" Theo Em Vào Bóng Đêm - Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Theo Em Vào Bóng Đêm - Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Nếu ai đó yêu em thực lòng (Như từng có trước đây, Thì dường như, Em vẫn chẳng hề hay biết, Faustine)… - Algernon Charles Swinburne - Tiếng nhạc âm thầm nổi lên, những người tham gia xuất hiện, từ từ tiến lại gần nhau. Điệu waltz bắt đầu. Chương 1 T iết tháng Năm, nắng vàng rực, trời xanh biếc. New Orleans chính là thiên đường và nếu có thiên đường thứ hai thì cũng chỉ được như thế này mà thôi, không hơn. Tại nơi ở dành cho người độc thân trên đường St. Charles, Louis Durand đang thay quần áo. Không phải để bắt đầu ngày mới, bởi mặt trời đã lên cao và anh đã dậy từ mấy tiếng trước; mà vì một sự kiện lớn trong ngày. Hôm nay không phải một ngày bình thường, hôm nay là ngày quan trọng nhất. Một ngày chỉ đến với người đàn ông một lần, và giờ nó đã đến với anh. Dù muộn nhưng nó đã đến. Chính là ngày hôm nay. Anh không còn trẻ nữa. Bản thân anh tự bảo như vậy chứ không phải người khác bảo. Đàn ông ở tuổi anh chưa già. Nhưng với chuyện này, 37 tuổi không còn quá trẻ. Trên tường treo một cuốn lịch, bốn tờ đầu đã lật qua, phô ra tờ thứ năm. Trên cùng, ở giữa, chữ Tháng Năm nằm trang trọng. Hai bên, in nghiêng, đổ bóng, là những con số cuộn xoắn nặng nề, chỉ năm - ngày hờ hững lướt qua mắt người xem: 1880. Bên dưới, trong từng ô nhỏ, 19 chữ số đầu tiên đã bị gạch bỏ bằng bút chì. Riêng số thứ 20 được khoanh tròn bằng bút sáp đỏ. Tô đi tô lại, như thể nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Và những con số tiếp theo trống trơn; nó thuộc về tương lai. Anh mặc chiếc sơ mi có diềm đăng ten hồ bột mà bà Alphonsine đã giặt ủi vô cùng chăm chút, mỗi diềm xếp nếp là một tác phẩm nghệ thuật. Cổ tay áo đính những chiếc cúc bằng đá thạch lựu phủ bạc. Trong chiếc khăn ascot tie mượt mà trải từ cằm anh trở xuống, nhô ra cây ghim cài theo thông lệ mà bất cứ người đàn ông ăn vận trang trọng nào cũng phải có. Trong dịp này, nó là một mảnh trăng lưỡi liềm nạm kim cương điểm ở mỗi đầu một viên hồng ngọc. Một sợi dây đeo đồng hô bằng vàng nặng nề treo nơi túi áo gi-lê bên phải của anh. Nối nó với túi áo bên trái, gồ lên một mặt đồng hồ to bản, là chuỗi những sợi vàng dày dặn, nổi bật giữa bụng anh, và chủ đích như vậy. Đàn ông không có đồng hồ bỏ túi có còn đáng mặt đàn ông? Và một chiếc đồng hồ không được nằm ở đó là thứ đồng hồ vứt đi. Bên trên áo gi-lê bó sát, chiếc sơ mi đẹp đẽ, buông chùng khiến anh trông như một chú bồ câu to diều. Nhưng dù không có nó thì lúc này đây niềm kiêu hãnh cũng đủ làm căng tràn lồng ngực anh. Trên bàn làm việc mà anh đang đứng trước để chải tóc, là gói thư từ cùng một bức ảnh chụp dương bản. Đặt lược xuống, anh tạm dừng việc soạn sửa, cầm lên, xem từng bức thư. Bức thư đầu tiên có tiêu đề Cộng đồng Bạn hữu qua thư ở St. Louis, Mo. - Nhịp cầu giữa những quý cô và quý ông tài hoa, mở đầu bằng nét chữ đàn ông bay bướm. “Thưa ngài! Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi hân hạnh chuyển tới ngài tên tuổi và địa chỉ của một thành viên trong nhóm, nếu ngài muốn liên lạc với cô ấy, chúng tôi dám chắc rằng sự trao đổi thư từ tốt đẹp có thể được thực hiện…” Bức thư kế tiếp nét chữ còn thanh thoát hơn, lần này là nét chữ phụ nữ, “Gửi ngài Durand…” Và ký tên, “Trân trọng, cô J.Russell.” Bức thư tiếp, “Gửi anh Durand… Trân trọng, cô Julia Russell.” Bức thư tiếp theo, “Gửi Louis Durand… Người bạn của anh, Julia Russell.” Sau đó, “Louis thân mến… Bạn của anh, Julia.” Sau đó, “Louis thân mến… Người bạn Julia của anh.” Sau đó, “Louis thân yêu… Julia của anh.” Và cuối cùng. “Louis yêu dấu… Julia đang vô cùng chờ mong của anh.” Bức thư này có tái bút, “Bao giờ mới đến thứ Tư đây? Em đếm từng giờ mong được bước lên tàu!” Anh đặt chúng vào chỗ cũ, vỗ nhẹ cho cân, đầy dịu dàng trìu mến. Rồi anh đút chúng vào túi áo trong, kề sát trái tim. Bây giờ anh cầm bức ảnh nhỏ lồng khung ngắm nhìn thật lâu và chăm chú. Người trong ảnh không còn trẻ. Chắc chắn cô chưa đến nỗi già, nhưng hẳn cũng không còn là thiếu nữ. Những đường nét của cô hóp vào với sự biến đổi dần rõ nét. Cái miệng đã bắt dầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn và trũng xuống, sẽ đến trong nay mai. Da mặt đang chùng. Sống mũi đã cong và sắp trở thành hình quặp, cằm nhô về phía trước và sẽ xuất hiện cục lồi. Cô không đẹp. Nhưng có thể coi là hấp dẫn, bởi anh thấy cô hấp dẫn, mà xấu đẹp là do mắt người nhìn. Mái tóc đen của cô được búi thành hình nón sau gáy, một vạt tóc mỏng được để lại, rủ lòa xòa trước trán, theo mốt thời trang thịnh hành xưa nay. Thực ra nó đã lặng lẽ hết mốt từ lâu. Do sự hạn chế của khuôn hình mà món trang sức duy nhất góp mặt là dải ruy băng nhung đen thắt ở cổ cô, vì ngay bên dưới, bức ảnh đã kết thúc trong lớp mây nâu khói của nước ảnh. Đây chính là thỏa thuận của anh với tình yêu, vơ lấy những gì có thể trong sự vội vàng bạt mạng, bởi vì anh sợ không còn gì để mà lấy, vì đã chờ đợi quá lâu, sau khi anh đã chờ 15 năm, kiên quyết quay lung với nó. Tình yêu thuở hoa niên, mối tình đầu (mà anh đã thề là tình cuối) giờ chỉ còn là hồi ức nhạt nhòa, một cái tên trong quá khứ đã gần lãng quên. Marguerite, bây giờ anh có thể gọi tên mà không thấy xốn xang. Khô và phẳng như một bông hoa ép trong sách nhiều năm trời. Cái tên trong quá khứ của một người khác, không phải anh. Người ta nói cứ sau 7 năm chúng ta lại thay đổi hoàn toàn, không còn chút gì của con người cũ. Như vậy, anh đã hai lần trở thành một người khác xưa. Anh đã hai lần giã từ cậu thanh niên 22 tuổi -Louis Durand xưa kia, và là mối liên hệ duy nhất giữa họ - người đã gõ cửa nhà cô dâu tương lai vào buổi tối trước đám cưới, mắt long lanh, tay ôm hoa. Rồi đứng đợi mãi. Và anh thấy cửa từ từ mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, khiêng một chiếc cáng phủ kín. “Tránh ra nào, bệnh sốt vàng da đấy.” Anh trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay cô ấy, kéo lê trên đường. Anh không khóc òa. Anh không thốt ra lời nào. Anh cúi xuống đặt những bông hoa mang tình yêu đôi lứa lên cái cáng chở người chết đi qua. Rồi anh quay lưng rời khỏi đó. Rời khỏi tình yêu, trong 15 năm. Marguerite. Cái tên ấy là tất cả những gì anh còn lại. Anh chung thủy với cái tên ấy cho đến lúc chết. Vì anh cũng đã chết, dù chậm hơn cô. Chàng thanh niên 22 tuổi chết đi trở thành người đàn ông 29 tuổi. Đến lượt anh ta chung thủy với cái tên mà người đi trước đã chung thủy, cho đến khi chết. Rồi người đàn ông 29 tuổi trở thành người đàn ông 36 tuổi. Và bỗng một ngày, nỗi cô đơn chồng chất suốt 15 năm, bị dồn nén, đã vỡ òa và nhấn chìm anh, khiến anh hoảng loạn tìm đường thoát. Bất cứ tình yêu nào, ở bất cứ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. Nhanh lên, trước khi quá muộn, để không phải cô đơn thêm nữa. Khi ấy, chỉ cần anh gặp một người trong tiệm ăn… Hoặc chỉ cần anh gặp một người qua đường… Nhưng anh không gặp ai cả. Thay vào đó, mắt anh cụp xuống dõi theo mục quảng cáo trên báo. Một mục quảng cáo của St. Louis trên một tờ báo ở New Orleans. Bạn không cách nào thoát khỏi tình yêu! Những suy nghĩ trong anh chấm dứt. Tiếng bánh xe ngựa dừng ngay bên ngoài khiến anh nhét bức ảnh trong ví và cho vào túi. Anh bước ra hiên tầng hai nhìn xuống. Ánh nắng rọi trắng xóa lưng anh như bột mì khi anh vươn người, đè lên nhánh hoa giấy đỏ tươi leo quanh thành lan can. Một người đàn ông da đen từ ngoài đường đi vào sân qua một hành lang. “Làm gì mà lâu thế?” Durand hỏi vọng xuống. “Có hoa cho tôi chưa?” Câu hỏi hoàn toàn tu từ, vì anh đã thấy cái gói hình nón, phía trên những lớp giấy sáp bọc ngoài lấp ló sắc hồng. “Chắc chắn rồi ạ!” “Còn xe ngựa thì sao?” “Nó đang đợi cậu đấy!” “Tôi tưởng ông chẳng bao giờ thuê xe ngoài,” anh nói tiếp. “Ông chỉ thích…” Người đầy tớ da đen lắc đầu vẻ triết lí. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả.” “Nhanh lên, Tom,” anh nôn nóng giục giã. “Đừng đứng dưới đó cả ngày như thế.” Vẫn giữ nụ cười trêu chọc, Tom đi tiếp, khuất dạng dưới sườn nhà. Lúc sau, cửa phòng mở ra và ông bước đến sau lưng ông chủ. Anh quay lại, đến gần ông, giành lấy bó hoa, lột hết những lớp bọc ngoài, với sự vội vàng nôn nóng hơn là cẩn thận nâng niu. “Cậu định tặng cho cô ấy, hay là phá nát nó?” Ông ta hỏi mát. “Chà, tôi phải xem trước chứ, đúng không? Ông nói xem cô ấy có thích hoa hồng và hoa đậu thơm không, Tom?” Có sự tuyệt vọng trong câu hỏi cuối, giống như khi người ta đã hết cách. “Không phải tất cả phụ nữ đều vậy ư?” “Tôi không biết. Cô gái duy nhất mà tôi…,” anh không nói hết câu. “Ôi, bọn họ,” Tom nói với vẻ bao dung. “Người bán hàng nói họ sẽ thích, anh ta bảo phụ nữ đều yêu cầu loại hoa này.” Ông cẩn thận vuốt phẳng lớp giấy bọc phía trên, trả lại sự gọn gàng cho bó hoa. Trong lúc đó Durand nháo nhào thu gom quần áo còn lại, chuẩn bị lên đường. “Tôi muốn đến nhà mới trước,” anh nói, có phần hổn hển. “Cậu mới ở đó hôm qua,” Tom chỉ ra. “Hình như cậu sợ nếu xa nó một ngày thì nó sẽ bay mất ấy.” “Tôi biết, nhưng đây là lần cuối cùng tôi phải đảm bảo mọi thứ đều… ông nói với em gái ông chưa? Tôi muốn bà ấy ở đó khi chúng ta đến.” “Bà ấy sẽ ở đó.” Durand đặt tay lên nắm đấm cửa, rồi lại dừng bước, nhìn quanh, và bộ dạng hăm hở chùng hẳn. “Đây sẽ là thời khắc cuối cùng của nơi này, Tom ạ.” “Nó thật đẹp và yên bình, cậu Lou,” người đầy tớ thừa nhận. “Trong mấy năm qua, từ lúc cậu bắt đầu già đi.” Như bị tác động trước lời cảnh báo ngấm ngầm về sự trôi qua của thời gian, không khí khởi hành lại sôi động. “Ông hãy đóng gói nốt, để ý đồ của tôi đằng kia. Nhớ trả chìa khóa cho Madame Tellier trước khi đi.” Anh lại dừng lại, quả đấm cửa đã xoay, nhưng cửa vẫn chưa mở. “Sao thế, cậu Lou?” “Tôi thấy sợ. Tôi lo cô ấy…,” anh nuốt khan qua cổ áo dựng đến tai, đưa mu bàn tay thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, “… sẽ không thích tôi.” “Tôi thấy cậu rất bảnh.” “Cho đến giờ, mọi chuyện chỉ diễn ra qua thư từ. Trong thư thì dễ.” “Cậu đã gửi ảnh cho cô ấy. Cô ấy biết cậu trông như thế nào,” Tom tìm cách khích lệ. “Ảnh chỉ là ảnh. Người thật thì khác.” Tom tiến đến chỗ anh đang đứng ủ rũ chếch một bên cửa, phủi bụi sau vai áo vest cho anh. “Cậu không phải người đẹp trai nhất N’Orleans, nhưng cũng đâu phải người xấu nhất.” “Tôi không định nói đến vẻ ngoài. Tính cách của chúng tôi…” “Tuổi tác hai người hợp nhau. Cậu đã cho cô ấy biết.” “Tôi đã bớt đi một năm. Tôi đã nói mình 36 tuổi, như vậy nghe đỡ hơn.” “Cậu có thể cho cô ấy một cuộc sống thoải mái, cậu Lou.” Durand sốt sắng gật đầu, như thể đến giờ mới cảm thấy tự tin. “Cô ấy sẽ không nghèo khổ.” “Vậy thì không cần quá lo lắng nữa. Đàn ông khi yêu coi trọng ngoại hình. Còn phụ nữ khi yêu, nói vô phép cậu, họ chỉ muốn biết mình sẽ sống sung túc ra sao thôi.” Nét mặt Durand tươi tỉnh hẳn. “Cô ấy sẽ không phải chắt bóp.” Anh ngẩng cao đầu trước phát hiện mới mẻ. “Cho dù tôi không được như kỳ vọng, cô ấy cũng sẽ dần quen với tôi.” “Cậu chỉ muốn yên tâm thôi phải không?” Tom lục lọi trong người, lôi ra sợi dây cất kĩ trong ngực, treo một cái chân thỏ cũ mèm lồng trong chiếc vòng nhỏ mạ vàng. Ông đưa nó cho Durand. “Ồ, tôi không tin vào…,” Durand lúng túng từ chối. “Chúng không sai khiến được người đàn ông da trắng nói đồng ý,” Tom cười tủm tỉm. “Chúng cũng chẳng khiến cho anh ta nói điều ngược lại. Cậu cứ để nó trong túi, không hại gì đâu.” Durand áy náy cất nó đi. Anh nhìn đồng hồ, rồi đóng nắp lại. “Muộn rồi! Tôi không muốn lỡ chuyến tàu!” Lần này anh đẩy mạnh cánh cửa, bước qua ngưỡng cửa đánh dấu đời độc thân. “Cậu còn hơn nửa tiếng trước khi tàu của cô ấy hiện ra trên sông.” Nhưng Louis Durand, chú rể tương lai, chẳng chần chờ, anh chạy bổ xuống cầu thang lát đá bên ngoài ngôi nhà của Madame Tellier với dáng vẻ tất tả. Lát sau từ cửa sổ dưới sân vọng lên những tiếng rầm rập. Tom sải bước ra ngoài hiên tầng hai. “Mũ của tôi! Ném nó xuống đây.” Durand nôn nóng nhảy lên nhảy xuống. Tom ném nó xuống rồi đi vào. Một giây sau, tiếng rầm rập lại vang lên, còn bức thiết hơn. “Gậy của tôi nữa!” Nó rơi xuống, được bắt lấy khéo léo giữa không trung. Một làn bụi nhỏ nhuộm nắng vẩn lên từ những phiến đá lát không được sạch lắm của Madame Tellier. Tom quay đi, lắc đầu chịu thua. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả, chắc chắn rồi!” Chương 2 C hiếc xe ngựa chạy bon bon trên đường St. Louis. Durand ngồi chồm về phía trước sát mép ghế, hai tay đặt trên đầu gậy và phần trên cơ thể anh tựa vào đó. Chợt anh ngả hẳn người về phía trước. “Nó kìa,” anh kêu lên, trỏ tay đầy phần khích. “Ngay kia kìa.” “Nhà mới tinh, phải không?” Người xà ích ngạc nhiên xen lẫn ngưỡng mộ. “Chính tay tôi xây đấy,” Durand khoe với niềm hãnh diện trẻ con, sau 16 năm mới xuất hiện. Rồi anh đính chính, “Ý tôi là, họ xây nó theo chỉ dẫn của tôi. Tôi nói với họ, tôi muốn nó trông ra sao.” Người xà ích gãi đầu. Một cử chỉ không phải vì lúng túng mà là vì choáng ngợp trước sự bề thế của ngôi nhà. “Đẹp quá,” ông ta nói. Ngôi nhà cao hai tầng, được xây bằng gạch màu vàng sẫm, với đường trang trí màu trắng quanh cửa sổ và cửa đi. Nó không lớn, nhưng chiếm vị trí hết sức thuận lợi, nằm trên một mảnh đất ở góc phố, giáp hai mặt đường, không bị cản trở. Hơn nữa, miếng đất còn chạy dài ra xa ngôi nhà, không rộng rãi thì cũng thoáng đãng, không bị kề sát nhà hàng xóm. Có cả chỗ cho những vuông cỏ trước nhà, và một mảnh vườn phía sau. Tất nhiên nó vẫn chưa hoàn thiện. Còn đầy gạch vụn chất đống đằng trước, thảm cỏ lởm chởm, và kính cửa sổ loang lổ vệt sơn. Nhưng có một vẻ gần như tôn kính trên khuôn mặt người đàn ông khi anh nhìn vào. Đôi môi anh hé ra và cặp mắt dịu lại. Anh không ngờ có một ngôi nhà đẹp như thế. Ngôi nhà đẹp nhất anh từng thấy. Ngôi nhà của anh. Tiếng quất roi của người xà ích dứt anh khỏi cơn mơ mộng. “Ông đợi tôi một lúc, lát nữa tôi còn đi đón tàu.” “Được thôi, ngài cứ thong thả,” người xà ích toét miệng cười thấu hiểu. “Người đàn ông phải ngắm ngôi nhà của mình chứ.” Durand không đi vào nhà ngay. Mà anh kéo dài niềm sung sướng hiện có bằng việc dạo vòng quanh hai mặt tiền ngôi nhà. Anh kiểm tra đá ở chân tường bằng cây gậy, đưa tay lay thử cánh cửa chớp, mở ra rồi sập vào. Anh còn chọc gậy vào một búi rơm nhỏ và gẩy nó khỏi lối đi, để lại một vệt vương vãi còn tệ hơn kẻ xâm phạm ban đầu. Cuối cùng anh quay về cửa chính, ngẩng cao đầu tự hào. Trên bề mặt gỗ thông sơn trắng có một chỗ được đánh dấu bút chì để lắp một vòng gõ cửa bằng sắt chạm trổ, nhưng hiện vẫn chưa có. Anh đã đích thân đến xưởng đúc để chọn. Không có nỗ lực nào là quá lớn, không có chi tiết nào là quá nhỏ. Không thèm giơ tay gõ cửa, có lẽ vì cho rằng thật phi lí nếu phải gõ cửa chính nhà mình, anh vặn thử nắm đấm, nó không khóa, và bước vào nhà. Một mùi riêng biệt và không dễ chịu - nhưng trong trường hợp này nó thật hấp dân - tỏa ra trong ngôi nhà mới, của gỗ mới bào, của nhựa thông hăng hắc trong sơn, ma tít cửa sổ, và rất nhiều thành phần khác khó xác định. Một cầu thang mới tinh, bằng gỗ thích vừa đánh véc-ni được phủ lớp giấy nâu bảo vệ chạy dọc ở giữa, từ phía sau sảnh vươn lên tầng trên. Anh rẽ sang phòng tiếp khách nhỏ. Ô cửa sổ phía tây hắt những dải nắng vàng vuông vức xuống sàn nhà. Khi anh đứng nhìn, căn phòng liền thay đổi. Một tấm thảm dày thêu hoa trải kín những tấm ván sàn thô mộc. Lửa đỏ rực bập bùng hất ra từ lò sưởi hiện trống không phía dưới bệ đá. Trên tường treo tấm gương tròn mang ý nghĩa tâm linh. Một sofa bọc nhung lông, một chiếc ghế bọc nhung lông, một chiếc bàn, dần hiện hữu ở nơi lúc này vẫn trống trơn. Trên bàn, một cây đèn có chụp hình cầu màu trắng sữa bắt dầu le lói sáng, càng lúc càng rực rỡ. Dưới ánh sáng của nó, một mái tóc đen hiện ra, thư thái tựa vào lưng ghế bọc vải trắng. Trên bàn còn có một giỏ đồ khâu để dưới ngọn đèn, món đồ này nhìn mơ hồ hơn những chi tiết khác. Rồi có tiếng xô thùng kêu loảng xoảng trên gác, và một làn sóng xóa mờ tràn qua căn phòng, tấm thảm mỏng đi, lửa trong lò tối lại, đèn tắt và mái tóc đen không rõ mặt cũng biến mất theo, căn phòng lại hoang vắng như trước. Chỉ có những súc giấy dán tường, một chiếc xô trên khung gỗ, sàn nhà trơ trụi. “Ai dưới đó thế?” Một giọng phụ nữ vọng xuống qua những khoảng trống. Anh đi ra sảnh đến dưới chân cầu thang. “Ồ, cậu Lou à. Sắp xong cho cậu rồi đây.” Gương mặt thô sạm của một bà lão da đen, buộc khăn trùm ngang trán, ngó xuống từ lan can cầu thang. “Thợ làm dưới đây đi đâu rồi,” anh hỏi vẻ không vui. “Anh ta phải làm nốt đi chứ.” “Chắc là đi lấy thêm hồ. Cậu ta về ngay thôi.” “Trên đó thế nào?” “Đang hoàn tất, thưa cậu.” Anh bất ngờ rảo bước, thoăn thoắt lên cầu thang. “Chủ yếu tôi muốn xem phòng ngủ,” anh tuyên bố, lướt qua bà. “Có cái gì mà chú rể không xem đâu?” Bà mỉm cười. Anh dừng lại ở cửa, ngoái nhìn bà vẻ quở trách. “Là vì giấy dán tường,” anh vụng về chống chế. “Cậu khỏi cần giải thích với tôi, cậu Lou. Làm sao cậu già đời bằng tôi được.” Anh tiến đến bức tường, rà những ngón tay lên đó, như thể những bông hoa là thật chứ không phải hình vẽ. “Dán lên nhìn còn đẹp hơn, bà có thấy thế không?” “Vâng, đúng vậy,” bà đồng ý. “Tôi đã dồn hết công sức cho nó, phải cử người tới tận New York tìm mua. Đây này, tôi đã hỏi cô ấy thích loại nào mà không cho cô ấy biết lí do.” Anh lục túi lấy ra một lá thư, căng mắt đọc. Cuối cùng chỉ ngón tay vào đoạn muốn tìm, được gạch dưới. “… còn về phòng ngủ thì em thích màu hồng, nhưng không được hồng quá, với những bông hoa nhỏ xanh lam như hoa lưu ly chẳng hạn.” Anh hân hoan gấp lá thư lại, ngả đầu vào bức tường. Thím Sarah chỉ nghe lấy lệ. “Tôi còn cả đống việc chưa làm. Cậu thứ lỗi cho, tôi muốn cậu rời khỏi đây. Trước tiên, tôi phải sắp xếp chiếc giường này.” Bà lại cười tủm tỉm. “Sao bà cứ cười mãi thế?” Anh phản đối. “Bà không được làm thế nữa khi cô ấy đến đây.” “Ôi, không. Tôi ý tứ lắm chứ, cậu Lou. Cậu không phải băn khoăn về chuyện đó.” Anh rời khỏi phòng, rồi lập tức quành về cửa. “Bà xem có thể treo xong rèm dưới nhà trước khi cô ấy đến không? Mấy cái cửa sổ nom trần trụi quá.” “Cậu cứ đưa cô ấy về, nhà cửa sẽ sẵn sàng,” bà hứa trong lúc bận rộn hất tấm khăn trải giường trắng tinh tung bay như cánh buồm trong gió. Anh đi. Rồi lại trở lại, lần này ở lưng chừng cầu thang. Ồ, mong bà tốt bụng tìm cho ít hoa, cắm ở đây và dưới kia. Có lẽ là trong phòng khách, để chào đón khi cô ấy đến.” Bà lẩm bẩm câu gì đó nghe như, “Cô ấy chẳng rỗi hơi đi ngửi hoa đâu.” “Cái gì?” Anh nghe thấy, cau mặt. Bà già khôn ngoan không lặp lại câu nói. Anh rời đi. Và quay lại một lần nữa. Lần này ở dưới chân cầu thang. “Mà bà nhớ thắp hết đèn lên trước khi đi đấy. Tôi muốn nơi này sáng sủa và ấm cúng ngay lần đầu tiên cô ấy trông thấy.” “Cậu cứ làm phiền tôi mãi vậy,” bà trách cứ, nhưng không quá bực dọc, “chắc chắn tôi sẽ làm xong hết. Giờ mời cậu đi cho,” bà ra lệnh, giũ tạp dề về phía anh với sự thân mật khinh khỉnh như thể anh mới 7 tuổi hoặc 17 tuổi, chứ không phải đã 37 tuổi. “Không gì phiền phức bằng, khi một người đàn ông nghĩ anh ta đang giúp tôi sửa sang nơi ở cho người khác.” Anh ném ánh mắt tự ái cho bà, rồi đi xuống. Lần này anh không quay lại nữa. Thế nhưng, năm phút sau, khi bà xuống dưới nhà, anh vẫn ở đó. Anh đứng trước bàn, ngẫu nhiên quay lưng về phía bà. Hai tay anh chống lên bàn, hơi cúi người xuống. Như đang chăm chú nhìn vào một tương lai xa, chỉ mình anh thấy được. Như đang chờ đợi một hình ảnh nhỏ bé tiến về phía mình theo quỹ đạo xoắn ốc, gần hơn, lớn dần lên, thành kích thước thật… Anh không nghe thấy thím Sarah đi xuống. Anh chỉ dứt mình khỏi viễn cảnh và quay lại khi nghe thấy giọng bà. “Cậu vẫn ở đây à, cậu Lou? Tôi nên biết mới phải.” Bà chống nạnh, quan sát anh một cách độ lượng. “Nhìn xem. Hẳn là cậu đang hạnh phúc? Tôi chưa thấy vẻ mặt nào như thế trước đây.” Anh ngượng ngập vuốt tay qua phần dưới khuôn mặt, như thể nó là đối tượng bà vừa đề cập. “Nó lộ liễu lắm sao?” Anh nhìn quanh vẻ hoang mang, như chưa thể tin hẳn khung cảnh xung quanh là thật. “Ngôi nhà của ta…,” anh khẽ lẩm bẩm. “Người vợ của ta…” “Đàn ông không có vợ thì không hoàn toàn là đàn ông, chỉ là cái bóng đi loanh quanh không ai để ý.” Bàn tay anh chạm vào ngực áo vẻ nghi hoặc, rồi bỏ xuống thật nhanh. “Tôi cứ nghe thấy tiếng nhạc. Có ban nhạc nào chơi ngoài phố gần đây không?” “Có một ban nhạc đang chơi,” bà nghiêm túc xác nhận. “Một ban nhạc đặc biệt, chỉ cho mỗi người nghe một lần. Chỉ trong một ngày. Tôi đã từng được nghe. Hôm nay sẽ là ngày cậu được nghe.” “Tôi nên đi bây giờ!” Anh lao ra cửa, mở tung cánh cửa, chạy xuôi lối đi và nhảy lên chiếc xe đang lắc lư đợi. “Tới bến tàu trên đường Canal,” anh thở hắt ra với vẻ háo hức vui sướng, “đón tàu từ thành phố St. Louis đến.” Chương 3 D òng sông vắng lặng, bầu trời quang đãng. Cả hai đều được phản chiếu trong đôi mắt chờ mong hồi hộp của anh. Thế rồi, một vệt mờ cong cong xuất hiện, không lớn hơn một dấu tay người trên nền trời bao la. Có vẻ nó đến từ một bờ tít tắp nào đó chứ không phải con sông; nó như lơ lửng trên mặt đất, khi vòng qua một khúc sông ngoặt, rồi thẳng tiến về New Orleans và bến tàu. Và những người tập trung ở đó. Anh đứng chờ cùng những người xung quanh. Họ túm tụm vào nhau nhưng chỉ sượt qua anh. Những con người xa lạ anh không quen, chưa từng gặp và sẽ không bao giờ gặp lại, tập trung một chỗ trong chốc lát chờ một con tàu cập bến. Anh chọn đứng tại một đầu cọc nhô lên phía trên cầu tàu; đó là vọng gác của anh, anh đứng sát cạnh nó, không cho ai tranh mất, anh biết nó sẽ phát huy tác dụng trong việc tiếp cận con tàu. Anh đứng gác một chân vững chãi lên nó, được một lúc thì anh chống cả hai tay và dựa người vào nó để phòng trước. Có lúc anh còn ngồi lên nó, nhưng nhanh chóng đứng lên, như thể cho rằng đứng lên thì tàu sẽ cập bến nhanh hơn. Lúc này khói đã bốc cao trên nền trời, như một bầy đà điểu châu Phi đen xám bị nhốt một chỗ đang vùng vẫy thoát khỏi nhau. Dưới đám khói cuồn cuộn là một hình nón mảnh màu đen, nhô dần lên; một cái ống khói. Rồi đến cái thứ hai. "Cô nàng kìa," một công nhân bến tàu kêu to, cái thông báo thừa thãi và muộn màng ấy lập tức được đón bắt và lặp lại bởi vài ba người ở gần anh. “Đúng đúng, cô nàng kìa,” họ hùa theo anh chàng. “Đúng cô nàng rồi.” Cô ấy kìa, trái tim Durand trìu mến tự nhủ. Nhưng anh muốn nói về một cô gái chứ không phải con tàu. Ống khói, như một lưỡi dao cùn cắt vào mặt đất, xóa sạch đường đê và hiện rõ trên mặt nước. Một hình dáng hung hung đen, phía dưới có hai hàng dài những vết lõm nhỏ xíu hai bên, bên dưới nữa là thân tàu đen đúa mà ở khoảng cách xa như vậy chỉ nhìn thấy một đường mỏng. Những mái chèo khua đều nhịp, đến đỉnh bánh lái lại rơi xuống, bắn những bụi nước xuống mặt nước màu nâu phập phồng chịu khuất phục bên dưới. Con tàu chuyển hướng và trở nên lớn hơn, mũi tàu chĩa về đằng trước. Lúc này nó đã mang kích thước thật, lừng lững lao về bến tàu như muốn nghiền nát nó. Một tiếng kêu lanh lảnh chói tai, đầy thê lương, như tiếng than khóc của một linh hồn chết trong đau đớn, vút lên từ con tàu, một chùm khói trắng bao quanh ống khói trôi hút về phía sau. Con tàu Thành phố New Orleans, rời bến St. Louis ba ngày trước, đã trở về bến cảng trùng tên với nó, cảng mẹ của nó. Những bánh lái bên mạn ngừng quay, và bắt đầu trượt đi như một con tàu giấy, như bóng ma trên mặt nước. Nó xoay nghiêng, chạy dọc theo bến, tốc độ còn nhanh hơn lúc nó tiến thẳng đến, dù thực ra là ngược lại. Những vết lõm hình chữ V lướt qua như một hàng cọc rào, chậm dần; cuối cùng dừng lại, đảo chiều một chút và tròng trành. Mặt nước giữa thân tàu và bến tàu, nổi điên vì bị xô đẩy, quằn quại vùng vẫy và hổn hển, cố tìm đường thoát, để rồi cuối cùng bị ép thành dòng kênh hẹp. Con sông và bầu trời đều bị con tàu sừng sững choán chỗ. Một người nhàn rỗi tựa vào lan can trên boong vẫy tay vu vơ. Không phải với Durand, vì đó là một người đàn ông. Cũng không phải với bất cứ người nào cụ thể. Chỉ là cái vẫy tay chào hỏi. Dưới bến có một người thay mặt cả nhóm vẫy lại với bộ dạng tương tự. Một sợi dây thừng được ném xuống, nhiều người lùi về sau tránh bị nó quật vào. Những công nhân bến tàu tiến đến trong khoảnh khắc vinh quang ngắn ngủi, nắm lấy sợi dây, khéo léo buộc quanh đầu cọc ngay trước mặt Durand. Họ cũng đang làm điều đó ở phía bên kia. Con tàu nhanh chóng được neo lại. Một cầu tạm có khung được trải xuống, lan can ở boong dưới bị gỡ ra một đoạn nhỏ. Khoảng hở ở giữa được nối liền. Khi nó vừa lắp xong, một sĩ quan trên tàu bước xuống, đứng ngay phía dưới để giám sát việc bốc dỡ hàng. Hành khách từ hai phía dọc boong tàu đổ về, nối nhau đi xuống qua cây cầu. Durand di chuyển cho đến khi có thể chống tay lên nó, như trong một đòi hỏi thầm lặng; ngước lên nhìn chăm chăm từng khuôn mặt đi xuống và lướt qua, chỉ cách anh vài phân. Hành khách đầu tiên xuống tàu là một người đàn ông, sải những bước dài, hai tay xách hai hộp hàng mẫu, một lái buôn đang vội vã. Tiếp theo là một phụ nữ, đi rón rén; tóc xám và đeo kính; không phải cô. Đến một người phụ nữ khác, vẫn không phải cô; người chồng đi ngay đằng sau, đỡ cánh tay cô ta. Tiếp đến là một gia đình, đi theo thứ tự vai vế. Rồi đến một nhóm đàn ông, đi hai, ba