" Thành Phố Và Lũ Chó - Mario Vargas Llosa & Xuân Quỳnh Lê (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thành Phố Và Lũ Chó - Mario Vargas Llosa & Xuân Quỳnh Lê (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo THÀNH PHỐ VÀ LŨ CHÓ —★— Tác giả: Mario Vargas Llosa Người dịch: Lê Xuân Quỳnh Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Văn Học 2012ebook©vctvegroup LỜI GIỚI THIỆU Năm 1962, khi còn là bản thảo, Thành phố và lũ chó[1] đã được nhận Giải thưởng Thư viện Ngắn gọn của Nhà xuất bản Seix Barral, cho đến hiện nay vẫn là một trong những nhà xuất bản danh tiếng nhất Tây Ban Nha và Mỹ Latinh. Ngay khi vừa được xuất bản, năm 1963, cuốn tiểu thuyết đã được trao giải thưởng của Giới phê bình Tây Ban Nha và gây nên chấn động chưa từng thấy trong dư luận xã hội và trong giới học giả, nhanh chóng được dịch ra ba mươi thứ tiếng và ngày nay được đánh giá là tác phẩm kinh điển trong nền văn học không chỉ của đất nước Perú mà còn của Mỹ Latinh nói chung. Trong nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh, nhà văn nổi tiếng người Guatemala, Miguel Angel Asturias, giải thưởng Nobel Văn chương năm 1967, và nhà văn người Cuba, Alejo Carpentier, được coi là những người khởi đầu và đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (realismo mágico hoặc realismo maravilloso), một khám phá độc đáo của văn học Mỹ Latinh hiện đại[2]. Còn nhà văn Perú Mario Vargas Llosa lại là một trong những người đi tiên phong, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách tân thi pháp tiểu thuyết, mà vấn đề cốt lõi là sử dụng thời gian đa tuyến, một kỹ thuật hết sức mới mẻ thời bấy giờ, đồng thời cũng sáng tạo ra những kỹ thuật kể chuyện có hiệu quả để nắm bắt và phản ánh hiện thực như mê cung của đất nước ông. Trong Thành phố và lũ chó, thời gian đa tuyến được tác giả sử dụng thông qua kỹ thuật tự sự đa chủ thể: thời gian “trong cốt truyện” thông qua chuyện kể của ngôi thứ ba (người kể chuyện) theo diễn biến từ đầu đến cuối - từ khi học viên Cava bị Nhóm bạn giao cho việc ăn cắp đề kiểm tra môn hóa, vô tình làm vỡ cửa kính, nhà trường phạt các học viên gác đêm hôm đó không được đi chơi ngoài trường vào thứ Bảy và Chủ nhật; quá bức xúc, học viên Arana (Nô Lệ) liền tố giác khiến Cava bị đuổi học, rồi bản thân Nô Lệ sau đó bị bắn chết trong cuộc diễn tập quân sự… Bên cạnh đó là thời gian “ngoài cốt truyện”, diễn ra qua lời kể của các nhân vật chính: Trăn, Alberto (tức Nhà Thơ), Báo Đen gồm những hồi ức về gia đình, bản thân (ngược chiều với thời gian cốt truyện, kể về những sự việc đã qua, một thứ flashback), thời gian tâm lý gồm tình yêu chớm nở, tình cảm với con chó cái… Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được chia làm hai phần và phần vĩ thanh, mỗi phần có tám chương, mỗi chương thường có bốn hoặc năm phân đoạn, hai chương có đến mười phân đoạn. Một phần ba cuốn tiểu thuyết (ba mươi sáu trong số tám mươi mốt phân đoạn) được kể ở ngôi thứ nhất dưới dạng độc thoại nội tâm của ba nhân vật chính với thời gian và không gian bị đảo lộn, xáo trộn, khiến cốt truyện dù đơn giản cũng trở nên ly kỳ, hấp dẫn. Các đoạn độc thoại này không được nói rõ của nhân vật nào, độc giả phải tự luận ra, hơn nữa chúng lại kết hợp rất khéo léo, khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp với ngôi thứ ba, kỹ thuật kể chuyện này được M. Vargas Llosa tự gọi là “phương pháp bình thông nhau”, ví dụ trong đoạn độc thoại sau đây của Alberto: “Mình có thể sẽ đi mà nói với bố, bố ơi cho con hơi mươi đồng sol đi và ngay bây giờ mình đã thấy rõ, hai mắt bố sẽ đẫm lệ và bố sẽ cho mình bốn mươi hoặc năm mươi đồng, nhưng việc đó sẽ chẳng khác gì nói với bố, con tha thứ cho những việc bố đã làm với mẹ và bố vẫn có thể cứ làm ba cái trò đĩ thoã của mình đi với điều kiện là phải tiếp tục cho con tiền thưởng hậu hậu vào.” Dưới chiếc khăn quàng bằng len của mẹ cho từ mấy tháng trước, đôi môi của Alberto cử động liên tục mà không hề phát ra âm thanh nào… Cấu trúc phức tạp này đòi hỏi nhà văn phải vững tay nghề và, cùng với một cốt truyện ly kỳ, cấu trúc này đã giữ được mạch hồi hộp thích thú cho độc giả và buộc họ phải tham gia tích cực vào diễn biến của câu chuyện, phải chăm chú theo dõi, tự sắp xếp lại không gian và thời gian của các lời kể thì mới có thể nắm chắc được nội dung. Yếu tố kỹ thuật kể chuyện này hoàn toàn mới lạ trong nền tiểu thuyết Mỹ Latinh thời kỳ đó, và trở thành yếu tố kỹ thuật cơ bản của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Và chính Mario Vargas Llosa là một trong những người đầu tiên vận dụng nhuần nhuyễn ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Ngoài ra, khả năng sử dụng ngôn ngữ đời thường, kể cả những từ lóng, thậm chí thô tục của lứa tuổi mới lớn; nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật; sự kết hợp hài hòa giữa những trang miêu tả các sự kiện đầy bạo lực với những trang hết sức trữ tình về tình yêu của những thanh niên mới lớn, tình yêu thuở học trò, những trang miêu tả sương mù bảng lảng đầy chất thơ và chất u ám tăm tối ở khu vực La Perla nơi trường quân sự được xây dựng và ẩn hiện thường xuyên chất hài hước chế giễu sâu cay; tất cả làm nên giá trị nghệ thuật độc đáo và hết sức mới mẻ của tác phẩm này. Nét mới mẻ và độc đáo còn ở ngay nội dung tác phẩm. Thành phố và lũ chó là bản cáo trạng lên án nền giáo dục quân phiệt, quan điểm phân biệt chủng tộc, đẳng cấp xã hội, triết lý kẻ mạnh áp chế kẻ yếu còn ngự trị trong xã hội và trong trường quân sự. Là di sản của chế độ thực dân-phong kiến của Tây Ban Nha, chế độ gia trưởng, vai trò các trưởng lão, các thủ lĩnh (Caudillo) còn tồn tại lâu dài trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Các thế lực quân sự, nhằm đào tạo ra một thế hệ quân nhân mù quáng tôn thờ chế độ gia trưởng, chế độ độc tài quân sự, đã lập ra hệ thống trường quân sự nơi nền giáo dục dựa trên chính bạo lực và dối trá, nơi triết lý kẻ mạnh ngự trị trên hết. Bằng chính trải nghiệm của bản thân, Vargas Llosa đã đề cập đến một đề tài hết sức mới mẻ: nền giáo dục quân phiệt đầy bạo lực. Và Trường Quân sự Leoncio Prado cũng chính là xã hội Perú thu nhỏ với mọi tệ nạn xã hội, đầy rẫy tệ phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội, nguồn gốc văn hóa. Lên án nền giáo dục bạo lực đối với thế hệ thanh niên mới lớn trong trường quân sự, Thành phố và lũ chó cũng mang tính dự báo và kết án chế độ độc tài quân sự đã hình thành ở một số nước và sau đó, suốt thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, đã thống trị một cách tàn bạo ở hầu hết các nước Mỹ Latinh. Đây cũng là một đề tài được nhiều nhà văn nổi tiếng, từ M Angel Asturias, Alejo Carpentier, Augusto Roa Bastos, Ernesto Sabato… đến G. García Márquez đều đã viết và đạt thành tựu quan trọng. Nhưng nếu các nhà văn khác viết về các nhà độc tài, các trưởng lão, thì Vargas Llosa khai thác đề tài nền giáo dục, đào tạo ra bọn độc tài. Thành phố và lũ chó còn hấp dẫn bởi vì lần đầu tiên văn chương đề cập đến đời sống tinh thần và vật chất của lứa tuổi mới lớn trong trường quân sự, tình bạn, tình yêu. Họ là nạn nhân của một xã hội thối nát, của lối giáo dục tàn bạo, nên sống buông thả, bài bạc, đĩ điếm, ăn trộm, vô kỷ luật, tàn nhẫn với nhau, theo đuổi lối sống tình dục bản năng của tuổi chưa trưởng thành (tình dục đồng giới, tình dục với thú vật như gà mái, chó cái), thậm chí còn gây tội ác. Vargas Llosa mạnh dạn bóc trần những tệ nạn đó, lên án và chế giễu chua cay những kẻ đại diện cho chế độ xã hội dựa trên bạo lực và giả dối. Lập trường chống chế độ quân phiệt, chống giai cấp tư sản, chống tư tưởng ỷ thế kẻ mạnh, chống bạo lực tàn bạo của Vargas Llosa trong tác phẩm này đã làm cháy lên tinh thần phản kháng và thức tỉnh ý thức phải đổi mới trong xã hội Perú, như García Márquez từng nói:”… đảo ngược hẳn lại thực tế.” Mới mẻ, đặc sắc từ đề tài, quan điểm tiếp cận thực tế đến phong cách, nghệ thuật kể chuyện cùng những yếu tố kỹ thuật mới, Thành phố và lũ chó được liệt vào một trong những tác phẩm văn học mở đầu cho cuộc bùng nổ của tiểu thuyết Mỹ Latinh. Cùng với Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Carlos Puentes, Mario Vargas Llosas được coi là những nhà văn xuất sắc nhất của Mỹ Latinh từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến hiện nay. M. Vargas Llosa sinh ở Arequipa, Perú, năm 1936, cho đến năm lên mười mới biết mặt bố vì trước đó bố mẹ ông đã ly thân. Từ chỗ được mẹ yêu chiều, khi về sống với bố và mẹ lúc này đã tái hợp, ông phải đối mặt với thái độ hà khắc của bố, từ đó nảy sinh xung đột bố- con, và nỗi khát khao được sống tự do. Ông bị đưa vào học Trường Quân sự Leoncio Prado. Chính trong môi trường bạo lực này, tố chất và năng khiếu văn chương của ông đã được nảy nở: ông viết thư hộ cho bạn, viết truyện tình bán cho bạn học. Ngay khi ra trường, ông tham gia viết báo và nhận ra sự nghiệp đời mình chỉ có thể gắn với chữ nghĩa. Năm 1953 ông vào học ở khoa Văn và Luật trường Đại học San Marcos và bắt đầu viết truyện ngắn; năm 1959 các truyện này được tập hợp trong tập Các vị chỉ huy, giành giải thưởng Leopoldo Alas. Sau đó, ông yêu và kết hôn cùng Julia Urquidi, người dì dâu của chính ông. Năm 1955, cùng với vợ, ông sang châu Âu học tập theo học bổng Javier Prado và lấy bằng Tiến sĩ Triết học và Văn chương; đồng thời tìm thấy môi trường thích hợp cho hoạt động văn học. Những chi tiết trong tiểu sử này đã được ông đưa vào một số tiểu thuyết nổi tiếng như Lầu xanh (La casa verde, 1966), Đối thoại trong quán La Catedral (Conversacion en La Catedral, 1969) và Dì Julia và nhà văn quèn (La tía Julia y el escribidor, 1977, hai cuốn sau đã được dịch ra tiếng Việt). Ngoại trừ một giai đoạn có tham gia hoạt động chính trị, thậm chí là ứng viên tổng thống năm 1990, phần lớn cuộc đời cho đến hiện nay ông dành cho văn học và báo chí. Ông có sức sáng tạo mạnh mẽ: hàng chục tiểu thuyết nổi tiếng như Pantaléon và các nữ du khách (Pantaleón y las visitadoras, 1973); Cuộc chiến tranh nơi tận cùng thế giới (La guerra del fin delmundo, 1981), Câu chuyện của Mayta (Historia de Mayta, 1984), Ai đỡ giết Palomino Molero? (iQuién mató a Palomino Molero?, tiểu thuyết hình sự, 1986), Người nói chuyện (El hablador, 1987), Ca ngợi người mẹ kế (Elogio de la madrastra, 1988), Người Lituma ở dây Andes (Lituma en los Andes, 1993), Những quyển vở của ông Rigoberto (Los cuadernos de don Rigoberto, 1997), Lễ hội của dê (La fiesta del chivo, 2000), Thiên đường nơi góc phố (El paraíso en la otra esquina, 2003), và ở tuổi 70, năm 2006, lần đầu tiên ông viết cuốn tiểu thuyết tình yêu Trò nghịch của gái hư (Travesuras de la nina mala). Ngoài ra ông còn một số lượng rất lớn sách tiểu luận về văn học, triết học, chính trị và nhiều tác phẩm sân khấu. Năm 2010 vừa qua, Mario Vargas Llosa được trao giải thưởng Nobel Văn chương. Bên cạnh đó, ông từng đoạt tất cả các giải thưởng quan trọng nhất ở đất nước Perú và các nước nói tiếng Tây Ban Nha: giải thưởng Cervantes, giải thưởng Hoàng tử Asturias về văn chương - hai giải thưởng danh giá nhất trong các nước nói tiếng Tây Ban Nha - giải thưởng của các nhà xuất bản quan trọng nhất Barral và Planeta, giải thưởng của các nước khác của Mỹ La tinh, của Ý, Pháp, Mỹ, Anh, Đức… Và, như ông tự nói: giải thưởng lớn nhất trong đời chính là niềm đam mê và lòng quyết tâm theo đuổi nghề văn. Lê Xuân Quỳnh LỜI NÓI ĐẦU Tôi bắt đầu viết Thành phố và lũ chó vào mùa thu năm 1958, ở Madrid, trong căn nhà của Menéndez y Pelayo có tên gọi là ElJute, nhìn ra công viên Retiro, và hoàn thành vào mùa đông năm 1961, nơi căn buồng xép ở Paris. Để bịa ra được cốt truyện này, trước hết từ nhỏ tôi đã phải có một chút của Alberto và của Báo Đen, của anh chàng người rừng Cava và của Nô Lệ, là học viên Trường Quân sự Leoncio Prado, là một chàng trai khu phố thượng lưu Miraflores trong Khu phố Vui vẻ và cư dân của La Perla, ở khu Callao; và, thời niên thiếu, đã phải đọc rất nhiều sách phiêu lưu mạo hiểm, phải tin tưởng vào học thuyết của Sartre về nền văn chương có trách nhiệm, đọc nghiến ngấu tác phẩm của Malraux và mang niềm kính phục vô biên đối với các nhà văn Mỹ thuộc thế hệ lạc loài, với tất cả, nhưng, trên tất cả, là với nhà văn Faulkner. Với toàn bộ số bột đó tôi mới gột nên hồ là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, cộng thêm một chút tưởng tượng, ảo tưởng thời thanh niên và kỷ luật của Flaubert. Bản thảo này, như một tâm hồn đau khổ, đã phải lăn lóc từ nhà xuất bản này qua nhà xuất bản khác cho đến khi, nhờ Claude Couffon, người Pháp, bạn của tôi, nhà nghiên cứu văn học Tây Ban Nha và Mỹ Latinh, nó mới đến được tay Carlos Barral, người Barcelona, lúc đó đang lãnh đạo nhà xuất bản Seix Barral. Ông đã trao cho nó giải thưởng Biblioteca Breve (Thư viện Ngắn gọn), đã lập mưu tính kế để cuổn tiểu thuyết này qua mặt được cơ quan kiểm duyệt của chế độ độc tài Franco ở Tây Ban Nha thời đó, phổ biến, phát hành rộng rãi và làm cho nó được dịch ra mấy thứ tiếng nước ngoài. Đây là cuốn sách làm cho bản thân tôi bất ngờ song, còn hơn vậy, nó giống như một tặng vật trời cho, nhờ nó mà tôi mới bắt đầu cảm thấy giấc mơ từ thuở còn mặc quần đùi của mình đã biến thành sự thật: một ngày nào đó mình sẽ thành nhà văn. Mario Vargas Llosa Fuschl, tháng Tám năm 1997 PHẦN MỘT KEAN: “Họ đóng vai người hùng bởi họ hèn nhát và đóng vai các vị thánh bởi họ có ác tâm; họ đóng vai kẻ sát nhân vì họ khao khát giết hại đồng loại mình. Họ đóng các vai đó bởi vì họ là kẻ dối trá bẩm sinh. ” JEAN PAUL SARTRE I “BỐN,” Báo Đen nói. Các gương mặt dịu lại dưới ánh sáng chập chờn của quả đèn cầu lọt qua mấy vuông kính sạch ít ỏi chiếu sáng căn phòng: nguy hiểm đã qua đối với tất cả, trừ với Porhrio Cava. Những quân xúc xắc đã nằm yên, chỉ rõ số ba và số một, màu trắng ngà của chúng nổi bật lên trên nền đất bẩn thỉu. “Bốn,” Báo Đen nhắc lại. “Đứa nào đây?” “Tao,” Cava thì thầm. “Tao đã nói bốn.” “Nhanh lên nào,” Báo Đen giục. “Mày biết rõ rồi đấy, ô kính thứ hai bên trái nhé.” Cava cảm thấy lạnh toát toàn thân. Các buồng tắm đều ở cuối dãy phòng ngủ, ngăn cách với khu phòng ngủ chỉ bằng một cánh cửa gỗ hẹp, và chẳng hề có cửa sổ. Những năm trước đây, mùa đông chỉ đến với các phòng ngủ của học viên bằng cách luồn qua những cửa kính vỡ và những chấn song sắt; nhưng năm nay mùa đông thật khốc liệt nên hầu như không có một ngóc ngách nào trong trường thoát được cơn gió lạnh, thậm chí trong đêm nó còn lùa vào được cả trong các buồng tắm, cuốn theo mùi hôi thối tích tụ cả ngày trời lan đi khắp nơi và đánh tan bầu không khí ấm áp thường có ở nơi đó. Nhưng Cava sinh ra và lớn lên ở vùng rừng núi, đã quá quen với mùa đông giá lạnh: chính nỗi sợ hãi mới làm nó sởn da gà. “Xong rồi à? Tao về ngủ được chưa?” thằng Trăn hỏi: cơ thể và tiếng nói của nó đều thuộc loại ngoại cỡ, một chiếc chổi lông bằng xương bằng thịt có mái tóc nhờn nhờn phủ kín cái đầu to khủng, trên một gương mặt choắt với đôi mắt sâu dường như lúc nào cũng ngái ngủ. Hắn há hốc mồm, môi dưới trề ra ngậm một sợi thuốc lá. Báo Đen quay lại nhìn hắn. “Tao có phiên gác lúc một giờ đêm,” thằng Trăn nói. “Tao muốn chợp mắt một tí.” “Chúng mày đi được rồi,” Báo Đen nói. “Tao sẽ đánh thức chúng mày dậy lúc năm giờ.” Trăn và Xoăn ra khỏi phòng. Một trong hai đứa vấp phải bậc cửa liền lẩm bẩm chửi rủa. “Ngay khi về mày phải đánh thức tao dậy ngay nhé,” Báo Đen ra lệnh. “Mày đừng quá lề mề đấy. Sắp mười hai giờ rồi.” “Ừ,” Cava nói. Gương mặt của nó bình thường kín như bưng, lúc này trông có vẻ mệt mỏi. “Tao đi thay quần áo đây.” Chúng đi ra khỏi buồng tắm. Phòng ngủ tối đen như hũ nút, nhưng Cava chẳng cần nhìn để định hướng đi giữa hai dãy giường hai tầng; nó thuộc lòng cái chốn dài, hẹp và cao này. Lúc này nó thấy một sự yên bình tĩnh lặng xâm chiếm lấy mình, chỉ thoáng bị quấy rầy vì tiếng ngáy hoặc tiếng thì thào. Nó lần được đến giường của mình, cái thứ hai bên phải, tầng dưới, cách cửa ra vào một mét. Trong lúc lần mò tìm trong tủ đựng quần áo cái quần dài, chiếc áo ka ki và đôi ủng ngắn cổ, nó còn cảm thấy sát ngay mặt mình hơi thở nồng nặc mùi thuốc lá của Vallano đang nằm ngủ ở giường trên. Trong bóng tối nó vẫn nhận ra được hai hàm răng to trắng muốt của thằng bạn da đen và nghĩ đến một loài gặm nhấm. Khe khẽ, chầm chậm, nó cởi bộ quần áo ngủ sợi len màu xanh dương ra và mặc bộ quần áo kia vào. Nó khoác lên vai chiếc áo va rơi đồng phục bằng vải thô. Sau đó nó bước đi, chầm chậm vì đôi ủng cứ kêu cót két, tiến dần đến giường của Báo Đen, ở đầu bên kia phòng ngủ, sát buồng tắm. “Báo Đen ơi.” “Tao đây. Mày cầm lấy này.” Cava giơ tay ra, chạm ngay hai vật lạnh giá, một trong hai cái sờ rất ráp. Nó cầm trong tay chiếc đèn pin, đút cái giũa vào trong túi áo va rơi đồng phục. “Những đứa nào gác?” Cava hỏi. “Thằng Nhà Thơ và tao.” “Mày à?” “Sau đó thằng Nô Lệ sẽ thay tao.” “Thế các phiên gác khác thì sao?” “Mày sợ à?” Cava không trả lời. Nó nhón chân rón rén đi về phía cửa ra vào. Nó cẩn thận mở một cảnh cửa, nhưng không tránh được tiếng cót két. “Có trộm!” ai đó hét lên, trong bóng tối. “Gác đâu, giết nó đi!” Cava không nhận ra tiếng nói đó là của ai. Nó nhìn ra ngoài: sân vắng ngắt, nhạt nhòa dưới ánh đèn điện từ phía đường piste ngăn cách khu phòng ngủ với bãi cỏ. Sương mù che mờ đường nét ba khối nhà bê tông đang là mái ấm chở che cho học viên năm thứ năm khiến chúng trông thật hư ảo. Nó đi ra ngoài. Dựa lưng vào tường khu phòng ngủ, nó đứng yên trong giây lát chẳng nghĩ ngợi gì. Bây giờ nó đâu còn ai hỗ trợ nữa; thằng Báo Đen thế là đã thoát nạn rồi. Nó thầm ghen tị với những học viên khác đang ngủ, với những hạ sĩ quan, với những người lính đang nằm rét run trong những nhà mái vòm ở phía bên kia sân vận động. Nó biết nỗi sợ hãi sẽ làm toàn thân nó tê liệt nếu không hành động kịp thời. Nó tính toán khoảng cách: phải vượt qua khoảng sân này và đường piste kia; sau đó, núp dưới bóng tối các căn nhà, sẽ phải đi men theo nhà ăn, khu văn phòng, khu phòng ngủ của sĩ quan và lại phải vượt qua một sân nữa, sân này nhỏ thôi và bằng bê tông, kéo đến tận khu lớp học, nơi sẽ chấm dứt mọi hiểm nguy: đội tuần tra không đi đến đó. Sau đó là hành trình trở về. Nó rối trí đến mức chỉ mong mình mất hết ý chí và óc tưởng tượng để thực hiện kế hoạch hoàn toàn như một chiếc máy mù quáng. Suốt mấy ngày liền nó buông thả cho những việc thường ngày tự quyết định thay cho nó, nhẹ nhàng tự thúc đẩy mình làm những công việc mà nó hầu như không nhận ra; thế mà bây giờ tình thế thật khác hẳn, tối nay nó đã bị áp đặt phải làm việc này; nó bỗng cảm thấy sáng suốt lạ thường. Bám sát vào tường, nó bắt đầu tiến lên. Thay vì vượt qua sân, nó đi vòng, theo bờ tường vòng cung của khu nhà ngủ dành cho học viên năm thứ năm. Khi đến đầu bên kia, nó lo lắng nhìn: đường piste dường như dài bất tận và đầy bí ẩn, chập chờn trong làn sương mờ mờ dưới ánh sáng những bóng đèn tròn được bố trí rất cân đối hai bên. Ngoài tầm tỏa sáng của ánh đèn, trong bóng tối dày đặc có lẽ là bãi cỏ, nó đoán vậy. Những người gác thường nằm ở đó, ngủ hoặc thì thầm tán gẫu với nhau, khi trời không rét mướt. Nó hy vọng đám gác đêm nay đang tụ tập trong buồng tắm nào đó chơi bài. Nó rảo bước, chìm trong bóng của các căn nhà phía bên trái, tránh những luồng sáng đèn. Tiếng sóng biển vỗ vào và dội trở ra phía dưới trường quân sự, dưới chân các vách đá, át đi tiếng giày của nó. Khi đến khu nhà sĩ quan, nó run bắn cả người và bước vội thật nhanh. Sau đó, nó đi xuyên qua đường piste và lại chìm vào trong bóng tối của khu đất trống. Một thứ gì đó rất gần mà nó không chờ đợi đập vào người nó, như một cú đấm, nỗi sợ hãi mà từ nãy đến giờ nó đã cố dẹp đi. Nó nghi ngại trong giây lát: chỉ cách có một mét, hai con mắt như hai chùm đom đóm, dịu dàng, rụt rè, của con lạc đà cừu[3] đang chằm chằm nhìn nó. “Cút đi!” nó nổi khùng kêu lên. Con vật vẫn tỏ ra bình thản. “Cái loài thú khốn kiếp này hầu như không ngủ bao giờ,” Cava nghĩ bụng. “Cũng chẳng ăn. Sao nó không chết nhỉ?” Nó bỏ đi. Hai năm rưỡi trước đây, khi đến Lima học nốt chương trình, nó đã sửng sốt khi thấy cọn vật rất đặc trưng cho vùng núi non này lững thững đi giữa những bức tường xám xịt đầy rêu phong của Trường Quân sự Leoncio Prado. Ai đã đem con lạc đà cừu này đến trường, và từ nơi nào trên vùng núi Andes nhỉ? Đám học viên đã từng lấy nó làm mục tiêu để thi ném đá: con lạc đà cừu chỉ hơi rùng mình khi đá trúng vào người. Nó từ từ rời xa đám học viên đang thi ném, với vẻ thản nhiên như không. “Nó giống như thổ dân da đỏ,” Cava nghĩ thầm. Cava leo cầu thang khu lớp học. Bây giờ nó không lo lắng gì về tiếng giày nữa; ở đó chẳng có ai, chỉ có bàn, ghế học sinh, gió và bóng tối. Nó rảo bước dọc hành lang tầng trên. Nó dừng lại. Dưới chùm ánh sáng đèn pin yếu ớt nó nhìn thấy cửa sổ. “Ô kính thứ hai ở bên trái,” Báo Đen đã nói vậy. Đúng là cái ô kính lỏng lẻo thật. Nó dùng mũi chiếc giũa nạy lớp keo mát tít ra khỏi đường viền xung quanh kính và dùng tay kia hứng lại. Nó cảm thấy keo vẫn còn ướt. Nó cần thận gỡ tấm kính ra để xuống sàn nhà. Sờ soạng khung gỗ cho đến khi tìm được chốt cửa. Cửa sổ được mở toang ra. Vào được trong phòng, nó soi đèn pin khắp mọi nơi; trên một trong mấy cái bàn, ngay cạnh máy in roneo, nó thấy ba xếp giấy. Nó đọc: “Bài kiểm tra cuối quý môn hóa. Năm thứ năm. Thời gian làm bài: bốn mươi phút.” Mới được in ra chiều hôm đó, mực in còn bóng. Nó chép lại thật nhanh các câu hỏi vào trong một quyển sổ, dù chẳng hiểu gì về nội dung. Tắt đèn pin và quay lại cửa sổ. Nó leo lên và nhảy xuống: miếng kính vỡ tan tành dưới gót giày, nghe tiếng hàng ngàn mảnh vỡ rào rạo cùng một lúc. “Cứt thật!” nó rên rỉ. Nó ngồi thụp xuống, sợ hãi. Tuy nhiên, hai tai nó không nghe thấy tiếng ồn ào hung tợn, tiếng nói nghe như đạn bắn của mấy người sĩ quan, điều mà nó đang chờ đợi: chỉ có nhịp thở hổn hển của chính nó vì sợ hãi. Nó chờ thêm giây lát nữa. Sau đó, luống cuống quên cả dùng đèn pin, nó vơ vội những mảnh kính vỡ tản mát trên sàn gạch men cho vào áo va rơi khoác ngoài. Nó đi về khu nhà ngủ mà chẳng hề quan tâm đề phòng gì nữa. Nó chỉ muốn về đến phòng ngủ thật nhanh, chui vào giường, nhắm mắt lại. Ở ngoài khu đất trống, khi vứt các miếng kính vỡ xuống đất, nó bị cứa đứt tay. Nó dừng lại ở cửa ra vào phòng ngủ, cảm thấy mệt bã người. Một bóng đen chặn nó lại. “Xong chưa?” Báo Đen nói. “Rồi.” “Ta vào buồng tắm đi.” Báo Đen đi trước, dùng cả hai tay đẩy cửa rồi bước vào. Dưói ánh đèn vàng vọt của căn phòng, Cava nhận ra Báo Đen đang đi chân đất; đôi chân to lớn và mập mạp, móng dài và bẩn thỉu, bốc mùi hôi. “Tao làm vỡ kính,” Cava nói, không cao giọng. Hai bàn tay của Báo Đen, như hai mảnh sao băng trắng toát, túm lấy vạt áo đang nhăn nhúm của nó. Cava chao đảo tại chỗ, nhưng vẫn không chịu nhìn xuống trước ánh mắt của Báo Đen đang giận dữ nhìn trừng trừng dưới hàng lông mày cong vút. “Đồ dân rừng rú,” Báo nói lầm bầm, từ tốn. “Mày đúng là đồ dân rừng rú. Nếu họ tìm ra chúng mình, tao thề với mày…” Báo Đen vẫn giữ chặt vạt áo của nó. Cava đặt hai tay lên tay của Báo Đen. Cố giằng ra, nhưng không mạnh cho lắm. “Bỏ tay ra!” Báo Đen nói. Cava cảm thấy trên mặt mình một làn mưa vô hình. “Đồ dân rừng rú!” Cava buông hai tay xuống. “Không có ai ở ngoài sân cả,” nó thì thào. “Chẳng có ai nhìn thấy tao đâu.” Báo Đen đã buông nó ra; tự cắn vào mu bàn tay phải của mình. “Tao không phải là thằng đớn hèn khốn nạn đâu,” Cava nói thì thầm. “Nếu họ phát hiện ra thì tao chịu tội một mình là xong chứ gì.” Báo Đen nhìn nó từ trên xuống dưới. Cười. “Đồ quân rừng rú hèn nhát,” Báo nói. “Mày sợ đái cả ra quần rồi. Mày nhìn xuống quần đi.” Nó đã quên căn nhà trên đại lộ Salaverry, ở khu Magdalena Nueva, nơi nó đã sống kể từ cái đêm đến Lima lần đầu tiên, và cả chuyến đi dài mười tám tiếng đồng hồ trên xe khách, qua hết thị trấn tàn tạ này đến thị trấn tàn tạ khác, những vùng cát, những thung lũng nhỏ nhoi, thỉnh thoảng biển lại hiện ra, những cánh đồng trồng bông, những thị trấn và những vùng cát. Suốt chuyến đi, nó dán mặt vào kính cửa sổ và cảm thấy toàn thân rấm rứt nỗi phấn khích: “Mình sẽ được thấy Lima.” Thỉnh thoảng mẹ lại kéo nó sát vào mình mà thì thầm: “Richi, Ricardito[4] à.” Nó nghĩ thầm; “Sao mẹ lại khóc nhỉ?” Những hành khách khác ngủ vùi hoặc đọc sách báo còn người lái xe thì cứ lẩm bẩm vui vẻ hát mãi một điệp khúc, hết giờ này qua giờ khác. Ricardo đã cố chịu đựng qua suốt buổi sáng, buổi chiều và cả khi trời chập choạng tối mà không rời mắt khỏi đường chân trời, chờ đợi những ánh đèn của thành phố bỗng hiện lên, như những ánh đuốc. Nỗi mệt nhọc đã ru ngủ dần dần các bộ phận trong cơ thể, làm bạc nhược mọi giác quan; trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, nó vẫn cố nghiến răng nhắc đi nhắc lại: “Ta sẽ không ngủ gục.” Và, bỗng nhiên ai đó nhẹ nhàng lay người nó. “Richi à, chúng mình đến nơi rồi, con tỉnh dậy đi nào.” Nó đang ngồi trên lòng mẹ, đầu gục trên vai bà, cảm thấy rét buốt. Đôi môi thân thuộc lướt nhẹ trên miệng nó và nó có cảm tưởng rằng, trong giấc ngủ, mình đã biến thành một con mèo nhỏ. Lúc này chiếc xe khách đã đi chậm lại: nó nhìn thấy mờ mờ ảo ảo những căn nhà, ánh đèn, cây cối và đại lộ dài hơn nhiều so với dãy phố chính ở Chiclayo. Phải một lúc sau nó mới nhận ra là một số hành khách đã xuống xe từ lúc nào rồi. Người lái xe vẫn hát nhưng không còn hứng thú như trước nữa. “Mọi chuyện sẽ ra sao nhỉ?” nó nghĩ. Và, một lần nữa, nó cảm thấy nỗi hoảng hốt khốc liệt, như ba ngày trước đây, khi mẹ gọi nó ra một nơi riêng để dì Adelina khỏi nghe thấy, rồi nói với nó: “Bố con chưa chết đâu, đó chỉ là chuyện bịa đặt thôi. Bố con vừa trở về sau một chuyến đi rất dài và đang chờ hai mẹ con mình ở Lima