"
Thế Giới Quan Của Dostoevsky PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế Giới Quan Của Dostoevsky PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
THẾ GIỚI QUAN CỦA DOSTOEVSKY ——
Tác giả: N. Berdyaev
Người dịch: Nguyễn Văn Trọng
NXB Tri thức
In lần thứ 1
Số hóa: tudonald78
Bản in: 07/2017
04-10-2020
Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG
Lới nhà xuấ t bãn
Nhà xuất bản Tri thức trân trọng giới thiệu cuốn sách Thế giới quan của Dostoevsky (H.A Бердяев, Миросозерцание Достоевского được xuất bản ở Praha năm 1923 bởi Nxb YMCA Press. Bản dịch ở đây dựa theo ấn phẩm điện tử được phục dựng theo bản in này.) của N. Berdyaev, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc.
Chúng tôi xin lưu ý, thuật ngữ "chủ nghĩa xã hội" mà tác giả đề cập đến trong sách này là "chủ nghĩa xã hội" theo mô hình Xô viết cũ ở Nga chứ không phải là "chủ nghĩa xã hội" theo quan điểm chính thống hiện nay của Việt Nam.
Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách.
Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giã và tác phẩm
Tóm tắt tiểu sử tàc giá Nikolay Berdyaev
N.
Berdyaev là triết gia Nga nổi tiếng của thế kỉ XX. Ông sinh năm 1874
trong một gia đình quý tộc Nga ở Kiev.
Năm 1894 ông vào học trường sĩ quan
quân đội, nhưng cảm thấy môi trường
ở đó không phù hợp nên đã chuyển
sang học ở trường đại học Kiev. Ông
tham gia hoạt động trong phong trào
sinh viên, và từng bị bắt giam một
tháng vào năm 1898. Sau đó ông bị đi
đày ở miền bắc (1901-1902).
Thời gian 1905-1906 ông cùng với
S. N. Bulgakov xây dựng tạp chí Những
vấn đề của cuộc sống nhằm tập hợp
các trào lưu mới trong lĩnh vực tư tưởng-văn hóa.
Năm 1920 ông được khoa Lịch sử-Ngữ văn trường Đại học Moscow phong giáo sư.
Năm 1922 ông cùng với nhiều trí thức và những người hoạt động văn hóa nổi tiếng khác bị trục xuất khỏi nước Nga xô viết. Sau khi bị trục xuất ông đến nước Đức rồi sau đó dịnh cư tại Pháp.
Ông cùng với S. L. Frank và S. N. Bulgakov là những người đặt cơ sở cho sự phục hưng nền triết học tôn giáo Nga. Ông đã xây dựng triết học về bản diện cá nhân và tự do trong tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh. N. Berdyaev được xem là có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh Pháp. Ông mất năm 1948 tại ngoại ô Paris ngay trên bàn làm việc.
Về tàc phấm Thế giới quan cúa Dostoevsky
Tác phẩm Thế giới quan của Dostoevsky lần đầu tiên được xuất bản ở Praha năm 1923 bởi Nxb YMCA-Press. Đây là cuốn sách tổng kết của Berdyaev về Dostoevsky chứa đựng những suy tưởng suốt hơn mười năm của ông về nhà văn.
Trong "Lời dẫn", Berdyaev chỉ rõ ngày hoàn thành tác phẩm - ngày 23 tháng 9 năm 1921 - và nhận xét rằng động cơ thúc đẩy ông viết tác phẩm này là những buổi sinh hoạt khoa học do ông dẫn dắt tại Viện Hàn lâm tự do về Văn hóa tinh thần1 vào mùa đông năm 1920-1921. Ở đây Berdyaev xác định khá chính xác cả cách tiếp cận của ông đối với Dostoevsky: "... tôi đã viết một cuốn sách mà ở đó tôi không chỉ toan tính khai mở thế giới quan của Dostoevsky, mà còn đưa vào đó rất nhiều thứ thuộc thế giới quan của chính tôi".
Để hiểu được cuốn sách này điều quan trọng là phải tính đến ba dãy yếu tố. Dãy yếu tố thứ nhất mang tính xã hội-lịch sử. Ấy là thời đại của ba cuộc cách mạng và ba cuộc chiến tranh của những năm tháng đầu tiên sau chính biến tháng Mười - những biến cố quan trọng, không hề giống nhau, nhưng khẳng định ý tưởng về tính tai họa của thời kì đầu thế kỉ XX. Dãy yếu tố thứ hai mang tính ý hệ hay là triết học tinh thần. Nó gắn với bước ngoặt của một bộ phận trí thức Nga từ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx chuyển sang chủ nghĩa duy tâm, sự phê phán của họ đối với chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa nhân văn "lấy loài người làm trung tâm", cái phần "kiêu hãnh nhân chủng học" mà theo ý kiến của các đại diện cho tư tưởng triết học-tôn giáo thì nó có khả năng hủy hoại cả con người lẫn nhân loại. Nhân vật Dostoevsky trong sự biến chuyển gay gắt ấy của toàn bộ những vấn đề triết học, phương pháp và những nguyên lí của ông hóa ra là mang tính mấu chốt. Rất đáng chú ý sự kiện sau: không có một đại diện nào của tư
tưởng triết học-tôn giáo Nga lại bỏ qua tên tuổi của Dostoevsky, hầu như tất cả bọn họ đều đã viết về ông trong những cuốn sách, những bài báo hay là để lại những phát ngôn này nọ. Dãy yếu tố thứ ba mang tính tự truyện. Trong quá trình tiến hóa thế giới quan của mình, Berdyaev đã biến Dostoevsky thành điểm tựa cho tất cả những tạo dựng của ông về triết học-lịch sử và đạo đức-thẩm mĩ. Từ sự tiếp thu Kitô giáo và Đức Kitô theo Huyền thoại về viên Đại pháp quan và trải qua sự khắc phục Stavrogin và "quan điểm Stavrogin" trong bản thân mình, ông đi đến xác quyết khẳng định Dostoevsky như nhà tư tưởng, nhà nhân học, nhà khí thiêng học, nhà siêu hình học và nhà tiên tri thiên tài của nước Nga, người thể hiện Tân-Kitô giáo theo thuyết mạt thế-tận thế, người theo cá biệt luận và hiện sinh. Trong đó Berdyaev theo truyền thống phê phán triết học đã diễn giải Dostoevsky theo cung cách khiến cho nhà văn trở thành thân thuộc với mình. Và ông đã thành công trong việc này (Chú thích của biên tập bản điện tử - BT).
Lới dẫn
D
ostoevsky có ý nghĩa quyết định trong đời sống tinh thần của tôi, ngay từ khi còn là một đứa trẻ tôi "đã được tiêm chủng”
Dostoevsky. Ông đã gây chấn động tâm hồn tôi hơn ai hết trong số các nhà văn và nhà tư tưởng. Tôi luôn phân chia người ta thành loại người Dostoevsky và loại người xa lạ với tinh thần của ông. Tính định hướng rất sớm ý thức của tôi hướng về những vấn đề triết học gắn liền với "những câu hỏi đáng nguyền rủa" của Dostoevsky. Mỗi khi đọc lại Dostoevsky ông lại bộc lộ với tôi những khía cạnh ngày càng mới mẻ hơn. Trong thời niên thiếu đề tài Huyền thoại về viên Đại pháp quan đã in khắc vào tâm hồn tôi thật sâu đậm. Sự hướng tới đầu tiên của tôi đến Đức Kitô là sự hướng tới hình ảnh của Người trong Huyền thoại. Ý tưởng về tự do luôn luôn là cơ sở cho cảm nhận tôn giáo và thế giới quan của tôi, và trong trực giác sơ khai ấy về tự do tôi đã gặp gỡ Dostoevsky như gặp gỡ quê hương tinh thần của mình. Từ lâu rồi tôi đã có nhu cầu viết một cuốn sách về Dostoevsky, và tôi đã từng thực hiện điều này chỉ một phần nào trong một vài bài báo. Những buổi sinh hoạt khoa học mà tôi đã dẫn dắt về Dostoevsky ở "Viện Hàn lâm tự do về Văn hóa tinh thần" trong mùa đông 1920-1921, đã dứt khoát thức tỉnh tôi thu thập lại tất cả những suy tưởng của tôi về Dostoevsky. Và tôi đã viết một cuốn sách mà ở đó tôi không chỉ toan tính khai mở thế giới quan của Dostoevsky, mà còn đưa vào đó rất nhiều thứ thuộc thế giới quan của chính tôi.
Moskva, ngày 23 tháng 09 năm 1921
Chương 1
Hình tượng tinh thần cúa Dostoevsky
T
ôi không định viết những khảo cứu mang tính văn chương-lịch sử về Dostoevsky, cũng không dự tính đưa ra tiểu sử và đặc
trưng của nhân vật Dostoevsky. Cuốn sách của tôi cũng sẽ rất ít giống như là một tiểu luận thuộc lĩnh vực "phê bình văn học" - loại hình sáng tác không được tôi đánh giá cao. Cũng không thể nói rằng tôi tiếp cận Dostoevsky từ quan điểm tâm lí học, rằng tôi khai mở "tâm lí" của Dostoevsky. Nhiệm vụ tôi đặt ra là khác. Công trình của tôi thuộc về lĩnh vực "khí thiêng học",2 chứ không phải tâm lí học. Tôi mong muốn khai mở tinh thần của Dostoevsky, làm bộc lộ cảm nhận sâu lắng nhất của ông và bằng trực giác khôi phục lại thế giới quan của ông. Dostoevsky không chỉ là người thầy nghệ thuật vĩ đại, mà ông còn là nhà tư tưởng vĩ đại và người-nhìn-thấu-tinh-thần vĩ đại. Ông là nhà biện chứng thiên tài, nhà siêu hình học Nga vĩ đại nhất. Những ý tưởng đóng vai trò trung tâm thật to lớn trong sáng tác của Dostoevsky. Và biện chứng thiên tài về ý tưởng chiếm một vị trí không kém ở Dostoevsky so với tâm lí học phi thường của ông. Biện chứng ý tưởng là một thể loại đặc biệt trong nghệ thuật của ông. Bằng nghệ thuật của mình ông thâm nhập vào những cơ sở tiên khởi nhất của cuộc sống tư tưởng, và cuộc sống tư tưởng xuyên thấu vào nghệ thuật của ông. Những ý tưởng ở nơi ông sống cuộc sống hữu cơ và có số phận không sao tránh khỏi. Cuộc sống ấy của các ý tưởng là cuộc sống trong trạng thái động, trong đó không hề có gì tĩnh tại, không có điểm dừng và sự chai cứng lại. Và Dostoevsky nghiên cứu những quá trình động trong cuộc sống của các ý tưởng. Trong sáng tác của ông bốc lên cơn lốc xoáy rực lửa của các ý tưởng. Cuộc sống của các ý tưởng diễn ra trong bầu
không khí nung nóng rực lửa - trong Dostoevsky không có những ý tưởng đã nguội lạnh và ông không quan tâm đến chúng. Thực sự trong Dostoevsky có thứ gì đó giống như tinh thần của Hercule. Mọi thứ trong ông đều rực lửa và ở trong trạng thái động, mọi thứ đều ở trong chuyển động, ở trong những mâu thuẫn và ở trong đấu tranh. Ở Dostoevsky các ý tưởng không phải là những phạm trù tĩnh tại đông cứng lại, đây chính là những dòng lửa. Toàn bộ những ý tưởng của Dostoevsky đều gắn với số phận con người, với số phận thế gian, với số phận Thượng Đế. Những ý tưởng quyết định số phận. Những ý tưởng của Dostoevsky có tính bản thể sâu sắc, có tính tồn tại, đầy năng lượng và ở trong trạng thái động. Có năng lượng phá hủy của thuốc nổ tập trung và tàng ẩn ở trong ý tưởng. Và Dostoevsky chứng tỏ cho thấy những vụ nổ của ý tưởng phá hủy và giết chóc như thế nào. Nhưng cũng có cả năng lượng phục sinh và hồi sinh tập trung và tàng ẩn ở trong ý tưởng. Thế giới các ý tưởng ở Dostoevsky hoàn toàn đặc biệt, một thế giới hết sức độc đáo, rất khác biệt với thế giới các ý tưởng của Plato. Những ý tưởng của Dostoevsky không phải là những mẫu hình của tồn tại, không phải là những thực chất tiên khởi, và tất nhiên rồi không phải là những chuẩn mực mà là những số phận của tồn tại, những năng lượng rực lửa tiên khởi. Nhưng ông cũng thừa nhận ý nghĩa quyết định của các ý tưởng không kém so với Plato. Và bất chấp trào lưu thời thượng hiện đại thiên về phủ nhận ý nghĩa độc lập của các ý tưởng và hoài nghi về giá trị của chúng ở trong mỗi nhà văn, không thể nào tiếp cận được Dostoevsky, không thể nào hiểu thấu được ông mà lại không đi sâu vào thế giới thật phong phú và độc đáo của các ý tưởng ở nơi ông. Sáng tác của Dostoevsky thực sự là bữa đại tiệc của suy tưởng. Những ai từ chối tham dự bữa tiệc dựa trên phản xạ hoài nghi - ngờ vực về giá trị của bất cứ suy nghĩ và ý tưởng nào, thì họ tự chuốc lấy cuộc sống buồn tẻ, nghèo nàn và thiếu ăn cho mình.
Dostoevsky mở ra những thế giới mới mẻ. Những thế giới ấy ở trong trạng thái chuyển động bão táp. Những số phận của con người được đoán nhận ra thông qua những thế giới ấy và thông qua chuyển động của chúng. Tuy nhiên, những ai tự giới hạn sự quan tâm của mình tới tâm lí học, tới khía cạnh hình thức của nghệ thuật, họ cũng tự đóng lại lối đi vào những thế giới ấy và sẽ không bao giờ hiểu được những gì khai mở trong sáng tác của Dostoevsky. Và đây, tôi mong muốn được đi vào ngay chính chiều sâu của thế giới ý tưởng ở Dostoevsky, thấu hiểu được thế giới quan của ông. Thế giới quan của một nhà văn là gì? Đó là sự chiêm nghiệm thế giới của ông ta, là sự thâm nhập mang tính trực giác của ông ta vào thực chất nội tại của thế giới. Đó chính là những gì được khai mở cho người sáng tạo về thế giới, về cuộc sống. Dostoevsky đã có khải huyền của mình và tôi muốn thấu hiểu nó. Thế giới quan của Dostoevsky không phải là một hệ thống trừu tượng của các ý tưởng, không thể tìm kiếm một hệ thống như thế ở một nhà văn, mà có lẽ một hệ thống như vậy nói chung là bất khả dĩ. Thế giới quan của Dostoevsky chính là trực giác thiên tài của ông đối với số phận của con người và thế giới. Đó là trực giác nghệ thuật, nhưng không phải chỉ có nghệ thuật, nó cũng là trực giác tư tưởng, nhận thức và triết học, đó là sự ngộ đạo. Trong một ý nghĩa đặc biệt nào đó Dostoevsky là người ngộ đạo. Sáng tác của ông chính là tri thức, là khoa học về tinh thần. Thế giới quan của Dostoevsky trước hết ở trong trạng thái động với mức độ cao, chính ở trong trạng thái động ấy mà tôi muốn khai mở thế giới quan của ông. Xét từ quan điểm của trạng thái động ấy thì ở Dostoevsky không hề có mâu thuẫn nào. Ông đã thực hiện nguyên lí - trùng khớp những mặt đối lập.3 Từ việc đọc Dostoevsky một cách thâm sâu mỗi người nhất định sẽ bước ra thành người giàu có hơn về tri thức. Chính là tri thức ấy mà tôi muốn phục dựng thật đầy đủ.
Người ta đã viết nhiều về Dostoevsky. Nhiều điều thú vị và đúng đắn đã được nói ra. Nhưng dù sao thì vẫn chưa có được một cách tiếp cận đủ toàn vẹn. Người ta đã tiếp cận Dostoevsky từ những "quan điểm" khác nhau, người ta đã đánh giá ông trước tòa án của những thế giới quan khác nhau, và những khía cạnh khác nhau của Dostoevsky phụ thuộc vào điều đó mà được khai mở hay bị khép lại. Đối với một số người này thì ông trước hết hiện ra như là [nhà văn] bênh vực những người "bị hạ nhục và bị khinh rẻ", đối với một số người khác ông là "tài năng thật tàn nhẫn", đối với những người thứ ba ông là nhà tiên tri của một Kitô giáo mới, đối với những người thứ tư ông đã khám phá ra "con người dưới nhà hầm", đối với những người thứ năm ông là tín đồ Chính Thống giáo chân chính và người tuyên xướng ý tưởng cứu thế Nga. Thế nhưng trong tất cả những cách tiếp cận ấy, vốn hé lộ ra được điều gì đó của Dostoevsky, lại không có tính nhất quán theo tinh thần toàn vẹn của ông. Một thời gian dài Dostoevsky vẫn còn đóng kín đối với giới phê bình Nga theo truyền thống, giống như tất cả những hiện tượng vĩ đại nhất của nền văn học Nga. N. Mikhailovsky không có khả năng hiểu được Dostoevsky một cách hữu cơ. Cần phải có một tư chất đặc biệt để hiểu được Dostoevsky. Để nhận thức được Dostoevsky thì người nhận thức phải có tính tương đồng với đối tượng, với bản thân Dostoevsky, phải có thứ gì đó thuộc tinh thần của ông. Chỉ đến đầu thế kỉ XX ở ta [nước Nga] mới bắt đầu có phong trào tinh thần và tư tưởng mà ở đó đã sản sinh ra những tâm hồn có nhiều tương đồng hơn với Dostoevsky. Và mối quan tâm tới Dostoevsky ở chúng ta đã gia tăng thật dị thường. Dầu sao thì viết hay nhất về Dostoevsky là Merezhkovsky trong cuốn sách của ông ta L. Tolstoy và Dostoevsky. Nhưng ông ta lại quá bận rộn với việc đưa ra toàn bộ sơ đồ tôn giáo song hành với L. Tolstoy. Đối với ông ta Dostoevsky thường chỉ là phương tiện để rao giảng tôn giáo phục sinh thân xác, và ông ta
không nhìn thấy tính độc đáo duy nhất của tinh thần Dostoevsky. Tuy nhiên, Merezhkovsky lần đầu tiên đã hé lộ được điều gì đó ở Dostoevsky mà trước kia vẫn hoàn toàn bị khép kín. Nhưng dù sao thì cách tiếp cận của ông ta đối với Dostoevsky vẫn sai lầm về nguyên tắc. Đối với bất cứ nhà văn vĩ đại nào như một hiện tượng vĩ đại của tinh thần thì phải tiếp thu như một hiện tượng toàn vẹn của tinh thần, cần phải thâm nhập một cách trực giác vào hiện tượng toàn vẹn của tinh thần, thấu hiểu nó như một cơ thể sống, nhập thần vào nó. Đây là phương pháp đúng đắn duy nhất. Không thể mổ xẻ một hiện tượng hữu cơ vĩ đại của tinh thần, nó sẽ bị chết dưới lưỡi dao của nhà phẫu thuật và không còn có thể thấu hiểu tính toàn vẹn của nó được nữa. Tiếp cận với một hiện tượng vĩ đại thì cần phải tiếp cận với tâm hồn đầy xác tín chứ không đoán mò với nghi hoặc và ngờ vực. Trong khi đó những con người của thời đại hiện nay lại rất hay thiên về mổ xẻ bất cứ nhà văn nào với mối nghi ngờ bệnh ung thư hay căn bệnh tàng ẩn nào đó khác. Và hình tượng tinh thần toàn vẹn biến mất đi, sự thấu hiểu trở nên bất khả dĩ. Sự thấu hiểu không kết hợp được với việc phân rã đối tượng của sự thấu hiểu. Và tôi muốn thử tiếp cận Dostoevsky bằng cách của người xác tín, nhập thần trực giác toàn vẹn vào thế giới những ý tưởng đầy sống động của ông, thâm nhập vào những chỗ thầm kín của thế giới quan tiên khởi của ông.
* * *
Nếu như mọi thiên tài đều mang tính dân tộc chứ không có tính quốc tế, và thể hiện cái toàn nhân loại ở trong cái dân tộc tính, thì điều này đặc biệt đúng đối với Dostoevsky. Ông thật Nga một cách đặc trưng, là thiên tài Nga đến tận sâu thẳm, người có tính Nga nhất trong số những nhà văn vĩ đại của chúng ta và đồng thời lại mang tính toàn nhân loại nhất theo ý nghĩa của mình và theo những đề tài của mình. Ông là người Nga. "Tôi bao giờ cũng là người Nga đích
thực", - ông viết cho A. Maikov về bản thân mình. Sáng tác của Dostoevsky là lời nói Nga về tính toàn nhân loại. Và chính vì vậy mà ông được những người Tây Âu quan tâm nhiều nhất trong tất cả những nhà văn Nga. Họ tìm kiếm ở trong ông những khải huyền về cái chung nhất là cái đang giày vò họ, nhưng là những khải huyền của một thế giới Nga phương Đông thật bí ẩn đối với họ. Thấu hiểu thật rốt ráo Dostoevsky - tức là thấu hiểu được điều gì đó rất đáng kể trong kết cấu của linh hồn Nga, tức là tiến gần đến việc giải đoán được bí ẩn của nước Nga. Nhưng như một thiên tài Nga khác đã nói:
Bằng trí tuệ, không sao thấu hiểu được nước Nga,
Bằng thước đo chung, không sao đo lường được.4
Dostoevsky phản ánh tất cả những mâu thuẫn của tinh thần Nga, toàn bộ tính nghịch thường của nó vốn cho phép những phán xét khả dĩ đối lập nhau nhiều nhất về nước Nga và về nhân dân Nga. Thông qua Dostoevsky có thể nghiên cứu được cấu trúc tinh thần độc đáo của chúng ta. Những người Nga, một khi họ thể hiện những nét đặc trưng độc đáo của mình, thì họ là những người tin vào tận thế và là những người hư vô. Điều này có nghĩa là họ không thể ở trong khoảng trung dung của cuộc sống linh hồn, ở trong khoảng trung dung của nền văn hóa, là tinh thần của họ hướng về kết cục và giới hạn tận cùng. Đó là hai cực, cực dương và cực âm, đều thể hiện cùng một ý hướng đi đến kết cục. Và kết cấu tinh thần Nga khác biệt thật sâu sắc với cấu trúc tinh thần Đức, - người Đức là những nhà huyền học hay là những người theo chủ nghĩa phê phán, còn cấu trúc tinh thần Pháp, - người Pháp là những người giáo điều hay là những người theo chủ nghĩa hoài nghi. Kết cấu linh hồn Nga là khó khăn nhất cho sáng tạo văn hóa, cho con đường lịch sử của nhân dân. Dân chúng với linh hồn như thế khó mà có thể hạnh phúc trong lịch sử của mình. Thuyết tận thế và chủ nghĩa hư vô từ những
điểm tận cùng đối lập, tôn giáo và vô thần, đều cùng phế bỏ văn hóa và lịch sử như con đường trung dung. Và thường thật khó khăn để xác định xem tại sao con người Nga lại tuyên cáo cuộc nổi loạn chống lại văn hóa và lịch sử cũng như phế bỏ tất cả các giá trị, tại sao anh ta lại trần truồng, phải chăng vì anh ta là kẻ hư vô, hay phải chăng vì anh ta theo thuyết tận thế và hướng tới một kết cuộc tôn giáo giải quyết triệt để mọi chuyện của lịch sử. Trong cuốn sổ ghi chép của mình Dostoevsky viết: "Chủ nghĩa hư vô hiện ra ở ta vì tất cả chúng ta đều là những kẻ hư vô". Và Dostoevsky nghiên cứu chủ nghĩa hư vô Nga đến tận cùng chiều sâu. Tính phân cực nghịch lí của linh hồn Nga bao hàm chủ nghĩa hư vô kết hợp với ý hướng tôn giáo hướng về tận thế, hướng về một khải huyền mới, hướng về một trái đất mới và một bầu trời mới. Chủ nghĩa hư vô Nga là niềm tin tận thế Nga bị xuyên tạc. Một trạng thái tinh thần như thế gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động lịch sử của nhân dân, cho việc sáng tạo những giá trị văn hóa, nó rất không thuận lợi cho bất cứ kỉ luật linh hồn nào. K. Leontiev đã ngụ ý điều này, khi ông nói rằng con người Nga có thể là thánh thiện, nhưng không thể là lương thiện. Lương thiện là đức hạnh trung dung, đức hạnh tư sản, mà những người tin vào tận thế và những kẻ hư vô thì không quan tâm đến chuyện này. Tính chất này hóa ra vô cùng nguy hại cho nhân dân Nga, bởi vì thánh thiện thường chỉ là một số ít được lựa chọn, còn số đông đành cam chịu là không lương thiện. Chỉ một số ít đạt tới cuộc sống tinh thần cao cả nhất, còn số đông rơi vào cuộc sống thấp hơn mức văn hóa trung bình và hầu như không có truyền thống văn hóa. Vì vậy mà ở nước Nga có sự tương phản dị thường giữa một lớp người văn hóa cao số lượng rất ít, là những người có cuộc sống tinh thần đích thực, và một khối quần chúng vô văn hóa số lượng rất đông. Ở nước Nga không có môi trường văn hóa, không có văn hóa trung dung, và hầu như không có truyền thống văn hóa.
