả nước, và bà chưa bao giờ tưởng tượng mình được sống trọn đời bên ông. Nhưng bà vẫn trông ngóng ông, vì Tiết Chi Hoành là cơ hội duy nhất để bà được sống cho ra sống. Nhưng rồi hết tuần này sang tháng khác, hết tháng lại sang năm, nỗi nhớ mong của bà trở nên tàn lụi. Bà bắt đầu nhận ra rằng với ông, bà không hơn gì một món đồ chơi, chỉ được để ý tới khi thuận tiện. Nỗi bồn chồn bất an của bà giờ không còn đối tượng để tập trung vào. Nó bị trói buộc lại. Mỗi khi nó trỗi dậy, bà thấy thật bí bức mà không biết phải làm sao với chính mình. Thi thoảng, bà ngã ngất trên sàn nhà. Từ đó cho đến cuối đời, bà tôi phải sống cùng những cơn choáng ngất như vậy. Rồi một ngày, sáu năm sau khi ông bình thản bước ra khỏi nhà,“chồng” bà tái xuất hiện. Cuộc gặp gỡ không giống như bà đã hình dung trong những ngày đầu hai người xa nhau. Lúc đó bà tưởng tượng mình sẽ cuồng nhiệt đam mê hiến dâng cho ông, nhưng giờ đây tất cả những gì bà cảm thấy là nghĩa vụ phải làm cho xong. Đã vậy, trong bà còn dấy lên nỗi lo liệu bà có làm phật ý kẻ hầu hạ nào không, hay họ lại tự dựng chuyện để lấy lòng viên tướng và hãm hại bà. Nhưng mọi chuyện đều êm đẹp. Vị tướng, giờ đã ngoài năm mươi, có vẻ điềm tĩnh và không còn oai phong lẫm liệt như xưa. Như bà dự đoán, ông không hề nói gì về việc ông đã ở đâu, vì sao ông thình lình bỏ đi, vì sao ông quay về, bà cũng không hoài hỏi. Ngoài lý do không muốn bị mắng vì tò mò, bà cũng chẳng còn quan tâm nữa. Thực ra, suốt thời gian đó, viên tướng chẳng đi đâu xa. Ông chỉ ở ẩn, sống đời lặng lẽ của một quan chức giàu sang về hưu, đi về giữa nhà ông ở Thiên Tân và dinh thự gần Lư Long. Thế giới nơi ông từng vùng vẫy giờ đã là quá khứ. Các thế lực quân phiệt và hệ thống lãnh địa của họ đã sụp đổ, hầu hết nước Trung Hoa giờ thuộc sự lãnh đạo của Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Để đánh dấu sự chấm dứt với quá khứ hỗn loạn, và cố tạo ra ấn tượng của một sự khởi đầu mới và của sự bình ổn, Quốc dân Đảng dời thủ đô từ Bắc Kinh (Kinh đô phía Bắc) về Nam Kinh (Kinh đô phía Nam). Năm 1928, người cầm quyền Mãn Châu, lão nguyên soái Trương Tác Lâm, bị người Nhật ám sát, Nhật Bản bắt đầu hoạt động mạnh hơn trong khu vực này. Con trai ông, thiếu soái Trương Học Lương, gia nhập Quốc dân Đảng, và chính thức sáp nhập Mãn Châu với phần còn lại của Trung Hoa, mặc dù Quốc dân Đảng chưa bao giờ thiết lập được sự quản lý hiệu quả ở Mãn Châu. Tướng Tiết về thăm bà tôi cũng không được lâu. Như lần trước, được vài ngày, ông đã đột ngột tuyên bố sẽ đi. Đêm trước khi ông rời đi, ông bảo bà đến sống với ông ở Lư Long. Tim bà như ngưng lại một nhịp. Nếu ông đã ra lệnh cho bà đi, nghĩa là bà đã nhận bản án chung thân về sống chung một mái nhà với vợ cả và những người thiếp khác của ông. Nỗi sợ hãi tràn ngập tâm trí bà. Trong khi xoa bóp chân cho ông, bà khẽ khàng cầu xin ông cho bà ở lại Nghĩa Huyện. Bà nói ông đã rất độ lượng khi hứa với cha mẹ bà là sẽ không mang bà rời xa họ, và nhẹ nhàng nhắc ông nhớ rằng sức khỏe của mẹ bà không được tốt: bà cố tôi mới vừa hạ sinh người con thứ ba, người con trai được mong đợi từ lâu. Bà tôi nói rằng bà muốn được báo hiếu cha mẹ, trong khi, dĩ nhiên vẫn hầu hạ ông, phu quân và chủ nhân của bà bất cứ khi nào ông đến Nghĩa Huyện. Ngày hôm sau bà chuẩn bị hành lý cho ông lên đường, một mình. Ngày rời đi, cũng như ngày ông đến, ông cho bà bao nhiêu là vàng bạc, châu báu, ngọc ngà. Như nhiều người đàn ông cùng thời và đẳng cấp, ông cho rằng đấy là cách giành được trái tim phụ nữ. Với những phụ nữ như bà tôi, đồ trang sức là thứ bảo hiểm duy nhất. Một thời gian ngắn sau, bà tôi nhận ra mình có thai. Ngày 17 tháng Ba âm lịch, mùa xuân năm 1931, bà hạ sinh một bé gái, chính là mẹ tôi. Bà viết thư báo tin cho tướng Tiết, và ông hồi âm bảo bà đặt tên cho con gái là Bảo Cầm, và bảo bà mang con về Lư Long ngay khi hai mẹ con cứng cáp. Bà tôi hạnh phúc tột cùng khi có con gái. Giờ đây, bà cảm thấy, cuộc sống của mình có mục đích, và dành trọn tình thương và sức lực cho mẹ tôi. Một năm hạnh phúc trôi qua. Tướng Tiết nhiều lần viết thư bảo bà về Lư Long, nhưng mỗi lần bà đều tìm cách lần lữa. Rồi một ngày, giữa mùa hè năm 1932, một bức điện tín gửi đến báo tin tướng Tiết ốm nặng và yêu cầu bà mang con về gặp ông ngay lập tức. Giọng điệu rõ ràng lần này khiến bà không thể thoái thác được nữa. Lư Long cách Nghĩa Huyện khoảng 320 km, đối với bà, người chưa từng đi đâu xa, chuyến đi là một việc lớn. Hơn nữa, với đôi bàn chân bị bó, việc đi đường xa trở nên cực kỳ khó khăn, bà gần như không thể mang vác hành lý, đặc biệt khi phải ôm theo con nhỏ. Bà tôi quyết định dẫn cô em gái mười bốn tuổi tên là Ngọc Lan mà bà quen gọi “Lan” theo cùng. Chuyến đi như một cuộc mạo hiểm. Khu vực đó lại một lần nữa rơi vào chiến loạn. Vào tháng Chín năm 1931, Nhật Bản, lúc này đã bành trướng quyền lực của mình một cách vững chãi trong khu vực, đã tổ chức một cuộc xâm lược toàn diện vào Mãn Châu, và quân đội Nhật đã đánh chiếm Nghĩa Huyện vào ngày 6 tháng Một năm 1932. Hai tháng sau người Nhật tuyên bố sự thành lập của một nhà nước mới, mà họ đặt tên là Manchukuo (Mãn Châu quốc), trải dài hầu hết vùng Đông Bắc Trung Quốc (có diện tích bằng Pháp và Đức cộng lại). Người Nhật tuyên bố rằng Mãn Châu độc lập, nhưng thực chất nó chỉ là chính phủ bù nhìn của Tokyo. Người Nhật đưa Phổ Nghi lên làm người đứng đầu đất nước, hồi còn nhỏ, ông ta từng là vị hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa. Ban đầu, ông ta được gọi là Quốc trưởng, sau đó, vào năm 1934, ông ta trở thành Hoàng đế Mãn Châu. Tất cả những điều này không ý nghĩa mấy với bà tôi, người rất ít khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Dân chúng bình thường coi người cai trị mình là do định mệnh an bài, vì họ không có lựa chọn nào khác. Với nhiều người, Phổ Nghi đương nhiên là người thống trị họ, ông ta là hoàng đế Mãn Châu và là Thiên tử. Hai mươi năm sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản, Trung Quốc vẫn chưa có một chính phủ thống nhất để thay thế sự cai trị của hoàng đế, mà ở Mãn Châu, người dân cũng không hề có khái niệm mình là công dân một đất nước tên là Trung Quốc. Vào một ngày hè oi bức năm 1932, bà tôi, em gái bà và mẹ tôi đón chuyến tàu hỏa từ Nghĩa Huyện đi xuống phía Nam, ra khỏi Mãn Châu ở thị trấn Sơn Hải Quan, nơi Vạn Lý Trường Thành kéo từ vùng núi ra biển. Khi tàu chạy xình xịch qua các vùng đồng bằng ven biển, họ có thể thấy phong cảnh thay đổi, thay cho thứ đất nâu vàng, cằn cỗi ở đồng bằng Mãn Châu, ở đây, đất có màu sậm hơn và cây cối rậm rạp, tươi tốt hơn vùng Đông Bắc. Tàu qua khỏi Trường Thành thì vào vùng nội địa, khoảng một giờ sau, nó dừng ở Xương Lê, họ xuống tàu ở một khu kiến trúc lợp mái xanh, trông như một ga xe lửa ở vùng Siberia. Bà tôi thuê một cỗ xe ngựa và đi về hướng Bắc dọc theo con đường bụi bặm, mấp mô tới dinh thự của tướng Tiết, cách đó khoảng 30 km, ngay bên cạnh một thị trấn nhỏ tên Yên Hà Doanh, vốn từng là một quân doanh quan trọng thường xuyên được các hoàng đế Mãn Châu và quần thần ghé qua. Vì vậy, con đường được đặt tên là “Ngự Đạo”. Hai bên đường rợp bóng bạch dương, lá cây màu xanh nhạt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Xa xa phía trước là những vườn đào ăn quả mọc sum suê trên đất cát. Nhưng bà tôi chẳng lòng dạ nào nhìn ngắm phong cảnh, vì người phủ đầy bụi và bị dằn xóc suốt đoạn đường gồ ghề. Mà hơn hết, bà lo lắng vì không biết những gì đang chờ đón mình phía trước. Khi lần đầu nhìn thấy dinh thự, bà đã choáng ngợp bởi sự tráng lệ hùng vĩ của nó. Cổng trước cao lớn được lính vũ trang đứng trang nghiêm canh gác, cạnh họ là bức tượng sư tử to tướng. Có một hàng tám cột đá dùng để buộc ngựa: bốn cột hình voi và bốn cột hình khỉ. Hai loại động vật này được chọn vì cái tên may mắn: trong tiếng Hoa,“tượng” và “tướng” phát âm gần giống nhau, tương tự với hầu (nghĩa là khỉ) và hầu (trong hầu tước). Khi cỗ xe đi qua cổng ngoài vào sân trong, đập thẳng vào mắt bà tôi là một bức tường trơn cao lớn, phía bên kia bức tường, bà lại thấy cánh cổng thứ hai. Đây là kết cấu xây dựng kiểu Trung Hoa điển hình, một bức tường chắn để người ngoài không thể săm soi tài sản gia chủ, đồng thời cũng khiến những kẻ tấn công không thể bắn hoặc xông thẳng vào qua cổng trước. Khi bà vừa bước chân qua cổng trong, một người hầu thình lình xuất hiện bên cạnh bà và ép bà phải