đấy.” “Ta đến nơi rồi con ạ,” mẹ nó nói. “Bà sẽ xuống ở đại lộ Salaverry, nếu tôi không nhầm?” người lái xe nói như hát. “Vâng ạ, số nhà ba mươi tám,” mẹ đáp. Nó nhắm nghiền mắt, vờ đang ngủ. Mẹ hôn nó. “Tại sao mẹ hôn môi mình nhỉ?” Ricardo nghĩ; tay phải nó nắm chặt lấy thành ghế. Sau khi đi loanh quanh một lúc, cuối cùng thì xe cũng dừng. Nó vẫn nhắm nghiền hai mắt, thu mình lại ngả tiếp vào tấm thân đã làm chỗ dựa cho nó suốt mấy giờ qua. Bỗng nhiên, thân hình của mẹ nó cứng lại. “Beatriz ơi,” tiếng ai đó gọi. Ai đó mở cửa xe. Nó cảm thấy thân thể mình bị nhấc bổng lên, được đặt xuống sàn, chới với không điểm tựa, mở to hai mắt: người đàn ông và mẹ nó đang hôn môi nhau, ôm chặt lấy nhau. Người lái xe thôi không hát nữa. Đường phố vắng lặng và im lìm. Nó chăm chú nhìn hai người; môi nó nhẩm những con số, đo đếm thời gian trôi đi. Sau đó, mẹ nó tách ra khỏi người đàn ông, quay về phía nó nói: “Bố con đó, Richi ạ. Con hôn bố đi.” Đôi cánh tay đàn ông xa lạ lại nhấc nó lên lần nữa; một gương mặt người lớn từng trải áp sát vào mặt nó, tiếng nói thì thầm gọi tên nó, đôi môi khô gắn chặt vào má nó. Nó đứng thẳng đơ. Nó cũng đã quên hết mọi chuyện xảy ra tiếp theo trong đêm đó, cái giá lạnh của tấm chăn trên chiếc giường thù nghịch, nỗi cô đơn mà nó cố xua tan bằng cách căng mắt cố xuyên qua đêm tối để tìm bất cứ vật nào, một tia sáng le lói nào, và nỗi buồn khắc khoải, như cây đinh bền bỉ chọc vào tinh thần nó. “Sói vùng sa mạc Sechura thường tru lên như quỷ dữ vào ban đêm; cháu có biết vì sao không hả? Là để xua tan sự im lặng làm chúng sợ hãi đấy,” có lần dì Adelina nói với nó như vậy. Nó muốn hét thật to để sự sống bật dậy trong căn phòng này, nơi mọi thứ dường như đã chết. Nó đứng dậy: đi chân đất, gần như trần truồng, run run vì ngượng ngùng bối rối sợ rằng nhỡ bỗng nhiên có ai đó mở cửa và thấy nó đang đứng; nó đi đến phía cửa, áp mặt vào tấm ván. Nó không nghe thấy gì cả. Nó quay lại giường và khóc, lấy hai tay bịt chặt miệng. Khi ánh sáng lọt vào phòng và ngoài phố bắt đầu có tiếng ồn ào, hai mắt nó vẫn mở chong chong và hai tai vẫn trong trạng thái canh chừng. Mãi sau đó, nó mới nghe thấy tiếng người. Tiếng họ nói thật nhỏ và chỉ vọng đến chỗ nó những tiếng rì rầm khó hiểu. Sau đó nó nghe thấy tiếng cười, tiếng đi lại. Sau đó nó nhận ra tiếng mở cửa, tiếng bước chân, có ai đó hiện diện, hai bàn tay quá thân thuộc đang kéo chăn đắp lên tận cổ cho nó, hơi thở nồng ấm ngay sát hai má. Nó mở mắt: mẹ nó đang cười, “Chào con trai,” mẹ nói, dịu dàng, “thế con không hôn mẹ à?” “Không,” nó nói. “Mình có thể sẽ đi mà nói với bố, bố ơi cho con hai mươi đồng sol đi và ngay bây giờ mình đã thấy rõ, hai mắt bố sẽ đẫm lệ và bố sẽ cho mình bốn mươi hoặc năm mươi đồng, nhưng việc đó sẽ chẳng khác gì nói với bố, con tha thứ cho những việc bố đã làm với mẹ và bố vẫn có thể cứ làm ba cái trò đĩ thõa của mình đi với điều kiện là phải tiếp tục cho con tiền thưởng hậu hậu vào.” Dưới chiếc khăn quàng bằng len của mẹ cho từ mấy tháng trước, đôi môi của Alberto cử động liên tục mà không thể phát ra âm thanh nào. Chiếc áo khoác và chiếc mũ lưỡi trai trùm đến tận mang tai, giúp nó chống lại giá rét. Thân thể nó đã quen chịu đựng sức nặng của khẩu súng nên bây giờ chẳng còn cảm thấy gì nữa. “Đi mà nói với mẹ rằng hai mẹ con mình được cái gì bằng việc không chấp nhận mấy đồng xu lẻ, phải để bố hằng tháng gửi cho chúng ta một tấm séc cho đến khi bố cảm thấy hối hận vì tội lỗi của mình và quay về nhà, nhưng mình đã thấy trước rồi, mẹ sẽ khóc mà nói rằng phải nhẫn nhục vác cây thánh giá như Đức Chúa từng làm và mẹ chấp nhận dù bao lâu cũng được cho đến chừng nào hai người thống nhất được với nhau và thế là ngày mai mình chả còn có được hai mươi đồng sol nữa.” Theo nội quy, những người canh gác phải đi rảo xung quanh sân của những lớp cùng năm với mình và đường piste, nhưng trong ca gác của mình nó lại tha thẩn đi dạo phía sau khu nhà ngủ, bên cạnh dãy lan can cao xám xịt bảo vệ cho bức tường mặt tiền của trường. Từ đó người ta có thể thấy, giữa các thanh sắt, như lưng con ngựa vằn, con đường nhựa chạy uốn lượn phía dưới hàng hiên và rìa các vách đá, nghe thấy tiếng rì rầm sóng biển và, nếu sương mù không quá dày, còn có thể nhìn thấy xa xa, như ngọn thương sáng lấp lánh, bờ kè của khu nghỉ mát La Punta lao thẳng ra biển như con đê chắn sóng và, ở đầu bên kia, khu nhà ở Miraflores, khu phố của nó, như cánh quạt lấp lánh ánh đèn ôm lấy vịnh biển vô hình. Hai tiếng một lần, viên sĩ quan phụ trách phiên gác sẽ đi kiểm tra những học viên canh gác: vào lúc một giờ đêm, nó sẽ gặp ông ấy ở trạm gác. Trong khi chờ đợi, Alberto đặt ra bao dự định cho chuyến đi chơi vào hôm thứ Bảy. “Có thể mười thằng cha kia còn đang mơ tưởng đến bộ phim nọ, chúng vẫn còn nhìn thấy bao nhiêu là đàn bà chỉ vận quần trong, bao nhiêu là đùi vế, bao nhiêu là bụng, bao nhiêu thứ khác, chúng sẽ nhờ mình viết những câu chuyện nho nhỏ gì đấy về đàn bà, nhưng không biết liệu chúng có chịu ứng trước tiền cho mình không và liệu bao giờ thì mình mới viết được nếu ngày mai đã có bài kiểm tra môn hóa rồi và mình sẽ phải trả tiền cho Báo Đen để có trước các câu hỏi, trừ phi thằng cha Vallano nhận nhắc bài cho mình đổi lại thì mình viết thư hộ hắn, nhưng ai có thể tin được một thằng da đen chứ. Có thể bọn hắn sẽ nhờ mình viết thư, nhưng liệu có đứa nào chịu thanh toán ngay tiền tươi cho mình không vì bây giờ đã sắp đến cuối tuần rồi mà hôm thứ Tư tất cả chúng nó đều đã nướng sạch đạn ở La Perlita và vào trò bài bạc. Có thể mình sẽ tiêu sạch hai mươi đồng sol nếu bọn bị phạt phải ở lại trong trại bắt mình mua thuốc lá và mình phải trả công cho chúng bằng cách viết thư hay truyện đàn bà cho chúng đọc, và sẽ thật là náo loạn, giả dụ mình vớ được hai mươi đồng sol trong chiếc ví nhặt được ở nhà ăn hoặc ở lớp học hoặc ở nhà xí, hay ngay bây giờ mình đi xuống phòng ngủ của bọn chó con[5] và mở tủ đựng quần áo ra lục lọi cho đến khi vớ được hai mươi đồng sol hoặc tốt hơn hết là lấy của mỗi đứa năm mươi xu để chúng khó nhận ra mình bị mất tiền, chỉ có điều phải mở đến bốn mươi chiếc tủ thì thật khó mà không làm đứa nào đó tỉnh giấc, biết rằng mình có thể kiếm được ở tất cả các tủ mỗi tủ năm mươi xu nhưng mình cũng có thể đi đến gặp một tay hạ sĩ quan hoặc trung úy, cho tôi vay hai mươi sol đi, tôi cũng muốn đến chỗ cô ả Chân Vàng, tôi cũng là thằng đàn ông, không đứa cứt đái nào có thể thét lác gì tôi ở đó cả…” Phải mất một lúc Alberto mới nhận ra giọng nói đó, khi nhớ ra rằng mình đang làm nhiệm-vụ canh gác mà lại đi lang thang ở ngoài chỗ gác. Nó lại nghe thấy tiếng hét hỏi, lần này mạnh mẽ hơn, “Cậu học viên kia làm sao thế?” và lần này thì cả thể xác lẫn tinh thần nó đều phản ứng, ngẩng đầu lên, như trong một cơn lốc xoáy ánh mắt nó nhìn thấy ngay những bức tường bao quanh Phòng Bảo vệ của trường, mấy người lính đang ngồi trên ghế, bức tượng người anh hùng đầy vẻ hăm dọa với thanh gươm đã tuốt ra khỏi vỏ ẩn hiện trong màn sương và bóng đêm, nó hình dung ra ngay tên mình sẽ được ghi vào danh sách những kẻ bị phạt cấm trại, tim nó đập thình thịch, nó cảm thấy sợ, lưỡi và môi nó mấp ma mấp máy, nó thấy giữa tượng người anh hùng bằng đồng và nó, chỉ cách có năm mét, bóng dáng viên trung úy Remigio Huarina hai tay chống nạnh chăm chú nhìn nó. “Cậu làm gì ở đây?” Viên trung úy tiến đến gần Alberto, còn nó thì nhìn thấy, phía sau bờ vai người sĩ quan, mảng rêu phong nhuốm đen khối đá đỡ bức tượng người anh hùng, nói đúng hơn là nó đoán vậy, bởi vì ánh sáng đèn trong Phòng Bảo vệ mờ mờ ảo ảo và xa xôi, hoặc là nó tự bịa ra vậy: có thể chính trong ngày hôm nay những người lính gác đã cọ rửa khối đá bệ tượng rồi cũng nên. “Sao?” viên trung úy đã đứng trước mặt nó, nói. “Có chuyện gì thế?” Đứng thẳng dơ, tay phải để trên mép lưỡi trai chiếc mũ, căng thẳng, tất cả giác quan đều ở trong trạng thái cảnh giác, Alberto vẫn giữ im lặng trước người đàn ông nhỏ nhắn mờ mờ trong bóng tối cũng đang đứng bất động, vẫn để hai tay trên hông. “Thưa trung úy, tôi muốn đến tham khảo ý kiến của ông,” Alberto nói. Mình có thể thề thốt với ông ấy là sắp chết đến nơi vì đau bụng, muốn một viên átpirin hoặc là vì một chuyện khác, mẹ mình bị ốm rất nặng, người ta đã giết con lạc đà cừu, mình có thể năn nỉ ông ấy… “Tôi muốn tham khảo ý kiến của ông vê một vấn đề đạo đức.” “Cậu vừa nói gì vậy?” “Tôi có một vấn đề,” Alberto nói, vẫn đứng thẳng căng… Nói với ông ta rằng bố mình là tướng, chuẩn đô đốc hải quân, nguyên soái, và mình thề rằng mỗi điểm mất đi là ông ta sẽ chậm thăng quân hàm mất một năm, mình có thể… “Là vấn đề cá nhân thôi ạ,” nó nói, ngập ngừng trong giây lát, rồi nói dối: “Đã có lần ngài đại tá nói rằng chúng tôi có thể hỏi ý kiến các vị sĩ quan. Về những vấn đề riêng tư, ý tôi muốn nói như vậy.” “Họ tên, ở trung đội nào,” viên trung úy nói. Ông đã bỏ hai tay xuống khỏi bờ hông; ông trông mềm mại và nhỏ nhắn hơn. Ông bước lên một bước và Alberto thấy, rất gần và ngay phía dưới, chiếc mõm, đôi mắt chau lại và đờ đẫn của loài ếch nhái, gương mặt tròn trĩnh cau lại như muốn tỏ ra khắt khe chứ không chỉ là biết cảm thông, cũng chính là cử vẻ mặt của ông ta khi ra lệnh bốc thăm hình phạt cấm trại, một sáng kiến của ông: “Các đội viên, hãy thêm sáu điểm vào tất cả các số ba rồi nhân với ba.” “Alberto Fernández, năm thứ năm, trung đội một.” “Nói thẳng vào vấn đề,” viên trung úy nhắc nhở. “Đi thẳng vào vấn đề.” “Thưa trung úy, tôi cho rằng mình đang bị ốm. Tôi muốn nói là ốm về đầu óc, chứ không phải ốm về thân thể. Tối nào tôi cũng gặp ác mộng.” Alberto cụp mắt xuống, ra vẻ cam chịu, và nói thật chậm rãi, đầu óc trống rỗng, cứ để cho đôi môi và cái lưỡi tự động đậy uốn éo và tha hồ thêu dệt một mạng nhện, một mê cung làm lạc lối con cóc kia. “Những chuyên thật khủng khiếp, trung úy ạ. Đôi khi tôi mơ thấy mình giết người, rồi những con thú có mặt người truy đuổi tôi. Tôi tỉnh dậy toàn thân đẫm mồ hôi và run lên bần bật. Một điều thật kinh khủng, thưa trung úy, tôi thề với ông là đúng như vậy đấy ạ.” Viên sĩ quan chăm chú nhìn gương mặt cậu học viên. Alberto nhận ra rằng đôi mắt của con cóc đã hồi phục sự sống; nỗi nghi ngại và ngạc nhiên tràn ngập trong hai tròng mắt ông ta như hai ngôi sao sắp lặn. Mình có thể cười, có thể khóc, hò hét, có thể chạy. Trung úy Huarina đã quan sát xong. Bỗng ông ta lùi một bước và nói to: “Ta đâu phải là cha đạo, mẹ kiếp! Cậu đi mà tham khảo ý kiến về đạo đức với bố hoặc mẹ cậu ấy !” “Thưa trung úy, tôi đâu có muốn làm phiền ông,” Alberto lúng búng nói. “Mà này, thế cái băng đeo ở cánh tay là gì vậy?” viên sĩ quan hỏi, gí cái mồm và hai con mắt thô lố vào tận cánh tay nó. “Cậu đang làm nhiệm vụ canh gác phải không?” “Vâng, thưa trung úy.” “Chả lẽ cậu không biết là không bao giờ được rời khỏi vị trí khi canh gác, trừ khi bị chết, hay sao hả?” “Thưa trung úy, tôi có biết ạ.” “Hừ, tham khảo ý kiến về đạo đức! Cậu quái lắm đấy.” Alberto nín thở: những nét nhăn nhó trên gương mặt trung úy Remigio Huarina dường như đã biến mất, miệng ông ta mở to, đôi mắt dãn ra, trên trán nổi lên vài nếp nhăn. Ông cười. “Mẹ kiếp, cậu quái thật. Thôi về ngay vị trí canh gác ở khu nhà ngủ đi. Và hãy nhớ ơn tôi vì đã không phạt kỷ luật cậu đấy nhé.” “Dạ, thưa trung úy, tôi xin ghi nhớ ạ.” Alberto chào, xoay người, trong tích tắc nó thoáng nhìn thấy những người lính nơi trạm gác đang ngồi dựa vào nhau trên ghế băng. Nó nghe thấy tiếng nói sau lưng mình: “Mẹ kiếp, cả đến bọn mình cũng đâu phải là thầy tu đâu.” Trước mặt nó, về phía bên trái, nổi bật lên ba khối nhà bê tông: của năm thứ năm, sau đó là năm thứ tư; cuối cùng, năm thứ ba, khu phòng ngủ của lũ chó con. Xa hơn, mờ mờ trong sương đêm là khu thể thao, sân bóng đá phủ đầy cỏ dại, đường piste dành cho điền kinh đầy ổ gà, khu lễ đài bằng gỗ bị hư hỏng xuống cấp vì ẩm mốc. Về phía bên kia khu thể thao, sau khu ở ồn ào - khu nhà vòm của lính - có một bức tường ngả màu xám xịt nơi kết thúc thế giới Trường Quân sự Leoncio Prado[6] và bắt đầu những khu đất trống mênh mông của La Perla. “Và nếu Huarina cúi đầu xuống mà nhìn thấy đôi ủng của mình, và nếu Báo Đen không có các câu hỏi của bài kiểm tra môn hóa, và nếu nó có nhưng không tin tưởng cho mình được chịu tiền để xem, và nếu mình bị đứng như trời trồng trước ả gái điếm Chân Vàng và mình nói với cô ta tôi là học viên của Leoncio Prado và đây là là lần đầu tiên tôi đến chỗ này, tôi là người mang lại vận may cho cô, và nếu mình về khu phố mượn một trong mấy người bạn ở đó hai mươi đồng sol, và nếu mình để lại chiếc đồng hồ để làm tin, và nếu mình không có dây để buộc đôi ủng trong buổi duyệt đội ngũ kiểm tra trang phục vào sáng mai thì mình sẽ tiêu đời, đúng thế thật đấy.” Alberto đi chậm rãi, hơi kéo lê chân; cứ mỗi bước đi lên là đôi ủng, mất dây buộc từ tuần trước, lại như sắp tuột ra khỏi