"Thế Giới Mới Tươi Đẹp PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế Giới Mới Tươi Đẹp PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo “THẾ GIỚI MỚI TƯƠI ĐẸP” BRAVE NEW WORLD Copyright ©1932, 1946 by Aldous Huxley. All rights reserved. Published by arrangement with Georges Borchardt, Inc. Bản tiếng Việt © 2017, Công ty TNHH MTV Sách Phương Nam Mọi sao chép, trích dẫn phải có sự đồng ý bằng văn bản của Công ty TNHH MTV Sách Phương Nam. Lời giới thiệu Về tác giả Nhà văn Anh Aldous Leonard Huxley, tác giả Thế giới mới tươi đẹp là nhà tiểu thuyết, nhà triết học sinh ngày 26/7/1894 trong một gia đình của dòng họ Huxley có nhiều người nổi tiếng. Ông viết tiểu thuyết, truyện ngắn, sách du ký, kịch bản phim, nhiều tác phẩm phi hư cấu, (trong đó đáng chú ý là Những cánh cửa của nhận thức hồi tưởng lại những trải nghiệm dùng ma túy), và những tiểu luận về nhiều chủ đề khác nhau. Là một triết gia nhân văn chủ nghĩa, hòa bình chủ nghĩa và nhà văn châm biếm, ông được coi là một trong những trí thức kiệt xuất nhất của thời đại. Từ năm 1937, Huxley chuyển sang sống ở Mỹ đến khi mất. Giai đoạn sau ông quan tâm đến lĩnh vực tâm linh như cận tâm lý (parapsychology), thuyết thần bí triết học (philosophical mysticism), thuyết phổ biến (universalism). Năm 1962, một năm trước khi mất, ông được Hội Văn học Hoàng gia Anh (RSL) trao tặng danh hiệu cao quý Companion of Literature. Ông cũng được đề cử giải Nobel trong nhiều năm. Huxley mất ngày 22/11/1963, cùng ngày nhà văn C.S. Lewis mất và tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị ám sát. Về tác phẩm Trong vở kịch Bão tố (The Tempest) của Shakespeare, Miranda là một thiếu nữ sống trên hoang đảo, nơi không có ai khác ngoài cha cô và những đầy tớ của ông, với một hồn ma (Ariel). Lần đầu tiên trông thấy những người khác, cô thốt lên: “Ôi, tuyệt diệu! Bao nhiêu con người tốt đẹp nơi đây. Loài người mới đẹp đẽ làm sao. Ôi thế giới mới tươi đẹp! Với những con người như thế này trong đó.” Trớ trêu thay, những con người ấy lại là những đại biểu tồi tệ nhất của loài người, những kẻ độc ác và phản phúc. Khi lần đầu tiên trông thấy thế giới mới, John-người Hoang dã – nhân vật chính trong tiểu thuyết của Aldous Huxley và tín đồ nhiệt thành của Shakespeare – đã kêu lên đầy hứng khởi, như Miranda: “Ôi thế giới mới tươi đẹp!” Và, tác giả cuốn tiểu thuyết mang cái tên này dẫn ta vào xem thế giới mới tươi đẹp ấy. Cuốn tiểu thuyết ý tưởng này, thuộc loại viễn tưởng, đúng hơn là phản không tưởng hay không tưởng-đen, cực kỳ nổi tiếng từ khi nó ra đời. Không một trí thức nào ở phương Tây không biết đến nó. Một hình dung ghê rợn về tương lai của loài người. Là không tưởng, tức là chỉ có trong tưởng tượng, nhưng nó gợi cho ta suy nghĩ về những xu thế có thể có của sự phát triển công nghệ, của nền văn minh, và những hệ lụy đối với nhân tính của loài người. Thế giới mới tươi đẹp mô tả London vào năm A.F.632 (năm 632 Kỷ nguyên Ford) tức năm 2540 Công lịch, đó là thế giới của một nhân loại mới, một loài người được làm lại hoàn toàn bằng công nghệ. Phôi thai người được thụ tinh trong ống nghiệm, được chăm sóc theo quy trình đặc biệt, và ra lò theo số lượng kế hoạch hóa. Sản phẩm-người của quá trình sản xuất hàng loạt theo dây chuyền ấy được chia thành năm loại, năm đẳng cấp cách biệt, gọi tên theo các chữ cái Hy Lạp: Alpha, Beta, Gamma, Delta, và Epsilon, trong đó Alpha là đẳng cấp cao nhất và Epsilon là thấp nhất. Alpha, Beta được chế tác và tinh chọn để có những phẩm chất thể chất và trí năng hoàn hảo, lớn lên thành những con người khỏe mạnh thông minh, cân đối, đẹp đẽ; còn Gamma, Delta, và Epsilon, những đẳng cấp thấp, được sản xuất từng mẻ lớn theo quy trình Bokanovsky, từ một trứng có thể ra đến 96 con, hoàn toàn đồng nhất về mọi mặt, “giống nhau một cách kinh hoàng” và trong quá trình phôi thai còn bị xử lí hóa học cho còi cọc, đần độn, vì chúng “không cần khả năng suy nghĩ”. Dễ hiểu là Alpha, Beta được giao những chức năng lãnh đạo và điều hành xã hội, còn Gamma, Delta, và Epsilon lao động để làm ra sản phẩm cho xã hội tiêu dùng. Khi ra đời, những đứa trẻ được đào luyện một cách đặc biệt bằng phản xạ có điều kiện, chẳng hạn những đứa bé Delta được lập phản xạ để “sợ sách và hoa”. Mọi đứa bé đều được lập phản xạ để suốt đời hài lòng với số phận dành cho mình. Việc giáo dục trẻ dựa trên phương pháp “học trong khi ngủ”: Trong lúc ngủ chúng được nghe từ loa phóng thanh những câu nói soạn sẵn, có vần điệu như những châm ngôn, lặp lại hàng trăm hàng nghìn lần để in vào tiềm thức của chúng, tạo thành những ám thị, và trong suốt cuộc đời những châm ngôn này sẽ tự động bật ra trong những tình huống thích hợp. Mỗi đẳng cấp mặc đồng phục cùng màu để phân biệt với những đẳng cấp khác. Những đẳng cấp cao được ám thị để hãnh diện về đẳng cấp của mình và khinh bỉ đẳng cấp dưới. Những đẳng cấp thấp tất nhiên được ám thị để chỉ biết phục tùng. Nhưng tại sao không tạo ra một xã hội toàn Alpha Cộng, khi về mặt công nghệ, điều ấy hoàn toàn có thể? Bởi vì, như một thí nghiệm trong Thế giới mới tươi đẹp đã cho thấy: Một xã hội toàn Alpha Cộng thì không thể vận hành được, do không ai chịu làm những công việc hạ cấp, và nội chiến đã nổ ra. Như thế những đẳng cấp thấp là hoàn toàn cần thiết, và theo Mustapha Mond, tỉ lệ tối ưu được tính theo mô hình “tảng băng trôi”: 1/9 trên mớn nước, 8/9 bên dưới, bảo đảm xã hội ổn định. Vậy 8/9 đó sẽ hạnh phúc được ở bên dưới sao? Cố nhiên! Với những con người như vậy, một xã hội mới đã hình thành: Thế giới mới tươi đẹp. Và thế giới ấy quả là tươi đẹp. Đó là một Nhà nước Toàn cầu, được điều hành bởi mười vị Đại Kiểm soát tối cao. Khẩu hiệu của nó là “Cộng đồng, Đồng nhất, Ổn định”. Các công nghệ sinh sản và nuôi dạy con người đảm bảo tính Đồng nhất và Ổn định này; nhờ sự phát triển tột bực của công nghệ, sản xuất dư thừa đảm bảo thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất; tiêu dùng và hưởng thụ được khuyến khích; tất cả mọi người đều hài lòng với thân phận mình, ganh tị – căn bệnh mãn tính của nhân loại (cũ), nguồn gốc của mọi bất bình và rối loạn – không còn đất sống. Mục tiêu của xã hội là hạnh phúc cho tất cả mọi người, và khi mà mọi người đều cảm thấy hạnh phúc và thỏa mãn thì còn mong muốn gì hơn nữa ngoài việc mong cho cuộc sống cứ như thế ổn định đến muôn đời? Vì tên sách hứa hẹn trình ra cho chúng ta một thế giới mới, chúng ta hãy chú tâm đến những cái mới ở đây, mới một cách cực đoan và triệt để, tạo nên ý nghĩa chủ đạo của tác phẩm. Trước hết, con người được sinh ra hoàn toàn theo lối mới. Không còn tàn dư gì của những mối quan hệ gia đình và huyết thống, chúng đã lùi sâu vào quá khứ, vì theo lời Mustapha Mond, vị Đại Kiểm soát Thế giới, “Lịch sử, nói chung, là chuyện nhảm nhí, tầm phào, ba láp”. Khi nói chuyện với sinh viên, ông mô tả cuộc sống gia đình, chồng vợ, việc sinh đẻ và nuôi con (của “thời xưa”) bằng những cảnh nhớp nhúa, kinh tởm mà những thanh niên thời ấy không thể hình dung nổi. Thời mới bây giờ những từ như “cha”, “mẹ” bị tránh nói như húy kị, thậm chí một nhân viên viết báo cáo lên thượng cấp phải ghi “m...” thay cho từ “mẹ”. Chung thủy bị coi là lố bịch, trinh tiết là tởm lợm. Sao vậy? Vì xã hội có phong tục và chuẩn mực đạo đức mới về tình dục. Thanh niên trai gái được thay đổi bạn tình luôn luôn, việc duy trì một mối quan hệ thân mật trong thời gian dài là điều cấm kị. “Mỗi người thuộc về mọi người khác”, tất cả đều thuộc về cộng đồng, không có gì là thầm lén, riêng tư. Ở đây tình dục không có chức năng sinh sản, mà chỉ có mục đích duy nhất là khoái lạc, bản năng tình dục được buông thả không giới hạn, nhưng những biện pháp tránh thai được áp dụng nghiêm ngặt. Ngoài thời gian lao động không mấy nặng nhọc, mọi người thoải mái vui chơi, xã hội lo cung cấp cho họ những phương tiện tiêu khiển, cá nhân không được dùng thời gian một mình, vì không phải lo thiếu nhu cầu vật chất và không có những mối quan hệ riêng tư, nên không cần (và không được phép có) những phút suy tư trầm lắng. Và đấy là điều mà người ta gọi là hạnh phúc: Một hạnh phúc cho tất cả, ngang nhau! Và để cho hạnh phúc luôn luôn đầy đủ, còn có thêm một thứ: soma, đó là những viên thuốc gây ảo giác được phát cho mọi người theo khẩu phần; mỗi khi người ta thấy buồn phiền, bất an, thiếu hạnh phúc, một viên soma sẽ đưa họ vào trạng thái lơ mơ phiêu bồng, không cảm giác, không ý thức, và họ lại thấy hạnh phúc. Bernard Marx là một Alpha Cộng, nhưng là một Alpha khiếm khuyết: Theo lời đồn, khi anh còn là bào thai, một nhân viên thao tác tưởng nhầm anh ta là một Gamma nên đã đổ rượu vào chất Giả-máu của anh, lớn lên mặc dù thông minh nhưng anh bị còi cọc không có tầm vóc bình thường của một Alpha, và suốt đời anh mang mặc cảm tự ti, rụt rè khốn khổ, bị khinh thường, chế giễu, và nhìn mọi người bằng con mắt hằn học. Lenina Crowne – một cô gái Beta “phổng phao” và nồng nhiệt – thích Bernard, sau khi bị cô bạn Fanny phê phán vì đã quan hệ với một chàng trai hoàn hảo khác (Henry Foster) đến bốn tháng trời mà chưa thay đổi. Lenina là mẫu người lí tưởng của thế giới mới, hoàn toàn đáp ứng mọi đòi hỏi của thế giới này, nhưng Bernard lại là người duy nhất có những băn khoăn, bất mãn, những câu nói báng bổ và những ý nghĩ “phi chính thống”. Trong khi Lenina vồ vập thì Bernard đến với cô một cách khó khăn, anh mong muốn có những phút tâm tình kín đáo “chỉ có hai người với nhau”, nhưng cô lại chỉ muốn cùng nhau vui chơi tập thể, vì “với nhau” thì đã có cả đêm trên giường rồi! Trong khi nàng hành xử đúng theo phong hóa của thế giới mới, coi tình dục chỉ là thú vui chơi tiêu khiển, thì chàng lại ôm ấp những cảm xúc yêu đương lãng mạn cổ hủ. Nhưng mọi chuyện rồi cũng qua, vì Bernard dù bất tuân nhưng cũng là con người của thế giới mới, có thể chấp nhận được những tiêu chuẩn đạo đức của nó. Chỉ đến khi gặp John-người Hoang dã, người tình mà Lenina chọn cho mình để thay thế Bernard, bi kịch mới xảy ra. Bernard đưa Lenina đến chơi Khu Bảo tồn Hoang dã ở New Mexico, tại đó họ gặp mẹ con Linda và John. 25 năm trước, trong một chuyến đi thăm Khu Bảo tồn Hoang dã với người đàn ông của bà ta, Linda – một cô gái Beta Cộng lúc đó – gặp tai nạn và bị bỏ lại. Linda khi đó đã có mang, rồi sinh ra John, (đây đúng thật là một tai nạn vì nếu ở thế giới mới, với những biện pháp tránh thai hữu hiệu và cả trung tâm nạo phá thai, người ta không để chuyện đó xảy ra). Thời gian dài sống ở Khu Hoang dã đã biến Linda thành hoang dã thật sự, với nỗi luyến nhớ thế giới văn minh (“Nơi Khác”, như bà ta kể với con) và thói quen “quan hệ” bừa bãi với đàn ông ở đây mà bà ta không bỏ được khiến bà ta luôn gặp rắc rối với các bà vợ thổ dân. John lớn lên đau khổ và cô độc vì mẹ cậu bị căm ghét và khinh bỉ, nhưng bù lại, cậu được mẹ dạy đọc và tình cờ được làm quen với những tác phẩm của William Shakespeare. Và thật là nghịch lí: Một chàng trai được nuôi dạy hoàn toàn trong môi trường hoang dã lại là người duy nhất thấm nhuần tinh hoa của nền văn hóa Victoria. John rất đẹp trai, đã lập tức mê hoặc được Lenina, và với nàng, lần đầu tiên cậu cảm thấy rung động si mê như Romeo lần đầu gặp Juliet. Qua câu chuyện kể của John, Bernard phát hiện ra người đàn ông đã đưa Linda đến Khu Hoang dã và bỏ bà ta lại đấy, tức là cha đẻ của John, chính là Giám đốc Trung tâm Xử lí và Điều kiện hóa Phôi thai, một sếp lớn vô cùng quan trọng, hiện thân của trật tự thế giới mới, đang muốn nghiêm trị những ý nghĩ phi chính thống và nổi loạn của Bernard. Bernard xin và được Mustapha Mond cho phép đưa Linda và John về “thế giới văn minh”, và khi viên Giám đốc đang gay gắt buộc tội Bernard và tuyên bố sa thải anh ta trước đám đông nhân viên, thì Bernard đưa Linda và John ra. Những tràng cười bung ra dữ dội khi John quỳ xuống trước Giám đốc và kêu “cha ơi”. Quá nhục nhã, lão Giám đốc lủi mất, ngay lập tức từ chức và không bao giờ xuất hiện ở trung tâm nữa. Ở London – xứ sở văn minh, “thế giới mới tươi đẹp” – John trở thành người quan trọng và nổi tiếng dưới tên “người Hoang dã”, anh được mọi người săn đón nhưng anh trốn tránh tất cả. Người Hoang dã lạc lõng trơ trọi giữa chốn văn minh, vì hầu như anh là người duy nhất mang trong mình văn hóa của thời đại Phục Hưng ở châu Âu, hoàn toàn xa lạ với những con người thời đại Hậu Ford. Mới gặp John, Lenina lần đầu cảm thấy trong cô có cái gì như thể tình yêu, nhưng nó nhanh chóng chuyển thành ham muốn nhục dục đơn thuần, vì cô luôn tuân thủ ước lệ, lễ giáo của xã hội đương thời. Người Hoang dã cũng yêu cô, một cách trang trọng thầm kín, anh luôn thấy mình là Romeo và Lenina là Juliet để anh tôn thờ, anh chàng luôn sợ không xứng đáng với “sự trong trắng cao quý” của nàng. Dịp may đến, cô được giao đưa anh đi xem một tối phim tình fili, thật ra là một loại phim kích dục, kết hợp âm nhạc tổng hợp và các mùi hương kích động tất cả các giác quan của người xem (nhìn – nghe – sờ – ngửi), nhưng trong khi cô mê say với phim thì anh phẫn nộ, thấy nó ghê tởm. Sau buổi chiếu phim, cô rạo rực chờ đợi, nhưng anh lịch sự cáo từ (good night!) khiến cô tức điên, thầm rủa anh là “quỷnh” và nghĩ chắc tại anh không yêu cô. Nhưng rồi anh cũng thắng được nỗi e dè để tỏ tình với cô với tất cả sự kính cẩn và lòng ngưỡng mộ. Một cách tự nhiên nhất đời, Lenina lập tức tự lột hết quần áo, sẵn sàng cho một cơn xác thịt cuồng loạn như thường lệ, khiến John giận dữ điên cuồng, mắng cô là “đồ đĩ thõa trơ tráo”. Cuộc tình cả hai bên đều mong đợi ấy đi đến một kết cục ê chề. Chàng quay về với Shakespeare còn nàng cầu cứu soma. Linda, mẹ của John, được đưa trở lại thế giới văn minh theo đúng với sở nguyện của bà ta, nhưng đã không còn thích ứng với nó nữa: lối sống quái đản của bà ta ở nơi hoang dã, những cuộc lang chạ liên miên với đàn ông thổ dân và việc lạm dụng mescal, một chất ma túy của thổ dân mà bà ta dùng để thay thế soma, đã hủy hoại thân xác và tâm thần của bà. Xuất hiện trước “Giám đốc – người tình cũ” như một con quái vật lạ lùng và đáng tởm, cái dị dạng của bà ta, biểu hiện lão suy ở tuổi 48, làm mọi người khiếp sợ. Nhưng rồi bà ta mãn nguyện: trở về thế giới văn minh là được trở về với soma. Bà ta chỉ việc nằm suốt ngày trên giường, được cấp lượng soma không hạn chế giúp bà ta chìm vào trạng thái phởn phơ bất tận. Vô tình trở thành vật thí nghiệm soma, cơ thể bà ta suy sụp và nhanh chóng tiến đến cái chết đau đớn. Quả là soma đã rút ngắn cuộc sống của bà ta, nhưng mặt khác, như một bác sĩ đã nói, nó đã thật sự kéo dài cuộc sống của bà ấy... Soma có thể làm người ta mất đi một số năm về thời gian. Nhưng hãy nghĩ về độ dài khổng lồ, không thể đo lường được mà nó có thể cho người ta sống ngoài thời gian. Mọi thứ ảo giác vui chơi do soma gây ra chẳng phải là một phần giấc mơ thần tiên vĩnh cửu của tổ tiên chúng ta hay sao? Soma là bức tường thành kiên cố ngăn cách tâm trí người ta khỏi thực tại, với mọi thứ lo âu muộn phiền, nếu có. Nhưng “Thế giới mới tươi đẹp” là một thế giới không phiền muộn, không có những ám ảnh Sinh – Lão – Bệnh – Tử của cõi Ta Bà. Mọi người sinh ra không đau đớn, lớn lên đẹp đẽ và mạnh khỏe, mọi bệnh tật đã được xử lí triệt tiêu từ trong ống nghiệm, và cứ trẻ đẹp như thế đến tuổi 60 thì chấm dứt, để được đưa vào Đài Lột xác (tức Lò thiêu), và mang lại lợi ích cuối cùng cho cộng đồng là một nắm phốt-pho bón ruộng. Không có những mối quan hệ lâu dài và thân thiết, nên cái chết của một người không gây thương cảm cho bất cứ ai. Sự khóc thương bi lụy của John trước cái chết của Linda bị coi như một trò lố bịch, diễn ra trước mắt cô y tá và lũ trẻ đang được cô đưa đến để “thực tập chết”, tức là chứng kiến và tạo phản xạ có điều kiện cho quen với sự chết. Những tình cảm lâu bền và sâu sắc giữa con người ở đây là không cần thiết và gần như cấm kị: Cấm kị là một yếu tố quan trọng của sự ổn định xã hội. Triết lí nền tảng của “Thế giới mới tươi đẹp” được Mustapha Mond thảo luận một cách hệ thống với người Hoang dã khi ông hạ cố giải đáp các thắc mắc của anh, sau khi anh cùng với Bernard Marx và Helmholtz bị bắt đưa đến gặp ông. Cuộc thảo luận của người Hoang dã, người duy nhất lúc này có đủ trình độ để thảo luận, với một trong mười người lãnh đạo (kiểm soát!) cao nhất của thế giới, người rất biết lắng nghe, cho thấy tính chất của một nền “chuyên chế nhân từ”. Mustapha cho biết xã hội cần tiêu khiển, bằng những trò vui vô tâm, chứ không cần nghệ thuật cao cấp. (Kịch) Shakespeare chẳng hạn, bị cấm ở London, trước hết, vì nó cũ. Nghệ thuật phải Mới và dễ hiểu, đại chúng. Cái Đẹp thì hấp dẫn, mà hấp dẫn là nguy hiểm: Nó dẫn đến mất ổn định. Toàn bộ xã hội được xây dựng trên những thành tựu cao ngất của khoa học, nhưng nghiên cứu khoa học thật sự bị cấm đoán, hay ít ra, phạm vi nghiên cứu bị hạn chế. Nghệ thuật thật sự thì làm ra Cái Đẹp, khoa học thật sự thì khám phá ra sự thật về thế giới và con người, nhưng mục tiêu của xã hội không phải là sự thật và cái đẹp, mà là tiện nghi và hạnh phúc. Hạnh phúc phổ biến đảm bảo ổn định xã hội, điều mà sự thật và cái đẹp không làm được. Dễ hiểu là trong một xã hội như thế, tôn giáo là không cần thiết, vì Thượng đế thì “vắng mặt”, “Thượng đế không tương hợp với máy móc và thuốc men khoa học, và hạnh phúc phổ biến”. Theo Mustapha: “Người ta tin điều gì đó bởi vì người ta đã được đào luyện để tin chúng. Tìm lí do tồi cho những gì người ta tin vì những lí do tồi khác – đó là triết học”. Ông nói “không thể có một nền văn minh lâu dài nếu thiếu những trò vui đồi bại... Nền văn minh tuyệt đối không cần những thứ như sự hy sinh, cái tuyệt mỹ, cái cao cả hoặc cái anh hùng” và không có cơ hội nào để xuất hiện những thứ đó. Tóm lại, nhân danh hạnh phúc phổ biến và ổn định xã hội, tất cả những gì là cao quý, cũng như những tình cảm thông thường của con người, bị xóa bỏ hoàn toàn. Cái gọi là nhân phẩm, nhân cách hoàn toàn vắng bóng. Cá nhân không được phép tự ý thức quá mạnh, không được phép có tư duy độc lập, có khuôn mặt riêng của mình, vì sẽ không thích hợp với đời sống cộng đồng. Mustapha có tài hùng biện, nhưng ông đã không thuyết phục được người Hoang dã. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn thoải mái. Tôi muốn Thượng đế, tôi muốn thơ ca, tôi muốn nguy hiểm thật sự, tôi muốn tự do, tôi muốn lòng tốt. Tôi muốn tội lỗi.” “Thật ra” – Mustapha Mond nói – “anh đang đòi quyền được bất hạnh”. “Vậy thì được” – người Hoang dã nói giọng thách thức – “tôi đòi quyền được bất hạnh”. Anh đã khước từ thứ “hạnh phúc” không xứng đáng với Con Người. Gần một thế kỷ đi qua, tính tiên tri trong tiểu thuyết Thế giới mới tươi đẹp của Huxley đã làm sửng sốt nhiều thế hệ. Dưới hình thức viễn tưởng khoa học, cuốn tiểu thuyết không đơn thuần là tưởng tượng phóng túng của tác giả, đúng hơn, nó là một phép ngoại suy của một trí óc vượt tầm thời đại, từ cái hiện thực đang diễn ra trước mắt tới những xu hướng có thể có trong tương lai. Một xã hội hoàn chỉnh như trong truyện thì không thể có thật, ta gọi nó là không tưởng, và cái thực tại ảo mà nó biểu hiện khiến ta rùng mình sởn gáy về sự phi nhân tính của nó, nên cái không tưởng ấy ta gọi là không tưởng-đen (dystopia); nhưng từng khía cạnh của nó thường khi ló ra trong hiện thực không khỏi khiến ta giật mình. Cái hiện thực trong truyện không phải là tiếng khóc than của một nhân loại đói khổ và lầm than, như từ Dickens đến Tolstoy, từ Hugo đến Jack London, mà là tiếng cười đắc thắng của khoa học và công nghệ. Khi Huxley viết quyển sách này (1931), thì I.P. Pavlov (1849 – 1936), Henry Ford (1863 – 1947) và Sigmund Freud (1856 – 1939) đều là người đương thời với ông; sản xuất theo dây chuyền, phản xạ có điều kiện hay libido vẫn đang là thời sự mới mẻ. Tác phẩm của Huxley không “phản ánh hiện thực”; từ hiện thực, thậm chí từ những thời sự của ngày ấy, Huxley nghĩ về cái có thể đến trong tương lai. Những thành tựu khoa học rực rỡ quả là những ân sủng diệu kỳ mà loài người tự ban cho mình, nhưng chúng làm biến đổi bộ mặt loài người ra sao thì có ai dám chắc, chẳng hạn, khi quyền sử dụng chúng được đặt vào những bàn tay vô trách nhiệm? Diễn biến lịch sử đã chứng tỏ nỗi lo như thế không bao giờ là thừa cả. “Thế giới mới tươi đẹp” có tham vọng giải quyết những vấn đề lớn của loài người từ bao đời nay: Nhờ tiến bộ khoa học và công nghệ, nó cung cấp dư thừa của cải vật chất đảm bảo một cuộc sống tiện nghi thoải mái nhất, và nhằm đến cái đích cao nhất mà con người muốn đạt đến: Hạnh phúc! Mà lại là hạnh phúc cho tất cả mọi người! Nhưng hóa ra cái đích cao nhất ấy, hạnh phúc ấy, chỉ là thỏa mãn khoái lạc vật dục, vì xã hội chỉ có thể cung cấp đến đó, tiến bộ khoa học và vật chất dư thừa không mang lại văn hóa. Văn hóa và nghệ thuật cao cấp không tồn tại, nghệ thuật duy nhất là phim tình fili, một thứ giải trí thấp kém và dung tục. Tình dục chỉ có mục đích tiêu khiển (recreational sex). Các đẳng cấp cao thì thông minh nhưng cá tính sáng tạo phải bị triệt tiêu để bảo đảm cho xã hội ổn định, nghĩa là giữ nguyên ở một trạng thái, không thay đổi, không tiến hóa, không phát triển; bởi khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi cá nhân chính là nhân tố thúc đẩy tiến bộ của loài người. Con người có thể hành động không suy nghĩ, vì đã được dẫn dắt bằng những châm ngôn học được trong lúc ngủ nằm sẵn trong tiềm thức; tự do ý chí của cá nhân bị ngăn chặn vì nguy hiểm cho xã hội. Các đẳng cấp thấp được điều kiện hóa trong những “Phòng Tiền định Vận mệnh”, để suốt đời mãn nguyện với địa vị của bản thân, khi kẻ nô lệ biết yêu thân phận nô lệ của mình thì xã hội ổn định. “Mỗi người thuộc về mọi người khác”, nên ngay trong “tình trường” cũng không có ghen tuông; không có chênh lệch trong hưởng thụ thì không có ganh tị, do đó cũng không có bất bình, xung đột, chiến tranh. Một xã hội như thế được tạo ra như một hệ khép kín sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nó là không tưởng, nhưng không phải vì thế mà không đập vào ý thức chúng ta như những cảnh báo mạnh mẽ: Trong mọi hình thức tàn phá hủy diệt, không gì đáng sợ hơn hủy diệt tính người. HIẾU TÂN Chương một Một tòa nhà lùn bè bè màu xám chỉ có 34 tầng. Trên cổng chính, dòng chữ TRUNG TÂM ẤP VÀ BẢO QUẢN PHÔI LONDON và trên một lưới bảo vệ, là khẩu hiệu của Nhà nước Toàn cầu: CỘNG ĐỒNG – ĐỒNG NHẤT – ỔN ĐỊNH Căn phòng rộng thênh thang ở tầng trệt quay về hướng bắc. Lạnh lùng, dù bên ngoài những ô cửa sổ kia đang là mùa hè, dù trong phòng đang là cái nóng nhiệt đới, một ánh sáng mảnh chói gắt chiếu qua cửa sổ cố tìm một hình nhân mặc quần áo, một bóng dáng xanh xao ớn lạnh, nhưng chỉ thấy thủy tinh, kền và những đồ sứ sáng choang lạnh lẽo của phòng thí nghiệm. Chỉ thấy cái lạnh lẽo mùa đông đáp lại cái lạnh lẽo mùa đông. Áo choàng của nhân viên trắng toát, còn những bàn tay đeo găng cao su màu da xác chết của họ lại tái nhợt. Ánh sáng đông cứng, chết chóc, ma quái. Nó chỉ mượn vẻ sống động rực rỡ từ những hình trụ màu vàng của những chiếc kính hiển vi – những ống sáng bóng như những thỏi bơ vàng óng, trải từng vệt, từng vệt xuống những chiếc bàn làm việc. “Và đây” – Giám đốc vừa mở cửa vừa nói – “là Phòng Thụ tinh”. Cúi xuống những dụng cụ của mình, 300 Nhân viên Thụ tinh đang chúi đầu làm việc, khi Giám đốc Trung tâm Ấp và Bảo quản Phôi bước vào phòng, trong không khí im lặng chỉ nghe tiếng hơi thở, những tiếng lẩm nhẩm âm ư hay tiếng huýt đãng trí của sự tập trung miệt mài. Một đoàn sinh viên mới đến, trẻ trung, hồng hào và non nớt, hơi khúm núm sợ sệt, đi theo sau gót viên Giám đốc. Mỗi cậu mang một cuốn sổ tay, cứ mỗi khi ông lớn kia nói, thì lại hốt hoảng ghi nguệch ngoạc vào đấy. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này. Đây là một đặc ân. Vị GĐLÂ (Giám đốc Ấp – Bảo quản Phôi, nói gọn là Giám đốc Lò ấp) của Trung tâm London luôn luôn lấy điệu bộ quan trọng, đích thân dẫn các sinh viên mới của ông đi một vòng quanh các phòng ban. “Để giúp các anh có một ý niệm chung” – Ông ta giải thích. Vì tất nhiên nếu họ muốn làm công việc của họ một cách thông minh, thì nhất định phải có những ý niệm chung này; nhưng nếu họ muốn là những thành viên tốt và hạnh phúc trong xã hội, thì họ càng ít có những ý niệm ấy bao nhiêu càng tốt. Vì những cái cụ thể, như mọi người đều biết, làm nên đức hạnh và hạnh phúc; còn những cái chung, cái tổng quát, thì về mặt trí tuệ tất nhiên là xấu. Không phải các triết gia, mà những người thợ xẻ và những người sưu tập tem tạo nên xương sống của xã hội. “Ngày mai” – Ông nói thêm, mỉm cười với chút vẻ dọa dẫm hiền lành – “các anh sẽ ngồi xuống làm việc nghiêm chỉnh. Các anh không còn thời gian cho những ý tưởng tổng quát nữa. Trong khi…” Trong khi, đó là một đặc ân. Bọn trẻ ngoáy như điên. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này. Cao, hơi gầy và dáng đi thẳng, Giám đốc hướng đến căn phòng. Ông ta có chiếc cằm dài, những chiếc răng to và hơi hô, khi ông không nói thì được che bằng đôi môi dày đỏ và cong. Trẻ hay già? 30? 50? 55? Khó đoán. Dầu sao thì câu hỏi này vẫn chưa được đặt ra, ở cái thời ổn định này. A.F.632[1] chưa xảy ra để cho người ta hỏi câu hỏi đó. “Tôi sẽ bắt đầu ngay từ đầu” – GĐLÂ nói, và những sinh viên nhiệt huyết hơn ghi lại ý ông trong sổ tay của họ. Bắt đầu ngay từ đầu. “Đây là những lò ấp” – Ông vẫy tay. Và, mở một cánh cửa cách nhiệt, ông chỉ cho họ những dãy giá xếp chồng lên nhau đựng những ống nghiệm có đánh số. “Đây là mẻ trứng của một tuần. Được giữ” – ông giải thích – “ở thân nhiệt bình thường; trong đó những giao tử đực” – và đây, ông mở một cánh cửa khác – “phải được giữ ở 35 thay vì 37 độ. Thân nhiệt bình thường hoàn toàn tiệt trùng”. Những con cừu đực được bọc trong lò sinh nhiệt không thể làm cha. Vẫn đứng tựa vào các lò ấp, ông giải thích ngắn gọn cho họ, trong lúc những chiếc bút chì vẫn gấp gáp loằng ngoằng trên các trang giấy, về quá trình thụ tinh hiện đại, tất nhiên đầu tiên nói về dẫn nhập giải phẫu của nó: “Cuộc giải phẫu tiến hành một cách tự nguyện vì lợi ích của xã hội, chưa nói đến chuyện nó mang lại phần thưởng lên đến chín tháng lương” – tiếp tục với một số mô tả về kỹ thuật giữ cho buồng trứng sống và phát triển mạnh sau khi bị cắt rời; chuyển sang xem xét nhiệt độ tối ưu, độ mặn, độ nhớt; ý nói đến thứ chất lỏng trong đó bảo quản những quả trứng rụng và chín, rồi dẫn các đệ tử của mình đến các bàn làm việc, chỉ cho họ thấy chất lỏng ấy được xả ra khỏi các ống nghiệm như thế nào, nó được lấy từng giọt từng giọt một vào những bản-kính-mang-vật của các kính hiển vi như thế nào, những quả trứng mà nó bảo quản được kiểm tra về tình trạng bất thường, được đếm và được chuyển vào những vật đựng có lỗ hình tổ ong như thế nào, rồi (lúc này ông đưa họ sang xem hoạt động này) vật đựng được nhúng vào một dung dịch ấm chứa những tinh trùng bơi lội tự do như thế nào, ở một mật độ tối thiểu một trăm nghìn con trong một centimét khối, ông nhấn mạnh, và sau mười phút, nếu có trứng nào vẫn còn chưa được thụ tinh, nó sẽ được nhúng lần nữa, và nếu cần, lần nữa; những trứng đã thụ tinh quay trở lại lồng ấp như thế nào, nơi các Alpha[2] và các Beta cuối cùng được đóng chai, trong khi các Gamma, Delta và Epsilon lại được mang ra, chỉ sau 36 giờ, để thực hiện Quy trình Bokanovsky[3]. “Quy trình Bokanovsky” – Giám đốc nhắc lại, và bọn sinh viên gạch dưới những chữ này trong sổ tay của họ. Một trứng, một phôi, một người trưởng thành bình thường. Nhưng những trứng đã qua quá trình Bokanovsky sẽ đâm chồi, sẽ sinh sôi nảy nở nhanh chóng, sẽ phân chia. Từ 8 lên 96 chồi, và mọi chồi sẽ lớn thành một phôi hình dạng hoàn hảo, và mọi phôi sẽ lớn thành một người lớn trưởng thành đầy đủ. Làm 96 người lớn lên ở nơi trước đây chỉ có một người lớn lên. Tiến bộ. “Về thực chất” – GĐLÂ kết luận – “việc Bokanovsky-hóa bao gồm một loạt sự hãm phát triển. Chúng ta kiểm soát sự lớn lên bình thường và thật nghịch lý, trứng đáp ứng bằng việc đâm chồi”. “Đáp ứng bằng việc đâm chồi”. Những chiếc bút chì ngoáy rối rít. Ông chỉ tay. Trên một băng chuyển động thật chậm, chiếc giá đầy những ống nghiệm được đưa vào chiếc hòm kim loại lớn, rồi từ một hòm khác, giá nhô ra. Máy móc quay ro ro uể oải. “Mất tám phút để một ống đi qua” – ông bảo họ. Tám phút chiếu tia X mạnh là thời gian mà trứng có thể chịu được. Một số trứng chết, số còn lại, được chia làm hai, đa số bật ra bốn chồi, một số tám, tất cả được đưa lại các lồng ấp, tại đó chồi bắt đầu phát triển; rồi, sau hai ngày, bất ngờ được làm ấm lên và kiểm tra. Hai, bốn, tám, những chồi đến lượt bật lên, và sau khi đã bật lên, chúng được cho một liều cồn gần chết, kết quả là bật nẩy chồi lần nữa và có những chồi nẩy ra từ chồi, cứ thế sau đó tiếp tục hãm đến gần chết, để phát triển trong yên tĩnh. Trong thời gian đó, trứng gốc theo đúng luật trở thành một trong từ 8 đến 96 phôi, các cậu thấy không, một sự cải thiện phi thường về bản chất. Những cặp đồng sinh giống nhau, nhưng không phải sinh đôi, sinh ba tầm thường như cái thời sinh đẻ trước đây, mà là một trứng đôi khi ngẫu nhiên phân chia thành hàng chục, hoặc hơn rất nhiều trong cùng một thời gian. “Rất nhiều” – Giám đốc nhắc lại, và vung hai tay lên, như thể ông đang ban phát sự hào phóng của mình – “Rất nhiều”. Nhưng một trong các sinh viên ngốc đến mức hỏi như thế có lợi gì. “Cậu bé giỏi!” – Giám đốc xoay tròn xung quanh cậu ta – “Cậu có thấy không? Có thấy không?” – Ông ta giơ tay lên, cử chỉ của ông thật trang trọng – “Quy trình Bokanovsky là một trong những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội!”. Những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội! Những đàn ông đàn bà đạt chuẩn, trong những mẻ giống nhau như đúc. Toàn thể cán bộ của một nhà máy nhỏ được bố trí bằng các sản phẩm của một trứng duy nhất được Bokanovsky-hóa. “Chín mươi sáu đứa trẻ sinh đồng thời giống nhau như đúc vận hành những cỗ máy giống nhau như đúc” – Giọng nói gần như run lên vì cuồng nhiệt – “Anh sẽ thật sự biết anh đang ở đâu. Lần đầu tiên trong lịch sử”. Ông dẫn khẩu hiệu toàn cầu: “Cộng đồng, Đồng nhất, Ổn định”. Những từ ngữ vĩ đại. Nếu chúng ta có thể Bokanovsky-hóa một cách đồng nhất thì toàn bộ vấn đề sẽ được giải quyết. Giải quyết bằng những Gamma tiêu chuẩn, những Delta bất biến, những Epsilon đồng nhất. Hàng triệu đồng sinh giống nhau như đúc. Nguyên tắc sản xuất hàng loạt cuối cùng đã được áp dụng cho sinh học. “Nhưng than ôi” – Giám đốc lắc đầu – “chúng ta không thể Bokanovsky hóa một cách đồng nhất”. 96 dường như là giới hạn, 72 là trung bình tốt. Từ cùng một trứng và với những giao tử của cùng con đực chế tạo ra nhiều mẻ đồng nhất có thể – đó là điều tốt nhất (đáng buồn là chỉ tốt hàng thứ hai) mà họ có thể làm được. Mà ngay cả chuyện này cũng khó khăn. Vì trong tự nhiên cần đến 30 năm để 200 trứng đạt đến độ chín. Nhưng công việc của chúng ta là ổn định dân số vào ngay lúc này, bây giờ và ở đây. Nhỏ giọt những đứa trẻ giống nhau trong suốt một phần tư thế kỷ – thì còn có ích lợi gì? Rõ ràng, chẳng ích lợi gì cả. Nhưng kỹ thuật của Podsnap đã tăng tốc gấp nhiều lần quá trình chín của trứng này. Họ có thể đảm bảo chắc chắn ít nhất 150 trứng chín trong hai năm. Theo lời họ, thụ tinh hay Bokanovsky hóa nhân với 72, ta sẽ có trung bình gần mười một nghìn anh chị em cùng sinh trong 150 mẻ những trẻ cùng sinh giống nhau như đúc, và trong hai năm có cùng một tuổi. “Và trong những trường hợp ngoại lệ, chúng ta có thể làm cho một trứng sinh ra cho chúng ta hơn mười lăm nghìn cá nhân trưởng thành.” Vẫy một chàng trai hồng hào khỏe mạnh tóc vàng hoe vừa ngẫu nhiên đi ngang qua – “Anh Foster” – ông gọi. Chàng trai đến gần. “Anh Foster, anh có thể cho chúng tôi biết kỷ lục của một trứng duy nhất?” “Mười sáu nghìn lẻ mười hai ở Trung tâm này” – Foster trả lời không hề do dự. Anh ta nói rất nhanh, có đôi mắt linh lợi, và có vẻ thích thú khi dẫn ra những con số. “Mười sáu nghìn lẻ mười hai, trong 189 mẻ đồng nhất. Nhưng tất nhiên họ đã làm tốt hơn nhiều” – anh ta liến thoắng – “trong một số trung tâm nhiệt đới. Singapore đã thường xuyên tạo ra hơn mười sáu nghìn năm trăm; và Mombasa thật sự đã chạm đến vạch mười bảy nghìn. Nhưng lúc đó vì họ có những thuận lợi không công bằng. Ông phải thấy một trứng da đen đáp ứng với tuyến yên! Hết sức đáng kinh ngạc khi ông thường chỉ quen làm việc với chất Âu châu. Còn nữa” – anh ta nói thêm, với một tiếng cười (nhưng trong mắt anh ta có cái ánh hơn thua và hếch cằm lên một cách thách thức) – “còn nữa, chúng tôi muốn đánh bại họ nếu có thể. Hiện giờ tôi đang làm trên một trứng Delta Trừ. Mới chỉ mười tám tháng tuổi. Trên mười hai nghìn bảy trăm con rồi, hoặc mới được gạn hoặc ở dạng phôi. Và vẫn còn rất mạnh. Chúng tôi sẽ đánh bại họ”. “Tôi thích tinh thần của anh!” – Giám đốc kêu lên và vỗ vai Foster – “Đi với chúng tôi, và cho các cậu sinh viên này hưởng chút kiến thức chuyên môn của anh”. Foster cười khiêm tốn – “Sẵn lòng” – Họ cùng đi. Trong Phòng Đóng chai, tất cả đang hoạt động hối hả, hài hòa theo trật tự. Những chiếc nắp làm bằng màng bụng lợn nái tươi sống cắt sẵn thành từng miếng có kích thước thích hợp được ném vào những thang máy nhỏ từ Kho Nội tạng dưới tầng hầm đi lên. Vút, và cạch một cái! Những cửa sập thang máy mở; công nhân đóng chai chỉ việc giơ ra một bàn tay, cầm lấy cái nắp, đưa vào, ấn nhẹ xuống và trước khi chiếc chai đủ thời gian đi ra khỏi tầm với theo băng tải vô tận thì vút, và cạch! Chiếc nắp khác đã bắn tới từ khoảng sâu, sẵn sàng được trượt nhanh vào một chiếc chai khác nữa, rồi chiếc tiếp theo trong cuộc diễu hành chậm chạp và vô tận của băng tải. Các sinh viên trẻ đứng bên cạnh những công nhân đóng chai. Băng tải diễu qua, lần lượt từng trứng một được chuyển từ các ống nghiệm đến những đồ chứa to hơn, màng bụng được xẻ ra khéo léo, phôi dâu (the morula) được rơi vào vị trí, dung dịch muối được rót vào… và chai đi qua, đến lượt dán nhãn. Tính di truyền, ngày tháng thụ tinh, thành viên của Nhóm Bokanovsky – những chi tiết được chuyển từ ống nghiệm sang chai. Không còn vô danh, mà đã được đặt tên, được nhận dạng, quá trình tiếp tục diễu qua chầm chậm; qua một lỗ mở trên tường, chầm chậm đi vào Phòng Tiền định Vận mệnh Xã hội. “88 mét khối danh mục” – Foster hào hứng nói khi họ đi vào. “Chứa tất cả mọi thông tin thích hợp” – Giám đốc thêm. “Được cập nhật mỗi buổi sáng.” “Và được phối hợp mỗi buổi chiều.” “Trên cơ sở của nó họ làm các phép tính.” “Rất nhiều cá nhân, với những phẩm chất như thế, như thế” – Foster nói. “Được phân bố theo những số lượng như thế, như thế.” “Tốc độ Gạn tối ưu tại thời điểm bất kỳ cho trước.” “Những lượng hao phí không tính trước nhanh chóng tỏ ra hữu ích.” “Nhanh chóng” – Foster nhắc lại – “Nếu ông biết số giờ làm thêm mà tôi phải đưa vào sau cuộc động đất vừa rồi ở Nhật Bản”. Anh cười vui vẻ và lắc đầu. “Những người quyết định vận mệnh gửi những con số của họ đến những người thụ tinh.” “Những người này chuyển cho họ những bào thai mà họ yêu cầu.” “Và các chai đưa đến đây được quyết định vận mệnh một cách chi tiết.” “Sau đó chúng được đưa đến Kho Phôi.” “Nơi bây giờ chúng ta đang tiến đến.” Và mở một cánh cửa, Foster dẫn đường xuống tầng hầm. Nhiệt độ vẫn còn nhiệt đới. Họ đi xuống một ánh sáng dày đặc. Hai cửa và một lối đi với một chỗ ngoặt kép bảo hiểm tầng hầm khỏi sự xâm nhập của ánh sáng ban ngày. “Những bào thai giống như phim ảnh” – Foster dí dỏm, khi anh đẩy mở một cánh cửa thứ hai – “Chúng chỉ có thể chịu được ánh sáng màu đỏ”. Và dưới tác động của bóng tối ngột ngạt mà đám sinh viên theo anh ta vào, lúc này có thể thấy được và màu đỏ thẫm giống như bóng tối khi ta nhắm mắt vào một buổi chiều hè. Những cạnh sườn phồng lên của những chai hàng nối hàng, tầng tầng lớp lớp lóe lên với vô vàn viên hồng ngọc và giữa những viên hồng ngọc lờ mờ di chuyển những bóng ma đàn ông đàn bà màu đỏ với những đôi mắt màu tía và mọi triệu chứng của bệnh ban đỏ. Những tiếng rì rầm và lách cách của máy móc khuấy động không khí một cách uể oải. “Cho họ một vài con số, Foster” – Giám đốc nói, ông đã chán nói rồi. Foster hết sức vui vẻ cho họ một vài con số. 220 mét dài, 200 mét rộng, mười cao. Anh chỉ lên trên. Giống như gà con uống nước, lũ sinh viên ngước lên nhìn trần nhà. Ba tầng giá: ngang mặt đất, đường hầm thứ nhất, đường hầm thứ hai. Những khung thép nghều ngào tầng nối tầng nhạt màu chìm vào bóng tối. Gần chúng, ba bóng ma màu đỏ đang bận rộn dỡ những chai rượu cổ hẹp khỏi một cầu thang di động. Thang máy Phòng Tiền định Xã hội. Mỗi chai có thể được đặt vào một trong mười lăm chiếc giá, mỗi chiếc mặc dầu không thể nhìn thấy, là một băng chuyền di chuyển với tốc độ 33 lẻ một phần ba centimét/giờ. 267 ngày ở tốc độ 8 mét/ngày. 2136 mét tất cả. Một mạch của tầng hầm ngang mặt đất, một ở đường hầm thứ nhất, một ở đường hầm thứ hai. Và trong 267 buổi sáng, có ánh sáng ban ngày trong Phòng Gạn. Tồn tại gọi là độc lập. “Nhưng trong khoảng thời gian ấy” – Foster kết luận – “chúng tôi cố gắng làm thật nhiều. Ồ, thật nhiều”. Anh ta cười vẻ hiểu biết và đắc thắng. “Tôi thích cái tinh thần của anh” – Giám đốc nhắc lại lần nữa – “chúng ta hãy đi một vòng. Anh hãy kể cho họ về mọi thứ, Foster ạ”. Foster đã kể một cách đầy đủ. Anh đã kể về việc nuôi bào thai trong ổ bụng. Cho họ nếm thử chất thay thế máu nuôi bào thai. Giải thích tại sao phải kích thích nó bằng placentin và thyroxin. Nói với họ về việc chiết xuất thể vàng (corpus luteum). Chỉ cho họ xem những tia cứ một phần mười hai mét từ zero đến 2040 lại tự động bắn ra. Nói về những liều lượng tăng dần của tuyến yên được quản lý trong 96 mét cuối cùng của đợt. Mô tả tuần hoàn của mẹ nhân tạo được lập trong mỗi chai tại vị trí 112 mét; cho họ xem bể chứa chất Giả-máu (chất lỏng thay thế máu), bơm ly tâm giữ cho chất lỏng chuyển động trên nhau và đẩy nó qua lá phổi nhân tạo và bộ lọc phế thải. Nhắc đến khuynh hướng rắc rối về thiếu máu của bào thai, đến những liều lượng khổng lồ cần cung cấp cho nó chiết từ dạ dày lợn và gan bào thai lừa. Chỉ cho họ thấy cơ cấu đơn giản trong hai mét cuối cùng của mỗi tám mét, dùng để lắc đồng loạt tất cả các bào thai cho quen với chuyển động. Gợi đến tính nghiêm trọng của cái gọi là “cú sốc gạn” và liệt kê những biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu cú sốc nguy hiểm đó, bằng một tập dượt thích hợp cho bào thai đóng chai. Kể với họ về trắc nghiệm giới tính được tiến hành trong khu vực 200 mét. Giải thích hệ thống được ghi nhãn màu đen trên nền trắng, bằng một chữ T cho giống đực, một vòng tròn cho giống cái, và một dấu hỏi cho những bào thai sẽ trở thành không có khả năng sinh sản. “Vì tất nhiên” – Foster nói – “trong đại đa số trường hợp, khả năng sinh sản chỉ gây rắc rối. Một buồng trứng có khả năng sinh sản trong 1200 thật sự đã hoàn toàn đủ cho mục đích của chúng tôi. Nhưng chúng tôi muốn có một lựa chọn tốt. Và dĩ nhiên phải là một lựa chọn có hệ số an toàn cực lớn. Do đó chúng tôi cho phép đến 30% bào thai giống cái phát triển bình thường. Những bào thai khác cứ đến 24 mét trong phần còn lại của đợt sẽ được tiêm hormone nam tính. Kết quả: Chúng bị gạn lọc như những bào thai có cấu trúc vô sinh hoàn toàn bình thường (“ngoại trừ” – anh ta phải thừa nhận – “chắc chắn chúng có khuynh hướng mọc râu”), nhưng vô sinh. Đảm bảo vô sinh. “Điều này rốt cuộc” – Foster tiếp tục – “đưa chúng ta ra khỏi vương quốc bắt chước mù quáng của tự nhiên, đi vào thế giới thú vị hơn nhiều của sự sáng tạo con người”. Anh ta xoa tay. Vì tất nhiên, họ không vừa lòng với việc chỉ nuôi lớn những bào thai: Con bò cái nào cũng có thể làm việc đó. “Chúng tôi còn định trước số mệnh và thân phận cho chúng. Chúng tôi gạn lọc những trẻ sơ sinh của chúng tôi như những con người xã hội hóa, như những Alpha hay những Epsilon, như những thợ nạo cống tương lai hay những…” – anh ta định nói “những nhà Kiểm soát Thế giới tương lai”, nhưng lại sửa thành – “những Giám đốc Lò ấp tương lai”. GĐLÂ ghi nhận lời ngợi ca với một nụ cười. Họ đang đi qua Mét 320 trên Giá 11. Một thợ máy Beta Trừ đang bận rộn dùng tuốc-nơ-vít và cờ-lê trên chiếc bơm máu giả của một chiếc chai đi qua. Tiếng vo vo của động cơ điện nghe trầm sâu do tiếng ken két khi anh ta vặn đai ốc. Xuống, xuống này… Một nhát vặn cuối cùng, liếc nhìn máy đếm vòng và anh ta làm xong. Anh ta bước hai bước xuôi theo dây chuyền và bắt đầu lặp lại thao tác đó với chiếc bơm kế tiếp. “Giảm số vòng quay trong một phút” – Foster giải thích. “Chất Giả-máu lưu thông chậm hơn, do đó nó đi qua phổi với khoảng thời gian dài hơn và cũng cung cấp cho bào thai ít ô-xy hơn. Để giữ cho bào thai dưới mức trung bình thì không có gì hơn là thiếu ô-xy”. Anh ta lại xoa tay. “Nhưng tại sao các ông lại muốn giữ cho bào thai dưới mức trung bình?” – Một sinh viên ngây thơ hỏi. “Đồ con lừa!” – Giám đốc phá vỡ sự im lặng kéo dài – “Chẳng lẽ cậu không thấy một bào thai Epsilon phải có một môi trường Epsilon và một đặc tính di truyền Epsilon hay sao?” Rõ ràng cậu ta chưa hiểu nên vẫn chìm trong bối rối. “Đẳng cấp càng thấp, ô-xy càng thiếu” – Foster nói. Cơ quan đầu tiên chịu tổn thương là bộ não, rồi đến bộ xương. Ở mức 70% ô-xy bình thường, sẽ thành người lùn. Dưới 70% – thành quái thai không mắt. “Tức là một kẻ vô dụng hoàn toàn” – Foster kết luận. “Trong khi đó” (giọng anh ta trở nên thân mật và sôi nổi), “nếu người ta có thể phát minh ra một kỹ thuật để rút ngắn thời kỳ chín, thì sẽ là một đại thắng lợi và có ích cho xã hội biết bao!”. “Hãy xem con ngựa – trưởng thành khi sáu tuổi. Voi – mười tuổi. Trong khi đến mười ba tuổi, một người đàn ông chưa trưởng thành về sinh dục, và chỉ trưởng thành đầy đủ ở tuổi hai mươi. Từ đó, tất nhiên, kết quả của sự phát triển trễ, là trí thông minh của con người.” “Nhưng ở các Epsilon” – Foster nói rất nghiêm chỉnh – “chúng ta không cần trí thông minh con người”. Không cần và không đạt được nó. Nhưng dù sao trí tuệ của Epsilon cũng chín muồi ở tuổi lên mười, và cơ thể Epsilon không thích hợp để làm việc cho đến tuổi mười tám. Những năm dài non nớt vô dụng uổng phí. Nếu sự phát triển thể chất được thúc nhanh như, nói ví dụ, một con bò, thì tiết kiệm cho Cộng đồng một khoản khổng lồ! “Khổng lồ!” – Lũ sinh viên rì rầm họa theo. Nhiệt tình của Foster đã truyền cả sang họ. Anh ta chuyển sang nói sâu về kỹ thuật, về sự phối hợp nội tiết không bình thường khiến cho đàn ông chậm lớn như vậy, đòi hỏi một sự đột biến ở bào thai để giải thích. Có thể gỡ bỏ những tác động của đột biến ở bào thai không? Cá thể bào thai Epsilon có thể, nhờ một kỹ thuật thích hợp, quay trở lại trạng thái bình thường của những con chó, những con bò không? Đó là cả một vấn đề. Và nó gần như đã được giải quyết. Pilkington, ở Mombasa, đã tạo ra được những cá thể chín muồi về sinh dục ở bốn tuổi, và trưởng thành đầy đủ vào sáu tuổi rưỡi. Một thắng lợi về mặt khoa học! Nhưng vô ích về phương diện xã hội. Đàn ông đàn bà sáu tuổi quá ngu ngốc để có thể làm những công việc thậm chí của Epsilon. Và đó là một quá trình được ăn cả ngã về không; hoặc bạn không thay đổi được gì, hoặc bạn làm thay đổi tất cả. Họ vẫn đang cố tìm ra một sự dung hòa lý tưởng giữa những người trưởng thành ở tuổi hai mươi, và những người trưởng thành ở tuổi lên sáu. Đến giờ vẫn chưa thành công. Foster thở dài và lắc đầu. Họ đi tha thẩn xuyên qua ánh chạng vạng màu đỏ thẫm đến khu vực Mét 170 trên Giá 9. Từ điểm này trở đi, Giá 9 được rào kín và chai tiếp tục đoạn hành trình còn lại của nó vào một đường hầm, lâu lâu lại bị ngắt quãng bởi những lỗ mở rộng hai hoặc ba mét. “Xử lý nhiệt” – Foster nói. Những đường hầm nóng được thay bằng những đường hầm mát. Khí mát được kết hợp với sự bất tiện dưới dạng những tia X mạnh. Vào lúc chúng được gạn các bào thai khiếp sợ cái lạnh. Chúng được định trước là sẽ di cư vào vùng có tính nhiệt đới, thành những thợ mỏ, thợ quay tơ và thợ sắt. Sau đó trí óc của chúng được làm để chấp nhận phán xét của thân thể. “Chúng tôi xử lý để chúng phát triển tốt ở chỗ nóng” – Foster kết luận. “Các đồng nghiệp của chúng tôi ở tầng trên sẽ dạy chúng thích nóng.” “Và đó” – Giám đốc tham gia vào, vẻ răn dạy – “đó là bí mật của hạnh phúc và cái-giống-như đạo đức – những gì mà anh phải làm. Mọi việc xử lý đều nhằm mục đích đó: Làm cho người ta thích cái số phận xã hội không thể thoái thác của họ”. Trong khoảng hở giữa hai đường hầm, một nữ y tá đang dùng xi-lanh dài và mịn tiêm vào chất gelatin chứa trong một cái chai đi qua. Các sinh viên và hai người hướng dẫn của họ im lặng đứng nhìn cô ta một lúc. “Nào, Lenina” – Foster nói khi cuối cùng cô đã rút xi-lanh ra và đứng thẳng người lên. “Henry!” – Nụ cười của cô lóe đỏ lộ hàm răng san hô. “Quyến rũ, quyến rũ quá!” – Giám đốc lầm rầm, vỗ nhẹ lên cô hai ba phát, và nhận một nụ cười khá cung kính đáp lại. “Cô có cái gì cho chúng đấy?” – Foster lấy giọng chuyên nghiệp hỏi. “Ồ, chứng thương hàn thường gặp và bệnh ngủ ấy mà.” “Các công nhân nhiệt đới bắt đầu được tiêm chủng tại Mét 150” – Foster giải thích cho các sinh viên – “Các phôi vẫn còn là gái. Chúng tôi chủng ngừa giống này tránh những bệnh tật của đàn ông trong tương lai”. Rồi quay lại Lenina. “Mười đến năm trên nóc, như thường lệ” – Anh nói. “Quyến rũ quá” – Giám đốc nói thêm lần nữa và với một phát vỗ cuối cùng, quay đi theo những người kia. Trên Giá 10 là hàng những công nhân hóa học của thế hệ kế tiếp đang được rèn luyện để chịu được chì, xút ăn da, hắc ín, clorin. Phôi đầu tiên của mẻ 250 phôi kỹ sư máy bay mang tên lửa vừa mới được đưa qua dấu 1100 mét trên Giá 3. Một cơ cấu đặc biệt giữ cho các bình chứa quay đều. “Để cải thiện cảm giác thăng bằng của chúng” – Foster giải thích. Tiến hành sửa chữa bên ngoài một tên lửa ở giữa không trung là công việc cần tính thận trọng. Chúng tôi làm chậm lại tuần hoàn máu khi chúng ở thế thẳng đứng, khiến chúng hơi bị đói và tăng gấp đôi dòng Giả-máu khi chúng lộn đầu xuống dưới. Chúng sẽ học cách kết hợp hỗn loạn với thoải mái, thật ra, chúng chỉ thật sự hạnh phúc khi chúng đứng bằng đầu. “Và đây” – Foster tiếp tục – “Tôi muốn giới thiệu với các bạn một xử lý hết sức thú vị đối với các Trí thức Alpha Cộng. Chúng tôi có một mẻ lớn những phôi này ở Giá 5. Tầng hầm số một” – anh gọi hai cậu trai đang bắt đầu đi xuống Tầng mặt đất. “Chúng ở khoảng Mét 900” – anh giải thích – “Bạn không thể thật sự xử lý hữu ích trí tuệ nào cho đến khi các bào thai rụng đuôi. Hãy theo tôi”. Nhưng Giám đốc đã xem đồng hồ – “Ba giờ kém mười” – ông ta nói – “Tôi nghĩ ta không còn thời gian xem các bào thai trí thức nữa. Chúng ta phải lên Phòng Trẻ nhỏ trước khi lũ trẻ kết thúc giấc ngủ chiều”. Foster thất vọng – “Ít nhất liếc qua Phòng Gạn một tí” – anh đề nghị. “Thế cũng được” – Giám đốc mỉm cười độ lượng – “Chỉ liếc qua một tí thôi nhé”. [1] A.F.632: năm 632 Kỷ nguyên Ford [A.F = Anno Ford]. (ND) [2] Alpha: chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái Hy Lạp. Beta, Gamma, Delta, Epsilon lần lượt là các chữ cái thứ hai, ba, bốn, năm. (ND) [3] Quy trình Bokanovsky: quy trình (hư cấu) nhân bản vô tính người, dựa vào tên của Maurice Bokanovsky (1879 – 1928), luật gia và chính khách cánh tả Pháp, người chủ trương tính hiệu quả của Nhà nước và Xã hội. (ND) Chương hai Foster bị bỏ lại Phòng Gạn. GĐLÂ và các sinh viên của ông bước vào chiếc thang máy gần nhất để lên Tầng năm. Một tấm bảng ghi rõ: KHU CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH. PHÒNG TẠO PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN THEO PHƯƠNG PHÁP PAVLOV[4] MỚI Giám đốc mở một cánh cửa. Họ đi vào phòng trống rộng rãi, đầy ánh sáng mặt trời; vì toàn bộ bức tường hướng nam là cửa sổ. Nửa tá nữ y tá, trong những bộ đồng phục trắng bằng sợi hóa học, tóc được giấu kín trong những chiếc mũ trắng tiệt trùng, đang bận rộn sắp đặt những chậu hoa hồng nhỏ thành một hàng ngang qua sàn nhà. Những chậu lớn trổ hoa dày đặc. Hàng nghìn cánh hoa nở bung, và mượt mà như nhung lụa, giống như gò má của vô số tiểu thiên sứ, trong ánh sáng rực rỡ này, rõ ràng không chỉ đỏ rực một màu của người Aryan, mà còn của người Trung Hoa và Mexico, cũng đỏ bừng với quá nhiều hoa nở như những loa kèn trumpet trên thiên giới, cũng xám ngoét như chết, nhợt nhạt như màu trắng cẩm thạch sau khi chết. Các nữ y tá căng cứng người chú ý khi GĐLÂ bước vào. “Sắp xếp sách” – ông ta nói cộc lốc. Các nữ y tá lặng lẽ tuân lệnh ông ta. Giữa những chậu hoa hồng, các quyển sách được sắp xếp tề chỉnh – một hàng sách khổ bốn dành cho trẻ nhỏ được mở ra mời mọc, trong mỗi cuốn có các hình cá, chim, thú tô màu rực rỡ. “Bây giờ đưa trẻ con vào.” Họ hối hả ra khỏi phòng và một hai phút sau trở lại, mỗi người đẩy một kiểu xe đẩy ở nhà hàng, mỗi chiếc bốn ngăn bọc lưới dây thép, chất đầy những trẻ sơ sinh tám tháng tuổi, giống nhau như đúc (rõ ràng là một Nhóm Bokanovsky) và tất cả đều mặc kaki (vì đẳng cấp của chúng là Delta). “Đặt chúng xuống sàn.” Những đứa trẻ được dỡ xuống. “Bây giờ lật chúng đi để chúng có thể thấy hoa và sách.” Được lật, những đứa trẻ ngay lập tức rơi vào im lặng, rồi bắt đầu bi bô về những cụm màu ấy, những hình dáng thật vui tươi và rực rỡ trên những trang giấy trắng. Khi chúng đến gần, mặt trời vừa ló ra khỏi một đám mây che. Những đóa hoa hồng cháy rực lên như thể có một niềm đam mê đột ngột từ bên trong, một ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc dường như tràn ra những trang sách sáng ngời. Từ những hàng trẻ bi bô vang lên những tiếng kêu ré kích động, những tiếng ríu rít và líu lo thích thú. Giám đốc xoa tay. “Tuyệt!” – ông ta nói – “Hầu như tất cả được thực hiện theo mục đích”. Những đứa trẻ bò nhanh nhất đã đến mục tiêu của chúng. Những bàn tay nhỏ xíu thò ra một cách rụt rè sờ, nắm, bứt cánh hoa của những bông hồng được tô điểm, vò nhàu những trang sách màu mè rực rỡ. Giám đốc chờ đến khi tất cả đang bận rộn một cách thích thú. Rồi, ông ta nói – “Theo dõi