đưa con gái cho người này để cô ta mang đi. Một người hầu khác dẫn bà tôi lên các bậc thang và đưa bà vào phòng tiếp khách của vợ cả tướng Tiết. Ngay khi vợ cả của Tiết Chi Hoành bước vào phòng, bà ngoại tôi liền quỳ xuống khấu đầu chào,“Thỉnh an thái thái” theo đúng phép tắc. Em gái bà không được phép vào trong mà phải đứng đợi bên ngoài như người hầu. Không có gì cá nhân ở đây cả: họ hàng của vợ lẽ vốn không được xem như thành viên gia đình. Sau khi bà tôi khấu đầu đủ lâu, bà vợ cả bảo bà tôi có thể đứng dậy, bà ta dùng một lối diễn đạt mà ngay lập tức xác lập thân phận của bà tôi trong khuôn khổ tôn ti, trật tự của gia đình, địa vị của bà còn không bằng một người thiếp, mà giống một nữ tỳ cao cấp hơn. Bà vợ cả bảo bà tôi ngồi xuống. Bà tôi phải đưa ra một quyết định nhanh chóng. Trong gia đình Trung Hoa truyền thống, chỗ ngồi của một người tự động phản ánh vị thế của người đó. Bà vợ cả ngồi ở đầu phía Bắc căn phòng, vị trí thích hợp với địa vị của bà. Bên cạnh, cách bà ta một cái bàn là một cái ghế khác, cũng hướng mặt về phía Nam: đó là chỗ của ông Tiết Chi Hoành. Dưới mỗi chiếc ghế là một hàng ghế cho những người có địa vị khác nhau. Bà tôi lùi ra sau và ngồi trên một chiếc ghế gần cửa ra vào nhất, thể hiện sự nhún nhường. Bà vợ cả bảo bà tôi nhích lên phía trước - chỉ một chút. Bà ta cần tỏ ra rộng lượng. Khi bà tôi đã yên vị, bà vợ cả nói với bà rằng từ nay trở đi, con gái bà sẽ được nuôi nấng như con ruột bà ta (bà vợ cả), và sẽ gọi bà ta, chứ không phải bà tôi, bằng “mẹ”. Bà tôi phải đối xử với đứa trẻ như với tiểu thư trong nhà, và phải cư xử đúng mực. Sau đó, một người hầu gái được gọi tới dẫn bà tôi đi. Bà cảm thấy tim mình tan nát, nhưng bà cố dằn lòng không khóc, chỉ òa lên khi về đến phòng riêng. Mắt bà vẫn còn đỏ hoe khi được đưa đến gặp người thiếp thứ hai của tướng Tiết, người được ông sủng ái cho quản lý việc nhà. Bà ta đẹp, gương mặt thanh tú, bà tôi lấy làm ngạc nhiên vì bà ta tỏ ra khá đồng cảm, nhưng bà tôi kìm lòng không khóc lóc với bà ta. Trong hoàn cảnh mới mẻ và xa lạ này, trực giác mách bảo bà tôi tốt nhất là phải cảnh giác. Cuối ngày hôm đó, bà được đưa đến gặp “chồng”. Bà được phép bế con gái theo. Viên tướng đang nằm trên kháng, loại giường được sử dụng hầu khắp miền Bắc Trung Hoa, một bề mặt rộng, phẳng, hình chữ nhật, cao gần một mét, được sưởi ấm bằng chiếc lò bằng gạch nung bên dưới. Có hai người thiếp hoặc hầu gái đang quỳ quanh ông tướng đang nằm buông thõng, xoa bóp chân và bụng cho ông. Đôi mắt Tiết Chi Hoành nhắm nghiền, trông ông vô cùng tiều tụy. Bà tôi tựa vào thành giường, khẽ gọi tên ông. Ông mở mắt và cố gắng nở nụ cười nửa miệng. Bà tôi đặt mẹ tôi lên giường và nói: “Đây là Bảo Cầm”. Dường như phải gắng hết sức, tướng Tiết mới yếu ớt xoa đầu mẹ tôi và nói: “Bảo Cầm giống em lắm, con bé rất xinh.” Rồi ông nhắm nghiền mắt lại. Bà tôi gọi ông, nhưng hai mắt ông vẫn không hé mở. Bà có thể thấy rõ là ông bệnh rất nặng, có lẽ là sắp chết. Bà bế mẹ tôi lên, và ôm thật chặt. Nhưng bà chỉ được ôm con trong tích tắc, ngay lập tức, bà vợ cả, nãy giờ vẫn luôn lượn lờ bên cạnh, sốt ruột giật ống tay áo bà. Khi ra bên ngoài, bà ta cảnh cáo bà tôi không được thường xuyên hoặc tốt hơn là không nên làm phiền lão gia. Thực ra, bà tôi chỉ nên ở trong phòng mình, trừ khi được gọi đến. Bà tôi vô cùng khiếp sợ. Là một người thiếp, tương lai của bà cũng như con gái đang lâm nguy, có lẽ thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng. Bà không có quyền gì cả. Nếu Tiết Chi Hoành qua đời, số phận bà sẽ nằm trong tay bà vợ cả, bà ta có quyền định đoạt cuộc đời bà. Bà ta muốn làm gì cũng được: bán cho một người giàu có, hay thậm chí bán vào lầu xanh, một việc khá phổ biến thời đó. Và rồi bà sẽ không bao giờ gặp lại con gái nữa. Bà biết rằng bà và con gái phải cao chạy xa bay càng sớm càng tốt. Khi trở về phòng, bà cố gắng tự trấn an mình và bắt đầu lên kế hoạch chạy trốn. Nhưng khi cố gắng suy nghĩ, bà cảm thấy đầu óc mình quay cuồng, bế tắc. Đôi chân quá yếu khiến bà chẳng thể bước đi mà không vịn vào một vật gì đó. Bà suy sụp và khóc òa lần nữa, cùng với đó là cảm giác giận dữ, vì bà không nhìn thấy lối thoát nào. Tệ nhất là ý nghĩ rằng Tiết Chi Hoành sẽ chết bất cứ lúc nào, bỏ bà mắc kẹt lại chốn này vĩnh viễn. Dần dà, bà cũng gắng tự kiềm chế, và buộc mình suy nghĩ một cách tỉnh táo. Bà bắt đầu quan sát dinh thự một cách có hệ thống. Nó được chia thành nhiều khoảng sân, nằm bên trong một khu lớn, có tường cao quây xung quanh. Thậm chí khu vườn cũng được thiết kế với tư duy ưu tiên cho an toàn hơn là thẩm mỹ. Trong vườn có vài cây bách, bạch dương và mận, nhưng không cây nào gần tường. Để đảm bảo chắc chắn rằng bất cứ tên sát thủ nào cũng không có nơi che chắn, trong vườn thậm chí không có bụi rậm to nào. Hai cánh cổng mở ra ngoài từ khu vườn luôn được khóa chặt, còn cổng chính thì có lính vũ trang canh gác cả ngày lẫn đêm. Bà tôi không bao giờ được cho phép ra khỏi khu vực có tường bao. Bà được phép tới thăm tướng Tiết mỗi ngày, nhưng chỉ là những chuyến thăm được sắp xếp cùng vài người phụ nữ khác, bà xếp hàng đi qua giường ông và thì thầm, “Thỉnh an lão gia”. Trong thời gian này, bà bắt đầu có một ý niệm rõ hơn về tính cách của từng người trong nhà. Ngoài bà vợ cả, người đàn bà có thế lực nhất là người thiếp thứ hai. Bà tôi phát hiện ra bà ấy bảo đám người hầu đối xử tử tế với mình, điều này khiến tình cảnh của bà tôi dễ chịu hơn nhiều. Trong một gia tộc như vậy, thái độ của người hầu tùy vào vị thế của những người họ phải phục vụ. Những ai được yêu chiều, họ sẽ bợ đỡ, còn ai thất sủng sẽ bị họ ăn hiếp. Bà thiếp thứ hai có một con gái lớn hơn mẹ tôi một chút. Điều này tạo thêm mối gắn kết giữa hai người phụ nữ. Đồng thời, đây cũng là lý do khiến bà này được tướng Tiết sủng ái hơn, ngoài mẹ tôi và con gái bà kia, ông không có người con nào khác. Một tháng sau, mối quan hệ giữa hai người thiếp trở nên khá thân, bà tôi đến gặp bà vợ cả xin phép về nhà lấy thêm quần áo. Bà ta đồng ý, nhưng khi bà tôi hỏi xem có thể mang con gái về chào tạm biệt ông bà không thì bà ta từ chối. Không được phép mang giọt máu nhà họ Tiết ra khỏi dinh thự. Thế là bà tôi một mình lên đường, lần lại con đường đầy bụi bặm đến Xương Lê. Khi người đánh xe thả bà xuống ga xe lửa, bà bắt đầu dò hỏi những người xung quanh. Bà tìm được hai phu ngựa sẵn sàng phục vụ theo ý bà. Đợi đến khi đêm xuống, bà cùng họ chạy ngược trở về Lư Long theo đường tắt. Một người đặt bà tôi ngồi trên yên ngựa và chạy đằng trước dắt dây cương. Khi họ đến dinh thự, bà đi ra cổng sau và phát ra ám hiệu đã hẹn trước. Chỉ chờ đợi vài phút mà bà cảm thấy như đã hàng giờ, rồi cánh cổng xịch mở, em gái bà xuất hiện dưới ánh trăng, bế mẹ tôi trên tay. Cánh cổng đã được bà thiếp thứ hai mở sẵn, khi đó bà ấy đã dùng một chiếc rìu bổ vào, để nó trông giống như bị phá ra. Bà tôi hầu như không có thời giờ ôm lấy con dù chỉ một cái, ngoài ra, bà cũng không muốn đánh thức mẹ tôi dậy, phòng khi mẹ tôi khóc toáng lên, báo động cho bọn lính gác. Bà tôi và em gái trèo lên yên hai con ngựa đang chờ sẵn, còn mẹ tôi được một phu ngựa địu sau lưng, họ lao đi trong đêm tối. Những phu ngựa đã được trả hậu hĩ, chạy rất nhanh. Khi bình minh vừa ló rạng, họ đã có mặt ở Xương Lê, và trước khi mọi chuyện bị phát giác, họ đã đáp chuyến tàu về phía Bắc. Khi con tàu rốt cuộc cũng chạy vào địa phận Nghĩa Huyện trong buổi hoàng hôn, bà tôi đổ vật xuống sàn, nằm bất động rất lâu, không thể nhúc nhích nổi. Bà tôi đã tương đối an toàn, họ đang ở ngoài Lư Long khoảng hơn 300 km và thực sự ngoài tầm kiểm soát của nhà họ Tiết. Bà không thể mang mẹ tôi về nhà vì sợ đám người hầu, nên đã nhờ một người bạn học cũ giấu mẹ tôi đi. Người bạn đó sống trong nhà cha chồng, một bác sĩ người Mãn Châu tên là bác sĩ Hạ, ông nổi tiếng là người tốt bụng và không bao giờ quay mặt với bạn bè hay phản bội họ. Nhà họ Tiết chẳng quan tâm mấy đến một người thiếp con con như bà tôi để mà truy đuổi. Điều họ quan tâm chính là mẹ tôi, dòng dõi nhà họ Tiết. Bà tôi đánh một bức điện về Lư Long nói rằng mẹ tôi đã ngã bệnh trên xe lửa mà chết. Sau đó là thời gian chờ đợi giày vò, suốt thời gian đó tâm trạng bà tôi dao động dữ dội. Đôi khi bà cho rằng gia đình hẳn sẽ tin câu chuyện của bà. Lúc khác bà lại bị giày vò bởi ý nghĩ không phải như thế và họ đang sai người bắt bà hoặc con gái về. Cuối cùng bà tự trấn an mình rằng nhà họ Tiết quá bận rộn với cái chết đang chực chờ của lão gia, chẳng có thời gian nghĩ tới bà, và có lẽ sự có mặt của con gái bà sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của những người phụ nữ đó. Khi nhận thấy rằng nhà họ Tiết đã để yên cho bà, bà tôi lặng lẽ trở về nhà mình ở Nghĩa Huyện cùng con gái. Bà thậm chí cũng không lo lắng về đám người hầu vì biết “chồng” mình sẽ chẳng quay lại. Phía Lư Long im hơi lặng tiếng hơn một năm, một ngày thu năm 1933, một bức điện tín gửi đến báo tin tướng Tiết đã chết, và bà tôi cần phải có mặt ở Lư Long ngay lập tức để dự lễ tang. Viên tướng chết ở Thiên Tân vào tháng Chín. Thi hài ông được đưa về quê nhà ở Lư Long trong một cỗ quan tài sơn mài, bên ngoài phủ lụa thêu màu đỏ. Theo cùng còn có hai quan tài nữa, một cũng bằng sơn mài phủ lụa đỏ giống như quan tài của ông, cái còn lại bằng gỗ trơn và không phủ vải. Cỗ quan tài thứ nhất chứa thi hài một người thiếp của ông, bà ta đã nuốt thuốc phiện để theo ông vào cõi chết. Đây được coi là biểu hiện của tấm lòng trung trinh. Về sau, một tấm biển do vị tướng quân phiệt nổi tiếng Ngô Bội Phu viết ca ngợi bà ta đã được treo lên trong dinh thự nhà họ Tiết. Cỗ quan tài thứ hai chứa thi hài một người thiếp khác, hai năm trước bà này chết vì bệnh thương hàn. Thi thể bà ta bị quật lên để chôn cùng Tiết Chi Hoành theo phong tục. Quan tài của người thiếp này chỉ bằng gỗ trơn, vì bà ta chết do căn bệnh quái ác, và bị cho là không may mắn. Thủy ngân và than củi được bỏ vào trong các quan tài để ngăn thi thể bị thối rữa, và các xác chết có ngọc trong miệng. Tướng Tiết và hai người thiếp được chôn cùng một huyệt mộ; bà vợ cả và những người thiếp còn lại sau này sẽ được mai táng bên cạnh họ. Trong tang lễ, nhiệm vụ quan trọng nhất - giữ một lá cờ đặc biệt để gọi hồn người đã khuất - phải được con trai ông ta thực hiện. Vì tướng Tiết không có con trai, vợ ông đã nhận nuôi đứa cháu mười tuổi của ông để cậu bé làm nhiệm vụ này. Cậu bé còn thực hiện nghi lễ quỳ lạy bên cỗ quan tài và hô to “Tránh đinh tránh đinh!” Theo dân gian, nếu không làm điều này, người chết có thể bị đinh đóng nắp quan tài làm đau. Huyệt mộ đã được chính tướng Tiết chọn từ trước theo phong thủy. Đó là một khu đất yên tịnh, thế đất đẹp, lưng tựa vào vách núi hướng về phía Bắc còn mặt tiền hướng về một dòng suối nằm len giữa những hàng khuynh diệp ở phía Nam. Vị trí này thể hiện niềm mong muốn có một hậu phương vững chắc để dựa vào, chính là dãy núi, và hình ảnh phản chiếu của mặt trời rực rỡ, tượng trưng cho sự phát triển thịnh vượng, ở phía trước. Nhưng bà tôi chưa bao giờ thấy khu mộ đó: bà làm ngơ, và không có mặt ở đám tang. Sau đó, người quản lý tiệm cầm đồ không đưa cho bà tiền sinh hoạt nữa. Một tuần sau, cha mẹ bà nhận được một bức thư từ bà vợ cả. Di ngôn của ông ngoại tôi là trả tự do cho bà ngoại. Điều này, xét trên quan niệm thời bấy giờ, là một quyết định cực kỳ cấp tiến, đến mức bà tôi không thể tưởng tượng được mình may mắn đến vậy. Bước vào tuổi hai mươi tư, bà tôi hoàn toàn tự do. 2 “Thậm chí nước lã cũng ngọt” Bà tôi kết hôn với một bác sĩ người Mãn Châu 1933-1938 Bức thư của vợ cả tướng Tiết cũng yêu cầu cha mẹ bà tôi mang con về. Mặc dù lời lẽ trong thư, theo cung cách truyền thống, chỉ bóng gió xa xôi, bà tôi hiểu rằng mình phải dọn ra khỏi ngôi nhà đang ở. Cha bà đã nhận bà về, nhưng rất miễn cưỡng. Lúc này ông cố ngoại đã thôi không còn ra vẻ là người cha gương mẫu của gia đình nữa. Từ lúc kết thân với tướng Tiết, ông cố đã thăng tiến. Ông được thăng chức Cục phó Cục Cảnh sát Nghĩa Huyện, đồng thời gia nhập vào giới quảng giao, trở nên khá giàu có, tậu thêm đất và bắt đầu hút á phiện. Ngay khi được thăng chức, ông đã có thêm một người thiếp, một phụ nữ Mông Cổ, được cấp trên trực tiếp của ông tặng cho. Thời bấy giờ, tặng thiếp cho một đồng nghiệp đang lên là thông lệ, và viên cục trưởng cảnh sát thì lấy làm vui vẻ gia ân cho người của tướng Tiết. Nhưng ông cố tôi cũng nhanh chóng kiếm được một người thiếp khác; với những người có địa vị như ông cố, càng nhiều thê thiếp càng chứng tỏ vị thế của mình. Ông cũng không phải tìm đâu xa, người thiếp đầu tiên của ông có một em gái. Khi bà ngoại tôi trở lại nhà cha mẹ, hoàn cảnh gia đình đã khác nhiều so với khi bà đi lấy chồng gần mười năm trước. Thay vì chỉ có người mẹ tội nghiệp, bị ức hiếp của bà, giờ đây cha bà đã có đến ba vợ. Một trong hai người thiếp đã sinh một con gái, tuổi xấp xỉ mẹ tôi. Em gái bà tôi, dì Lan, bấy giờ đã gần mười sáu tuổi, và vẫn chưa lấy chồng, điều này cũng khiến cha bà cáu bẳn. Bà tôi trải qua hết ngỡ ngàng này đến ngạc nhiên khác. Cha bà oán giận cả vợ và con gái. Ông cố bực bội với vợ đơn giản vì sự tồn tại của bà, ông càng ghét bà khi có thêm hai người thiếp mà ông sủng ái hơn. Ông ăn cơm cùng họ, bỏ mặc vợ ăn một mình. Về phần bà tôi, ông cố giận bà vì quay lại khi ông đã tạo dựng được một thế giới mới cho riêng mình. Ông cố cũng coi bà tôi như một vận rủi (khắc chồng) vì chồng bà đã chết. Ngày đó, những phụ nữ có chồng mất sớm bị người đời mê tín cho rằng họ đã gây ra. Ông cố tôi coi con gái là điềm xấu, mối đe dọa cho sự nghiệp của ông, và ông muốn tống khứ bà tôi ra khỏi nhà. Hai người thiếp còn xúi giục thêm. Trước khi bà tôi trở về họ đã nắm hết mọi thứ ở trong nhà. Bà cố tôi rất hiền, thậm chí là yếu đuối. Mặc dù, về mặt lý thuyết, địa vị của bà cao hơn hai người thiếp, nhưng bà lại thường bị họ ức hiếp. Năm 1930, bà cố tôi hạ sinh một người con trai, tên là Ngọc Lâm. Điều này tước đi sự đảm bảo tương lai của hai người thiếp, vì khi ông cố tôi qua đời, toàn bộ gia sản nghiễm nhiên sẽ thuộc về con trai. Họ luôn nổi giận mỗi khi thấy ông cố Dương Nhữ Sơn chiều chuộng con trai. Kể từ khi cậu Ngọc Lâm ra đời, họ dấn thêm một bước trong cuộc chiến tâm lý nhằm vào bà cố tôi, cô lập bà cố trong chính ngôi nhà của bà. Họ chỉ nói với bà cố khi đay nghiến, than phiền, và lúc nào cũng nhìn bà bằng vẻ mặt lạnh lùng, cay nghiệt. Bà cố tôi chẳng nhận được một sự ủng hộ nào từ chồng, ông vẫn luôn khinh thường vợ và không hề đoái hoài đến bà dù thực tế bà đã sinh được cho ông một mụn con trai. Ông cố tìm ra những cách mới để gây chuyện với vợ. Bà ngoại tôi mạnh mẽ hơn mẹ của mình, và nỗi thống khổ trong hơn mười năm qua đã làm bà tôi thêm cứng rắn. Thậm chí ông cố cũng có phần nể bà. Bà tôi tự nhủ rằng những ngày quỵ lụy cha đã qua rồi, giờ đây bà phải đấu tranh cho mẹ và cho chính bản thân mình. Vì bà tôi có mặt ở nhà, những người thiếp đã phải kiềm chế bản thân, thậm chí họ còn thỉnh thoảng nở nụ cười lấy lòng nữa. Đấy là bầu không khí mà mẹ tôi đã sống trong khoảng từ khi lên hai đến năm bốn tuổi. Mặc dù được bảo bọc bằng tình yêu thương của bà ngoại, mẹ tôi vẫn cảm nhận được bầu không khí căng thẳng luôn bao trùm cả nhà. Bà ngoại tôi khi đó là một phụ nữ trẻ xinh đẹp đang giữa độ tuổi đôi mươi. Bà còn có tài thơ ca nhạc họa, nên vài người đã ngấp nghé đánh tiếng với cha bà. Nhưng vì bà đã từng làm thiếp, nên những người hỏi cưới bà làm vợ đều nghèo, và không có cơ hội được ông cố Dương đồng ý. Bà tôi đã hứng chịu đủ thù hận, căm ghét trong thế giới của những người làm thiếp, chỉ có một lựa chọn, hoặc là nạn nhân hoặc biến người khác thành nạn nhân, không có chỗ cho sự thỏa hiệp. Điều duy nhất bà tôi mong muốn là được bình yên nuôi con gái. Cha bà liên tục hối thúc bà tái hôn, lúc thì thể hiện bằng những lời bóng gió chướng tai, nhiều lúc lại nói thẳng rằng bà phải cuốn gói đi. Nhưng bà tôi không có chỗ nào mà đi. Bà không có chỗ ở, và cũng không được phép đi làm. Sau một thời gian, không chịu nổi áp lực, bà bị suy sụp tinh thần. Người ta phải gọi bác sĩ đến khám. Đó chính là bác sĩ Hạ, mẹ tôi đã được giấu tại nhà ông ba năm trước, sau khi trốn khỏi dinh thự của tướng Tiết. Mặc dù bà tôi là bạn của con dâu bác sĩ Hạ, ông chưa hề gặp bà tôi do quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” thời đó. Khi bác sĩ bước vào phòng bà tôi lần đầu tiên, ông đã quá ngỡ ngàng trước nhan sắc của bà, đến nỗi quay thẳng ra ngoài và lầm bầm với người hầu rằng ông không được khỏe. Cuối cùng, khi bình tâm trở lại, ông ngồi xuống và trò chuyện với bà một lúc lâu. Bác sĩ Hạ là người đàn ông đầu tiên mà bà tôi có thể thổ lộ cảm giác thật của mình, và bà trút tâm sự về nỗi sầu khổ cũng như hy vọng của mình với ông, dù vẫn giữ kẽ, đúng mực như