bàn chân. Nó đã đi được nửa quãng đường từ khu nhà ngủ của học viên năm thứ năm đến tượng đài người anh hùng. Hai năm trước, cách bố trí phòng ngủ khác bây giờ; học viên năm thứ năm ở trong các phòng ngủ sát ngay sân vận động còn lũ chó con ở khu phòng ngủ gần Phòng Bảo vệ nhất; học viên năm thứ tư bao giờ cũng ở giữa, giữa hai khối học viên thù địch với chúng. Sau đó nhà trường đổi hiệu trưởng, vị đại tá hiệu trưởng mới đã quyết định chuyển sang cách bố trí hiện nay. Và ông giải thích sự thay đổi của mình trong một bài diễn văn: “Được ngủ bên cạnh một vị anh hùng mà trường được mang tên là một vinh dự buộc mọi học viên phải phấn đấu giành lấy. Từ nay về sau, học viên năm thứ ba sẽ ở khối nhà phía sau bên trong. Rồi sau đó, cùng với năm tháng, các học viên này sẽ dần dần tiến đến gần tượng đài của Leoncio Prado. Và tôi hy vọng rằng khi tốt nghiệp ra trường các em sẽ giống chút ít người anh hùng đã chiến đấu vì tự do của một đất nước dù đó còn chưa phải là Perú. Trong Quân đội, hỡi các học viên, ai cũng phải tôn trọng những biểu tượng, thế đấy, mẹ kiếp.” “Và nếu ăn cắp dây giày của Arróspide thì mình đúng là đồ khốn nạn, đi chọn đúng một thằng dân Miraflores mà làm cho hắn nổi khùng trong khi ở trường có hàng đống đứa nhà quê suốt năm tự giam mình không dám ra ngoài vì sợ đường phố, đâu phải là không được, chọn thằng khác đi thôi. Và nếu mình ăn cắp của một đứa trong Nhóm bạn, của Xoăn hoặc của thằng Trăn cục cằn, thì làm sao chúng giúp mình trong lần kiểm tra sắp tới, mình sẽ lại trượt môn hóa một lần nữa mất. Và nếu lấy của thằng Nô Lệ thì nực cười quá, điêu này mình từng nói với Vallano và đúng như thế thật, mày cứ tưởng mày nện một thằng chết rồi là mày người hùng lắm sao, trừ khi mày quá ư tuyệt vọng. Nhìn mắt cũng đủ biết nó là đứa hèn như tất cả những thằng da đen, mắt ơi là mắt, sợ gì mà sợ lắm thế, gì mà nhảy lên thế, tao giết chết đứa nào ăn cắp bộ quần áo ngủ của tao, tao sẽ giết chết đứa…, kìa trung úy đang đến kìa, mấy ông hạ sĩ quan đang đến kia kìa, trả lại qngay bộ quần áo ngủ cho tao vì tuần này tao phải ra ngoài, tao không dọa đâu, tao không thèm chửi rủa mẹ nó, không làm nhục nó, cùng lắm cũng chỉ nói mày làm sao vậy hoặc gì đó tương tự, nhưng mà cướp bộ quần áo trên tay ngay trong buổi kiểm tra trang phục mà không thèm hé răng thì không đâu nhé. Thằng Nô Lệ cần phải bị nện cho mấy cú để nó hết sợ, mình sẽ lấy cắp dây giày của Vallano.” Nó đã đi đến hiên nhà nối với vườn của khối nhà ngủ của năm thứ năm. Trong đêm ẩm ướt khẽ động vì tiếng rì rầm của biển, Alberto hình dung thấy phía sau những bức tường bê tông, bóng tối dày đặc của những căn phòng, những thân hình nằm co quắp trên giường hai tầng. “Có lẽ mày đang ở trong phòng ngủ, có lẽ mày đang ở trong buồng tắm, có lẽ mày ở ngoài bãi cỏ, có lẽ mày đã chết rồi, thằng Báo Đen kia, mày biến đi đâu rồi?” Dưới ánh sáng chập chờn của mấy chiếc đèn dọc đường piste rọi đến, khu sân vườn vắng tanh không một bóng người, trông chẳng khác gì quảng trường ở làng quê. Nó không thấy một người gác đêm nào. “Có lẽ có một đám chơi bài ở đâu đó, giá mà có một xu tiền đồng, chỉ một xu thôi, đáng lẽ mình cũng đã kiếm được hai mươi đồng sol, có khi còn hơn nữa. Có lẽ thằng đó đang chơi bài và mình mong được nó tin tưởng, tao sẽ viết thư giùm mày và truyện tình ái cho mày đọc, đúng là suốt ba năm qua chưa bao giờ nó giao cho mình việc gì cả, chó thật, lần này mình trượt môn hóa mất thôi.” Nó đi suốt dọc hành lang mà chẳng gặp ai cả. Nó vào trong phòng ngủ của trung đội một và trung đội hai, buồng tắm vắng hoe, một trong các buồng tắm bốc mùi hôi thối. Nó dòm cả vào buồng tắm của các phòng ngủ khác, khua chân ầm ĩ khi đi qua phòng ngủ, một cách cố ý, nhưng không làm sao cắt đứt được nhịp thở yên bình hoặc nóng bừng của đám học viên. Ở khu của trung đội năm, gần đến chỗ cửa buồng tắm, nó dừng lại. Ai đó đang nói lảm nhảm trong mơ: giữa một dòng sông từ ngữ tuôn ra lộn xộn ấy, nó chỉ phân biệt được tên một người đàn bà. “Lidia. Lidia ư? Hình như đó là tên cô người tình của cái thằng cha ở vùng Arequipa đã đưa cho mình xem thư và ảnh mà hắn ta nhận được, và kể cho mình nghe về nỗi buồn đau của hắn, mày thay tao viết thư cho cô ấy thật hay nhé, viết là tao yêu cô ấy lắm, tao có phải là ông thầy tu đâu, mẹ kiếp, cậu đúng là đồ ngốc. Lidia ư?” Ở trung đội bảy, sát ngay dãy hố tiểu, có một vòng tròn những cái bóng ngồi lù lù: co mình trong áo va rơi màu xanh lá cây, tất cả như một lũ người bị gù. Tám khẩu súng vứt bừa bãi dưới sàn và một khẩu dựa vào tường. Cửa vào buồng tắm mở toang và từ xa, từ ngưỡng cửa phòng ngủ, Alberto nhìn thấy bọn chúng. Nó tiến đến, một cái bóng ngăn nó lại. “Gì đấy? Mày là ai?” “Đại tá đây. Các cậu có được phép chơi bài không đấy? Gác đêm tuyệt đối không bao giờ được bỏ vị trí, trừ khi đã bị chết.” Alberto bước vào buồng tắm. Hàng chục gương mặt phờ phạc nhìn nó; khói thuốc dày đặc trong phòng, như một chiếc lọng trùm trên đầu đám học viên gác đêm. Nó không quen biết ai cả: những gương mặt na ná giống nhau, tối thẳm, thô thiển. “Chúng mày có thấy thằng Báo Đen không?” “Nó chưa đến.” “Các cậu chơi gì đấy?” “Bài xì. Mày chơi chứ? Trước hết mày phải canh gác khoảng mười lăm phút đã.” “Tao không chơi bài với đám nhà quê,” Alberto nói, đồng thời đưa tay vào dương vật mà chĩa về phía những đám chơi bài. “Tao chỉ phịch tụi nó thôi.” “Cút xéo mày đi, thằng Nhà Thơ,” một đứa nói. “Đừng làm phiền bọn tao nữa.” “Tao sẽ báo cáo với đại úy,” Alberto nói, quay người nửa vòng. “Rằng mấy đứa nhà quê đã rủ nhau chơi bài xì trong lúc gác đêm.” Nó nghe tụi nó chửi rủa mình. Nó lại ra đến ngoài vườn. Nó ngập ngừng giây lát, rồi đi về khu đất trống. “Nếu mình đang ngủ trên cỏ, đang ăn cắp câu hỏi bài kiểm tra, trong phiên trực của mình, thì thật khốn nạn cho mình quá, và nếu mình vượt tường trốn đi chơi, và nếu…” Nó vượt qua khoảnh đất trống cho đến tận bức tường phía sau của trường. Hồi trước những tên lẻn trốn khỏi trường thường nhảy qua đây, vì phía bên kia tường là đất bằng phẳng nên không sợ gãy chân khi nhảy xuống. Có dạo tối nào cũng thấy có bóng người nhảy qua bức tường ở đoạn này và tờ mờ sáng chúng lại quay về trường. Nhưng ông hiệu trưởng mới đã đuổi học bốn học viên năm thứ tư bị bắt quả tang đang nhảy ra khỏi trường, từ đó có hai người lính được phân công đi tuần tra bên ngoài suốt đêm. Những cuộc trốn trại giảm bớt hẳn và không còn xảy ra ở đoạn tường này nữa. Alberto quay người; phía xa xa là sân của khối nhà học viên năm thứ năm, vắng lặng và mờ ảo. Ngay khu đất trống ở giữa nó nhìn thấy đốm lửa màu xanh dương. Nó tiến lại chỗ đó. “Báo Đen hả?” Không có tiếng trả lời. Alberto rút đèn pin ra - mỗi người gác đêm, ngoài súng ra, còn mang theo đèn pin và đeo băng nâu ở tay - và bật đèn lên. Trong chùm sáng xuất hiện một gương mặt bơ phờ, làn da mềm mại không có cả đến lông tơ, đôi mắt nheo nheo nhìn rụt rè. “Mày làm gì ở đây thế?” Thằng Nô Lệ đưa tay lên che ánh sáng. Alberto tắt đèn pin. “Tao đang gác đêm đây.” Alberto cười (cười à?). Tiếng khùng khục vang lên trong bóng tối như những tiếng ợ quá cỡ, ngưng lại trong giây lát, rồi lại bật lên đầy vẻ khinh khi, ngang bướng và không chút vui vẻ. “Mày đang thay cho thằng Báo Đen,” Alberto nói. “Tội nghiệp mày quá.” “Còn mày bắt chước tiếng cười của thằng Báo Đen,” thằng Nô Lệ dịu dàng nói, “làm vậy chắc mày càng thấy tao tội nghiệp đến cỡ nào đấy.” “Tao chỉ bắt chước mẹ mày thì có,” Alberto nói. Nó tháo súng ra, đặt súng xuống vạt cỏ, kéo vạt áo va rơi lên che cổ, xoa hai bàn tay cho nóng và ngồi xuống cạnh thằng Nô Lệ. “Mày có thuốc lá không?” Một bàn tay đẫm mồ hôi lướt nhẹ qua tay nó rồi rụt lại ngay, để lại cho nó một điếu thuốc lá nhẹ hai đầu đã rơi hết thuốc cả. Alberto quẹt diêm. “Cẩn thận đấy,” thằng Nô Lệ thì thào. “Lính tuần tra có thể nhìn thấy mày.” “Cứt thật,” Alberto nói. “Tao bị hết sạch rồi.” Trước mặt chúng là đường piste chạy dài dưới ánh đèn sáng trông như một đại lộ lớn ở trung tâm thành phố chập chờn dưới sương đêm. “Làm sao mày có thể để dành thuốc lá lâu được như vậy?” Alberto nói. “Tuần nào cố lắm tao cũng chỉ kéo được đến thứ Tư là hết sạch.” “Tao hút ít thôi.” “Tại sao mày lại hèn nhát như vậy?” Alberto nói. “Mày không xấu hổ khi phải gác đêm thay cho thằng Báo Đen à?” “Tao làm cái tao thích,” thằng Nô Lệ trả lời. “Liên quan gì đến mày nào?” “Nó đối xử với mày như một tên nô lệ,” Alberto nói. “Tất cả bọn chúng coi mày như một kẻ nô lệ, khốn nạn thật. Tại sao mày phải sợ quá như vậy chứ?” “Tao không sợ mày.” Alberto cười. Tiếng cười của nó đột ngột tắt ngóm. “Đúng thế thật,” nó nói. “Tao cũng cười như tên Báo Đen. Tại sao tất cả bọn nó lại bắt chước hắn nhỉ?” “Tao không bắt chước nó đâu,” Nô Lệ nói. “Mày nhát như con cún,” Alberto nói. “Mày cứ bị chúng bắt nạt suốt.” Alberto vứt mẩu thuốc xuống. Ngọn lửa còn cháy thêm chút nữa trong đám cỏ dưới chân nó, sau đó mới tắt hẳn. Sân khu nhà năm thứ năm vẫn vắng vẻ không một bóng người. “Đúng thế,” Alberto nói. “Mày bị chúng nó bắt nạt,” nó mở miệng ra, rồi ngậm lại. Nó đưa tay lên đầu lưỡi, lấy hai ngón tay nhón một sợi thuốc lá, lấy hai móng tay cấu nó làm đôi, để hai mẩu sợi nhỏ tí lên môi rồi phun ra xa. “Mày chưa bao giờ đánh nhau, phải không?” “Mới có một lần thôi,” thằng Nô Lệ nói. “Ở đây à?” “Không. Trước cơ.” “Chính vì thế mà mày bị bắt nạt,” Alberto nói. “Ai người ta cũng biết mày nhát gan. Đôi khi cũng phải ục nhau để người ta tôn trọng mình chứ. Nếu không mày cứ bị lép vế suốt đời đấy.” “Tao sẽ không thành quân nhân đâu.” “Tao cũng thế. Nhưng ở đây mày là quân nhân mặc dù mày chẳng hề muốn. Và điều quan trọng là trong quân đội ta phải là một thằng đàn ông thực thụ, hai hòn dái phải bằng thép, mày hiểu không? Hoặc mày ăn tươi nuốt sống chúng hoặc chúng ăn tươi nuốt sống mày, không có cách nào khác đâu. Tao thì chẳng hề muốn mình bị chúng ăn thịt.” “Tao không thích đánh nhau,” Nô Lệ nói. “Nói đúng hơn là tao không biết đánh nhau.” ẳ “Cái đó chẳng học được đâu,” Alberto nói. “Vấn đề là có gan hay không.” “Có lần trung úy Gamboa cũng nói như vậy.” “Đó hoàn toàn là sự thật, đúng không nào? Tao không muốn làm quân nhân nhưng ở đây ai cũng trở nên đàn ông hơn. Mày phải học tự vệ và học hiểu cuộc đời.” “Nhưng mày có đánh nhau gì nhiều đâu,” Nô Lệ nói. “Thế nhưng mày chẳng hề bị chúng nó bắt nạt.” “Tao phải vờ là thằng điên, ý tao muốn nói là giả làm thằng đần. Cách đó cũng dùng được đấy, để bọn chúng khỏi đè nén mình. Nếu mày không dám cào dám cắn để tự vệ thì ngay lập tức chúng sẽ cưỡi đầu cưỡi cổ mày.” “Mày sẽ trở thành nhà thơ chứ?” Nô Lệ hỏi. “Sao mày ngốc thế? Tao sẽ làm kỹ sư. Ông già sẽ gửi tao sang Mỹ học. Tao chỉ viết hộ chúng nó thư từ và mấy truyện yêu đương nhảm nhí để lấy tiền mua thuốc lá thôi. Nhưng ba thứ đó chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế mày sẽ làm gì?” “Trước đây tao muốn thành thủy thủ,” Nô Lệ nói. “Nhưng bây giờ thì không. Tao không thích đời binh nghiệp. Có lẽ tao cũng sẽ làm kỹ sư thôi.” Sương xuống dày đặc hơn; những ngọn đèn dọc đường piste trông bé nhỏ hơn và ánh sáng trở nên yếu ớt. Alberto lục trong túi. Từ hai ngày nay nó không còn thuốc lá nữa, nhưng tay vẫn quen làm cử chỉ này một cách máy móc mỗi khi thèm thuốc. “Mày vẫn còn thuốc đấy chứ?” Nô Lệ không trả lời, nhưng mấy giây sau Alberto cảm thấy có cánh tay áp ngay vào bụng mình. Nó sờ vào thì thấy tay người kia đang cầm một bao thuốc còn gần đầy. Nó rút ra một điếu, đưa lên miệng ngậm, dùng đầu lưỡi chạm vào phần đặc và cay cay của điếu thuốc. Nó quẹt diêm và đưa ngọn lửa nhỏ cháy lập lòe trong hai bàn tay khum khum đến sát mặt thằng Nô Lệ. “Vì chuyện cứt đái gì mà mày khóc thế hả?” Alberto nói, đồng thời xòe tay ra để cho que diêm rơi xuống đất. “Mẹ kiếp, tao lại bị cháy sém ở ngón tay rồi.” Nó lại quẹt que diêm khác châm vào điếu thuốc. Nó hít một hơi rồi nhả khói ra đằng mồm và mũi. “Mày sao thế?” nó hỏi. Chẳng sao cả. Alberto lại hít một hơi thuốc nữa; lửa sáng lên ở đầu điếu thuốc và khói thuốc hòa lẫn vào sương mù lúc này đã sà xuống rất thấp, gần như sát mặt đất. Sân của khu nhà năm thứ năm biến mất. Khối nhà ngủ chỉ còn là một hình bóng lù lù im lìm trong sương. “Bọn nó đã làm gì mày vậy?” Alberto hỏi. “Này ông bạn, đừng bao giờ khóc như thế đấy nhé.” “Áo khoác của tao,” Nô Lệ nói. “Chúng nó lấy mất rồi, để không cho tao ra khỏi trường đi chơi.” Alberto quay đầu lại. Nô Lệ chỉ khoác bên ngoài áo sơ mi ka ki một chiếc áo thun chui đầu màu nâu không tay. “Ngày mai tao phải đi ra ngoài,” Nô Lệ nói. “Chúng làm tao lỡ hết chuyện.” “Mày có biết đứa nào làm chuyện đó không?” “Không. Chúng lấy từ trong tủ.” “Chúng sẽ đòi mày chuộc cả trăm đồng sol đấy. Có khi còn hơn nữa.” “Không phải chuyện đó đâu. Ngày mai có cuộc kiểm tra duyệt đội ngũ. Gamboa sẽ phạt không cho tao ra khỏi trại. Đã hai tuần nay tao không ra ngoài