cẩn thận” – và ông giơ bàn tay lên làm hiệu. Y tá trưởng lúc này đang đứng cạnh bảng điều khiển điện ở góc phòng bên kia, ấn một cái cần xuống. Một tiếng nổ dữ dội. Tiếng còi rú lên, càng lúc càng đinh tai nhức óc. Những quả chuông báo động réo điên cuồng. Bọn trẻ con bắt đầu la hét, mặt chúng rúm ró vì sợ hãi. “Và bây giờ” – Giám đốc thét lên (vì tiếng ồn điếc tai) – “bây giờ chúng ta tiến đến nhồi bài học bằng một sốc điện nhẹ”. Ông ta lại vẫy tay, và Y tá trưởng ấn chiếc cần thứ hai. Tiếng la hét của lũ trẻ bỗng nhiên đổi giọng. Có một cái gì dữ dội, gần như điên cuồng trong những tiếng the thé từng lúc vang lên chói gắt mà lúc này lũ trẻ phát ra. Những thân thể bé nhỏ co giật và căng cứng, chân tay chúng từng lúc lại chuyển động giật cục như bị kéo bởi những sợi dây vô hình. “Chúng tôi có thể cho nhiễm điện cả một dải sàn nhà” – Giám đốc nói oang oang để giải thích – “Nhưng thế đủ rồi” – ông ta ra hiệu cho y tá. Những tiếng nổ dừng lại, chuông thôi reo, tiếng còi lịm dần rồi tắt hẳn. Những thân thể đang quằn quại co giật được thư giãn, và những gì vừa như nức nở và the thé của cơn điên trẻ con một lần nữa mở rộng ra thành tiếng gào khiếp hãi thông thường. “Lại cho chúng hoa và sách đi.” Các nữ y tá vâng lời; nhưng vừa tới gần những bông hoa hồng, vừa nhìn thấy những hình ảnh sặc sỡ vui mắt của mèo và gà trống và những con cừu đen kêu be be, lũ trẻ con đã co rúm sợ hãi, âm lượng tiếng rú của chúng tăng đột ngột. “Hãy quan sát” – Giám đốc nói vẻ đắc thắng – “quan sát đi”. Những quyển sách và những tiếng ồn, những bông hoa và những cú điện giật, từng cặp này được kết nối với nhau trong trí óc bọn trẻ và sau hai trăm lần lặp lại của cùng bài học này hay tương tự, sẽ được gắn với nhau không thể tách rời ra được. Những gì mà con người đã gắn lại với nhau thì tự nhiên bất lực không thể tách rời ra. “Chúng sẽ lớn lên với cái mà các nhà tâm lý học thường gọi là bản năng ghét sách và hoa” – Giám đốc quay sang các y tá của ông – “Đưa chúng đi”. Vẫn còn la hét, những trẻ sơ sinh mặc kaki được chất trở lại những xe đẩy và được đẩy ra ngoài, để lại sau chúng mùi sữa chua và sự im lặng được hoan nghênh nhất. Một trong các sinh viên giơ tay; và mặc dầu cậu ta đã thấy rõ tại sao không nên để cho những người thuộc đẳng cấp thấp lãng phí thời gian của Cộng đồng vào sách vở, và rằng luôn có nguy cơ là việc đọc một cái gì đó có thể làm mất đi một cách không mong muốn một trong những phản xạ có điều kiện đã được lập… Tuy nhiên, vâng, cậu ta không hiểu về những bông hoa. Tại sao lại rắc rối làm cho những Delta, về mặt tâm lý không thể thích những bông hoa? GĐLÂ kiên nhẫn giải thích. Nếu bọn trẻ được làm cho la hét khi nhìn thấy những bông hoa, đó là trên cơ sở một chính sách kinh tế cao kiến. Cách đây không lâu lắm (khoảng một thế kỷ gì đó), những Gamma, Delta, thậm chí cả Epsilon, được đào luyện (lập phản xạ có điều kiện) cho thích hoa, hoa nói riêng và thiên nhiên hoang dã nói chung. Ý tưởng này là để chúng muốn đi về nông thôn vào bất kỳ dịp nào có được, và như vậy bắt buộc chúng phải sử dụng giao thông. “Và chúng không sử dụng giao thông hay sao?” “Nhiều lắm” – GĐLÂ trả lời – “Nhưng ngoài ra không còn gì nữa”. Những bông hoa anh thảo và phong cảnh, ông chỉ ra, có một khuyết điểm nặng nề: Chúng không mất tiền mua. Tình yêu thiên nhiên không ích lợi cho việc vận hành nhà máy. Người ta đã quyết định loại bỏ tình yêu thiên nhiên ở các giai cấp thấp kém bằng bất cứ giá nào; loại bỏ tình yêu thiên nhiên nhưng không loại bỏ nhu cầu sử dụng giao thông. Và tất nhiên điều quan trọng là họ vẫn đi về nông thôn mặc dù họ ghét nó. Vấn đề là tìm ra được một lý do hợp lý về mặt kinh tế để sử dụng giao thông hơn là chỉ mê say hoa anh thảo và phong cảnh. Nó đã được tìm ra đúng lúc. “Chúng tôi lập phản xạ cho quần chúng ghét nông thôn” – Giám đốc kết luận. “Nhưng đồng thời chúng tôi đào luyện cho chúng yêu tất cả những môn thể thao nông thôn. Đồng thời, những môn thể thao nông thôn ấy phải sử dụng những thiết bị máy móc tinh vi. Do đó họ tiêu dùng những mặt hàng công nghệ cùng với thể thao. Vì thế mà có những sốc điện ấy.” “Em hiểu” – cậu sinh viên nói, rồi im lặng, chìm vào ngưỡng mộ. Sau hồi im lặng, rồi, hắng giọng – “Ngày xửa ngày xưa” – Giám đốc bắt đầu – “khi ngài Ford của chúng ta còn tại thế, có một cậu bé tên là Reuben Rabinovitch. Reuben là con của một cặp cha mẹ nói tiếng Ba Lan”. Giám đốc tự ngừng. “Các cậu có biết tiếng Ba Lan là gì không?” “Một tử ngữ.” “Giống như tiếng Pháp và tiếng Đức” – một sinh viên khác lanh chanh xen vào, khoe kiến thức của mình. “Còn các cha mẹ?” – Giám đốc chất vấn. Một sự im lặng nặng nề. Nhiều cậu đỏ mặt. Họ chưa biết cách rút ra sự khác biệt rất tế nhị giữa khoa học nhơ nhớp với khoa học thanh cao. Cuối cùng, một cậu có can đảm giơ tay: “Những con người thường…” – Cậu ngập ngừng, máu ran trên gò má – “Ờ... họ thường là giống sinh con đẻ cái”. “Hoàn toàn đúng” – Giám đốc gật đầu đồng ý. “Và khi những trẻ sơ sinh kia được gạn…” “Đẻ” – một giọng chữa lại. “À, khi đó họ là những cha mẹ – ý tôi muốn nói, không phải những trẻ sơ sinh đó, tất nhiên; những người khác”. Cậu bé tội nghiệp cực kỳ bối rối. “Nói tóm lại” – Giám đốc tóm tắt – “Các cha mẹ là những người bố và những người mẹ”. Cái bậy bạ thật sự là khoa học rơi đánh sầm xuống sự im lặng ngượng ngùng của lũ sinh viên. “Người mẹ” – ông ta cứ liên tục va đập ầm ĩ vào cái khoa học này – “Đây là những sự thật khó chịu; tôi biết. Nhưng như vậy phần lớn các sự thật lịch sử đều khó chịu”. Ông ta quay lại Bé Reuben – “Trong phòng của nó, một buổi tối, do sơ suất, bố và mẹ nó (xoảng, xoảng!) để quên không tắt radio. (Vì các cậu phải nhớ rằng trong thời sản-xuất-lớn sinh-đẻ ấy, trẻ con do cha mẹ nuôi dạy chứ không do các Trung tâm Đào luyện[5] Quốc gia nuôi dạy.) Trong khi đứa bé đang ngủ, một chương trình phát thanh từ London thình lình bắt đầu phát, và sáng hôm sau, trước sự ngạc nhiên của xoảng, xoảng (mấy cậu táo bạo hơn còn dám toét miệng cười với nhau), Bé Reuben tỉnh dậy nhắc lại từng lời một bài phát biểu dài của nhà văn già ham hiểu biết George Bernard Shaw (một trong số rất ít người mà sách của họ được phép đến tay chúng ta), người đang nói được xác nhận là tốt theo kiểu truyền thống, về tài năng của chính ông. Bài nói chuyện này tất nhiên hoàn toàn không thể hiểu được, và theo nụ cười khảy và cái nháy mắt của Bé Reuben, cha mẹ tưởng rằng con họ bỗng nhiên phát điên, họ cho mời bác sĩ. Ông (bác sĩ này) may sao lại biết tiếng Anh, nhận ra bài phát biểu của Shaw được phát trên đài tối hôm trước, nhận thấy chuyện gì đang xảy ra, và gửi một bức thư cho báo chí về sự kiện này. Nguyên tắc Hypnopaedia, tức là dạy học trong khi ngủ, đã được phát hiện”. GĐLÂ ngưng lại một cách đầy ý nghĩa. Nguyên tắc đó đã được phát hiện, nhưng nhiều năm trôi qua rồi mới đến lúc nó được áp dụng có hiệu quả. “Trường hợp Bé Reuben chỉ xảy ra 23 năm sau khi Mẫu-T đầu tiên của Ford được tung ra thị trường” – Đến đây Giám đốc làm dấu một chữ T trên bụng ông, và tất cả sinh viên cung kính làm theo – “Tuy nhiên...” Các sinh viên hăm hở ngoáy bút lia lịa. “… Hypnopaedia được chính thức sử dụng lần đầu tiên trong A.F.214. Tại sao không sớm hơn? Có hai lý do, (a)…” “Những người làm thí nghiệm lúc đầu ấy đã mắc sai lầm” – GĐLÂ nói – “Họ nghĩ rằng có thể dùng Hypnopaedia như một công cụ giáo dục trí tuệ...” (Một cậu bé nằm ngủ nghiêng bên phải, cánh tay phải của nó thò ra, bàn tay phải thõng ra ngoài mép giường. Qua lưới tròn ở mặt bên một chiếc hộp, giọng nói êm dịu phát ra. “Sông Nile là con sông dài nhất châu Phi và đứng thứ hai về độ dài của các con sông trên toàn thế giới. Mặc dầu không dài bằng sông Mississippi – Missouri, sông Nile đứng đầu tất cả các sông về chiều dài lưu vực của nó, trải trên 35 vĩ độ…”) Vào giờ ăn sáng hôm sau, có ai đó hỏi: “Tommy, em có biết sông nào dài nhất châu Phi không?” Lắc đầu. “Nhưng em không nhớ một cái gì như thế này à: Sông Nile là...” “Sông-Nile-là-con-sông-dài-nhất-châu-Phi-và-đứng-thứ-hai-về-độ-dài của-các-con-sông-trên-toàn-thế-giới” – Các từ tới tấp tuôn ra – “mặc-dầu không-dài-bằng...” “Thôi được rồi, sông nào dài nhất châu Phi?” Đôi mắt trống rỗng nhìn. “Em không biết.” “Kìa Tommy, nó là sông Nile mà.” “Sông-Nile-là-con-sông-dài-nhất-châu-Phi-và-đứng-thứ-hai…” “Thế sông nào dài nhất, Tommy?” Tommy bật khóc. Nó gào lên: “Em không biết”. Tiếng gào ấy, Giám đốc giảng giải, đã làm nản lòng các nhà nghiên cứu ban đầu. Những thí nghiệm bị bãi bỏ. Người ta không tiếp tục cố gắng dạy trẻ em chiều dài của sông Nile trong giấc ngủ nữa. Hoàn toàn đúng. Anh không thể học khoa học trừ phi anh biết nó là cái gì. “Tuy nhiên, nếu họ chỉ bắt đầu giáo dục đạo đức” – Giám đốc vừa nói vừa bước ra phía cửa. Lũ sinh viên đi theo ông ta, vừa đi vừa hốt hoảng ghi chép lia lịa, ngay cả khi ở trong thang máy. “Giáo dục đạo đức, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không nên là hợp lý.” “Trật tự, trật tự” – tiếng loa thì thầm nhắc khi họ bước ra Tầng mười bốn, và – “Trật tự, trật tự” – những cái mồm như cái loa nhắc lại không biết mỏi mệt, mỗi lúc qua từng hành lang. Các sinh viên và ngay cả bản thân Giám đốc cũng tự động đi nhón chân. Họ là những Alpha, tất nhiên, nhưng ngay cả các Alpha cũng đã bị điều kiện hóa. Không khí trên cả tầng thứ mười bốn này đều âm vang mệnh lệnh tuyệt đối này. 50 yard[6] bước rón rén, họ đến trước một cánh cửa, Giám đốc cẩn thận mở ra. Họ bước qua ngưỡng cửa, vào vùng ánh sáng lờ mờ của căn phòng ngủ có cửa chớp. Tám chục giường cũi đứng thành một hàng dọc theo tường. Tiếng thở đều nhè nhẹ và tiếng rì rầm liên tục của giọng nói thì thầm mờ nhạt từ xa. Một nữ y tá đứng dậy khi họ bước vào và đến trước mặt Giám đốc. “Hôm nay học bài gì?” – ông hỏi. “Trong 40 phút đầu chúng tôi có Giới tính Sơ đẳng” – cô ta trả lời – “Còn bây giờ chuyển sang Lớp Sơ cấp về Ý thức”. Giám đốc bước dọc theo dãy giường cũi. Hồng hào và thư thái trong giấc ngủ, tám chục bé trai và bé gái nằm thở êm dịu. Có tiếng thì thầm dưới mỗi chiếc gối. GĐLÂ tạm dừng bước, cúi xuống một trong những chiếc giường bé xíu, chăm chú nghe. “Cô nói là Lớp Sơ cấp về Ý thức hả? Cho ống nghe to thêm tí nữa.” Cuối phòng có một chiếc loa nhô ra khỏi tường. Giám đốc bước đến và ấn công tắc. “... Tất cả chúng mặc đồ xanh lá cây” – một giọng êm nhưng rất rõ vang lên và đang ở giữa một câu – “và các trẻ em Delta mặc kaki. Ôi không, tôi không muốn chơi với trẻ Delta. Và những Epsilon còn tệ hơn. Chúng quá ngu ngốc nên không biết đọc biết viết. Ngoài ra, chúng bận đồ đen, một màu sắc đáng tởm như thế. Tôi vui sướng được là một Beta”. Nghỉ một chút, rồi giọng nói bắt đầu lại. “Trẻ em Alpha mặc đồ xám. Họ làm việc chăm hơn chúng tôi, vì họ thông minh kinh khủng. Tôi thật sự hết sức vui thích là một Beta, vì tôi không phải làm việc căng đến thế. Và rồi chúng tôi tốt hơn nhiều những Gamma và Delta. Gamma thì ngu ngốc. Tất cả chúng mặc đồ xanh lá cây. Và các trẻ em Delta mặc kaki. Ôi không, tôi không muốn chơi với trẻ Delta. Và những Epsilon còn tệ hơn. Chúng quá ngu ngốc nên không biết…” Giám đốc ấn lại công tắc. Giọng nói đó im bặt. Chỉ còn bóng ma mỏng manh tiếp tục rì rầm từ bên dưới 80 chiếc gối. “Họ sẽ cho nhắc lại 40 đến 50 lần nữa trước khi chúng thức dậy; sau đó lặp lại vào Thứ năm, và lần nữa vào Thứ bảy. 120 lần mỗi tuần trong 30 tháng. Sau đó chúng chuyển sang bài học cao hơn.” Hoa hồng và điện giật, màu kaki của những Delta và một mùi a-ngụy (asafcetida) không tan trước khi đứa trẻ biết nói. Nhưng huấn luyện không lời chỉ là thô sơ và đại trà, không thể đem đến những phân biệt tinh tế hơn, không thể tính toán những chiều hướng phức tạp hơn của hành vi. Để làm điều đó phải có lời nói, nhưng lời nói không lý trí. Nói ngắn gọn, Hypnopaedia, học trong lúc ngủ. “Sức mạnh đạo đức hóa và xã hội hóa lớn nhất mọi thời đại.” Các sinh viên ghi điều ấy vào vở. Trực tiếp từ nguồn đáng tin cậy này. Giám đốc lại ấn công tắc lần nữa. “... Thông minh kinh khủng” – giọng mềm mượt, không mỏi mệt cất lên – “Tôi thật sự hết sức vui thích là một Beta, vì…” Không giống lắm với những giọt nước, mặc dù nước thật sự có thể xói mòn thành những lỗ trên đá granite cứng nhất, những giọt xi lỏng, những giọt có thể dính vào, khảm vào, hợp nhất với những gì chúng rơi vào, đến cuối cùng cả tảng đá là một giọt màu đỏ. “Đến cuối cùng trí óc của đứa trẻ là chính những ám thị ấy, và toàn bộ những ám thị ấy là trí óc của đứa trẻ. Và không phải chỉ của đứa trẻ mà thôi. Cả trí óc của người lớn nữa, trong suốt cuộc đời họ. Trí óc phán xét, ham muốn và quyết định đều từ những ám thị này. Nhưng tất cả những ám thị ấy là những gợi ý của chúng tôi!” – Giám đốc gần như hét lên đắc thắng – “Những gợi ý từ Nhà nước” – ông ta đập mạnh lên chiếc bàn gần nhất – “Do đó suy ra...” Một tiếng ồn làm ông nhìn quanh. “Ôi, Ford ơi![7]” – ông ta đổi giọng – “Tôi đã đánh thức bọn trẻ mất rồi”. [4] Ivan Petrovich Pavlov (1849 – 1936): nhà sinh lý học người Nga, giải thưởng Nobel 1904, người tìm ra định luật “phản xạ có điều kiện” (cổ điển). (ND) [5] Nguyên văn: “State Conditioning Centres”. Conditioning [trong sách này dịch một cách quy ước là “đào luyện”, tiếng Nga: воспитательные – giáo dục] là tạo phản xạ có điểu kiện nhằm huấn luyện (người hoặc thú) theo những mục đích nhất định. (ND) [6] Yard: thước Anh (= 0,914 mét). (BT) [7] Thay vì “Chúa ơi!”. Trong sách này những chỗ kêu tên Ford tức là kêu Chúa. Henry Ford (1863 – 1947), nhà công nghiệp Mỹ, sáng lập Hãng Ôtô Ford, bảo trợ phương pháp dây chuyền lắp ráp trong sản xuất hàng loạt. Trong “Thế giới mới tươi đẹp”, sản xuất con người và tổ chức xã hội được thực hiện theo dây chuyền. (ND) Chương ba Bên ngoài, trong vườn, đang là giờ chơi. Trần truồng trong nắng ấm tháng Sáu, khoảng sáu bảy trăm đứa bé trai và gái đang vừa chạy vừa la hét trên bãi cỏ, hay chơi bóng, hay ngồi im lặng thành nhóm hai, ba đứa giữa những bụi hoa. Những khóm hồng đang nở hoa, hai con sơn ca độc thoại trong lùm cây, một con chim cu cu vừa thôi hót trong những tán cây đoạn (lime tree). Không khí mơ màng buồn ngủ với tiếng ong vo ve và tiếng trực thăng. Giám đốc và các sinh viên của ông đứng nhìn trò chơi Bắt bóng Ly tâm (Centrifugal Bumble-puppy). Hai mươi đứa trẻ đứng thành vòng tròn quanh một cái tháp kim loại màu vàng. Một quả cầu được tung lên sao cho rơi xuống bệ trên đỉnh tháp, lăn vào bên trong, rơi vào chiếc đĩa đang quay nhanh, rồi bắn ra qua một trong nhiều lỗ khoét trong thân hình trụ, và phải bắt lấy nó. “Lạ thật” – Giám đốc mơ màng, khi họ quay đi – “thật lạ khi nghĩ rằng ngay trong ngày Ford của chúng ta, hầu hết các trò chơi đều không có máy móc nào hơn một vài quả banh, vài chiếc gậy và có lẽ một mẩu lưới, hãy tưởng tượng sự điên rồ cho phép người ta chơi những trò chơi tinh vi phức tạp không làm tăng tiêu dùng gì cả. Thật là điên. Ngày nay những nhà Kiểm soát không duyệt bất kỳ trò chơi nào trừ khi có thể chứng minh rằng nó đòi hỏi ít nhất một thiết bị tinh vi nhất trong các trò chơi hiện có”. Ông ta ngưng lại. “Đó là một nhóm nhỏ quyến rũ” – ông chỉ tay nói. “Quyến rũ, quyến rũ quá” – GĐLÂ nhắc lại, vẻ đa cảm. “Quyến rũ” – các sinh viên lễ phép đồng ý. Nhưng nụ cười của họ khá kẻ cả. Mới rất gần đây thôi, họ đã gạt bỏ những trò tiêu khiển ấu trĩ tương tự như thế này để bây giờ có thể nhìn những đứa trẻ kia không chút khinh thường. Quyến rũ ư? Nhưng đó chỉ là một cặp trẻ con chơi trò nhố nhăng, thế thôi. Chỉ là trẻ con. “Tôi luôn luôn nghĩ” – Giám đốc đang tiếp tục cái giọng ủy mị ấy thì bị một tiếng khóc hu hu rất to ngắt quãng. “Cái gì thế?” – Giám đốc hỏi. Cô bảo mẫu nhún vai. “Chẳng có gì đâu” – cô trả lời – “Chỉ là thằng bé có vẻ hơi miễn cưỡng tham gia trò chơi tình yêu bình thường này. Tôi đã hai ba lần thấy điều này trước đây rồi. Và bây giờ lại thế. Nó đang bắt đầu gào…” “Cháu nói thật” – con bé trông có vẻ lo âu nói xen vào – “Cháu không định làm đau nó đâu. Cháu nói thật đấy”. “Tất nhiên cháu không làm rồi, cháu yêu” – cô bảo mẫu làm nó yên lòng – “Vậy để cô đưa nó đến ông Phó Giám thị Tâm lý. Để xem có gì bất thường không”. “Hoàn toàn đúng” – Giám đốc nói – “Đưa nó vào. Cháu ở lại đây, bé gái” – ông nói thêm, khi người bảo mẫu đi ra với thằng bé còn nức nở. “Tên cháu là gì?” “Polly Trotsky.” “Và cái tên cũng đẹp” – Giám đốc nói – “Bây giờ cháu ra ngoài tìm một bạn trai khác để chơi đi”. Con bé đỏ bừng mặt và chạy biến. “Những tạo vật tí hon tuyệt vời!” – Giám đốc nhìn theo nó nói. Rồi ông quay về lũ sinh viên: “Điều tôi sắp nói với các anh bây giờ” – ông nói – “có thể khó tin. Nhưng sau đó, khi các