Về mặt văn hóa hầu như tất cả những người Nga đều là những kẻ hư vô. Bởi văn hóa không giải quyết những vấn đề tận thế xuất phát từ quá trình thế giới, văn hóa củng cố không gian trung dung. Các cậu bé Nga (từ ngữ ưa thích của Dostoevsky) mê mệt với việc giải đáp những vấn đề chung cuộc toàn thế giới, hay là vấn đề về Thượng Đế và bất tử, hay là về việc tổ chức lại loài người theo biên chế mới, những người vô thần, những người theo chủ nghĩa xã hội và những người vô chính phủ, văn hóa là trở ngại cho chuyển động của họ lao về tận thế. Những người Nga đặt bước nhảy về tận thế đối lập với lao động lịch sử và văn hóa của những người châu Âu. Từ đó có sự thù địch đối với hình thức, đối với khởi nguyên trong pháp quyền, nhà nước, đạo lí, nghệ thuật, triết học, tôn giáo. Chủ nghĩa hình thức của văn hóa châu Âu khiến tính cách của người Nga cảm thấy kinh tởm, nó xa lạ đối với họ. Người Nga có ít năng khiếu về hình thức. Hình thức đưa vào tính chừng mực, nó kiềm chế, nó đặt ra giới hạn, củng cố không gian trung dung. Cuộc nổi loạn mang tính tận thế và tính hư vô quét sạch tất cả các hình thức, quét sạch mọi giới hạn, vứt bỏ mọi kiềm chế. Spengler trong cuốn sách xuất bản mới đây Tính cách Phổ và chủ nghĩa xã hội5 nói rằng nuớc Nga là một thế giới hoàn toàn đặc biệt, đầy bí ẩn và không hiểu được đối với con người châu Âu, và ông khám phá ra ở đó "một cuộc nổi loạn mang tính tận thế chống lại tính cá nhân". Những người Nga theo thuyết tận thế và hư vô đang cư ngụ ở những vùng ngoại vi của linh hồn, đang bước ra khỏi các giới hạn. Dostoevsky đã nghiên cứu đến tận chiều sâu tính tận thế và tính hư vô của tinh thần Nga. Ông đã khám phá ra một lịch sử siêu hình nào đó của linh hồn Nga, cái khuynh hướng đặc biệt hướng về trạng thái ám ảnh cuồng tín và hóa dại quỷ ám của nó. Ông đã nghiên cứu đến tận chiều sâu tính cách mạng Nga gắn bó chặt chẽ với phong trào "Trăm đen"6 của Nga. Và số phận lịch sử của nước Nga đã chứng
minh cho những viễn kiến của Dostoevsky. Cuộc cách mạng Nga ở mức độ lớn đã hoàn thành theo [đúng dự báo của] Dostoevsky. Và dù nó mang tính phá hủy và tiêu vong cho nước Nga đến thế nào đi nữa, thì vẫn phải thừa nhận nó là cuộc cách mạng Nga đầy tính dân tộc. Tự hủy hoại và tự thiêu cháy bản thân chính là nét đặc trưng của dân tộc Nga.
Kết cấu như thế của linh hồn dân tộc chúng ta đã giúp cho Dostoevsky đi sâu vào vấn đề linh hồn đến tận vấn đề tinh thần, vượt ra khỏi những giới hạn trung dung của linh hồn và mở ra những nơi xa xăm của tinh thần, những chiều sâu tinh thần. Đằng sau những vỉa quặng của thể thức linh hồn thuộc kết cấu linh hồn đã lắng đọng, đằng sau những lớp tích đọng linh hồn được khai sáng bởi ánh sáng lí tính và tuân theo các chuẩn mực duy lí, Dostoevsky khám phá ra bản chất hỏa diệm sơn. Trong sáng tác của Dostoevsky đã hoàn tất sự phun trào núi lửa của những gì ở sâu dưới đất, ở dưới nền đất của tinh thần con người. Đúng là năng lượng tinh thần cách mạng tích tụ lại trong một thời gian dài thì nền đất ngày càng trở thành nền đất của núi lửa nhiều hơn, còn trên bề mặt, trong hiện hữu hời hợt thì linh hồn vẫn còn bền vững thật tĩnh tại, được đưa vào trong những ranh giới tuân theo các chuẩn mực. Và đây, cuối cùng thì bước đột phá đầy bão táp đã hoàn tất, vụ nổ của quả mìn. Dostoevsky là người tuyên xướng cuộc cách mạng tinh thần đang hoàn tất. Sáng tác của ông thể hiện trạng thái động đầy bão táp và say đắm của bản chất con người. Con người bị bứt ra khỏi mọi nếp sống bền vững, không còn tiếp tục hiện hữu theo luật pháp nữa và đi vào một chiều kích khác của tồn tại. Cùng với Dostoevsky đã sinh ra một linh hồn mới mẻ trong thế gian, một cảm nhận thế giới thật mới mẻ. Dostoevsky cảm nhận thấy ở ngay trong bản thân mình cái bản chất núi lửa ấy, cái chất sinh động thật đặc biệt ấy của tinh thần, cái chuyển động rực lửa ấy của tinh thần. Ông
viết cho A. Maikov về bản thân: "Và tệ hơn cả là cái bản chất của tôi thật đê tiện và quá đỗi đam mê. Tôi đi đến tận cùng ở khắp nơi, trong mọi chuyện, suốt cuộc đời tôi cứ đi quá giới hạn". Ông là người cháy bỏng và bị thiêu đốt bởi niềm đam mê tinh thần, tâm hồn ông ở trong lửa cháy. Và tâm hồn ông vươn lên tới ánh sáng từ ngọn lửa địa ngục. Tất cả các nhân vật của Dostoevsky đều là chính ông; là con đường của chính ông, là những khía cạnh khác nhau thuộc hiện hữu của ông, những nỗi giày vò của ông, những tra vấn của ông, trải nghiệm đau khổ của ông. Và chính vì vậy mà trong sáng tác của ông chẳng có gì mang tính sử thi cả, không hề có miêu tả sinh hoạt khách quan, kết cấu khách quan của cuộc sống, không có thiên tài hóa thân vào tình trạng đa dạng tự nhiên của thế giới con người, không có được tất cả những gì hợp thành mặt mạnh của Lev Tolstoy. Các tiểu thuyết của Dostoevsky không phải là các tiểu thuyết thực sự, đó là những bi kịch, bi kịch loại đặc biệt.7 Đây là bi kịch nội tâm của số phận thống nhất, của tinh thần thống nhất ở con người, được khai mở ra chỉ trong những khía cạnh khác nhau vào những thời điểm khác nhau trên con đường của nó.
Dostoevsky có tài nhận thức con người trong chuyển động đầy đam mê, mãnh liệt, cuồng loạn, trong trạng thái động phi thường. Ở Dostoevsky không có gì tĩnh tại hết. Toàn bộ con người ông ở trong trạng thái động của tinh thần, trong bản năng rực lửa, trong niềm đam mê cuồng loạn. Mọi thứ ở Dostoevsky luôn hoàn tất ở trong cơn lốc rực lửa, mọi thứ đều xoay vần ở trong cơn lốc ấy. Và khi chúng ta đọc Dostoevsky, chúng ta cảm thấy mình bị lôi cuốn hoàn toàn bởi cơn lốc đó. Dostoevsky là nhà văn của chuyển động tinh thần ở dưới nền đất. Trong chuyển động bão táp ấy mọi thứ đều dịch chuyển khỏi vị trí quen thuộc của mình và vì vậy mà nghệ thuật của ông hướng về không phải một quá khứ lắng đọng lại, như là nghệ thuật của Tolstoy, mà hướng về một tương lai không biết rõ.
Đây là nghệ thuật dự báo tiên tri. Ông khai mở bản chất con người, nghiên cứu nó không phải trong một không gian trung dung bền vững, không phải trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của nó, không phải trong những hình thức chuẩn mực và được quy chuẩn thuộc hiện hữu của nó, mà là ở trong tiềm thức, trong cơn cuồng dại và trong tội ác. Trong cơn cuồng dại chứ không phải trong tình trạnh khỏe mạnh, trong tội ác chứ không phải trong sự phù hợp pháp luật, trong bản năng tiềm thức thuộc đêm tối chứ không phải trong sinh hoạt ban ngày; chiều sâu của bản chất con người khai mở, những ranh giới và giới hạn của nó được nghiên cứu không phải ở trong ánh sáng của tâm hồn có tổ chức có ý thức. Sáng tạo của Dostoevsky là sáng tạo Dionysus.8 Toàn bộ con người ông chìm đắm vào trong bản năng Dionysus và cái Dionysus ấy sinh ra bi kịch. Ông lôi kéo vào bầu khí quyển rực lửa của những cơn lốc Dionysus. Ông chỉ biết đến cái bản chất con người đầy ngây ngất đó. Và sau Dostoevsky rồi thì mọi thứ dường như thật tuyệt vời. Giống hệt như chúng ta đã trải qua thời gian ở những thế giới khác, trong những chiều kích khác, rồi chúng ta trở lại với thế giới hạn hẹp và điều độ của chúng ta, trở lại không gian ba chiều của chúng ta. Việc đọc Dostoevsky thật sâu sắc bao giờ cũng là một sự kiện trong cuộc đời, nó thiêu đốt và linh hồn nhận được sự thanh tẩy mới mẻ rực lửa. Người đã từng giao tiếp với thế giới của Dostoevsky trở thành một con người mới, những chiều kích khác của tồn tại khai mở với anh ta. Dostoevsky là nhà cách mạng tinh thần vĩ đại. Toàn bộ con người ông chống lại sự chai cứng tinh thần.
Tính đối nghịch của Dostoevsky và L. Tolstoy thật đáng kinh ngạc. Dostoevsky là người tuyên xướng cuộc cách mạng tinh thần đang hoàn tất, toàn bộ con người ông ở trong trạng thái động rực lửa của tinh thần, toàn bộ con người ông hướng về tương lai. Nhưng đồng thời ông cũng khẳng định bản thân là người đứng trên mặt đất, ông
quý trọng mối liên kết với những truyền thống lịch sử, giữ gìn những đối tượng thiêng liêng của lịch sử, thừa nhận giáo hội lịch sử và nhà nước lịch sử. Tolstoy chưa bao giờ là nhà cách mạng tinh thần, ông là nhà văn của lối sống đã lắng đọng một cách tĩnh tại, hướng về quá khứ chứ không phải tương lai, trong ông không có gì là dự báo tiên tri cả. Đồng thời Tolstoy cũng nổi loạn chống lại tất cả những truyền thống lịch sử và những đối tượng thiêng liêng của lịch sử, phủ nhận giáo hội lịch sử và nhà nước lịch sử với thái độ triệt để chưa từng thấy, không hề mong muốn một sự tiếp nối văn hóa nào. Dostoevsky vạch trần bản chất nội tại của chủ nghĩa hư vô Nga. Tolstoy lại chính là người hư vô, kẻ hủy hoại những đối tượng thiêng liêng và những giá trị. Dostoevsky biết rõ về cuộc cách mạng tinh thần đang hoàn tất, vốn bao giờ cũng khởi đầu ở lớp tinh thần dưới mặt đất. Ông tỉnh ngộ ra con đường của nó và những thành quả của nó. Tolstoy không hay biết rằng cuộc cách mạng ở lớp tinh thần dưới mặt đất đã bắt đầu và chẳng tỉnh ngộ được gì hết, mà chính mình lại bị lôi cuốn vào một trong những phe phái của quá trình cách mạng ấy như một người mù. Dostoevsky trải nghiệm thế giới tinh thần và từ đó biết được hết. Tolstoy trải nghiệm thế giới linh hồn-thể xác nên vì thế mà không thể biết được những gì xảy ra ở trong chính chiều sâu, không nhìn thấy trước những hậu quả của quá trình cách mạng. Tính nghệ thuật của Tolstoy rất có thể là hoàn hảo hơn tính nghệ thuật của Dostoevsky, các tiểu thuyết của Tolstoy là những tiểu thuyết hay nhất thế giới. Ông là nhà văn của thứ đã định hình. Còn Dostoevsky hướng về thứ đang định hình.9 Nghệ thuật của thứ đang định hình không thể hoàn hảo giống như nghệ thuật của thứ đã định hình. Dostoevsky, nhà tư tưởng, mạnh hơn là Tolstoy, ông biết nhiều hơn, ông biết những mặt đối lập. Tolstoy không biết xoay đầu, ông cứ nhìn về phía trước theo đường thẳng. Dostoevsky tiếp thu cuộc sống từ tinh thần. Còn Tolstoy tiếp thu
cuộc sống từ linh hồn của thiên nhiên. Vì thế Dostoevsky nhìn ra cuộc cách mạng đang hoàn tất trong chiều sâu của tinh thần con người. Còn Tolstoy thì trước hết nhìn thấy kết cấu bền vững tự nhiên của đời sống con người, những quá trình động-thực vật của nó. Dostoevsky đặt cơ sở cho những viễn kiến của mình dựa trên tri thức về tinh thần con người. Còn Tolstoy nổi loạn một cách máy móc chống lại sinh hoạt động-thực vật của con người mà ông nhìn rõ thật phi thường. Và tính máy móc về đạo đức của Tolstoy là bất khả dĩ đối với Dostoevsky. Tolstoy với sự hoàn hảo không thể bắt chước được đã tạo ra vẻ đạo mạo đầy nghệ thuật cho những hình thức đã định hình của cuộc sống. Vẻ đạo mạo đầy nghệ thuật ấy là không sao đạt tới được đối với một nhà văn của thứ đang định hình, như là Dostoevsky. Nghệ thuật của Tolstoy là nghệ thuật Appolo. Nghệ thuật của Dostoevsky là nghệ thuật Dionysus. Còn một phương diện nữa mà mối tương quan của Tolstoy và Dostoevsky thật tuyệt vời. Tolstoy suốt cuộc đời tìm kiếm Thượng Đế như một kẻ theo đa thần giáo, như một con người tự nhiên vẫn hằng tìm kiếm Người, nên lẽ tự nhiên luôn luôn ở xa Thượng Đế. Tư duy của ông bận rộn với thần học, và ông là một nhà thần học rất tệ. Dostoevsky không hẳn là giày vò về đề tài Thượng Đế, mà chính là về đề tài con người và số phận của nó, ý tưởng về điều bí ẩn của tinh thần con người giày vò ông. Tư duy của ông bận rộn với nhân học chứ không phải thần học. Ông giải quyết đề tài về Thượng Đế không như một kẻ theo đa thần giáo, không như một con người tự nhiên, mà như một người Kitô giáo, như một con người tinh thần giải quyết đề tài về con người. Quả thật vấn đề về Thượng Đế chính là vấn đề nhân bản. Còn vấn đề về con người - ấy là vấn đề của Thượng Đế, và rất có thể bí ẩn Thượng Đế được khai mở tốt hơn thông qua bí ẩn nhân bản, hơn là thông qua việc hướng về Thượng Đế một cách tự nhiên, ở bên ngoài con người. Dostoevsky không phải nhà thần học,
nhưng ông gần gũi với vị Thượng Đế sống nhiều hơn Tolstoy. Thượng Đế khai mở cho ông trong số phận con người. Rất có thể nên là nhà thần học ít hơn và là nhà nhân học nhiều hơn. * * *
Phải chăng Dostoevsky là nhà hiện thực chủ nghĩa? Trước khi giải quyết vấn đề này cần phải biết liệu một nghệ thuật chân chính vĩ đại nói chung có thể là hiện thực chủ nghĩa hay không. Bản thân Dostoevsky đôi khi ưa thích tự gọi mình là nhà hiện thực chủ nghĩa và xem chủ nghĩa hiện thực của mình là chủ nghĩa hiện thực của cuộc sống thực sự. Tất nhiên ông không bao giờ là nhà hiện thực chủ nghĩa trong ý nghĩa mà nền phê bình truyền thống của chúng ta khẳng định có trường phái hiện thực chủ nghĩa của Gogol ở nước ta. Thứ chủ nghĩa hiện thực như thế nói chung không hề hiện hữu, Gogol lại càng ít là thế hơn cả, và tất nhiên rồi, Dostoevsky không phải là nhà hiện thực chủ nghĩa như vậy. Mọi nghệ thuật chân chính đều mang tính biểu tượng - nó là cầu nối giữa hai thế giới, nó đánh dấu một hiện thực sâu sắc hơn, vốn chính là hiện thực chân chính. Cái hiện thực thực sự ấy chỉ có thể thể hiện một cách nghệ thuật trong những biểu tượng, nó không thể hiển hiện ra trực tiếp ở trong nghệ thuật. Nghệ thuật không bao giờ phản ánh hiện thực thường nghiệm, nó luôn thâm nhập vào một thế giới khác, nhưng cái thế giới khác ấy có thể đi vào được nghệ thuật chỉ ở trong sự phản ánh biểu tượng. Toàn bộ nghệ thuật của Dostoevsky là nói về hiện thực tinh thần sâu sắc nhất, nói về hiện thực siêu hình, nó bận rộn ít hơn cả với sinh hoạt thường nghiệm, cấu trúc các tiểu thuyết của Dostoevsky ít gợi nhớ hơn cả tới cái thứ được gọi là tiểu thuyết "hiện thực chủ nghĩa". Xuyên qua cốt truyện bề ngoài gợi nhớ tới những tiểu thuyết hình sự dị thường, một hiện thực khác bộc lộ ra. Không phải là cái hiện thực của sinh hoạt thường nghiệm bề ngoài, của nếp sống thường ngày, không phải cái hiện thực kiểu hạ tầng,
[không phải những thứ đó] là hiện thực ở Dostoevsky. Ở ông hiện thực là cái chiều sâu tinh thần của con người, hiện thực là số phận của tinh thần con người. Hiện thực là mối quan hệ của con người và Thượng Đế, của con người và ác quỷ, hiện thực ở ông là những ý tưởng mà con người sống bằng chúng. Những sự phân đôi của tinh thần vốn tạo nên đề tài sâu sắc nhất cho những tiểu thuyết của Dostoevsky, [những phân đôi ấy] không thể nào lí giải được theo chủ nghĩa hiện thực. Mô tả thiên tài gây chấn động về những mối quan hệ giữa Ivan Karamazov và Smerdyakov mà thông qua chúng hai cái "tôi" của chính Ivan được khai mở, [mô tả ấy] không sao có thể gọi là "hiện thực chủ nghĩa" được. Mối quan hệ của Ivan và con quỷ còn ít hiện thực hơn nữa. Dostoevsky không thể được gọi là nhà hiện thực chủ nghĩa ngay cả trong ý nghĩa chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Ông không phải là nhà tâm lí học, ông là nhà khí thiêng học và nhà siêu hình-biểu tượng học. Ở ông, đằng sau cuộc sống có ý thức bao giờ cũng tàng ẩn cuộc sống tiềm thức, và gắn cùng với cuộc sống này là những dự cảm tiên tri. Không chỉ có những quan hệ và mối ràng buộc nhìn thấy được trong ánh sáng ban ngày của ý thức là gắn kết con người với nhau. Còn tồn tại cả những quan hệ và mối ràng buộc huyền bí hơn nữa, bén rễ trong chiều sâu của cuộc sống tiềm thức, ở Dostoevsky một thế giới khác luôn thâm nhập vào những mối quan hệ của những con người thuộc thế giới này. Mối liên hệ đầy huyền bí gắn kết Myshkin với Nastasia Philippovna và Rogozhin, Raskolnikov với Svidrigailov, Ivan Karamazov với Smerdyakov, Stavrogin với Khromonozhka và Shatov. Ở Dostoevsky tất cả bọn họ bị trói chặt vào nhau bằng những mối ràng buộc nào đó ngoài trần thế. Ông không có những cuộc gặp gỡ tình cờ, những mối quan hệ tình cờ. Mọi thứ đều được xác định ở một thế giới khác, mọi thứ đều có một ý nghĩa cao cả. Ở Dostoevsky không có những tình cờ của chủ nghĩa hiện thực
thường nghiệm. Ở ông tất cả những cuộc gặp gỡ đều có ý nghĩa định mệnh. Những cuộc đụng độ và những mối tương quan đầy phức tạp của những con người bộc lộ ra không phải cái hiện thực "đời thực" mang tính đồ vật-khách quan, mà bộc lộ ra cuộc sống nội tâm, số phận bên trong của những con người. Trong những cuộc đụng độ và những mối tương quan ấy của những con người, câu đố về con người, về con đường của nó được giải đáp, "ý tưởng" toàn thế giới được thể hiện. Tất cả những thứ đó đều thật ít giống với cái vẫn được gọi là tiểu thuyết "hiện thực chủ nghĩa". Nếu như có thể gọi Dostoevsky là nhà văn hiện thực, thì đó là nhà hiện thực huyền Vl. Những sử gia và nhà phê bình văn học ưa thích vạch ra những ảnh hưởng và những vay mượn đủ loại, thường thích chỉ ra những ảnh hưởng của các chủng loại khác nhau lên Dostoevsky, nhất là ở thời kì đầu tiên trong sáng tác của ông. Người ta nói về ảnh hưởng của V. Hugo, George Sand, Dickens, một phần của Hoffmann. Thế nhưng sự tương đồng thực sự ở Dostoevsky chỉ có với một trong những nhà văn vĩ đại nhất của phương Tây - với Balzac vốn cũng thật ít là "nhà văn hiện thực", giống như Dostoevsky vậy. Trong những nhà văn vĩ đại Nga, Dostoevsky kế cận trực tiếp với Gogol, nhất là trong những truyện vừa đầu tiên. Thế nhưng quan hệ đối với con người ở Dostoevsky hoàn toàn khác với Gogol. Gogol tiếp thu hình tượng con người đã bị tha hóa, ở ông không có những con người, thay vì những con người là những bản mặt và những cái mõm. Nghệ thuật của Andrey Belyi gần với Gogol về chuyện này. Trong khi đó Dostoevsky tiếp thu hình tượng con người một cách trọn vẹn, khai mở con người đến tận cùng và trong sa đọa. Khi Dostoevsky đứng lên với tất cả tầm vóc của mình và nói ra lời nói sáng tạo mới mẻ của mình, lúc đó ông ở bên ngoài mọi ảnh hưởng và vay mượn, ông là hiện tượng sáng tạo độc nhất chưa từng có trên thế gian.