rồi.” “Mấy giờ rồi?” “Một giờ kém mười lăm,” Nô Lệ nói. “Chúng mình về phòng ngủ được rồi đấy.” “Khoan đã,” Alberto nói, đứng thẳng người dậy. “Chúng mình vẫn còn thời gian. Mình đi khoắng một cái áo khoác đi.” Nô Lệ đứng bật dậy như chiếc lò xo, nhưng vẫn đứng nguyên không nhúc nhích một bước nào, như đang chờ điều gì đó sắp xảy ra không thể cưỡng lại được. “Nhanh lên mày,” Alberto giục. “Bọn gác đêm…” Nô Lệ thì thào. “Mặc mẹ chúng nó,” Alberto nói. “Mày không thấy là tao đang mạo hiểm đánh cược chuyến ra ngoài của mình để kiếm áo khoác cho mày à? Lũ hèn nhát như mày làm tao phát ốm. Bọn gác đêm đang ở trong buồng tắm trung đội bảy. Chúng đang đánh bài ở đó.” Nô Lệ đi theo nó. Chúng đi trong màn sương đêm ngày càng đặc quánh đến nỗi không còn thấy được các nhà ngủ nữa. Những chiếc đinh dưới gót giày cào lên lớp cỏ ẩm ướt, và hòa vào trong tiếng biển đều đều rì rầm giờ đây còn có thêm tiếng gió rít trong những căn phòng không cửa ra vào cũng không cửa sổ ở các tòa nhà giữa khu lớp học và khu phòng ngủ của sĩ quan. “Chúng mình đến khu vực của trung đội mười hoặc chín nhé,” Nô Lệ nói. “Bọn nhóc con đó thường ngủ say như chết.” “Thế mày cần áo va rơi hay áo gi lê nào?” Alberto nói. “Ta đến trung đội ba đi.” Chúng bước vào hành lang. Bàn tay Alberto đẩy nhẹ cửa ra vào, cửa từ từ mở ra không tiếng động. Nó thò đầu vào như con thú đánh hơi một cái hang: phòng ngủ tối om chìm trong tiếng rì rầm nhè nhẹ. Cửa ra vào khép lại khi chúng vào trong phòng. Nếu nó bỏ chạy thì sẽ run sợ cỡ nào nhỉ, và nếu bật khóc thi nó sẽ chạy ra sao đây, và nếu đúng là đã bị thằng Báo Đen ép buộc thì người nó đầm mồ hôi đến cỡ nào đây, và nếu ngay bây giờ đèn bỗng bật sáng thì mình sẽ bay vụt ra ngoài sao đây? “Đi đến cuối phòng,” Alberto thì thào, ghé môi vào tận mặt thằng Nô Lệ. “Có một tủ quần áo ở xa các giường ngủ.” “Sao?” Nô Lệ hỏi lại, vẫn không nhúc nhích. “Cục cứt,” Alberto nói. “Đi theo tao.” Chúng rê chân nhẹ nhàng, từ từ vượt qua căn phòng, hai tay giơ ra phía trước lần mò tránh các chướng ngại vật. Và nếu bị mù, mình sẽ móc hai con mắt giả ra, nói với ả Chân Vàng anh cho em hai con mắt này nhưng phải tin anh đấy nhé, bố ơi chuyện đàng điếm thế là đủ rồi bố, nội cái chuyên gác đêm luôn phải ở vị trí không được bỏ đi đâu trừ khi chết như thế này là cũng đủ lắm rồi. Chúng dừng lại bên tủ quần áo, mấy ngón tay Alberto lần mò trên mặt gỗ. Nó cho tay vào túi, rút ra chiếc móc để mở khóa, còn tay kia nó sờ soạng tìm ổ khóa, nhắm mắt lại, nghiến chặt hai hàm răng. “Và nếu mình nói thưa trung úy em thề em đến đây chỉ để lấy cuốn sách học môn hóa kẻo ngày mai thi trượt môn này mất ạ, tao thề là không bao giờ tha thứ cho mày nếu đù mẹ mày lại bật khóc đấy nhé, thằng Nô Lệ kia, tao cũng không tha nếu mày giết tao chỉ vì một chiếc áo va rơi.” Cái móc cạo cạo vào kim loại, lọt vào trong rãnh ổ khóa, hóc lại, dần tới một tí rồi lại kéo lui, xoay bên phải xoay bên trái, ấn vào sâu hơn chút nữa, đứng im, khậc một cái, thế là khóa đã mở. Alberto giật cái móc ra. Cửa tủ bắt đầu xoay. Từ một nơi nào đó trong phòng có tiếng gắt gỏng vang lên phá tan những tiếng rì rầm không rõ. Bàn tay thằng Nô Lệ túm chặt lấy cánh tay Alberto. “Đứng nguyên,” Alberto gắt khẽ, “không tao giết đấy.” “Gì cơ?” thằng kia hỏi lại. Bàn tay Alberto thận trọng dò tìm bên trong, chỉ cách mấy milimét đã đụng được bề mặt lông mịn của chiếc áo va rơi, cứ như nó đang được xoa tay lên mặt hoặc mái tóc người thương của mình và tận hưởng niềm thích thú sắp được tiếp xúc, chỉ chạm tới bầu khí quyển quanh nó, hào quang quanh nó. “Mày lấy cho tao dây của hai chiếc giày cao cổ mau,” Alberto nói. “Tao cần.” Nô Lệ gập đầu, cúi người xuống, rê gót đi. Alberto gỡ áo ra khỏi mắc áo, móc lại ổ khóa vào vòng khóa, dùng cả hai tay bấm lại để không phát ra tiếng động. Sau đó nó lẹ làng đi ra phía cửa. Khi Nô Lệ ra đến nơi, nó lại đặt tay lên người hắn, lần này lên vai. Hai đứa đi ra ngoài. “Nó có thêu tên không?” Nô Lệ soi đèn pin xem xét tỉ mỉ chiếc áo. “Không.” “Mày vào buồng tắm nhìn xem có dấu vết gì không. Và cả khuy áo nữa, cẩn thận không nó lại có màu khác đấy nhé.” “Sắp đến một giờ rồi,” Nô Lệ nói. Alberto gật đầu. Khi đến cửa trung đội một, nó quay lại nhìn bạn học: “Thế dây giày đâu?” “Tao chỉ lấy được có một chiếc,” Nô Lệ nói. Nó ngập ngừng trong giây lát, “tao xin lỗi.” Alberto nhìn nó chằm chằm, nhưng không chửi rủa cũng chẳng cười. Nó chỉ nhún vai. “Cảm ơn mày,” Nô Lệ nói. Nó lại cầm lấy tay Alberto và nhìn vào mắt bạn với gương mặt e dè ngượng nghịu nhưng rạng rỡ nụ cười. “Tao chỉ làm để giải khuây thôi mà,” Alberto nói. Rồi nói thêm thật nhanh, “Mày có các câu hỏi bài kiểm tra không? Về môn hóa tao mù tịt.” “Không,” Nô Lệ nói. “Nhưng bọn trong Nhóm bạn có lẽ có đấy. Cách đây một lúc lâu tên Cava đã ra khỏi đây rồi đi về phía các lớp học. Có lẽ chúng đang bàn cách giải bài kiểm tra đấy.” “Tao không có tiền. Thằng Báo Đen là đồ ăn cắp.” “Mày muốn tao cho vay không?” Nô Lệ nói. “Mày có tiền à?” “Một ít thôi.” “Thế mày cho tao vay hai mươi đồng sol được không?” “Hai mươi đồng à, được thôi.” Alberto vỗ vai bạn, nói: “Tuyệt, tuyệt quá. Tao không còn một xu dính túi. Nếu mày muốn, tao sẽ trả bằng cách viết truyện cho mày đọc.” “Không,” Nô Lệ nói. Nó cụp mắt nhìn xuống đất. “Tốt hơn hết là viết thư giùm tao.” “Thư ấy hả? Mày có người yêu rồi à? Mày ấy?” “Tao vẫn chưa có,” Nô Lệ nói. “Nhưng có lẽ sắp có rồi cũng nên. “Được thôi, ông bạn. Tao sẽ viết cho mày hai mươi bức thư. Điều này thì được thôi, nhưng mày phải đưa tao xem thư của cô ấy. Để biết phong cách viết.” Các phòng ngủ dường như đã lấy lại sức sống. Từ dãy phòng ngủ của năm học vọng lại chỗ hai đứa những tiếng bước chân, tiếng mở cửa tủ quần áo, thậm chí cả tiếng chửi thô tục. “Đang đổi ca gác,” Alberto nói. “Ta đi thôi.” Chúng vào phòng. Alberto đi đến giường của Vallano, cúi xuống cởi dây của một chiếc giày. Sau đó dùng hai tay lay mạnh người tên da đen. “Mẹ mày, mẹ mày,” Vallano bực bội kêu to. “Một giờ rồi,” Alberto nói. “Đến phiên mày gác.” “Nếu đánh thức tao trước giờ thì tao đập phù mỏ mày đấy.” Ở phía khác của phòng ngủ, thằng Trăn đang sừng sộ với thằng Nô Lệ vì thằng này cũng vừa đánh thức nó dậy. “Súng và đèn pin cho mày ở kia kìa,” Alberto nói. “Cứ ngủ tiếp đi nếu mày muốn. Nhưng tao báo cho mày biết là đội tuần tra đang ở phía trung đội hai rồi đấy.” “Thật thế à?” Vallano nói rồi ngồi dậy. Alberto đi về giường của mình và cởi quần áo ra. “Toàn một lũ khốn nạn,” Vallano nói. “Rất khốn nạn.” “Mày có chuyện gì vậy?” Alberto hỏi. “Tao mất một dây giày rồi.” “Im lặng,” ai đó hét to. “Gác đêm đâu, bắt mấy thằng đĩ đực kia im mồm lại xem nào.” Alberto cảm thấy Vallano đang rón rén đi ra. Sau đó nó nghe thấy tiếng ồn. “Có kẻ ăn cắp dây giày,” có tiếng hét. “Rồi một hôm nào đó tao sẽ đập vỡ mặt mày ra đấy, thằng Nhà Thơ ạ,” Vallano vừa nói vừa ngáp. Mấy phút sau, tiếng còi của sĩ quan trực xé toạc màn đêm. Alberto không nghe thấy: nó đang ngủ say. Dãy phố Diego Ferré chỉ dài không đầy ba trăm mét và bất cứ người bộ hành nào không thông thạo nơi này cũng dễ nhầm nó là hẻm cụt. Đúng như vậy, từ góc đại lộ Larco nơi nó bắt đầu, người ta có thể nhìn thấy, cách đó hai ô phố, ở đầu cuối con phố này, bức tường lớn mặt tiền của một ngôi nhà hai tầng với sân vườn nho nhỏ có dãy lan can màu xanh bao quanh. Nhìn từ xa, căn nhà này dường như thuộc phố Diego Ferré, nhưng thật ra nó nằm trên con phố hẹp Porta, là con phố vốn cắt ngang và khóa chặt một đầu phố Diego Ferré. Giữa phố Porta và đại lộ Larco, phố Diego Ferré còn bị cắt vụn ra bởi hai dãy phố chạy song song nhau nữa: phố Colón và phố Ocharán. Sau khi cắt ngang phố Diego Ferré, hai dãy phố này đột ngột ngừng lại, về phía Tây cách đó hai trăm mét, đổ vào đường kè ven biển Reserva chạy ngoằn ngoèo ôm lấy quận Miraflores với vành đai bằng gạch đỏ, đó cũng là giới hạn của thành phố, bởi vì dãy tường gạch này được xây trên mép dãy vách đá nhô ra trên biển luôn ầm ào, màu xám và sạch sẽ của vịnh Lima. Nằm lọt thỏm giữa đại lộ Larco, đường kè ven biển và phố Porta, có nửa tá khối nhà ở: hàng trăm căn nhà, hai ba cửa hàng thực phẩm, một hiệu thuốc, một cửa hàng giải khát, một xưởng giày (nửa kín nửa hở lọt giữa một ga ra và một bức tường nhô ra) và một khu đất kín cổng cao tường trong đó có một xưởng giặt bí mật hoạt động. Những dãy phố cắt ngang thì hai bên vỉa hè đều trồng cây; riêng phố Diego Ferré thì không có cây cối gì. Khu vực này là trung tâm của khu phố. Khu phố này không có tên gọi. Khi ở đây người ta lập ra đội bóng đá mini để tham gia giải đấu hàng năm của Câu lạc bộ Terrazas thì lũ trẻ tự giới thiệu là đội của Khu phố Vui vẻ. Nhưng sau khi giải đấu chấm dứt thì cái tên này cũng biến mất, chẳng ai dùng đến nữa. Hơn nữa, trong các bản báo cáo của cảnh sát thì cái tên Khu phố Vui vẻ được dùng chỉ dãy phố Huatica de la Victoria, nơi hành nghề của gái điếm, giữa tên gọi và thực tế giống nhau đến khó xử. Vì thế, về sau bọn trẻ chỉ đơn giản gọi là khu phố. Và nếu ai đó hỏi khu phố nào, để phân biệt với các khu phố khác trong quận Miraflores, với khu phố 28 tháng 7, khu phố Reducto, khu phố đường Francia, khu phố Alcanflores, thì chúng liền nói: “Khu phố Diego Ferré.” Nhà của Alberto là căn thứ ba trong ô phố thứ hai trên phố Diego Ferré, ở vỉa hè bên trái. Nó biết căn nhà này trong cái đêm gia đình chuyển hầu hết đồ đạc từ nhà cũ ở San Isidro đến đây Nó thấy nhà mới này dường như lớn hơn nhà cũ và có hai ưu thế rõ ràng: phòng ngủ của nó ở xa phòng ngủ của bố mẹ hơn và, do nhà này có sân trong, nên có thể bố mẹ sẽ cho nó nuôi một con chó. Nhưng căn nhà mới cũng có những điều bất tiện. Khi ở San Isidro, bố của một đứa bạn sáng nào cũng đưa cả hai đứa đến trường La Salle. Còn sau này nó sẽ phải đi tàu tốc hành, xuống ở ga trên đại lộ Wilson và, từ đó, phải đi ít nhất mười ô phố cho đến đại lộ Arica, bởi vì mặc dù La Salle là trường dành cho trẻ ngoan nhưng lại ở trong trung tâm khu Brena, nơi cư ngụ của dân lai và thợ thuyền. Nó sẽ phải dậy sớm hơn, ăn xong là đi ngay. Trước cửa nhà nó ở San Isidro có một hiệu sách và ông chủ hiệu thường cho phép nó đọc nhờ những cuốn Penecas và Billiken ngay phía sau quầy sách, đôi khi còn cho nó mượn mang về đọc một ngày miễn là đừng làm nhàu và bẩn. Hơn nữa ở căn nhà mới nó lại còn bị mất một thú vui hấp dẫn khác: lên sân thượng ngắm nhà của gia đình Nájar, nơi sáng nào người ta cũng chơi tennis, và, khi trời nắng, người ta thường ăn ở ngoài vườn dưới tán những chiếc ô nhiều màu sặc sỡ, buổi tối thì người ta nhảy múa và nó có thể nhìn trộm những đôi trai gái lén đến sân tennis để hôn nhau. Hôm chuyển nhà nó dậy sớm và vui vẻ đi đến trường. Buổi trưa nó về thẳng nhà mới. Xuống tàu tốc hành ở trạm dừng gần công viên Salazar - nó vẫn chưa biết tên khu đất trồng cỏ nhô ra chênh vênh trên biển này - rồi leo lên dọc phố Diego Ferré bấy giờ vắng ngắt, và bước vào nhà: mẹ nó đang dọa đuổi cô giúp việc nhà nếu ở đây mà vẫn thường xuyên tụm năm tụm ba giao du với đám các bà nấu bếp và lũ lái xe ở trong khu phố. Ăn trưa xong, bố nó nói: “Tôi phải đi ra ngoài. Có việc quan trọng.” Mẹ nó kêu to: “Ông lại lừa tôi chứ gì, làm sao ông có thể qua mắt tôi được?” và sau đó, cùng với viên quản gia và cô giúp việc nhà, bà bắt đầu kiểm tra tỉ mỉ xem liệu có mất gì hoặc bị hư hại gì trong quá trình chuyển nhà không. Alberto lên phòng mình, nằm vật xuống giường, lơ đãng viết nguệch ngoạc lên bìa mấy cuốn sách. Một lát sau nó nghe tiếng nói của mấy đứa con trai vọng qua cửa sổ. Những tiếng nói đứt quãng, liền sau đó là tiếng chạm vào bóng, tiếng rít, tiếng quả bóng bật vào cửa, và ngay sau đó những tiếng nói lại cất lên. Nó nhảy ra khỏi giường đi ra ban công. Một trong mấy thằng con trai mặc chiếc áo màu như lửa cháy với những vạch đỏ và vàng, còn đứa kia thì mặc áo lụa màu trắng, phanh ngực không cài cúc. Đứa đầu cao hơn, tóc vàng hoe, giọng nói, ánh nhìn và cử chỉ có vẻ ngạo mạn, còn đứa sau thì thấp béo, tóc nâu xoăn tít, nhanh nhẹn hơn. Tên tóc vàng làm thủ môn đứng trước cửa một ga ra; tên tóc nâu thì sút quả bóng còn mới toanh. “Pluto, bắt quả này nhé,” tên tóc nâu nói. Pluto, khom mình xuống, mặt căng thẳng đầy kịch tính, làm điệu bộ, lau trán và mũi bằng cả hai tay, giả vờ lao ra và nếu đỡ được quả bóng là nó lại bật cười giòn giã. “Mày như là mụ khọm già ấy Tico ạ,” nó nói. “Mày mà sút phạt, tao chỉ cần chiếc mũi là đủ cản.” Tên tóc nâu khéo léo dùng chân dừng bóng, đặt xuống đất, ước lượng khoảng cách, sút bóng, và gần như cú sút nào cũng ghi bàn. “Hai tay mày như cánh bướm ấy,” Tico trêu. “Cú sút này tao báo trước cho mày đây; vào góc phải và là cú lốp bóng đấy.” Lúc đầu Alberto chỉ lạnh lùng nhìn hai đứa và dường như chúng cũng chưa thấy nó. Dần dần, cuộc đấu kia khơi dậy ham thích thể thao của nó; khi Tico ghi được một bàn hoặc Pluto chặn được