người một hàng. Đối với anh, những khuôn mặt ấy chỉ là những con người nhợt nhạt, nhanh chóng đi qua. Rồi đến một phụ nữ, khoan đã… không, không phải cô. Đôi mắt khác, cái mũi khác, gương mặt khác. Mắt anh bắt gặp ánh mắt của người lạ ấy, lập tức phủ nhận. Một người đàn ông nữa. Một người phụ nữ nữa. Tóc đỏ và lông mày màu cát; không phải cô. Rồi đến khoảng trống, một quãng dừng, một sự chờ đợi. Tim anh thót lên hoảng loạn, rồi hồi phục lại. Một tiếng gõ nhẹ chạy dọc những ván tàu, như có một người chậm chạp nào đó đang vội vã bắt kịp những người khác. Đó là tiếng bước chân nhỏ và nhanh của một người phụ nữ. Những đường ren váy phấp phới, một gương mặt… không phải cô. Mùi nước hoa tử đinh hương, đôi mắt hờ hững không quan tâm đến anh, như ánh mắt anh đối với chúng, không có sự tìm kiếm, nhận biết trong chúng. Không phải cô. Rồi không còn ai nữa. Cầu tàu trống trơn, chìm vào khoảng lặng thường xuất hiện khi kết thúc một sự việc. Anh ngước nhìn trân trân, gương mặt thờ thẫn. Hai tay anh đang bám chặt mép cầu tạm, cuối cùng buông ra. Anh đi vòng sang bên đối diện, bắt chuyện với viên sĩ quan đứng nhàn rỗi, lo lắng nắm lấy tay áo anh ta. “Không còn ai khác à?” Viên sĩ quan quay về sau, đặt tay lên miệng làm loa truyền câu hỏi lên boong tàu. “Còn ai nữa không?” Một người trên tàu, có lẽ là thuyền trưởng, bước ra lan can ngó xuống. “Tất cả đã lên bờ,” ông ta đáp trả. Nó như hồi chuông báo tử. Durand thấy anh chỉ còn một mình, chìm trong bể im lặng đột ngột ập đến theo sau; mặc cho xung quanh vẫn ồn ào đủ thứ tiếng. Nhưng với anh chỉ có im lặng. Cái kết cục quá choáng váng. “Nhưng ắt hẳn là còn… phải có…” “Không còn ai hết,” viên thuyền trưởng tươi cười. “Anh cứ lên mà xem.” Rồi ông ta quay đi và rời khỏi lan can. Lúc này đến lượt hành lý được đưa xuống. Anh chờ đợi, hi vọng một phép màu. Không còn người nào nữa, chỉ có hành lý và hàng hóa lặt vặt còn lại. Cuối cùng đến cả chúng cũng đi hết. Anh quành về, đi dọc cầu tàu và rời sang mặt đất cứng, đi tiếp một đoạn nữa trong trạng thái lơ ngơ. Gương mặt anh ngoảnh hẳn sang bên, như thể vừa gặp một cơn đau bên này lớn hơn cơn đau bên kia, mặc dù không phải thế, khắp người anh đều chung một nỗi đau đớn. Anh dừng lại lúc nào không hay, cũng không biết tại sao mình dừng lại. Chẳng còn lí do gì để anh nấn ná nữa. Con tàu không có gì cho anh, dòng sông không có gì cho anh. Ở đây chẳng có gì cho anh. Ở đây hay bất cứ nơi đâu. Nước mắt dâng đầy trong mắt anh, dù chẳng có ai ở gần, chẳng có ai để ý, anh vẫn chầm chậm cúi đầu che giấu. Anh cứ đứng cúi gằm như thế, như một người đưa ma lặng lẽ trước cỗ quan tài. Một cỗ quan tài chỉ riêng anh trông thấy. Mặt đất phía trước cặp mắt mờ nhòa của anh trống không; lớp đất màu bánh quy ấm nóng dưới ánh mặt trời. Cuộc đời anh từ nay về sau, có lẽ cũng trống rỗng như thế. Thế rồi, trên mặt đất chợt xuất hiện bóng một cái đầu ngập ngừng, ở sau lưng anh hắt lên, tiến đến gần. Rồi tới cổ và đôi vai. Tiếp đó là hình dáng một vòng eo thanh mảnh. Và rồi toàn bộ hình hài ấy ngừng chuyển động, đứng im. Đôi mắt đã mờ của anh không ghi nhận được hiện tượng đó. Chúng không nhìn thấy mặt đất hay bất cứ thứ gì in bên trên. Chúng chỉ nhìn thấy ngôi nhà ở đường St. Louis, đang vĩnh biệt nó. Anh sẽ không bao giờ bước vào ngôi nhà ấy, không bao giờ quay lại đó nữa. Anh sẽ giao nó cho bên môi giới, bảo họ… Một bàn tay khẽ chạm vào vai anh. Không đè xuống, không lay; mà êm và mỏng như cánh bướm đậu. Cái bóng trên mặt đất đã giơ tay chạm vào cái bóng của anh, để yên một lúc, rồi hạ xuống. Anh chậm chạp ngẩng đầu lên, rồi chậm chạp quay sang phía vai vừa bị chạm. Một bóng người xoay vòng trước mặt anh, như ở trên một bàn xoay với cặp mắt anh làm trục; mặc dù là anh chuyển động chứ không phải mặt đất. Hình dáng ấy nhỏ nhắn, song từng chi tiết cân đối một cách hoàn hảo đến độ, nhưng là đối với phép so sánh của một cặp mắt lùng sục những đối tượng khác đặt bên cạnh, nó có thể chấp mọi tiêu chuẩn: sự quý phái của một bức tượng cổ điển hay sự tinh tế của một con búp bê lộng lẫy. Cặp mắt nâu trong suốt của cô ngước lên khi Durand xoay vai lại. Gương mặt cô mang vẻ đẹp tuyệt trần anh chưa từng thấy, vẻ đẹp của men sứ, nhưng không cứng nhắc lạnh lùng, và cái miệng như cánh hoa hồng bị vò nát. Cô chỉ chớm hai mươi, dù thân hình có thể khai man tuổi, nhưng thêm được rất ít so với thực tế. Cô có làn da của thiếu nữ, và cặp mắt trong sáng, tin cậy của một đứa trẻ. Những lọn tóc vàng quăn tít ôm quanh đầu cô như cánh đồng hoa cúc, gần như thành công trong việc chống đối kiểu tóc bình thường mà cô áp đặt cho chúng. Chúng chỉ chịu bó mình vào một búi sau gáy nhờ sức mạnh của mó ghim kẹp. Còn phần tóc mái trước trán hoàn toàn thua cuộc, bung ra xung quanh như lớp sóng biển màu hoàng ngọc. Cô vươn người ra trước theo dáng vẻ "nghiêng Hy Lạp" đặc trưng. Cô mặc bộ váy theo thời trang thịnh hành lúc ấy, và đã thịnh hành nhiều năm. Nó ôm khít như lớp bao của chiếc ô cụp, có một vuông vải màu ở giữa, túm ra phía sau gợi lên hình ảnh chiếc tạp dề hoặc một lớp váy thứ hai phủ lên phần còn lại, đằng sau phồng lên những nơ bướm và nếp cuộn, được chống một cách nghệ thuật bằng bộ khung kim loại. Đây là sự khác thường đầy phong cách, không có nó thì vòng ba của người phụ nữ ắt trông mỡ màng một cách khiếm nhã. Cũng như việc để lộ mu bàn chân - suy nghĩ khinh suất số một - hoặc mắt cá chân, được chấp nhận miễn là phải ý tứ khi ngồi. Một chiếc mũ rơm nhỏ màu đỏ ánh xanh, bẹt và không lớn hơn lòng bàn tay một người đàn ông, đậu trên những lọn tóc vàng, tìm cách chạm tới bên lông mày trái, song lực bất tòng tâm và đành ở nguyên trên đỉnh đầu cô. Sắc thạch anh tím lấp lánh nơi những chiếc lỗ nhỏ xíu xuyên qua thùy tai để lộ hoàn toàn, cổ cô thắt sợi ruy băng mảnh bằng nhung đỏ ánh xanh. Một chiếc dù che nắng bằng vải phin nõn đồng màu, kích thước không quá một đĩa súp và mỏng như sương, lơ lửng ở đầu cán dù dài như một vòng hào quang tím. Dưới chân cô đặt lồng chim nhỏ mạ vàng, phần lồng phía dưới quấn vải flannel, qua nóc lồng hở nhìn rõ một chú chim màu vàng sáng đang nhảy nhót. Anh nhìn bàn tay cô, rồi nhìn vai mình, hoang mang tự hỏi người chạm vào anh có phải là cô; mục đích của cái chạm đó là gì. Anh bỏ mũ ra, giữ nguyên trên cao vẻ nghi hoặc. Cái miệng mím chặt cong lên thành nụ cười tươi tắn. “Anh không biết tôi đúng không, anh Durand?” Anh khẽ lắc đầu. Nụ cười khắc một lúm đồng tiên trên má; lan đến mắt cô. “Tôi là Julia, Louis. Tôi gọi anh là Louis được chứ?” Mũ anh rơi khỏi những ngón tay xuống đất, lăn tròn theo nửa vành mũ. Anh cúi xuống nhặt, nhưng chỉ vai và cánh tay cử động, còn mắt vẫn không rời khỏi cô, như bị luồng nam châm hút chặt. “Nhung không… sao có thể…?” “Julia Russell,” cô mỉm cười khẳng định. “Nhưng không… cô không thể…,” anh tiếp tục lắp bắp. Lông mày cô nhướng lên. Nụ cười kết thúc một cách tội nghiệp. “Tôi làm vậy là không hay à?” “Nhưng… bức ảnh… mái tóc đen.. “Tôi đã gửi ảnh của dì tôi thay thế.” Cô lắc đầu trong vẻ ân hận muộn màng. Cô hạ cây dù xuống, cụp nó lại với một tiếng rốp nhỏ, lấy mũi dù vẽ những đường loằng ngoằng trên đất. Mắt cô nhìn xuống quan sát việc mình đang làm với vẻ buồn bã. “Ôi, giờ tôi mới thấy lẽ ra mình không nên làm vậy. Nhưng lúc đó nó dường như không quá quan trọng, chúng ta vẫn chưa tính chuyện nghiêm túc. Tôi những tưởng đó chỉ là trao đổi thư từ. Đã nhiều lần tôi muốn gửi ảnh thật, để cho anh biết… nhưng càng chần chừ tôi lại càng nhụt chí. Tôi sợ… tôi sợ sẽ mất anh nếu làm thế. Lương tâm tôi mỗi lúc thêm cắn rứt, đến phút cuối khi đã lên tàu, tôi muốn rút lui và trở về. Bertha đã thuyết phục tôi đi tiếp… xuống đây. Đó là chị gái tôi, anh biết đấy.” “Tôi biết,” anh đờ đẫn đáp. “Trước khi tôi đi, lời cuối cùng chị ấy nói là, ‘Anh ấy sẽ tha thứ cho em. Anh ấy sẽ hiểu em không có ý xấu/ Nhưng trong suốt hành trình, tôi vô cùng ân hận vì sự nông nổi của mình.” Đầu cô gục xuống, hàm răng nhỏ trắng muốt cắn chặt môi. “Không thể tin nổi… không thể tin nổi…,” anh chỉ biết lặp đi lặp lại. Cô có một hình ảnh ăn năn sám hối thật đáng yêu, di di mũi dù xuống đất, ngượng ngùng chờ được tha thứ. “Nhưng cô trẻ quá…,” anh kinh ngạc. “Đẹp hơn cả…” “Lại thế nữa rồi,” cô lẩm bẩm. “Phần lớn đàn ông trở nên mê muội chỉ vì một gương mặt đẹp. Tôi đã muốn cảm xúc của chúng ta sâu nặng hơn thế. Để nó được dài lâu và bền chặt. Tôi đã muốn anh quan tâm đến tôi, nếu như anh có quan tâm, vì… những điều tôi viết cho anh, tấm chân tình tôi thổ lộ, con người thực của tôi, chứ không phải vì một bức ảnh phù phiếm. Tôi đã nghĩ có lẽ nếu mình tự tạo ra bất lợi ngay từ đầu, về ngoại hình cũng như tuổi tác, thì sau này sẽ bớt trắc trở, để nó chỉ là một sự võ đoán thoảng qua. Nói cách khác, tôi đã đặt ra những chướng ngại ngay từ đầu thay vì phút cuối.” Cô thật nhạy cảm làm sao, sâu sắc làm sao, anh vỡ lẽ, chưa kể đến những nét quyến rũ bên ngoài. Một viên ngọc không tì vết. “Anh không biết đã bao nhiêu lần tôi cố gắng nói ra sự thật đâu,” cô tiếp tục khai nhận. “Và lần nào cũng không đủ can đảm. Tôi sợ sẽ chỉ khiến anh tuyệt giao với một người đầy mặc cảm tội lỗi, vì lời thú nhận của cô ta. Tôi không thể tự tin viết điều đó vào một tờ giấy lạnh lùng,” cô khoát tay đầy duyên dáng. “Và giờ anh đã thấy tôi, và anh đã biết. Điều tồi tệ nhất.” “Điều tồi tệ nhất,” anh phản đối kịch liệt. “Nhưng cô,” lúc sau anh nói tiếp, vẫn chưa hết bàng hoàng, “nhưng cô ngay từ đầu đã biết điều mà giờ đây tôi mới biết, rằng tôi hơn rất… ờ, hơn cô khá nhiều tuổi. Vậy mà…” Cô cụp mắt xuống, như để thú nhận thêm. “Biết đâu đó lại là một trong những nét lôi cuốn chủ yếu của anh? Từ khi biết suy xét, tôi chỉ… biết nói thế nào nhỉ, có cảm tình, rung động hoặc ngưỡng mộ… với những người đàn ông lớn tuổi hơn. Những chàng trai cùng tuổi chưa bao giờ làm tôi hứng thú. Tôi không biết do đâu. Phái nữ trong gia đình tôi đều như thế. Mẹ tôi kết hôn năm 15 tuổi, bố tôi khi đó đã ngoài 40. Việc anh đã 36 tuổi, là điều đầu tiên…,” với vẻ lịch sự đoan trang, cô dừng lại không nói hết. Anh vẫn nhìn cô chằm chằm, đầy ngờ vực. “Anh có thất vọng không?” Cô rụt rè hỏi. “Sao cô có thể hỏi câu đó?” Anh thốt lên. “Tôi có được tha thứ không?” Câu hỏi ngập ngừng tiếp theo. “Đó là sự dối trá đáng yêu,” anh đáp, cảm thấy ấm lòng. “Tôi không nghĩ còn lời nói dối nào đáng yêu hơn thế.” Anh mỉm cười, được đáp lại bằng nụ cười vẫn còn bối rối của cô. “Nhưng giờ tôi sẽ phải làm quen lại, tìm hiểu lại cô. Chúng ta đã có một khởi đầu tai hại,” anh vui vẻ nói. Cô ngoảnh đi giấu mặt vào vai. Hành động này nếu ở người khác có lẽ trông thật ủy mị và làm bộ làm tịch, song cô lại thành công trong việc khiến nó như một sự giễu nhại khôi hài, đồng thời kín đáo biểu lộ sự bẽn lẽn khi bị trách móc. Anh cười. Cô quay mặt ra. “Những kế hoạch, ờ, dự định của anh có thay đổi không?” “Cô thì sao?” “Tôi đã đến đây rồi,” cô nói với vẻ hết sức ngay thật và nghiêm trang. Anh ngắm vẻ đẹp của cô hồi lâu. Rồi, với sự bạo dạn chợt nảy sinh, anh đi đến một quyết định, “Liệu cô có thấy nhẹ nhõm hơn, những ưu phiền trong lòng có tan hết,” anh buột miệng, “nếu như tôi cũng có chuyện muốn thú nhận?” “Anh ư?” Cô kinh ngạc. “Tôi… tôi đã không nói hết với cô sự thật hơn cô nói với tôi,” anh nói một mạch. “Nhưng… nhưng tôi thấy anh đúng như những gì anh nói, giống như trong ảnh…” “Không phải chuyện đó, là chuyện khác. Có lẽ tôi cũng chung cảm nghĩ với cô, muốn cô có cảm tình với tôi, chấp nhận lời cầu hôn, vì con người thật của tôi. Nói cách khác là vì bản thân tôi.” “Nhưng đúng là thế mà,” cô ngỡ ngàng. “Tôi không hiểu.” “Cô sẽ hiểu ngay thôi,” anh hứa, gần như sốt sắng. “Giờ tôi phải thú nhận mình không phải là nhân viên thư ký trong một hãng nhập khẩu cà phê.” Gương mặt cô không có biểu cảm nào khác ngoài sự khó hiểu lễ độ. “Tôi không có 1.000 đô la tiết kiệm, để… để chúng ta khởi đầu.” Không có dấu hiệu nào của hụt hẫng hay tính hám lợi bị chưng hửng. Anh quan sát cô kĩ càng. Một nụ cười bao dung, miễn thứ dần lan tỏa khắp gương mặt cô trước khi anh nói tiếp. Khá lâu trước khi anh nói tiếp. Anh dành thời gian cho nó. “Mà tôi chính là người sở hữu hãng cà phê ấy.” Không một dấu hiệu. Chỉ có nụ cười gượng gạo, giống như khi cánh phụ nữ buộc phải nghe chi tiết chuyện làm ăn của cánh đàn ông, mặc dù họ không mảy may hứng thú nhưng vẫn phải cố tỏ ra lịch sự. “Và tôi có gần 100.000 đô la.” Anh chờ cô nói gì đó. Cô không nói gì, mà trái lại, có vẻ chờ anh tiếp tục. Như thể chủ đề này quá vô vị đối với cô, nội dung khô khan tới nỗi cô chẳng nhận ra đã tới cao trào tự lúc nào. “Đó là lời thú tội của tôi,” anh nói có phần nao núng. “Ồ,” cô