Tác phẩm Ghi chép dưới nhà hầm phân chia sáng tác của Dostoevsky làm hai thời kì. Trước Ghi chép dưới nhà hầm Dostoevsky vẫn còn là nhà tâm lí học, dù là với một tâm lí học độc đáo, ông là nhà nhân văn, đầy những đồng cảm thương xót với "những người nghèo khó", với những người "bị hạ nhục và bị khinh rẻ", với những nhân vật của "căn nhà chết". Biện chứng thiên tài về tư tưởng của Dostoevsky khởi đầu cùng với tác phẩm Ghi chép dưới nhà hầm. Ông đã không còn chỉ là nhà tâm lí học, ông là nhà siêu hình, ông khảo sát đến tận chiều sâu bi kịch của tinh thần con người. Ông không còn là nhà nhân văn theo nghĩa xưa cũ của từ ngữ, ông đã còn rất ít điểm chung với George Sand, V. Hugo, Dickens v..v... Ông đã đoạn tuyệt hẳn với chủ nghĩa nhân văn của Belinsky. Nếu ông là nhà nhân văn, thì chủ nghĩa nhân văn của ông là hoàn toàn mới, mang tính bi kịch. Con người càng trở thành ở trung tâm sáng tác của ông nhiều hơn, và số phận của con người là đối tượng thuần túy cho mối quan tâm của ông. Thế nhưng con người không được xem xét trong chiều kích bằng phẳng hời hợt của chủ nghĩa nhân văn, mà ở trong chiều kích của độ sâu, ở trong thế giới tinh thần được khai mở mới mẻ lại một lần nữa. Bây giờ thì lần đầu tiên cái vương quốc con người, được định danh là "những mẫu người của Dostoevsky", được khai mở. Dostoevsky đã trở thành nhà văn mang tính bi kịch thật triệt để. Ở trong ông tính giày vò của nền văn học Nga đạt tới cực điểm của sự căng thẳng. Nỗi đau về số phận đáng thương xót của con người và số phận của thế giới đạt tới độ nung nóng bạch nhiệt. Ở ta [nước Nga] chưa từng có được tinh thần Phục hưng và sáng tạo Phục hưng. Chúng ta chưa từng biết đến niềm vui sướng trong sự phục sinh của mình, số phận cay đắng của chúng ta là vậy. Vào đầu thế kỉ XIX, dưới thời Alexander I, rất có thể là thời kì văn hóa nhất trong toàn bộ lịch sử của chúng ta, trong khoảnh khắc một thứ gì đó đã bừng chói sáng lên giống như sự
Phục hưng, đã hiện ra niềm vui sướng ngây ngất của sáng tạo dồi dào trong thi ca Nga. Sáng tạo của Pushkin tỏa sáng quá dồi dào như thế. Nhưng niềm vui sướng ấy của sáng tạo dồi dào nhanh chóng tắt lịm đi, nó bị đầu độc ngay chính ở trong Pushkin. Nền văn học Nga vĩ đại của thế kỉ XIX không phải là sự tiếp nối con đường sáng tạo của Pushkin, - toàn bộ nền văn học ấy ở trong giày vò và đau đớn, ở trong nỗi đau cứu rỗi thế gian, trong nền văn học ấy hệt như có sự thực hiện việc chuộc lại một tội lỗi nào đó. Hình tượng đau thương bi kịch của Chaadaev đứng ở ngay hồi kết của phong trào tư tưởng Nga đã chín muồi của thế kỉ XIX. Lermontov, Gogol, Tiutchev sáng tạo không phải ở trong tình trạng dồi dào của tinh thần Phục hưng, họ sáng tạo trong những giày vò và nỗi đau đớn, trong họ không có trò chơi sục sôi của sức mạnh. Vì vậy mà chúng ta nhìn thấy hiện tượng tuyệt vời của Konstantin Leontiev, theo bản chất của mình là con người của thời Phục hưng thế kỉ XVI, đi lạc vào nước Nga thế kỉ XIX vốn hoàn toàn xa lạ và đối nghịch với thời Phục hưng, phải trải qua ở đó một số phận buồn bã và đau khổ. Cuối cùng là những đỉnh cao của nền văn học Nga - Tolstoy và Dostoevsky. Trong họ chẳng có chút gì Phục hưng cả. Họ bị nhiễm nỗi đau và sự giày vò tôn giáo, họ tìm kiếm sự cứu rỗi. Điều này là đặc trưng cho những nhà văn Nga, điều này là rất dân tộc tính ở trong họ - họ tìm kiếm sự cứu rỗi, họ khao khát được chuộc tội, họ lo lắng cho thế gian. Nền văn học Nga đạt tới đỉnh cao ở trong Dostoevsky, và ở trong sáng tác của ông hiển lộ cái tính cách giày vò và nghiêm trang tôn giáo ấy của văn học Nga. Toàn bộ bóng tối của đời sống Nga, của số phận Nga cô đặc lại trong Dostoevsky, nhưng trong bóng tối ấy đã rạng lên ánh sáng. Con đường bi ai của văn học Nga chất đầy nỗi đau đớn tôn giáo, sự tìm kiếm tôn giáo, [con đường ấy] phải dẫn đến Dostoevsky. Thế nhưng ở trong Dostoevsky đã có việc đang hoàn tất bước đột phá đi vào những thế
giới khác, đã thấy được ánh sáng. Bi kịch của Dostoevsky, như mọi bi kịch đích thực, có sự thanh tẩy tâm linh, có sự thanh lọc và giải thoát. Những người mà Dostoevsky đặc biệt đẩy vào cảnh tối tăm, vào tình thế không có lối thoát, những người mà ông hành hạ chứ không làm họ vui sướng, những người đó không nhìn thấy và không biết đến Dostoevsky. Có niềm vui sướng vĩ đại trong việc đọc Dostoevsky, có sự giải phóng tinh thần thật vĩ đại. Đó là niềm vui đi qua nỗi khổ đau. Nhưng con đường Kitô giáo là như vậy. Dostoevsky trả lại niềm tin vào con người, niềm tin vào chiều sâu của con người. Trong chủ nghĩa nhân văn hời hợt không hề có niềm tin ấy. Chủ nghĩa nhân văn giết chết con người. Con người phục sinh khi tin vào Thượng Đế. Niềm tin vào con người chính là niềm tin vào Đức Kitô, niềm tin vào Thần-Nhân. Trải qua suốt cuộc đời của mình, Dostoevsky chỉ mang theo riêng một cảm xúc duy nhất của Đức Kitô, một tình yêu cuồng loạn nào đó đối với khuôn mặt của Đức Kitô. Nhân danh Đức Kitô, từ tình yêu vô hạn với Đức Kitô, Dostoevsky đã đoạn tuyệt với cái thế giới nhân văn mà Belinsky là ngôn sứ của nó. Niềm tin của Dostoevsky vào Đức Kitô trải qua lò lửa của tất cả những mối hoài nghi và được tôi luyện trong ngọn lửa. Ông viết trong sổ tay ghi chép của mình: "Ngay ở châu Âu cũng không có và chưa từng có sức mạnh như thế của những biểu hiện vô thần. Vậy nên tôi tin vào Đức Kitô và tin theo Người không phải như một cậu bé con. Lời Ngợi ca của tôi đã hải qua lò lửa to lớn của những mối hoài nghi". Dostoevsky đã mất đi niềm tin vào "Schiller" - bằng tên tuổi này ông ngụ ý một cách biểu tượng tất cả những gì "cao cả và tuyệt vời", chủ nghĩa nhân văn đầy lí tưởng. Niềm tin vào "Schiller" đã không vượt qua được thử thách. Dostoevsky đã mất đi niềm tin nhân văn chủ nghĩa vào con người, nhưng vẫn trung thành với niềm tin Kitô giáo vào con người, làm sâu sắc thêm, củng cố và làm phong phú hơn nữa niềm tín ấy. Chính vì vậy mà Dostoevsky
không thể là nhà văn ảm đạm u tối, bi quan-không lối thoát được. Ánh sáng giải thoát có ở ngay trong những gì tăm tối và giày vò nhất ở Dostoevsky. Đó là ánh sáng Kitô giáo vốn rạng chiếu trong bóng tối. Dostoevsky dẫn dắt con người đi qua những vực thẳm của sự phân đôi - sự phân đôi là mô-típ chủ đạo của Dostoevsky, nhưng sự phân đôi không làm con người tiêu vong triệt để. Hình tượng con người nhân bản có thể lại được phục hồi thông qua Thần-Nhân.10
* * *
Dostoevsky thuộc về những nhà văn thành công trong việc khai mở bản thân mình trong sáng tác nghệ thuật của mình. Trong sáng tác của ông phản ánh lại tất cả những mâu thuẫn tinh thần của ông, tất cả những chiều sâu thăm thẳm của ông. Sáng tác của ông không phải là cái che đậy cho những gì đã xảy ra ở trong chiều sâu, như ở nhiều nhà văn. Ông không giấu giếm điều gì, và chính vì vậy mà ông đã làm nên những phát hiện kì diệu về con người. Trong số phận các nhân vật của mình ông kể chuyện về số phận của mình, trong những mối hoài nghi của họ - ông kể về những hoài nghi của mình, trong những sự phân đôi của họ - ông kể về những phân đôi của mình, trong trải nghiệm tội lỗi của họ, - ông kể về những tội lỗi bí mật của tinh thần mình. Tiểu sử của Dostoevsky không lí thú bằng sáng tác của ông. Những bức thư của ông ít lí thú hơn các tiểu thuyết của ông. Ông đã trút hết bản thân mình vào các tác phẩm của mình. Có thể dựa vào chúng để nghiên cứu ông. Vì vậy mà Dostoevsky ít bí ẩn hơn nhiều nhà văn khác, ông dễ giải đoán hơn là, ví dụ như Gogol chẳng hạn. Gogol là một trong những nhà văn Nga bí ẩn nhất. Ông ta không bộc lộ bản thân ra trong sáng tác của mình, ông đem theo mình bí mật về bản diện cá nhân của mình vào thế giới khác. Và có lẽ sẽ chẳng bao giờ giải đoán hoàn toàn được. Bản diện cá nhân của VL. Soloviev cũng còn là điều bí ẩn đối với chúng ta như vậy. Trong các luận văn triết học và thần học của mình, trong văn
chính luận của mình, VL. Soloviev che giấu chứ không khai mở bản thân mình ra, trong những tác phẩm ấy không phản ánh lại tính mâu thuẫn nơi bản chất của ông. Chỉ những bài thơ riêng biệt của ông là có thể dựa vào đó mà phỏng đoán được đôi chút gì đó. Dostoevsky không phải như vậy. Đặc điểm thiên tài của ông là vậy nên ông đã thành công trong việc thổ lộ đến tận chiều sâu về chính số phận của ông trong sáng tác của mình, đồng thời số phận ấy cũng là số phận trần gian của con người. Ông không che giấu chúng ta lí tưởng Sodom, và ông cũng mở ra cho chúng ta những đỉnh cao của lí tưởng Madonna.11 Vì vậy mà sáng tác của Dostoevsky là khải huyền. Bệnh động kinh của Dostoevsky không phải là căn bệnh hời hợt bề ngoài của ông, trong căn bệnh ấy khai mở những độ sâu thẳm nhất ở tinh thần của ông.
Dostoevsky ưa thích tự gọi mình là người thuộc về "nền tảng" và tin vào ý hệ nền tảng. Điều này là đúng chỉ ở trong ý nghĩa nói rằng ông đã và vẫn là người Nga, gắn bó một cách hữu cơ với nhân dân Nga. Ông không bao giờ tách rời khỏi những cội rễ dân tộc. Nhưng ông không giống những người Slavyanofil,12 ông đã thuộc về một thời đại hoàn toàn khác. Trong so sánh với những người Slavyanofil, Dostoevsky là người phiêu lãng Nga, là người Nga đi chu du qua các thế giới tinh thần. Ông không có ngôi nhà của mình và mảnh đất của mình, không có tổ ấm với những điền trang giàu có. Ông đã không còn ràng buộc với bất cứ sự tĩnh tại nào của sinh hoạt, toàn bộ con người ông ở trong vận chuyển sống động, ở trong sự bất an, toàn bộ con người ông thấm đến tận xương tủy những dòng điện đến từ tương lai, toàn bộ con người ông ở trong cuộc cách mạng tinh thần. Ông là con người của Tận thế. Những người Slavyanofil còn chưa bị mắc chứng bệnh tận thế. Dostoevsky trước hết miêu tả số phận của kẻ phiêu lãng Nga, của người bị ruồng bỏ Nga, và điều này đặc trưng cho ông còn nhiều hơn là tính nền tảng của ông. Ông
xem tính phiêu lãng ấy là nét đặc trưng Nga. Những người Slavyanofil là bám lấy đất đai, là những người gắn chặt với đất, những người vững mạnh cho đất đai. Và bản thân cái nền tảng của đất đai ở dưới họ vẫn hãy còn rắn chắc và vững mạnh. Dostoevsky là con người ở dưới mặt đất. Tư chất của ông là lửa, chứ không phải là đất. Tuyến đường của ông là chuyển động lốc xoáy. Dù sao thì chuyển động của ông cũng khác so với những người Slavyanofil. Ông đối xử với Tây Âu theo cách khác, ông là người yêu châu Âu, chứ không chỉ nước Nga, ông đối xử với thời kì Pyotr đại đế trong lịch sử nước Nga theo cách khác, ông là nhà văn của thời kì Peterburg, người nghệ sĩ của Peterburg. Những người Slavyanofil ở trong sinh hoạt nguyên vẹn. Còn Dostoevsky toàn bộ con người ở trong tình trạng phân đôi. Chúng ta sẽ còn thấy Dostoevsky khác biệt với những người Slavyanofil như thế nào về nước Nga. Nhưng cũng rất muốn xác lập ngay ở đây rằng Dostoevsky không thuộc chủng loại Slavyanofil. Theo diện mạo sinh hoạt của mình thì Dostoevsky là nhà văn Nga điển hình, người theo nghiệp văn chương sống bằng lao động của mình. Không thể tư duy về ông bên ngoài văn chương. Ông đã sống bằng văn chương cả tinh thần lẫn vật chất. Ngoài văn chương ra ông chẳng ràng buộc với cái gì hết. Ông hiển lộ số phận cay đắng của nhà văn Nga bằng bản diện cá nhân của mình.
* * *
Trí tuệ của Dostoevsky thực sự tuyệt diệu, độ sắc bén trí tuệ của ông thật phi thường. Đây là một trong những nhà văn thông minh nhất của văn học thế giới. Trí tuệ của ông không chỉ tương xứng với tài năng văn chương của ông, mà có lẽ còn vượt trên tài năng văn chương của ông nữa. Về phương diện này ông rất khác với L. Tolstoy, vốn là người gây kinh ngạc về trí tuệ thẳng đuột cứng nhắc không biết xoay đầu, hầu như một mặt phẳng của ông, [một trí tuệ]
không đứng ngang được ở cùng độ cao thiên tài văn chương của ông. Tất nhiên rồi, không phải Tolstoy, mà Dostoevsky mới là nhà tư tưởng vĩ đại. Sáng tác của Dostoevsky thật tuyệt diệu về vẻ lộng lẫy, một khải huyền sáng long lanh, thấu suốt của trí tuệ. về sức mạnh và độ sắc bén của trí tuệ thì trong số những nhà văn vĩ đại chỉ có Shakespeare, một trí tuệ vĩ đại của thời Phục hưng, là sánh được với ông thôi. Thậm chí trí tuệ của Goethe, vĩ đại nhất trong những người vĩ đại, cũng không có độ sắc bén, một chiều sâu biện chứng như là trí tuệ của Dostoevsky. Điều này lại càng tuyệt diệu hơn khi Dostoevsky đang ở trong tình trạng say đắm Dionysus. Tình trạng này, khi nó tóm lấy con người, thường không tạo thuận lợi cho tính sắc bén và sự sáng suốt của trí tuệ, nó làm cho trí tuệ bị mê mụ đi. Thế nhưng ở Dostoevsky chúng ta lại nhìn thấy tính say đắm, sự ngây ngất của chính tư duy, bản thân biện chứng ý tưởng của ông mang tính Dionysus. Dostoevsky say ngây ngất bởi tư duy, toàn bộ con người ông ở trong cơn lốc rực lửa của tư duy. Biện chứng ý tưởng ở Dostoevsky làm say ngây ngất, nhưng độ sắc sảo của tư duy không bị lụi tàn trong cơn say đó, tư duy đạt tới độ sắc bén tột cùng. Những ai không quan tâm đến biện chứng ý tưởng của Dostoevsky, không quan tâm đến những con đường bi thảm ở tư duy thiên tài của ông, thì đối với những người ấy ông chỉ là nhà văn và nhà tâm lí; những ai không biết nhiều về Dostoevsky thì không thể hiểu được tinh thần của ông. Toàn bộ sáng tác của Dostoevsky là việc giải đáp nghệ thuật cho bài toán tư tưởng, là sự chuyển động bi thảm của các ý tưởng. Nhân vật dưới nhà hầm là ý tưởng, Raskolnikov là ý tưởng, Stavrogin, Kirillov, Shatov, P. Verkhovensky là những ý tưởng, Ivan Karamazov là ý tưởng. Tất cả các nhân vật của Dostoevsky đều bị hút vào ý tưởng nào đó, say sưa bởi ý tưởng, tất cả các đối thoại trò chuyện trong các tiểu thuyết của ông đều là biện chứng tuyệt diệu của ý tưởng. Tất cả những gì được
Dostoevsky viết ra đều là được ông viết về những câu hỏi "đáng nguyền rủa" của thế gian. Thế nhưng điều này không có nghĩa là Dostoevsky viết những tiểu thuyết theo khuynh hướng có dụng ý trước theo luận đề13 để đưa ra những ý tưởng nào đó. Những ý tưởng hoàn toàn mang tính nội tại theo nghệ thuật của ông, ông khai mở một cách nghệ thuật cuộc sống của những ý tưởng. Ông là nhà văn "ý tưởng" trong ý nghĩa Plato của từ ngữ, chứ không phải theo ý nghĩa chướng tai mà từ ngữ ấy thường được dùng trong giới phê bình của chúng ta. Ông quán tưởng những ý tưởng khởi nguyên, nhưng luôn luôn ở trong chuyển động, trong trạng thái động, trong số phận bi thảm của chúng, chứ không phải ở trong sự tĩnh lặng. Dostoevsky nói về bản thân rất khiêm tốn: "Tôi rất kém về triết học (nhưng không kém trong tình yêu triết học, trong tình yêu đó thì tôi rất khá)". Điều này có nghĩa là triết học hàn lâm không dễ đối với ông. Thiên tài trực giác của ông biết rõ những con đường riêng để triết lí. Ông là triết gia chân chính, một triết gia Nga vĩ đại. Ông cống hiến cho triết học nhiều vô kể. Tư duy triết học hẳn phải chứa đầy trong thế giới quan của ông. Sáng tác của Dostoevsky vô cùng quan trọng cho triết học-nhân học, cho triết học lịch sử, cho triết học tôn giáo, cho triết học luân lí. Có lẽ ông học hỏi được ít từ triết học, nhưng lại dạy cho triết học được nhiều và chúng ta từ lâu rồi đã triết lí về điều tối hậu dưới dấu ấn của Dostoevsky. Chỉ có triết lí về điều tiền tối hậu là còn ràng buộc với triết học truyền thống.
* * *
Dostoevsky mở ra một thế giới tinh thần mới mẻ, ông trả lại cho con người chiều sâu tinh thần của nó. Chiều sâu tinh thần ấy ở con người đã bị lấy đi và bị ném vào cõi xa xăm siêu hình, tới một độ cao mà con người không với tới được. Và con người ở lại trong vương quốc trung dung của linh hồn mình và ở trên bề mặt thân xác của mình. Con người không còn cảm nhận được chiều kích của độ
sâu. Quá trình làm cho con người xa lạ với thế giới tinh thần có chiều sâu của mình bắt đầu xảy ra ở trong môi trường giáo hội- tôn giáo, bằng việc đẩy thế giới ấy ra xa vào thế giới thuần túy siêu việt của cuộc sống tinh thần và tạo ra tôn giáo cho linh hồn hướng về thế giới tinh thần ấy, là thứ đã bị lấy mất đi ở linh hồn. Quá trình ấy kết thúc bằng chủ nghĩa thực chứng, thuyết bất khả tri luận và chủ nghĩa duy vật, tức là con người và thế giới hoàn toàn vô hồn. Thế giới siêu việt hoàn toàn bị đẩy vào cái không thể nhận thức được. Tất cả các con đường giao tiếp đều bị cắt đứt và rốt cuộc thế giới ấy hoàn toàn bị phủ nhận. Sự thù địch của giới Kitô giáo chính thống đối với bất cứ thuyết ngộ đạo nào ắt phải kết thúc bằng sự khẳng định thuyết bất khả tri luận, việc ném chiều sâu tinh thần của con người ra bên ngoài ắt phải dẫn đến sự phủ nhận bất cứ trải nghiệm tinh thần nào, dẫn đến việc khép kín con người vào thực tại "vật chất" và "tâm lí". Dostoevsky, như một hiện tượng tinh thần, có nghĩa là sự xoay hướng vào bên trong, hướng về chiều sâu tinh thần của con người, hướng về trải nghiệm tinh thần, có nghĩa là trả lại cho con người chiều sâu tinh thần của chính nó, là sự đột phá vượt qua thực tại khép kín mang tính "vật chất" và "tâm lí". Đối với ông con người không đơn thuần là thực thể "tâm lí" mà còn là thực thể tinh thần nữa. Tinh thần không ở bên ngoài con người mà ở bên trong con người. Dostoevsky khẳng định tính vô giới hạn của trải nghiệm tinh thần, tháo bỏ mọi giới hạn, quét sạch mọi chốt lính gác. Những cõi xa xăm tinh thần khai mở trong chuyển động nội tại. Thượng Đế đạt được ở trong con người và thông qua con người. Vì vậy có thể gọi Dostoevsky là nhà nội tại học trong ý nghĩa sâu sắc nhất của từ ngữ. Đây chính là con đường của tự do được Dostoevsky mở ra. Ông khai mở Đức Kitô ở trong chiều sâu của con người thông qua con đường đầy đau khổ của con người, thông qua tự do. Tôn giáo của Dostoevsky về mặt thể loại đối lập với thể loại
tôn giáo siêu việt-quyền uy. Đây là tôn giáo tự do nhất mà thế giới từng thấy, toát ra nguồn cảm hứng tự do. Trong ý thức tôn giáo của mình Dostoevsky chưa bao giờ đạt được tính toàn vẹn triệt để, chưa bao giờ khắc phục được đến cùng những mâu thuẫn. Ông đang ở trên con đường đi. Thế nhưng nguồn cảm hứng tích cực của ông đã có ở trong tôn giáo chưa từng thấy của tự do và của tình yêu trong tự do. Trong tác phẩm "Nhật kí của nhà văn" có thể tìm thấy những chỗ có vẻ như mâu thuẫn với cách hiểu như thế của Dostoevsky. Nhưng có thể nói rằng "Nhật kí của nhà văn" chứa đựng tất cả những ý tưởng cơ bản của Dostoevsky, vốn được trải ra tản mạn ở nhiều chỗ khác nhau. Những ý tưởng ấy sau đó được nhắc lại với sức mạnh còn lớn hơn nữa ở trong các tiểu thuyết của ông. Ở đó đã có biện chứng ý tưởng Huyền thoại về viên Đại pháp quan mà tôn giáo tự do được khẳng định. Đối lập với ý kiến thường được phát biểu, cần cương quyết khẳng định rằng tinh thần của Dostoevsky có khuynh hướng tích cực, chứ không tiêu cực. Nguồn cảm hứng của ông là cảm hứng khẳng định chứ không phải phủ định. Ông đã tiếp nhận Thượng Đế, con người và thế gian thông qua những nỗi giày vò của sự phân đôi và thông qua bóng tối. Dostoevsky hiểu rất sâu sắc bản chất của chủ nghĩa hư vô Nga. Và nếu như ông đã từng phủ định điều gì đó, thì đó là ông đã phủ định chủ nghĩa hư vô. Ông là người chống lại chủ nghĩa hư vô. Và điều này làm cho ông khác biệt với L. Tolstoy vốn bị lây nhiễm sự phủ định hư vô chủ nghĩa. Hiện nay Dostoevsky trở nên gần gũi hơn với chúng ta hơn bao giờ hết. Chúng ta đã lại gần với ông. Và nhiều điều mới mẻ ở ông đang mở ra cho chúng ta trong ánh sáng nhận thức của chúng ta về số phận thật bi thảm vừa trải qua của nước Nga.
Chương 2
Con ngươi
D
ostoevsky chỉ có một mối quan tâm duy nhất thu hút tất cả tâm trí, chỉ có một đề tài mà ông hiến cho nó tất cả sức mạnh sáng
tạo. Đề tài ấy là con người và số phận của nó. Nhân học và vị nhân luận tuyệt đối của Dostoevsky không thể nào không khiến cho chúng ta phải kinh ngạc. Trong sự đắm mình vào con người của Dostoevsky có tính mê dại và hết mình. Đối với ông con người không phải là một hiện tượng của thế giới tự nhiên, không phải là một hiện tượng trong hàng loạt các hiện tượng khác, dù là hiện tượng cao nhất đi nữa. Con người là một tiểu vũ trụ, là trung tâm của tồn tại, là mặt trời mà mọi thứ đều xoay quanh nó. Mọi thứ đều ở trong con người và vì con người. Câu đố đời sống thế gian là ở trong con người. Giải quyết được vấn đề về con người tức là giải quyết được vấn đề về Thượng Đế. Toàn bộ sáng tác của Dostoevsky là sự trình diễn của ông về con người và về số phận của nó, đưa đến chỗ tranh đấu với Thượng Đế, nhưng được hóa giải bằng việc trao số phận của con người cho Thần Nhân- Kitô. Cái ý thức thuần túy nhân học như thế chỉ có thể có ở trong thế giới Kitô giáo, chỉ có thể có vào thời đại Kitô giáo của lịch sử. Thế giới cổ đại chưa biết đến mối quan hệ như thế đối với con người. Chính là Kitô giáo đã hướng toàn thế gian về phía con người và biến con người thành mặt trời của thế gian. Và nhân học của Dostoevsky là nhân học mang tính Kitô giáo sâu sắc. Và chính mối quan hệ hết mình của Dostoevsky đối với con người đã biến ông thành nhà văn Kitô giáo. Những người theo chủ nghĩa nhân văn không biết đến mối quan hệ như thế đối với con người, đối với họ con người chỉ là một thực thể tự nhiên. Và chúng ta sẽ thấy rằng Dostoevsky phát hiện ra
tính sai trái nội tại của chủ nghĩa nhân văn, sự bất lực của nó trong việc giải quyết bi kịch của số phận con người.
Ở Dostoevsky không có gì khác ngoài con người: không có thiên nhiên, không có thế giới của các đồ vật, ngay ở chính con người cũng không có cái gì liên kết nó với thế giới thiên nhiên, với thế giới của các đồ vật, với sinh hoạt, với cấu trúc khách quan của đời sống. Chỉ có tinh thần của con người tồn tại và chỉ có nó là thú vị, nó được nghiên cứu. N. Strakhov, người biết Dostoevsky khá gần gũi, nói về ông: "Toàn bộ sự chú ý của ông đã hướng về những con người, ông nắm bắt lấy chỉ riêng bản chất và tính cách của họ. Ông quan tâm đến những con người, thuần túy những con người, với tư chất tâm hồn của họ, và hình tượng đời sống của họ, những cảm xúc và ý nghĩ của họ". Trong những chuyến đi ra nước ngoài "Dostoevsky không bận tâm lắm với thiên nhiên, các di tích lịch sử cũng như các tác phẩm nghệ thuật". Thực ra ở Dostoevsky có thành phố, có những ống khói thành phố, những quán rượu bẩn thỉu và những căn phòng có đồ đạc bốc mùi hôi hám. Thế nhưng thành phố chỉ là bầu không khí của con người, chỉ là thời khắc của số phận bi thảm nơi con người, thành phố thấm đượm con người, nhưng không có ý nghĩa độc lập, nó chỉ là nền của con người. Con người tách rời khỏi thiên nhiên, bứt ra khỏi những gốc rễ hữu cơ và rơi vào những ống khói thành phố đầy kinh tởm mà ở đó nó quằn quại trong những khổ đau. Thành phố là số phận bi thảm của con người. Thành phố Peterburg mà Dostoevsky cảm nhận được và miêu tả thật tuyệt vời, là bóng ma do con người sản sinh ra trong tình cảnh bị ruồng bỏ và phiêu lãng. Trong bầu không khí sương mù của cái thành phố bóng ma ấy những ý nghĩ điên rồ nảy sinh ra, những mưu toan tội lỗi chín muồi dần, vốn là những thứ đi quá ranh giới của bản chất con người. Mọi thứ đều tập trung và cô đặc lại xung quanh con người đã bị bứt ra khỏi những cơ sở tiên khởi thần thánh. Tất cả những vẻ bề
ngoài - thành phố và bầu không khí đặc biệt của nó, những căn phòng và khung cảnh dị dạng của chúng, những quán rượu với mùi hôi hám và rác bẩn, những ngoa dụ bề ngoài của tiểu thuyết, - tất cả những thứ đó chỉ là những dấu hiệu, những biểu tượng của thế giới tinh thần nội tâm của con người, chỉ là những phản ánh số phận bên trong của con người. Mọi thứ bề ngoài, thiên nhiên hay xã hội, thuộc sinh hoạt đối với Dostoevsky đều không có thực tại độc lập. Những quán rượu mà ở đó "các cậu bé Nga" trò chuyện về những vấn đề thế giới, chỉ là những thời khắc của tinh thần con người và của phép biện chứng các ý tưởng được phản ánh lại một cách biểu tượng, gắn liền một cách hữu cơ với cái số phận ấy. Và toàn bộ tính phức tạp của các ngoa dụ, toàn bộ tính đa dạng sinh hoạt của các nhân vật hành động đụng độ nhau trong sức hút hay sức đẩy đầy đam mê, trong cơn lốc xoáy của những đam mê, [những thứ đó] chỉ là sự phản ánh lại số phận của cái tinh thần thống nhất ở con người trong chiều sâu nội tâm của nó. Tất cả mọi thứ ấy đều xoay quanh câu đố về con người, tất cả mọi thứ ấy là cần thiết để bộc lộ ra những thời khắc nội tại số phận của nó. cấu trúc các tiểu thuyết của Dostoevsky có tính tập trung rất cao. Tất cả mọi thứ đều hướng về một con người trung tâm hoặc là con người trung tâm ấy hướng tới tất cả mọi thứ. Đấy, như Cậu thiếu niên, một trong những sáng tác tuyệt vời nhưng chưa được đánh giá đầy đủ của Dostoevsky. Mọi thứ đều xoay quanh nhân vật trung tâm Versilov, một trong những hình tượng dễ thương nhất ở Dostoevsky, mọi thứ đều tràn đầy mối quan hệ đầy đam mê đối với ông ta, dù là lôi cuốn vào hay đẩy xa ra. Mọi người chỉ có một "công chuyện" - giải đoán bí mật của Versilov, giải đoán bản ngã của ông ta, số phận kì lạ của ông ta. Tính chất đầy mâu thuẫn trong bản chất của Versilov gây kinh ngạc cho tất cả mọi người. Và không một ai cảm thấy yên ổn trước khi giải đoán được bí mật của bản chất Versilov. Đây chính là "công chuyện" nhân bản
đích thực, nghiêm chỉnh, sâu sắc mà tất cả mọi người đều bận rộn lo toan. Trong các tác phẩm của Dostoevsky nói chung không có cảnh bận rộn lo toan các "công chuyện" khác. Theo quan điểm thông thường, các nhân vật của Dostoevsky có thể gây ra ấn tượng của những kẻ vô công rồi nghề. Thế nhưng quan hệ giữa những con người với nhau chính là "công chuyện" nghiêm chỉnh duy nhất. Con người cao hơn mọi "công chuyện". Con người chính là "công chuyện" duy nhất. Không thể nào tìm được một "công chuyện" nào khác, một việc xây dựng đời sống nào khác ở trong vương quốc con người thật vô cùng đa dạng của Dostoevsky. Một trung tâm nào đó được lập nên, bản ngã trung tâm của con người, và mọi thứ đều xoay quanh cái trục này. Hình thành một cơn lốc xoáy của những quan hệ con người đầy đam mê và mọi thứ đều cuốn vào cơn lốc ấy. Mọi thứ đều xoay quanh cơn lốc ấy trong cơn mê dại. Cơn lốc xoáy ấy nổi lên từ chính ngay trong chiều sâu của bản chất con người. Từ cái bản chất núi lửa ngầm dưới mặt đất của con người, từ tính chất chiều sâu không đáy của con người. Cái cậu thiếu niên, đứa con hoang của Versilov bận rộn chuyện gì, loay hoay chuyện gì từ sáng tới chiều, vội vã đi đâu mà không lúc nào ngưng nghỉ? Suốt ngày này qua ngày khác anh ta chạy từ người này tới người kia để biết được "bí mật" của Versilov, giải đoán câu đố về bản ngã của ông ta. Đó chính là "công chuyện" nghiêm chỉnh. Tất cả mọi người đều cảm nhận được tầm vóc của Versilov và tất cả mọi người đều kinh ngạc vì những mâu thuẫn trong bản chất của ông ta. Đập vào mắt mọi người là tính chất phi lí tính thật sâu sắc trong tính cách của ông ta. Một câu đố về cuộc đời của Versilov được đặt ra. Đây là câu đố về con người, về số phận con người. Bởi vì rằng câu đố về con người nói chung tàng ẩn ở trong tính cách phức tạp, đầy mâu thuẫn, phi lí tính của Versilov, ở trong số phận của một con người phi thường. Có cảm tưởng như chẳng có gì khác ngoài Versilov, mọi
thứ tồn tại chỉ vì ông ta và trong quan hệ với ông ta, mọi thứ chỉ là báo hiệu cho số phận bên trong của ông ta. cấu trúc mang tính tập trung như thế cũng đặc trưng cho Những người bị quỷ ám. Stavrogin là mặt trời mà mọi thứ đều xoay quanh. Xung quanh Stavrogin một cơn lốc xoáy bốc lên rồi chuyển thành cơn quỷ ám. Mọi thứ đều bị hút về anh ta như bị hút về mặt trời, mọi thứ đều xuất phát từ anh ta rồi trở về anh ta, mọi thứ đều chỉ là số phận của anh ta. Shatov, P. Verkhovensky, Kirillov đều chỉ là những bộ phận phân rã ra từ nhân vật Stavrogin, chỉ là bức xạ phát ra (эманация) của nhân vật phi thường này mà anh ta sẽ bị kiệt quệ ở trong tình trạng đó. Câu đố Stavrogin, bí mật Stavrogin là đề tài duy nhất của Những người bị quỷ ám. "Công chuyện" duy nhất mà mọi người đều đắm chìm trong đó chính là "công chuyện" về Stavrogin. Cơn quỷ ám cách mạng chỉ là một thời khắc nơi số phận của Stavrogin, là sự báo hiệu thực tại nội tâm của Stavrogin, tình trạng tự tung tự tác của anh ta. Chiều sâu con người ở Dostoevsky không bao giờ có thể biểu hiện và hiển lộ ra trong sinh hoạt bền vững, nó bao giờ cũng bộc lộ ra trong dòng lửa mà ở đó tất cả các hình thức bền vững, tất cả các nếp sinh hoạt đã nguội lạnh và khô cứng lại, đều bị nóng chảy và thiêu rụi. Bằng cách đó Dostoevsky dẫn dắt đi vào ngay chiều sâu của các mâu thuẫn nơi bản chất con người, bị che giấu bởi lớp phủ bề ngoài của sinh hoạt ở nơi các nhà văn thuộc loại khác. Việc khai mở ra chiều sâu của con người dẫn đến tai họa vượt ra ngoài ranh giới an sinh của thế gian này. Sự phân rã của một bản ngã con người phi thường, tiêu hao hết sức lực của mình trong sự thiếu chừng mực ở những nỗ lực của mình, không có khả năng lựa chọn và hy sinh, [sự phân rã ấy] được khai mở ra theo cách như vậy.
Ý đồ ở Thằng ngốc đối lập lại với ý đồ ở Cậu thiếu niên và Những người bị quỷ ám. Trong Thằng ngốc mọi chuyển động không phải hướng về nhân vật trung tâm công tước Myshkin, mà là từ nhân vật
này hướng tới tất cả mọi người. Myshkin giải đoán được tất cả mọi người, trước hết là hai người phụ nữ, Nastasia Philippovna và Aglaya, đầy những tiên cảm minh mẫn, những thức ngộ trực giác. Ông ta đi đến giúp đỡ tất cả mọi người. Những quan hệ con người, ấy là "công chuyện" duy nhất mà ông ta bận rộn. Bản thân ông ta ở trong trạng thái hưng phấn lặng lẽ. Xung quanh ông ta là những cơn lốc xoáy đầy bão tố. Khởi nguyên quỷ dữ, phi lí tính đầy bí ẩn ở trong Stavrogin và Versilov làm căng thẳng và nung nóng bầu không khí, sản sinh ra xung quanh họ cơn quay cuồng quỷ ám. Cũng là khởi nguyên phi lí tính, nhưng mang tính "thiên thần" ở trong Myshkin không sản sinh ra cơn quỷ ám từ đó, thế nhưng nó cũng không thể chữa trị được cơn quỷ ám, mặc dù Myshkin hết lòng muốn làm người chữa trị. Myshkin không hoàn toàn là người, không là người cho đến tận cùng, bản chất của ông ta thật trong sáng, nhưng bị khiếm khuyết. Sau đó Dostoevsky toan tính trưng bày một con người đầy đủ ở trong Alyosha. Rất thú vị là trong khi các nhân vật "đen tối" - Stavrogin, Versilov, Ivan Karamazov đang được giải đoán thì những nhân vật "trong sáng" - Myshkin, Alyosha lại tự mình giải đoán những người khác, chuyển động đi từ họ đến tất cả mọi người. Alyosha giải đoán được Ivan ("câu đố Ivan"), Myshkin thức ngộ ra tâm hồn của Natasia Philippovna và Aglaya. Những nhân vật "trong sáng" Myshkin, Alyosha được phú cho khả năng thức ngộ, họ đi đến giúp đỡ mọi người. Những nhân vật "đen tối", Stavrogin, Versilov, Ivan Karamazov, được phú cho bản chất bí ẩn vốn hành hạ làm đau đớn tất cả mọi người. Ý đồ chuyển động hướng tâm và ly tâm là như thế ở trong các tiểu thuyết của Dostoevsky. Ý đồ của Tội ác và trừng phạt lại khác. Ở đó số phận con người không khai mở ở số đông con người, không ở trong bầu không khí nóng bỏng của các quan hệ con người. Raskolnikov giải đoán những ranh giới bản chất con người trong tình trạng đơn độc đối diện với chính mình, anh ta
làm thí nghiệm với chính bản chất của mình. Nhân vật "đen tối" Raskolnikov vẫn còn chưa là "câu đố", giống như Stavrogin hay là Ivan. Đó vẫn đang còn là một giai đoạn ít phức tạp hơn trong số phận con người, trên những nẻo đường tự tung tự tác của con người, trước khi trử thành Stavrogin và Ivan Karamazov. Bản thân Raskolnikov không bí ẩn, tội ác của anh ta mới bí ẩn. Con người vượt qua ranh giới của mình. Nhưng thói tự tung tự tác còn chưa biến đổi triệt để bản chất con người. Nhân vật trong Ghi chép dưới nhà hầm, Raskolnikov đặt ra những vấn đề và câu đố. Còn Versilov, Ivan Karamazov, Stavrogin thì bản thân bọn họ là những vấn đề và câu đố.
* * *
Dostoevsky trước hết là một nhà nhân học vĩ đại, nhà thực nghiệm bản chất con người. Ông khai mở một khoa học mới mẻ về con người và áp dụng ở đó một phương pháp mới mẻ cho tới nay chưa từng được biết đến. Môn khoa học nghệ thuật hay là môn nghệ thuật khoa học của Dostoevsky tìm hiểu bản chất con người trong tính chất chiều sâu không đáy và tính vô hạn của nó, khám phá ra những tầng lớp cuối cùng ở dưới nền tảng của nó. Dostoevsky đặt con người vào thí nghiệm tinh thần, đưa nó vào những điều kiện đặc biệt, lột đi hết tất cả những lớp phủ bề ngoài, bứt con người ra khỏi tất cả những lề thói sinh hoạt. Ông tiến hành những khảo sát nhân học của mình bằng phương pháp nghệ thuật Dionysus, lôi cuốn vào chiều sâu đầy huyền bí của bản chất con người, cơn lốc xoáy hưng phấn mê dại lôi cuốn vào chiều sâu ấy. Toàn bộ sáng tác của Dostoevsky đều là môn nhân học lốc xoáy. Mọi thứ khai mở ra ở đó trong bầu không khí hưng phấn-rực lửa mà chỉ những ai đã từng bị lôi cuốn vào cơn lốc xoáy ấy mới thấu đạt được tri thức của Dostoevsky. Trong nhân học của Dostoevsky chẳng có gì tĩnh tại cả, không có gì khô cứng lại, hóa thành đá, mọi
thứ đều ở trạng thái động, mọi thứ đều ở trong chuyển động, tất cả đều là dòng chảy nham thạch nóng chảy. Dostoevsky lôi cuốn [người ta] vào cái vực thẳm tăm tối triển khai ra ở bên trong con người. Ông dẫn đưa vào bóng tối dày đặc. Thế nhưng ở trong bóng tối ấy phải bừng lên ánh sáng. Ông muốn lấy được ánh sáng trong bóng tối. Dostoevsky xem xét con người được để cho tự ảo, bước ra khỏi luật pháp, tách rời khỏi trật tự vũ trụ và tìm hiểu số phận của nó ở trong tự do, khai mở ra những kết quả không tránh khỏi của những nẻo đường tự do. Dostoevsky quan tâm trước hết đến số phận con người ở trong tự do chuyển hóa thành tự tung tự tác. Đấy chính là nơi bản chất con người bộc lộ ra. Sự tồn tại tuân theo pháp luật của con người trên nền đất rắn chắc không khai mở được những bí ẩn của bản chất con người. Dostoevsky đặc biệt quan tâm đến số phận con người vào thời khắc, khi nó nổi loạn chống lại trật tự khách quan của thế gian, tách rời khỏi thiên nhiên, khỏi những cội rễ hữu cơ và tuyên cáo tình trạng tự tung tự tác của mình. Con người bị ruồng bỏ khỏi cuộc sống tự nhiên, hữu cơ, được Dostoevsky đưa vào nơi thanh tẩy và địa ngục của thành phố và trải qua ở đó con đường đau khổ của mình, [con người ấy] chuộc lại tội lỗi của mình.