bóng, nó tán thưởng mà không cười, như một tay sành sỏi. Sau đó, nó bắt đầu chú ý đến những lời nói đùa của hai đứa kia; nó hòa vẻ mặt của mình với vẻ mặt của chúng, và hai bạn chơi kia chốc chốc lại tỏ ra thừa nhận sự có mặt của nó: chúng quay đầu lại nhìn như muốn nhờ nó làm trọng tài. Ngay lập tức giữa ba đứa hình thành sự thông đồng ăn ý bằng những ánh mắt nhìn, những nụ cười, những cử chỉ bằng đầu. Bỗng Pluto dùng chân chặn được một cú sút của Tico và bóng bị văng ra xa. Tico chạy theo quả bóng. Pluto ngước nhìn lên Alberto. Chào, nó nói. “Chào,” Alberto đáp lại. Pluto đút hai tay trong túi quần. Nó nhảy tại chỗ, giống như các cầu thủ nhà nghề vẫn làm trước khi bắt đầu trận đấu, để khởi động. “Mày đến sống ở đây luôn à?” Pluto hỏi. “Ừ. Gia đình tao mới dọn đến đây hôm nay.” Pluto gật đầu. Tico tiến lại gần. Nó đang lấy một tay giữ quả bóng trên vai. Nó nhìn Alberto. Hai đứa cười với nhau. Pluto nhìn Tico: “Nó vừa chuyển đến đây,” Pluto nói. “Nó sẽ sống ở đây.” “Thế à”, Tico nói. “Chúng mày sống ở đây hả?” Alberto hỏi. “Nó sống ở phố Diego Ferré,” Pluto nói. “Trong ô phố đầu tiên. Tao thì ở phía bên kia, ở Ocharán.” “Thêm một đứa nữa đến khu phố này,” Tico nói. “Tao tên là Pluto. Còn thằng này là Tico. Nó sút bóng như mèo mửa ấy.” “Bố mày có phải người tốt bụng không?” Tico hỏi. “Cũng tương đối,” Alberto nói. “Sao mày hỏi vậy?” “Người ta cứ đuổi bọn tao hết chỗ này qua chỗ khác dọc phố này,” Pluto nói. “Họ thu bóng của chúng tao. Họ không để chúng tao chơi bóng.” Tico bắt đầu đập bóng xuống đất như đang chơi bóng rổ. “Mày xuống đây đi,” Pluto nói. “Chúng mình thay nhau sút phạt. Khi có thêm những đứa khác đến, ta sẽ chơi đá bóng mini.” “OK,” Alberto nói. “Nhưng tao chơi bóng đá mini không thạo đâu nhé.” Cava nói với bọn mình: phía sau khu nhà vòm của lính có gà mái. Này thằng người thượng kia, mày nói láo, đâu có đúng như vậy. Tao thề là đã nhìn thấy gà mái mà. Và thế là sau khi ăn cơm xong bọn mình đi đường vòng để tránh qua khu phòng ngủ của học viên, cứ như đang hành quân dã ngoại vậy. Thấy chưa? Tụi mày thấy chưa? thằng cha láu cá kia nói, một chuồng gà sơn màu trắng đang nhốt những con gà mái đủ màu, chúng mày còn muốn gì hơn nữa nào, muốn thêm nữa à? Ta chộp con màu đen hay màu vàng đây? Con màu vàng béo hơn. Mày còn đợi gì nữa, thằng gay kia? Để tao chộp nó cho, tao sẽ tóm ngay đôi cánh. Thằng Trăn đâu, bịt ngay mỏ nó lại đã, mày tưởng dễ à. Không được; đừng có mà chạy trốn nhé, lại đây, lại đây. Con gà sợ nó, nhìn nó thật tởm, con gà quay lông đuôi lại phía nó, chúng mày nhìn kìa, thằng cha láu cá nói. Nhưng đúng là nó đang mổ vào các ngón tay tao. Chúng mình đến sân vận động đi và chúng mày phải bịt mỏ nó lại cho thật chắc. Thế chuyện gì sẽ xảy ra nếu thằng Xoăn đéo thằng ấy nhỉ? Tốt hơn hết là phải trói chặt hai chân và mỏ nó lại, thằng Báo Đen nói. Thế còn hai cánh, chúng mày nói sao nếu có ai đó bị đầu cánh của nó đập vào mặt, chúng mày nói sao nào? Nó chẳng muốn dính dáng gì tới mày, Trăn ạ. Mày có chắc không, thằng người rừng kia, mày cũng thế chứ? Không, nhưng chính mắt tao thấy nó mà. Tao buộc chân và mỏ của nó bằng gì đây? Sao mày ngu thế, đúng là đồ ngu, con gà mái bé tí tẹo, chẳng khác gì đồ chơi, vậy mà mày cứ lúng ta lúng túng như con là lạc đà không bướu vậy! Nhưng chuyện gì xảy ra nếu thằng Xoăn đéo thằng ấy nhỉ? Chúng mình đang hút thuốc trong nhà xí của lớp học, hạ lửa xuống nào, đồ dơi chuột. Tên Báo Đen cựa quậy rõ ghê, cứ như nó bi cả bọn đéo đến nơi. Được rồi, Báo Đen ạ, xong chưa, xong rồi chứ? Im nào, tụi mày làm tao mất cả tập trung. Được chưa, kết thúc được chưa nào? Nếu chúng mình đéo thằng mập thì sẽ ra sao nhỉ? Xoăn nói. Ai cơ? Cái thằng ở trung đội chín ấy, thằng mập ú ấy. Thế mày chưa bao giờ đéo nó à? Chà. Ý tưởng này cũng không đến nỗi tệ đấy nhỉ, nhưng để yên hay không để yên nó nào? Người ta nói với tao là Lanas đã đéo nó khi thằng ấy gác đêm đấy. Chà, có thế chứ! Ra chưa, ra chưa? thằng cha láu cá hỏi. Thế đứa nào đầu tiên đây? tao hết thèm mẹ nó rồi, vì nghe nó kêu ầm ĩ từ lúc đầu thế kia. Đây có một sợi dây buộc mỏ nó này. Thằng người rừng kia, đừng buông ra, có khi nó bay mất đấy. Có ai tình nguyện không nào? Cava túm chặt dưới cánh, Xoăn cầu khẩn nó đừng có đụng tới cái mỏ vì trước sau gì người ta cũng ngốn mày thôi, còn tao thì buộc chân nó. Thế thì tốt nhất chúng mình bốc thăm vậy, đứa nào có diêm ở đây không hở? Chặt đầu đứa nào đó đi rồi chỉ tiếp cho tao những thằng khác, tao già quá rồi làm sao chúng nó gài bẫy tao được. Đến lượt thằng Xoăn. Nghe này, đứa nào bảo đảm với mày là để yên hả? Chả đứa nào bảo đảm với tao cả. Cái cười này chẳng khác gì một vết đốt. Tao chấp nhận, Xoăn ạ, nhưng chỉ như một cuộc chơi thôi. Còn nếu không để yên thì sao? Tất cả im đi nào, có mùi thằng cha hạ sĩ quan đấy, cũng còn may là nó đang đi ở xa, tao là thằng đực chính hiệu, đực ra đực đây. Còn nếu chúng mình đéo được thằng cha hạ sĩ quan thì sao? Thằng Trăn chỉ đéo được con chó cái thôi, thằng láu cá nói, tại sao không đéo cái thằng béo mập kia, dù gì thì nó cũng là người. Nó đang bị phạt, tao vừa thấy nó ở nhà ăn đang khoe khoang với tám thằng chó con ngồi cùng bàn. Có lẽ không để yên đâu. Ai nói sợ đấy, ai nói sợ nào? Tao đéo tất tật cả một trung đội như thằng béo kia, từng thằng một, tươi giòn như rau diếp. Chúng mình sẽ vạch ra một kế hoạch, Báo Đen nói, chuyện dễ ợt. Đến lượt thằng nào đéo nó đây? Con gà mái nằm dưới đất, bất động, thở thoi thóp. Đến phiên thằng người rừng Cava, chúng mày không thấy nó đã xắn tay áo à? Chỉ làm cho vui thôi, nó chết rồi còn đâu nữa, tốt hơn hết là để cho thằng Trăn, cái thằng có thể vừa đi vừa đéo ấy. Chúng mình đã bốc thăm rồi, không có gì làm nữa đâu, mày đéo hoặc cả bọn cùng đéo như ở quê mày người ta vẫn đéo con lạc đà không bướu. Chúng mày không có chuyện gì hấp dẫn ư? Và nếu chúng mình mang theo thằng Nhà Thơ thì nó đã kể cho nghe một trong những chuyện có thể làm cửng buồi lên rồi đúng không nào? Chỉ là chuyện mà thôi, chúng mày ạ, tao nghĩ tới không thôi là cũng đã cửng lên rồi, vấn đề là ý chí thôi. Mà này, nếu tao bị nhiễm trùng thì sao? Mày sao vậy, em ơi, mày sợ gì vậy, thằng người rừng kia, từ bao giờ mày tỏ ra thối chí vậy, chắc mày biết thừa là thằng Trăn còn lành mạnh an toàn hơn cả mẹ mày nữa kể từ khi mày đéo cái con chó Malpapeada đấy chứ? Này kể cho tao nghe chuyện đó xem nào, đồ rận kia, thế mày chưa nghe nói gà mái còn sạch sẽ hơn chó cái, vệ sinh hơn, hay sao? Đồng ý thôi, chúng mình sẽ chơi cho dù có bị bắt quả tang. Thế còn đội tuần tiễu thì sao? Lão Huarina đang phụ trách, hắn là thằng cha hết sức khó chịu và vào thứ Bảy thì đội tuần tra chỉ làm cho qua chuyện thôi. Còn nếu cứ kết tội? Cuộc họp của Nhóm bạn: học viên tập trung ăn nhậu và tán phét, nhưng mày cũng sẽ nói là chính mày cũng bị nhồi cho ăn chứ? Chúng mình ra đi, sắp có kèn báo đến giờ phải giữ im lặng rồi. Chà mẹ kiếp, giảm bớt lửa đi nào. Rồi, thằng cha láu cá nói, con gà mái tự đứng một mình được rồi; đưa nó cho tao đi. Mày giữ lấy nó này. Tao ư? Mày chứ còn ai nữa. Mày có chắc là lũ gà mái cũng có lỗ chứ? Trừ khi con khờ này còn trinh nguyên. Nó đang cử động đây này, chúng mày nhìn này, có khi nó là gà trống bê đê cũng nên. Chúng mày đừng cười nói to nữa đi nào, làm ơn đi. Làm ơn nào. Chúng mày cười nghe bực bỏ mẹ. Chúng mày không thấy à, đã thấy tay của thằng người rừng chưa? Tay nó đang sờ soạng, đồ quỷ. Tao đang tìm cái không làm tao cử động và tao thấy nó đây rồi. Mày nói gì vậy, anh bạn? Nó có lỗ, chúng mày đứng im hộ tao cái nào, nhân danh tất cả thánh thần xin chúng mày đừng cười nữa kẻo đến cả voi cũng ngủ mất đấy. Đồ khốn khiếp. Những thằng rừng rú ở miền thượng, theo anh tao nói, là bọn xấu cả thôi, tệ nhất trên đời. Phản trắc và hèn nhát, vẹo vọ ngay đến cả linh hồn. Bịt ngay mỏ nó lại nào, lỗ to lắm! Thưa trung úy Gamboa, ở đây có đứa nào đó đang ăn một con gà mái. Mười giờ rồi hay cũng xuýt xoát mười giờ rồi đấy, Xoăn nói, hơn mười giờ mười lăm phút rồi. Chúng mày có thấy đứa trực đêm nào không? Trực đêm tao cũng chén luôn. Mày chén tuốt, tao thấy như vậy đấy, mày là thằng phàm ăn, tao chắc là mày chén cả bà thánh mẫu nữa đấy. Không có thằng nào bị cấm trại trong phòng ngủ này, nhưng ở trung đội hai thì có và chúng tao đi ra khỏi phòng giày cắp trong tay. Tao đang rét cóng lên đây này, có khi còn bị ngạt mũi nữa. Tao phải thú nhận rằng cứ mỗi khi nghe thấy tiếng còi là tao chạy. Chúng mình phải cúi gập mình xuống để leo cầu thang, bởi vì từ Phòng Bảo vệ người ta nhìn thấy hết đấy. Đúng thế hả? Chúng mình vào phòng ngủ thật nhẹ nhàng và Báo Đen này, thằng khốn nào nói chỉ có hai thằng bị cấm trại? Ở đó chúng ngáy như có đến mười thằng lùn vậy. Thế thì chạy chứ hả? Ai cơ? Mày biết giường nó ở đâu thì đi trước đi, để chúng mình không đớp lẫn nhau. Giường thứ ba, mày không thấy bốc mùi thằng béo tham ăn à. Nó bắt đầu rụng lông rồi, tao thấy hình như nó đang ngắc ngoải rồi. Chết hẳn rồi hay chưa? Kể xem nào. Bao giờ mày cũng đi nhanh thế hoặc chỉ nhanh khi đi cùng mấy con gà mái thôi? Chúng mày nhìn con gà này này, tao cho là thằng người rừng giết chết nó rồi. Tao á? Nó không thở được, tất cả các lỗ bị bịt kín hết rồi. Nếu còn động đậy thì tao đảm bảo là nó đang vờ chết đấy. Chúng mày có tin rằng loài vật cũng có cảm giác không? Cảm giác cái gì, hở thằng dái to, lẽ nào chúng cũng có linh hồn? Tao muốn nói là chúng cũng biết thích thú, như đàn bà ấy. Con chó cái Malpapeada thì đúng như vậy, giống hệt như đàn bà. Trăn, mày làm tao tởm lợm. Những thứ không được phép thấy. Này, con gà đứng lên rồi. Nó khoái mày rồi đấy lại và còn muốn thêm nữa đấy, biết không. Nó đi như say, đi như say. Giờ thì chúng mình ăn nó thật chứ? Ai đó phải đè lên nó đã, đừng quên là thằng người rừng đã để trong người nó một cục đá to đấy. Tao chẳng hiểu người ta giết gà như thế nào. Im mồm đi nào, lửa có thể thiêu chết mọi thứ vi trùng. Cứ cầm cổ nó mà quay tít trên không. Giữ yên nó nào, Trăn, để tao quay thử coi, mày giữ chặt chỗ này. Ừ, thưa quý ông, cứ đưa nó lên cao, chà chân thế mới là chân chứ. Bây giờ thì nó chết thật rồi, xơ xác hết cả rồi, trời ạ. Trời ơi, xơ xác cả ra thế này, ai mà ăn nổi toàn mùi bụi bặm với lại móng chân. Tao bảo đảm là lửa sẽ giết sạch mọi vi trùng. Ta đốt lên đống lửa đi, nhưng phải ở trên kia, sau hàng rào đá, ở đấy kín đáo hơn cả. Im lặng nào không tao băm xác mày ra bây giờ. Leo lên đi, mày được đỡ dưới rồi còn gì, đồ teo dái kia. Sao chân mày cứ trượt mãi thế, thằng lùn, sao cứ trược chân hoài thế, làm sao thế, mày còn chờ gì nữa mà không leo lên đi, mày không thấy nó ngủ say như chết à. Thằng Trăn kia, nghe này, đừng có ngậm miệng lại không là chết ngạt đó. Tí nữa thì tao rơi xuống dưới mất rồi và tao cứ như đang chới với, thằng Xoăn nói, mày đừng động đậy không tao giết đấy tao băm xác mày thành tro bụi đấy tao thả bom vào mày đấy, mày còn muốn gì nữa nào, đồ khốn. Ta phải nấp nhanh lên không bọn lính lùn sắp dậy rồi, tao chẳng đã nói với mày là tất cả bọn lính lùn đang chuẩn bị dậy cả rồi hay sao và ở đây máu sẽ chảy tràn ngập đầy. Thằng bật đèn là một kẻ láu cá. Cái thằng hò hét có kẻ đang làm thịt anh em mình kìa, xông lên anh em ơi thì cũng là kẻ láu cá láu tôm. Tao từng bị lãnh đủ vì cái vụ đèn đóm ấy đấy chắc là vì tao làm cho nó phải mở mồm hét lên chứ gì? Cứu tao với, anh em. Tao chỉ từng nghe thấy một lần tiếng hét giống như vậy khi mẹ tao quăng chiếc ghế vào anh tao. Và các vị, những anh lùn, có ai mời các vị không, ai làm cái gì để khiến các vị tỉnh dậy, xin hỏi, có phải cái thằng đã bảo các vị bật đèn lên không? Thế ông kia là trung đội trưởng ư? Không chúng tôi sẽ không để cho các ông làm việc đó với thằng bé đâu, đổ đĩ đực ạ. Tao đã phát điên lên rồi đây này, tao đang mơ, từ bao giờ người ta được quyền nói như vậy với các học viên, vào hàng ngũ ngay. Còn mày, hét cái gì thế, mày không thấy đây chỉ là đùa hay sao. Chúng mày chờ đó, để tao đè bẹp dăm thằng lùn cho coi. Và thằng Báo Đen vẫn còn cười, tao nhớ cái cười của mày khi tao dập mấy thằng lùn. Giờ ta đi thôi, nhưng điều này thì chúng mày phải nghe cho kỹ và không được quên: bất cứ đứa nào há mỏ ra là cả phòng sẽ nhào vào đánh bể miệng nó ngay. Không được đụng đến bọn lùn, tất cả chúng nó là một lũ hết sức rắc rối, chẳng hiểu gì những lời nói đùa đâu. Đi xuống cầu thang chúng mình lại phải gập người xuống nữa chứ? Chà, Xoăn nói, mút tiếp một mẩu xương, thịt đã cháy sém hết cả và hãy còn lởm chởm mấy cái lông. II KHI LÀN GIÓ sớm mai thổi ào vào khu phố La Perla, đẩy màn sương mù ra tan biến trên mặt biển, thì khu vực Trường Quân sự Leoncio Prado sáng bừng lên như một căn phòng đầy khói bỗng được mở toang hết cửa sổ, một người lính vô danh còn đang ngáp xuất hiện ở ngưỡng cửa khu lán của lính, vừa đi vừa nhìn chăm chăm về phía các phòng ngủ của học