một phụ nữ nói chuyện với một người đàn ông không phải chồng mình. Vị bác sĩ rất tốt bụng và ân cần, bà tôi chưa từng có cảm giác được ai đó hiểu đến vậy. Không lâu sau, họ yêu nhau, và bác sĩ Hạ ngỏ lời cầu hôn. Hơn thế, ông còn muốn bà tôi trở thành chính thất và sẽ nuôi nấng mẹ tôi như chính con gái ông. Bà tôi đồng ý, nước mắt tuôn trào vì hạnh phúc. Ông cố Dương cũng vui vô cùng, dù ông cũng nhanh nhẹn nói luôn với bác sĩ Hạ rằng ông không có khả năng cho con gái của hồi môn nào nữa. Vị bác sĩ nói ông hoàn toàn không quan tâm chuyện đó. Ở Nghĩa Huyện, bác sĩ Hạ có một phòng khám y học cổ truyền khá lớn và có tiếng là người có y thuật cao. Ông không phải người Hán như nhà họ Dương và hầu hết những người khác ở Trung Hoa, mà là người dân tộc Mãn, một trong những sắc dân bản địa của vùng Mãn Châu. Từng có thời, gia tộc của ông làm thái y cho hoàng đế Mãn Châu, và đã được phong thưởng vì phục vụ tốt. Bác sĩ Hạ Thụy Đường được biết đến không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một người tốt bụng, ông thường chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Ông là người cao lớn, cao trên 1m82, nhưng trái với khổ người, động tác của ông lại nhẹ nhàng thanh thoát. Ông luôn mặc trường bào và áo khoác* truyền thống. Ông có đôi mắt nâu đôn hậu, chòm râu dài và ria mép dài rủ xuống. Gương mặt và cử chỉ của ông đều toát lên vẻ điềm tĩnh. Khi ngỏ lời cầu hôn bà tôi, bác sĩ Hạ đã già. Ông đã sáu mươi lăm tuổi, góa vợ, có ba con trai và một con gái đều đã trưởng thành và lập gia đình. Ba người con trai đều sống cùng nhà với ông. Người con trưởng cai quản việc nhà và coi sóc đồng ruộng của gia đình, người con kế làm việc trong phòng khám của cha, còn người thứ ba, chồng bạn học của bà tôi, thì là giáo viên. Cả ba có tám người con, một trong số đó đã có kết hôn và có một đứa con trai. Bác sĩ Hạ gọi các con trai đến thư phòng của ông và nói với họ ý nguyện của mình. Tất cả đều không tin vào tai mình, lặng lẽ nhìn nhau. Một sự im lặng nặng nề bao trùm. Rồi người con trưởng nói, “Thưa cha, con cho rằng ý cha là muốn người đó về làm thiếp đúng không ạ.” Bác sĩ Hạ trả lời rằng ông muốn lấy bà tôi về làm phu nhân của ông. Điều này sẽ dẫn đến một hệ quả rất kinh khủng, vì bà tôi sẽ thành mẹ kế của họ, và sẽ phải được đối xử như một người bề trên, với sự tôn kính ngang với chồng bà. Trong một gia đình truyền thống Trung Hoa bình thường, người bề dưới phải vâng lời người bề trên, cư xử sao cho đúng phép tắc tôn ti trật tự trong nhà, nhưng bác sĩ Hạ còn tuân theo một hệ thống nghi thức còn phức tạp hơn nữa của người Mãn Châu. Con cái phải bày tỏ sự yêu kính bề trên vào mỗi sáng sớm và chiều tối, đàn ông quỳ gối, còn phụ nữ nhún người. Vào dịp lễ tết, đàn ông còn phải khấu đầu sát đất. Sự thực bà tôi từng làm thiếp, cộng với khoảng cách tuổi tác, có nghĩa họ phải bày tỏ lòng kính trọng với một người địa vị thấp kém hơn và trẻ hơn họ rất nhiều, đó quả là điều quá sức chịu đựng với những người con trai. Bọn họ lôi kéo tất cả những người còn lại trong gia đình và tỏ ra mình bị lăng nhục. Thậm chí người con dâu bạn học cũ của bà tôi cũng khó chịu, vì hôn sự của cha chồng sẽ đẩy bà vào một mối quan hệ mới hoàn toàn với người bạn học cũ. Bà sẽ không được ăn cùng bàn như một người bạn cũ, hay thậm chí là ngồi cùng, bà sẽ phải quỳ trong khi chờ đợi, và còn phải khấu lạy bà ngoại tôi nữa. Mỗi thành viên trong nhà: con trai, con dâu, cháu nội, thậm chí cả đứa chắt đã thay phiên nhau cầu xin ông “nghĩ đến cảm nhận” của “ruột rà máu mủ”. Họ quỳ xuống, phủ phục mình cúi lạy, khóc lóc và gào thét. Họ van xin bác sĩ Hạ xét lại sự thực rằng ông là người Mãn, và theo tập tục xưa của dân tộc Mãn thì người ở địa vị như ông không nên cưới một người Hán. Bác sĩ đáp lại rằng quy định này đã được bãi bỏ từ lâu. Các con ông nói rằng, nếu ông là một người Mãn chân chính, ông vẫn nên tuân theo tập tục này. Họ tiếp tục nói mãi về khoảng cách tuổi tác giữa hai người. Bác sĩ Hạ hơn gấp đôi tuổi bà tôi. Một người trong nhà còn nhắc lại câu nói của người xưa: “Vợ trẻ chồng già thực ra là vợ người ta.” Điều làm bác sĩ Hạ đau lòng hơn là sự khủng bố tinh thần từ phía người thân, nhấn mạnh rằng việc cưới một người từng làm thiếp cho người ta về làm vợ sẽ ảnh hưởng đến vị trí của con cái ông trong xã hội. Ông biết các con ông sẽ mất mặt, và ông thấy có lỗi về điều này. Nhưng bác sĩ Hạ cảm thấy ông phải đặt hạnh phúc của bà tôi lên trước. Nếu ông lấy bà về làm thiếp, bà sẽ không chỉ mất thể diện mà còn trở thành nô tỳ cho cả gia đình. Chỉ tình yêu của ông không đủ để bảo vệ bà nếu bà không trở thành vợ chính thức của ông. Bác sĩ thỉnh cầu gia đình hãy chấp nhận ước nguyện của một ông già. Nhưng bọn họ cũng như xã hội bấy giờ coi đó là một ước nguyện vô lý và không thể chấp nhận được. Một số người bóng gió rằng ông đã lú lẫn. Những người khác thì bảo, “Ông đã có con cái, cháu chắt đề huề, một đại gia đình giàu có. Ông còn trông mong gì hơn? Vì sao ông phải cưới cô ta?” Cuộc tranh cãi kéo dài triền miên. Ngày càng nhiều họ hàng và bạn bè ra mặt phản đối, tất cả đều do các con trai ông mời đến. Họ nhất trí cho rằng cuộc hôn nhân là một ý tưởng điên rồ. Rồi họ chĩa nanh vuốt sang bà tôi. “Tái giá khi xác chồng cũ còn chưa kịp lạnh!” “Người đàn bà đó đã rắp tâm rồi: không chịu làm thiếp để có thể trở thành chính thê đây mà. Nếu cô ta yêu cha, tại sao cô ta không bằng lòng làm thiếp?” Họ đặt điều cho bà tôi: bà mưu mô để bác sĩ Hạ cưới bà, sau đó nắm quyền cả gia cang nhà ông, rồi thì sẽ đối xử tệ bạc với con cái, cháu chắt ông. Họ còn bóng gió rằng bà tôi đang ngấm ngầm âm mưu thọc tay vào túi tiền cha họ. Ẩn dưới tất cả những gì họ nói về sự mẫu mực, đạo đức và danh thơm tiếng tốt của bác sĩ Hạ, là những toan tính không nói ra nhắm vào tài sản của ông. Người thân của ông sợ bà tôi chiếm tài sản vì khi thành vợ ông, bà sẽ nghiễm nhiên trở thành bà chủ của gia đình. Bác sĩ Hạ là một người giàu có. Ông sở hữu 2.000 mẫu đất rải khắp vùng Nghĩa Huyện, thậm chí ông còn có đất ở phía Nam Trường Thành. Ngôi nhà lớn của ông trong trấn xây bằng gạch xám bên ngoài sơn trắng. Trần nhà quét vôi, các phòng đều phủ giấy dán tường, vì vậy xà nhà và các mối nối đều được che kín, đây được coi như một chỉ dấu quan trọng chứng tỏ sự giàu có. Ông còn sở hữu một phòng khám đang làm ăn rất thịnh vượng, và một hiệu thuốc. Khi gia đình ông thấy việc thuyết phục ông chẳng đi tới đâu, họ quyết định sẽ nói chuyện thẳng với bà tôi. Một hôm, nàng dâu thứ ba vốn là bạn học của bà tôi đến gặp bà. Sau khi uống trà và mấy câu xã giao, bà ta bắt đầu nói vòng vo về việc của gia đình. Bà tôi òa lên khóc, bà nắm lấy tay người bạn thân thiết. Bà tôi hỏi bạn, nếu bà ấy rơi vào tình cảnh như bà tôi, thì bà ấy sẽ xử sự thế nào. Không thấy bạn trả lời, bà tôi tiếp: “Chị biết làm thiếp là như thế nào rồi đấy. Chị không muốn như vậy, đúng không? Chị biết đấy, Khổng Tử có câu rằng, ‘Tương tâm bỉ tâm’, lấy lòng đo lòng!” Đôi khi, đánh vào lòng trắc ẩn của ai đó bằng lời dạy của bậc tiên hiền lại hiệu quả hơn một chữ không thẳng thừng. Người bạn áy náy quay về, và báo với gia đình về thất bại của mình. Bà tỏ ý rằng mình không nỡ gây áp lực lên bà tôi nữa. Bà tìm được một đồng minh là Đức Quý, người con thứ hai của bác sĩ Hạ, ông cùng hành nghề y với cha và gần gũi với cha hơn các anh em khác. Ông nói, ông nghĩ rằng họ nên để cuộc hôn nhân diễn ra. Người con út cũng xiêu lòng theo khi nghe vợ tả lại nỗi buồn khổ của bà tôi. Những người chống đối kịch liệt nhất là người con cả và vợ ông ta. Thấy hai người kia lung lay, bà dâu cả nói với chồng, “Dĩ nhiên các chú ấy đâu có quan tâm. Các chú ấy có sự nghiệp cả rồi. Người đàn bà kia đâu thể cướp cái gì đi của hai chú ấy. Nhưng ông thì có gì? Ông chỉ là người quản lý điền sản của cha thôi, và tất cả sẽ rơi vào tay cô ta và đứa con gái! Tôi và lũ con tội nghiệp của chúng ta sẽ được gì đây? Chúng ta biết dựa vào đâu. Chắc là chúng ta sẽ chết thôi! Có lẽ cha cũng muốn vậy đấy! Hay là tôi chết quách đi cho họ vừa lòng!” Vừa nói bà ta vừa khóc lóc bù lu bù loa. Người chồng trả lời với vẻ kích động: “Để mai rồi xem.” Khi bác sĩ Hạ thức giấc vào sáng hôm sau, ông thấy tất cả thành viên trong nhà, trừ Đức Quý, mười lăm người cả thảy, đang quỳ trước cửa phòng. Ngay khi vừa thấy bóng cha, người con cả hét lớn,“Khấu đầu!” và tất cả đồng loạt phủ phục xuống. Sau