nói, như bừng tỉnh. “Ồ, là thế ư? Ý anh là…,” cô khoa tay đầy bất lực, “… về việc kinh doanh của anh, và chuyện tiền bạc…” Cô ấp hai ngón tay lên miệng. Chặn một cái ngáp mà, nếu không có cử chỉ che đậy này, ắt anh chẳng phát hiện ra ngay. “Có hai lĩnh vực mà tôi mù tịt,” cô thú nhận. “Một là chính trị, cái còn lại là chuyện kinh doanh, tiền nong.” “Nhưng cô tha thứ cho tôi chứ?” Anh cố chấp, cùng lúc cảm thấy niềm vui sướng rạo rực, gần như hân hoan; giống như một người sau bao mòn mỏi chờ đợi, và hết sức tình cờ, đã gặp được một người tri âm đúng mong ước. Lần này cô cười thành tiếng, kèm một tia láu lỉnh, như thể anh đang quá cả tin trước cô. “Nếu anh nhất định phải được tha thứ, thì anh sẽ được tha thứ,” cô dịu giọng. “Nhưng vì ban đầu tôi chẳng chú ý gì đến những đoạn trong thư anh đề cập đến nó, anh đang yêu cầu tha thứ cho một lỗi lầm, mà đến bây giờ tôi mới biết là anh phạm phải. Vậy thì anh được xí xóa, mặc dù tôi không biết để làm gì.” Anh nhìn cô chăm chăm theo một cách khác, sâu hơn; như phát hiện ra vẻ đẹp ẩn giấu trong cô. Bóng của hai người đã đổ dài hơn, chỉ còn mỗi họ trên bến tàu. Anh ngó quanh như miễn cưỡng trở về thực tại. “Muộn rồi, tôi đang giữ chân cô ở đây,” anh nói với vẻ nhắc nhở mang tính nghĩa vụ hơn là thành thực, bởi anh chỉ biết nó nghĩa là có thể họ phải chia tay. “Anh làm tôi quên cả thời gian,” cô thừa nhận, mắt không rời gương mặt anh. “Đó là điềm tốt hay xấu? Thậm chí tôi quên cả tình trạng gay go của mình: nửa trên bờ nửa dưới thuyền. Tôi phải chọn một trong hai.” “Chuyện đó sẽ sớm được giải quyết,” anh nói, nghiêng người phía trước một cách nhiệt thành, “nếu tôi có được sự ưng thuận của cô.” “Chẳng phải nó cũng cần thiết đối với anh sao?” Cô hỏi cắc cớ. “Đúng vậy, đúng vậy.” Anh vội vàng muốn thuyết phục cô đến suýt hụt hơi. Giờ anh là người hấp tấp chứ không phải cô. “Tôi không biết nữa,” cô nói, nhấc mũi dù lên, rồi lại thả xuống, rồi lại nhấc lên, trong sự phân vân khiến anh như ngồi trên đống lửa. “Nếu như anh đã thất vọng, tỏ ý ngờ vực khi phát hiện ra tôi là kẻ dối trá, tôi sẽ quay lên tàu và ở trên đó cho đến khi nó lên đường trở về St. Louis. Anh không nghĩ sẽ sáng suốt hơn nếu…” “Không, đừng nói thế,” anh phủ nhận, căng thẳng. “Thất vọng ư? Tôi là kẻ hạnh phúc nhất New Orleans chiều nay… tôi là người may mắn nhất thành phố này…” Xem chừng cô không bị dao động dễ dàng, “vẫn còn thời gian. Muộn còn hơn không. Anh có chắc là anh không muốn tôi làm thế? Tôi sẽ không nói một lời, sẽ không than phiền. Tôi hoàn toàn hiểu cảm xúc của anh…” Anh tê liệt bởi nỗi lo sợ sẽ mất cô, người mà anh không hề có cho đến nửa tiếng đồng hồ trước. “Nhưng đó không phải là cảm xúc của tôi! Tôi van em hãy tin tôi! Cảm xúc của tôi hoàn toàn ngược lại. Tôi phải làm gì để thuyết phục em đây? Em muốn có thêm thời gian? Phải vậy không? Đó có phải điều em muốn nói với tôi không?” Anh nài nỉ với sự lo lắng lớn dần. Đôi mắt cô nhìn anh một lúc, chúng toát ra vẻ tử tế, chân thành và có thể nói là, phần nào trìu mến. Rồi cô lắc đầu, rất khẽ, nhưng với tất cả sự quả quyết để một người đàn ông có thể đọc ra (nếu anh ta biết đọc đúng), và không phải sự phủ nhận hời hợt kiểu con gái. “Em đã quyết định,” cô nói với anh, từ tốn và đơn giản, “kể từ lúc đặt chân lên tàu ở St. Louis. Kể từ lúc lá thư cầu hôn của anh tới, vả lại em đã viết thư trả lời. Và một khi đã quyết, em sẽ không đổi ý. Anh sẽ thấy như vậy khi biết em rõ hơn.” Và rồi cô chữa lại, “Nếu như anh muốn biết,” và câu nói đó nhanh chóng đánh trúng tim anh. “Vậy thì đây sẽ là câu trả lời của anh,” anh nói với sự nôn nóng run run. “Đây.” Anh mở ví, lấy ra bức ảnh của người phụ nữ kia - người dì của cô - xé vụn nó bằng những ngón tay mạnh mẽ, rồi thả những mảnh vụn rơi lả tả xuống đất. Xong, anh chìa hai bàn tay trống không cho cô. “Anh cũng đã quyết.” Cô mỉm cười bằng lòng. “Vậy…?” “Vậy chúng ta lên đường thôi. Mọi người chờ chúng ta ở nhà thờ hơn hai mươi phút rồi. Chúng ta đã nấn ná ở đây quá lâu.” Anh khuỳnh một cánh tay ra cho cô với nụ cười cùng động tác nghiêng người lịch thiệp. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là sự đùa bỡn, mang tính giễu nhại, nhưng thực ra hoàn toàn nghiêm túc. “Cô Julia?” Anh mời. Đây là khoảnh khắc lãng mạn thiêng liêng nhất. Lời cầu hôn. Cô chuyển cây dù sang tay bên kia. Bàn tay cô ngoắc vào cánh tay anh như một nhành dây leo ấm áp thân thiện. Cô túm gọn gấu váy để cất bước. “Anh Durand,” cô đáp lại, chỉ gọi họ của anh, và cụp mắt thật đoan trang để phù hợp với khuôn phép của một cô gái chưa chồng. Chương 4 B ên trong nhà thờ Dryades German Methodist lúc mặt trời lặn. Màn sương màu cam tỏa ra từ những cửa sổ nhiều mắt nhưng không xóa nhòa hình dạng của chúng; vòm giáo đường cao vút chìm khuất trong ánh lam chiều. Trang nghiêm, yên bình, song chỉ có năm người hiện diện. Năm con người tập trung trong không khí trang trọng quanh một chiếc bục. Bốn người đứng trước nó, người thứ năm đứng trên nó. Bốn người im lặng, người thứ năm nói rì rầm. Hai người đầu tiên trong bốn người đứng cạnh nhau; hai người còn lại đứng chếch sau họ. Bên ngoài, như được lọc qua tấm màn dày, những âm thanh của thành phố nghèn nghẹt, mơ hồ, xa xăm vọng vào. Thỉnh thoảng có tiếng lộp cộp của vó ngựa gõ trên nền sỏi, tiếng kẽo kẹt bất mãn của bánh xe khi đổi hướng, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chó sủa. Bên trong, những câu nói trịnh trọng của nghi thức kết hôn được lặp lại rành rọt trong sự tĩnh lặng mênh mông. Đức Cha Edward A. Clay, hai nhân vật chính Louis Durand và Julia Russell. Allan Jardine và Sophie Tadoussac - quản gia của Cha Clay, là những người làm chứng. “Và con, Julia Russell, con có đồng ý coi người đàn ông này, Louis Durand, là người chồng trên luật pháp… Nguyện trung thành… Yêu thương, tôn trọng và nghe lời… Dù sung sướng hay hoạn nạn… Dù giàu hay nghèo… Lúc ốm đau hay khỏe mạnh… Cho đến khi cái chết chia lìa?” Im lặng. Rồi như tiếng reo của một chiếc chuông nhỏ, không lớn hơn cái đê khâu trong không gian rộng lớn của nhà thờ, nhưng rõ ràng và trong trẻo. “Con đồng ý.” “Giờ con hãy đeo nhẫn cho cô dâu.” Durand vòng tay ra sau. Jardine lấy nhẫn ra đặt vào bàn tay qườ quạng của anh. Durand ướm nó vào đầu ngón tay cô. Xuất hiện một tình huống khó xử. Kích thước ngón tay cô đã được đo bằng một sợi dây, thắt nút đúng chỗ và gửi kèm trong một bức thư. Nhưng hẳn đã có sai sót trong việc thắt nút hoặc ở thợ kim hoàn. Nó bị mắc, không xỏ vào được. Anh thử lần thứ hai, thứ ba, nắm bàn tay cô chặt hơn, song vẫn không được. Cô nhanh nhẹn đưa ngón tay lên môi, rồi trả lại cho anh, nó đã được thấm ướt. Lần này chiếc nhẫn trượt vào trơn tru. “Bây giờ ta tuyên bố hai người là vợ chồng.” Và rồi, với nụ cười chuyên nghiệp để khích lệ nỗi xấu hổ muôn đời của những kẻ yêu nhau khi ở chốn đông người, vì tình yêu càng thầm kín thì nỗi xấu hổ càng lớn, Cha Clay nói, “Con có thể hôn cô dâu được rồi.” Gương mặt họ từ từ quay về nhau. Ánh mắt họ gặp nhau. Hai mái đầu chụm vào nhau. Đôi môi của Louis Durand chạm vào môi Julia, vợ anh, và hoàn tất thủ tục. Chương 5 N hà hàng Antoine’s, bừng sáng với vai trò điểm hẹn về đêm; lấp lánh, rực rỡ, huyền ảo; chật kín khách khứa, rộn rã tiếng cười, xèo xèo tiếng rượu Champagne; sáng choang với 500 ngọn đèn khí đốt, treo khắp trần nhà và các bức tường, trong những chiếc lồng pha lê. Nhà hàng đẹp và nổi tiếng nhất bên này đại dương; linh hồn của Paris hiện lên quyến rũ từ bùn Tây châu thổ. Dãy bàn cưới chạy dọc suốt một bên nhà hàng, thực khách chỉ ngồi một bên, bên kia để trống để họ có thể quan sát phần còn lại của căn phòng… và phần còn lại của căn phòng có thể quan sát họ. Lúc này đã hơn 11 giờ, khăn ăn nhầu nhĩ chất đống, hoa tươi tả tơi, ly cốc ngả màu với những lượt rượu vang trắng và đỏ được rót không ngừng; Champagne, rượu anh đào và những chén nhỏ rượu ngọt Bénédictine dành cho các bà các cô, mức uống của hai bên không giống nhau. Và ở bàn trung tâm, có một chiếc bánh tuyệt đẹp, trắng như tuyết, vẩy đường, xếp nhiều tầng, đã bị ăn chỉ còn một nửa. Nhưng ở trên đỉnh cao nhất vẫn còn nguyên vẹn, một đôi búp bê cô dâu chú rể, chàng trong bộ lễ phục nhỏ xíu bằng vải pô-pơ-lin đen, nàng đội khăn trùm cô dâu bằng vải tuyn trải dài. Đối diện chúng là cặp đôi đích thực, ở kích thước thật; ngồi kề vai, hai bàn tay âm thầm nắm chặt dưới gầm bàn, lắng nghe một bài phát biểu tán dương dài lê thê. Đầu người đàn ông ngẩng cao ra vẻ chú ý theo phép lịch sự; mái đầu người phụ nữ mơ màng dựa vào vai anh. Anh đã ăn vận phù hợp với buổi tối nay, và có một chuyến đi chớp nhoáng đến cửa hiệu quần áo (ban đầu do cô đề xuất, nhưng về sau là anh kiên quyết) trước khi đến đây, để thay đổi trang phục cho cô từ bộ đồ đi đường sang một tác phẩm lộng lẫy bằng xa-tanh trắng sáng mờ, những đóa dành dành trắng đính trên tóc và cổ. Trên ngón tay thứ ba bàn tay trái là chiếc nhẫn cưới mới bằng vàng; ngón tay thứ tư đeo chiếc nhẫn kim cương, món quà cưới người chồng tặng cho vợ, biểu trưng cho sự đính ước đã hoàn thành thay cho chiếc nhẫn trước đó. Và đôi mắt cô, như bất cứ một người bỡ ngỡ nào, cứ liếc qua liếc lại những món trang sức mới tinh này. Nhưng chúng thường xuyên chiếu vào ngón tay nào, thứ ba hay thứ tư, thì khó ai biết được. Hoa, rượu, những khuôn mặt tươi cười, những lời chúc tụng sức khỏe và hạnh phúc. Bắt đầu hai cuộc sống mới. Nói đúng hơn là kết thúc hai cuộc sống, bắt đầu một cuộc sống mới. “Chúng ta trốn đi thôi?” Anh thì thầm với cô. “Gần 12 giờ rồi.” “Vâng. Hãy khiêu vũ thêm một điệu đã. Hãy nói dàn nhạc chơi lại. Rồi chúng ta sẽ lẻn đi, không quay về bàn nữa.” “Ngay khi Allan phát biểu xong,” anh tán thành. “Nếu anh ấy có ý định đó.” Allan Jardine, cộng sự của anh, đã sa đà vào một diễn văn chúc mừng rối rắm mà có vẻ không tìm được lối ra. Nó đã diễn ra được mười phút; mà tưởng chừng như bốn mươi phút. Vợ của Jardine, ngồi cạnh ông chồng, và chỉ hiện diện sau trận đôi co bí ẩn song rất gay gắt trong nhà, mang vẻ mặt khắc khổ và bất mãn. Bất mãn điều gì đó, nhưng cố gắng giữ vẻ hòa nhã, vì lợi ích của chồng mình. Bất mãn trước nhan sắc, hoặc tuổi trẻ của cô dâu, hay có lẽ là những hoàn cảnh không chính thống trong quá trình tìm hiểu, yêu đương. Hoặc có lẽ là việc Durand cuối cùng đã lấy vợ, sau khi đã chờ đợi chừng ấy năm, mà không chịu chờ thêm vài năm nữa cho con gái bà lớn lên. Một mục tiêu hấp dẫn mà ngay chồng bà cũng chẳng mảy may hay biết. Và sẽ không bao giờ biết. Durand lấy một mảnh giấy nhỏ, viết “Hãy chơi một điệu waltz nữa.” Rồi anh kẹp nó vào một tờ tiền, ngoắc phục vụ, đưa nó cho cậu ta chuyển tới dàn nhạc. Vợ Jardine lén giật mép áo chồng, để thúc ông kết thúc bài diễn văn. “Allan,” bà rít lên. “Đủ rồi đấy. Đây là tiệc cưới, không phải đại hội.” “Anh sắp xong rồi,” ông rỉ tai hứa. “Xong ngay bây giờ cho tôi,” mệnh lệnh được đưa ra bằng cái quét tay như máy chém của bà. “Và tôi xin chúc cặp đôi mới cưới trăm năm hạnh phúc. Julia - cho phép tôi,” với một cái nghiêng đầu về phía cô, “và Louis.” Những chiếc ly nâng lên, rồi lại hạ xuống. Jardine cuối cùng cũng ngồi xuống, lau trán. Còn vợ ông há miệng giơ tay quạt lấy quạt để, như thể tống khứ mùi đồ ăn tệ hại. Tiếng nhạc cất lên. Durand và Julia đứng dậy, sự sốt sắng của họ ắt sẽ bị chê trách nếu như nó không quá dễ hiểu như thế. “Chúng tôi xin phép được nhảy điệu này.” Và Durand nháy mắt với Jardine, ý bảo ông đừng có trông chờ họ quay về chỗ ngồi. Sự việc được Jardine truyền đạt cho vợ ngay lúc cặp đôi rời bàn. Khi ấy bà vợ cũng tỏ vẻ khó chịu, ngoài những cái khó chịu đã sẵn có về sự kiện này, và cầm ly rượu lên nhấp một ngụm đoan trang, nghiêm nghị với cái miệng mím chặt. Những cây vĩ của dàn vĩ cầm đồng loạt đưa lên, hạ xuống, và chúng trôi vào điệu waltz của bài Romeo và Juliet. Họ đứng đối diện nhau một lúc, anh và cô, trong màn dạo đầu trang trọng thường có. Rồi cô cúi xuống nhấc vòng váy xếp nếp lên, anh dang hai tay, và cô bước vào vòng tay anh. Điệu waltz bắt đầu, điệu waltz nhanh nhất trong tất cả những điệu nhảy đôi. Xoay vòng, xoay vòng và xoay vòng, đảo chiều, và xoay vòng, xoay vòng lần nữa, theo hướng khác. Những chiếc bàn và những gương mặt quay tít quanh họ, như thể họ đang đứng im giữa một xoáy nước, những ngọn đèn khí đốt lóe lên trên những bức tường và trần nhà như những đuôi sao chổi. Cô uốn cong cổ, hơi ngả đầu về phía sau, nhìn lên mắt anh, như muốn nói. “Em đang ở trong tay anh, tùy ý anh. Anh đi đâu, em sẽ theo đấy. Anh quay đi đâu em sẽ theo sát.” “Em có hạnh phúc không, Julia?” “Gương mặt em chẳng đã nói với anh sao?” “Lúc này em có hối hận vì đã đến New