Rất bổ ích so sánh mối quan hệ đối với con người ở Dante, Shakespeare và Dostoevsky. Ở Dante con người là bộ phận hữu cơ của một trật tự thế gian mang tính khách quan, của một vũ trụ thần thánh. Con người là thành viên của một hệ thống ngôi thứ. Bên trên nó là bầu trời, phía dưới nó là địa ngục. Thượng Đế và quỷ dữ là hiện thực của trật tự thế gian vốn đã có sẵn đối với con người từ bên ngoài. Những vòng địa ngục với những hành hạ đau đớn kinh khủng của chúng chỉ khẳng định sự tồn tại của cái trật tự nhân gian thần thánh mang tính khách quan. Thượng Đế và quỷ dữ, bầu trời và địa ngục khai mở ra không phải ở trong chiều sâu tinh thần của con người, không phải ở trong tính chất chiều sâu không đáy của
cuộc thí nghiệm tinh thần, mà vốn đã có sẵn đối với con người, có tính hiện thực tương tự như hiện thực của thế giới đồ vật vật chất. Thế giới quan trung cổ là như thế, vẫn còn gắn bó với thế giới quan của con người cổ đại. Con người cảm nhận thấy ở bên trên nó là bầu trời với ngôi thứ nhà trời, còn ở bên dưới nó là ngôi thứ thấp kém của tận cùng thế giới. Dante là người thể hiện thiên tài cảm nhận thế giới của con người trung cổ. Vũ trụ như một cơ thể có ngôi thứ còn chưa bị lung lay, con người ở trong đó thật vững chãi. Từ thời kì Phục hưng, từ khởi đầu của những thời đại mới, sự thấu hiểu thế giới đang thay đổi thật triệt để. Sự tự khẳng định mang tính nhân văn của con người bắt đầu. Con người khép lại trong thế giới tự nhiên của mình. Bầu trời và tận cùng thế giới bị đóng lại đối với con người mới. Khám phá ra tính vô hạn của các thế giới, nhưng đã không còn một vũ trụ thống nhất có tổ chức theo ngôi thứ nữa. Bầu trời thiên văn học trống rỗng và vô hạn đã không còn giống với bầu trời của Dante, bầu trời thời trung cổ nữa. Và có thể hiểu được nỗi kinh hoàng của Pascal do tính vô hạn của các không gian gây nên. Con người bị lạc lối trong những không gian vô hạn không có cấu trúc của vũ trụ ấy. Nhưng nó bỏ đi vào thế giới linh hồn con người rộng lớn của mình, nó càng bám chặt lấy trái đất mạnh mẽ hơn nữa, lo sợ bị bứt khỏi đó, sợ hãi tính vô hạn vốn xa lạ với nó. Bắt đầu thời kì nhân văn của tân lịch sử mà ở đó những sức mạnh sáng tạo của con người cứ héo mòn dần. Con người cảm thấy mình tự do, không bị bó buộc vào bất cứ trật tự vũ trụ nào vốn có trước một cách khách quan từ bên ngoài. Shakespeare là một trong những thiên tài vĩ đại nhất của Phục hưng. Sáng tác của ông lần đầu tiên khai mở ra thế giới linh hồn của con người vô cùng phức tạp và đa dạng, thế giới của những đam mê con người, trò chơi sôi sục của những sức mạnh con người đầy năng lượng và hùng mạnh. Bầu trời của Dante, địa ngục của Dante đã không còn nữa trong sáng tác của
Shakespeare. Vị trí của con người ở Shakespeare được xác định bởi thế giới quan nhân văn. Thế giới quan nhân văn ấy hướng về thế giới linh hồn của con người chứ không phải thế giới tinh thần, không hướng về chiều sâu cuối cùng của tinh thần. Con người di chuyển về vùng ngoại vi của đời sống linh hồn, tách rời khỏi những trung tâm tinh thần. Shakespeare là nhà tâm lí học vĩ đại nhất của nghệ thuật nhân văn.
Dostoevsky xuất hiện vào một thời kì khác của thế giới, vào một độ tuổi khác của con người. Ở nơi ông con người đã không còn thuộc về cái trật tự vũ trụ khách quan như con người của Dante trước đây. Con người trong tân lịch sử đã cố thử cư trú dứt khoát trên bề mặt trái đất, nó tự đóng kín lại trong thế giới thuần túy con người của mình. Thượng Đế và quỷ dữ, bầu trời và địa ngục bị chèn lấn đẩy hẳn vào lĩnh vực bất khả tri không có cách nào giao tiếp được và rốt cuộc mất đi mọi tính hiện thực. Con người trở thành thực thể hai chiều như mặt phẳng, nó mất đi chiều kích độ sâu. Nó chỉ còn lại linh hồn, nhưng tinh thần thì đã bay đi mất. Sức sáng tạo của thời kì phục hưng đã cạn kiệt. Đã mất đi rồi niềm vui Phục hưng, trò chơi của sức sáng tạo dư thừa. Và con người cảm nhận thấy rằng nền tảng ở dưới nó không thật rắn chắc và vững bền như nó hằng tưởng. Từ chiều kích độ sâu bị đóng lại bắt đầu vang vọng lên những tiếng va đập ở dưới mặt đất, tính chất núi lửa ngầm dưới nền đất bắt đầu bộc lộ ra. Vực thẳm mở rộng ra trong chiều sâu của chính con người và ở đó lại hiện ra Thượng Đế và quỷ dữ, bầu trời và địa ngục. Thế nhưng những chuyển động đi vào chiều sâu ắt phải là chuyển động trong bóng tối, ánh sáng ban ngày của thế giới tâm hồn con người và thế giới vật chất mà con người hướng tới nay bắt đầu tắt đi, ánh sáng mới thì vẫn còn chưa bừng lên. Toàn bộ tân lịch sử là sự thử thách tự do của con người, trong lịch sử ấy các sức mạnh con người được buông thả tự do. Nhưng ở vào cuối thời kì
lịch sử đó sự thử thách tự do của con người được chuyển vào một chiều sâu lớn hơn nữa, vào một chiều kích khác, và số phận con người được thử thách tại đó. Những nẻo đường tự do của con người từ thế giới linh hồn vốn được chiếu sáng bởi ánh sáng ban ngày của tân lịch sử, nay chuyển vào trong thế giới tinh thần. Thoạt tiên cái thế giới tình thần ấy ắt phải gây ra ấn tượng tuột xuống tận cùng. Ở đó Thượng Đế và bầu trời lại khai mở ra cho con người, chứ không phải chỉ có quỷ dữ và địa ngục, thế nhưng không phải như một trật tự khách quan có sẵn với con người từ bên ngoài, mà như cuộc gặp gỡ với chiều sâu cuối cùng của tinh thần con người, như là những hiện thực khai mở từ bên trong. Đây chính là sáng tạo của Dostoevsky. Ở trong sáng tạo ấy con người giữ một vị trí hoàn toàn khác so với ở Dante và Shakespeare. Con người không thuộc về một trật tự khách quan, nó không ở trên bề mặt trái đất và trên bề mặt linh hồn của mình. Đời sống tinh thần được trả lại cho con người, nhưng là từ chiều sâu, từ bên trong, đi qua bóng tối, đi qua sự thanh tẩy và địa ngục. Vì vậy con đường của Dostoevsky là con đường tinh thần nội tại chứ không phải con đường siêu việt hóa. Điều này không hề có nghĩa là ông phủ nhận tính hiện thực của cái siêu việt.
* * *
Con đường của con người ở trong tự do bắt đầu từ chủ nghĩa cá nhân cực đoan, từ sự xa lánh, từ cuộc nổi loạn chống lại trật tự thế gian bên ngoài. Lòng tự ái phát triển quá đáng, khai mở tình trạng dưới nhà hầm. Con người từ bề mặt trái đất chui xuống dưới hầm. Xuất hiện con người dưới nhà hầm, méo mó, dị dạng và khai mở phép biện chứng của mình. Ở đây lần đầu tiên trong phép biện chứng thiên tài của các ý tưởng Ghi chép dưới nhà hầm, Dostoevsky đã có được một loạt các phát hiện về bản chất con người. Bản chất con người mang tính phân cực, đầy nghịch lí và phi
lí tính. Con người có một nhu cầu không sao dứt bỏ được muốn có tự do phi lí tính và điên rồ, muốn được đau khổ. Con người không nhất thiết cố được hưởng lợi. Trong thói tự tung tự tác của mình con người đầy rẫy ưu tiên cho đau khổ. Nó không cam chịu với sắp xếp hợp lí tính cho cuộc sống. Tự do cao hơn sự no ấm. Nhưng tự do không phải là sự thống trị của lí trí đối với những tự phát tâm hồn, tự do bản thân nó là phi lí tính và điên rồ, nó dẫn tới việc đi quá giới hạn đặt ra cho con người. Cái tự do vô giới hạn ấy giày vò con người, dẫn nó đến tiêu vong. Nhưng con người quý trọng nỗi giày vò ấy và sự tiêu vong ấy. Những phát hiện của Dostoevsky về con người ở dưới nhà hầm quyết định số phận của Raskolnikov, Stavrogin, Ivan Karamazov và những nhân vật khác. Bắt đầu một cuộc phiêu lãng đầy đau khổ của con người trên những nẻo đường của thứ tự do tự tung tự tác. Nó đưa con người tới những giới hạn tột cùng của tình trạng phân đôi. Phép biện chứng ý tưởng về con người và số phận của nó khởi đầu ở Ghi chép dưới nhà hầm, sẽ được tiếp tục khai mở xuyên qua tất cả các tiểu thuyết của Dostoevsky và tìm được sự hoàn chỉnh của nó ở trong Huyền thoại về viên Đại pháp quan. Ivan Karamazov sẽ là giai đoạn chót của con đường tự do chuyển thành tự tung tự tác chống lại Thượng Đế. Sau đó sẽ xuất hiện hình tượng Zosima và Alyosha. Chúng ta sẽ thấy rằng toàn bộ phép biện chứng đầy bi kịch về con người sẽ được giải quyết bằng hình tượng Đức Kitô trong Huyền thoại. Phép biện chứng ấy bắt đầu từ cái gì?
Con người dưới nhà hầm bác bỏ mọi tổ chức hợp lí tính nhằm có sự hòa hợp chung và sự no ấm. Nhân vật trong Ghi chép dưới nhà hầm nói: "Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào nếu đột nhiên, chẳng biết từ đâu, giữa tình trạng yên ổn đầy hợp lí chung của tương lai, lại xuất hiện một quý ông nào đó với bộ mặt chẳng mấy cao thượng, hay tốt hơn là nói rằng với bộ mặt hoài cổ đầy nhạo báng, hai tay
chống nạnh và sẽ bảo với tất cả chúng ta: thế nào nhỉ, hỡi các ngài, liệu chúng ta có nên dùng chân đá hắt đi một lần cho xong cái tình trạng yên ổn hợp lí này không, cho nó tiêu mất đi, chỉ duy nhất với mục đích sao cho vứt quách đi tất cả những cái thước tính logarit này và để cho chúng ta lại sống theo ý chí ngu xuẩn của mình. Chuyện như thế vẫn còn chưa hề gì lắm, nhưng rồi thế nào cũng có lắm kẻ đi theo; con người là như thế mà. Và mọi chuyện đều từ một nguyên nhân thật vớ vẩn nhất mà có vẻ như chẳng đáng nói tới; ấy chính là vì con người, bao giờ cũng vậy và ở đâu cũng vậy, dù có là ai đi nữa, đều ưa thích hành động như anh ta muốn, và hoàn toàn không phải như là lí trí và lợi lộc ra lệnh cho anh ta; cái chuyện muốn làm thì rất có thể chống lại cả lợi lộc riêng, và đôi khi thì cứ phải là như thế mới được. Cái muốn tùy tiện của riêng mình, của riêng một mình mình, dù cho là thói đỏng đảnh hoang dại nhất, tưởng tượng hoang đường của mình, đôi khi bị chọc giận thậm chí đến mức điên khùng, đó chính là cái lợi lộc có nhiều lợi lộc nhất bị bỏ qua, vốn là cái lợi lộc chẳng khớp được vào với sự phân loại nào cả và vì nó mà tất cả các hệ thống và lí thuyết đều luôn tan tành thành mây khói. Tất cả các nhà thông thái ấy lấy ở đâu ra vậy mà cứ cho rằng con người cần phải có cái muốn thật bình thường, cái muốn thật tự nguyện. Ở đâu ra mà họ cứ nhất định hình dung rằng con người nhất thiết phải mong muốn hợp lí và có lợi. Con người chỉ cần có mong muốn độc lập mà thôi, dù phải trả giá thế nào, dù dẫn tới đâu đi nữa". "Chỉ có một trường hợp, một trường hợp duy nhất, khi con người có thể cố tình, mong muốn một cách có ý thức cho mình ngay cả điều có hại và ngu xuẩn, thậm chí điều ngu xuẩn nhất, trường hợp ấy là: để có quyền cầu mong cho mình ngay cả điều ngu xuẩn nhất, để không bị bó buộc phải cầu mong cho mình chỉ riêng một thứ thông minh không thôi. Điều này thật ngu xuẩn nhất, quả thực là thói đỏng đảnh của mình, thưa các ngài, nhưng đôi khi lại có
thể là lợi lộc nhất trong mọi thứ trên trái đất này đối với anh bạn của ta. Có thể vẫn là lợi lộc hơn mọi lợi lộc ngay cả trong trường hợp nó đem lại cho chúng ta tai hại hiển nhiên và mâu thuẫn với ngay những kết luận phán đoán của chúng ta về lợi lộc, bởi vì rằng ít ra nó cũng bảo toàn cho chúng ta điều chủ yếu nhất và quý báu nhất, tức là bản diện cá nhân của chúng ta và tính cá biệt của chúng ta". Con người không phải là số học, con người là thực thể đầy vấn đề và thật bí ẩn. Bản chất con người là nghịch lí và phân cực cho đến tận đáy sâu. "Chờ đợi được điều gì ở con người, như một thực thể vốn được phú cho những phẩm tính kì lạ như thế? Con người mong ước điều vớ vẩn tai hại nhất, điều vô nghĩa phi kinh tế nhất, duy nhất chỉ để cố làm sao trộn lẫn được yếu tố hoang đường thật tai hại của mình vào tất cả những gì mang tính tích cực yên ổn đầy hợp lí. Chính là mong ước giữ lại cho mình những mộng tưởng hoang đường, sự ngu xuẩn tầm thường nhất, duy chỉ là để khẳng định với chính mình rằng dẫu sao thì con người vẫn là con người chứ không phải là những phím đàn dương cầm". "Nếu như anh bảo rằng tất cả mọi thứ ấy có thể tính toán trước được theo bảng vẽ, cả những hỗn loạn, cả bóng đêm tăm tối, cả lời nguyền rủa, sao cho chỉ cần một khả năng tính toán sơ bộ thôi là sẽ ngăn chặn được tất cả và lí trí sẽ giành được phần thắng, ấy là con người cố ý biến thành điên rồ trong trường hợp đó để mà không có lí trí và để tỏ ra ngoan cố mà thôi. Tôi tin điều này, tôi chịu trách nhiệm về điều này, bởi vì rằng, hình như là toàn bộ vấn đề con người quả thực chỉ là ở chỗ làm sao cho con người từng phút giây một chứng tỏ được cho bản thân mình rằng anh ta là con người chứ không phải là cái chốt cửa". "Còn ý chí nào của mình nữa, khi câu chuyện đi đến chỗ bảng vẽ và số học, khi chỉ còn có hai lần hai là bốn mà thôi. Chẳng cần có ý chí của tôi thì hai lần hai vẫn là bốn. Chẳng lẽ có thứ ý chí của mình như thế sao". "Liệu có thể chính là vì vậy mà con người ưa thích sự phá hủy và
hỗn loạn, vì theo bản năng nó lo sợ đạt được mục đích và hoàn tất được tòa nhà đang xây hay chăng. Ai mà biết được, rất có thể toàn bộ mục đích mà nhân loại cố đạt được chỉ là ở tính liên tục ấy của quá trình đạt tới, nói cách khác là ở ngay bản thân cuộc sống chứ không phải ở trong mục đích, mà cái mục đích ấy không là chi khác ngoài cái hai lần hai là bốn, tức là một công thức, mà xin thưa với các ngài bởi hai lần hai là bốn thì không còn là cuộc sống nữa, mà là khởi đầu của cái chết". "Và tại sao mà các ngài lại chắc chắn, lại tin tưởng một cách trịnh trọng như thế, rằng chỉ có cái bình thường và cái tích cực không thôi, vắn tắt là chỉ có duy nhất điều tốt lành là có lợi cho con người thôi nhỉ? Liệu cái lí trí ấy có lầm lẫn về những lợi lộc hay không? Bởi rất có thể con người không chỉ yêu thích riêng điều tốt lành không thôi, rất có thể con người yêu thích nỗi đau khổ cũng ngang bằng, yêu thích đến say đắm... Tôi tin tưởng rằng con người không khi nào chịu từ bỏ nỗi đau khổ đích thực, cũng tức là sự phá hủy và hỗn loạn. Bởi nỗi đau khổ là nguyên nhân duy nhất của ý thức".
Cần phải tìm kiếm ngọn nguồn của tất cả các phát hiện về con người mà Dostoevsky đã tạo nên trong suốt toàn bộ quãng đường sáng tạo của mình ở trong những ý tưởng gây chấn động ấy bởi tính thiên tài, bởi tính sắc bén của trí tuệ. Đối với con người không thể áp dụng số học được, mà phải áp dụng toán học cao cấp. Số phận con người không bao giờ lại dựa trên cái chân lí hai lần hai là bốn cả. Bản chất con người không bao giờ có thể bị lí tính hóa được. Luôn luôn còn lại ở trong nó một dư địa phi lí tính - chính là nguồn gốc của sự sống. Không thể nào lí tính hóa xã hội con người được. Khởi nguyên phi lí tính luôn luôn còn lại và tác động trong xã hội. Xã hội con người không phải là một tổ kiến, tự do của con người sẽ không cho phép biến xã hội thành tổ kiến, tự do ấy sẽ kéo theo việc muốn "sống theo ý chí ngu xuẩn của mình". Quý ngài với khuôn mặt
hoài cổ đầy nhạo báng chính là cuộc nổi loạn của cá nhân, của khởi nguyên cá thể, của nổi loạn tự do không cho phép bất cứ việc lí tính hóa mang tính cưỡng bức nào, không cho phép bất cứ sự no ấm áp đặt nào. Chính ở đây xác lập mối thù địch sâu sắc của Dostoevsky đối với chủ nghĩa xã hội, đối với Tòa lâu đài bằng pha lê, đối với không tưởng thiên đường trên trái đất. Điều này sau đó được khai mở đến tận chiều sâu ở trong Những người bị quỷ ám và trong Anh em nhà Karamazov. Con người không thể nào cho phép biến nó thành "phím đàn dương cầm" và "cái chốt cửa". Dostoevsky có cảm nhận bản diện cá nhân đến mê dại. Toàn bộ thế giới quan của ông thấm đẫm cá biệt luận, vấn đề bất tử vốn mang tính trung tâm đối với ông cũng gắn liền với điều này. Dostoevsky là người phê phán thiên tài đối với chủ nghĩa khoái lạc đương đại, ông vạch ra tính bất tương hợp của nó với tự do và phẩm giá của con người cá nhân.
Liệu chính Dostoevsky có phải là con người dưới nhà hầm, liệu ông có đồng cảm về tư tưởng với phép biện chứng của con người dưới nhà hầm hay không? Không thể đặt vấn đề ấy và giải quyết nó một cách tĩnh tại được. Thế giới quan của con người dưới nhà hầm không phải là thế giới quan tích cực của Dostoevsky. Trong thế giới quan tôn giáo tích cực của mình Dostoevsky vạch trần tính hủy diệt của những con đường tự tung tự tác và nổi loạn của con người dưới nhà hầm. Cái thói tự tung tự tác và nổi loạn ấy sẽ dẫn đến sự hủy hoại tự do của con người và tình trạng tha hóa bản ngã cá nhân. Thế nhưng con người dưới nhà hầm với phép biện chứng ý tưởng tuyệt vời của mình về tự do phi lí tính của con người lại là thời khắc trên con đường bi thảm của con người, con đường tiêu vong của tự do và thử thách cho tự do. Tự do là điều tốt đẹp cao nhất, con người không thể nào chối bỏ nó mà lại vẫn còn là con người. Cái điều mà con người dưới nhà hầm phủ nhận ở trong phép biện chứng của mình thì chính Dostoevsky củng phủ nhận trong thế giới quan tích
cực của mình. Ông sẽ phủ nhận đến cùng việc lí tính hóa xã hội con người, ông sẽ phủ nhận đến cùng mọi mưu toan đặt sự no ấm, sự hợp lí và ý định tốt đẹp cao hơn tự do, ông sẽ phủ nhận Tòa lâu đài bằng pha lê tương lai, sự hòa hợp tương lai đặt cơ sở trên việc tiêu diệt con người cá nhân. Nhưng ông sẽ dẫn đưa con người tiếp tục những con đường dài của thói tự tung tự tác và nổi loạn, để khám phá ra rằng tự do sẽ bị hủy hoại trong thói tự tung tự tác và con người sẽ bị phủ định trong cuộc nổi loạn. Con đường tự do hoặc là dẫn đến nhân-thần, và trên con đường ấy con người sẽ tìm thấy cái chết và sự tiêu vong của mình, hoặc là dẫn đến Thần-Nhân, và trên con đường ấy con người sẽ tìm được sự cứu rỗi của mình và sự khẳng định triệt để hình tượng của mình. Con người chỉ hiện hữu, nếu nó là hình tượng và đồng dạng với Thượng Đế, nếu Thượng Đế hiện hữu. Nếu như không có Thượng Đế, nếu con người tự mình là Thượng Đế, thì khi đó cũng không có con người nữa, thì khi đó hình tượng của nó cũng tiêu vong. Chỉ có ở trong Đức Kitô thì vấn đề con người mới giải quyết được. Phép biện chứng ý tưởng của con người dưới căn nhà hầm chỉ là thời khắc khởi đầu của phép biện chứng ý tưởng của chỉnh Dostoevsky mà thôi; nó khởi đầu ở đó, nhưng chưa hoàn tất. Nó hoàn tất một cách tích cực ở trong Anh em nhà Karamazov. Thế nhưng có một chuyện không nghi ngờ gì nữa: ấy là không có đường trở lại với ý thức nô lệ, với việc lí tính hóa cưỡng bức mà con người dưới căn nhà hầm nổi loạn chống lại. Con người phải đi qua tự do. Và Dostoevsky chỉ ra cho thấy khi người ta theo bảng vẽ ép buộc con người vào những khuôn khổ hợp lí và phân phối cuộc sống của nó theo bảng vẽ, "thì trong trường hợp ấy nó sẽ cố tình hóa dại để khỏi có lí trí và giữ vững ý muốn của mình". Ông thừa nhận "yếu tố hoang đường" ở trong con người là đáng kể đối với bản chất con người. Stavrogin, Versilo V, Ivan Karamazov sẽ là "câu đố", bởi vì bản chất con người nói chung là "huyền bí" ở trong
tính nghịch thường của nó, ở trong tính phi lí của nó, ở trong nhu cầu được đau khổ của nó.