đó, bằng giọng run run đầy xúc động, người con cả hùng hồn tuyên bố,“Cha, con cái của cha cùng cả gia đình sẽ quỳ tại đây đến chết nếu cha không chịu suy nghĩ cho chúng con, cho gia tộc, và hơn cả, cho chính cha nữa.” Bác sĩ Hạ tức giận tới độ toàn thân run lên. Ông ra lệnh cho đám con cháu đứng dậy, nhưng ngay lập tức, trước khi người nào kịp nhúc nhích, người con cả lại nói: “Không, thưa cha, chúng con sẽ không đứng dậy, cho đến khi cha hủy bỏ hôn sự này!” Bác sĩ Hạ cố gắng giải thích cho ông ta hiểu, nhưng người con cả tiếp tục át lời cha bằng giọng nói run rẩy. Cuối cùng bác sĩ Hạ nói, “Cha biết các con nghĩ gì. Cha không sống trên cõi đời này được bao lâu nữa. Nếu các con lo lắng không biết mẹ kế sẽ cư xử thế nào, cha hoàn toàn không mảy may nghi ngờ rằng cô ấy sẽ đối xử với các con rất tốt. Cha biết cô ấy là một người tốt. Cha không thể đưa ra điều gì để khẳng định với các con về cô ấy ngoại trừ phẩm hạnh của chính cô ấy...” Ngay khi ông vừa nói đến từ “phẩm hạnh”, người con cả khịt mũi đầy khinh bỉ: “Làm sao cha có thể nói đến ‘phẩm hạnh’ của một người đàn bà đã đi làm thiếp cho kẻ khác chứ! Không người đàn bà đức hạnh nào lại đi làm vợ lẽ như vậy!” Rồi ông ta bắt đầu thóa mạ bà tôi. Đến lúc này, bác sĩ Hạ không còn giữ được bình tĩnh, ông nhấc cây ba-toong lên và bắt đầu đánh người con cả. Trong suốt cuộc đời mình, bác sĩ Hạ luôn là điển hình của sự tự kiềm chế và điềm tĩnh. Cả gia đình, vẫn đang quỳ lạy, đều sửng sốt. Đứa chắt bắt đầu gào khóc ầm ĩ hoảng sợ. Người con cả sững sờ im bặt, nhưng chỉ trong một giây, rồi ông ta tiếp tục cao giọng, không chỉ vì đau mà còn vì bẽ mặt do bị đánh đòn trước cả gia đình. Bác sĩ Hạ dừng lại, thở dốc vì tức giận và quá sức. Ngay lập tức người con trai lại lớn tiếng hơn thóa mạ bà tôi. Bác sĩ Hạ quát lên bảo người con câm miệng, và đánh ông ta mạnh đến độ cây ba-toong gãy làm đôi. Người con im lặng ngẫm lại sự nhục nhã và nỗi đau đớn của mình trong vài giây. Rồi ông ta rút ra một khẩu súng lục và nhìn thẳng vào mặt bác sĩ Hạ. “Trung thần lấy cái chết để khuyên vua, hiếu tử lấy cái chết để khuyên cha. Con xin lấy cái chết của mình ra để ngăn cha!” Một tiếng súng nổ vang. Người ông ta run lên, rồi đổ sụp xuống sàn. Ông ta đã bắn một viên đạn vào bụng mình. Ngay lập tức một cỗ xe ngựa đưa ông ta đến bệnh viện gần đó, nhưng ông ta đã chết vào ngày hôm sau. Có lẽ người con cả không có ý định tự vẫn, mà chỉ muốn làm điều gì đó kịch tính để gây áp lực khiến cha mình phải từ bỏ ý định. Cái chết của người con trai làm bác sĩ Hạ suy sụp. Mặc dù bề ngoài ông tỏ ra bình thản như thường lệ, nhưng những ai biết ông đều có thể nhận ra, sự bình tĩnh của ông đã bị một nỗi buồn sâu sắc hằn lên vết sẹo. Từ đó, ông phải chịu đựng vô vàn sầu muộn, đến độ không còn giữ được vẻ điềm đạm trước đây. Cả vùng Nghĩa Huyện sục sôi căm phẫn, những lời đồn đại và buộc tội. Bác sĩ Hạ, và đặc biệt là bà tôi bị khiến cho cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về cái chết ấy. Bác sĩ Hạ muốn tỏ ra ông không thoái chí. Không lâu sau đám tang con trai, ông định ngày hôn lễ. Ông cảnh cáo các con phải lễ phép với người mẹ mới, và ông gửi thiệp mời cho những người quyền thế trong vùng. Theo phong tục, họ phải dự hôn lễ và tặng quà mừng. Ông cũng bảo bà tôi chuẩn bị cho một lễ cưới linh đình. Bà tôi khiếp sợ trước những lời buộc tội, cũng như tác động không thể thấy trước được của chúng đối với bác sĩ Hạ; bà cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục bản thân rằng mình không có tội lỗi gì trong chuyện này. Nhưng, hơn tất cả, bà muốn phản kháng. Bà ưng thuận tổ chức lễ cưới đầy đủ các nghi lễ. Ngày cưới, bà rời nhà cha mẹ trên cỗ xe ngựa lộng lẫy cùng đám rước kèn trống tưng bừng. Theo phong tục người Mãn, gia đình bà thuê một cỗ xe đưa bà nửa đường về nhà chồng, sau đó chú rể cho một cỗ xe khác đưa bà nửa quãng đường còn lại. Tại nơi đổi xe, cậu em trai năm tuổi của bà, Ngọc Lâm, khom lưng cúi đợi dưới chân kiệu, tượng trưng rằng cậu cõng chị gái trên lưng đến cỗ xe của bác sĩ Hạ. Cậu lặp lại hành động ấy khi bà đến nhà bác sĩ Hạ. Một phụ nữ không thể bước thẳng vào nhà một người đàn ông, điều này sẽ khiến cô mất thân phận. Người ta phải thấy bà được đưa vào nhà, thể hiện sự miễn cưỡng cần thiết. Hai phù dâu đưa bà tôi vào phòng nơi nghi lễ diễn ra. Bác sĩ Hạ đang đứng trước một chiếc bàn phủ vải lụa thêu đỏ chói, trên đó là những bài vị thể hiện Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư*. Ông đội chiếc mũ được trang trí như một chiếc vương miện với chiếc lông chim như chiếc đuôi đằng sau, cùng chiếc áo choàng dài thêu, rộng, dài với hai ống tay hình chuông, đây là y phục truyền thống của người Mãn, tiện cho việc cưỡi ngựa và bắn tên, bắt nguồn từ thời người Mãn còn sống du mục. Ông quỳ và cúi lạy năm lần trước những tấm bài vị rồi sau đó đi vào phòng tân hôn một mình. Kế đến bà tôi, vẫn được hai phù dâu dìu đỡ, nhún mình năm lần, mỗi lần, tay phải bà đều chạm vào tóc, một động tác thể hiện kính lễ. Bà không thể khấu đầu vì sức nặng của chiếc khăn trùm trang trí cầu kỳ. Sau đó bà theo ông vào phòng tân hôn, ở đó ông bỏ chiếc khăn đỏ phủ trên đầu bà. Hai người phù dâu trao cho mỗi người một chiếc hồ lô rỗng mà sau đó hai người sẽ trao đổi cho nhau, rồi hai phù dâu lui ra. Bác sĩ Hạ và bà tôi ngồi yên lặng cùng nhau một lát, sau đó ông ra ngoài tiếp đón họ hàng, khách khứa. Bà tôi phải ngồi yên, bất động, một mình trên kháng mấy giờ liền, nhìn ra cửa sổ có chữ song hỉ to tướng, đỏ chói được cắt bằng giấy. Thế này gọi là “ngồi hưởng phúc” (tọa phúc), tượng trưng cho lòng tĩnh lặng như nước, một đức tính cần phải có của người phụ nữ. Sau khi khách khứa đã ra về, một người họ hàng của bác sĩ Hạ, là đàn ông còn trẻ, vào phòng giật mạnh ống tay áo của bà tôi ba lần. Chỉ khi đó bà mới được phép xuống khỏi kháng. Với sự hỗ trợ của hai người hầu, bà cởi áo cưới thêu dệt nặng nề để thay sang áo dài và chiếc quần màu đỏ đơn giản. Bà cởi chiếc mũ khổng lồ đầy trang sức trên đó và quấn tóc thành hai cuộn trên tai. Thế là vào năm 1935, mẹ tôi, bấy giờ lên bốn, và bà ngoại tôi, hai mươi sáu tuổi, đã chuyển đến ở tại căn nhà tiện nghi của bác sĩ Hạ. Đó quả là một ngôi nhà đồ sộ, bao gồm một gian nhà chính đầy đủ tiện nghi bên trong và một phòng khám với một tiệm thuốc hướng ra mặt đường. Thông thường, các bác sĩ nổi tiếng đều có tiệm thuốc riêng. Tại đây, bác sĩ Hạ bán thuốc cổ truyền, thảo dược và các chiết xuất từ động vật, tất cả được ba người phụ việc bào chế tại một xưởng riêng. Mặt tiền ngôi nhà được che phủ bởi mái hiên màu đỏ và vàng thiết kế cầu kỳ. Chính giữa căn nhà là một tấm bảng hình chữ nhật đề chữ “Gia trang họ Hạ” được mạ vàng. Phía sau tiệm thuốc là một khoảng sân nhỏ, với một dãy phòng dành cho người hầu và đầu bếp. Qua khỏi khu này là nhiều vuông sân nhỏ khác, nơi gia đình bác sĩ sinh sống. Xa hơn nữa về phía sau là khu vườn rộng với những hàng cây bách và cây đào. Mấy khoảng sân trơ trụi không có cỏ, vì thời tiết quá khắc nghiệt. Chúng chỉ là những khoảng đất nâu trần trụi, cứng đơ mà hễ mùa hè thì đầy bụi, mùa xuân lại thành bùn khi băng tan. Bác sĩ Hạ rất yêu chim chóc, ông có hẳn một vườn chim, và mỗi sáng, bất luận thời tiết ra sao, ông đều tập khí công, một dạng thể dục chậm rãi, thanh thoát của người Trung Quốc thường được gọi là thái cực, vừa tập vừa nghe chim ca hót. Sau cái chết của người con trai, bác sĩ Hạ chịu đựng sự trách cứ câm lặng triền miên trong gia đình. Ông không bao giờ thổ lộ với bà tôi về tổn thương mà điều này gây cho ông. Với đàn ông Trung Hoa, thể hiện sự cứng rắn là điều bắt buộc. Dĩ nhiên, bà tôi cảm nhận được những gì ông đang nếm trải, và cũng âm thầm chịu đựng cùng ông. Bà rất ân cần chăm sóc ông, yêu chiều ông bằng cả trái tim mình. Bà luôn nở miệng cười với hết thảy mọi người trong gia đình ông, dù đổi lại là sự khinh thường dưới vẻ kính trọng đầy hình thức. Thậm chí cả nàng dâu vốn là bạn học của bà cũng tìm cách tránh bà. Suy nghĩ rằng bà phải chịu trách nhiệm cho cái chết của người con trai cả đè nặng lên bà tôi. Phong cách sống của bà tôi phải hoàn toàn thay đổi cho phù hợp văn hóa người Mãn Châu. Bà ngủ cùng với mẹ tôi còn bác sĩ Hạ ngủ trong một phòng riêng. Mỗi sáng sớm, rất lâu trước khi ra khỏi giường, đầu óc bà tôi căng lên, đoán đợi tiếng các thành viên trong gia đình đến chào. Bà phải nhanh chóng sửa soạn và chào