anh quen với lịch sử, thì hầu hết những sự kiện xảy ra trong quá khứ đều khó tin như thế cả”. Ông vừa nói ra sự thật đáng kinh ngạc. Vì một thời kỳ rất dài trước Thời đại Ford của chúng ta, và thậm chí một vài thế hệ sau đó, điều này đã bị coi như không bình thường (tiếng cười rộ lên), và không chỉ không bình thường, thật sự còn là vô đạo đức (không!) và do đó đã bị ngăn cấm khắc nghiệt. Vẻ ngạc nhiên không tin nổi hiện lên trên mặt các thính giả. Những đứa bé tội nghiệp không được phép tiêu khiển sao? Họ không thể tin điều đó. “Ngay cả những trẻ vị thành niên” – GĐLÂ nói – “Ngay cả những trẻ vị thành niên như các cậu”. “Không thể thế được!” “Trừ phi phải lén lút thủ dâm. Đồng tính luyến ái tuyệt đối cấm.” “Tuyệt đối cấm?” “Trong hầu hết trường hợp, cho đến khi chúng ngoài hai mươi tuổi.” “Hai mươi tuổi?” – Các sinh viên vọng lại vẻ không tin. “Hai mươi tuổi!” – Giám đốc nhắc lại – “Tôi đã bảo là các cậu sẽ thấy nó không thể tin nổi mà”. “Nhưng điều gì đã xảy ra?” – Họ hỏi – “Kết quả thế nào?” “Kết quả thực là khủng khiếp” – Một giọng âm vang xen vào cuộc đối thoại khiến mọi người kinh ngạc. Họ nhìn quanh. Bên rìa đám trẻ nhỏ có người lạ – một người đàn ông tầm thước, tóc đen, mũi khoằm, đôi môi dày đỏ, cặp mắt sẫm màu và rất sắc. “Khủng khiếp” – ông ta nhắc lại. GĐLÂ lúc đó đã ngồi trên chiếc ghế dài bằng thép và cao su để rải rác trong vườn; nhưng vừa trông thấy người lạ, ông ta đứng bật dậy và lao đến, bàn tay giơ ra, nụ cười hồ hởi, phô cả hàm răng. “Ngài Kiểm soát! Thật là một bất ngờ thú vị! Các cậu, các cậu đang nghĩ gì thế? Đây là Ngài Kiểm soát, đức ngài Ford tái thế[8], Mustapha Mond!” Trong bốn nghìn phòng của Trung tâm, bốn nghìn chiếc đồng hồ điện đồng thời điểm bốn tiếng. Những giọng nói siêu phàm vang lên từ các ống loa. “Ca Ngày Chủ nghỉ. Ca Ngày Hai tiếp quản. Ca Ngày Chủ nghỉ...” Trong thang máy, trên đường lên phòng thay ca, Henry Foster và Phó Phòng Tiền định khá sỗ sàng quay lưng lại Bernard Marx của Phòng Tâm lý: Họ muốn tránh xa sự ô danh ấy. Tiếng vo vo và ken két của máy móc vẫn còn khuấy động bầu không khí đỏ thẫm trong Kho Lưu trữ Phôi. Các ca trực đến rồi đi, khuôn mặt màu lupus ban đỏ này nhường chỗ cho khuôn mặt màu lupus ban đỏ khác; những băng tải bất tận chuyển động trang trọng mang đi những mẻ đàn ông và đàn bà tương lai. Lenina Crowne lanh lẹ bước đến cửa. Đức ngài Ford tái thế, Mustapha Mond! Những cặp mắt hân hoan chào đón của các sinh viên gần như bật ra khỏi hốc mắt. Mustapha Mond! Ngài Công sứ Kiểm soát của Khối Tây Âu! Một trong Mười nhà Đại Kiểm soát Thế giới. Một trong Mười… Và ông ngồi xuống băng ghế cạnh GĐLÂ, ông sẽ ở lại, vâng, lưu lại đây và thật sự trò chuyện với họ… trực tiếp từ nguồn tin cậy này. Trực tiếp từ miệng chính ngài Ford! Hai bé đỏ như tôm luộc hiện ra từ những lùm cây gần đó, giương đôi mắt to tròn ngạc nhiên nhìn họ một thoáng, rồi quay lại với trò chơi của chúng dưới những tán cây. “Tất cả các anh đều nhớ” – vị Kiểm soát nói bằng giọng trầm sâu mạnh mẽ của ngài – “Tôi nghĩ tất cả các anh đều nhớ câu nói đẹp đẽ và đầy cảm hứng từ Ngài Ford của chúng ta: Lịch sử là chuyện nhảm. Lịch sử” – ông nhắc lại chậm rãi – “là chuyện nhảm”. Ông vẫy tay, như thể cầm một túm lông chim vô hình phủi đi chút bụi, và chút bụi đó là Harappa[9], là Ur[10] của người Chaldaea[11]; một thứ màng nhện, và đó là Thebes[12], Babylon[13], Cnossos[14] và Mycenae[15]. Phủi. Phủi – và đâu là Odysseus, đâu là Job, đâu là Jupiter, Gotama và Jesus? Phủi – những vết bụi bẩn cổ xưa gọi là Athens, Rome, Jerusalem và Middle Kingdom – tất cả đi hết. Phủi – nơi mà trước đây là Italy đã trống rỗng. Phủi – các đại thánh đường; Phủi, phủi – Vua Lear và Tư tưởng của Pascal. Phủi – những nỗi khổ hình của Chúa Jesus; Phủi – Lễ cầu siêu; Phủi – Nhạc giao hưởng; Phủi... “Có đến xem Fili (Feelies[16]) tối nay không, Henry?” – Phó Giám đốc Phòng Tiền định hỏi. “Tôi nghe nói cái mới ở Alhambra là hạng nhất. Có một màn yêu đương trên tấm thảm da gấu, họ bảo tuyệt lắm. Mọi sợi lông của con gấu được tái tạo. Những hiệu quả xúc giác đáng kinh ngạc.” “Đó là lý do tại sao các ông không dạy lịch sử” – ngài Kiểm soát đang nói – “nhưng bây giờ đã đến lúc…” GĐLÂ lo lắng nhìn ngài. Đã có những tin đồn lạ lùng về các cuốn sách cũ bị cấm được giấu trong một két sắt trong phòng làm việc của ngài Kiểm soát. Kinh Thánh, thơ – có Ford[17] biết là cái gì. Mustapha Mond chặn đứng cái liếc nhìn lo lắng của ông ta, và hai góc môi đỏ của ngài giật giật một cách mỉa mai. “Ổn cả thôi, ông Giám đốc” – giọng ngài nói hơi có vẻ chế nhạo – “Tôi sẽ không làm hỏng chúng đâu”. GĐLÂ hết sức bối rối. Những kẻ nào rẻ rúng bản thân mình thường có bộ dạng rẻ rúng thật. Nụ cười trên mặt Bernard Marx đầy khinh thị. Mọi sợi lông của con gấu cơ mà! “Tôi sẽ tiến tới một điểm” – Henry Foster nói. Mustapha Mond lắc một ngón tay. “Hãy cố mà nhận ra nó” – ngài nói, và giọng ngài khiến cơ hoành của họ run rẩy kỳ lạ – “Cố mà nhận ra rằng có một người mẹ sinh con là như thế nào”. Lại cái từ nhơ nhuốc đó. Nhưng lần này không có ai trong số họ dám mơ đến việc mỉm cười. “Hãy cố tưởng tượng sống với gia đình mình có nghĩa là gì.” Họ cố, nhưng rõ ràng không chút thành công. “Và các anh biết nhà là cái gì không?” Họ lắc đầu. Từ căn phòng màu đỏ mờ, Lenina Crowne vọt lên mười bảy tầng gác, bước ra khỏi thang máy và rẽ phải, bước vào một hành lang dài, mở cánh cửa có ghi PHÒNG THAY ĐỒ CỦA NỮ, lao vào một mớ hỗn độn đinh tai, những tay, ngực và đồ lót. Những dòng nước nóng đang xối xả chảy vào hoặc ùng ục chảy ra khỏi một trăm bồn tắm. Tám mươi máy massage rung chân không rầm rầm, xì xì đồng thời xoa bóp, mút da thịt rắn chắc và rám nắng của những mẫu giống cái diễm lệ. Mọi người đang nói chuyện hết cỡ giọng của mình. Máy nghe nhạc đang véo von phát ra bản độc tấu kèn super-cornet. “Chào, Fanny” – Lenina nói với một cô gái trẻ có tủ và những mắc áo cạnh tủ của cô. Fanny làm việc trong Phòng Đóng chai, và họ của cô cũng là Crowne. Nhưng vì hai tỉ cư dân trên hành tinh này chỉ có mười nghìn cái tên, nên chuyện trùng tên chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Lenina kéo khóa áo khoác của cô xuống, cả khóa quần và cởi đồ lót. Vẫn đi nguyên giày và tất, cô bước về phía các phòng tắm. Ngôi nhà, ngôi nhà, một vài phòng nhỏ, ngột ngạt, theo định kỳ, nhồi nhét một người đàn ông, một người đàn bà phì nhiêu và một bầy láo nháo con trai, con gái đủ mọi lứa tuổi. Không có khí trời, không có không gian, một nhà tù cằn cỗi, tối tăm, bệnh tật và hôi hám. (Mô tả của ngài Kiểm soát sống động đến nỗi một cậu sinh viên nhạy cảm hơn những người khác, tái mét trước lời mô tả trần trụi đến suýt ốm.) Lenina ra khỏi bồn tắm, lau khô người, cầm lấy một ống mềm gắn trên tường, hướng vòi phun vào ngực mình, như thể cô sắp tự tử, và ấn lẫy. Một luồng khí nóng phun rắc lên người cô lớp bột hương mịn. Tám mùi thơm khác nhau của Eau-de-Cologne được bố trí trong những chiếc vòi nhỏ trên chậu rửa mặt. Cô mở chiếc vòi thứ ba từ bên trái, vỗ nhẹ lên người thứ nước hoa đàn hương, rồi cầm giày và tất trên tay, đi ra ngoài xem có máy mát-xa nào rỗi chưa. Và ngôi nhà là sự dơ dáy về tâm lý cũng như sinh lý. Về mặt tâm lý, nó là cái lỗ chuột, một đống rác, nóng nực vì ma sát sinh ra từ cuộc sống chen chúc, nồng nặc cảm xúc. Sự thân mật mới ngột ngạt làm sao, những mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình mới nguy hiểm, điên rồ, tục tĩu làm sao! Một cách điên khùng, người mẹ ấp bầy con của mình, như con mèo cái với lũ mèo con, nhưng là con mèo cái biết nói chuyện, cứ nói đi nói lại mãi “bé yêu, bé yêu”. “Bé yêu, ô, ô, con nằm trong lòng mẹ, những bàn tay bé bỏng này, niềm vui không thể tả này, cho đến khi bé yêu ngủ mà bọt sữa trắng còn đọng trên mép con. Con bé bỏng của mẹ ngủ ngon…” “Phải” – Mustapha Mond gật đầu nói – “Nghĩ đến mà rùng mình”. “Đêm nay cô đi chơi với ai?” – Lenina hỏi, cô vừa từ chỗ máy rung chân không đến, giống như một hạt ngọc được chiếu sáng từ bên trong, hồng lên rực rỡ. “Không ai cả.” Lenina nhướng lông mày ngạc nhiên. “Dạo này tôi thấy hơi khó ở” – Fanny giải thích – “Bác sĩ Wells khuyên tôi nên mang Giả-thai[18]”. “Nhưng, bạn ạ, cô mới có mười chín. Mang Giả-thai không bắt buộc trước tuổi hai mươi mốt.” “Tôi biết, bạn ạ. Nhưng một số người khỏe hơn nếu họ làm sớm hơn”. Cô mở cánh cửa tủ của cô và chỉ vào một dãy hộp cùng lọ nhỏ có dán nhãn ở ngăn trên. NƯỚC CỐT XI RÔ LITEUM. Lenina đọc to các tên thuốc. OVARIN. BẢO ĐẢM TƯƠI: KHÔNG ĐƯỢC SỬ DỤNG SAU NGÀY MỘT THÁNG TÁM NĂM A.F[19].632 SAU FORD GIÁNG SINH. CHIẾT XUẤT TUYẾN VÚ: LẤY BA LẦN MỖI NGÀY, TRƯỚC CÁC BỮA ĂN, VỚI MỘT CHÚT NƯỚC. PLACETIN: 5CC TIÊM TĨNH MẠCH BA NGÀY MỘT LẦN. “Ôi” – Lenina rùng mình – “Sao tôi ghê tiêm tĩnh mạch thế không biết! Cô có ghê không?” “Có. Nhưng khi nó có tác dụng tốt…” – Fanny là cô gái đặc biệt nhạy cảm. Ford của chúng ta – hay Freud của chúng ta, vì một số lý do bí hiểm, ông chọn tự gọi mình như thế khi ông nói về những vấn đề tâm lý học – Freud của chúng ta là người đầu tiên phát hiện ra những nguy cơ kinh hoàng của cuộc sống gia đình. Thế giới đầy những người cha, và do đó đầy khốn khổ; đầy những người mẹ, do đó có đủ loại trụy lạc từ bạo dâm đến trinh bạch; đầy những anh, những chị, những em, những cô dì chú bác, đầy điên rồ và tự tử. “Tuy nhiên, một số người hoang dã ở Samoa, trong số những hòn đảo ngoài khơi New Guinea…” Ánh nắng nhiệt đới như mật ong trải ấm áp trên những thân thể trần truồng của trẻ em đang nhào lộn bừa bãi giữa các bụi hoa râm bụt. Nhà là một trong số hai mươi chiếc lều lợp bằng lá cọ. Ở quần đảo Trobriand, thụ thai là công việc của những linh hồn tổ tiên; không ai từng nghe nói về một người cha. “Các cực đoan gặp nhau” – ngài Kiểm soát nói – “Vì những lý do chính đáng, chúng được tạo ra để gặp nhau”. “Bác sĩ Wells nói rằng thời kỳ mang thai giả ba tháng sẽ làm nên mọi khác biệt cho sức khỏe của tôi trong ba hay bốn năm tới.” “Tôi hy vọng ông ấy đúng” – Lenina nói – “Nhưng này Fanny, cô không định nói rằng trong ba tháng nữa cô sẽ coi như không…” “Ô không đâu, bạn thân mến. Chỉ trong một hai tuần thôi. Tôi sẽ dành buổi tối ở Câu lạc bộ để chơi Cầu Âm nhạc. Tôi nghĩ cậu cũng đi chơi chứ?” Lenina gật. “Với ai?” “Henry Foster.” “Lại anh ta à?” – Khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương của Fanny bỗng hiện lên vẻ ngạc nhiên đau khổ lẫn bất bình – “Cậu định nói với mình rằng cậu vẫn đi chơi với Henry Foster à?” Những người mẹ và những người cha, những người em và những người anh. Nhưng còn có những người chồng, những người vợ, những người yêu. Còn có chế độ một vợ một chồng và ái tình lãng mạn nữa. “Cho dù các anh có thể không biết họ là ai” – Mustapha Mond nói. Họ lắc đầu. Gia đình, một vợ một chồng. Độc chiếm khắp nơi, kênh hẹp của sự thúc đẩy và năng lượng. “Nhưng mỗi người thuộc về một người khác” – ngài dẫn một câu ngạn ngữ học trong lúc ngủ để kết luận. Các sinh viên gật đầu, nhất trí một cách mạnh mẽ với lời tuyên bố được nhắc lại hơn 62.000 lần trong bóng tối mờ mịt đã khiến họ chấp nhận chúng, không chỉ như sự thật, mà còn như một tiên đề hiển nhiên là đúng và không thể nào tranh cãi. “Nhưng dù sao mình cũng chỉ mới có Henry khoảng bốn tháng nay thôi” – Lenina phản đối. “Chỉ mới bốn tháng! Tôi thích điều đó. Và hơn nữa” – Fanny tiếp tục, chỉ ngón tay như buộc tội – “không có ai ngoài Henry trong thời gian ấy. Đúng không?” Lenina đỏ bừng mặt, nhưng ánh mắt và giọng nói của cô vẫn còn ương ngạnh. “Không, không ai khác cả” – cô trả lời gần như hung hăng – “Và tôi vui vì thấy tại sao lại cần ai khác?” “Ôi, cô ấy vui vì thấy tại sao lại cần ai khác” – Fanny nhại lại, như thể nói với một người vô hình đang đứng nghe phía sau vai trái của Lenina. Rồi, bỗng nhiên đổi giọng, cô nói: “Nhưng nói nghiêm túc, tôi thật sự nghĩ cô nên cẩn thận. Cứ tiếp tục như thế mãi với một người đàn ông, sẽ là điều tồi tệ khủng khiếp. Vào tuổi 40, hay 35, điều ấy có thể không tệ lắm. Nhưng ở tuổi của cô, Lenina! Không, nó thật sự không hay ho gì. Và cô biết GĐLÂ phản đối mạnh mẽ như thế nào với bất cứ thứ tình cảm nào mãnh liệt và kéo dài. Bốn tháng với Henry Foster, và không có người đàn ông nào khác – tại sao, ông ấy sẽ điên tiết nếu ông ấy biết…” “Hãy nghĩ đến dòng nước có áp lực mạnh trong một đường ống”. Họ nghĩ đến nó. “Tôi đã có lần chọc thủng nó” – ngài Kiểm soát nói – “Một tia nước khủng khiếp!” Ngài đã chọc nó hai mươi lần. Có hai mươi tia nước tầm thường không đáng kể. “Con yêu, con yêu…!” “Mẹ!” Cơn điên dễ lây. “Con yêu của mẹ, cục cưng, duy nhất của mẹ, cưng, cưng...” Người mẹ, một vợ một chồng, tình yêu lãng mạn. Những vòi phun phụt mạnh; những tia dữ dội, mãnh liệt và sủi bọt. Tình yêu của mẹ, con yêu của mẹ. Không lạ là những người tiền-hiện đại này điên, độc ác và khốn khổ. Thế giới của họ không cho phép họ sống dễ dàng, không cho phép họ lành lặn, đạo đức hay hạnh phúc. Chuyện gì xảy ra với những người mẹ và những người yêu, với những sự cấm đoán mà họ không được tạo phản xạ để tuân thủ, với những quyến rũ và ân hận trong cô độc, và với tất cả những bệnh tật cùng nỗi đau vô tận, với tương lai vô định và cảnh bần hàn – họ bị buộc phải cảm thấy một cách mạnh mẽ. Và việc cảm thấy một cách mạnh mẽ (hơn nữa, trong cô đơn cũng như sự cô độc vô vọng của cá nhân) thế kia, hỏi sao mà họ yên ổn được? “Tất nhiên, không cần phải bỏ anh ta. Lâu lâu cần có một người khác, thế thôi. Anh ấy cũng có những cô gái khác chứ, đúng không?” Lenina thừa nhận điều ấy. “Tất nhiên là anh ta phải có. Tin Henry Foster là người đàn ông hoàn hảo – luôn luôn đúng. Và rồi còn có Giám đốc để nghĩ đến. Cô biết một người khắt khe…” Gật đầu. “Chiều nay ông ấy vỗ vào mông tớ” – Lenina nói. “Đó, thấy chưa?” – Fanny đắc thắng – “Điều ấy cho thấy ông ấy sống theo nguyên tắc nào. Câu nệ thói thường một cách nghiêm ngặt nhất”. “Sự yên ổn, ổn định” – ngài Kiểm soát nói – “ổn định. Không có văn minh nếu không có ổn định xã hội. Không có ổn định xã hội nếu không có ổn định cá nhân”. Giọng của ngài vang như tiếng kèn trumpet. Nghe ngài, mọi người thấy rộng mở hơn, ấm áp hơn. Cỗ máy quay, quay và phải quay mãi mãi. Dừng lại là chết. Một tỉ người đang cào bới vỏ trái đất. Những bánh xe bắt đầu quay. 150 năm nữa sẽ có hai tỉ người. Tất cả các bánh xe dừng lại. Trong vòng 150 tuần nữa lại sẽ chỉ còn một tỉ: Một nghìn triệu người đàn ông và đàn bà đã đói đến chết. Các bánh xe phải quay ổn định, nhưng không được quay mà không có ai coi sóc. Phải có những người đàn ông để coi sóc chúng, những người đàn ông ổn định vững vàng như những bánh xe trên trục của chúng, những người đàn ông lành mạnh, những người đàn ông vâng lời, ổn định trong thỏa mãn. Khóc – con yêu, mẹ yêu, con duy nhất của mẹ, tình yêu duy nhất rên rỉ – Tội lỗi của tôi, Chúa khủng khiếp của tôi; gào lên vì đau, thốt lên vì xúc động, than khóc tuổi già và nghèo khổ – làm thế nào họ có thể chăm sóc cho các bánh xe quay? Và nếu họ không thể chăm sóc cho các bánh xe… Những thi thể của nghìn triệu đàn ông và đàn bà khó mà chôn hoặc đốt. “Và dù sao” – giọng Fanny dỗ dành – “thì việc có một hay hai người đàn ông ngoài Henry chẳng phải cái gì đau đớn hay khó chịu. Và thấy rằng cô nên bừa bãi hơn một tí…” “Ổn định” – ngài Kiểm soát nhấn giọng nhắc lại – “ổn định. Nhu cầu đầu tiên và cuối cùng. Ổn định. Kể từ đây tất cả chỉ là ổn định”. Ngài vung tay chỉ những mảnh vườn, tòa nhà khổng lồ của Trung tâm Tạo Phản xạ, những đứa trẻ trần truồng lén lút trong bụi cây thấp hay chạy ngang qua bãi cỏ. Lenina lắc đầu. “Không biết làm sao” – cô mơ màng – “gần đây tôi không thấy mấy thiết tha với lối sống tạp. Có những lúc người ta không thích thế. Cô không cảm thấy như vậy sao, Fanny?” Fanny gật đầu đồng tình và thông cảm. “Nhưng người ta phải cố gắng” – cô nói, giọng dạy đời – “Người ta phải chơi trò chơi này. Dù sao, mọi người đều thuộc về mọi người khác”. “Đúng, mọi người đều thuộc về mọi người khác” – Lenina chầm chậm nhắc lại và thở dài, im lặng một lúc; rồi, cầm tay Fanny, hơi bóp mạnh – “Cô hoàn toàn đúng, Fanny ạ. Như thường lệ. Tôi sẽ cố gắng”. Sức đẩy bị hãm lại chảy tràn ra, và dòng chảy tràn đó là tình cảm, là dục vọng, thậm chí là điên rồ: Nó phụ thuộc vào lực của dòng chảy, độ cao và sức mạnh của lực cản. Những dòng chảy không kiểm soát được chảy êm vào những kênh cho trước, thành trạng thái yên vui êm đềm. (Các phôi đói, những chiếc bơm máu-giả không ngừng quay với tốc độ 800 vòng/phút. Những trẻ sơ sinh được gạn tru lên, ngay lập tức nữ y tá xuất hiện với một chai chất bài tiết. Tình cảm ẩn núp trong khoảng thời gian giữa ước muốn và việc