* * *
Trong nhân học của mình Dostoevsky khám phá ra rằng, bản chất con người là ở trong trạng thái động và có chuyển động rực lửa ở trong chiều sâu của nó. Yên lặng, tĩnh tại chỉ có ở lớp vỏ ngoài, lớp vỏ ngoài cùng nhất của con người. Phía sau sinh hoạt ổn định, phía sau hình tượng tốt đẹp ẩn giấu những cơn bão táp, lộ ra những vực thẳm tăm tối. Dostoevsky quan tâm đến con người khi nó đi vào tình trạng chuyển động bão táp. Ông chui xuống những vực thẳm tăm tối ấy để lấy được ánh sáng. Ánh sáng không phải chỉ để cho bề mặt có hình tượng tốt đẹp, ánh sáng có thể bừng lên ở trong vực tối và đó là ánh sáng chân thực hơn. Chuyển động rực lửa ấy trong con người xảy ra do tính phân cực của bản chất con người, do những xung đột của những mặt đối lập tàng ẩn trong đó. Tính phân cực, tính nghịch lí đi vào đến tận chỗ sâu thẳm nhất của bản chất con người. Ở nơi sâu thẳm nhất không phải là yên bình, không phải là thống nhất, mà là chuyển động đầy đam mê. Dostoevsky không thâm nhập vào sự yên bình của vĩnh cửu ở trong chiều sâu. Về phương diện này sự thâm nhập của Dostoevsky rất khác với sự thâm nhập của Plato, khác với sự thâm nhập của nhiều nhà huyền học khác. Những xung đột bão táp của những mặt đối lập phân cực không chỉ xảy ra ở trên bình diện thân xác và linh hồn, mà còn cả ở trên bình diện tinh thần nữa. Không chỉ có bề mặt của tồn tại mà cả chính chiều sâu của tồn tại cũng bị cuốn vào chuyển động. Điều này là rất đáng kể đối với nhân học và bản thể luận của Dostoevsky, về phương diện này ông đối lập lại với thế giới quan mĩ học của thiên tài Hi Lạp cổ đại. Ông thuộc về thế giới Kitô giáo mà ở đó khai mở thật triệt để trạng thái động bi thảm của tồn tại. Thiên tài Nga-Slave trong thâm nhập của mình vào những chiều sâu cuối cùng của tồn
tại cũng không giống cả với thiên tài Đức như được phản ánh lại trong chủ nghĩa duy tâm. Người Đức thiên về nhìn thấy xung đột của Thượng Đế và quỷ dữ, ánh sáng và bóng tối ở vùng ngoại vi của tồn tại, nhưng khi ông ta đi vào chiều sâu của đời sống tinh thần thì ông ta nhìn thấy Thượng Đế ở đó, thấy được ánh sáng - tính phân cực biến mất. Ở người Nga Dostoevsky tính phân cực của khởi nguyên Thượng Đế và quỷ dữ, xung đột bão táp của ánh sáng và bóng tối khai mở ra ở ngay nơi chiều sâu của tồn tại. Thượng Đế và quỷ dữ vật lộn với nhau ở chính ngay trong chiều sâu nhất của tinh thần con người. Cái ác có bản chất chiều sâu tinh thần. Chiến trường của Thượng Đế và quỷ dữ nằm rất sâu trong bản chất con người. Mâu thuẫn bi thảm đã mở ra cho Dostoevsky không phải ở lĩnh vực tâm lí mà mọi người đều nhìn thấy, mà ở chính ngay nơi vực thẳm của tồn tại. Bi kịch phân cực tựa như đi sâu vào tận cùng của cuộc sống thánh thiện. Và sự khác biệt giữa "thánh thiện" và "ác quỷ" ở Dostoevsky không trùng khớp với sự khác biệt thông thường giữa "thiện" và "ác" - là khác biệt mang tính ngoại Vl. Giả sử như Dostoevsky mà triển khai đến cùng học thuyết về Thượng Đế, về Tuyệt đối, thì chắc là ông sẽ buộc phải thừa nhận tính phân cực của chính bản chất thánh thiện, bản chất tăm tối, thừa nhận vực thẳm ở trong Thượng Đế, một thứ gì đó có họ hàng thân thuộc với học thuyết của J. Boehme về vực thẳm.14 Trái tim con người phân cực ngay từ cơ sở tiên khởi của mình, nhưng trái tim con người được đặt vào chiều sâu không đáy của tồn tại.
Những lời tuyệt diệu nói rằng "cái đẹp cứu chuộc thế giới" thuộc về Dostoevsky. Đối với ông không có gì cao hơn cái đẹp. Cái đẹp mang tính thánh thần, thế nhưng cái đẹp, hình tượng cao nhất của sự hoàn thiện bản thể học, lại được Dostoevsky hình dung như mang tính phân cực, phân đôi, đầy mâu thuẫn, đáng sợ, kinh khủng. Ông không thâm nhập vào sự tính tại thần thánh của cái đẹp, vào ý
tưởng Plato của nó, ông nhìn thấy ở nó chuyển động rực lửa, xung đột đầy bi thảm. Cái đẹp khai mở ra đối với ông thông qua con người. Ông không thâm nhập vào cái đẹp trong vũ trụ, trong trật tự thế giới mang tính thần thánh. Từ đó mà có sự bất an vĩnh cửu ở ngay chính cái đẹp. Không có bình an ở con người. Cái đẹp bị bao trùm bởi dòng điện Hercule. Những lời nói này của Mitia Karamazov quá nổi tiếng: "Cái đẹp - thật đáng sợ, là thứ thật kinh khủng. Đáng sợ vì nó bất xác định, không sao xác định được vì Thượng Đế chỉ tạo ra toàn là những câu đố. Ở đây hai bờ nhập lại, ở đây tất cả các mâu thuẫn cùng nhau chung sống... Cái đẹp. Tôi không sao chịu đựng nổi vì ngay cả cái người kia có trái tim cao cả nhất, có trí tuệ thật cao, cũng bắt đầu từ lí tưởng Madonna rồi kết thúc bằng lí tưởng Sodom. Còn đáng sợ hơn nữa cái con người đã có lí tưởng Sodom ở trong tâm hồn rồi mà vẫn không phủ nhận lí tưởng Madonna, và trái tim người đó cháy rực vì cái đẹp, và thật sự, thật sự cháy rực giống như ở vào những tháng năm niên thiếu còn trong trắng. Không đâu, con người thật là rộng, thậm chí quá rộng, tôi ước gì thu hẹp nó lại". Rồi còn nữa: "Cái đẹp không chỉ là thứ đáng sợ mà còn là thứ huyền bí nữa. Ở đây quỷ dữ vật lộn với Thượng Đế, còn bãi chiến trường là trái tim con người". Và Nikolay Stavrogin [nói] "ở hai cực có trùng hợp cái đẹp, có sự giống nhau trong thỏa mãn sung sướng", cảm thấy tính lôi cuốn như nhau của lí tưởng Madonna và lí tưởng Sodom. Dostoevsky bị giày vò vì nỗi cái đẹp không chỉ có ở lí tưởng Madonna mà còn ở cả lí tưởng Sodom nữa. Ông cảm nhận thấy ở trong cái đẹp có khởi nguyên tăm tối của ma quỷ. Chúng ta sẽ thấy ông đã tìm được khởi nguyên tăm tối, ác độc ngay cả ở trong tình yêu đối với người ta. Sự thâm nhập của ông vào tính phân cực của bản chất con người đã đi sâu đến như vậy.
* * *
Liệu cái sự phân đôi và phân cực ấy của bản chất con người, cái
chuyển động bi thảm ấy đi vào chính ngay chiều sâu tinh thần, vào ngay những lớp tận cùng, liệu điều này ở Dostoevsky có gắn với việc ông được hiệu triệu vào cuối thời kì tân lịch sử và vào ngưỡng cửa của một thời đại thế giới mới nào đó, để khai mở ở trong con người cuộc đấu tranh của các khởi nguyên Thần-Nhân và nhân thần, của các khởi nguyên Kitô và phản Chúa mà vào các thời kì trước đó còn chưa biết đến, khi cái ác còn hiện ra trong hình thức sơ đẳng và đơn giản hơn hay không? Tâm hồn con người thời đại hiện nay đã bị xới tung lên và mọi thứ đối với con người đều không vững vàng, đều bị phân đôi, con người sống trong những quyến rũ và mê hoặc, trong mối hiểm nguy vĩnh cửu bị làm kẻ thế mạng. Cái ác hiện ra trong bộ mặt cái thiện và quyến rũ người ta. Hình tượng Đức Kitô và kẻ phản Chúa, Thần-Nhân và nhân-thần bị phân đôi. Điều này đặc biệt được phản ánh lại trong sáng tác của Merezhkovsky, là người không làm sao quyết định được đâu là Đức Kitô, đâu là kẻ phản Chúa. Cuốn sách L. Tolstoy và Dostoevsky của ông về nhiều mặt thật tuyệt vời, thấm đẫm sự phân đôi ấy, sự thế mạng liên tục ấy. Thời đại hiện nay xuất hiện rất nhiều những kẻ với "những ý tưởng bị phân đôi", mà trong những ý tưởng ấy các tiêu chí nội tại để phân biệt đã bị suy yếu đi. Đây là chủng loại con người được Dostoevsky phát hiện. Không thể làm gì được với chủng loại con người này bằng sách giáo lí đạo đức cổ xưa, cần có cách tiếp cận mới phức tạp hơn đối với những linh hồn ấy. Dostoevsky tìm hiểu số phận của những linh hồn con người ấy vốn bị thẩm thấu những dòng điện của bầu không khí tận thế. Sự tìm hiểu ấy khám phá ra ánh sáng to lớn. Dostoevsky xem xét con người vào thời khắc của cơn khủng hoảng tinh thần sâu sắc, của bước ngoặt mang tính tôn giáo. Vào thời khắc ấy của số phận con người có thể phát hiện được những điều rất đáng kể về bản chất con người. Hiện tượng Dostoevsky là một thời khắc hoàn toàn mới trong ý thức nhân
học. Ý thức ấy đã không còn chỉ là mang tính Kitô giáo truyền thống, không phải là ý thức của các giáo phụ-thánh thiện truyền giảng và cũng không phải là mang tính chất nhân văn.
Điều mới mẻ được Dostoevsky hé lộ về con người là gì vậy? Ông không chỉ quay trở lại với chân lí Kitô giáo xưa cũ và vĩnh hằng về con người sau sự li khai nhân văn tách rời khỏi nó và lãng quên nó. Trải nghiệm của thời là chủ nghĩa nhân văn trong lịch sử, cuộc thử thách tự do của con người đã không qua đi vô ích. Đó không phải là mất mát đơn thuần, tổn hại đơn thuần trong số phận con người. Một tâm hồn mới mẻ đã sinh ra đời sau trải nghiệm đó, cùng với những hoài nghi mới, cùng với nhận thức về cái ác mới, nhưng cũng là cùng với những đường chân trời và những cõi xa xăm mới, cùng với nỗi khát khao giao tiếp mới với Thượng Đế. Con người đã bước vào một độ tuổi khác, chín chắn hơn về tinh thần. Và nhân học Kitô giáo, mang tính Kitô giáo thật sâu sắc của Dostoevsky đã khác hẳn với nhân học truyền giảng bởi các giáo phụ-thánh thiện. Học thuyết về con người của các giáo phụ và các vị thầy của giáo hội, học thuyết về con đường nhân bản mà đời sống và sáng tạo của các vị thánh dạy dỗ cho chúng ta, [những thứ ấy] không đáp ứng được tất cả những đòi hỏi của con người ở độ tuổi tinh thần hiện nay của nó, [những thứ ấy] không biết đến tất cả những mối hoài nghi và những mê hoặc của con người. Con người đã không trở nên tốt đẹp hơn, đã không trở nên gần gũi hơn với Thượng Đế, nhưng linh hồn của nó đã trở nên vô cùng phức tạp và ý thức của nó đã trở nên căng thẳng. Linh hồn Kitô giáo xưa kia đã biết đến tội lỗi và đã từng rơi vào quyền lực của quỷ dữ. Thế nhưng linh hồn ấy còn chưa biết đến tình trạng phân đôi bản ngã con người mà linh hồn được Dostoevsky khảo sát đã biết. Cái ác xưa kia là rõ ràng hơn và đơn giản hơn. Những con đường của tình trạng con người tự mình làm thánh thần đầy mê hoặc và thật quyến rũ vẫn còn chưa được mở ra
trước linh hồn ấy theo kiểu cách chúng đã mở ra trước linh hồn của Raskolnikov, Stavrogin, Kirillov, Ivan Karamazov. Và thật khó mà chữa trị được linh hồn đương đại khỏi các chứng bệnh tinh thần của nó chỉ bằng những liều thuốc xưa cũ không thôi. Dostoevsky đã hiểu ra điều này. Ông đã biết không ít hơn những gì Nietzsche đã biết, nhưng ông còn biết được cái mà Nietzsche còn chưa biết. Người đương thời với Dostoevsky là Feofan Zatvornik, một trong những nhà văn khổ hạnh chính thống giáo có uy tín nhất của chúng ta, là người đã không biết được những gì mà Dostoevsky và Nietzsche đã hiểu ra, nên ắt đã không thể nào giải đáp được nỗi giày vò nảy sinh bởi thử nghiệm mới của con người. Họ [Dostoevsky và Nietzsche] đã hiểu được rằng con người tự do là chuyện đáng sợ và rằng tự do ấy đầy bi kịch, là gánh nặng và khổ đau. Họ đã nhìn ra được sự phân đôi của những con đường đi lên cao từ con người cho đến Thần-Nhân và nhân-thần. Tâm hồn con người được trình diễn ra vào thời khắc bị Thượng Đế bỏ lại, và thử nghiệm ấy hóa ra lại là một thử nghiệm tôn giáo độc đáo mà ở đó sau khi chìm vào bóng tối thì một ánh sang mới mẻ lại bừng lên. Chính vì vậy mà Kitô giáo của Dostoevsky rất khác biệt với Kitô giáo của Feofan Zatvomik. Chính vì vậy mà các trưởng lão dòng tu kín Sa mạc Opta15 sau khi đã đọc Anh em nhà Karamazov đã không thừa nhận nó là tôn giáo của mình. Đã mở ra con đường đến với Đức Kitô thông qua tự do vô bờ bến. Sự dối trá đầy mê hoặc của tình trạng con người tự mình làm thánh thần bị vạch trần ra ở chính ngay con đường tự do vô bờ bến. Và đó đã là một lời nói mới mẻ về con người.
Sáng tác của Dostoevsky không chỉ hàm nghĩa cuộc khủng hoảng mà còn hàm nghĩa sự sụp đổ của chủ nghĩa nhân văn, hàm nghĩa sự vạch trần ra từ bên trong. Trong chuyện này tên tuổi của Dostoevsky phải được đặt bên cạnh tên tuổi của Nietzsche. Sau Dostoevsky và Nietzsche thì việc quay trở lại chủ nghĩa nhân văn
duy lí xưa cũ là bất khả dĩ, chủ nghĩa nhân văn đã bị vượt qua. Sự tự khẳng định và tự thỏa mãn mang tính nhân văn của con người tìm được sự kết thúc ở Dostoevsky và Nietzsche. Tiếp tục sẽ là con dường hoặc là đi đến Thần-Nhân hoặc là đi đến siêu nhân, nhân thần. Không thể nào dừng lại được nữa ở riêng tính nhân bản không thôi. Kirillov muốn tự mình trở thành Thượng Đế. Nietzsche muốn vượt qua con người như vượt qua điều hổ thẹn và nhục nhã, và đi đến siêu nhân. Những ranh giới cuối cùng của thói tự tung tự tác và tự khẳng định của chủ nghĩa nhân văn là sự tiêu vong của con người trong siêu nhân. Ở trong siêu nhân con người không còn được bảo toàn nữa, nó bị vượt qua như điều hổ thẹn và nhục nhã, như sự bất lực và ti tiện. Con người chỉ là phương tiện cho hiện tượng siêu nhân. Siêu nhân là người được ngưỡng mộ, là thần tượng mà con người phủ phục xuống trước siêu nhân này, siêu nhân là kẻ nuốt tươi con người và tất cả những gì nhân bản. Đối với kẻ đã từng trải qua sự mê hoặc siêu nhân thì không thể có chủ nghĩa nhân văn đầy mê hoặc nữa. Chủ nghĩa nhân văn là vương quốc của trung dung. Chủ nghĩa nhân văn châu Âu kết thúc về mặt tinh thần ở Nietzsche, vốn là máu thịt của chủ nghĩa nhân văn và cũng là nạn nhân do những tội lỗi của nó. Thế nhưng trước cả Nietzsche, Dostoevsky đã khai mở ra cái kết cục đầy tai họa và không tránh khỏi ấy của chủ nghĩa nhân văn, sự tiêu vong ấy của con người trên con đường con người tự mình làm thánh thần. Có sự khác biệt rất to lớn giữa Dostoevsky và Nietzsche. Dostoevsky đã biết được sự mê hoặc của việc con người muốn tự mình làm thánh thần, ông đã nghiên cứu sâu sắc những con đường tự tung tự tác của con người. Nhưng ông còn biết được điều khác, ông đã nhìn thấy ánh sáng Kitô giáo mà ở trong đó bóng tối của tình trạng con người tự mình làm thánh thần bị vạch trần ra. Ông là người sáng mắt về tinh thần. Còn Nietzsche bị khống chế bởi ý tưởng con người
tự mình làm thánh thần; ý tưởng siêu nhân tiêu hủy mất con người ở ông ta. Ở Dostoevsky con người được bảo toàn đến cùng. Trong nhân-thần con người tiêu vong, và trong Thần-Nhân con người được bảo toàn. Chỉ có Kitô giáo cứu rỗi ý tưởng con người, bảo toàn hình tượng con người cho mãi mãi. Sự tồn tại của con người đặt ra sự tồn tại của Thượng Đế. Giết chết Thượng Đế là giết chết con người. Trên nấm mồ của hai ý tưởng vĩ đại - Thượng Đế và con người (Kitô giáo là tôn giáo Thần-Nhân và nhân loại thánh thiện) sẽ nổi lên hình tượng của quái vật giết chết Thượng Đế và con người, nổi lên hình tượng của nhân-thần, của siêu nhân, của kẻ phản Chúa trong tương lai. Ở Nietzsche không có cả Thượng Đế lẫn con người, mà chỉ có siêu nhân chưa được biết đến. Ở Dostoevsky có cả Thượng Đế và con người. Thượng Đế ở nơi ông không bao giờ nuốt mất con người, con người không biến mất trong Thượng Đế, con người còn lại cho đến cùng và còn lại mãi đời đời kiếp kiếp. Trong chuyện này Dostoevsky là tín đồ Kitô giáo trong ý nghĩa sâu sắc nhất của từ ngữ.
Thật tuyệt diệu là cơn hưng phấn Dionysus ở Dostoevsky không bao giờ dẫn đến việc biến mất đi hình tượng con người, không dẫn đến sự tiêu vong tính cá nhân của con người. Chủ nghĩa Dionysus ở Hi Lạp dẫn đến sự bỏ rơi cho tiêu tan tính cá nhân của con người, dẫn đến việc biến mất đi hình tượng con người trong tự phát vô diện mạo của tự nhiên. Những cơn hưng phấn Dionysus bao giờ cũng nguy hiểm cho hình tượng con người. Thế nhưng không có cơn hưng phấn nào, không có sự mê dại nào dẫn Dostoevsky đến sự phủ nhận con người. Đây là nét rất độc đáo ở Dostoevsky. Nhân học luận của Dostoevsky là hiện tượng có một không hai chưa từng thấy. Hình tượng con người, ranh giới bản ngã cá nhân được gắn với khởi nguyên Apollo, với khởi nguyên hình thức, điều này không phải không có cơ sở. Khởi nguyên Dionysus thường được hiểu như
là sự lấy đi nguyên tắc cá biệt hóa, sự đứt đoạn những ranh giới cá nhân. Ở Dostoevsky thì lại khác. Ông toàn bộ là Dionysus chứ không phải Apollo, ở trong cơn hưng phấn và cơn mê dại. Ngay ở trong tình trạng mê dại hưng phấn ấy hình tượng con người, khuôn mặt người lại được khẳng định với sức mạnh còn lớn hơn nữa. Ở Dostoevsky con người trong sự phân cực rực lửa của mình và trong trạng thái động của mình vẫn cứ là con người cho đến tận cùng chiều sâu, không bị tiêu hủy mất. Trong chuyện này Dostoevsky không chỉ khác biệt với Dionysus Hi Lạp, mà còn khác biệt với nhiều nhà huyền học thời kì Kitô giáo, ở họ chỉ còn lại tính thần thánh mà nhân tính thì biến mất. Dostoevsky muốn đi đến tận cùng chiều sâu của đời sống thánh thiện cùng với con người. Con người thuộc về chiều sâu vĩnh cửu. Và toàn bộ sáng tác của Dostoevsky là sự trình diễn về con người. Toàn bộ thế giới quan tôn giáo của Dostoevsky đối lập lại với tinh thần của giáo phái Duy nhất thể (MОНОФИЗИТСТВО).16 Ông thừa nhận đến cùng không phải một bản chất duy nhất, thánh thần hay con người, mà hai bản chất: cả thánh thần và cả con người. Và trong so sánh với ý thức tôn giáo nhân học của Dostoevsky thì thậm chí ý thức tôn giáo của Chính Thống giáo và Thiên Chúa giáo cũng có vẻ như bị lệch lạc về phía Duy nhất thể bằng việc để cho bản chất con người bị bản chất thánh thần nuốt đi mất. Hình như chẳng có một ai trong lịch sử thế giới có thái độ đối với con người giống như thái độ của Dostoevsky cả. Ngay ở trong con người tồi tệ nhất, ngay ở trong tình trạng sa ngã kinh khủng nhất vẫn còn giữ được hình tượng và sự tương đồng với Thượng Đế. Tình yêu của ông đối với con người là tình yêu đầy nhân văn. Ông kết nối lại trong tình yêu ấy tính vô hạn của lòng thương xót với sự tàn nhẫn nào đó. Ông rao giảng cho con người con đường đau khổ. Điều này gắn với việc ở trung tâm ý thức nhân học của ông chứa đựng ý tưởng tự do. Không có tự do thì không có
con người. Và Dostoevsky dẫn dắt toàn bộ phép biện chứng về con người của mình và về số phận của nó như là phép biện chứng về số phận của tự do. Nhưng con đường của tự do là con đường của đau khổ. Và con đường của đau khổ ấy con người phải đi qua cho đến cùng. Để nhận thức được điều gì đã khai mở ra cho Dostoevsky về con người thì cần phải xem xét nghiên cứu của ông về tự do và về cái ác.
Chương 3
Tự do
Đ
ề tài về con người và số phận của nó đối với Dostoevsky trước hết là đề tài về tự do. Số phận của con người, những cuộc phiêu lãng đầy đau khổ của nó được xác định bởi tự do của nó. Tự do đứng ở ngay trung tâm thế giới quan của Dostoevsky. Niềm hưng phấn thầm kín của ông là niềm hưng phấn tự do. Đáng ngạc nhiên là cho đến nay điều này còn chưa được nhận ra về Dostoevsky. Người ta dẫn ra nhiều chỗ trong "Nhật kí của nhà văn" mà ở đó ông tựa hồ như là kẻ thù của tự do chính trị-xã hội, như là kẻ bảo thủ và thậm chí là kẻ phản động, và những cách tiếp cận hoàn toàn bề ngoài ấy ngăn cản người ta nhìn ra được tự do như là cốt lõi toàn bộ sáng tác của Dostoevsky, như là chìa khóa để hiểu được thế giới quan của ông. Cái mà người ta gọi là "sự tàn nhẫn" của Dostoevsky gắn với thái độ của ông đối với tự do. Ông "tàn nhẫn" vì ông không muốn trút bỏ gánh nặng tự do của con người, vì ông không muốn giải thoát con người khỏi những đau khổ bằng cái giá lấy mất tự do của nó, vì ông đặt vào con người trách nhiệm to lớn tương ứng với phẩm giá của những người tự do. Hẳn là có thể giảm nhẹ đi những giày vò của con người bằng cách lấy đi tự do của nó. Và Dostoevsky đã nghiên cứu đến tận chiều sâu những con đường ấy, những con đường làm nhẹ bớt và thu xếp cho con người mà không có tự do tinh thần của nó. Dostoevsky có những ý tưởng thật sự thiên tài về tự do và cần phải khai mở chúng. Tự do đối với ông là biện nhân luận (aнтроподицея) và biện thần luận (теолодицея), cần phải tìm thấy ở trong tự do cả biện minh cho con người và cả biện minh cho Thượng Đế. Toàn bộ quá trình thế gian là việc đưa ra đề tài về tự do, là bi kịch gắn với việc thực hiện đề tài này. Dostoevsky tìm hiểu
số phận con người được để cho tự do. Ông chỉ quan tâm đến con người đã đi qua con đường tự do, đến số phận của con người ở trong tự do và số phận của tự do ở trong con người. Toàn bộ những tiểu thuyết-bi kịch của ông là sự thử thách tự do của con người. Con người bắt đầu từ chỗ nổi loạn tuyên cáo về tự do của mình, sẵn sàng chịu mọi khổ đau, chịu điên rồ, chỉ miễn làm sao được cảm thấy mình tự do. Và đồng thời con người tìm kiếm tự do cuối cùng, tự do ở giới hạn.