từng thành viên một theo một nghi thức nghiêm trang. Thêm nữa, bà phải làm tóc hết sức rườm rà, độn tóc giả rồi đội lên một chiếc khăn to tướng. Đáp lại chỉ là một lời “Thỉnh an” cộc lốc, cụm từ duy nhất cả gia đình dành cho bà. Nhìn cách họ cúi chào và lê chân loẹt quẹt thay lời nói bà tôi biết họ ghét bà đến thế nào. Nghi thức chào hỏi này chọc tức thêm vào bầu không khí đầy giả tạo đó. Vào những dịp lễ nghi long trọng, toàn thể đại gia đình phải bái lạy và nhún người chào bà, bà tôi liền nhảy ra khỏi ghế, đứng tránh sang một bên, để lại chiếc ghế trống, biểu tượng cho người mẹ quá cố của họ, và để họ bày tỏ sự kính trọng. Phong tục người Mãn khiến bà và bác sĩ Hạ không thể ở gần nhau. Họ thậm chí không được ăn cùng nhau, một trong hai nàng dâu luôn túc trực bên bà mỗi bữa ăn để phục vụ. Nhưng gương mặt họ lúc nào cũng lạnh băng, khiến bà tôi nuốt miếng cơm còn không nổi, huống hồ là thưởng thức bữa ăn. Một lần, không lâu sau khi hai mẹ con bà tôi dọn về nhà bác sĩ Hạ, mẹ tôi mới ngồi xuống trên chiếc giường lớn, sang trọng, tiện nghi và ấm cúng của bác sĩ Hạ, thì mẹ thấy mặt ông tối sầm, ông nổi trận lôi đình và kéo phắt mẹ tôi ra khỏi đó. Mẹ tôi vừa ngồi lên một nơi đặc biệt. Đó là lần duy nhất ông đánh mẹ tôi. Theo phong tục người Mãn, chỗ nằm của ông là nơi thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Việc đến ở nhà bác sĩ Hạ thời gian đầu thực sự mang lại cho bà tôi cảm giác được tự do, nhưng đồng thời lại tròng lên cổ bà hàng loạt thòng lọng khác. Với mẹ tôi, cuộc sống mới này vừa thoải mái lại vừa đáng sợ. Bác sĩ Hạ đối xử với mẹ tôi cực kỳ tốt, ông nuôi dạy mẹ tôi như chính con gái mình. Mẹ tôi gọi ông là “cha”, ông cho phép mẹ tôi lấy họ Hạ của ông và đặt tên mới là “Đức Hồng”, gồm hai từ ghép lại: “Hồng” có nghĩa là thiên nga hoang dã và “Đức”, là tên phổ biến lúc bấy giờ, mang nghĩa “đức hạnh”. Những thành viên trong gia đình bác sĩ không dám làm nhục bà tôi trước mặt vì điều đó có nghĩa họ phạm tội bất hiếu với một người mẹ. Nhưng với con gái bà thì lại là chuyện khác. Những ký ức đầu tiên của mẹ tôi bên cạnh việc được bà nâng niu là những việc bị ăn hiếp bởi bọn trẻ trong gia đình bác sĩ Hạ. Mẹ tôi cố gắng không khóc và giấu bà tôi những vết bầm và vết cào cấu, nhưng bà tôi vẫn biết điều gì đang diễn ra. Bà chẳng bao giờ mách bác sĩ Hạ vì bà không muốn làm ông rối trí hay gây thêm mâu thuẫn giữa cha con ông. Nhưng mẹ tôi thì khổ sở. Mẹ thường xuyên van xin bà đưa mẹ về lại nhà ông bà ngoại hoặc về nhà tướng Tiết mua cho bà trước kia, nơi mọi người đối xử với mẹ như một công chúa. Nhưng mẹ tôi sớm nhận ra rằng mình không nên vòi vĩnh “về nhà” nữa, vì điều đó chỉ càng làm mẹ bà thêm đau khổ mà thôi. Bạn thân của mẹ tôi chỉ là mấy con thú nuôi. Mẹ có một con cá, một con khướu biết nói vài câu đơn giản, một con chim cắt, một con mèo, một con chuột bạch, vài con cào cào và dế nuôi trong mấy lọ thủy tinh. Ngoài bà tôi ra, người duy nhất làm bạn với bà là người phu ngựa của bác sĩ Hạ, Lão Lý, một người đàn ông dẻo dai, thô ráp, vốn gốc người vùng núi Hưng An ở tận phía Bắc, giáp giới giữa Trung Quốc, Mông Cổ và Liên Xô. Ông có làn da đen, tóc thô, môi dày và chiếc mũi hếch, những đặc điểm hết sức hiếm thấy ở người Trung Hoa. Thực ra, trông ông không giống người Hán chút nào. Ông cao, gân guốc và dẻo dai. Cha ông đã dạy ông nghề săn bắn và bẫy thú, đào nhân sâm và săn gấu, cáo, nai. Có một dạo họ làm ăn rất được qua việc bán da thú, nhưng cuối cùng phải bỏ nghề vì bọn cướp, những kẻ đê tiện nhất dưới trướng lão nguyên soái Trương Tác Lâm. Lão Lý xem ông ta như một tên “cẩu tặc”. Sau này, khi mẹ tôi được kể về lão nguyên soái là một người ái quốc kiên quyết chống Nhật, bà lại nhớ tới những lời Lão Lý móc mỉa “người hùng” Đông Bắc này. Lão Lý chăm sóc mấy con thú của mẹ tôi và thường dắt mẹ tôi đi thăm thú cùng ông. Mùa đông, ông dạy mẹ tôi cách trượt tuyết. Mùa xuân, khi băng tuyết tan đi, họ đi xem người ta tảo mộ - nghi lễ rất quan trọng với người Trung Quốc diễn ra hằng năm, người ta dọn dẹp mồ mả tổ tiên và trồng hoa trên đó. Mùa hè, Lão Lý dẫn mẹ tôi đi câu cá và hái nấm, còn mùa thu họ đi ra ngoài thị trấn để săn thỏ rừng. Trong những đêm trường Mãn Châu, khi gió hú trên những cánh đồng và băng đóng bên ngoài các ô cửa sổ, Lão Lý đặt mẹ tôi trên đầu gối ngồi trong chiếc giường ấm áp, và kể cho mẹ tôi nghe vô số những câu chuyện thần thoại về vùng núi phương Bắc. Những hình ảnh mẹ tôi đã mang theo vào giấc ngủ là những cây cao lớn huyền bí, những loài hoa kỳ lạ, chim chóc muôn màu hót vang, và những củ nhân sâm hóa ra là những cô bé tí hon - ngay sau khi đào được một củ nhân sâm, bạn phải buộc một sợi dây màu đỏ quanh nó, nếu không thì nó sẽ chạy mất. Lão Lý còn kể mẹ tôi nghe những truyền thuyết về loài vật. Loài hổ vẫn hay lang thang trên vùng núi phía Bắc Mãn Châu, là một loài rất hiền lành và chẳng bao giờ tấn công loài người trừ khi chúng bị đe dọa. Ông rất yêu loài hổ. Nhưng gấu lại là chuyện khác: chúng dữ tợn và con người nên tránh xa chúng bằng bất cứ giá nào. Nếu chẳng may gặp gấu, ta phải đứng yên một chỗ cho đến khi nó cúi thấp đầu xuống. Điều này là do con vật có một túm tóc trên trán, khi nó cúi xuống, túm tóc này sẽ rủ xuống che mắt nó. Với một con sói thì ta không nên bỏ chạy, vì ta chẳng bao giờ chạy nhanh hơn nó được. Ta nên đứng lại và đối diện với nó, ngẩng cao đầu, làm ra vẻ ta chẳng hề sợ hãi. Sau đó ta nên đi giật lùi, từng chút, từng chút một. Đến tận nhiều năm sau, những lời dạy của Lão Lý vẫn còn hữu ích với mẹ tôi. Một ngày nọ, khi đó mẹ tôi mới lên năm, mẹ đang ở trong vườn nói chuyện với đám thú nuôi thì đám trẻ con nhà bác sĩ Hạ xuất hiện, vây quanh bà. Chúng bắt đầu hích mẹ tôi, chửi mắng rồi đánh đập mẹ tôi nặng tay hơn. Chúng dồn mẹ tôi vào góc vườn, nơi có một cái giếng cạn và đẩy mẹ tôi xuống đó. Giếng khá sâu, và bà té mạnh xuống tận đáy giếng đầy gạch đá. Cuối cùng, người ta nghe thấy tiếng mẹ kêu cứu và gọi Lão Lý đến, ông liền chạy đi lấy cái thang, và người đầu bếp giữ thang để ông leo xuống. Lúc này bà tôi mới biết mà chạy đến, đầy sợ hãi và lo lắng. Ít phút sau, Lão Lý leo lên mang theo mẹ tôi, lúc này gần như chết ngất, người đầy sứt sẹo và bầm tím. Lão Lý đặt mẹ tôi vào vòng tay bà, ngay lập tức mẹ tôi được mang vào trong nhà cho bác sĩ Hạ khám. Một bên xương hông bị gãy. Nhiều năm sau, vết thương thỉnh thoảng vẫn tái phát và khiến mẹ tôi đi khập khiễng một chút. Khi bác sĩ Hạ hỏi mẹ tôi chuyện đã xảy ra, bà nói bà bị tiểu lục tử (đứa cháu trai thứ sáu) của ông xô xuống giếng. Bà tôi, vì luôn quan tâm đến tâm trạng của ông, đã cố ngăn không cho mẹ tôi nói vì tiểu lục tử là đứa cháu yêu của bác sĩ Hạ. Khi bác sĩ Hạ rời khỏi phòng khám, bà căn dặn mẹ tôi không được phàn nàn gì về người cháu này nữa, vì như thế sẽ làm bác sĩ phiền lòng. Vết thương ở xương hông khiến mẹ tôi không được ra khỏi nhà một thời gian. Bọn trẻ con giờ đã tẩy chay hẳn mẹ tôi. Sau vụ tai nạn này, bác sĩ Hạ bắt đầu đi xa ít ngày. Ông đến thị trấn Cẩm Châu, cách nhà khoảng 40 km về phía Nam, tìm kiếm một chỗ làm việc mới. Bầu không khí trong gia đình lúc này trở nên không thể chịu nổi, từ sau tai nạn khiến mẹ tôi suýt chết, ông quyết tâm phải chuyển ra khỏi nhà. Quyết định này không hề đơn giản. Ở Trung Hoa, tạo được một đại gia đình sống cùng nhau dưới một mái nhà là một vinh hạnh lớn. Có những con đường mang tên “Ngũ Đại Đồng Đường” để vinh danh những đại gia đình kiểu vậy. Việc phá vỡ một đại gia đình như vậy bị coi là một thảm kịch mà người ta phải cố tránh bằng mọi giá. Nhưng bác sĩ Hạ, rõ ràng chỉ vì muốn bà tôi được hạnh phúc, lại nói với bà rằng ông muốn bớt đi phần nào trách nhiệm. Bà tôi thấy nhẹ nhõm vô cùng, mặc dù bà cố không tỏ ra vậy. Thực ra, chính bà đã nhẹ nhàng giục ông chuyển đi, nhất là sau vụ việc xảy ra với mẹ tôi. Bà tôi đã chịu đựng quá đủ trong một đại gia đình, lúc nào cũng thể hiện sự lạnh lùng, lãnh đạm khiến bà khốn khổ, và một nơi như vậy khiến bà chẳng hề có chút riêng tư cũng chẳng có ai bầu bạn. Bác sĩ Hạ chia gia sản cho các thành viên trong gia đình. Ông chỉ giữ lại cho mình những vật gia truyền từ tổ tiên, dưới thời Hoàng đế Mãn Châu. Ông để lại cho vợ góa của người con cả toàn bộ đất đai. Người con thứ hai được hưởng hiệu thuốc, còn ngôi nhà được giao cho người con út. Ông cũng lo liệu sao cho Lão Lý và đám người hầu phải được giữ lại