hoàn thành nó. Rút ngắn khoảng thời gian đó, thì phá vỡ được tất cả những rào cản không cần thiết). “Những cậu trai may mắn!” – ngài Kiểm soát nói – “Không có nỗi đau nào dư thừa để làm cho cuộc sống của các cậu trở nên dễ dàng về mặt cảm xúc, để bảo vệ các cậu đến mức có thể, khỏi bất kỳ thứ cảm xúc nào”. “Ford đang ở trong chiếc xe ôtô rẻ tiền của ông” – GĐLÂ thì thầm – “Mọi thứ đều ổn với thế giới này”. “Lenina Crowne?” – Henry Foster nói, nhắc lại câu hỏi của Phó Phòng Tiền định khi anh ta kéo khóa quần lên. “Ồ, cô ấy là một cô gái tuyệt vời. Phốp pháp và phổng phao. Tôi ngạc nhiên là anh vẫn chưa chiếm lấy nàng.” “Tôi không thể nghĩ tôi vẫn chưa chiếm nàng là thế nào” – Phó Phòng Tiền định nói – “Chắc chắn tôi sẽ chiếm được. Vào dịp gần nhất”. Từ vị trí của mình ở phía đối diện với gian thay quần áo, Bernard Marx nghe lỏm được câu chuyện họ vừa nói và tái mặt. “Và nói thật với cậu, tớ bắt đầu thấy hơi ngán vì hàng ngày chẳng có ma nào khác ngoài Henry Foster”. Cô đi tất bên trái vào chân. “Cậu có biết Bernard Marx không?” – Cô hỏi bằng cái giọng thận trọng quá mức rõ ràng là gượng gạo. Fanny có vẻ giật mình. “Cô định nói…?” “Tại sao không? Bernard là một Alpha Cộng. Ngoài ra, anh ấy đã rủ tớ đi thăm một trong những Khu Bảo tồn Hoang dã với anh ấy. Tớ lúc nào cũng muốn đến một Khu Bảo tồn Hoang dã. “Nhưng tiếng xấu của anh ta?” “Tớ cần cóc gì quan tâm tới tiếng xấu của anh ta?” “Người ta bảo anh ấy không thích Golf Chướng ngại?” “Người ta bảo, người ta bảo” – Lenina chế nhạo. “Và anh ta dùng hầu hết thời gian ở một mình” – giọng Fanny có chút tinh quái. “Được, thế thì bây giờ anh ta không một mình nữa, anh ta đã có tớ. Và dù sao chăng nữa, tại sao mọi người khó chịu với anh ấy thế? Tớ thấy anh ấy khá ngọt ngào”. Cô tự mỉm cười với mình, cô ngớ ngẩn đáng thẹn quá! Gần như hoảng sợ – như thể cô là một vị Kiểm soát Thế giới còn anh ta là người coi máy Gamma Trừ. “Hãy xem xét cuộc sống của chính các cậu” – Mustapha Mond nói – “Có ai trong các cậu từng gặp chướng ngại không thể vượt qua chưa?” Câu hỏi được trả lại bằng sự im lặng phủ định. “Có ai trong các cậu từng bị buộc phải sống qua khoảng thời gian dài giữa ý thức về ham muốn và việc thực hiện nó chưa?” “Vâng” – một cậu bắt đầu, và ngập ngừng. “Nói đi” – GĐLÂ nói – “Đừng để ngài Ford tái thế phải đợi”. “Cháu có lần đã phải đợi bốn tuần trước khi cô gái cháu muốn để cho cháu có được cô ta.” “Và vì thế mà cậu có một xúc cảm mạnh chứ?” “Dạ, mạnh khủng khiếp!” “Khủng khiếp, chính xác!” – Ngài Kiểm soát nói – “Tổ tiên chúng ta đã ngu ngốc và thiển cận đến nỗi khi những nhà cải cách đầu tiên đến và ngỏ ý giải thoát họ khỏi những xúc cảm khủng khiếp ấy, họ đã chẳng biết làm gì”. “Nói về nàng như thể nàng là một miếng thịt” – Bernard nghiến răng – “Chiếm nàng chỗ này, chiếm nàng chỗ khác. Như miếng thịt cừu. Rẻ rúng nàng như thịt cừu. Nàng nói nàng sẽ suy nghĩ, tuần này nàng sẽ cho mình câu trả lời. Ôi, Ford Ford Ford”. Gã muốn lao đến chỗ bọn chúng và đấm thẳng vào mặt chúng, đấm thật mạnh, đấm liên hồi. “Đúng đấy, tớ thật sự muốn cậu thử cô ấy” – Henry Foster nói. “Lấy ví dụ Ectogenesis[20]. Pfitzner và Kawaguchi[21] đã loại bỏ toàn bộ kỹ thuật ấy. Nhưng liệu các Chính phủ có nhòm ngó đến không? Không. Có một thứ gọi là Đạo Cơ Đốc. Phụ nữ bị bắt buộc phải tiếp tục sinh con.” “Hắn ta xí trai quá!” – Fanny nói. “Nhưng tớ lại thích diện mạo của anh ta.” “Và nhỏ con quá” – Fanny nhăn mặt, sự nhỏ con đáng ghê tởm và là một đẳng cấp thấp điển hình. “Tớ nghĩ thế là khá ngọt ngào” – Lenina nói – “Người ta cảm thấy muốn vuốt ve cưng chiều anh ta. Cậu biết không. Như con mèo vậy”. Fanny lắc đầu. “Người ta nói ai đó đã mắc sai lầm khi anh ta còn ở trong chai – đã tưởng nhầm anh ta là một Gamma – và cho rượu vào chất Giả máu của anh ta. Đó là lý do anh ta còi cọc như vậy.” “Vớ vẩn!” – Lenina phẫn nộ. “Dạy học trong khi ngủ thực sự bị cấm ở nước Anh. Có một thứ gọi là chủ nghĩa tự do. Nghị viện – nếu các cậu biết là gì – thông qua một đạo luật chống lại nó. Các hồ sơ vẫn còn đó. Những bài diễn văn về tự do của nhân dân. Tự do bất tài và tự do khổ ải. Tự do là cái chốt tròn trong một lỗ vuông.” “Nhưng, bạn vàng ạ, cậu sẽ được tiếp nhận, tớ bảo đảm với cậu, cậu sẽ được vui vẻ tiếp nhận” – Henry Foster phát lên vai Phó Phòng Tiền định – “Dù sao, mọi người thuộc về mọi người khác”. “Một trăm lần nhắc lại, ba đêm mỗi tuần trong bốn năm” – Bernard Marx nghĩ, gã là chuyên gia về dạy học trong khi ngủ – “62.400 lần nhắc lại sẽ làm ra một sự thật. Những thằng ngu!” “Hoặc Hệ thống Đẳng cấp. Thường xuyên đề nghị, thường xuyên bác bỏ. Có một thứ được gọi là nền dân chủ. Làm như con người không chỉ là một sự bình đẳng lý-hóa, mà hơn thế.” “Thôi được, tôi chỉ có thể nói là tôi nhận lời mời này.” Bernard ghét họ, ghét lắm, nhưng họ có hai người, họ to con, họ mạnh. “Chiến tranh Chín năm bắt đầu năm A.F.141.” “Không, cho dù nếu việc cho rượu vào chất Giả-máu của anh ta là đúng.” “Phosgene, chloropicrin, ethyl iodoacetate, diphenylcyanarsine, trichlormethyl, chloroformate, dichlorethyl sulphide. Chưa nói đến cả acid hydrocyanic.” “Chỉ đơn giản là tớ không tin” – Lenina kết luận. Tiếng ầm ầm của mười bốn nghìn máy bay đến trước theo lệnh công khai. Nhưng ở Kurfurstendamm và Khu Hành chính số Tám, vụ nổ bom vi trùng hầu như không lớn hơn tiếng bôm bốp của những túi bằng giấy. “Bởi vì tớ rất muốn đi thăm Khu Bảo tồn Hoang dã.” CH8C6H2(N02)8 + Hg(CNO)2 = ? – Ờ, bằng gì? Một cái lỗ khổng lồ trong đất, một đống vữa, ít mẩu thịt và nước nhầy, một cái chân vẫn còn mang giày, bay qua không khí và đáp xuống, bốp, đúng giữa một bụi phong lữ, những cây màu đỏ sẫm; thật là một pha ngoạn mục mùa hè này. “Cô thật vô vọng, Lenina ạ, hết thuốc chữa rồi.” “Kỹ thuật của Nga gây nhiễm trùng các nguồn nước thật tài tình.” Ngồi quay lưng lại với nhau, Fanny và Lenina tiếp tục cuộc trao đổi trong im lặng. “Chiến tranh Chín năm và cuộc Đại Suy thoái Kinh tế. Có một sự lựa chọn giữa Kiểm soát Thế giới và Hủy diệt. Giữa Ổn định và…” Fanny Crowne cũng là một cô gái dễ thương” – Phó Phòng Tiền định nói. Trong khu nhà trẻ, những bài học Ý thức Lớp Sơ đẳng đã hết, những giọng nói thích ứng nhu cầu tương lai và cung cấp công nghiệp tương lai. “Tớ rất thích bay” – chúng thì thầm – “Tớ rất thích bay, tớ rất thích có quần áo mới, tớ rất thích…” “Tất nhiên, chủ nghĩa tự do là cái chết vì vi trùng, nhưng dù sao các anh cũng không thể làm mọi việc bằng sức mạnh.” “Còn lâu mới phổng phao như Lenina. Ồ, còn lâu.” “Nhưng quần áo cũ thì thật kinh tởm” – tiếng thì thầm vẫn tiếp tục không biết mệt – “Bọn tớ luôn luôn quẳng quần áo cũ đi. Vứt đi còn hơn khâu vá, vứt đi còn hơn…” “Công việc của Chính phủ là ngồi, chứ không phải đánh. Anh thống trị bằng bộ óc và mông đít, chứ không bao giờ bằng nắm đấm. Chẳng hạn, có một chính sách cưỡng bách tiêu dùng.” “Đây, tớ đã sẵn sàng rồi” – Lenina nói, nhưng Fanny vẫn lặng lẽ ngoảnh đi – “Chúng ta hòa nào, Fanny thân mến”. “Mọi đàn ông, đàn bà và trẻ con buộc phải tiêu thụ nhiều trong một năm. Vì quyền lợi của ngành công nghiệp. Kết quả duy nhất…” “Vứt đi còn hơn khâu vá lại. Càng nhiều mũi khâu, càng kém sang giàu, càng nhiều mũi khâu…” “Một trong những ngày này” – Fanny nói, buồn bã nhấn mạnh – “cô sẽ gặp rắc rối”. “Mục tiêu chín chắn trên quy mô khổng lồ. Cái gì không dùng đến, trả lại tự nhiên.” “Tớ rất thích bay, tớ rất thích bay.” “Trả lại cho văn hóa. Đúng, thật sự cho văn hóa. Anh không thể tiêu thụ nhiều nếu anh ngồi im một chỗ mà đọc sách.” “Trông tớ có ổn không?” – Lenina hỏi. Áo khoác của cô bằng vải acetate màu xanh lá cây và cổ áo lông thú bằng tơ nhân tạo xanh lá cây. Tám trăm Tù Chung thân khờ dại bị bắn hạ bằng súng máy ở Golders Green. “Vứt đi còn hơn khâu vá lại. Vứt đi còn hơn khâu vá lại.” Chiếc quần soóc bằng nhung kẻ màu xanh lá cây và tất len viscose dài dưới đầu gối. Rồi đến cuộc thảm sát nổi tiếng ở Bảo tàng Anh quốc. Hai nghìn người say mê văn hóa bị đầu độc bằng hơi ngạt dichlorethyl sulphide. Một chiếc mũ đua ngựa màu xanh lá cây và trắng che rợp mắt Lenina; đôi giày xanh lá cây sáng và được đánh bóng loáng. “Cuối cùng” – Mustapha Mond nói – “Các Nhà Kiểm soát nhận ra rằng bạo lực là không tốt. Những phương pháp chậm hơn nhưng chắc chắn hơn nhiều về phát triển cơ thể trong môi trường nhân tạo (Ectogenesis) và phương pháp Pavlov-mới tạo phản xạ có điều kiện (điều kiện hóa) và dạy học trong lúc ngủ…” Và quanh eo cô đeo một dây lưng giả da dê màu xanh lá cây có nẹp bạc, phình ra (vì Lenina không phải loại phụ nữ vô sinh) với những dụng cụ tránh thai được cung cấp theo quy định. “Những phát minh của Pfitzner và Kawaguchi cuối cùng được áp dụng. Một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ chống lại việc tái sản sinh bằng sinh đẻ…” “Tuyệt!” – Fanny nhiệt tình kêu lên. Cô không bao giờ cưỡng lại sức quyến rũ của Lenina được lâu – “Và chiếc thắt lưng nhân-mãn[22] mới tuyệt làm sao chứ!” “Kèm theo một chiến dịch chống Quá khứ; bằng cách đóng cửa các Viện Bảo tàng, cho nổ tung các tượng đài lịch sử (may sao phần lớn chúng đã bị phá hủy trong Chiến tranh Chín năm), cấm tất cả các sách xuất bản trước A.F.150.” “Tớ nhất định phải kiếm một cái giống của cậu mới được” – Fanny nói. Chẳng hạn có một thứ gọi là kim tự tháp. “Cái dây đeo súng cũ bằng da sơn màu đen của tớ...” “Và một người đàn ông tên là Shakespeare. Tất nhiên các cậu chưa bao giờ nghe nói về những thứ ấy.” “Nó thật sự đáng ghét, cái dây đeo súng ấy của tớ.” “Đó là những ưu điểm của nền giáo dục thật sự khoa học.” “Càng nhiều mũi khâu, càng kém sang giàu, càng nhiều mũi khâu…” “Việc giới thiệu Mẫu-T[23] đầu tiên của Ford của chúng ta...” “Tớ có nó gần ba tháng nay.” “Được chọn làm ngày mở đầu kỷ nguyên mới.” “Vứt đi còn hơn khâu vá lại. Vứt đi còn hơn...” “Có một thứ, tôi đã nói ban nãy, gọi là Đạo Cơ Đốc.” “Vứt đi còn hơn khâu vá lại.” “Nền đạo đức và triết học của tiêu thụ-thấp…” “Tớ thích quần áo mới, tớ thích quần áo mới, tớ thích…” “Hết sức cần thiết khi có nền sản xuất-thấp; nhưng trong thời đại của máy móc và nitrogen ngưng kết – nó chắc chắn là một tội ác chống lại xã hội.” “Henry Foster cho tớ đó.” Tất cả các chữ thập bị cắt phần đầu, trở thành những chữ T. Còn có một thứ gọi là Chúa.” “Nó đúng là đồ giả da dê thuộc đấy.” Bây giờ chúng ta có Nhà nước Toàn cầu. Và những lễ kỷ niệm Ngày Ford, và những Đồng ca Cộng đồng, và những Ban Đoàn kết. “Ford![24], tao căm ghét chúng mày quá chừng!” – Bernard Marx nghĩ. “Có một thứ gọi là Thiên đường, nhưng tất cả bọn họ đều uống quá nhiều rượu.” “Giống như miếng thịt, rất giống miếng thịt.” “Có một thứ gọi là linh hồn và một thứ gọi là sự bất tử.” “Cậu cứ hỏi Henry xem anh ấy kiếm nó ở đâu?” “Nhưng họ thường chơi á phiện và cocaine.” “Và tệ hơn nữa, nàng cũng nghĩ nàng là miếng thịt.” “2.000 nhà dược học và sinh hóa học được tài trợ vào năm A.F.178.” “Trông nó rầu rĩ thật!” – Phó Phòng Tiền định chỉ Bernard Marx. “Sáu năm sau nó sẽ được sản xuất đại trà. Thứ thuốc tuyệt hảo.” “Chúng mình chọc nó đi.” “Phấn khích, ma túy, gây ảo giác thích thú.” “Rầu rĩ thế, Marx, sao rầu rĩ thế!” – Một cái vỗ vai khiến gã giật mình, nhìn lên. Đó là thằng đểu Henry Foster. “Thứ cậu cần là một gram tế bào cơ thể.” “Tất cả mọi ưu điểm của Đạo Cơ Đốc và rượu cồn, không có những khuyết điểm của chúng.” “Ford, tao muốn giết nó!” – Nhưng gã chỉ nói – “Không, cám ơn” – và né tránh tuýp thuốc được đưa ra mời. “Biến hiện thực thành ngày hội bất cứ khi nào ta muốn, và trở về không đến nỗi bằng cơn nhức đầu hay một thần thoại.” “Lấy đi” – Henry nài – “lấy đi”. “Ổn định thật sự được bảo đảm.” “Một centimét khối trị được mười mối u sầu” – Phó Phòng Tiền định nhắc lại một châm ngôn học-trong-khi-ngủ quen thuộc. “Chỉ còn phải chinh phục tuổi già.” “Đ.m mày, đ.m mày!” – Bernard Marx gào lên. “Ngu xuẩn!” “Các hormone sinh dục, truyền máu trẻ, các muối ma-giê…” “Và nên nhớ rằng một gram tốt hơn một câu chửi[25]” – Họ tiếp tục trêu chọc và cười. “Tất cả mọi dấu tích sinh học đáng buồn[26] của tuổi già đã được xóa bỏ. Và cùng với chúng, tất nhiên…” “Đừng quên hỏi anh ấy về chiếc thắt lưng nhân-mãn nhé!” – Fanny nói. “Và cùng với chúng, tất cả những tính khí kỳ quặc của người già. Các tính cách vẫn giữ nguyên không đổi trong suốt đời người.” “Hai vòng Golf Chướng ngại phải qua trước khi trời tối. Tớ phải bay đây.” “Làm việc, chơi – vào tuổi sáu mươi với sức lực và những sở thích cứ như còn ở tuổi mười bảy. Những người già thời trước thường từ bỏ mọi thứ, về hưu, theo tôn giáo, dành thời gian để đọc sách, suy nghĩ và suy nghĩ!” “Những thằng ngu, đồ lợn!” – Bernard Marx tự nói một mình, khi gã bước vào hành lang đến chỗ thang máy. “Bây giờ – tiến bộ biết bao – người già làm việc, người già giao hợp, người già không có thời gian, không có thì giờ nhàn rỗi theo ý thích, không có một phút nào ngồi xuống và suy nghĩ – hay nếu thoảng hoặc nhờ một dịp bất hạnh nào đó trong kẽ hở thời gian có thể hé ra những trò tiêu khiển đặc quánh của họ, thì đã luôn luôn có soma[27], soma ngon ngọt, nửa gram cho nửa ngày nghỉ, và một gram cho một cuối tuần, hai gram cho một chuyến đi phương Đông tráng lệ, ba cho một vĩnh hằng tăm tối trên mặt trăng, quay trở về họ sẽ thấy mình ở phía bên kia của kẽ hở thời gian ấy, an toàn trên mặt đất rắn chắc của lao động và giải trí hàng ngày, chạy nhao từ Fili[28] này đến Fili khác, từ cô gái nọ đến cô nàng phổng phao kia, từ sân Golf Điện từ đến…” “Đi chỗ khác chơi, lũ con gái kia” – GĐLÂ quát giọng giận dữ – “Đi chỗ khác chơi, mấy thằng con trai kia! Chúng mày không thấy ngài Ford tái thế đang bận à? Đi và chơi trò chơi ái tình ở nơi khác”. “Lũ trẻ tội nghiệp” – ngài Kiểm soát nói. Chầm chậm, trang nghiêm, với tiếng máy rì rầm nho nhỏ, các băng chuyền tiến lên, 33 centimét/giờ. Trong bóng tối màu đỏ sậm, vô số viên hồng ngọc lóe sáng. [8] Nguyên văn: His Fordship – danh xưng một nhân vật đáng tôn kính mang đầy “tính chất Ford”. (ND) [9] Harappa: nền văn minh cổ thuộc thời đại Đồ Đồng, ở Pakistan. (ND) [10] Ur: một thành bang quan trọng của khu vực Lưỡng Hà cổ đại (nay thuộc Iraq). (ND) [11] Chaldaea: dân tộc Xê-mit sống ở Chaldaea, thuộc vùng đông nam khu vực Lưỡng Hà vào cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ X tr.C.N. Sau thế kỷ VI (tr.C.N) bị đồng hóa vào Babylon. (ND) [12] Thebes: địa danh quan trọng trong thần thoại Hy Lạp, với những câu chuyện về Cadmus, Oedipus, Dionysus... (ND) [13] Babylon: thành phố quan trọng trong khu vực Lưỡng Hà cổ, nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates. (ND) [14] Cnossos: (Knossos) từ tên thành phố cổ Hy Lạp Crete (thời đại Đồ Đồng). (ND) [15] Mycenae: thành phố cổ và là trung tâm của nền văn minh Hy Lạp trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. (BT) [16] Feelies: phim nhục cảm, gợi tình, khích động tiếp xúc cơ thể, với tâm thế tự do thoải mái. Người xem ngồi trong những chiếc ghế đặc biệt, có thể sờ và tương tác với phim. (ND) [17] Có Ford biết là cái gì: Có Trời biết là cái gì. (ND) [18] Giả-thai: Nguyên văn – Pregnancy Substitute. (ND) [19] Xem chú thích 1, trang 23. (ND) [20] Ectogenesis: sự phát triển của một cơ thể sinh vật trong môi trường nhân tạo. (ND) [21] Hanz Pfitzner (1869 – 1949): nhà soạn nhạc Đức nổi tiếng với vở opera Palestrina. Vở opera này mô tả Cộng đồng Trent, một hội nghị của Giáo hội Công giáo để giải quyết vụ rùm beng về những cải cách mới của đạo Tin Lành. Ekai Kawaguchi (1866 – 1945): nhà sư Nhật Bản. Cả hai nhân vật này ám chỉ tôn giáo, vì các nhân vật hư cấu trong truyện này đi ngược lại những niềm tin tôn giáo phổ biến lúc đó, bằng cách phát triển Ectogenesis (quá trình nuôi bào thai bên ngoài dạ con). (ND) [22] Nguyên văn: Malthusian belt. Thomas Robert Malthus (1766 – 1834): nhà kinh tế chính trị và nhân khẩu học người Anh, đề xướng thuyết nhân-mãn (Malthusianism). Ông tin rằng trừ khi sự tăng trưởng dân số chậm lại thông qua việc kiêng cữ và kết hôn trễ, thế giới sẽ hết thức ăn và mọi người sẽ chết đói. (ND) [23] Mẫu-T: mẫu ôtô Ford, tay lái bên trái. (ND) [24] Ford!: Trời ơi! (ND) [25] Nguyên văn châm ngôn: “A gram is better than a damn”. (ND) [26] Nguyên văn: stigmata – Nghĩa gốc: những dấu vết trên cơ thể chúa Jesus khi người bị đóng đinh trên thập giá. (ND) [27] Soma: là một từ tiếng Phạn được đề cập trong các kinh Veda để chỉ loại nước thiêng được dùng trong các buổi lễ tôn giáo của các tín đồ Bà La Môn. Aldous Huxley dùng từ “soma” trong Thế giới mới tươi đẹp để chỉ loại thuốc đem lại ảo giác hạnh phúc cho người sử dụng. (BT) [28] Xem chú thích 1, trang 59. (ND) Chương bốn 1 Thang máy đầy chặt đàn ông từ các Phòng Thay đồ của Alpha, và Lenina đi vào giữa sự chào đón là những cái gật đầu và nụ cười thân thiện. Lenina là cô gái được nhiều người biết đến, và vào lúc nào đó đã qua đêm với hầu hết bọn họ. Họ là những chàng trai đáng yêu, cô nghĩ khi đáp lại sự chào đón của họ. Những chàng trai quyến rũ! Cô vẫn mong rằng vành tai của George Edzel không to đến thế (có lẽ anh đã bị người ta cho hơi quá nhiều tuyến cận giáp (parathyroid) ở Mét 328 chăng?). Và nhìn sang Benito Hoover, cô không khỏi nhớ lại hắn nhiều lông như thế nào lúc trút bỏ quần áo. Mắt cô hơi buồn khi quay đi với hồi tưởng những sợi lông xoăn đen của Benito. Trong một góc, cô thấy thân hình nhỏ thó và bộ mặt sầu muộn của Bernard Marx. “Bernard!” – Cô bước tới phía gã – “Em đang tìm anh”. Giọng của cô vang lên rành rọt, trong tiếng vo vo của thang máy đang lên. Những người khác ngó một cách tò mò. “Em muốn nói với anh về kế hoạch New Mexico của chúng ta”. Bằng đuôi mắt của mình cô có thể thấy Benito Hoover đang há hốc mồm ngạc nhiên. Điều ấy làm cô bực mình. “Ngạc nhiên vì mình đã không cầu xin đi với lão ta lần nữa!” – Cô tự nhủ. Rồi nói to lên, giọng ấm hơn bao giờ hết. “Chẳng là em thích đi với anh một tuần trong tháng Bảy” – cô tiếp tục. (Cách nào đó, cô đang công khai chứng tỏ cô không chung thủy với Henry. Fanny chắc phải thích lắm, cho dù đó chỉ là Bernard). “Tức là, nếu anh muốn có em” – cô nở nụ cười ngọt ngào nhất, đầy ý nghĩa. Khuôn mặt tái nhợt của Bernard đỏ bừng lên. “Sao phải thế nhỉ” – cô ngạc nhiên tự hỏi, nhưng đồng thời cảm kích vì cái bằng chứng kỳ lạ này về quyền lực của cô. “Chúng ta nói chuyện này ở chỗ khác không tốt hơn sao?” – Gã lắp bắp, trông gã bối rối khủng khiếp. “Như thể mình vừa nói điều gì chấn động ấy” – Lenina nghĩ – “nếu mình đã chơi xấu, đi hỏi anh ta mẹ anh là ai, hay cái gì tương tự thế, anh ta cũng không thể lúng túng hơn”. “Ý tôi là, với tất cả những người này ở chung quanh…” – gã bực bội với sự lúng túng của mình. Tiếng cười của Lenina thẳng thắn và không tàn nhẫn. “Anh buồn cười thật đấy”, và cô thật sự nghĩ gã ngộ nghĩnh. “Anh sẽ báo trước cho em ít nhất ba tuần, được không anh?” – cô tiếp tục bằng giọng khác – “Em đề nghị chúng ta đi Tên Lửa Thái Bình Dương Xanh? Nó xuất phát từ Tháp Charing-T phải không? Hay nó từ Hampstead?” Trước khi Bernard kịp trả lời, thang máy dừng lại. “Tầng thượng!” – Một giọng kẽo kẹt cất lên. Người giữ thang máy là một người nhỏ như con khỉ, mặc đồng phục màu đen của một Semi-Moron[29] Epsilon Trừ. “Tầng thượng!” Gã mở tung cửa. Ánh mặt trời ấm áp rực rỡ của buổi chiều khiến gã giật mình và nháy mắt. “O, Tầng thượng!” – gã nhắc lại bằng giọng phấn khích. Như thể gã đột ngột thức dậy một cách vui thích từ một cơn ngẩn ngơ tăm tối. “Tầng thượng!” Gã mỉm cười nhìn lên những khuôn mặt hành khách của gã với sự tôn kính được chờ đợi ở loài chó. Nói chuyện và cười với nhau, họ bước ra ngoài ánh sáng. Người giữ thang máy nhìn theo họ. “Tầng thượng?” – Gã nói thêm lần nữa, giọng dò hỏi. Rồi chuông reo, từ trần thang máy, một chiếc loa bắt đầu nói, rất êm nhưng cũng rất hách, ban ra những mệnh lệnh của nó. “Xuống” – nó nói – “Xuống. Tầng Mười tám. Xuống, xuống. Tầng Mười tám. Xuống…” Người giữ thang máy đóng sầm cửa, ấn một nút rồi ngay lập tức rơi vào chỗ nhá nhem, cái nhá nhem của tình trạng ngẩn ngơ quen thuộc của chính gã. Trên tầng thượng sáng và ấm. Buổi chiều Chủ nhật uể oải mơ màng trong tiếng vù vù của những chiếc trực thăng bay qua; và tiếng rít của những máy bay mang tên lửa, hối hả, vô hình bay qua bầu trời trong sáng trên cao năm sáu dặm, giống như vuốt ve bầu không khí êm dịu. Bernard Marx hít một hơi thở sâu. Gã nhìn lên bầu trời và nhìn quanh đường chân trời xanh thẳm, cuối cùng nhìn xuống mặt Lenina. “Đẹp quá!” – Giọng gã hơi run. Cô mỉm cười với gã với vẻ đồng cảm. “Thật tuyệt cho Golf Chướng ngại” – cô sung sướng trả lời. “Và bây giờ em phải bay đây, anh Bernard. Henry sẽ giận nếu em bắt anh ấy đợi. Lúc nào tiện anh cho em biết ngày giờ bay”. Và vừa vẫy tay, cô vừa chạy băng qua sân thượng phẳng rộng tới nhà chứa máy bay. Bernard đứng nhìn ánh lấp lánh của đôi tất trắng, đôi đầu gối rám nắng liên tục khuỵu xuống rồi lại thẳng lên một cách linh hoạt, và chiếc quần soóc nhung kẻ bên dưới chiếc áo choàng màu xanh lá cây. Nét mặt gã tỏ ra đau đớn. “Phải nói là cô ấy rất đẹp” – một giọng nói oang oang vui vẻ ngay sau lưng gã. Bernard giật mình nhìn quanh. Khuôn mặt mập mạp đỏ gay của Benito Hoover đang toe toét cười với gã, cái cười rõ ràng là tỏ ý thân thiện. Benito có tiếng là tốt bụng. Người ta nói rằng anh ta có thể đi qua thế gian này mà không cần đến thân xác. Thói xấu và tính ác mà người khác phải có trong các cuộc vui không bao giờ làm phiền đến anh. Với Benito, thực tại luôn là ngày hội. “Và phốp pháp nữa chứ!” – và với một giọng khác, anh tiếp tục – “Nhưng này, trông anh rầu rĩ quá! Cái anh cần là một gram soma”. Thọc tay vào túi quần bên phải, Benito lấy ra một lọ nhỏ. “Một centimét khối trị được mười... nhưng này!” Bernard bỗng quay người và cắm đầu chạy. Benito chăm chú nhìn theo. “Có chuyện gì với anh chàng này thế nhỉ?” – anh tự hỏi, và, lắc đầu quyết định rằng câu chuyện người ta cho rượu vào máu-giả của cu cậu tội nghiệp này chắc chắn là thật. “Chắc là chạm đến não của gã rồi, mình đoán thế”. Anh cất lọ soma đi, rồi lấy ra một gói kẹo cao su hormone tình dục, nhét một miếng vào mồm, và bước chầm chậm về phía nhà để máy bay, vừa đi vừa nhai. Henry Foster đã cho đẩy trực thăng ra khỏi gian chứa, và khi Lenina đến, anh ta đã ngồi đợi trong buồng lái. “Chậm bốn phút” – anh bình luận khi cô trèo lên ngồi cạnh anh. Anh khởi động động cơ và gài cho cánh quạt của chiếc trực thăng quay. Máy bay lao thẳng lên không. Henry tăng tốc, tiếng vù vù của cánh quạt lúc đầu như đàn ong bắp cày sau như đàn ông bò vẽ, rồi như đàn muỗi; đồng hồ tốc độ cho thấy họ đang lên với tốc độ hai kilômét một phút. London thu nhỏ lại bên dưới. Trong vài giây, những tòa nhà khổng lồ chọc trời trông không hơn những cây nấm có dạng hình học mọc lên trên thảm xanh của các công viên và các khu vườn. Giữa chúng là một cây nấm mảnh hơn, cao hơn: Tháp Charing-T[30] nâng lên bầu trời một đĩa bê tông sáng lóa. Giống như những thân mình mơ hồ của các lực sĩ trong thần thoại, những đám mây khổng lồ lơ lửng trên không trung màu xanh trên đầu họ. Từ trên đó bỗng rơi xuống một con côn trùng nhỏ màu đỏ, vo ve trong khi rơi. “Có những Tên Lửa Đỏ” – Henry Foster nói – “từ New York đến”. Nhìn đồng hồ tay. “Trễ mất bảy phút” – anh nói thêm, và lắc đầu – “Những Hãng bay Đại Tây Dương này, chúng chậm trễ một cách tệ hại”. Anh bỏ chân ra khỏi bàn đạp tăng tốc. Tiếng vù vù của cánh quạt trên đầu đã giảm một octave rưỡi, trở về tiếng ong vò vẽ qua tiếng ong bắp cày về tiếng ong thường, tới tiếng bọ da, rồi tiếng bọ vừng. Chuyển động thẳng đứng vọt lên của máy bay chững lại, sau một khoảnh khắc nó treo bất động trên không trung. Henrry đẩy một tay điều khiển, một tiếng “kích”. Cánh quạt phía trước bắt đầu quay, lúc đầu chậm, rồi nhanh dần nhanh dần, cho đến khi nó giống như một vành sương mù trước mắt họ. Gió theo chiều ngang cản lại chuyển động của máy bay, rít đinh tai nhức óc. Henry dán mắt vào đồng hồ tốc độ quay, khi kim chỉ đến vạch một nghìn hai trăm vòng một phút, anh nhả gài cánh quạt trên đầu trực thăng. Động cơ đủ động lượng lao tới trước để có thể bay trên tầm cao của nó. Lenina nhìn xuống qua ô cửa kính trên sàn giữa hai chân cô. Họ đang bay cao sáu kilômét trên vùng công viên ngăn cách Trung tâm London với vành đai ngoại ô đầu tiên của nó. Màu xanh lá cây đang giận dữ với cuộc sống bị thu ngắn lại. Những rừng tháp Bắt bóng Ly tâm lập lòe giữa đám cây cối. Gần Shepherd’s Bush, hai nghìn Beta Trừ đang chơi quần vợt mặt Riemann[31], đánh đôi hỗn hợp. Một hàng đôi Năm Sân Thang cuốn nối con đường chính từ Notting Hill đến Willesden. Trong sân vận động Ealing, một cuộc đồng diễn thể dục của Delta và hát cộng đồng đang tiếp diễn. “Màu kaki trông thật tởm” – Lenina nhận xét, nói lên thành kiến đẳng cấp mà cô đã học được trong lúc ngủ. Các tòa nhà của Xưởng phim Fili Hounslow chiếm bảy hecta rưỡi. Gần đó, một đoàn quân lao động quần áo đen và kaki đang bận rộn tráng lại mặt Đường Tây Lớn. Một trong những nồi nấu di động khổng lồ đang được rót ra khi họ bay qua. Đá nấu chảy được rót ra thành dòng nóng sáng đến chói mắt từ bên này qua bên kia đường; những máy cán a-mi-ăng đến và đi, ở đuôi một chiếc xe tưới nước, hơi nước bốc lên thành những đám mây trắng. Ở Brentford, nhà máy của Tập đoàn Truyền hình trông giống như một thành phố nhỏ. “Chắc họ đang thay ca” – Lenina nói. Giống như một đàn kiến và rệp, những cô gái Gamma bận đồ xanh lá cây, những Semi-Moron bận đồ đen đi thành đàn quanh những lối vào, hoặc đứng xếp hàng để lên những xe điện một ray công cộng. Những Beta Trừ quần áo màu dâu tằm đến và đi trong đám đông. Nóc tòa nhà chính sống động với những trực thăng lên xuống. “Em nói rồi” – Lenina nói – “Em mừng vì mình không phải là một Gamma”. Mười phút sau, họ đã tới Stoke Poges và đã bắt đầu vòng đánh Golf Chướng ngại đầu tiên của họ. 2 Với đôi mắt phần lớn nhìn xuống, nếu có lúc nào nhìn người đồng loại thì cũng lén lút và vội vã quay đi, Bernard hối hả đi ngang qua sân thượng. Gã giống như một kẻ bị săn đuổi, bị săn đuổi bởi những kẻ thù mà gã không muốn thấy mặt, sợ rằng dường như chúng căm ghét hơn gã nghĩ, và bản thân gã cảm thấy có tội hơn và thậm chí đơn độc vô vọng hơn. “Cái tay Benito Hoover kinh khủng ấy!” – Và dù người đàn ông đó đã có ý tốt. Nhưng theo cách nào đó, điều ấy chỉ làm cho nó tồi tệ hơn nhiều. Những người có ý tốt hành động cùng một cách với người có ý xấu. Thậm chí Lenina cũng đang làm cho gã đau khổ. Gã nhớ lại hai tuần dùng dằng chưa quyết vì nhút nhát, trong đó gã đã trông chờ và mong đợi và tuyệt vọng vì không có can đảm để hỏi nàng. Gã có dám đối mặt với nguy cơ bị nhục vì một lời từ chối khinh bỉ hay không? Nhưng nếu nàng nói vâng, thì sướng điên! Quái, sao bây giờ nàng đã nói rồi, mà gã vẫn đau khổ – đau khổ vì nàng đã nghĩ đó là một buổi chiều tuyệt vời để chơi Golf vượt chướng ngại vật, và nàng đã chạy tót đi với Henry Foster, và nàng đã thấy là gã buồn cười vì không muốn nói về những chuyện thầm kín nhất ở chỗ đông người. Nói tóm lại, đau khổ vì nàng đã xử sự như bất kỳ cô gái Anh đoan trang và lành mạnh nào, mà không theo cách bất thường, lạ đời nào khác. Gã mở cửa gian để trực thăng của mình, gọi một cặp song sinh Delta Trừ làm công việc phục vụ đang lảng vảng quanh đó đến đẩy máy bay của gã ra ngoài sân thượng. Nhà chứa máy bay có một Nhóm Bokanovsky độc thân phục vụ – những người đàn ông hoàn toàn giống nhau, cùng nhỏ thó đen đúa gớm ghiếc. Bernard ra lệnh bằng giọng sắc lạnh, khá ngạo mạn và thậm chí xúc phạm của một người không cảm thấy được hoàn toàn bảo đảm ở ưu thế của mình. Có việc với những người đẳng cấp thấp hơn luôn luôn là những trải nghiệm khó chịu đối với Bernard. Dù do nguyên nhân gì (và tiếng đồn đang lưu truyền về việc có rượu trong máu-giả của gã rất có thể là thật) thì thể chất của Bernard cũng không hơn gì của một Gamma trung bình. Gã thấp hơn một Alpha tiêu chuẩn đến tám centimét và mảnh khảnh tương ứng. Việc tiếp xúc với những thành viên đẳng cấp thấp hơn luôn gợi gã nhớ một cách đau khổ đến cái thể chất không xứng đáng của mình. “Tôi là tôi, và tôi ước gì tôi không phải là tôi”; tự ý thức của gã sắc nhọn và căng thẳng. Mỗi lần gã thấy mình phải ngước lên, thay vì cúi xuống, để nhìn vào mặt một Delta, gã cảm thấy nhục nhã. Kẻ kia có đối xử với gã một cách tôn trọng tương ứng với đẳng cấp của gã không? Câu hỏi ấy ám ảnh gã. Không phải là không có lý do. Vì những Gamma, Delta và Epsilon đã được điều kiện hóa đến một mức nào đó để liên hệ kích cỡ thân thể với ưu thế xã hội. Thật ra, một thành kiến mờ nhạt học được trong khi ngủ thiên vị kích thước là phổ biến. Bởi vậy tiếng cười của người phụ nữ mà gã ngỏ lời, thực tế là trêu chọc sự bình đẳng của gã giữa những người đàn ông. Sự chế nhạo khiến gã cảm thấy như một người bị loại ra ngoài, và cái cảm giác ấy lại khiến gã hành xử như một người ngoài cuộc, điều ấy càng làm tăng thành kiến chống lại gã, và làm mạnh thêm sự khinh bỉ và thù địch do khiếm khuyết cơ thể của gã gợi lên. Đến lượt nó, sự khinh miệt này làm tăng thêm cảm giác cô độc và xa lạ của gã. Một nỗi sợ bị coi thường kinh niên làm cho gã tránh né những người cùng đẳng cấp, mỗi khi động đến sự thấp kém của gã, gã lại cảnh giác giữ phẩm giá của mình. Gã thấy ganh tị một cách cay đắng biết bao những người như Henry Foster và Benito Hoover! Những người đàn ông không bao giờ phải quát tháo một Epsilon để bắt tuân theo một mệnh lệnh; những người đàn ông chiếm địa vị của mình một cách nghiễm nhiên; những người vẫy vùng trong hệ thống đẳng cấp như một con cá ở trong nước, hoàn toàn thoải mái đến mức không có ý thức về bản thân họ hoặc về yếu tố tốt đẹp và thuận lợi bao bọc thân phận của họ. Gã thấy hình như hai tên phục vụ song sinh này đang đẩy máy bay của gã ra sân thượng một cách uể oải, miễn cưỡng. “Nhanh lên!” – Bernard giận dữ quát. Một trong hai tên liếc hắn. Có phải gã đã thấy trong đôi mắt trống rỗng kia vẻ cười cợt đểu cáng không nhỉ? “Nhanh lên” – gã quát to hơn, trong giọng gã có sự tức tối. Gã trèo lên máy bay và một phút sau bay về hướng nam, về phía sông. Nhiều phòng của Nha Tuyên truyền và Cao đẳng Thiết kế Cảm xúc trong một tòa nhà sáu mươi tầng đơn lập trong phố Hạm đội. Trong tầng hầm và trên những tầng thấp là nhà in báo chí và những văn phòng của ba tờ báo lớn của London, Radio Hàng Giờ (Hourly Radio) số 777, một tờ đẳng cấp cao, tờ Gamma Gazette xanh nhợt, và trên giấy kaki cùng những từ một âm tiết dành riêng, tờ Tấm gương Delta (Delta Mirror). Rồi đến Nha Tuyên truyền bằng Truyền hình, bằng tranh ảnh gợi cảm, và bằng Giọng Nhân tạo, và Âm nhạc, theo thứ tự chiếm hai mươi hai tầng. Trên nữa là những phòng thí nghiệm nghiên cứu và những phòng cách âm, trong đó những Nhà Văn Ghi âm và Nhà Soạn nhạc Nhân tạo làm những công việc phức tạp. Cao đẳng Thiết kế Cảm xúc chiếm mười tám tầng cuối cùng. Bernard hạ xuống nóc Tòa nhà Tuyên truyền và bước ra khỏi máy bay. “Gọi điện cho ngài Helmholtz Watson” – gã ra lệnh cho một phu khuân vác Gamma Cộng – “nói với ngài ấy rằng ngài Bernard Marx đang chờ ngài ở trên tầng thượng”. Gã ngồi xuống và châm một điếu thuốc. Helmholtz Watson đang viết khi nghe tin. “Nói với ngài ấy ta sẽ lên ngay” – anh ta nói rồi gác máy. Rồi, quay qua cô thư ký của mình – “Tôi cho phép cô để công việc của tôi lại” – anh ta tiếp tục bằng giọng trịnh trọng và bâng quơ, và, phớt lờ nụ cười mê hồn của cô ta, đứng lên và lanh lẹn bước ra cửa. Anh ta là một người cường tráng, ngực nở, vai rộng, rắn chắc nhưng cử chỉ rất lanh lẹ, sôi nổi và hoạt bát. Cái cổ tròn mạnh khỏe của anh nâng đỡ một cái đầu có dáng rất đẹp. Tóc anh đen và quăn, những đường nét của anh rất nổi bật. Nói một cách nhấn mạnh và thuyết phục, anh ta đẹp trai và, như cô thư ký của anh không ngừng nhắc lại, Alpha Cộng đến từng centimét. Về nghề nghiệp thì anh là giảng viên tại Cao đẳng Thiết kế Cảm xúc (Khoa Viết) và giữa những thời gian làm công việc đào tạo, anh làm việc như một Kỹ sư Cảm xúc. Anh viết đều đặn cho Radio Hàng giờ (Hourly Radio), soạn những kịch bản phim-tình Fili[32] và có sở trường nhất về những khẩu hiệu và những câu có vần để dạy trong khi ngủ. “Giỏi” là lời nhận định của các cấp trên của anh ta. “Có lẽ, (và họ lắc đầu, hạ thấp giọng một cách đầy ý nghĩa) hơi quá giỏi.” Vâng, hơi quá giỏi, họ nói đúng. Sự quá mức về trí tuệ đã tạo ra ở Helmholtz Watson những hiệu quả rất giống với kết quả của sự khiếm khuyết về thể chất ở Bernard Marx. Xương và não quá nhỏ của Bernard đã ngăn cách anh ta với đồng loại, và cảm giác cách biệt này, theo mọi tiêu chuẩn hiện hành, là một sự quá mức về trí tuệ, đến lượt nó lại làm cho khoảng cách biệt càng rộng hơn. Điều làm cho Helmholtz cảm thấy về bản thân mình thật khó chịu và đơn độc là sự dư thừa năng lực. Hai người có nhận thức giống nhau ở chỗ họ biết họ là những cá nhân. Nhưng trong khi do khiếm khuyết cơ thể, Bernard phải chịu đựng suốt đời mình ý thức về sự cách biệt, thì Helmholtz Watson chỉ gần đây mới nhận ra rằng, vì sự dư thừa trí tuệ của mình, anh đã tỏ ra khác những người xung quanh anh biết bao. Nhà vô địch môn Bóng quần trên Thang cuốn này (Escalator-Squash), người tình không biết mệt mỏi này (nghe đồn anh đã có sáu trăm bốn mươi cô gái khác nhau trong vòng chưa đến bốn năm), vị ủy viên hội đồng đáng ngưỡng mộ này, và con người bặt thiệp nhất này đột ngột nhận ra rằng thể thao, phụ nữ, những hoạt động vì cộng đồng, theo anh, chỉ đứng hạng hai. Thật ra, và nói cho cùng, anh quan tâm đến một thứ khác. Nhưng là cái gì, cái gì? Đó là vấn đề mà hôm nay Bernard đến để thảo luận với anh ta, hay đúng hơn, vì Helmholtz luôn luôn là người nói trong tất cả các cuộc nói chuyện, đến để nghe bạn thảo luận, thêm một lần nữa. Ba cô gái quyến rũ từ Phòng Tuyên truyền bằng Giọng Nhân tạo chặn đường anh khi anh bước ra khỏi thang máy. “Ô, anh Helmholtz thân yêu, mời anh đến dự bữa tiệc picnic của chúng em ở Exmoor” – họ bám quanh anh nài nỉ. Anh lắc đầu, đẩy họ ra lấy lối đi. “Không, không.” “Chúng em không mời người đàn ông nào khác.” Nhưng Helmholtz vẫn lắc đầu quầy quậy trước hứa hẹn đầy hoan lạc này. “Không” – anh nhắc lại – “tôi bận”. Và anh quả quyết đi đường của mình. Các cô gái bám theo. Mãi đến lúc anh đã leo lên máy bay của Bernard và đóng sầm cửa, các cô mới chịu bỏ cuộc. Không phải không có những lời trách móc. “Những người đàn bà này!” – anh nói khi máy bay cất lên – “Những người đàn bà này!”