Có hai tự do: thứ nhất là tự do ban đầu và cuối cùng là tự do chung cuộc. Giữa hai tự do ấy là con đường của con người đầy những giày vò và đau khổ, là con đường của sự phân đôi. Ngay từ thời xưa, St. Augustine trong cuộc đấu tranh với học thuyết Pelagius17 đã dạy về hai tự do: tự do cấp thấp và tự do cấp cao.18 Tự do cấp thấp đối với ông là tự do ban đầu, tự do đầu tiên vốn là tự do lựa chọn điều thiện, nó gắn liền với khả năng phạm tội; tự do cấp cao là tự do cuối cùng, tự do chung cuộc - đó là tự do ở trong Thượng Đế, ở trong điều thiện. St. Augustine là người tán dương tự do thứ hai, tự do cấp cao, rồi rốt cuộc ông đã đi đến học thuyết về tiền định. Dù cho trong ý thức giáo hội tính chất Pelagius-một-nửa chiếm ưu thế, nhưng St. Augustine đã ảnh hưởng lên Thiên Chúa giáo, ảnh hưởng không thuận lợi cho tự do. Ông đã phê chuẩn việc truy hại và xử tử những người theo dị giáo. Điều không nghi ngờ gì nữa, ấy là không chỉ có một mà có hai tự do, tự do đầu tiên và cuối cùng, tự do lựa chọn cái thiện và cái ác và tự do ở trong cái thiện, hoặc là tự do phi lí tính và tự do ở trong lí trí. Socrates chỉ biết đến tự do thứ hai, tự do hợp lí tính. Và những lời nói trong kinh Phúc Âm "hãy nhận biết Chân Lí, và Chân Lí sẽ khiến cho anh tự do" chính là nói về tự do thứ hai, tự do ở trong Đức Kitô. Khi chúng ta nói rằng con người cần phải giải phóng bản thân mình thoát khỏi những thứ ti tiện, thoát khỏi sự khống chế của những đam mê, cần phải thôi
không làm nô lệ cho chính bản thân mình và nô lệ cho thế giới xung quanh nữa, thì đó là chúng ta có ý nói tự do thứ hai. Thành tựu cao nhất của tự do tinh thần là tương quan với tự do thứ hai. Tự do của Adam đầu tiên và tự do của Adam thứ hai, tự do trong Đức Kitô - ấy là những tự do khác nhau. Chân Lí khiến cho con người tự do, thế nhưng con người phải tự do tiếp thu Chân Lí, nó không thể bị cưỡng bức, bị ép buộc dẫn đến Chân Lí. Đức Kitô cho con người tự do cuối cùng, nhưng con người phải tiếp nhận Đức Kitô một cách tự do. "Ông ước mong tình yêu tự do của con người khiến cho nó tự do đi theo Ông, được Ông lôi cuốn và hấp dẫn" (lời nói của viên Đại pháp quan). Trong việc tiếp nhận Đức Kitô một cách tự do ấy chứa đựng toàn bộ phẩm giá của tín đồ Kitô giáo, toàn bộ ý nghĩa của hành vi đức tin, vốn chính là hành vi tự do. Phẩm giá của con người, phẩm giá đức tin của nó đặt ra việc thừa nhận hai tự do: tự do thiện và ác và tự do trong điều thiện, tự do trong lựa chọn Chân Lí và tự do trong Chân Lí. Không thể đồng nhất tự do với điều thiện, với chân lí, với sự hoàn thiện. Tự do có bản chất độc đáo của riêng nó, tự do là tự do chứ không phải là điều thiện. Mọi dịch chuyển và đồng nhất hóa tự do với chính điều thiện và sự hoàn thiện đều là phủ định tự do, là sự thừa nhận những con đường cưỡng bức và bạo lực. Điều thiện bị cưỡng bức không còn là điều thiện nữa, nó biến chất thành cái ác. Điều thiện tự do vốn là điều thiện duy nhất đặt ra tự do cho cái ác. Bi kịch của tự do là ở chỗ này, bi kịch ấy Dostoevsky đã khảo sát và đạt đến tận chiều sâu. Bí ẩn của Kitô giáo ẩn giấu trong điều này. Phép biện chứng đầy bi kịch được triển khai ra. Điều thiện không thể bị cưỡng bức, không thể cưỡng bức theo điều thiện. Tự do của điều thiện đặt ra tự do của cái ác. Tự do của cái ác dẫn đến tiêu hủy bản thân tự do, dẫn đến biến chất thành tất yếu ác quỷ. Phủ định tự do của cái ác và khẳng định tự do thuần túy của điều thiện cũng lại dẫn đến phủ định tự do, dẫn đến biến chất thành tất yếu
thiện tính. Thế nhưng tất yếu thiện tính lại không còn là điều thiện nữa, bởi vì điều thiện đặt ra tự do. Vấn đề đầy bi kịch này đã giày vò tư duy Kitô giáo trong suốt toàn bộ lịch sử của nó. Gắn với vấn đề này là những cuộc tranh cãi của St. Augustine với phái Pelagius, học thuyết về mối tương quan giữa tự do và ân huệ, những cuộc tranh cãi gây ra bởi phái Iansenismus19, những lệch lạc của Luther về phía tiền định của St. Augustine, học thuyết đầy u ám của Calvin phủ định tựa hồ như mọi tự do. Tư duy Kitô giáo bị đè nén bởi hai mối hiểm nguy, hai bóng ma - tự do ác quỷ và cưỡng bức điều thiện. Tự do bị tiêu vong hoặc là do cái ác khai mở ra trong nó, hoặc là do cưỡng bức theo điều thiện. Những giàn hỏa thiêu của tòa án chống dị giáo là những bằng chứng kinh khủng cho bi kịch ấy của tự do, cho khó khăn trong việc giải quyết nó ngay cả đối với ý thức Kitô giáo đã được khai sáng bởi ánh sáng của Đức Kitô. Phủ định tự do thứ nhất, tự do trong đức tin, trong việc tiếp thu chân lí ắt sẽ dẫn đến học thuyết về tiền định. Chân lí tự nó đến với mình, không có sự tham dự của tự do. Thế giới Thiên Chúa giáo đã bị mê hoặc bởi tự do, lại nghiêng về phủ định tự do, phủ định tự do đức tin, tự do lương tâm, nghiêng về bạo lực trong chân lí và trong điều thiện. Thế giới Chính Thống giáo không bị mê hoặc như thế bởi điều này, nhưng ngay cả trong thế giới ấy cũng chưa hoàn toàn khai mở chân lí về tự do. Bởi vì không chỉ có tự do trong Chân Lí, mà còn có cả Chân Lí về tự do nữa. Liệu có cần phải tìm kiếm lời giải đáp cho đề tài vĩnh cửu về tự do ở trong sự tình là Đức Kitô không chỉ là Chân Lí vốn đem lại tự do, mà còn là Chân Lí về tự do, Chân Lí mang tính chất tự do nữa, và Đức Kitô chính là tự do, tình yêu tự do. Ở đây những thời khắc mang tính hình thức và vật chất trong việc thấu hiểu tự do được trộn lẫn với nhau. Những ai đã biết được Chân Lí và tự do trong Chân Lí thường có khuynh hướng phủ định tự do thứ nhất như là tự do hình thức. Tự do thứ hai được hiểu như là tự do
mang tính vật chất, tự do hướng vào Chân Lí. Ý thức Kitô giáo tựa hồ như không đồng ý theo quan điểm hình thức và không bảo vệ tự do lương tâm, tự do đức tin, như là quyền mang tính hình thức của con người. Kitô giáo biết Chân Lí làm cho được tự do. Và Chân Lí ấy là duy nhất; nó không chịu được những chân lí khác ở bên cạnh nó, không chịu được sự dối trá. Thế nhưng liệu có ẩn giấu ở đây một lỗi lầm nào đó trong quá trình suy luận tựa hồ như hoàn hảo ấy chăng? Lỗi lầm tàng ẩn ở trong giả định cho rằng tự do lương tâm, tự do đức tin, tự do thiện và ác chỉ có thể thuần túy bảo vệ từ quan điểm hình thức. Tự do trong Kitô giáo không phải là Chân Lí hình thức, mà là Chân Lí vật chất. Bản thân Chân Lí của Đức Kitô là Chân Lí về tự do. Kitô giáo là tôn giáo của tự do. Bản thân nội dung của đức tin Kitô giáo đòi hỏi thừa nhận tự do đức tin, tự do lương tâm, đòi hỏi thừa nhận không chỉ tự do thứ hai mà cả tự do thứ nhất nữa. Kitô giáo là sự vượt qua bi kịch tự do và tất yếu. Ân huệ của Đức Kitô chính là tự do vốn không bị cái ác hủy hoại (tính khác thường của tự do thứ nhất) và không bị hủy hoại bởi sự cưỡng bức điều thiện (tính khác thường của tự do thứ hai). Kitô giáo là tình yêu tự do, và tự do của Thánh Thần cùng tự do của con người hòa giải với nhau ở trong ân huệ của tình yêu tự do. Chân Lí của Đức Kitô chiếu ánh sáng ngược lại vào tự do thứ nhất, khẳng định nó như bộ phận không thể tách rời của bản thân Chân Lí. Tự do tinh thần của con người, tự do lương tâm nhập vào nội dung của Chân Lí Kitô giáo. Tất cả những điều này vẫn chưa được khai mở đến cùng bởi ý thức Kitô giáo xưa cũ, và ý thức của Thiên Chúa giáo thì lại còn ít hơn nữa. Dostoevsky đã làm một bước tiến lớn trong sự nghiệp khai mở Chân Lí ấy.
* * *
Dostoevsky để cho con người đi theo con đường tự do tiếp thu cái Chân Lí vốn sẽ phải làm cho con người được tự do triệt để. Thế
nhưng con đường ấy đi qua bóng tối, đi qua vực thẳm, đi qua sự phân đôi, đi qua bi kịch. Con đường ấy không thẳng thớm và bằng phẳng. Con người lầm lạc, bị mê hoặc bởi những ảo ảnh, bởi ánh sáng lừa dối lôi kéo vào bóng tối nhiều hơn nữa. Con đường ấy thật dài, nó không biết đến tuyến đường thẳng hướng lên cao. Đó là con đường của những thử thách, con đường mang tính thực nghiệm, con đường nhận ra thiện và ác trong thực nghiệm. Nếu được cắt ngắn đi hoặc là giảm nhẹ đi, thì con đường ấy ắt sẽ là sự hạn chế hoặc là sự tước đoạt tự do của con người. Thế nhưng liệu Thượng Đế có cần đến hay không, có quý trọng hay không, những ai đi đến với Người không phải bằng con đường tự do, không phải được chỉ dẫn mang tính thực nghiệm về toàn bộ tính hủy diệt của cái ác? Liệu có phải ý nghĩa của quá trình thế gian và lịch sử chính là ở trong nỗi khát khao ấy của Thượng Đế mong được đón nhận tình yêu đáp trả đầy tự do của con người hay không? Thế nhưng con người thật chậm chạp trong chuyển động của tình yêu đáp trả đối với Thượng Đế. Con người thoạt tiên cần phải nếm trải những thất vọng cay đắng và những thất bại trong tình yêu dành cho những đối tượng không xứng đáng và đang mục ruỗng. Ân huệ mà Thượng Đế gửi xuống cho con người trên đường đi không phải là ân huệ cưỡng bức, nó chỉ là ân huệ mang tính trợ giúp và làm nhẹ bớt đi. Và mỗi khi thế giới Kitô giáo mưu toan biến năng lượng của ân huệ ấy thành công cụ của quyền lực và cưỡng bức, thì nó đều đi chệch vào những con đường phản-Kitô giáo và thậm chí là phản Chúa nữa. Dostoevsky với sự sắc bén chưa từng có đã tiếp thu được chân lí Kitô giáo ấy về tự do của tinh thần con người.
Con đường của tự do là con đường của con-người-mới ở thế giới Kitô giáo. Con người cổ đại hay là con người của phương Đông cổ đại chưa biết đến tự do ấy, nó bị xiềng xích vào tính tất yếu, vào trật tự tự nhiên, bị khuất phục trước định mệnh. Chỉ có Kitô giáo đã cho
con người tự do ấy, tự do đầu tiên và tự do cuối cùng. Trong Kitô giáo đã khai mở không chỉ có tự do của Adam thứ hai, mang tính thứ cấp trong tinh thần của con người mới sinh ra, không chỉ có tự do của cái thiện, mà còn cả tự do của cái ác nữa. Tư duy Hi Lạp chỉ chấp nhận tự do hợp lí tính. Kitô giáo khám phá ra cả khởi nguyên phi lí tính của tự do. Khởi nguyên phi lí tính khai mở trong nội dung cuộc sống, và bí ẩn của tự do tàng ẩn trong đó. Ý thức văn minh Hi Lạp cổ đại kinh sợ nội dung phi lí tính ấy như là có tính chất vô giới hạn – apeiron20, như là vật chất, nó tranh đấu với apeiron bằng khởi nguyên hình thức, bằng việc đưa vào giới hạn - peros. Vì vậy người Hi Lạp thâm nhập vào thế giới bằng hình thức khép kín, bằng giới hạn, không nhìn thấy những cõi xa xăm. Con người của thế giới Kitô giáo không sợ sệt đến thế tính vô hạn, nội dung vô hạn của cuộc sống. Tính vô hạn khai mở, những cõi xa xăm trải rộng ra cho nó. Gắn với điều này là mối quan hệ đối với tự do ở con người của thế giới Kitô giáo mới mẻ khác biệt hẳn với con người cổ đại. Tự do đối lập lại với sự thống trị thuần túy của khởi nguyên hình thức có ranh giới giới hạn. Tự do đặt ra tính vô hạn. Đối với người Hi Lạp thì đó là hỗn độn. Đối với con người của thế giới Kitô giáo thì vô hạn không phải chỉ là hỗn độn mà còn là tự do nữa. Những nỗ lực vô hạn của con người là khả dĩ chỉ ở trong thế giới Kitô giáo. Faust là hiện tượng thời kì Kitô giáo của lịch sử, nó không thể có được ở thế giới cổ đại. Những nỗ lực vô hạn của Faust là mang tính đặc trưng nhất cho châu Âu Kitô giáo. Chỉ ở trong thế giới Kitô giáo mới có thể có Byron. [Các nhân vật] Manfred, Cam, Don Juan chỉ có thể xuất hiện ở châu Âu Kitô giáo. Cái tự do nổi loạn ấy, những nỗ lực đầy bão táp gây lo âu và không biết đến giới hạn ấy, cái nội dung phi lí tính ấy của cuộc sống - đó đều là những hiện tượng trong nội bộ của thế giới Kitô giáo. Cuộc nổi loạn của bản ngã cá nhân con người chống lại trật tự thế gian, chống lại định mệnh - đó là hiện tượng ở
bên trong thế giới Kitô giáo. Bi kịch Hi Lạp, cũng như những đinh cao của triết học Hi Lạp đã chỉ ra tính chất không thể tránh khỏi của sự đột phá ra ngoài những giới hạn của thế giới cổ đại, chúng dẫn đến thế giới Kitô giáo đầy mới mẻ. Thế nhưng ở trong bi kịch Hi Lạp và triết học Hi Lạp vẫn còn chưa khai mở linh hồn Faust, chưa khai mở cái tự do mới mẻ thật đáng sợ ấy.
Tự do nổi loạn trong các nhân vật của Dostoevsky đạt đến những giới hạn cuối cùng của độ căng thẳng. Các nhân vật của Dostoevsky đánh dấu một thời khắc mới trong số phận con người ở bên trong thế giới Kitô giáo, thời khắc muộn màng hơn Faust. Faust vẫn còn đứng ở giữa quãng đường ấy. Raskolnikov, Stavrogin, Kirillov, Ivan Karamazov đã đứng ở cuối đường rồi. Sau Faust thì vẫn hãy còn thế kỉ XIX say sưa bận rộn với việc làm khô cạn các đầm lầy, vốn là nơi Faust cuối cùng đã đi đến. Sau các nhân vật của Dostoevsky, một thế kỉ XX chưa-được-biết-rõ đã mở ra, tình-trạng-không-biết-rõ vĩ đại bộc lộ bản thân mình như cuộc khủng hoảng văn hóa, như sự kết thúc của cả một thời kì của lịch sử thế giới. Sự tìm kiếm tự do của con người bước vào giai đoạn mới. Tự do ở Dostoevsky không phải chỉ là hiện tượng Kitô giáo mà còn là hiện tượng của tinh thần mới. Nó thuộc về một thời kì mới ở ngay trong Kitô giáo. Đây là thời kì quá độ của Kitô giáo chuyển từ thời kì thấu hiểu nó thuần túy mang tính siêu việt sang thời kì thấu hiểu nó mang tính chất nội tại nhiều hơn. Con người thoát ra khỏi hình thức bề ngoài, pháp luật bề ngoài và bằng những con đường đau khổ lấy được cho mình ánh sáng nội tâm. Mọi thứ đều chuyển vào chiều sâu cuối cùng của tinh thần con người. Ở đó phải khai mở một thế giới mới. Ý thức siêu việt khách thể hóa Chân Lí Kitô giáo ném nó ra bên ngoài, ý thức ấy không thể khai mở được đến cùng tự do Kitô giáo. Đức Kitô phải hiện ra với con người trên những con đường tự do của nó như là tự do cuối cùng, tự do ở trong Chân Lí. Người hiện ra ở trong chiều
sâu. Tự do đầu tiên trao cho con người, nó tiêu vong và biến thành cái đối lập lại mình. Chính Dostoevsky chỉ ra số phận bi thảm ấy của tự do ở trong số phận các nhân vật của ông: tự do biến thành tự tung tự tác, biến thành sự tự khẳng định mang tính nổi loạn của con người. Tự do trở nên không có đối tượng, trống rỗng, nó làm trống rỗng con người. Tự do của Stavrogin và Versilov là không có đối tượng và trống rỗng như thế, tự do của Svidrigailov và Fedor Pavlovich Karamazov làm tha hóa nhân cách. Tự do của Raskolnikov và Pyotr Verkhovensky dẫn đến tội ác. Tự do ác quỷ của Kirillov và Ivan Karamazov làm con người tiêu vong. Tự do, như là tự tung tự tác, tự hủy diệt mình, chuyển thành thứ đối lập lại chính nó, làm cho con người tha hóa và tiêu vong. Tự do như thế sẽ dẫn đến tình trạng nô lệ, làm tắt đi hình tượng con người với sự tất yếu nội tại không tránh khỏi từ bên trong. Không phải là sự trừng phạt bên ngoài chờ đón con người, không phải pháp luật từ bên ngoài giáng cánh tay nặng nề xuống con người, mà là từ bên trong, khai mở ra một cách nội tại. Khởi nguyên Thượng Đế đánh vào lương tâm con người, con người bị thiêu rụi bởi ngọn lửa nóng bỏng của Thượng Đế ở trong cái bóng tối và sự trống rỗng mà nó đã tự chọn cho mình, số phận con người, tự do của con người là như thế. Và Dostoevsky với thiên tài gây chấn động khai mở tự do ấy. Con người phải đi theo con đường tự do. Thế nhưng tự do sẽ chuyển sang thành tình trạng nô lệ, tự do sẽ tiêu hủy con người, khi con người trong cơn cuồng loạn tự do của mình không còn muốn biết đến cái gì cao cả hơn là chính bản thân con người. Nếu như không có cái gì cao cả hơn con người thì cũng sẽ không có con người. Nếu như tự do không có nội dung, không có đối tượng, nếu như không có mối gắn kết nào giữa tự do của con người với tự do thánh thiện, thì cũng sẽ không có tự do. Nếu như mọi thứ đều được cho phép đối với con người, thì tự do của con người sẽ chuyển thành nô dịch chính bản
thân mình. Mà tình trạng nô lệ chính bản thân mình sẽ tiêu hủy bản thân con người. Hình tượng con người đứng vững được nhờ ở bản chất cao cả hơn chính bản thân nó. Tự do của con người đạt được sự thể hiện triệt để của mình ở trong tự do cao cả hơn, ở trong tự do nơi Chân Lí. Phép biện chứng không thể lay chuyển được của tự do là như vậy. Nó dẫn đến con đường đi tới Thần-Nhân. Trong trạng thái Thần-Nhân, tự do của con người kết nối với tự do thánh thần, hình tượng của con người kết nối với hình tượng của Thượng Đế. Bằng thử nghiệm nội tâm, bằng sự tiêu tan tự do bên trong, sẽ thu được ánh sáng của Chân Lí ấy. Không thể có sự quay trở lại nền thống trị đơn thuần của pháp luật bên ngoài, quay trở lại đời sống trong tất định và cưỡng bức được. Chỉ còn lại việc phục hồi cái tự do ở trong Chân Lí, tức là ở trong Đức Kitô, vốn trước kia đã bị hủy hoại. Thế nhưng Đức Kitô không phải là pháp luật bên ngoài, không phải là chế độ bề ngoài của cuộc sống. Vương quốc của Người là bất khả ước với cõi trần gian này. Và Dostoevsky phẫn nộ vạch trần tất cả những khuynh hướng lệch lạc biến Kitô giáo thành tôn giáo cưỡng bức và bạo lực. Ánh sáng của Chân Lí, của tự do tốt đẹp cuối cùng không thể nhận được từ bên ngoài. Đức Kitô chính là tự do cuối cùng, không phải là cái tự do nổi loạn tự khép lại trong bản thân mình, vốn là cái tự do hủy diệt con người, hủy hoại hình tượng của nó, mà là cái tự do có nội dung vốn khẳng định hình tượng con người trong vĩnh hằng, số phận của Raskolnikov và Stavrogin, của Kirillov và Ivan Karamazov phải chứng nghiệm về Chân Lí ấy. Cái tự do định hướng sai đã hủy diệt họ. Nhưng điều này không có nghĩa là cần phải kìm giữ họ trong cưỡng bức bởi quyền lực đơn thuần của pháp luật điều chỉnh từ bên ngoài. Sự tiêu vong của họ mang lại ánh sáng cho chúng ta. Bi kịch của họ là bài ca tự do.