chăm sóc nhà cửa. Khi ông hỏi liệu bà tôi có chấp nhận nếu rơi vào cảnh sống bần hàn không, bà đáp miễn là có ông và con gái, bà luôn thấy hạnh phúc,“Khi ta có tình yêu, thậm chí nước lã cũng ngọt.” Vào một ngày lạnh cóng tháng Mười hai năm 1936, cả đại gia đình tập trung ở cổng trước để tiễn ông. Mặt họ ráo hoảnh, ngoại trừ Đức Quý, người con trai duy nhất ủng hộ đám cưới của ông. Lão Lý đánh xe đưa bác sĩ Hạ cùng bà và mẹ tôi ra nhà ga, nơi mẹ tôi khóc sướt mướt khi phải chia tay lão. Nhưng ngay sau đó mẹ thấy phấn khích khi được lên xe lửa. Đây là lần đầu bà được đi xe lửa, kể từ hồi một tuổi, bà rất thích chí, cứ nhảy lên nhảy xuống liên tục để nhìn ra cửa sổ. Cẩm Châu là một thành phố với số dân gần 100.000 người. Là thủ phủ của một trong chín tỉnh của Mãn Châu Quốc, Cẩm Châu cách biển chừng 16 km, nơi Mãn Châu gặp Vạn Lý Trường Thành. Cũng như Nghĩa Huyện, Cẩm Châu có tường thành bao quanh, nhưng nó phát triển nhanh và đã mở rộng vượt khỏi bờ thành. Nơi đây mọc lên một số nhà máy tơ sợi và hai nhà máy lọc dầu; đây cũng là một ngã tư đường sắt quan trọng, và thậm chí còn có cả sân bay riêng. Người Nhật chiếm đóng nơi này vào tháng Một năm 1932, sau một trận đánh lớn. Cẩm Châu nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, đóng vai trò chủ chốt trong việc chiếm Mãn Châu. Việc chiếm giữ nơi này từng trở thành đề tài chính trong cuộc tranh chấp ngoại giao giữa Mỹ và Nhật, và là một mắt xích quan trọng trong chuỗi các sự kiện dẫn đến sự kiện Trân Châu Cảng mười năm sau. Khi Nhật Bản bắt đầu tấn công Mãn Châu vào tháng Chín năm 1931, nguyên soái trẻ Trương Học Lương bị buộc phải trao lại đại bản doanh Thẩm Dương của ông cho người Nhật. Ông dời trại về Cẩm Châu với hơn 200.000 binh lính và thành lập trung tâm chỉ huy ở đó. Trong một trong những trận tấn công phủ đầu, người Nhật đã giội bom xuống thành phố. Khi quân Nhật tiến vào Cẩm Châu, họ trở nên hung tợn. Đây chính là nơi bác sĩ Hạ, bấy giờ đã sáu mươi sáu tuổi, khởi nghiệp lại từ đầu. Tài chính chỉ đủ để ông thuê một túp lều tranh vách đất rộng chỉ khoảng hơn 7 mét vuông trong một khu rất nghèo của thành phố, nằm ở vùng đất trũng ven sông, dưới một triền đê. Hầu hết các cư dân vùng này đều rất nghèo, đến độ họ không thể lợp nổi cho mình một mái nhà tử tế: họ đặt những tấm tôn sóng lên bốn bức tường rồi chặn mấy hòn đá tảng lên đó để chúng khỏi bị gió lớn thổi bay đi. Khu đất nằm ngay rìa thành phố, phía bên kia sông là những cánh đồng cao lương. Khi bác sĩ Hạ và bà ngoại cùng mẹ tôi mới đến đây vào tháng Mười hai, đất nâu đông cứng lại vì giá lạnh và cả mặt con sông rộng khoảng ba chục thước cũng vậy. Vào mùa xuân, khi băng tan, vùng đất quanh túp lều của ba người biến thành sình lầy, và mùi hôi thối của cống rãnh, bị đóng băng quá nhanh rồi ủ quá lâu ngày trong mùa đông, triền miên xộc vào mũi họ. Vào mùa hè thì toàn bộ khu vực phải chịu cảnh muỗi mòng, và lũ lụt là điều khiến mọi người luôn lo lắng vì nước sông sẽ dâng cao ngập cả nhà, còn hệ thống đê điều thì luôn trong tình trạng tồi tàn. Ám ảnh kinh khủng nhất đối với mẹ tôi là cái lạnh tê dại của mùa đông. Tất cả mọi hoạt động, không riêng gì việc ngủ, đều phải diễn ra trên chiếc phản, thứ chiếm gần hết căn lều, ngoài ra còn có một cái bếp lò nhỏ đặt ở góc lều. Cả ba người phải ngủ chung trên tấm phản. Không có điện cũng chẳng có nước máy. Nhà vệ sinh là một căn chòi có hố xí công cộng. Ngay phía đối diện căn lều là một ngôi miếu Hỏa thần sơn màu tươi sáng. Mọi người đến đó cầu nguyện đều buộc ngựa của họ trước túp lều của bác sĩ Hạ. Khi trời ấm dần lên, bác sĩ Hạ thường dắt mẹ tôi đi dạo dọc triền sông vào những buổi chiều tà, và ngâm thơ cổ cho mẹ tôi nghe trong ráng chiều rực rỡ. Bà tôi không bao giờ đi cùng họ: việc hai vợ chồng đi dạo cùng nhau không phải là văn hóa thời bấy giờ; thêm nữa, với đôi chân bị bó, việc đi bộ là một cực hình đối với bà tôi. Lúc này, cả nhà có nguy cơ chết đói. Ở Nghĩa Huyện, gia đình còn có nguồn thực phẩm từ nông phẩm trên đất đai riêng của bác sĩ Hạ, điều này có nghĩa họ luôn có gạo ăn kể cả khi người Nhật đã chiếm một phần thu hoạch của họ. Giờ đây, thu nhập của họ giảm trầm trọng thêm vì bị người Nhật chiếm đoạt nhiều hơn nữa. Hầu hết những sản phẩm do địa phương sản xuất đều bị buộc phải xuất khẩu sang Nhật, và lực lượng binh lính đông đảo của Nhật ở Mãn Châu cướp hầu hết phần gạo và lúa mì còn lại làm của riêng. Người dân địa phương thỉnh thoảng cũng có một ít ngô hay cao lương, nhưng vô cùng hiếm. Thực phẩm chính của họ là những bữa ăn trộn hạt sồi, vị dở vô cùng. Bà tôi chưa từng trải qua sự cùng khổ đến vậy, nhưng đó lại là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời bà. Bác sĩ Hạ rất yêu bà, và bà luôn được ở bên con gái. Bà không còn bị buộc phải thực hiện những nghi lễ chán chường của người Mãn, và căn lều bé nhỏ đó của họ lúc nào cũng ngập tiếng cười. Có những tối bà cùng bác sĩ chơi cờ hàng giờ liền. Luật chơi là nếu bác sĩ thua, bà sẽ tát ông ba cái, còn nếu bà thua, ông sẽ hôn bà ba lần. Bà tôi cũng kết bạn với nhiều phụ nữ trong vùng, đây là một điều hết sức mới mẻ với bà. Vì là vợ một bác sĩ, bà được kính nể, dù bà chẳng hề giàu có. Sau nhiều năm chịu thóa mạ và bị đối xử như một món đồ, giờ đây bà tôi thực sự sống đời tự do. Thỉnh thoảng bà và mấy người bạn cũng diễn lại những tích tuồng cổ Mãn Châu, họ đánh trống để đệm cho lời hát và nhảy múa. Giai điệu họ chơi rất đơn giản, âm điệu thô sơ và lời ca tự họ nghĩ ra. Phụ nữ có gia đình thì hát về đời sống tình dục của họ, còn các thiếu nữ thì hỏi về tình dục. Vì tất cả đều mù chữ, những người phụ nữ dùng cách này để học hỏi về chuyện nam nữ và sinh nở. Qua việc hát xướng, họ cũng trao đổi với nhau về cuộc sống và các ông chồng, và quanh quẩn những chuyện ngồi lê đôi mách. Bà tôi rất thích những buổi tụ họp thế này, và thường tập hát cho họ tại nhà. Bà ngồi trên phản, lắc cái trống tay bằng tay trái và hát theo nhịp, tùy ý ứng đáp lời cho bài hát. Thường bác sĩ Hạ cũng giúp bà soạn lời. Mẹ tôi còn quá nhỏ để thưởng thức những buổi tập này, nhưng vẫn thích xem bà tôi diễn tập. Mẹ rất phấn khích và đặc biệt rất quan tâm việc bác sĩ đã soạn lời gì cho bài hát. Mẹ biết hẳn là những lời hát ấy phải rất vui, vì thấy bác sĩ Hạ và bà tôi cười suốt. Nhưng khi bà tôi nhắc lại những lời đó với mẹ thì mẹ như “rơi vào một mớ bòng bong”. Mẹ chẳng hiểu những lời ấy nghĩa là gì. Nhưng cuộc sống quả là khó khăn. Mỗi ngày là một cuộc vật lộn mưu sinh. Gạo và lúa mì chỉ có ở chợ đen, nên bà tôi phải bán dần số tư trang mà tướng Tiết đã tặng bà. Bản thân bà cố gắng nhịn bớt phần mình, nói rằng bà đã ăn rồi, hoặc bà chưa đói hay là sẽ ăn sau. Khi bác sĩ Hạ nhận ra bà đang bán dần trang sức, ông yêu cầu bà phải ngưng ngay việc này: “Tôi đã già,” ông nói, “tôi sẽ chết nay mai thôi, lúc đó em phải dựa vào số trang sức đó để sống chứ.” Bác sĩ Hạ làm công ăn lương cho một chủ tiệm thuốc, công việc không cho ông nhiều cơ hội phô diễn tay nghề. Nhưng ông rất cần mẫn, dần dần ông cũng gầy dựng được tiếng tăm. Không bao lâu sau, lần đầu tiên ông được mời tới tư gia khám bệnh. Một chiều nọ, ông đi làm về, mang theo một gói đồ bọc kín trong tay nải. Ông nháy mắt với mẹ tôi và bà ngoại, bảo họ đoán xem bên trong là gì. Mắt mẹ tôi dán chặt vào gói đồ đang bốc khói, và trước khi kịp reo lên “bánh cuốn”, tay bà đã bóc vội gói đồ ra. Trong khi ngấu nghiến đồ ăn, bà ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt lấp lánh niềm vui của bác sĩ Hạ. Hơn năm mươi năm sau, mẹ tôi vẫn không quên ánh mắt đầy hạnh phúc ấy của ông, và thậm chí đến hôm nay mẹ tôi vẫn bảo rằng mẹ không thể nhớ được có món ăn nào ngon hơn món bánh cuốn bột mì đơn giản đó. Những cuộc khám bệnh tại tư gia hết sức quan trọng với những ai làm bác sĩ, vì gia chủ sẽ trả thù lao cao hơn mức lương các ông chủ trả cho họ. Khi gia đình bệnh nhân hài lòng, hoặc giàu có, các bác sĩ thường được thưởng hậu. Nhiều bệnh nhân còn cảm kích mà biếu bác sĩ những món quà đáng giá vào dịp Tết và các ngày lễ lớn. Sau vài ca khám bệnh tại gia, tình thế của bác sĩ Hạ bắt đầu cải thiện. Danh tiếng của ông cũng bắt đầu lan xa. Một ngày nọ, khi vợ của tỉnh trưởng bị ngất, ông ta cho mời bác sĩ Hạ, và bác sĩ đã khiến bà tỉnh táo trở lại. Điều này không khác gì việc đem một người từ cõi chết trở về. Viên tỉnh trưởng ra lệnh cho người làm ngay một tấm liễn, và tự