Orleans không?” “Còn nơi nào khác ngoài New Orleans sao?” Cô hỏi đầy quyến rũ. Xoay vòng, xoay vòng và xoay vòng; chỉ có hai người, dù xung quanh họ là đám đông nhộn nhịp. “Cuộc sống của chúng ta sẽ như điệu waltz này, Julia. Cũng ngọt ngào, êm ái và hòa thuận. Không bao giờ nhầm hướng, không bao giờ có một nghịch âm. Kề sát nhau như thế này. Một tâm hồn, một trái tim, một cơ thể.” “Một điệu waltz cuộc đời,” cô thì thầm say sưa. “Một điệu waltz bay bổng. Điệu waltz không bao giờ kết thúc. Điệu waltz trong ánh nắng, dưới bầu trời xanh thẳm, trong sắc vàng… và trong màu trắng tinh khôi.” Cô nhắm mắt, như chìm trong ngây ngất. “Ở đây có lối ra. Không có ai nhìn chúng ta cả.” Họ trượt mũi chân dừng lại một cách khéo léo, như những vận động viên trượt băng. Họ tách ra, liếc nhanh về bàn tiệc bị che khuất khá nhiều bởi những cặp khiêu vũ chắn giữa. Rồi anh để cô đi trước, vòng qua những cây cọ, một tượng nữ thần bằng đồng, một cây cột khía rãnh, ra khỏi phòng ăn chính và vào một gian rửa bát đĩa, sực nức mùi đồ ăn nóng hổi, ồn ào tiếng nói đâu đó bên cạnh. Cô cười rúc rích như con mèo nhỏ, đi tới chỗ họ, dừng lại nhìn vẻ kinh ngạc của họ. Anh nắm tay kéo cô đi theo, chạy những bước nhỏ hân hoan, ra một lối đi bên ngoài men hông nhà. Và từ đó họ ra đến đường cái. Anh vẫy tay gọi một cỗ xe ngựa, và lát sau anh đã ngồi cạnh cô trong xe, cánh tay choàng qua người cô che chỏ. “Tới đường St. Louis,” anh tự hào ra lệnh. “Khi nào dừng, tôi sẽ cho anh biết.” Và khi những hồi chuông của nhà thờ lớn St. Louis gần đó bắt đầu chậm rãi ngân lên báo hiệu nửa đêm, Louis Durand và cô dâu của anh đang phóng nhanh về ngôi nhà mới. Chương 6 N gôi nhà trống đang chờ đợi. Chờ bắt đầu lịch sử của nó, đối với một ngôi nhà thì đó chính là những người cư ngụ bên trong. Những cây đèn dầu rất có thể đã được thím Sarah thắp sáng trong từng phòng, trước khi ra về, đốm lửa nhỏ như hạt đỗ, an toàn trong những chiếc bóng thủy tinh, chỉ nhấp nháy đủ để xua đi bóng tối và tỏa ra quầng sáng hổ phách. Thứ mùi hỗn hợp của vỏ bào, sơn, và mát-tít, pha thêm chút véc-ni đánh sàn, vẫn còn nguyên, nhưng giờ đã giảm đi đáng kể, nhờ những tấm thảm trải trên sàn gỗ thô, và rèm giăng kín cửa sổ. Ai đó đã mang hoa vào phòng khách, không phải những bông hoa đắt đỏ ở cửa tiệm mà là hoa dại, nhưng vẫn vui tươi, rực rỡ và đẹp mắt; một bó hoa lớn lấp đầy chiếc bát miệng rộng đặt trên bàn giữa phòng khách, với những cành mảnh mai chĩa ra mọi phía như lông nhím. Một chiếc đồng hồ được lên dây và bắt đầu hoạt động, một chiếc đồng hồ mới trên mặt lò sưởi, nhập khẩu từ Pháp, mặt đồng hồ là khối mã não màu xanh dương, một bức tượng đồng nhỏ than Cupid với đôi cánh bướm đang leo lên một dây hoa hồng bằng đồng trang trí hai bên. Tiếng tích tắc mới mẻ cần cù của nó điểm vào một nốt trấn an, sự lặng lẽ yên bình mà bằng không ắt sẽ là im lìm lạnh lẽo. Tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn thiếu người ở. Một ngôi nhà, chờ đợi một người đàn ông và vợ anh ta đến chiếm giữ. Tiếng móng ngựa vang vang tiến đến gần phá vỡ sự yên tĩnh bên ngoài, dừng lại trong một nhịp đôi trầm đục. Trục xe răng rắc dưới trọng lượng di chuyển, rồi ổn định lại. Một tiếng tặc lưỡi thành thạo, tiếng móng ngựa tiếp tục vang lên, nhỏ dần rồi chìm hẳn. Có tiếng cọ xát của da giày trên lớp sỏi vỉa hè, một tiếng thì thầm tinh nghịch, như một bí mật mà hai bàn chân kể cho nhau nghe. Lát sau một chiếc chìa khóa xoay trong ổ của cửa trước. Durand và cô hiện ra nơi khung cửa. Nhuốm màu hổ phách từ ánh đèn trước mặt họ trong nhà, đóng khung bởi mảng trời đêm chi chít sao đằng sau và trên đầu họ. Họ bất động như khung cảnh trước mặt và sau lưng. Hai gương mặt quay sang nhìn nhau, đôi tay anh ôm lấy cô, đôi tay cô đặt trên vai anh. Hai người không nhúc nhích, y như những ngôi sao phía sau hay ngôi nhà mở cửa đang chờ đón họ. Đó là một trong những khoảnh khắc không bao giờ có lại được nữa. Nụ hôn ở ngưỡng cửa cuộc hôn nhân. Nụ hôn kết thúc, khoảnh khắc ấy không thể tự kéo dài. Cuối cùng họ cũng rời nhau ra, và anh nói dịu dàng, “Chào mừng đến ngôi nhà mới của em, bà Durand. Mong rằng niềm hạnh phúc em tìm được ở đây cũng đầy ắp như hạnh phúc em mang đến cho nó.” “Cám ơn anh,” cô khẽ đáp, cụp mắt xuống vài giây. “Em mong anh cũng vậy.” Anh bế bổng cô lên. Cô nhấc gấu váy khỏi mặt đất nghe sột soạt. Nghiêng người để vai tránh khỏi cánh cửa đung đưa, anh bế cô qua bậc cửa và vào trong nhà. Rồi đặt cô đứng xuống, trong lớp sóng đăng ten bồng bềnh. Anh bước sang bên, đóng cửa lại, cài then. Cô quay trái quay phải nhìn ngó mọi thứ. “Em có thích không?” Anh hỏi. Anh đến bên một ngọn đèn, vặn cái núm nhỏ, tăng ngọn lửa lên thành màu vàng của nhũ đá. Rồi đến một ngọn đèn nữa, và một ngọn đèn nữa, đến tất cả những chỗ để đèn. Những bức tường từ màu ngà đục bừng lên thành sáng trắng. Sự tươi mới của mọi thứ trở nên rõ rệt gấp bội. “Em thích chứ?” Anh nghiêng đầu hỏi, như thể được nghe lời xác nhận của cô chính là sự tưởng thưởng. Hai bàn tay cô đan chặt nhau, đưa lên ngang mặt; giữ nguyên tại chỗ đúng kiểu vui sướng tột độ. “Ôi, Louis,” cô nghẹn ngào. “Thật lí tưởng, thật tuyệt vời.” “Nó là của em đấy,” anh nói, cách anh hạ giọng thể hiện lòng biết ơn trước thái độ trân trọng của cô. Cô chuyển hai bàn tay vẫn nắm chặt sang một bên mặt, dựa má lên đó. Rồi chuyển sang bên kia, lặp lại hành động ấy. “Ôi, Louis,” dường như là tất cả những gì cô có thể thốt ra. “Ôi, Louis!” Sau đó họ dạo một vòng, từ phòng này sang phòng kia, anh giới thiệu với cô phòng khách, phòng ăn, những gian phòng khác. Và ở mỗi phòng cô đều thở hắt ra. “Ôi, Louis,” cho đến cuối cùng, dường như hơi thở cũng rời bỏ cô, và cô chỉ có thể nói yếu ớt, “Ôi!” Họ trở lại tiền sảnh, và anh hỏi có phần ngại ngùng như chực thu câu đó về. “Em tự tìm phòng của chúng ta được chứ?” Anh bổ sung, khi cô quay về phía cầu thang. “Hay để anh lên cùng em?” Cô cụp mắt xuống trước ánh mắt anh. “Em nghĩ em sẽ tìm được,” cô nói một cách giản dị. Anh đặt một cây đèn nhỏ hơn vào tay cô. “Em cầm cái này theo cho yên tâm. Bà ấy có thể để đèn sáng, nhưng cũng có thể không.” Chiếc đèn giữ ngang ngực tỏa ánh sáng lên gương mặt cô, khiến anh có cảm tưởng cô như hiện thân của thánh mẫu. Cô là hình ảnh đẹp khôn tả trong một nhà thờ cổ châu Âu bước ra đời thực trước con mắt của một kẻ sùng đạo, tưởng thưởng cho lòng thành của anh. Một phép màu của tình yêu. Cô bước lên một bậc, rồi một bậc nữa. Một thiên thần đang rời khỏi trần gian, nhưng vẫn quay lại lưu luyến. Bàn tay anh thậm chí đã hơi đưa ra, như tìm đến hình bóng trong không trung mà anh chiêm ngưỡng, để kéo dài sự hiện diện của cô. “Tạm biệt,” anh nhẹ nhàng nói. “Một lúc thôi,” cô thì thầm. Rồi cô quay đi. Bùa mê bị phá vỡ. Cô chỉ còn là một phụ nữ trong chiếc váy dạ tiệc, đang đi lên cầu thang. Những nếp váy duyên dáng của phong cách thời trang đẹp nhất trong một trăm năm qua gợn sóng theo bước chân cô. Bàn tay tự do của cô lần theo lan can. “Hãy để ý đến giấy dán tường,” anh nói. “Nó sẽ chỉ dẫn cho em.” Cô quay lại vẻ thắc mắc. “Bằng cách nào?” “Em sẽ biết nhờ giấy dán tường, cứ đi đi.” “Ồ,” cô ngoan ngoãn đáp, nhưng nghe chừng vẫn chưa hiểu lắm. Cô lên đến đỉnh cầu thang và đi qua mép của nó, chìm dần xuống sàn khi cô đi tiếp, cho đến khi đôi vai, rồi đầu cô biến mất. vầng sáng hắt lên trần từ cây đèn xa khuất khỏi tầm mắt anh, cũng chìm dần. Anh đi vào phòng khách trước, rồi sang những căn phòng khác dưới nhà, cài chốt những cửa sổ nào chưa cài, lay thử những cái đã cài. Giũ tung những tấm rèm và kéo chúng che kín từng cửa sổ. Không khí ban đêm độc hại, cả thế giới biết điều đó; phải giữ nó tránh xa ngôi nhà đang say ngủ. Rồi cuối cùng anh thổi tắt từng cây đèn chào đón trong các phòng. Trong bếp, thím Sarah đã để chùm nho xanh tươi trên đĩa, một sự chào mừng nữa dành cho hai người. Anh ngắt một quả cho vào miệng, hơi mỉm cười trước sự chu đáo của bà, rồi tắt nốt đèn ở đó. Ngọn đèn cuối cùng đã tắt, anh châm chậm đi lên những bậc thang lờ mờ trong bóng tối, thứ bóng tối đã trở nên quen thuộc dù anh ở trong ngôi nhà này chưa tới nửa giờ. Bóng tối trong nhà một người đàn ông không bao giờ xa lạ và đáng sợ. Anh tìm đường đến cửa phòng, cũng trong thứ bóng tối ấy ở sảnh trên, nhưng giờ được dẫn đường bởi tia sáng mảnh lọt qua ngưỡng cửa. Anh đứng đó một lúc. Rồi anh gõ cửa, theo đúng phép tắc một cách vui đùa. Hẳn cô cảm nhận được tâm trạng anh qua tiếng gõ. Tiếng trả lời của cô pha vẻ tinh nghịch. “Ai gõ cửa đấy?” Cô hỏi với vẻ nghiêm trang giả bộ. “Chồng của em.” “Ồ! Anh ấy nói gì?” “Anh có thể vào được không?” “Bảo với anh ấy là có thể.” “Ai mời tôi vào vậy?” Câu trả lời gần như không rõ, nhưng nhỏ đến mức nào thì nó vẫn chạm đến tim anh. “Vợ của anh.” Chương 7 T ừ văn phòng về nhà - khoảng một tuần sau, cùng lắm là mười ngày - anh chạy lên cầu thang để gặp cô, vì không thấy cô trong bất cứ căn phòng nào dưới nhà. Bước chân anh rón rén để gây ngạc nhiên, để bất ngờ đến sau lưng và bịt mắt cô lại, bắt cô đoán xem là ai. Dù làm sao cô đoán sai được, còn ai khác vào đây nữa? Nhưng về nhà vẫn là một điều mới mẻ tuyệt vời, nó phải được tô điểm bằng những cờ hoa nhạc dạo này; bất luận được lặp đi lặp lại mỗi ngày, nó vẫn giữ nguyên sự trông mong vui sướng của cuộc gặp gỡ ban đầu. Cửa phòng để mở và cô ngồi trong đó, khá yên lặng, trên chiếc ghế bành, chỉ có đỉnh đầu nhô khỏi lưng ghế, vì cô không nhìn ra cửa. Anh đứng lại trước ngưỡng cửa, vẫn chưa bị phát hiện, vuốt ve cô bằng ánh mắt. Anh có thể thấy bàn tay cô cử động, yểu điệu lật trang một cuốn sách đang thu hút tâm trí cô. Anh bắt đầu tiến về phía cô, định bụng bất thần cúi xuống qua lưng ghế và đặt môi lên đỉnh đầu cô, đang ánh lên sắc đồng trong nắng nhạt. Nhưng khi anh đến gần, khi hình dáng cô dần hiện ra, rõ nét theo khoảng cách được rút ngắn, có cái gì đó đập vào mắt khiến anh dừng bước, kinh ngạc, gần như ngờ vực. Mục đích của anh đã thay đổi. Đi một vòng đường hoàng qua chiếc ghế, để tiếp cận nó bên sườn, và dừng lại trước nó, với nhận thức bối rối, đau lòng in trên gương mặt. Thấy anh, cô ngẩng lên, gập cuốn sách lại với một tiếng kêu nhỏ vui mừng. “Anh về rồi à? Em không nghe thấy tiếng của anh dưới nhà.” “Julia,” anh nói, bằng một giọng hoang mang trống rỗng. “Có chuyện gì thế?” Anh phác một cử chỉ miêu tả bộ dạng cô, song cô vẫn không hiểu. Anh đành phải nói ra. “Cách em ngồi…” Hai chân cô đang bắt tréo, mà chỉ đàn ông mới ngồi bắt tréo chân. Một đầu gối gác lên đầu gối bên kia nổi bật một cách sỗ sàng, cẳng chân chìa hẳn ra phía trước, bàn chân lo lửng thậm chí hơi đung đưa, lúc này đã dừng lại. Chiếc váy che kín tư thế ngông nghênh của cô, nhưng ngay cả thế thì những đường nét nhấp nhô và những chỗ lồi lõm viền theo nó cũng quá rõ ràng. Cô đã bị bắt gặp trong một cảnh tượng hết sức thô tục, không phải chiếu theo bất cứ tiêu chuẩn ứng xử nào sau này, mà chỉ so với quy tắc đạo đức đương thời của toàn xã hội. Một phụ nữ ngồi như vậy sẽ thu hút bao ánh mắt chằm chằm ở bất cứ đâu, thậm chí còn bị tẩy chay và yêu cầu rời đi ngay lập tức. Không người phụ nữ nào, kể cả người lẳng lơ nhất, được phép ngồi mà hai đầu gối không ngang nhau và hai bàn chân phải đặt dưới sàn, hoặc một bàn chân có thể đặt sau bàn chân kia để tăng vẻ duyên dáng. Sự trái đạo đức không nằm trong bản chất hành vi, mà ở việc nó coi thường toàn bộ giáo lý đã được công nhận. Vì thế một thay đổi nhỏ trong cử chỉ có thể gây sốc đối với một thời đại khắt khe với cung cách cư xử, hơn là sự vi phạm thực sự ở một thời đại dễ tính hơn. Những thời đại không thể hiểu nổi nhau, mà chỉ thấy đối phương nghiêm ngặt đến tức cười, khi không phải thời của nó. Durand không phải người kiểu cách, nhưng anh trông thấy thứ mà anh chưa từng thấy ở một người phụ nữ nào. Ngay cả những "quý cô trẻ" ở "Học viện" của Madame Rachel, khi anh đến đó vào thời kỳ độc thân. Và cô lại là người vợ dưới mái nhà của anh. “Em cũng ngồi như vậy vào lúc khác sao?” Anh băn khoăn hỏi. Một cách khéo léo, lén lút che đậy, hai đầu gối tội lỗi tách ra, cái chân trên cao hạ xuống bên cạnh bạn nó. Sự thay đổi gần như không phát hiện ra, cô lại ngồi đoan trang như mọi quý cô. Dù chỉ ở một mình, hay ở trước mặt người chồng của họ. “Không,” cô kịch liệt phản đối, ngửa hai lòng bàn tay khiếp đảm ra. “Tất nhiên là không rồi. Sao em có thể? Em… em ở một mình trong phòng, và hẳn nó đã xảy ra lúc em lơ đãng.” “Nhưng nếu nó lại đến vào lúc nào đó, khi em lơ đãng, ở nơi mà người khác có thể nhìn thấy thì sao?” “Sẽ không có chuyện đó,” cô hứa, ngửa hai lòng bàn tay khiếp hãi lên trước ý nghĩ ấy. “Vì nó chưa từng xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra nữa.” Cô chuyển chủ đề bằng cách ngước mặt về phía anh trông đợi. “Anh vẫn chưa hôn em đấy!” Mắt anh dịu lại, tương ứng với sự việc bị xóa đi trong tâm trí, trong khi môi anh tìm đến môi cô. Chương 8 M á ửng hồng, mắt như sương, trông cô càng quyến rũ trong ánh mặt trời buổi sớm, trong bộ váy vàng tươi hòa hợp với những tia nắng chiếu xuống người. Cô nhanh nhẹn chặn đường thím Sarah, lấy bình cà phê từ tay bà, khăng khăng tự rót cho anh một tách như mọi ngày. Anh mỉm cười, mãn nguyện như mọi ngày khi gặp những việc tương tự. Tiếp đó cô lấy chiếc kẹp nhỏ bằng bạc, gắp một viên đường lấp lánh, cẩn thận đưa qua miệng tách, hạ thấp xuống để nó không bắn ra ngoài, rồi mới thả xuống. Anh nghiêng đầu. “Ngọt quá rồi,” anh lẩm bẩm. Cô xoa những đầu ngón tay vào nhau, dù rõ ràng chúng chưa chạm vào thứ gì, đặt một nụ hôn lên thái dương anh, rồi vòng qua bàn về chỗ mình, và ngồi xuống trong tiếng váy xống loạt soạt. Thật giống một cô bé, anh không thể không nghĩ, bắt một cậu bé cùng chơi đồ hàng. Cậu là bố, tớ sẽ là mẹ. Ngồi yên trên ghế rồi, cô cầm tách lên, đôi mắt cười với anh qua miệng tách, cho đến khi cô phải cụp chúng xuống để đặt tách vào đúng cái miệng nhỏ không thể tin nổi, vẫn luôn không thể tin nổi của cô. “Đây quả là thứ cà phê tuyệt hảo,” cô nhận xét sau khi nhấp một ngụm. “Của nhà chúng ta đấy. Một trong những loại hảo hạng từ cửa hàng. Anh luôn cho gửi một bao về nhà để thím Sarah sử dụng.” “Em không biết mình sẽ ra sao nếu thiếu nó. Nó tiếp thêm sinh lực vào những sáng se lạnh. Em yêu nó hơn hết thảy.” “Ý em là từ khi em bắt đâu thử cà phê của thím Sarah?” “Không, là luôn luôn. Cả cuộc đời em…” Cô ngừng lại, thấy anh nhìn mình với sự chăm chú đột ngột. Như một viên đá ném vào cuộc trò chuyện rôm rả, và chìm xuống đáy, làm nó lặng đi. Có cái gì đó lan truyền giữa hai người. Khó lòng gọi tên. Dường như cô lây nó từ anh, thấy nó hiện trên gương mặt anh, và gương mặt cô trở nên căng thẳng và cảnh giác. Đó là một linh tính bứt rứt, ớn lạnh. Một cảm giác khó chịu, hoặc cảm giác như đánh mất một vòng đệm kim loại vô giá trị, rồi bỗng phát hiện ra nó bằng vàng. “Nhưng…,” cuối cùng anh nói và để ngỏ. “Sao cơ?” Cô gắng gượng hỏi. “Anh định nói gì à?” Bàn tay trên mép bàn trước mặt cô lật lại, như để lấy tự chủ. “Không, anh…,” rồi anh tự phản đối, nhưng vẫn nói ra. “Nhưng trong thư có lần em nói ngược lại. Bảo với anh rằng em yếu lòng ra sao trước một tách trà vào buổi sáng. Chỉ có trà mới làm được điều đó. Em không chịu nổi cà phê. “Thứ đồ uống đậm đặc và đen thui/ Anh vẫn nhớ từng chữ của em.” Cô lại cầm tách lên uống một hớp. Vì thế cô không thể nói tiếp cho đến khi đặt nó xuống. “Đúng vậy,” cô nói khá nhanh để bổ khuyết cho cái chướng ngại đã bị loại bỏ. “Nhưng đó là vì chị gái em.” “Nhưng sở thích là của em, làm sao chị em có thể tác động đến nó?” “Em ở nhà chị ấy,” cô giải thích. “Chị ấy là người thích trà. Em thì thích cà phê. Nhưng vì nghĩ cho chị ấy, để không vì em mà chị ấy phải uống thứ mà chị không thích, em đã giả vờ em cũng thích nó. Em viết nó trong thư vì đôi khi em đưa cho chị ấy xem trước khi gửi cho anh và em không muốn chị ấy phát hiện ra trò lừa gạt của em.” “Ồ,” anh cười xòa, gần như thở phào nhẹ nhõm. Cô bắt đầu cười. Cô cười có vẻ quá to so với một nguyên nhân vặt vãnh. Như xả nỗi căng thẳng. “Giá mà anh nhìn thấy vẻ mặt anh vừa rồi,” cô bảo anh. “Em còn tưởng anh bị đau ở đâu chứ!” Cô cười tiếp. Anh cười theo cô. Họ cười với nhau, trong sự hớn hở ngốc nghếch của cặp đôi mới cưới. Thím Sarah đi vào phòng, liền chung vui với họ, dù cũng như họ, chẳng biết là cười vì chuyện gì. Chương 9 S ắc mặt cô là một điều đáng kinh ngạc với anh. Nó có khả năng biến đổi cực kỳ nhanh chóng và bất ngờ, gần như trong chớp mắt. Hồng hào và tái nhợt, nếu có, hiện tượng ấy không thực sự diễn ra trước mắt anh, nhưng quả thực trong khoảng thời gian rất ngắn nó có thể đạt được điều đó. Nó không ửng hồng theo kiểu thông thường, vì một hồi lâu sau, nó không trở về trạng thái ban đầu như ở những người khác; một khi sự thay đổi xảy ra, một khi sắc da cô đã bừng lên, nó sẽ duy trì như vậy nhiều giờ đồng hồ, không có sự biến chuyển liền sau đó. Đáng chú ý nhất là vào buổi sáng. Anh mở cửa chớp và quay sang ngắm cô, nước da cô sẽ trắng như hoa trà. Thế nhưng, lúc sau, khi cô theo anh xuống dưới nhà và ngồi vào bàn ăn, nó sẽ có màu hoa anh thảo tinh khiết, màu hoa cẩm chướng hồng nhạt trên má cô càng làm nổi bật màu mắt xanh lam, màu vàng óng của mái tóc, biến cô thành một hình ảnh đáng yêu đến độ chỉ nhìn thôi cũng gần như quá sức chịu đựng. Một buổi tối ở nhà hát (họ ngồi trong lô riêng), sự biến đổi tương tự đã xảy ra, giữa hai hồi của vở kịch, nhưng lần này anh quy cho ốm bệnh, dù nếu đúng cô cũng không thừa nhận. Họ đến muộn và vì thế bước vào trong bóng tối, hoặc chí ít là sáng lờ mờ nhờ ánh đèn sân khấu. Tuy nhiên khi những ngọn đèn khí đốt được vặn lớn giữa hai hồi kịch, cô phát hiện ra (và lấy làm lo lắng, không thể che giấu) lô của họ giăng lòa xòa tấm vải bọc damask màu xanh táo rất đậm. Cái này kết hợp với ánh đèn rừng rực rọi thẳng vào mặt, tạo cho cô vẻ xanh xao vàng vọt. Nhiều cặp mắt (như bất cứ khi nào cô xuất hiện ở bất cứ đâu với anh) hướng lên chỗ cô từ phía khán giả, của cả đàn ông và phụ nữ, và hơn một đôi mắt kính xem hát chĩa vào cô, vì chúng được phép làm thế. Cô cựa quậy khó chịu trên ghế, rồi đột ngột đứng dậy, chạm vào cổ tay anh xin phép. “Em không khỏe à?” Anh hỏi, nhổm dậy định đi theo, nhưng cô đã đi mất rồi. Cô trở lại trước khi những ngọn đèn được vặn nhỏ lại như cũ, và trông cô giống như một con người khác. Vẻ khủng khiếp đã biến khỏi sắc mặt; hai má cô giờ ửng màu mơ chín, đã đánh bại và chế ngự những nỗ lực kết hợp của ánh đèn khí đốt, những tấm rèm trong lô và khiến sắc đẹp của cô hiện lên rạng ngời. Số mắt kính xem hát hướng về cô lập tức tăng gấp đôi. Một số người đàn ông đi một mình còn đứng dậy khỏi ghế. Có thể cảm nhận, hơn là nghe thấy, tiếng xuýt xoa trầm trồ lan khắp khán phòng. “Có chuyện gì vậy?” Anh lo lắng hỏi. “Em không khỏe à? Hay bữa tối có gì…?” “Em chưa bao giờ cảm thấy tốt hơn!” Cô khẳng định. Cô ngồi xuống, vững vàng, thoải mái, và ngay trước khi ánh đèn hạ xuống lần nữa cho hồi tiếp theo, cô quay sang mỉm cười, phủi một hạt bụi vô hình trên vai anh, như tự hào khoe với cả thiên hạ cô đang ở với ai, thuộc về ai. Tuy nhiên vào một sáng nọ, nỗi lo đã choán lấy anh. Anh đứng dậy khỏi bàn ăn sáng, bước qua áp mu bàn tay lên trán cô. “Anh làm thế để làm gì?” Cô hỏi, ngồi yên, nhưng đảo mắt nhìn bàn tay anh. “Anh muốn xem em có bị sốt không.” Tuy nhiên da cô mát và bình thường. Anh trở về ghế mình. “Anh thấy hơi lo về em, Julia. Anh không biết có nên gọi bác sĩ đến khám cho em không, để yên tâm. Anh nghe nói có một số…,” anh ngập ngừng, sợ cô phát hoảng, “… một số căn bệnh về phổi mà giai đoạn đầu không có dấu hiệu gì bên ngoài… ờ… những cơn đỏ mặt lan khắp má…” Anh nghĩ đã nhìn thấy đôi môi cô run lên không kiểm soát, nhưng nó chỉ hình thành một nụ cười nhẹ trấn an. “Ồ không, em hoàn toàn khỏe mạnh.” “Nhiều lúc em trắng bệch như bóng ma ấy. Nhiều lúc khác… mới đây, trong phòng của chúng ta, em tái nhợt. Còn giờ má em như quả táo chín.” Cô lật dĩa lên, rồi lại lật về như cũ. “Có lẽ do nước lạnh,” cô nói. “Em vỗ nước lên mặt mạnh quá nên nó mới đỏ như vậy. Nên anh không cần lo lắng nữa, thực sự không có chuyện gì đâu.” “Ồ,” anh thốt lên, nhẹ cả người. “Ra là vậy? Ai mà ngờ được…” Anh bỗng quay dầu lại. Thím Sarah đang đứng bất động ở đó, chiếc đĩa cầm trên tay quên đưa tới. Đôi mắt bà nheo lại nhìn chăm chăm vào mặt Julia. Anh nghĩ, một cách thông cảm, hẳn là bà cũng quá lo lắng cho tình trạng sức khỏe của cô chủ trẻ giống như anh, nên mới nhìn cô chằm chằm với vẻ đánh giá ngấm ngầm như thế. Chương 10 C hăm chú vào tờ báo, anh vẫn biết rõ thím Sarah đang ở đằng sau, bận bịu với công việc nhà mang tên "lau chùi" bao gồm lướt miếng giẻ lên một số bề mặt (khi chúng ở lưng chừng hoặc thấp hơn chiều cao của bà) và phẩy nó lên những bề mặt khác (khi chúng cao hơn). Liền sau đó anh nghe thấy bà dừng tay, chắt chắt lưỡi nịnh nọt, đoán chừng hẳn bà đã tiến đến chỗ con chim bạch yến của Julia, Dicky Bird, trong chiếc lồng mạ vàng treo lơ lửng trên thanh dầm chìa ra sát cửa sổ. “Chào người đẹp!” Thím Sarah dỗ dành. “Nói với thím Sarah xem. Mày khỏe chứ?” Một âm thanh cáu kỉnh yếu ớt phát ra từ con chim. “Mày có thể làm tốt hơn thế. Nào, phấn khởi lên. Cho ta nghe tiếng hót của mày nào!” Tiếng kêu rời rạc thứ hai không hơn tiếng chít chít là mấy. Bà thận trọng thò một ngón tay vào, định vuốt ve bộ lông nhỏ xíu của nó. Như thể chỉ cần có thế, kẻ cư ngụ bé nhỏ vàng óng lập tức ngã xuống sàn lồng. Nó nằm rũ rượi, đầu chúc xuống, xem chừng không thể trở về sào đậu mà nó vừa rơi xuống. Nó chỉ chớp chớp mắt, ngoài ra không còn dấu hiệu sống nào. Thím Sarah phát hoảng. “Cậu Lou!” Bà kêu the thé. “Cậu đến đây đi! Con chim nhỏ của cô Julia bị làm sao ấy. Cậu xem xem cái gì khiến nó đau.” Durand, mấy phút vừa qua vẫn quan sát bà qua vai, lập tức bỏ tờ báo xuống, đứng dậy đi tới. Khi anh tới nơi, thím Sarah đã mở cửa lồng, cho một tay vào với sự cẩn thận kềnh càng, đưa con chim ra ngoài. Nó chẳng buồn giãy giụa, nằm im thin thít. Hai người cúi xuống nhìn nó với sự chăm chú, một cách vô tình, tạo nên cảnh tượng khá tức cười. “Chà, nó đói. Nó hẳn không được ăn gì trong mấy ngày liền. Dưới lớp lông chẳng có gì hết. Đây này. Cậu nhìn xem. Đĩa hạt sạch bách. Nước cũng không có.” Con chim tiếp tục chớp mắt, như đang bám lấy sự sống mong manh. “Nghĩ lại, tôi không nghe thấy nó hót từ hai, ba ngày nay rồi. Dù sao thì nó cũng không hót một cách đúng nghĩa.” Durand, nghe lời nhận xét của bà, liền nhớ ra anh cũng không nghe thấy nó hót. “Cô Julia sẽ giận lắm,” bà đoán, lắc đầu ái ngại. “Nhưng ai là người cho nó ăn, bà hay cô ấy?” Bà hướng ánh mắt hoang mang vào anh. “Sao cơ? Tôi… tôi tưởng là cô ấy. Cô ấy chưa từng nói gì với tôi. Cô ấy chưa bao giờ bảo tôi làm điều đó. Nó là của cô ấy, tôi cứ ngỡ cô ấy không muốn ai ngoài mình cho nó ăn.” “Hẳn cô ấy cho rằng bà sẽ làm,” anh cau mày, bối rối. “Nhưng lạ là cô ấy chẳng đả động gì hết. Tôi sẽ giữ nó trong tay. Hãy cho nó uống ít nước.” Họ đưa con chim đã hồi phục phần nào trở lại lông, và luôn trông chừng nó, trong khi Julia bước vào phòng, có vẻ quá trình ăn vận trang điểm dài lê thê của cô cuối cùng đã xong. Cô tiến về phía anh, ngửa mặt lên, và hôn anh một cách chiếu lệ. “Em đi mua sắm đây, anh yêu. Cho em vắng mặt khoảng một giờ nhé!” Rồi không đợi cho phép, cô đi ra cánh cửa bên kia. “Ồ, mà này, Julia…,” anh phải gọi cô lại. Cô dừng chân và xoay người lại, ngoan ngoãn. “Gì vậy anh?” “Thím Sarah và anh vừa phát hiện Dicky Bird đang hấp hối.” Anh nghĩ chuyện đó chí ít sẽ khiến cô quay về chiếc lồng, dù chỉ để liếc một cái. Cô đứng nguyên tại chỗ, dáng vẻ miễn cưỡng, như đành trì hoãn chỉ vì anh. “Nó sẽ ổn thôi,” thím Sarah nhanh nhảu xen vào. “Con người, gia súc hay chim chóc, chẳng loài nào mà thím Sarah không chăm sóc được. Cô cứ chờ mà xem, nó sẽ khỏe lại.” “Thế ư?” Cô hỏi cụt lủn. Gần như có một sự khó chịu trong cách nói, nhưng dĩ nhiên, anh tự nhủ, hoàn toàn do anh tưởng tượng ra. Cô đeo găng tay với thái độ kiêu kỳ. Chủ đề đã thay đổi một cách uyển chuyển. “Hi vọng em không gặp nhiều khó khăn trong việc gọi xe. Lúc nào cũng thế, đúng lúc người ta cần thì chẳng thấy cái nào…” Thím Sarah, giữa những đặc tính vô hại khác, lại có tính chậm chạp trong việc thay đổi chủ đề, một câu chuyện nóng hổi còn được bà bám lấy khá lâu sau khi những người khác đã từ bỏ. “Nó sẽ hót hay như cũ sau một, hai ngày thôi, cô ạ.” Mat Julia chớp lên sốt ruột. “Đôi khi việc ca hót của nó cũng không hẳn là tốt,” cô nói chua chát. “Sẽ là một ân phước nếu…,” cô liếm môi chữa lại, quay sang Durand lần nữa. “Có một chiếc mũ bày ở hiệu Ottley mà em nhất định phải có. Mong rằng chưa có ai mua mất nó. Anh cho em đi nhé!” Anh thấy ấm lòng trước sự xin phép đầy tôn kính này. “Tất nhiên rồi! Chúc em may mắn.” Cô hối hả đi ra cửa, mở toang cửa ra. “Là lá la, ta đến đây.” Cô gửi cho anh nụ hôn gió, vung tay thật cao, từ khung cửa. Cửa đóng và căn phòng mò tối trở lại. Thím Sarah vẫn đứng cạnh chiếc lồng. “Tôi cứ tưởng cô ấy sẽ đến nhìn nó chứ,” bà bối rối nói. “Chắc là cô ấy không còn yêu quý nó nữa.” “Không có chuyện đó đâu. Cô ấy đã đưa nó theo từ St. Louis đến đây,” Durand trả lời lơ đãng, lại chúi mắt vào tờ báo. “Có thể cô ấy đã thay đổi, không quan tâm đến nó nữa.” Tuy nhiên lời độc thoại này chỉ có ý nghĩa