* * *
Ở Dostoevsky có ý tưởng cho rằng, nếu không có tự do lỗi lầm và
tội ác, nếu không có sự thử thách tự do, thì sự hài hòa thế gian không thể được chấp nhận. Ông nổi loạn chống lại mọi sự hài hòa cưỡng bức, bất kể đó là sự hài hòa Thiên Chúa giáo, thần quyền hay là xã hội chủ nghĩa. Tự do của con người không thể được tiếp nhận từ trật tự cưỡng bức như tặng phẩm của trật tự ấy. Tự do của con người phải đi trước trật tự ấy và sự hài hòa ấy. Con đường đi đến trật tự và sự hài hòa, đi đến sự kết nối toàn cầu của những con người, phải đi qua tự do. Thái độ không thân thiện của Dostoevsky đối với Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa xã hội, như sau đây sẽ thấy, gắn với cái sự tình không thể nào hòa giải được ấy đối với trật tự và sự hài hòa cưỡng bức. Ông đặt tự do tinh thần của con người đối lập với Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa cuộc nổi loạn của quý ông với bộ mặt nhạo báng và hoài cổ là ở chuyện này. Dostoevsky không tiếp nhận cả cái thiên đường mà ở đó tự do tinh thần vẫn còn là bất khả dĩ, lẫn cái thiên đường mà ở đó nó là bất khả dĩ. Con người phải đi qua sự tách ra khỏi trật tự thế gian mang tính cưỡng bức, phải đi qua tự do tinh thần của mình để thiết lập trật tự thế gian. Đức tin mà Dostoevsky muốn dựa vào để tổ chức trật tự xã hội, phải là đức tin tự do. Đức tin ấy phải yên vị ở trên tự do lương tâm của con người. "Lời Ngợi ca của tôi đâ trải qua lò lửa to lớn của những mối hoài nghi", - Dostoevsky viết về bản thân mình. Và ông hẳn mong muốn để cho mọi đức tin được tôi luyện trong lò lửa to lớn của những mối hoài nghi. Có lẽ Dostoevsky là người bảo vệ cuồng nhiệt nhất cho tự do lương tâm mà thế giới Kitô giáo từng biết đến. "Tự do đức tin của họ là thứ Ông quý báu hơn hết" - Viên Đại pháp quan đã nói với Đức Kitô. Và hẳn ông ta cũng có thể nói điều này với chính Dostoevsky: "Ông khao khát tình yêu tự do của con người". "Thay cho pháp luật cổ đại rắn chắc, - con người phải tự quyết định trước bằng trái tim tự do xem cái gì là thiện, cái gì là ác, ở trước mặt mình chỉ có sự chỉ dẫn là hình tượng của Ông mà thôi".
Trong những lời nói ấy của viên Đại pháp quan cảm nhận thấy lời rao giảng đức tin của chính Dostoevsky. Ông bác bỏ "phép lạ, huyền bí và quyền uy" như là bạo lực đối với lương tâm con người, như là tước đoạt ở con người tự do tinh thần của nó. Ba cám dỗ mà quỷ dữ đã dụ dỗ Đức Kitô ở sa mạc hướng đến chống lại tự do tinh thần của con người, tự do lương tâm của con người. Phép lạ phải là do đức tin, chứ không phải đức tin vì phép lạ. Chỉ khi đó thì đức tin mới tự do. Không một ai cưỡng bức lương tâm con người trong sự hiển hiện của Đức Kitô. Tôn giáo của Núi Sọ21 là tôn giáo của tự do. Con trai của Thượng Đế xuất hiện ở thế gian trong "bộ dạng kẻ nô lệ" và bị đóng đinh trên cây thập giá, bị thế gian hành hạ, hướng về tự do của tinh thần con người. Không có điều gì cưỡng bức trong hình tượng của Đức Kitô, không có điều gì bắt phải tin vào Người như tin vào Thượng Đế. Người không là sức mạnh và quyền lực ở trong thế gian này. Người rao giảng vương quốc không phải của thế gian này. Ở đây ẩn chứa bí ẩn cơ bản của Kitô giáo, bí ẩn của tự do. Cần phải có tự do phi thường của tinh thần, cần phải có chiến công của đức tin tự do, của sự nhìn thấu được một cách tự do "những thứ vô hình", để mà có thể nhìn ra được Thượng Đế của mình đằng sau hình tượng giống kẻ nô lệ của Jesus. Và khi Petrus22 nói với Jesus: "Ông là Đức Kitô, Con Trai của Thượng Đế Đang sống", - ông ta đã thực hiện chiến công của tự do. Từ tận đáy sâu thẳm của lương tâm tự do của con người đã vang lên những lời nói ấy, là những lời nói quyết định con đường đi của lịch sử thế giới. Và mỗi người trong thế giới Kitô giáo phải nhắc lại những lời của Petrus từ đáy sâu của tinh thần tự do của mình, của lương tâm tự do của mình. Toàn bộ phẩm giá của tín đồ Kitô giáo là ở điều này. Phẩm giá ấy của tự do tinh thần không chỉ đặc trưng cho Petrus, mà còn cho mọi tín đồ Kitô giáo nữa. Dostoevsky đã tin rằng ở trong Chính Thống giáo phương Đông, tự do Kitô giáo còn bảo tồn được nhiều hơn là ở Thiên Chúa
giáo phương Tây. Ở đây có sự thổi phồng lên từ phía ông. Ông đã thường xuyên tỏ ra bất công đối với thế giới Thiên Chúa giáo, vốn không thể nào thừa nhận được là hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi tinh thần phản-Kitô giáo. Và ông đã không muốn nhìn ra những khuynh hướng lệch lạc và những đứt gãy trong thế giới Chính Thống giáo. Trong truyền thống Byzance, trong chế độ đế chế thần quyền cũng không có nhiều tự do Kitô giáo hơn là chế độ thần quyền giáo hoàng. Tuy nhiên, một ưu thế nào đó của Chính Thống giáo trước Thiên Chúa giáo ở trong vấn đề tự do thì ông nhận xét chính xác. Ở đây là nhờ vào tình trạng chưa hoàn chỉnh của Chính Thống giáo. Bản thân ông trong tôn giáo tự do tinh thần của mình đã vượt ra khỏi giới hạn của Chính Thống giáo và Thiên Chúa giáo trong lịch sử, ông hướng về tương lai, trong những khải huyền của ông về tự do có điều gì đó mang tính tiên tri. Nhưng dù sao thì ông vẫn là Chính Thống giáo Nga trong máu thịt. Dostoevsky đã khám phá ra rằng khởi nguyên phản Chúa không gì khác hơn là phủ nhận tự do tinh thần, là bạo lực đối với lương tâm con người. Và ông đã tìm hiểu khởi nguyên ấy đến tận chiều sâu. Đức Kitô " đó là tự do, phản Chúa - đó là cưỡng bức, bạo lực, nô dịch tinh thần. Khởi nguyên phản Chúa đã có những bộ mặt khác nhau ở trong lịch sử - từ chế độ thần quyền Thiên Chúa giáo cho đến chủ nghĩa xã hội vô thần và chủ nghĩa vô chính phủ.
Raskolnikov, Stavrogin, Kirillov, Versilov, Ivan Karamazov phải "trải qua lò lửa to lớn của những mối hoài nghi". Từ chiều sâu tinh thần của họ, từ lương tâm tự do của họ phải vang lên những lời nói của Petrus: "Ông là Đức Kitô, Con Trai của Thượng Đế Đang sống". Dostoevsky đã cảm nhận thấy rằng sự cứu rỗi của họ là ở điều này. Họ phải bị tiêu vong, nếu họ không tìm được sức mạnh tinh thần để nhận ra người Con Trai của Thượng Đế ở trong Jesus. Nhưng nếu họ nhận ra được thì tự do của con người ở dưới nhà hầm sẽ chuyển
thành tự do của những người con trai Thượng Đế. Dostoevsky khởi đầu con đường tìm hiểu tự do từ tự do của "con người dưới nhà hầm". Tự do ấy là vô giới hạn. Con người dưới nhà hầm muốn đi qua những ranh giới của bản chất con người, anh ta tìm hiểu và thử thách những ranh giới ấy. Nếu con người quả là tự do đến như vậy, thì liệu có được cho phép làm mọi chuyện hay không, liệu nhân danh những mục đích cao cả thì bất cứ tội ác gì cũng được cho phép hay không, kể cả việc giết cha nữa, liệu lí tưởng Madonna và lí tưởng Sodom có giá trị ngang bằng nhau hay không, liệu con người có phải cố tự mình trở thành Thượng Đế hay không? Liệu con người có trách nhiệm phải tuyên cáo sự tự tung tự tác của mình hay không? Dostoevsky đã cảm nhận được rằng ở trong tự do của con người dưới nhà hầm có chứa đựng mầm mống của cái chết. Tự do của Raskolnikov đi quá những ranh giới của bản chất con người, sẽ sinh ra ý thức về sự ti tiện, sự bất lực và tình trạng không tự do của mình. Tự do của Stavrogin chuyển thành sự yếu đuối hoàn toàn, thành tình trạng bất cần đời, đưa bản diện cá nhân của mình vào tình trạng suy kiệt và lụi tàn. Tự do của Kirillov muốn trở thành Thượng Đế, kết thúc bằng cái chết thật đáng sợ, chẳng có kết quả gì. Có lẽ trường hợp của Kirillov là quan trọng nhất. Kirillov ý thức sự tự tung tự tác của mình như là nghĩa vụ, như là trách nhiệm thiêng liêng. Anh ta phải tuyên cáo sự tự tung tự tác của mình để cho con người đạt được trạng thái cao nhất của mình. Và anh ta, một con người trong sạch, chối bỏ những đam mê và ham muốn, trong anh ta có những nét của ân huệ thánh thiện. Thế nhưng ngay cả con người trong sạch nhất, bác bỏ Thượng Đế và khao khát tự mình trở thành Thượng Đế, thì cũng không sao tránh khỏi tiêu vong. Anh ta đã mất đi tự do của mình. Anh ta cuồng si, anh ta bị khống chế bởi những ma quỷ mà chính anh ta cũng không rõ bản chất của chúng. Và Kirillov hiển lộ với chúng ta hình tượng tình trạng bị quỷ
ám và cuồng si một cách thầm lặng, tập trung vào trong bản thân mình. Trong tự do tinh thần của anh ta đã xảy ra những quá trình bệnh hoạn của sự biến chất. Anh ta là con người ít được tự do tinh thần nhất. Trên những con đường nhân-thần, tự do bị tiêu vong và con người cũng tiêu vong. Đây là chủ đề chính của Dostoevsky. Tự do cũng tiêu vong như thế ở những nhân vật bị phân đôi của Dostoevsky, ở tất cả những kẻ lầm lạc vào những con đường tự tung tự tác. Ở Svidrigailov hay ở Fedor Pavlovich Karamazov chúng ta gặp được sự phá hủy bản ngã cá nhân mà không còn gì để nói về tự do nữa. Tự do ham muốn lạc thú vô bờ bến, không kiềm chế, biến con người thành nô lệ cho ham muốn lạc thú, tước đi tự do tinh thần. Dostoevsky là bậc thầy lớn trong diễn tả sự biến chất và suy đồi của cá nhân dưới ảnh hưởng của tình trạng cuồng si bởi đam mê ác quỷ hay ý tưởng ác quỷ. Ông tìm hiểu những hệ quả bản thể luận của tình trạng cuồng si ấy. Khi tự do không kiềm chế chuyển thành tình trạng cuồng si thì nó tiêu vong, nó không còn nữa. Khi con người bắt đầu cơn quỷ ám, nó không còn được tự do nữa. Liệu Versilov - một trong những hình tượng cao thượng nhất của Dostoevsky, có được tự do hay không? Lòng say mê Ekaterina Nikolayevna của ông ta là tình trạng cuồng si. Lòng say mê ấy bị dồn vào bên trong. Nó làm suy kiệt ông ta. Trong quan hệ của mình đối với các ý tưởng, ông ta không biết đến sự lựa chọn tự do của ý chí. Những ý tưởng đối lập nhau hấp dẫn ông ta. Ông ta tựa như muốn giữ cho mình tự do nên vì thế mà đánh mất nó. Ông ta bị phân đôi. Con người bị phân đôi không thể tự do được. Thế nhưng bất cứ ai cũng không tránh khỏi bi phân đôi, nếu người đó không thực hiện hành vi tự do lựa chọn đối tượng cho tình yêu. Việc triển khai đề tài tự do đạt đến đỉnh cao ở trong Anh em nhà Karamazov. Thói tự tung tự tác và cuộc nổi loạn của Ivan Karamazov là đỉnh cao của những kiểu cách tự do không ân huệ của con người. Ở đây với thiên tài phi
thường của mình Dostoevsky phát hiện ra rằng, tự do như là sự tự tung tự tác và tự khẳng định mình của con người, ắt phải đi đến phủ định không những Thượng Đế, không những thế gian và con người, mà còn phủ định ngay cả chính tự do nữa. Tự do tiêu hủy bản thân mình. Phép biện chứng ý tưởng hoàn tất bằng điều này. Dostoevsky phát hiện ra rằng, sự tiêu hủy triệt để tự do, sự cưỡng bức ác quỷ và tính tất yếu ác quỷ đang rình rập ở cuối con đường tăm tối không được chiếu sáng của tự do. Học thuyết của viên Đại pháp quan cũng như học thuyết của Shigalev nảy sinh bởi thói tự tung tự tác, bởi sự kháng lại Thượng Đế. Tự do chuyển thành tự tung tự tác, tự tung tự tác chuyển thành cưỡng bức. Đây là quá trình định mệnh. Tự do của tinh thần con người, tự do của lương tâm tôn giáo bị phủ nhận bởi những kẻ đã đi theo những con đường tự tung tự tác.
* * *
Những kẻ đã đi theo những con đường tự tung tự tác và tự khẳng định mình, những kẻ hướng tự do của mình nhằm chống lại Thượng Đế, những kẻ đó không thể giữ được tự do, họ sẽ không tránh khỏi đi đến chà đạp lên tự do. Họ tất yếu sẽ phải chối bỏ tính bẩm sinh của tinh thần con người, chối bỏ tự do bẩm sinh của con người, họ sẽ phản bội tự do, giao nộp nó cho vương quốc của tất yếu, họ sẽ đi đến những cưỡng bức bạo lực vĩ đại nhất. Đây là một trong những thức ngộ thiên tài nhất của Dostoevsky. Shigalev nói: "Đi ra khỏi tự do vô giới hạn, tôi kết thúc bằng chuyên chế vô giới hạn". Con đường của tự do cách mạng bao giờ cũng là như vậy. Sự chuyển hóa từ "tự do vô giới hạn" sang "chuyên chế vô giới hạn" đã được hoàn tất trong cuộc Đại cách mạng Pháp. Tự do như là thói tùy tiện, tự tung tự tác, tự do vô thần thánh không thể không sản sinh ra "chuyên chế vô giới hạn". Tự do như thế chứa đựng trong bản thân nó bạo lực vĩ đại nhất. Tự do như thế không chứa đựng trong nó đảm bảo cho tự do. Sự nổi loạn tự tung tự tác dẫn đến phủ định Ý
Nghĩa cuộc đời, phủ định Chân Lí. Ý Nghĩa sinh động và Chân Lí sinh động bị đánh tráo bằng sự thu xếp tự tung tự tác cho cuộc sống, bằng việc tạo ra sự no ấm cho con người ở trong tổ kiến xã hội. Quá trình biến chất ấy của tự do thành "chuyên chế vô giới hạn" chiếm một vị trí quan trọng trong thế giới quan của Dostoevsky. Ông vạch trần ra khả năng "chuyên chế vô giới hạn" ở trong ý thức hệ cách mạng của giới trí thức cánh tả Nga, theo vẻ bề ngoài thật yêu tự do đến thế. Ông là người đầu tiên đã nhìn ra được nhiều thứ, nhìn ra được xa hơn những kẻ khác. Ông đã biết trước rằng cuộc cách mạng mà ông đã cảm nhận thấy ở trong lớp nền ngầm dưới mặt đất của nước Nga, sẽ không dẫn đến tự do, rằng đã khởi đầu một chuyển động đi đến nô dịch triệt để tinh thần con người. Ngay ở trong những ý tưởng tuyệt vời của nhân vật Ghi chép dưới nhà hầm đã phác họa ra những gì sẽ được khai mở triệt để ở trong P. Verkhovensky, Shigalev, viên Đại pháp quan. Ý tưởng về chuyện nhân loại phản bội lại Chân Lí của Đức Kitô ở trong cuộc nổi loạn và trong tình trạng tự tung tự tác của mình, sẽ phải đi đến một hệ thống "chuyên chế vô hạn" của Shigalev, P. Verkhovensky, viên Đại pháp quan, [ý tưởng ấy] đè nặng lên và theo đuổi Dostoevsky như một cơn ác mộng. Đó là cùng một hệ thống như nhau. Ở trong hệ thống đó hoàn tất việc chối bỏ tự do tinh thần của con người nhân danh hạnh phúc của con người. Chủ nghĩa khoái lạc xã hội đối lập với tự do. Chẳng có gì còn lại nữa, ngoài việc tổ chức cưỡng bức cho hạnh phúc xã hội, nếu như không có Chân Lí. Cách mạng hoàn thành không phải nhân danh tự do, mà là nhân danh những khởi nguyên vốn được nhân danh chúng mà đã cháy lên những giàn hỏa thiêu của tòa án chống dị giáo, nhân danh "hàng ngàn triệu trẻ em sơ sinh". Con người không thể kham được gánh nặng tự do tinh thần, nó kinh hãi con đường đau khổ của tự do. Và nó chối bỏ tự do, phản bội lại tự do, bỏ chạy khỏi tự do để đến với việc thu xếp cưỡng
bức cho hạnh phúc con người. Sự phủ định tự do ấy khởi sự từ việc khẳng định nó vô giới hạn như tự tung tự tác. Phép biện chứng không tránh khỏi của tự do là như vậy. Thế nhưng nếu như tự do trá ngụy chuyển thành "chuyên chế vô giới hạn", thành hủy diệt hoàn toàn tự do, thì sự bình đẳng trá ngụy sẽ phải dẫn đến tình trạng bất bình đẳng chưa từng thấy, dẫn đến sự thống trị độc đoán của một thiểu số đặc quyền đối với số đông. Dostoevsky đã luôn luôn cho rằng nền dân chủ cách mạng và chủ nghĩa xã hội cách mạng cuồng si bởi ý tưởng tuyệt đối bình đẳng, thì ở trong giới hạn cuối cùng của chúng sẽ phải dẫn đến nền thống trị của một nhúm người đối với phần còn lại của loài người. Hệ thống của Shigalev là như thế và hệ thống của viên Đại pháp quan cũng là như vậy. Dostoevsky đã nhiều lần trở lại với ý tưởng ấy trong "Nhật kí của nhà văn". Ý tưởng ấy nung nấu, không để cho ông được yên. Tự do chân chính và bình đẳng chân chính chỉ khả dĩ ở trong Đức Kitô, ở trong con đường Thần-Nhân. Ở con đường tự tung tự tác phản Chúa, ở con đường nhân-thần thì chế độ độc đoán chưa từng thấy sẽ chờ đón. Tình trạng cuồng si bởi ý tưởng hạnh phúc chung toàn thể, ý tưởng kết nối chung toàn thể của những con người mà không có Thượng Đế, [tình trạng cuồng si ấy] chứa đựng trong nó mối nguy hiểm đáng sợ cho sự tiêu vong của con người, cho sự hủy diệt tự do tinh thần của nó. Những hậu quả trong đời sống của tự do như tự tung tự tác và nổi loạn là như thế. Thế nhưng tự tung tự tác và nổi loạn chống lại ý nghĩa trần gian sẽ đóng lại chính sự thâm nhập vào ý tưởng tự do đối với ý thức con người. Tự do tinh thần bắt đầu bị phủ định về mặt ý thức hệ như là thứ không thể tiếp thu được đối với đầu óc đã bị tách rời khỏi Ý Nghĩa vĩnh hằng. "Đầu óc kiểu Euclid" - từ ngữ ưa thích của Dostoevsky - bất lực trong việc thấu đạt tư tưởng tự do, nó không có khả năng tiếp thu ý tưởng ấy, xem ý tưởng ấy như là bí ẩn phi lí tính. Cuộc nổi loạn của "đầu óc kiểu Euclid" chống lại Thượng
Đế gắn với sự phủ định tự do, gắn với sự không hiểu được tự do. Nếu như không có tự do như là bí ẩn cuối cùng của sáng thế, thì thế gian này với những nỗi giày vò và những đau khổ của nó, với nước mắt của những người vô tội bị đọa đầy là không thể chấp nhận được. Và không thể chấp nhận được vị Thượng Đế đã tạo ra cái thế gian dị dạng và thật kinh khủng như thế này. Con người trong cơn tự tung tự tác và nổi loạn của mình, trong cuộc nổi dậy của "đầu óc kiểu Euclid" của mình, ảo tưởng rằng nó ắt có thể sáng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn mà ở đó hẳn sẽ không có cái ác như thế nửa, không có những đau khổ như thế nữa, sẽ không có một giọt nước mắt nào của đứa bé vô tội nữa. Logic đấu tranh chống Thượng Đế nhân danh tình yêu và điều thiện là như vậy. Không thể chấp nhận được Thượng Đế bởi vì thế gian thật quá tồi tệ như thế này, bởi vì cái trá ngụy và bất công cứ ngự trị trên thế gian như thế này. Tự do đã dẫn đến cuộc đấu tranh chống lại Thượng Đế, chống lại thế gian ấy. Ở đây lại khai mở phép biện chứng đầy định mệnh của tự do, khai mở bi kịch bên trong của tự do. Hóa ra là tự do nổi loạn đã dẫn đến sự phủ định bản thân ý tưởng tự do, dẫn đến tình trạng không thể nào thấu đạt được bí ẩn của thế gian, bí ẩn của Thượng Đế trong ánh sáng của tự do. Bởi vì thực sự là chỉ có thể chấp nhận được Thượng Đế và chấp nhận được thế gian, giữ được đức tin vào Ý Nghĩa của thế gian, nếu như trong cơ sở của tồn tại có bí ẩn của tự do phi lí tính. Chỉ khi đó thì mới có thể thấu đạt được nguồn gốc của cái ác trên thế gian và Thượng Đế mới được biện minh trong sự tồn tại của cái ác ấy. Trên thế gian này có nhiều cái ác và nỗi khổ đau, bởi vì trong cơ sở của thế gian có tự do. Và toàn bộ phẩm giá của thế gian và phẩm giá của con người cũng là ở trong tự do. Tránh được cái ác và nỗi khổ đau chỉ có thể bằng cái giá phủ định tự do. Khi đó thì thế gian hẳn có thể là thiện và hạnh phúc một cách cưỡng bức. Nhưng thế gian như vậy sẽ mất đi sự đồng dạng với
"""