tay đề lên đó: “Tế Thế Cứu Nhân” (giúp đời cứu người). Ông ta lệnh cho một đám rước mang bức liễn khắp thị trấn. Sau đó, viên tỉnh trưởng lại cho gọi bác sĩ Hạ để giúp ông ta một chuyện khác. Ông này có một vợ cả và mười hai người thiếp, nhưng không ai sinh được cho ông một mụn con. Ông đã nghe đồn là bác sĩ Hạ rất mát tay trong những vấn đề về sinh nở. Bác sĩ Hạ đã kê đơn cho tỉnh trưởng và mười ba người vợ của ông ta, vài người trong số đó sau đó mang bầu. Thực chất, vấn đề nằm ở vị tỉnh trưởng, nhưng bác sĩ Hạ tài tình đã chữa cho cả các bà vợ luôn. Viên tỉnh trưởng vô cùng vui sướng, và viết thêm một tấm liễn to hơn nữa ca ngợi bác sĩ Hạ, liễn đề: Quan Âm tái thế. Bức liễn mới được mang đến nhà bác sĩ Hạ với đám rước tưng bừng hơn trước. Kể từ đó, người ta từ khắp nơi đến khám bệnh ở chỗ bác sĩ Hạ, thậm chí xa như Cáp Nhĩ Tân, cách đó khoảng 640 km về phía Bắc. Bác sĩ Hạ được xem là một trong “tứ đại danh y” ở Mãn Châu Quốc. Đến cuối năm 1937, một năm sau khi họ đến Cẩm Châu, bác sĩ Hạ đã có thể chuyển đến ở một ngôi nhà lớn hơn, ngay ngoài phía cổng Bắc thành phố. Căn nhà mới này tốt hơn nhiều mái chòi cũ cạnh sông. Thay cho bùn đất, nhà được xây bằng gạch đỏ. Thay vì chỉ có một phòng duy nhất, ngôi nhà có hơn ba phòng ngủ. Bác sĩ Hạ có thể bắt đầu lại sự nghiệp của mình, ông sử dụng phòng khách làm phòng khám bệnh. Ngôi nhà hướng về phía Nam của một khoảng sân lớn chung với hai gia đình khác, nhưng chỉ mỗi nhà bác sĩ Hạ có chìa khóa mở thẳng ra khoảng sân ấy. Hai căn còn lại có mặt tiền hướng ra đường lộ và tường ngăn với khoảng sân này, thậm chí cũng không có cửa sổ trổ ra sân. Nếu họ muốn vào sân, họ phải đi vòng ra cổng ở ngoài mặt lộ. Phía Bắc vuông sân là một bức tường kiên cố. Trong sân có nhiều cây bách và cây đông thanh mà cả ba gia đình đều dùng để phơi đồ. Ở đó cũng có mấy bụi hoa dâm bụt, loài cây rất khó sống trong mùa đông khắc nghiệt. Mùa hè bà tôi thường trồng các loại cây thường niên yêu thích của bà: hoa mào gà, hoa cúc, hoa thược dược và hoa phụng tiên. Bà tôi và bác sĩ Hạ không có con chung. Ông quan niệm rằng đàn ông khi ngoài sáu mươi lăm thì không nên xuất tinh, để bảo tồn tinh khí. Nhiều năm sau, bà nói với mẹ tôi đầy vẻ huyền bí rằng nhờ môn khí công, bác sĩ Hạ luyện được kỹ thuật làm cho ông có thể đạt khoái cảm mà không nhất thiết phải xuất tinh. So với đàn ông cùng độ tuổi, ông cực kỳ khỏe mạnh. Ông không bao giờ đau ốm, hằng ngày ông đều tắm nước lạnh, thậm chí cả khi nhiệt độ là âm 23 độ C. Ông không khi nào uống rượu hay hút thuốc, để tuân theo quy định của tổ chức mà ông tham gia có tên “Tại Lý Hội”. Mặc dù là bác sĩ, ông không hề thích dùng thuốc, vì cho rằng cách tốt nhất để có sức khỏe là một cơ thể khỏe mạnh. Ông kịch liệt phản đối mọi cách thức điều trị mà theo ông là chữa được phần này nhưng lại tàn phá phần khác của cơ thể, và ông nhất quyết không dùng những loại thuốc tác dụng mạnh vì những tác dụng phụ chúng có thể gây ra. Mẹ và bà tôi thường phải uống thuốc sau lưng ông. Khi họ bị ốm, ông sẽ mời bác sĩ khác, thường là một lang y cổ truyền kiêm thầy cúng; ông cũng cho rằng vài loại bệnh là do ma quỷ gây ra, và phải chữa bằng cách cầu khẩn hay trừ tà bằng những nghi lễ tôn giáo đặc biệt. Mẹ tôi rất hạnh phúc. Lần đầu tiên trong đời, mẹ được hưởng sự ấm cúng từ bầu không khí bao quanh. Mẹ tôi không còn thấy căng thẳng nữa như lúc ở nhà ông ngoại hai năm đầu, cũng chẳng có ai ăn hiếp mẹ tôi như bọn trẻ con ở nhà bác sĩ Hạ. Mẹ tôi đặc biệt thích các kỳ lễ hội diễn ra hầu như hằng tháng. Người dân thường Trung Hoa hầu như không có khái niệm gì về cái gọi là tuần làm việc. Chỉ những nơi như chính phủ, trường học và các nhà máy Nhật Bản mới có ngày nghỉ vào Chủ nhật. Với dân thường, chỉ lễ hội mới cho phép người ta ngưng làm các công việc hằng ngày. Vào ngày 23 tháng Mười hai âm lịch, bảy ngày trước Tết Nguyên đán, lễ hội mùa đông bắt đầu. Theo truyền thuyết, đấy là ngày thần Bếp (Táo Vương), vốn sống cùng vợ trong gian bếp của mỗi gia đình, lên Thiên đình báo cáo với Ngọc hoàng Thượng đế về nếp ăn ở của gia chủ họ. Một báo cáo tốt sẽ đem lại cho gia đình đó sự sung túc, no đủ quanh năm. Nên vào ngày này mọi gia đình đều rất bận rộn cúng bái trước tranh ông bà Táo trước khi hóa vàng để tiễn họ bay lên trời. Bà tôi thường bảo mẹ tôi trét mật ong lên miệng họ. Bà cũng đốt những hình ngựa và hình nhân người hầu được làm bằng cây cao lương nhằm chăm sóc thêm để họ vui vẻ mà nói những điều tốt lành về bác sĩ Hạ cho Ngọc hoàng Thượng đế.* Những ngày sau đó người ta sẽ chuẩn bị đủ thứ đồ ăn. Thịt được xắt theo những hình thù đặc biệt, gạo và đậu nành được xay thành bột rồi nhào nặn thành bánh bao, bánh cuốn và há cảo. Đồ ăn được đặt vào hầm thực phẩm chờ đón năm mới. Nhiệt độ vào khoảng âm 6 độ C, căn hầm nghiễm nhiên trở thành chiếc tủ đông tự nhiên. Vào đêm Giao thừa, người ta đốt pháo bông lớn, đó là thời điểm mẹ tôi thấy hào hứng nhất. Sau đó mẹ cùng bà và bác sĩ Hạ ra ngoài bái lạy theo hướng họ cho là Thần Tài đến. Dọc con đường đó, rất nhiều người cũng làm như vậy. Rồi mọi người bắt đầu chúc mừng năm mới bằng câu,“Năm mới phát tài”. Vào dịp Tết Nguyên đán, người Trung Quốc có thói quen tặng nhau quà. Khi bình minh lấp ló nơi những ô cửa sổ hướng Đông, mẹ tôi sẽ nhảy ra khỏi giường, vội chạy đến bộ đồ mới để sẵn: áo khoác mới, quần mới, vớ mới và đôi giày mới. Sau đó mẹ cùng bà đi thăm chòm xóm, bè bạn, mẹ tôi cúi lạy tất cả người lớn. Mỗi lần lạy, mẹ tôi nhận được một phong bì đỏ có tiền bên trong. Những bì đỏ này cho mẹ tiền tiêu vặt cả năm. Mười lăm ngày kế tiếp, người lớn đi lòng vòng thăm viếng, chúc nhau may mắn. Chúc nhau phát tài, nghĩa là có tiền, là câu nói dân thường Trung Hoa luôn mong được nghe. Người ta rất nghèo, và trong gia đình bác sĩ Hạ, cũng như bao gia đình khác, chỉ khi lễ hội mới có thịt thà dồi dào. Kỳ lễ hội kết thúc vào ngày thứ mười lăm bằng một ngày hội đèn lồng vào buổi tối. Đám rước đèn là biểu tượng cho việc Hỏa thần đến thăm. Vị thần sẽ được rước khắp vùng để khuyến cáo mọi người cẩn thận với lửa, vì hầu hết nhà ở đây đều được làm từ gỗ cùng với thời tiết khô kèm gió lớn, lửa luôn là nguồn nguy hiểm đe dọa mọi nhà, và tượng Hỏa thần trong miếu thờ luôn đầy ắp đồ cúng quanh năm. Buổi rước đèn bắt đầu từ miếu Hỏa thần, ngay phía trước túp lều gia đình bác sĩ Hạ ở những ngày đầu đến Cẩm Châu. Một bản sao bức tượng thần, một người khổng lồ với mái tóc, chòm râu và hàng lông mày cùng chiếc áo choàng đỏ rực, được đặt lên một chiếc kiệu có tám thanh niên trai tráng khiêng. Đi sau đó là đoàn múa rồng và sư tử do cánh đàn ông đảm nhiệm cùng những vũ công múa lụa phất những dải lụa đủ màu quấn quanh eo lưng. Pháo hoa, trống, kèn khiến bầu không khí náo động tưng bừng. Mẹ tôi đi theo đuôi đoàn rước đèn lồng. Hầu hết mọi nhà đều bày thức ăn dọc đường để cúng thánh thần, nhưng mẹ thấy chẳng thánh thần nào đụng đến đồ ăn. Bà giải thích cho mẹ tôi rằng, “Tâm đáo Phật tri, thượng cung nhân cật” (Miễn có lòng thành thì Phật đều biết, còn đồ cúng thì để người ăn). Thời đó cuộc sống còn thiếu thốn, mẹ tôi rất mong ngóng tới các ngày lễ hội, chỉ những lúc đó mẹ mới được ăn uống thỏa thích. Mẹ tôi thường không mấy quan tâm đến các buổi lễ người ta ngâm thơ mà lại chẳng có gì ăn; mẹ cũng chán chường khi đợi bà tôi giải những câu đố thơ dán trên những chiếc lồng đèn rực rỡ được treo trước nhà mọi người trong lễ hội lồng đèn, hoặc phải theo bà đi ngắm hoa cúc ở vườn nhà mọi người vào ngày 9 tháng Chín âm lịch.* Một năm, trong lễ hội thần Thổ Địa của thị trấn, bà tôi chỉ cho mẹ tôi một hàng tượng đất trong miếu, tất cả đều được trang trí và sơn phết cho dịp lễ. Chúng là những hình tượng minh họa cho Âm phủ, đưa ra cảnh những người bị trừng phạt dưới cõi âm ti vì những tội lỗi của mình. Bà tôi chỉ vào một tượng có chiếc lưỡi bị kéo dài gần một tấc rưỡi và cùng lúc bị cắt bởi hai con quỷ tóc tai dựng ngược, mắt lồi ra như mắt ếch. Người đàn ông bị tra tấn như vậy vì lúc sống ở dương gian ông ta toàn nói dối, rồi bà nói, nếu mẹ tôi nói dối thì cũng sẽ chịu hình phạt tương tự. Có đến hàng tá nhóm tượng như vậy, nằm giữa đám đông ồn ào và hàng dãy thức ăn trông ngon đến chảy nước miếng, mỗi cảnh đều minh họa cho một bài học đạo đức. Bà tôi vui vẻ chỉ cho mẹ tôi hết cảnh ghê sợ này đến cảnh rùng rợn khác, nhưng khi đến trước một nhóm tượng, bà vội kéo mẹ tôi đi chỗ """