. Và anh lắc đầu, anh nhăn mặt. “Quá xấu!” – Bernard đồng tình giả dối. Khi gã nói mấy lời ấy, gã thầm ước giá gã có thể có nhiều gái như Helmholtz, mà lại ít rắc rối như thế. Bỗng nhiên gã cảm thấy có nhu cầu khẩn cấp phải khoác lác. “Tớ sắp đưa Lenina Crowne sang New Mexico” – gã cố nói với giọng làm ra vẻ tình cờ nhất. “Thật hả?” – Helmholtz nói với giọng hoàn toàn không quan tâm. Rồi, sau một phút ngưng – “Cách đây một hay hai tuần, mình đã cắt đứt với các ủy ban và tất cả các cô gái của mình. Cậu có thể tưởng tượng chuyện này làm rùm beng ở trường Cao đẳng như thế nào không? Mình nghĩ, như thế cũng đáng. Những hậu quả…” anh ngập ngừng – “ừ, rất kỳ, rất kỳ quái”. Một khiếm khuyết của cơ thể có thể gây ra một kiểu thái quá về tâm thần. Hình như quá trình này có thể đảo ngược. Sự thái quá về tâm thần, vì các mục đích của nó, có thể gây ra tình trạng mù và điếc về nỗi cô đơn cố ý, sự bất lực nhân tạo của lối tu khổ hạnh. Đoạn còn lại của chuyến bay ngắn diễn ra trong im lặng. Khi họ đến nơi và đã thoải mái nằm duỗi dài trên nhưng chiếc sofa bơm hơi trong phòng Bernard, Helmholtz mới lại bắt đầu nói. Bằng giọng chầm chậm, anh hỏi: “Cậu có bao giờ cảm thấy có một cái gì bên trong chỉ đợi cậu cho nó một cơ hội để vọt ra ngoài không? Một kiểu năng lực dư thừa mà cậu chưa dùng đến, cậu biết không, giống như nước rơi xuống thành thác thay vì qua những tuôc-bin ấy?”. Anh nhìn Bernard chờ đợi câu trả lời. “Ý cậu muốn nói tất cả những cảm xúc mà người ta cảm thấy nếu sự việc xảy ra khác đi?” Helmholtz lắc đầu. “Không hoàn toàn như thế. Mình đang nghĩ đến những cảm giác kỳ quái mà đôi khi mình có, một cảm giác rằng mình có điều quan trọng để nói và có khả năng nói nó ra, chỉ có điều mình không biết nó là cái gì, và không thể nào sử dụng được khả năng ấy. Nếu có một cách khác để viết… Hay một điều gì khác để viết về…” Rồi anh im lặng. “Cậu biết không” – cuối cùng anh nói – “mình rất giỏi bịa ra những câu – thứ câu chữ làm cậu nhảy dựng lên ấy, cứ như là cậu ngồi phải một chiếc đinh ghim, chúng có vẻ rất mới mẻ và kích động, mặc dù chúng rõ ràng là một thứ gì đó học được trong lúc ngủ. Nhưng như thế dường như vẫn chư đủ. Chưa đủ để làm thành những câu tốt; những gì cậu làm với chúng cũng cần phải tốt”. “Nhưng mọi thứ ở cậu đều tốt mà, Helmholtz.” “Ồ, trong phạm vi của chúng thì tốt đấy” – Helmholtz nhún vai – “Nhưng phạm vi của chúng rất hẹp. Cách nào đó, chúng không quan trọng lắm. Tôi cảm thấy tôi có thể làm cái gì đó quan trọng hơn nhiều. Ừ, mãnh liệt hơn, dữ dội hơn. Nhưng cái gì? Có cái gì quan trọng hơn mà nói? Và làm sao người ta có thể dữ dội hơn những thứ mà người ta mong đợi sẽ viết về? Từ ngữ cũng giống như những tia X, nếu sử dụng đúng nó sẽ xuyên qua mọi thứ. Anh đọc và anh bị xuyên qua. Đó là một trong những điều tôi cố dạy cho các học trò của tôi – làm thế nào viết xuyên thấu. Nhưng bị một bài báo về Bài hát Cộng đồng, hay cải tiến mới nhất trong các cơ quan khứu giác xuyên thấu thì có lợi quái gì? Mặt khác, liệu cậu có thể làm cho từ ngữ trở nên thật sự dữ dội, như những tia X mạnh nhất, khi cậu viết, về những chuyện như thế không? Cậu có thể nói điều gì đó về những chuyện chẳng có gì không? Tóm lại, vấn đề là như thế. Tôi cố gắng và cố gắng…” “Suỵt!” – Bernard bỗng đưa một ngón tay cảnh báo, họ lắng nghe. “Tớ nghĩ có ai đang đứng sau cánh cửa” – gã thì thầm. Helmholtz đứng dậy, nhón bước đi qua phòng, và bằng một động tác rất nhanh gọn, giật mở tung cửa phòng. Tất nhiên, không có ai ở đó. “Tớ xin lỗi”. Bernard trông lúng túng một cách lố bịch. “Tớ nghĩ tớ có chút vấn đề về thần kinh. Khi người ta ngờ vực anh, anh đâm ra ngờ vực họ.” Gã lấy tay che mắt, thở dài, giọng gã trở nên ai oán. Gã đang tự biện hộ cho mình. “Nếu cậu biết gần đây tớ đã phải chuốc lấy những gì” – gã nói như sắp khóc và sự thương thân như một dòng nước bị nén lại bỗng nhiên chảy tràn ra. “Giá mà cậu biết!” Helmholtz Watson nghe với cảm giác chắc chắn là khó chịu. “Tội nghiệp Bernard bé nhỏ” – anh tự nhủ. Nhưng đồng thời anh thấy xấu hổ cho bạn mình. Anh ước gì Bernard có thể tỏ ra tự hào hơn một chút. [29] Người lớn mà trí não chỉ bằng trẻ con 9, 10 tuổi. (ND) [30] Ở London có Charing – Cross (Tháp Thập giá). Trong Thế giới mới tươi đẹp, thập giá bị bẻ đầu đi thành chữ T, mọi người làm mẫu-T thay cho dấu thánh giá. (ND) [31] Mặt Riemann: Nguyên văn – Riemann face – Trong toán học, mặt Riemann đặt theo tên nhà toán học Bernhard Riemann (1826 – 1866). Có thể được xem là những bản uốn cong của mặt phẳng phức. (BT) [32] Xem chú thích 1, trang 59. (ND) Chương năm 1 Vào khoảng tám giờ ánh sáng yếu dần. Cái loa trên tháp Trụ sở Câu lạc bộ Stoke Poges[33] bắt đầu thông báo đóng cửa các sân. Lenina và Henry thôi đánh và đi bộ trở lại Câu lạc bộ. Từ các sân của Xí nghiệp Liên hợp Nội Ngoại Tiết vọng đến những tiếng rống của hàng nghìn trâu bò – những gia súc cung cấp nguyên liệu là những hormone và sữa của chúng cho những nhà máy lớn ở Farnham Royal. Tiếng vù vù như côn trùng của những chiếc trực thăng choán đầy buổi chạng vạng. Cứ hai tiếng rưỡi một lần, một tiếng chuông và tiếng rúc chói tai của những chiếc còi thông báo sự khởi hành của những xe điện một ray nhẹ chở những người đánh golf từ những sân golf khác nhau về trung tâm đô thị. Lenina và Henry leo lên trực thăng của mình và khởi hành. Ở tám trăm foot[34], Henry giảm tốc độ cánh quạt, và trong một hai phút họ treo lơ lửng trên phong cảnh mờ dần. Rừng Burnham Beeches như một vực tối trải rộng đến bên bờ sáng rực của bầu trời phía tây. Màu đỏ sậm nơi chân trời cuối cùng của hoàng hôn nhạt đi, chuyển qua màu cam, màu vàng rồi màu lục nhạt. Phương Bắc, vươn cao trên những vòm cây, nhà máy Nội Ngoại Tiết chói lóa với ánh điện rực rỡ dữ dội tỏa ra từ mọi cửa sổ của hai mươi tầng nhà của nó. Bên dưới chúng là những tòa nhà của Câu lạc bộ Golf – dãy trại khổng lồ của Đẳng cấp Thấp, và ở phía bên kia của một bức tường ngăn cách là những ngôi nhà nhỏ hơn dành cho các thành viên Alpha và Beta. Các lối vào ga xe điện một ray tối đen với tầng lớp dân cư đông như kiến thuộc đẳng cấp thấp đang hoạt động. Từ bên dưới vòm kính một đoàn tàu sáng rực lao vọt ra khoảng không. Theo hành trình đông nam của nó qua bình nguyên tối mắt, họ bị hút vào những tòa nhà Lò Hỏa thiêu Tuyệt vọng. Để an toàn cho những máy bay bay đêm, bốn ống khói cao của nó ngập trong ánh sáng và trên đầu có những tín hiệu đỏ nhấp nháy. Nó là một cột mốc. “Tại sao những cột ống khói kia có những vật giống như những ban công xung quanh chúng?” – Lenina hỏi. “Thu hồi phốt-pho” – Henry giải thích vắn tắt – “Trên đường lên ống khói, các thể khí đi qua bốn xử lý tách biệt. Trước đây mỗi lần hỏa táng một người, P2O5thường thoát thẳng ra ngoài khí quyển. Bây giờ người ta thu hồi hơn chín mươi tám phần trăm. Mỗi xác người lớn hơn một kilôgram rưỡi. Nó tạo thành phần lớn nhất trong bốn trăm tấn phốt-pho mỗi năm chỉ riêng ở Anh”. Henry nói với niềm tự hào vui sướng, vô cùng hoan hỉ với thành tích này, như thể thành tích của chính anh vậy. “Thật tuyệt khi nghĩ rằng chúng ta vẫn tiếp tục có ích cho xã hội cả sau khi chúng ta chết. Làm cho cây cối lớn mau.” Trong khi đó Lenina đã đưa mắt nhìn thẳng xuống nhà ga xe điện một ray. “Tuyệt” – cô đồng ý. “Nhưng quái quỷ là những Alpha và Beta không làm cây lớn mau nhiều bằng những Gamma, Delta và Epsilon thô bỉ dưới kia.” “Về phương diện vật lý – hóa học, mọi người đều bình đẳng” – Henry lên mặt đạo đức – “Ngoài ra, ngay cả những Epsilon cũng thực hiện những nhiệm vụ tuyệt đối cần thiết”. “Ngay cả những Epsilon…” – Lenina bỗng nhớ lại một dịp, khi còn là một nữ sinh ở trường, đang nửa đêm cô bị đánh thức và lần đầu tiên cô nhận ra một giọng thì thầm ám mọi giấc ngủ của cô. Cô lại thấy luồng ánh trăng, dãy giường nhỏ màu trắng, nghe một giọng rất êm dịu nói (lời nói còn đó, chưa quên, không thể quên được sau hiều nhiều lần nhắc lại suốt đêm): “Mọi người làm việc cho mọi người khác. Chúng ta không thể thiếu bất cứ ai. Ngay cả các Epsilon cũng có ích. Chúng ta không thể thiếu các Epsilon. Mọi người làm việc cho mọi người khác. Chúng ta không thể thiếu bất cứ ai…” Lenina nhớ lại lần đầu tiên cô đã sốc vì ngạc nhiên sợ hãi như thế nào, những suy đoán của cô qua nửa giờ thức; và sau đó, dưới ảnh hưởng của những lặp lại vô tận đó, thứ tụng ca êm dịu đó len dần, lén lút len dần vào giấc ngủ của cô… “Em nghĩ những Epsilon không thật sự phiền lòng vì họ là những Epsilon…” – cô nói to. “Tất nhiên là không. Làm sao họ có thể? Họ không biết là loại người khác là như thế nào. Chúng ta thì bận tâm, tất nhiên. Nhưng rồi chúng ta đã được đào luyện[35] cách khác. Ngoài ra, chúng ta xuất phát với những đặc tính di truyền khác nhau.” “Em vui mừng em không phải là một Epsilon” – Lenina nói với sự tin chắc. “Và nếu em là một Epsilon, thì việc đào luyện của em sẽ làm cho em không kém phần biết ơn rằng em đã không phải một Beta hay một Alpha.” Anh gài số tiến cho ánh quạt và hướng trực thăng về phía London. Sau lưng họ, ở hướng tây, màu đỏ tía và màu cam đã nhạt đi; một dải mây đen đang trườn lên đỉnh trời. Khi họ bay ngang qua trên lò hỏa táng, máy bay vọt lên cao trên cột không khí nóng thoát ra từ các ống khói, và đột ngột rơi xuống khi nó đi vào. “Một cú ngoặt tuyệt diệu!” – Lenina cười vui vẻ. Nhưng giọng Henry có một thoáng buồn. “Em có biết cú ngoặt ấy là cái gì không? Đó là một người nào đó cuối cùng đã hoàn toàn biến mất. Đi vào một luồng ga nóng. Thật tò mò muốn biết đó là một người đàn ông hay đàn bà, Alpha hay Epsilon...” – anh thở dài. Sau đó, bằng một giọng vui vẻ dứt khoát, anh nói: “Dù sao, có một điều chúng ta có thể chắc chắn, dù đó là ai, thì hắn cũng hạnh phúc khi còn sống. Bây giờ mọi người đều hạnh phúc”. “Vâng, bây giờ mọi người đều hạnh phúc” – Lenina lặp lại. Họ đã nghe những lời này nhắc lại một trăm năm mươi lần mỗi đêm trong suốt mười hai năm. Đậu xuống nóc ngôi nhà bốn mươi tầng của Henry ở Westminster, họ đi thẳng xuống phòng ăn. Ở đó, giữa đám bạn ồn ào vui vẻ, họ ăn một bữa tuyệt ngon. Soma được dọn cùng với cà phê. Lenina lấy hai viên nửa gram và Henry lấy ba viên. Vào lúc chín giờ hai mươi, họ đi qua các phố đến một tiệm ăn mới mở ở Tu viện Westminster. Đó là một đêm không mây, không trăng và trời đầy sao; nhưng Henry và Lenina may mắn đã không nhận ra điều đáng chán này. Những ký hiệu bầu trời đã đẩy lùi bóng tối bên ngoài. “CALVIN STOPES VÀ MƯỜI SÁU SEXOPHONISTS[36]”. Từ mặt tiền của Tu viện mới, những hàng chữ khổng lồ lóe lên mời mọc. “ĐÀN ORGAN HƯƠNG SẮC TUYỆT NHẤT LONDON. TOÀN BỘ ÂM NHẠC TỔNG HỢP MỚI NHẤT”. Hai người bước vào. Không khí dường như nóng lên và ngạt thở với mùi long diên hương và mùi gỗ đàn hương. Trên vòm trần của thính phòng, chiếc đàn organ-màu mới được sơn màu hoàng hôn nhiệt đới. Mười sáu Sexophonist đang chơi bản nhạc ưa thích cũ. “Không có Chai nào trên toàn thế giới giống Chai nhỏ thân yêu của tôi”. Bốn trăm cặp đang đi điệu năm bước vòng quanh mặt sàn bóng lộn. Lenina và Henry nhanh chóng trở thành cặp bốn trăm lẻ một. Những chiếc sexophone rên rỉ như tiếng mèo kêu dưới trăng, than van bằng giọng alto và tenor[37] như thể thần chết đang bay qua đầu chúng. Phong phú về hòa âm, những điệp khúc run rẩy của nó ngày càng to hơn, mạnh hơn, cuối cùng lên đến cực đỉnh, theo cái vẫy tay của người chỉ huy dàn nhạc, nốt kết siêu phàm vút lên, thổi mười sáu nhạc công trần thế bay vào hư không. Điệu La giáng trưởng vang lên như sấm. Và sau đó, trong cái im lặng và bóng tối bao trùm, âm thanh từ từ xìu đi, trượt xuống diminuendo (nhẹ dần), qua một phần tư cung thấp xuống, thấp nữa thành một hợp âm thầm thì yếu ớt kéo dài (trong khi nhịp năm-bốn vẫn còn dập bên dưới) chất lên những khoảnh khắc đen tối một sự chờ đợi nặng nề. Rồi cuối cùng sự chờ đợi ấy cũng được thỏa nguyện. Mặt trời bỗng bừng lên. Và đồng thời, nhóm Mười sáu bật lên hát: Chai của tôi, em chính là người tôi luôn mong muốn! Chai của tôi, tại sao tôi đã được gạn? Các bầu trời trong xanh bên trong em, Tiết trời bao giờ cũng đẹp; Vì Không có Chai nào trên toàn thế giới Như Chai thân yêu của tôi. Cùng đi điệu nhảy Năm-bước với bốn trăm cặp khác xung quanh Tu viện Westminster, Henry và Lenina vẫn đang nhảy trong một thế giới khác – thế giới ấm áp, đầy màu sắc, vô cùng thân thiện của ngày hội soma. Mọi người tốt làm sao, đẹp đẽ làm sao, vui tươi hấp dẫn làm sao! “Chai của tôi, em chính là người tôi luôn mong muốn…” Nhưng Lenina và Henry đã có thứ mà họ muốn… Họ ở bên trong, ở đây và bây giờ, bên trong với thời tiết tốt, bầu trời vĩnh viễn trong xanh. Và khi mệt lử, nhóm Mười sáu, sau khi đã trình bày bằng những sexophone và nhạc khí Âm nhạc tổng hợp đang giới thiệu những bản Blue Malthus Slow mới nhất, có lẽ họ đã là những bào thai giống hệt nhau đang dịu dàng chơi rock với nhau trên sóng của một đại dương máu-giả đóng chai. “Chúc ngủ ngon, các bạn thân mến. Chúc ngủ ngon, các bạn thân mến”. Những chiếc loa khàn khàn phát ra những lệnh của chúng bằng một giọng âm nhạc lễ phép. “Chúc ngủ ngon, các bạn thân mến…” Ngoan ngoãn, cùng với tất cả những người khác, Lenina và Henry ra về. Những ngôi sao buồn bã đã di chuyển một đoạn qua bầu trời. Nhưng mặc dầu màn ảnh tách riêng của những dấu hiệu bầu trời nay đã tan đi phần lớn, hai bạn trẻ vẫn còn giữ nguyên cảm giác hạnh phúc không biết gì về đêm. Nửa giờ trước khi đóng cửa, họ nuốt liều soma thứ hai, và nó dựng lên một bức tường thành không thể xuyên thấu giữa vũ trụ có thực và trí óc họ. Được đóng chai, họ đi qua phố, được đóng chai, họ đi thang máy lên phòng Henry trên tầng hai mươi tám. Tuy nhiên, dù đã được đóng chai, và mặc dù có nửa gram soma thứ hai, Lenina vẫn không quên dùng thuốc tránh thai được chỉ định theo nội quy. Nhiều năm học trong khi ngủ, và cẩn thận đề phòng như thế này đã thành tự động và quen thuộc gần như mù quáng. “Ồ, và điều đó nhắc em nhớ” – cô nói khi từ phòng tắm bước ra – “Fanny Crowne muốn biết anh kiếm ở đâu chiếc thắt lưng giả da dê xinh đẹp mà anh cho em đó”. 2 Thứ năm là những ngày hành lễ Đoàn kết của Bernard. Sau một bữa tối ăn sớm ở Aphroditaeum[38](mà gần đây Helmholtz được bầu theo Quy tắc số Hai) gã xin phép bạn và gọi một chiếc taxi-trực thăng trên nóc, bảo người lái bay đến Fordson Community Singery. Chiếc trực thăng lên cao hai trăm mét, nhằm hướng đông, và khi nó quay mình, trước mắt Bernard hiện ra Singery vô cùng tráng lệ. Ngập trong ánh sáng, ngọn tháp giả cẩm thạch[39] ba trăm hai mươi mét của nó chói sáng như tuyết trên Đồi Ludgate[40]; tại mỗi góc trong bốn góc của sân bay trực thăng đều có một chữ T khổng lồ đỏ rực trên nền trời đêm, và từ miệng của hai mươi bốn kèn trumpet vàng ầm ầm vang lên một bản nhạc tổng hợp trang trọng. “Chết tiệt, mình muộn mất rồi” – Bernard tự nhủ khi gã thoáng nhìn thấy Big Henry[41], chiếc đồng hồ của Singery. Và, chắc chắn hơn, khi gã trả tiền taxi, Big Henry điểm nhạc báo giờ. “Ford” – một giọng trầm vang dội từ tất cả các trumpet bằng vàng. “Ford, Ford, Ford...” Chín giờ. Bernard chạy đến thang máy. Thính phòng lớn để cử hành Ngày lễ Ford và những Đồng ca Cộng đồng do đám đông hát ở tầng trệt của tòa nhà. Bên trên, mỗi tầng một trăm phòng, cả thảy bảy nghìn phòng do những Nhóm Đoàn kết dùng cho những buổi hành lễ hai tuần một lần của họ. Bernard xuống tầng ba mươi ba, đi hối hả theo hành lang, đứng ngần ngừ một lúc bên ngoài Phòng 3210, và sau khi tự lên dây cót tinh thần cho mình, gã mở cửa bước vào. """