với bà, không phải với ông chủ. Anh chỉ tình cờ ở đó và nghe thấy. Bà ra khỏi phòng. Một phút trôi qua. Thực ra là nhiều phút. Sự chú tâm của Durand vẫn dồn vào tờ giấy in trước mặt. Rồi đột ngột anh ngừng đọc. Đôi mắt anh rời khỏi tờ báo, nhìn chằm chằm qua mép nó. Anh không nhìn vào thứ gì cụ thể, chỉ là một suy nghĩ vu vơ. Chương 11 M ột ngày nọ, khi ngồi lên chiếc rương của cô, anh mới sực nhớ ra nó. Khó lòng còn nhận ra đó là một chiếc rương, một tờ giấy in sặc sỡ phủ lên trên đã ngụy trang cho nó, được dựng sát tường. Hôm đó là Chủ nhật, mặc dù không đi nhà thờ, giống như mọi công dân khả kính khác, họ không bao giờ bỏ qua việc diện bộ cánh đẹp nhất và thực hiện chuyến dạo chơi; để nhìn ngắm và được nhìn ngắm, nghiêng mình, gật đầu, thỉnh thoảng hỏi thăm xã giao những người quen đi ngang qua. Đi dạo sáng Chủ nhật là một phong tục lâu đời ở mọi thành phố của đất nước này. Anh đang chờ cô sửa soạn, và đã ngồi xuống cái bề mặt khó nhận định này mà không nhìn xem nó là gì, chỉ thấy hài lòng vì nó vừa tầm và chắc chắn. Cô chậm trễ ở những phút cuối vì gặp vài khó khăn. “Bộ này em đã mặc tuần trước, anh nhớ không? Người ta sẽ nhận ra.” Cô loại nó ra. “Còn bộ này… em không biết nữa…,” cô hơi dẩu môi. “Em không có ấn tượng với nó.” Cô cũng loại ra nốt. “Bộ kia đẹp đấy,” anh vui vẻ đề xuất, chỉ bừa một bộ. Cô nhún vai trước sự kém hiểu biết của anh. “Nhưng đây là váy mặc trong tuần, không phải cho ngày Chủ nhật.” Anh băn khoăn, và cười thầm, làm sao mà phân biệt được, nhưng anh kìm lại không hỏi cô. Cô ngồi xuống, trì hoãn thêm việc khởi hành. “Làm sao bây giờ? Em chẳng có bộ nào thích hợp cả.” Câu nói này, cùng gian phòng đã chất đầy váy xống, khiến anh không nhịn được, cười phá lên, trong cơn sảng khoái vung tay đập xuống bề mặt mình đang ngồi. Qua lớp phủ, anh cảm thấy hình dạng không thể nhâm lẫn của cái khóa kim loại hình quả lê. Khi ấy anh mới biết mình đang ngồi trên chiếc rương của cô. Chiếc rương cô mang từ St. Louis tới. Anh chợt nhận ra đến giờ cô vẫn chưa hề mở nó ra. “Cái này thì sao?” Anh hỏi, rồi đứng dậy lột lớp bọc ra. Chữ viết tắt "J.R" sơn màu đỏ sậm ngay dưới chiếc khóa, đập vào mắt. “Em không có bộ nào trong đây à? Với cái rương cỡ này thì anh nghĩ là em có.” Và với mong muốn giúp ích, anh vỗ lên nắp rương ra hiệu. Cô đang nhìn sững vào một bộ váy, với sự chăm chú gần như căng thẳng, giơ nó lên trước mặt. Dán mắt săm soi, như thể cô bị cận hoặc cố tìm ra một lỗi nhỏ xíu nào đó trên mặt vải. “Ồ không,” cô nói. “Chẳng có gì đâu. Toàn là giẻ rách.” “Sao anh chưa bao giờ thấy em mở nó ra? Em chưa hề mở đúng không?” Cô vẫn nhìn riết vào món đồ trên tay. “Vâng, em chưa hề mở.” “Anh tưởng rằng em sẽ mở. Em định ở lại cơ mà?” Anh chỉ cố tỏ ra hài hước. Lần này cô không trả lời. Cô chớp mắt trước câu nói thứ hai, nhưng có lẽ nó chẳng liên quan; chỉ đơn giản là sự trùng hợp. “Sao lại không?” Anh kiên trì. “Sao em không mở?” Nhưng anh không có ý gì, chỉ muốn có câu trả lời. Lần này cô chú ý đến câu hỏi. “Em… em không thể,” cô nói có phần ngập ngừng. Dường như cô không định giải thích thêm, hoặc không định tự nguyện làm thế, nên anh hỏi tiếp, “Vì sao?” Cô im lặng một lúc. “Vì… chìa khóa. Nó… ờ, đã bị mất. Em không tìm được. Em đã làm mất nó trên tàu.” Trong lúc nói, cô đến bên chiếc rương, và khá vội vàng xếp lại tấm giấy bọc, như thể bực bội vì nó đã bị xô lệch. Song có thể đây chỉ là cảm giác do sự hấp tấp của đôi tay cô. “Sao em không nói với anh?” Anh kịch liệt phản đối, nôn nóng muốn giúp cô. “Anh sẽ gọi thợ khóa đến đánh chìa mới cho em. Sẽ rất nhanh thôi. Đợi chút, để anh xem nó…” Anh kéo lớp giấy ra, trong khi cô gần như cố giữ nó ở nguyên vị trí. Một lần nữa chữ "J.R" chói lọi hiện ra, nhưng chỉ trong khoảnh khắc. Anh gõ gõ miếng đồng hình quả lê. “Cái này dễ thôi, đây là loại khóa đơn giản.” Một giây sau, lớp bọc trong tay cô phủ qua nó như tấm rèm, che đi chiếc khóa và những chữ cái. “Anh sẽ ra ngoài tìm thợ khóa,” anh đề nghị và đi ra cửa. “Người ta có thể kiểm tra và hoàn thành công việc khi chúng ta trở về từ…” “Anh không thể đi,” cô gọi theo, giọng nói chợt lạc đi, có thể do cô phải cao giọng để anh nghe thấy. “Tại sao?” Anh dừng lại hỏi. Cô thở hắt ra. “Hôm nay là Chủ nhật.” Anh xoay người ở ngưỡng cửa và chậm chạp đi vào, bực dọc. “ừ nhỉ,” anh thừa nhận. “Anh quên mất.” “Nhất thời em cũng quên đấy,” cô nói. Và cô lại buông tiếng thở mạnh, theo cách mà, có lẽ chỉ là biểu hiện phiền lòng vì sự chậm trễ, nhưng gần như có thể bị hiểu lầm là sự nhẹ nhõm khôn tả, theo âm thanh nó phát ra. Chương 12 N ghi thức tắm rửa đang được tiến hành, hoặc ít ra đang được chuẩn bị, ở đâu đó phía sau. Anh biết điều đó nhờ những âm thanh vẳng đến tai, dù anh bị cách ly khỏi cảnh tượng ấy, ở cách đó hai phòng, trong phòng khách liền kề phòng ngủ, và chúi đầu vào tờ báo. Anh nghe thấy những xô nước nóng, lần lượt được xách lên từ lò bếp dưới nhà bởi thím Sarah, trút ào ào vào bồn. Rồi tiếng khuấy mạnh, để nó hòa với dòng nước lạnh từ vòi chảy xuống. Rồi thử nước bằng cách cẩn thận nhúng mũi chân vào, và tiếp theo thường là rụt phắt trong tiếng kêu ré “Lạnh quá!” hoặc “Nóng quá!” to như tiếng tranh cãi của người trợ giúp, thím Sarah, “Làm gì có! Cô đừng như trẻ con thế! Để yên một phút xem nào, cứ nhảy dựng như phải bỏng thế? Chồng cô đang ngồi ngoài kia kìa; cô không muốn bị bẽ mặt nếu để ngài ấy biết cô là con mèo nhát chết chứ?” “Anh ấy đâu có phải bước vào đó, mà là tôi,” tiếng trả lời than vãn vọng đến. Vượt lên tiếng nước chảy, và hòa theo nhịp điệu, con chim bạch yến, Dicky Bird, đang hót líu lo từ căn phòng ngủ ở giữa. Thím Sarah đi qua gian phòng nơi anh ngồi, mỗi tay xách một cái xô rỗng. “Cô ấy đúng là một tạo vật nhỏ xinh,” bà nhận xét. “Trắng như sữa và mềm như mật. Thân hình thì như… ừ… ừm!” Mặt anh bỗng nhiên đỏ ửng. Phải mất một lúc đợt sóng bừng bừng ấy mới rút. Anh làm ra vẻ câu bình luận ấy không nhắm đến anh, ra vẻ không để ý. Bà đi xuống dưới nhà. Những nỗ lực xuất sắc của chú bạch yến nâng lên thành một âm rung chiến thắng, kéo dài, gần như nhức óc, rồi đột nhiên tắt ngấm. Lúc đó đến anh cũng phải công nhận đó là một chuỗi âm thanh khá lớn mà một con chim nhỏ có thể phát ra. Sau đó là sự im lặng kì lạ, gần như tuyệt đối. Rồi tiếng ì oạp, dập dềnh thường có khi cơ thể dầm xuống nước. Sau đấy chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng róc rách. Thím Sarah quay lại, dừng giữa chừng để giũ tung và xem xét chiếc khăn bông, được làm ấm nhờ bếp lò, mà bà mang theo. Bà đi tiếp vào phòng ngủ. “Chào cưng,” anh nghe thấy giọng bà từ đó vọng ra. “Chú chim của ta thế nào rồi? Cục bông vàng của ta?” Thình lình giọng bà biến thành the thé giục giã. “Cậu Lou! Cậu Lou!” Anh chạy vào. “Nó chết rồi!” “Không thể nào. Mấy phút trước nó vẫn còn hót.” “Nó chết rồi! Cậu nhìn đi…,” bà đã đưa con chim ra khỏi lồng, đặt lên lòng bàn tay. “Có thể nó lại cần nước và hạt ngũ cốc, như lần trước…,” nhưng cả hai đĩa đó đều đầy ắp; kể từ hôm đó thím Sarah đã làm tròn trách nhiệm của mình. “Không phải vì thế.” Bà nghiêng bàn tay một cái. Có cái gì đó vắt qua cạnh bàn tay, lủng lẳng ở đó, trong khi thân con chim vẫn ở yên. “Cổ nó đã gãy.” “Có lẽ nó rơi khỏi thanh sào…” Durand cố gợi ý một cách vô nghĩa, vì không nghĩ ra bất cứ lời giải thích nào khác. Bà cau mặt vẻ gay gắt với anh. “Loài chim không thể rơi! Chúng có cánh để làm gì chứ?” Anh lặp lại, “Nhưng mấy phút trước nó vẫn đang hót…” “Tinh trạng nó mấy phút trước và bây giờ là hai chuyện khác nhau.” “… và chẳng có ai trong đây. Không ai ngoài bà và Julia…” Trong sự im lặng, kì lạ thay, có thể nghe thấy ở phòng tắm bên cạnh, Julia khẽ huýt sáo một, hai nhịp. Rồi, như muộn màng nhận ra bản thân đang hành xử không ra dáng quý cô, cô dừng lại, và té nước ầm ĩ để kết thúc. Chương 13 D urand tình cờ đi qua con phố có dãy phòng cũ anh từng ở. Anh ắt chẳng để tâm mà sẽ đi tiếp với cái liếc mắt hồi tưởng. Mục đích và điểm đến của anh nằm ở nơi khác, chỉ vì ngẫu nhiên mà đây là con đường ngắn nhất đến đó. Và cũng thật tình cờ, Madame Tellier, bà chủ nhà trước đây, lại bước ra đứng trước cửa đúng lúc anh đi qua. Bà hồ hởi chào anh, với những tiếng la vui sướng chắc cả khu nhà cũng nghe thấy, dang tay ôm chầm lấy anh như người mẹ thứ hai, hỏi thăm sức khỏe, hạnh phúc, sự tận hưởng cuộc sống hôn nhân của anh. “Ôi, chúng tôi rất nhớ anh, Louis! Dãy phòng của anh đã được thuê lại… bởi một đôi vợ chồng miền Bắc (tôi tính giá gấp đôi)… nhưng không được như xưa.” Bà nhăn chiếc mũi khá to vẻ ghê tởm. Rồi bà đột ngột tươi tỉnh lại, bật mấy ngón tay tự nhắc. “Tôi sực nhớ ra! Có một lá thư đang chờ anh. Nó đã ở đây mấy ngày rồi, từ đó đến giờ không thấy Tom đến, để tôi hỏi địa chỉ mới của anh, bằng không tôi đã chuyển cho anh ngay. Ông ấy vẫn ở đây và làm cho tôi, anh biết đấy. Anh chờ ở đây, tôi sẽ mang nó ra cho anh.” Bà vỗ liên tiếp ba cái vào ngực anh, như thể động viên anh chịu khó đứng đợi và anh đứng một lúc, quay người, ngoảnh vào trong. Giờ anh mới rầu rĩ nhớ ra, anh đã hoàn toàn quên chuyển địa chỉ thư ở đây, dãy phòng cũ của anh, sang ngôi nhà mới trên đường St. Louis, khi anh chuyển đi. Việc đó không phải quá hệ trọng; tất cả thư từ công việc của anh vẫn tiếp tục gửi đến văn phòng, như mọi khi, anh chưa bao giờ có nhiều thư cá nhân, chỉ có thư từ tìm hiểu giữa anh và Julia, giờ đã kết thúc viên mãn. Trên đường về, anh sẽ ghé vào một bưu điện, đăng ký địa chỉ nhận thư mới, đề phòng những trường hợp thư đi lạc như thế này. Trong lúc đó, bà đã đem bức thư ra. “Đây! Đúng là sự trùng hợp may mắn khi anh đi qua đây thế này.” Anh liếc dòng chữ đề bên ngoài, chỉ để xác nhận, khi đón nó từ tay bà. “Mr. Louis Durand,” bằng nét chữ rườm rà; thêm vào ba chữ cái M, L, D màu đen nổi bật, những chữ thường viết quá thanh nhã và quá nhỏ để dễ đọc. Tuy nhiên đó là tên anh, không thể nhầm lẫn, nên anh không thắc mắc thêm; nhét bừa nó vào túi áo khoác để xét sau và lập tức quên bẵng đi. Sự chia tay của họ cũng ồn ào náo nhiệt như cuộc gặp gõ. Bà hôn lên trán anh giống như sự cầu chúc của người mẹ, vẫy tay chào cho đến lúc anh đã đi được ba, bốn ngôi nhà, còn đưa tạp dề lên chấm khóe mắt trước khi quay vào trong. Madame Tellier rất mau nước mắt; bà khóc trước một ly rượu, hoặc khi nhìn thấy bất cứ gương mặt người quen nào. Kể cả những người bà từng thẳng tay đuổi ra đường vì nợ tiền thuê nhà. Kết thúc chuyến đi, anh trở về văn phòng, tiếp tục bận rộn với công việc. Anh phát hiện ra lá thư lần thứ hai vào mười lăm phút cuối trước khi ra về, và bằng sự ngẫu nhiên khi nó chọc vào bàn tay anh vô tình quơ trong túi để tìm khăn mùi xoa. Nhớ ra sự hiện diện của nó, anh tạm dừng tay và lấy nó ra, xé phong bì, ngả người ra ghế đọc. Mắt anh vừa chạm đến dòng mở đầu đã dừng lại, bối rối. Julia thân yêu của chị! Nó gửi cho cô, không phải anh. Anh lật lại phong bì, nhìn nó kĩ hơn lúc ở ngoài đường với sự có mặt của Madame Tellier. Rồi anh hiểu lí do mình nhầm lẫn. Cái nét cong ngay sau chữ "Mr" nhỏ đến mức gần như không phát hiện ra, chính là một chữ "s". Anh quay về với lá thư, lật mặt bên kia, nhìn xuống phía cuối. Chị Bertha yêu quý và đang lo buồn của em. Nó đến từ chị gái của cô, ở St. Louis. “Lo buồn.” Chữ đó quăng vào anh như một lưỡi câu có ngạnh, thu hút toàn bộ sự chú ý của anh. Anh không thể để nó qua một bên nữa. Anh không định đọc nhiều hơn. Xét cho cùng đó là thư của cô. Bằng cách nào đó, những từ mở đầu đã giữ chặt lấy anh, anh không thể dừng lại một khi ý nghĩa của chúng đã đập vào mắt. Julia thân yêu của chị! Chị không thể hiểu vì sao em nỡ đối xử với chị như vậy. Chắc chắn chị xứng đáng nhận những điều tốt đẹp hơn thế này ở em. Đã ba tuần trôi qua kể từ khi em giã biệt, và trong thời gian ấy không có lấy một dòng nào từ em. Dù là ngắn ngủi nhất, để báo cho chị biết em đã đến nơi an toàn, em có gặp anh Durand hay không, đám cưới có được tổ chức hay không. Julia, em chưa bao giờ như thế này. Chị phải nghĩ sao đây? Em không thể hình dung chuyện này khiến chị quẫn trí đến mức nào đâu… Chương 14 A nh đợi đến khi họ ăn xong bữa tối mới nói bức thư, và theo cách ôn hòa nhất, ít trách móc nhất. Anh lấy nó ra đưa cho cô, sau khi họ đi từ phòng ăn sang phòng khách, và đã ngồi xuống, cô ngồi đối diện anh qua chiếc bàn sáng đèn. “Cái này gửi đến cho em hôm nay. Anh đã không chú ý mà mở nhầm, mong em thứ lỗi.” Cô cầm lấy cả chiếc phong bì đầu tiên, ngó nghiêng quan sát. “Từ ai vậy?” Cô hỏi. “Em không tự tìm hiểu được sao?” Đúng lúc anh định tự hỏi tại sao dòng chữ kia không cho cô biết, cô đã rút lá thư bên trong, mở ra, và lẩm bẩm “Ồ,” nên câu hỏi chẳng bao giờ có cơ hội hình thành trong tâm trí anh. Nhưng cái từ "Ồ" mang ý nghĩa nhận ra người gửi hay chỉ là nhận ra tính chất lá thư, hay thậm chí một cái gì khác, thì anh cũng không tài nào phân biệt được. Cô đọc khá nhanh, thậm chí vội vàng, mái đầu di chuyển theo mỗi dòng, rồi quay lại, trong những cơn co giật nhỏ liên tiếp, cho đến cuối lá thư và dừng. Anh nghĩ anh đã thấy vẻ hối hận trên gương mặt cô, trong sự lơ đãng thất thần, kéo dài một lúc sau đó. “Chị ấy nói…,” cô run run đưa nó cho anh. “Anh đọc chưa?” “Anh đọc rồi,” anh nói, hơi không thoải mái. Cô cất nó vào phong bì, gõ hai cái vào chỗ mép phong bì bị xé. Anh dịu dàng nhìn cô, làm mềm đi tính cương quyết trong lời yêu cầu. “Viết cho chị ấy đi, Julia,” anh thúc giục. “Như vậy không giống em chút nào!” “Em sẽ viết,” cô hứa một cách đầy ăn năn. “Ôi, nhất định em sẽ viết, Louis.” Và chắp hai bàn tay vào nhau vặn vẹo, cúi đầu nhìn xuống. “Nhưng sao trước giờ em không làm thế?” Anh nhẹ nhàng hỏi tiếp. “Anh chưa bao giờ hỏi em, vì tin chắc em đã viết.” “Ôi, quá nhiều chuyện đã xảy ra… mấy lần em định viết, và lần nào cũng xảy ra chuyện gì đó khiến em quên đi. Anh thấy đấy, Louis, mấy tuần qua là khởi đầu một cuộc sống hoàn toàn mới đối với em, và mọi thứ dường như đến cùng lúc…” “Anh biết,” anh nói. “Nhưng em sẽ viết chứ?” Và anh cầm tờ báo lên. “Ngay lập tức,” cô thề. Nửa giờ đồng hồ trôi qua. Lúc này cô đang lật xem một quyển album trang trí dày, thích thú với những bản khắc đồng, bỏ qua phần chữ viết. Anh lén quan sát cô một hồi từ dưới hàng mi hạ thấp. Giờ anh lên tiếng tằng hắng nhắc nhở. Cô không để ý, tiếp tục xem say sưa. “Em nói là sẽ viết thư cho chị gái mà.” Cô tỏ ra ngơ ngác. “Em biết. Nhưng phải ngay tối nay ư? Để đến mai cũng được mà?” “Em không muốn viết thư cho chị ấy à?” “Tất nhiên là có, sao anh có thể hỏi như thế? Nhưng sao phải ngay bây giờ? Ngày mai thì có khác gì?” Anh đặt tờ báo sang bên. “Anh e rằng phải mất rất nhiều thời gian thư mới đến nơi. Nếu em viết bây giờ, thì có thể gửi thư vào sáng sớm. Nếu em đợi đến mai, nó sẽ bị chậm một ngày; chị ấy sẽ phải chịu thêm nhiều lo lắng.” Anh đứng lên, đóng quyển album lại, vì cô không tỏ vẻ gì sẽ tự đóng nó. Rồi anh dừng lại nhìn cô chăm chú, “Hai người không giận dỗi gì đấy chứ? Có cuộc cãi vã nào trước khi em đi mà em không kể với anh không?” Và trước khi cô có thể nói, nếu cô định làm thế, anh đã chặn họng. “Nếu có thì chị ấy đã không viết thư.” Những đường gân ở cổ cô, trong thoáng chốc căng lên, rồi lại chùng xuống, như thể anh vừa làm chết yểu điều cô định nói. “Sao anh nói như thế được,” cô lầm bầm. “Bọn em rất thân thiết.” “Vậy thì viết đi. Đừng bướng bỉnh nữa. Thời gian là vàng bạc. Và anh có thể thấy là em không bận bịu gì.” Anh nắm lấy hai tay cô và phải kéo cô đứng dậy. Mặc dù cô không tỏ ý cưỡng lại, nhưng anh cảm thấy trọng lượng cơ thể cô trì xuống trước sức kéo của anh. Anh phải đi tới bàn giấy và kéo tấm kê xuống, phải rút một tờ giấy viết thư trên giá, đặt trước mặt cô, hơi nghiêng một góc. Anh phải quay lại chỗ cô nắm tay kéo cô đến. Rồi khi đã ép được cô ngồi xuống, anh phải chấm bút vào mực và đặt nó vào những ngón tay cô. Anh vỗ nhẹ đầu cô. “Em cứ như đứa trẻ ương ngạnh không muốn làm bài tập,” anh trêu cô. Cô cố mỉm cười, nhưng không hiệu quả mấy. “Cho em xem lại thư của chị ấy,” cuối cùng cô nói. Anh quay về bàn, đem nó cho cô. Nhưng dường như cô chỉ liếc dòng trên cùng, chỗ đề địa chỉ để có thể chép lại. Song anh tự nhủ suy nghĩ này chắc chắn là hoang đường. Nhiều người phải để thư trước mặt mới có thể viết thư trả lời một cách trọn vẹn; có thể cô là một trong số đó. Nhìn một cái rồi lập tức quay đi, cô viết vào tờ giấy trắng tinh, “Chị Bertha yêu quý!” Anh có thể nhìn thấy nó qua vai cô. Ngoài lần đó ra cô dường như không cần dùng đến bản gốc nữa, đẩy nhẹ nó sang bên và không ngó ngàng đến nó. Anh để yên cho cô viết. Anh quay về ghế, lại cầm tờ báo lên. Nhưng dòng ý tưởng của cô có vẻ không tuôn ra dễ dàng. Anh nghe thấy tiếng ken két của ngòi bút một hồi, rồi nó sẽ dừng lại, bế tắc, sẽ có một thời gian dài chờ đợi. Rồi nó sẽ ken két viết thêm vài từ, rồi lại tắc tị. Anh ngoái nhìn đúng lúc thấy cô gõ bút vào trán dầy suy tư và giữ nó ở đó một lúc. Một hồi sau anh nghe thấy cô thở mạnh, nhưng mang vẻ bực dọc sốt ruột còn tiếp diễn sau khi hoàn thành một công việc hơn là nhẹ nhõm vì nó đã kết thúc, và tiếng cào bút dừng hẳn. Cô quăng bút xuống, như cáu kỉnh. “Em viết xong rồi. Anh có muốn đọc không?” “Không,” anh nói, “chuyện giữa hai chị em, người chồng không nên đọc.” “Tốt thôi,” cô tùy tiện nói, đưa đầu lưỡi hồng hông qua mép phong bì đã quết hồ, dán nó vào. Cô dựng nó lên dựa vào phía trong bàn, chuẩn bị đặt tấm kê lên. “Sáng mai em sẽ bảo thím Sarah đi gửi.” Anh đã vươn tay cầm nó lên trước khi đôi tay cô có thể chặn lại, chúng vung về phía nó quá trễ. Cô không ngờ anh đứng ngay sau lưng mình. Anh đút bức thư vào túi áo ngực bên trong, cài cúc áo lại. “Anh có thể làm việc đó,” anh nói. “Anh rời nhà sớm hơn. Như vậy thư sẽ được gửi đi sớm hơn.” Anh thấy nét giật thót, gần như là nỗi sợ hãi khi mắc bẫy, vì mắt cô lập tức đảo một vòng, nhưng chúng bình thường lại rất nhanh khiến anh tự nhủ hẳn mình nhìn lầm, anh không hề trông thấy điều đó. Lần tiếp theo anh nhìn thì cô đang lau cạnh những ngón tay bằng miếng da dê cọ bút, tuy nhiên là lau những vết bẩn tiềm tàng chứ không phải vết bẩn thực sự, và có vẻ đó là mối quan tâm duy nhất của cô vào lúc ấy, thế nhưng trán cô vẫn cau lại trầm tư. Chương 15 S áng hôm sau, anh nghĩ chưa bao giờ cô đáng yêu hơn thế, ân cần hơn thế. Tất cả những đáng mến duyên dáng trước đây của cô đều lạnh ngắt so với sự săn sóc ấm áp hiện giờ. Cô mặc chiếc váy dài lụa vân sóng màu hoa tử đinh hương, đổ xuống như thác nước lấp lánh nhìn từ bất cứ góc độ nào. Nó rì rào theo bước chân cô, như thể cũng trầm trồ trước nhan sắc của cô. Cô không ngồi bên bàn như mọi ngày, mà đi ra đến cửa để tiễn anh, tay cô ôm ngang lưng anh, tay anh ôm ngang lưng cô. Và khi ánh nắng sớm chênh chếch bắt lấy cô trong luồng sáng của mình, rồi thả ra, rồi lại bắt lấy cô ở bước chân kế tiếp, chơi trò ú tim với cô dọc gian sảnh, anh nghĩ mình chưa bao giờ trông thấy một sắc đẹp thiên thần như vậy, và gần như kinh sợ khi nghĩ tạo vật đó là của anh, đang bước đi trong ngôi nhà của anh, ngay cạnh anh. Giá cô có yêu cầu anh nằm xuống và chết vì cô ngay lúc ấy, anh ắt sẽ vui sướng thực hiện, và cũng vui sướng vì cô đã yêu cầu. Họ dừng lại. Cô ngẩng mặt khỏi cánh tay anh, nhấc mũ của anh lên, phủi bụi, rồi đưa cho anh. Họ hôn nhau. Cô lấy áo khoác cho anh, giữ nó mở rộng để anh xỏ tay vào. Họ hôn nhau. Anh mở cửa chuẩn bị đi. Họ hôn nhau. Cô thở dài. “Em ghét phải nhìn anh đi. Giờ em chỉ có một mình suốt ngày dài.” “Em định sẽ làm gì?” Anh hỏi trong sự day dứt, với nhận thức đột ngột… và nhất thời… của một gã đàn ông là cô cũng có một ngày phải trải qua, phải tiếp tục đi qua nó mà thiếu vắng anh. “Em đi mua sắm vậy nhé,” anh gợi ý vẻ cưng chiều. Gương mặt cô sáng lên trong khoảnh khắc, như thể anh đọc được tiếng lòng cô. “Vâng…!” Rồi nó lại xị xuống. “Không…,” cô nói, ủ rũ. Sự quan tâm của anh lập tức tăng cao. “Sao vậy? Có chuyện gì thế?” “Ồ, không có gì…,” cô quay đầu đi, không muốn nói với anh. Anh đỡ lấy cằm cô kéo lại. “Julia, anh muốn biết. Nói đi, có chuyện gì?” Anh chạm vào vai cô. Cô gắng gượng mỉm cười yếu ót, mắt nhìn ra cửa. Cuối cùng anh phải đoán. “Có phải chuyện tiền bạc không?” Anh đã đoán đúng. Một sợi lông mi cũng không cử động, nhưng bằng cách nào đó cô đã nói với anh. Chắc chắn không phải bằng lưỡi của cô. Anh há miệng, bật cười. “Ôi, Julia ngốc nghếch tội nghiệp của anh…,” áo khoác anh lập tức được phanh ra, bàn tay anh đưa vào trong. “Em chỉ việc hỏi thôi mà, em không biết sao…?” Lần này không thể nhầm lẫn về câu trả lời. “Không…! Không…! Không!” Cô gần như quá khích về chuyện này, mặc dù theo kiểu dẩu môi hờn dỗi của trẻ con, thậm chí còn giậm mũi chân tỏ thái độ. “Em không muốn hỏi xin. Như thế là không hay. Em không quan tâm việc anh là chồng em. Nó vẫn không hay. Em đã được giáo dục như vậy, em không thể thay đổi.” Anh mỉm cười nhìn cô, thấy cô đáng yêu quá đỗi. Nhưng anh vẫn không hiểu cô, điều đó đâu có làm xấu đi hai yếu tố đầu tiên. “Vậy thì em muốn gì?” Cô cho anh câu trả lời đúng kiểu đàn bà. “Em không biết.” Và ngước mắt lên ngẫm nghĩ, như đang cố phân tích vấn đề trong đầu, để tìm ra giải pháp. “Nhưng em muốn đi mua sắm, đúng không? Nhìn vẻ mặt em là biết. Song em lại không muốn anh đưa tiền cho em mua sắm.” “Không có cách nào khác ư?” Cô nài nỉ một cách tuyệt vọng, như thể sẵn sàng giải phóng bản thân khỏi những nguyên tắc, chỉ cần cho cô biết làm thế nào mà không cần từ bỏ chúng. “Anh có thể nhét nó dưới đĩa thức ăn của em, một cách tự nguyện, để em tìm thấy vào bữa sáng,” anh cười ranh mãnh. Cô không thấy nét hài hước trong đề xuất ấy, lắc đầu lơ đãng, vẫn mải cắn ngón tay nghiền ngẫm. Chợt mắt cô sáng lên, nhìn anh. “Em không thể có một tài khoản nhỏ sao…? Giống như anh, có điều… Ồ, chỉ là một tài khoản nhỏ, rất nhỏ… nhỏ xíu…” Rồi cô tự phản bác, trước khi anh có thể nhảy vào bày tỏ sự tán thành, như anh định thế. “Không được, như vậy quá phiền phức, chỉ để mua mấy cái mũ, găng tay và những thứ lặt vặt,” sắp chìm vào sự nan giải chán ngán lần nữa, cô lại phấn chấn khi nghĩ ra sáng kiến mới. “Hoặc vẫn tốt hơn, em có thể dùng chung tài khoản với anh không?” Cô xòe hai bàn tay hân hoan trước phát hiện này. “Như thế đơn giản hơn. Thay vào đó chỉ cần gọi là tài khoản của chúng ta. Nó đã có sẵn rồi.” Anh sụm vai xuống, vỗ đùi đánh đét. “Trời đất! Thế là khiến em vui ư? Chỉ cần vậy thôi à? Chúa phù hộ trái tim nhỏ bé chân thật của em. Anh… Chúng ta sẽ làm như thế!” Cô lao vào vòng tay anh như cơn lốc, với tiếng la muốn vỡ phổi. “Ôi, Louis, em cảm thấy mình oách quá, quan trọng quá! Thật thế à? Và em thậm chí có thể viết séc riêng, giống như anh?” Yêu một ai đó, là để cho đi, và muốn cho đi nhiều hơn, không hỏi han. Nếu dừng lại nghĩ ngợi thì không còn là yêu nữa. “Những tờ séc của em, viết bằng chữ của em, dùng cho mục đích của em. Anh sẽ gặp em ở ngân hàng lúc 11 giờ. Thời điểm đó có phù hợp với em không?” Cô chỉ áp má vào má anh. “Em biết tìm đường đến đó chứ?” Cô áp má vào anh lần nữa, phía bên kia. Do đặc quyền phụ nữ, cô để cho anh đến đó trước cô. Nhưng khi anh đến, cô chỉ bắt anh chờ chưa đến một phút. Trên thực tế cô vội vàng bước vào, sát gót anh, đến độ gần như có thể cho rằng cô đã đợi sẵn ở vị trí thuận lợi gần đó, chỉ cần anh đi vào thì cô cũng cất bước. Cô lại gần khi anh vừa đặt chân vào tiền sảnh. “Louis,” cô nói, kín đáo đặt tay lên cổ tay anh ngăn lại, và kéo anh sang một bên, “Em đã suy nghĩ về chuyện này sau khi anh rời nhà. Em không chắc… xét cho cùng chính em muốn anh làm chuyện này. Anh có thể nghĩ em là người vợ lợi dụng… hay chúng ta cứ để mọi chuyện như cũ đi…?” Anh vỗ nhẹ bàn tay cô trên cổ tay anh. “Không cần nói thêm nữa, Julia,” anh nói với vẻ uy quyền chắc nịch. “Anh muốn như thế.” Giờ thì anh chắc chắn ý tưởng ấy là của anh, ngay từ đầu. Cô nghe theo mệnh lệnh của anh đúng như vai trò một người vợ, với cái gật đầu rất nhẹ. Cô khoác tay, sánh bước bên anh với dáng điệu tao nhã. Họ đi qua sảnh ngân hàng tới phía cuối, nơi Giám đốc ngân hàng đã xuất hiện và chờ đón với vẻ lễ độ lịch sự, sau bộ lan can thấp bằng những trụ hình bình hai quai dựng đứng quây ba mặt quanh cửa văn phòng của anh ta. Đó là một quý ông mặt như trăng rằm, sự tròn trịa của khuôn mặt được tô đậm thêm bởi viền râu màu xám sắt uốn sóng cẩn thận bao quanh, quanh miệng và hai bên má cạo nhẵn nhụi. Sợi xích vàng vắt ngang mặt trước áo vest len sọc vuông, hẳn được làm từ những mắt xích dày dặn nhất ở New Orleans, một cái mỏ neo thực sự. Ngay đến anh ta, một ông chủ kinh doanh, cũng ưỡn người như con bồ câu to diều khi thấy Julia tiến về phía mình. Niềm kiêu hãnh mà cô tạo cho Durand, trong việc tháp tùng, cũng ắt khiến cho quá trình ấy sáng giá nếu không vì lí do nào khác. Cô mặc bộ váy phồng màu xanh da trời cho cuộc xâm lăng hãn hữu vào lãnh địa của thương mại và tài chính, khiến bầu không khí khô khan lấp dầy những tiếng xì xào. Những chiếc khuy bọc nhung nhỏ xíu màu hông chạy song song trước ngực, những diềm xếp nếp màu hồng ôm quanh cổ và hai cổ tay; một chiếc mũ bonnet bẹt bằng nhung xanh kéo thấp xuống một bên mắt như miếng gạc màu giúp giảm đau đầu; những sợi ruy băng hông buộc dưới cằm cô, tấm mạng che lắc rắc những chấm hông như tàn thuốc, chỉ rủ đến mi mắt dưới của cô. Bước chân cô ngắn và lộp cộp như thể đang đi cà """