viên. Chiếc kèn đồng trên tay anh ta lắc lư theo nhịp chuyển động của thân thể, sáng lấp lánh trong ánh nắng ban mai còn nhạt nhòa. Khi đến khu vực học viên năm thứ ba, anh ta dừng lại giữa sân, cách đều bốn góc của căn nhà. Trong bộ quân phục màu xanh lá cây đã bạc màu, mờ mờ ảo ảo trong những làn sương cuối cùng của buổi sớm, trông anh giống con ma. Chầm chậm, mất dần sự cứng nhắc của cơ thể, anh linh hoạt lên, xoa hai tay vào nhau, khạc nhổ nước bọt. Sau đó anh thổi. Anh nghe thấy vọng lại tiếng kèn của chính mình và, mấy giây sau, nghe thấy tiếng chửi rủa của lũ chó con năm thứ ba trút hết tức giận vào anh vì đã vội báo đêm đã dứt. Rồi trong tiếng chửi mẹ kiếp từ xa vọng đến, người lính kèn lại bưóc vội đến khu vực học viên năm thứ tư. Một số gác đêm trong ca trực cuối cùng đã bước ra khỏi cửa, nhờ tiếng chửi rủa của lũ chó con mà biết là anh đến: chúng trêu chọc anh, chửi rủa anh và đôi khi còn ném đá vào anh. Người lính kèn đi đến năm thứ năm. Anh đã hoàn toàn tỉnh ngủ và bước đi đã vững hơn. Ở đó không có phản ứng nào; các học viên kỳ cựu biết rõ rằng từ khi có kèn báo thức cho đến khi tiếng còi tập hợp vang lên chúng có mười lăm phút, một nửa thời gian đó chúng vẫn có thể tận dụng ở trên giường. Người lính kèn trở về lán, xoa tay và khạc nhổ nước bọt. Anh chẳng hề giật mình vì sự tức giận của lũ chó con, sự khó chịu của học viên năm thứ tư: anh chỉ thoáng cảm nhận được thôi. Trừ hôm thứ Bảy. Ngày hôm đó, vì có thực hành dã ngoại, kèn báo thức được thổi sớm hơn một tiếng đồng hồ và đám lính ai cũng e ngại ca trực này. Vào lúc năm giờ trời vẫn tối mịt và các học viên, còn say ngủ và tức lồng tức lộn, đứng trên cửa ẳ ẳ sổ quẳng, ném chẳng thiếu thứ gì vào người lính kèn. Bởi vậy, các buổi sáng sớm thứ Bảy, người lính kèn đành vi phạm nội quy: đứng thổi kèn báo thức từ cách xa các sân trong khu nhà ngủ, từ đường piste, và thổi thật nhanh. Sáng thứ Bảy, học viên năm thứ năm chỉ tận dụng được hai hoặc ba phút trên giường ngủ, bởi, thay vì mười lăm phút, chúng chỉ có tám phút để rửa mặt, mặc quân phục, xếp lại giường và tập hợp. Nhưng sáng thứ Bảy này là trường hợp đặc biệt. Hoạt động dã ngoại đã bị hủy bỏ đối với học viên năm thứ năm vì có bài kiểm tra môn hóa; khi đám học viên kỳ cựu này nghe tiếng kèn báo thức, vào lúc sáu giờ, thì lũ chó con và học viên năm thứ tư đang đi đều qua khỏi cửa trường tiến về khu đất trống nối khu phố La Perla với khu Callao. Mấy phút sau kèn báo thức, Alberto, vẫn chưa kịp mở mắt, đã vội nghĩ: “Hôm nay là ngày được ra khỏi trường.” Ai đó nói: “Sáu giờ kém mười lăm. Phải ném đá vào cái thằng khốn nạn kia.” Phòng ngủ lại chìm trong im lặng. Alberto mở mắt: từ các ô cửa sổ một tia nắng yếu ớt, xám nhờ nhờ tuôn vào phòng. “Các buổi sáng thứ Bảy mặt trời cần phải mọc.” Cửa buồng tắm mở ra. Alberto nhìn thấy bộ mặt nhợt nhạt của thằng Nô Lệ: những chiếc giường hai tầng cắt ngang mất đầu nó trong khi nó đi. Nó đã chải tóc và cạo râu. “Nó dậy trước kèn báo thức để được đứng đầu hàng,” Alberto nghĩ. Nó nhắm mắt lại. Nó cảm thấy tên Nô Lệ dừng lại cạnh giường mình và chạm vào vai nó. Nó hé mắt nhìn: cái đầu của Nô Lệ ngự trên đỉnh cái thân hình gầy còm chìm nghỉm trong bộ quần áo ngủ màu xanh dương. “Hôm nay đến phiên trực của trung úy Gamboa đấy.” “Tao biết rồi,” Alberto trả lời. “Tao vẫn còn thời gian mà.” “Tốt thôi,” Nô Lệ nói. “Tao tưởng mày ngủ quên.” Nó cười rồi đi khỏi. “Nó muốn làm thân với mình,” Alberto nghĩ. Nó lại nhắm mắt và nghĩ ngợi căng thẳng: mặt đường nhựa phố Diego Ferré lấp lánh vì ẩm ướt; vỉa hè cả dãy phố Porta và Ocharán đầy lá rụng vì gió lộng trong đêm; một chàng thanh niên thanh lịch bước đi ở đó, miệng phì phèo điếu Chesterheld. “Mình thề là hôm nay phải đi đến bằng được chỗ mấy cô bé đó.” “Bảy phút rồi!” Vallano hét lên, bằng giọng cổ, từ cửa ra vào phòng ngủ. Náo động hẳn lên. Những chiếc giường hai tầng gỉ sét kêu ken két; các cửa tủ đựng quần áo rít lên; tiếng gót giày bốt gõ mạnh xuống nền gạch hoa; khi lướt qua hoặc đụng vào nhau, cơ thể các học viên làm phát ra tiếng loạt soạt thì thầm; song những lời lăng mạ và chửi thề át mọi tiếng động khác, như ngọn lửa vượt lên hẳn đám khói. Liên tục, ào ạt như đạn súng máy văng ra từ cổ họng cả đám, tuy nhiên những lời chửi rủa không nhằm vào đứa nào cụ thể: chúng nhắm vào những mục tiêu trừu tượng như Chúa trời, sĩ quan và mẹ, và hình như đám học viên viện đến những mục tiêu này chẳng qua vì nhạc tính hơn là vì ý nghĩa cùa các từ đó. Alberto nhảy ra khỏi giường, đi tất, mang giày, đôi giày vẫn chưa có dây buộc. Nó chửi thề. Khi luồn xong dây giày thì phần lớn học viên đã sắp xếp gọn gàng giường của mình và bắt đầu mặc quần áo. “Nô Lệ ơi!” Vallano hét. “Hát tao nghe chút gì đi nào. Tao thích nghe mày hát trong khi rửa mặt.” “Thằng gác đêm đâu rồi,” Arróspides rống lên. “Đứa nào lấy cắp một dây giày của tao rồi. Mày phải chịu trách nhiệm. Mày sẽ bị phạt cấm trại, đó dê cụ.” “Thằng Nô Lệ lấy đấy,” ai đó nói. “Tao thề tao đã thấy nó lấy mà.” “Phải tố cáo với đại úy thôi,” Vallano đề nghị. “Chúng tao không muốn có kẻ cắp ở trong cùng phòng.” “Ái!” có tiếng nói khe khẽ, “em da đen nho nhỏ sợ trộm.” “Ai, ài, ai” một số tên bắt đầu hát. “Ái, ài, ai,” cả phòng hát theo. “Tất cả là một lũ con của mẹ điếm,” Vallano khẳng định. Đoạn nó đi ra, đập mạnh cửa. Alberto đã mặc quần áo xong. Nó chạy vội ra buồng tắm. Ở buồng tắm bên cạnh, Báo Đen vừa chải đầu xong. “Tao Cần năm mươi điểm cho môn hóa,” Alberto nói, miệng đầy bọt kem đánh răng. “Bao nhiêu tiền?” “Mày sẽ trượt thôi, Nhà Thơ ạ,” Báo Đen nhìn vào gương và cố đè tóc xuống cho có nếp mà không được: những sợi tóc, màu vàng và cứng đầu cứng cổ, thô như gai, cứ quấn chặt lấy nhau sau chiếc lược. “Chúng tao không có câu hỏi kiểm tra đâu. Không phải là bọn tao.” “Thế chúng mày không kiếm được câu hỏi kiểm tra à?” “Số không. Chúng tao cũng chả định kiếm.” Còi vang lên. Tiếng ồn ào càng tăng trong các buồng tắm và các phòng ngủ rồi đột ngột tắt ngấm. Giọng của trung úy Gamboa cất lên từ ngoài sân, như tiếng sấm: “Các trung đội trưởng, hãy bắt đầu tính ba phút cuối!” Tiếng ồn ào lại bùng lên song bị nghẹn đi. Alberto chạy bán sống bán chết: đút vội bàn chải đánh răng và lược vào túi, khăn tắm thì quấn chặt quanh người như cái thắt lưng giữa áo sơ mi và áo va rơi. Hàng ngũ đã hình thành một nửa. Nó áp sát vào tên đứng trước, ai đó ép nó ở phía sau. Alberto túm vội thắt lưng Vallano rồi nhảy loi choi để tránh những cú đá của mấy thằng mới tới đang cố len vào hàng ngũ cố tìm bằng được một chỗ đứng. “Đừng có sờ soạng vậy, đồ dê cụ,” Vallano thét. Dần dần những hàng đầu đã ổn định và các trung đội trưởng bắt đầu đếm quân số. Ở cuối hàng vẫn còn lộn xộn, chen chúc nhau thô bạo, những thằng đến cuối cùng đang dùng cùi chỏ và lời đe dọa cố tìm một chỗ đứng. Trung úy Gamboa đứng nơi bờ đường piste quan sát đội ngũ. Ông cao, to khỏe. Ông đội lệch mũ lưỡi trai ra chiều ngạo mạn; đầu lắc qua lắc lại rất chậm, với nụ cười bỡn cợt. “Im lặng!” ông hét to. Toàn thể học viên im phăng phắc. Vị trung úy, nãy giờ chống nạnh hai tay ngang hông, bỗng thả hai tay xuống đong đưa một lúc dọc thân người trước khi dừng lại. Ông đi về phía tiểu đoàn; gương mặt khô khan, rất ngăm, đã đanh rắn lại. Các vị hạ sĩ quan Varúa, Morte và Peroa đi sau ông ba bước. Gamboa dừng lại. Nhìn đồng hồ. “Đúng ba phút,” ông nói. Ông nhìn hàng quân từ đầu này đến đầu kia, y như người mục đồng quan sát bầy gia súc của mình. “Lớp chó con chỉ mất có hai phút rưỡi để tập hợp thành hàng ngũ ngay ngắn đấy nhé!” Làn sóng tiếng cười cố nén lan nhanh làm rung động toàn bộ tiểu đoàn. Trung úy Gamboa ngẩng cao đầu, nhíu mày: im lặng được tái lập tức thì. “Ý tôi muốn nói là các học viên năm thứ ba.” Một làn sóng tiếng cười khác lại bùng lên, lần này bạo dạn hơn. Gương mặt các học viên cố tỏ ra nghiêm nghị, tiếng cười nảy ra từ trong bụng và tắt ngay trên bờ môi, không hề làm thay đổi nét mặt và ánh mắt nhìn. Gamboa nhanh chóng đưa hai tay lên ngang hông: một lần nữa im lặng được tái lập tức thì, hệt như vết dao nhanh gọn. Mấy viên hạ sĩ quan nhìn Gamboa như bị thôi miên. “Ông ta tỏ ra vui vẻ,” Vallano nói thì thầm. “Các trung đội trưởng,” Gamboa nói. “Báo cáo về trung đội mình.” Ông nhấn mạnh từ cuối, kéo dài từ đó một hồi, mắt hơi nheo lại. Tiếng thở dài nhẹ nhõm làm xao động các hàng quân của tiểu đoàn. Ngay lập tức, Gamboa tiến lên phía trước một bước; hai mắt ông nhìn như xuyên thấu các hàng học viên đứng im bất động. “Và báo cáo tên ba người đứng cuối mỗi hàng,” ông ra lệnh bổ sung. Ở cuối tiểu đoàn bùng lên tiếng thì thào thật nhỏ. Các trung đội trưởng đi vào giữa các hàng của trung đội mình phụ trách, giấy bút cầm sẵn trên tay. Tiếng thì thào rung lên chẳng khác gì lũ côn trùng đang tranh nhau tìm cách thoát khỏi mạng nhện. Alberto liếc mắt nhìn những nạn nhân của trung đội một: Urioste, Núnez, Revilla. Tiếng thì thào của Revilla vọng đến tai nó: “Khỉ ơi, mày đã bị phạt cấm trại một tháng rồi, mất thêm sáu điểm thì có hề gì đâu nào? Đổi cho tao chỗ của mày đi.” “Mười đồng sol,” thằng có biệt danh Khỉ nói. “Tao đang không có tiền; nếu mày muốn thì cho tao nợ.” “Không, thế thì mặc xác mày.” “Ai nói gì trong hàng kia hả?” trung úy hét. Tiếng thì thào vẫn râm ran, nhưng nhỏ lại và tắt dần. “Im lặng!” Gamboa hét. “Mẹ kiếp, im ngay nào!” Mệnh lệnh được chấp hành ngay. Các trung đội trưởng từ trong các hàng đi ra, đứng nghiêm cách các hạ sĩ quan hai mét, rập gót, chào. Sau khi trao những tờ giấy, họ nói thì thào: “Thưa hạ sĩ quan, xin cho phép tôi về lại hàng.” Viên hạ sĩ quan làm động tác cho phép hoặc nói: “Đi đi”. Các trung đội trưởng nhanh chân quay về hàng của trung đội mình. Sau đó hạ sĩ quan trao giấy lại cho Gamboa. Ông ta cũng rập gót một cách phô trương và có cách chào riêng chẳng giống ai: thay vì để tay ngang thái dương thì lại để tay lên trán, vì vậy bàn tay che khuất gần hết mắt phải. Học viên đứng thẳng dơ quan sát người ta trao nhận báo cáo. Trong tay Gamboa, những tờ giấy rung rung như cánh quạt. Tai sao ông ấy không ra lệnh xuất phát đi nhỉ? Hai mắt ông ta vẫn tiếp tục dò xét tiểu đoàn, một cách khoái trá. Bỗng nhiên, ông ta cười. “Sáu điểm hay một góc vuông nào?” ông ấy nói. Một tràng pháo tay vang lên. Một số hô to: “Gamboa muôn năm.” “Tôi đang bị điên hay có ai đó đang nói chuyện trong hàng đây?” trung úy hỏi. Học viên im lặng ngay. Gamboa đi đi lại lại trước những trung đội trưởng, hai tay vẫn chống ngang hông. “Ba người đứng cuối hàng lên đây,” ông hô to. “Nhanh lên. Từng trung đội một.” Urioste, Núnez và Revilla ra khỏi hàng chạy vội lên. Vallano nói khi chúng đi ngang qua: “May mà hôm nay Gamboa trực đấy lũ chim câu ạ.” Ba học viên đứng nghiêm trước viên trung úy. “Tùy các cậu thích,” Gamboa nói. “Góc vuông hoặc sáu điểm. Tự do lựa chọn.” Cả ba cùng trả lời: “Góc thẳng”. Viên trung úy gật đầu đồng ý và nhún vai. “Ta quá biết các cậu chẳng khác gì chính ta sinh ra các cậu,” ông nói nhỏ, và Urioste, Núnez, Revilla cùng mỉm cười đầy vẻ biết ơn. Gamboa ra lệnh: “Vào tư thế góc vuông.” Ba thân người cúi gập lại như chiếc bản lề, nửa phần trên của cơ thể gập xuống song song mặt đất. Gamboa quan sát cả ba; cùi chỏ thúc nhẹ vào đầu Revilla. “Che ngay hai cái hòn của cậu đi,” ông nhắc. “Bằng hai bàn tay ấy.” Sau đó ông ra hiệu cho hạ sĩ quan Pezoa, một người lai nhỏ con nhưng đầy cơ bắp, yết hầu to như của loài ăn thịt. Ông ta chơi bóng đá rất giỏi và cú đá thì vô cùng mạnh mẽ. Pezoa lùi lại giữ khoảng cách. Ông ta hơi nghiêng người: một tia lửa vút lên từ mặt đất và quật trúng đích. Revilla bật một tiếng rên. Gamboa ra hiệu cho nó về chỗ trong hàng. “Chà!” sau đó ông nói. “Pezoa ạ, hôm nay ông yếu quá đấy. Ông không làm nó động đậy gì cả.” Viên hạ sĩ quan tái mặt. Đôi mắt xếch của ông ta chăm chú nhìn Núnez. Lần này ông ta phải lấy đà để đá và dùng mũi giày. Cậu học viên thét vang khi bị đá tung lên. Cậu ta văng ra khoảng hai mét và đổ gục xuống. Pezoa hồi hộp dò tìm gương mặt Gamboa. Ông này mỉm cười. Các học viên cũng cười, Núnez, sau khi đứng dậy và dùng cả hai tay phủi bụi sau mông, cũng cười. Pezoa lại lấy đà. Urioste là thằng khỏe nhất trung đội một, có khi còn khỏe nhất cả trường. Nó giạng hai chân ra để giữ thăng bằng. Cú đá chỉ làm nó hơi bị ngả nghiêng một chút. “Trung đội hai,” Gamboa ra lệnh. “Ba người cuối hàng.” Sau đó đến những đứa chậm chân của các trung đội khác. Với những đứa ở các trung đội tám, chín và mười, đều còn nhỏ, cú đá của các hạ sĩ quan làm chúng văng bắn lộn mấy vòng trên đường piste. Gamboa không quên hỏi tất cả bọn chúng chọn góc vuông hay sáu điểm. Ông nói với tất cả bọn chúng: “Tự do lựa chọn”. Alberto chú ý đến những đứa đầu tiên bị phạt góc vuông. Sau đó nó chỉ cố nhớ lại những bài học cuối cùng của môn hóa. Trong trí nhớ nó chỉ bập bềnh trôi nổi một vài công thức hóa hết sức mơ hồ, một vài tên hóa chất lộn xộn. “Liệu thằng Vallano có học không nhỉ?” Tên Báo Đen đứng ngay cạnh nó, chắc là hẳn đã đuổi được thằng nào đó đi để thế vào chỗ ấy . “Báo Đen này,” Alberto thì thầm. “Cho tao đi, tối thiểu cũng hai mươi điểm. Nếu không thì bao nhiêu nào?” “Sao mày dớ dẩn thế hả?” tên Báo Đen trả lời. “Tao đã nói với mày là chúng tao không có bài kiểm tra đó. Mày đừng nhắc chuyện này nữa. Thế thì chỉ có tốt cho mày thôi.” “Duyệt đội ngũ, theo từng trung đội,” Gamboa ra lệnh. Khi vào đến nhà ăn thì hàng ngũ tự động giải tán; học viên bỏ mũ kê pi ra và tiến đến chỗ ngồi của mình, vừa đi vừa hò hét om sòm. Mười người một bàn; học viên năm thứ năm ngồi ở các dãy trên cùng. Khi cả ba khối lớp vào hết, viên đại úy hậu cần thổi hồi còi đầu tiên; học viên đứng nghiêm trước ghế của mình. Hết hồi còi thứ hai họ mới được ngồi xuống. Trong các bữa ăn chính, hệ thống loa tuôn ra ào ào hàng loạt bài hành khúc quân đội hoặc bài hát của Perú, các điệu valse và marinera vùng duyên hải và các điệu huayno của vùng rừng núi. Còn trong bữa điểm tâm thì chỉ nghe tiếng học viên nói ầm ĩ, một mớ âm thanh hỗn độn không dứt. “Em nói là mọi thứ đã thay đổi rồi, bởi vì, nếu không, thưa anh học viên, liệu mày có ngốn hết miếng bít tết này không? Thì ít nhất anh cũng phải để cho chúng em một mẩu chứ, một tị tì ti thôi, thưa anh. Tao đã nói là chúng mày sẽ khổ với bọn tao mà. Fernández ơi, sao cho tôi ít cơm, ít thịt, ít mỡ quá thế này, nghe này trong bữa ăn không được khạc nhổ, nghe này mày đã thấy cái bộ mặt khốn khổ của tao chưa, bọn chó con không chơi với tao. Tao nói là liệu lũ chó con có nhỏ dãi vào xúp chưa, Arróspide và tao đã cho chúng đi lạch bạch như vịt, trần như nhộng, cho tới khi chúng nó thở hồng hộc. Lũ chó con ngoan biết trọng người trên, tao nói thế đấy, mày có muốn ăn thêm thịt nữa không, hôm nay ai dọn giường cho tao vậy hả, dạ em, thưa anh, hôm nay đứa nào mời tao điếu thuốc đây, dạ em, thưa anh, đứa nào mời tao một ly bia Inca Kola ở khu La Perlita nào, dạ em, thưa anh, đứa nào ăn nước dãi của tao nào, tao nói lại, đứa nào.” Khối lớp thứ năm đi vào, ngồi xuống. Ba phần tư số bàn không có người và phòng ăn có vẻ trống trải hơn. Trung đội một ngồi ba bàn. Qua cửa sổ thấy rõ sân vận động đang bừng sáng. Con lạc đà cừu đứng yên trên bãi cỏ, hai tai dỏng lên, hai mắt ướt lơ đãng nhìn vào thinh không. “Mày tưởng là không phải vậy, nhưng tao đã thấy mày phải chen lấn, huých cùi chỏ liên tục như một thằng đàn ông thứ thiệt thì rồi mày mới ngồi được cạnh tao đấy; mày tưởng là không phải vậy, nhưng khi thằng Vallano nói đứa nào phải phục vụ và cả lũ chúng nó bèn hét to thằng Nô Lệ thì tao nói tại sao không phải là mẹ chúng mày, để xem sao, và chúng hát ái, ài, ai, thì tao thấy mày bỏ tay xuống và suýt nữa mày đụng đầu gối tao.” Tám cổ họng ngân nga bằng giọng the thé những tiếng ái, ài, ai của đàn bà; một số còn hăng tiết khoanh ngón tay cái với ngón tay trỏ thành vòng tròn và gí vào dưới mũi Alberto. “Tao mà là thằng hèn à?” nó nói. “Nếu tao tụt quần xuống thì sao đây hả?” “Ái, ài, ai.” Thằng Nô Lệ đứng dậy rót đầy sữa vào các tách. Dàn đồng ca dọa nó: “Mày mà rót ít sữa là chúng tao thiến dái mày đó.” Thằng Alberto quay về phía Vallano: “Mày học được nhiều về hóa không, thằng đen?” “Không.” “Mày nhắc bài cho tao được không? Bao nhiêu?” Đôi mắt lồi linh lợi của Vallano đảo một vòng nghi ngại nhìn xung quanh. Nó hạ giọng: “Năm bức thư.” “Thế mẹ mày?” Alberto hỏi. “Bà ấy khỏe không?” “Khỏe,” Vallano nói. “Nếu mày đồng ý thì báo tao nhé.” Thằng Nô Lệ vừa ngồi xuống. Nó giơ một tay ra để lấy bánh mì. Thằng Arróspide lấy tay đập mạnh lên tay nó: chiếc bánh rơi xuống bàn và lăn xuống đất. Arróspide cười ngặt nghẽo và cúi xuống nhặt lên. Tiếng cười ngưng lại. Khi nó ngẩng mặt lên, nó trông lại có vẻ nghiêm túc. Nó đứng dậy, choãi tay ra, bàn tay thít chặt cổ Vallano. “Tao nói rằng phải là thằng vừa ngu vừa cứng đầu cứng cổ thì mới có thể nhìn thấy và không nhìn thấy màu sắc giữa khi trời sáng thế này. Hoặc bị sao xấu chiếu mệnh, một số phận đen đủi như chó. Tao nói muốn ăn cắp được thì cũng phải là một thằng láu cá, dù chỉ ăn cắp một sợi dây giày, dù chỉ là một thứ nhỏ như cái móng tay, nhưng nếu thằng Arróspide này húc cho mày vỡ mặt thì sẽ ra sao đây, dù thằng đen hay thằng trắng, sẽ ra sao đây.” “Tao không để ý có phải một thằng đen hay không,” Vallano nói, đoạn rút sợi dây giày ra. Arróspide nhận lại, đã dịu giận. “Nếu mày không trả lại thì tao đã nghiền nát mày ra rồi, thằng đen ạ,” nó nói. Dàn đồng ca lại hát vang, ngắt quãng, ngọt xớt, đều đều: ái, ài, ai. “Mẹ kiếp,” Vallano nói. “Tao thề là trước khi hết năm nay tao sẽ vét sạch tủ quần áo của mày. Bây giờ tao cần một sợi dầy giày. Bán cho tao đi, Cava, mày là thằng bán tạp hóa mà. Nghe này, mày không thấy là tao đang nói chuyện với mày à, mày sao thế, đồ chấy rận.” Cava đột ngột ngước mắt lên khỏi tách sữa đã cạn và sợ hãi nhìn Vallano. “Gì cơ?” nó nói. “Gì thế?” Alberto nghiêng người về phía thằng Nô Lệ. “Mày có chắc là tối hôm qua đã nhìn thấy Cava hay không hả?” “Chắc,” Nô Lệ nói. “Chắc chắn chính là nó đấy.” “Tốt hơn hết mày đừng bép xép với ai là mình đã thấy nó. Có chuyện gì đó đã xảy ra. Thằng Báo Đen nói là chúng nó không đụng đến bài kiểm tra. Và mày nhìn xem gương mặt thằng dân rừng rú kìa.” Khi nghe thấy tiếng còi, tất cả đứng lên chạy vội ra khoảnh đất trống, nơi Gamboa, hai tay khoanh trước ngực, miệng ngậm còi, đang đợi chúng. Con lạc đà cừu sợ hãi bỏ chạy trước cuộc xâm lăng của lũ trẻ. “Mình sẽ nói với cô ta, em không thấy là anh bị trượt môn hóa chỉ vì em hay sao, em không thấy anh phát ốm cũng chỉ vì em hay sao, hở em Chân Vàng. Em thấy chưa. Em hãy cầm lấy hai mươi đồng sol mà Nô Lệ đã cho anh vay và nếu muốn thì anh sẽ viết thư cho em, nhưng em đừng xử tệ với anh, đừng làm anh lo sợ, đừng làm cho anh bị rớt môn hóa, em không thấy thằng Báo Đen không chịu bán cho anh dù chỉ một điểm, không thấy anh còn đáng thương hơn cả con chó cái Malpapeada nữa sao.” Các trung đội trưởng lại kiểm tra quân số và báo cáo cho các hạ sĩ quan, các ông này lại báo cáo cho trung úy Gamboa. Mưa phùn rất nhẹ bắt đầu rơi. Alberto hất chân nhè nhẹ vào cẳng chân Vallano. Vallano liếc nhìn nó. “Ba bức thư, da đen nhé.” “Bốn.” “Ừ thì bốn.” Vallano gật đầu, thè lưỡi ra liếm hai môi để tìm những mẩu bánh mì cuối cùng. Lớp học của trung đội một ở tầng hai của ngôi nhà mới - ngôi nhà này, sơn đã bạc và phủ đầy vết đen ẩm mốc, sừng sững đứng bên cạnh phòng hội họp, một căn phòng lớn có mái che kê nhiều hàng ghế dài thô mộc, nơi hằng tuần người ta tổ chức chiếu phim cho học viên xem. Cơn mưa phùn đã biến đường piste thành tấm gương không đáy. Những đôi ủng xếp hàng trên mặt đường sáng loáng, giơ lên đặt xuống theo nhịp tiếng còi. Nhịp đi đều biến thành cuộc phi nước kiệu khi hàng ngũ tiến đến chân cầu thang; những đôi giày cao cổ bị trượt, các viên hạ sĩ quan văng tục. Từ các lớp học, người ta thấy một bên là sân xi măng, nơi mà hôm trước học viên năm thứ tư và lũ chó con năm thứ ba tiếp tục diễu hành đến các khu nhà của mình, dưới những lời chế giễu và tràng pháo kích của lũ học viên năm thứ năm. Thằng da đen Vallano quăng xuống một mẩu gỗ, có tiếng hét vang lên và, sau đó, một học viên chó con chạy như ma đuổi qua sân, hai tay ôm chặt một tai, máu ri rỉ qua giữa các kẽ ngón tay và trên áo va rơi là một vết ố đang loang. Trung đội bị phạt cấm trại hai tuần lễ, nhưng thủ phạm không bị lộ tẩy. Ngày đầu tiên được đi ra khỏi trường, Vallano mang về cho ba mươi học viên mỗi người hai gói thuốc lá. “Hơi nhiều đấy, mẹ kiếp,” anh chàng da đen phản ứng. “Đáng lẽ chỉ cần một gói là đủ rồi.” Tên Báo Đen và đồng bọn dọa: “Hai gói nếu không thì Nhóm bạn sẽ họp lại.” “Chỉ hai mươi điểm thôi,” Vallano nói. “Không thêm điểm nào nữa hết. Tao không muốn mạo hiểm lấy đầu tao ra đùa chơi chỉ vì mấy bức thư đâu.” “Không,” Alberto trả lời. “ít nhất là ba mươi. Và tao sẽ dùng ngón tay chỉ các câu hỏi cho mày. Ngoài ra, mày không đọc cho tao. Mày chỉ giơ bài cho tao xem là đủ.” “Tao đọc cho mày”. Bàn được xếp cho hai người một. Phía trước Alberto và Vallano - tụi nó ngồi ở hàng cuối - là hai thằng Trăn và Cava, cả hai đều lưng to như cánh phản, tạo thành tấm bình phong tuyệt vời để che khuất mọi con mắt giám sát. “Như lần trước à? Lần ấy mày đọc cứ thì thì thào thào tao có nghe được đâu.” Vallano cười. “Bốn bức thư,” nó nói. “Mỗi bức hai trang.” Viên hạ sĩ quan Pezoa xuất hiện ở cửa ra vào, tay giơ cao bài kiểm tra. Ông ta nhìn đám học viên với đôi mắt ti hí đầy ác ý, thỉnh thoảng lấy lưỡi liếm đầu ria mép lưa thưa. “Trò nào giở sách hoặc nhìn bài của bạn sẽ bị đánh trượt,” ông ta nói. “Và ngoài ra còn phạt sáu điểm. Trung đội trưởng, phát bài kiểm tra.” “Chuột! Chuột!” Viên sĩ quan giật phắt mình, mặt đỏ tía lên, hai mắt như hai vết sẹo. Bàn tay nhỏ như tay trẻ con túm chặt lấy mép áo sơ mi. “Hủy bỏ thỏa thuận nhé,” Alberto nói. “Tao không ngờ hôm nay chuột lại đến đây. Tao thà chép trong sách còn hơn.” Arróspide phát bài kiểm tra. Viên sĩ quan nhìn đồng hồ. “Tám giờ,” ông ta nói. “Các trò có bốn mươi phút.” “Chuột.” “Ở đây không có thằng đàn ông nào à?” Pezoa gầm lên. “Tôi muốn nhìn thấy mặt người hùng nào từ nãy đến giờ cứ nói chuột đấy.” Những chiếc cặp bắt đầu được huơ lên, chúng được nâng lên cách mặt đất mấy xăngtimét rồi để rơi xuống, lúc đầu còn lộn xộn, sau thì theo nhịp đều đặn, hòa với tiếng hò reo: “Chuột cái, chuột cái.” “Im ngay, đồ hèn nhát!” viên hạ sĩ quan hét to. Nơi cửa lớp xuất hiện trung úy Gamboa và thầy giáo môn hóa, một người đàn ông gầy còm ngượng nghịu. Bên cạnh Gamboa vốn cao to đầy cơ bắp như vận động viên, ông thầy trong bộ thường phục rộng thùng thình trông thật nhỏ nhoi tội nghiệp. “Chuyện gì vậy, Pezoa?” Viên hạ sĩ quan chào. “Thưa trung úy, học viên đang pha trò cho vui.” Tất cả bất động. Im lặng tuyệt đối bao trùm tất cả. “Thế à?” Gamboa nói. “Thôi ông sang trung đội hai đi, Pezoa. Để tôi chăm sóc mấy cậu trai trẻ này cho.” Pezoa lại chào và đi ra. Thầy giáo môn hóa đi theo ông ta; dường như ông thầy ngộp giữa bao nhiêu người mặc toàn quân phục. “Vallano,” Alberto thì thầm. “Thỏa thuận lại có hiệu lực nhé.” Không quay sang nhìn nó, tên da đen chỉ lắc đầu và đưa ngón tay cứa ngang cổ như cái máy chém. Arróspide vừa phân phát xong bài kiểm tra. Học viên chúi đầu xuống trang giấy. “Mười lăm cộng năm, cộng ba, cộng năm, khoảng trống, cộng ba, khoảng trống, sao thế này khỉ thật, khoảng trống, cộng ba, không, khoảng trống, tổng cộng, bao nhiêu nhỉ? ba mươi mốt, cho đến con số khỉ gió nào đây. Mong sao nó chỉ là một nửa thôi, mong có ai gọi ông ta đi, hay ông ta có chuyện gì đó phải chạy vội đi ngay, em Chân Vàng ơi.” Alberto trả lời các câu hỏi, rất chậm chạp, bằng chữ in. Gót chân của Gamboa nện đều đều trên sàn nhà. Khi một học viên rời mắt khỏi bài kiểm tra ngước lên nhìn thì bao giờ cũng thấy ngay cặp mắt chế giễu của viên trung úy và nghe thấy ông ta nói: “Định nhờ ai nhắc bài hả? Cúi đầu xuống ngay. Những người duy nhất có thể nhìn vào mặt tôi là vợ và cô hầu gái, hiểu chứ!” Sau khi trả lời xong những gì nó biết, Alberto nhìn sang Vallano: tên da đen đang cắm đầu viết, cắn môi. Alberto hết sức thận trọng quan sát cả lớp; một số đang giả vờ viết, lia bút trên không cách tờ giấy mấy milimét. Nó đọc lại bài kiểm tra, trả lời hai câu khác mà nó chẳng hề chắc chắn là đúng. Bắt đầu nghe có tiếng rì rầm xa xa và âm thầm; học viên lo lắng ngọ nguậy trên ghế. Bầu không khí dày đặc lên, cái gì đó vô hình bay lơ lửng trên những mái đầu đang cúi xuống, một thứ bột nhão dinh dính và không thể nắm bắt, một thứ sa mù, một cảm giác mơ hồ, một thứ sương đêm. Làm sao có thể thoát khỏi trong giây lát sự theo dõi của viên trung úy được nhỉ, nếu ông ta cứ hiện diện mãi ở đây? Gamboa cười. Ông không đi lại nữa mà đứng ngay ở giữa lớp. Hai tay khoanh lại, cơ bắp nổi lên cuồn cuộn sau lớp sơ mi màu kem và ánh mắt ông chỉ liếc một cái là bao quát tất cả, như trong một buổi tập trận, khi ông lệnh cho đại đội của mình vượt qua cánh đồng lầy và bò lên bãi cỏ hoặc khu đất đá lổn nhổn chỉ bằng một cái vẫy tay hoặc một tiếng còi cụt ngủn: học viên dưới quyền ông rất tự hào khi thấy các sĩ quan và học viên ở các đại đội khác nổi khùng lên vì luôn bị bao vây, bị phục kích, bị tiêu diệt. Khi Gamboa, mũ sắt lấp lánh sáng dưới ánh ban mai, chỉ ngón tay về phía tường gạch cao và kêu gọi (bình tĩnh, thản nhiên trước kẻ thù vô hình đang chiếm điểm cao cùng những con đèo bên cạnh và cả rẻo đất dọc bãi biển nơi có các vách đá): “Hãy vượt qua nhanh lên, hỡi lũ chim của ta!” học viên trung đội một sẽ ào lên như cơn gió lốc, lưỡi lê tuốt trần hướng lên trời và tim đập rộn ràng với lòng can đảm vô bờ bến, họ sẽ vượt qua các trang trại, dũng mãnh đạp lên bóng đêm - a, giá như đó là những cái đầu của bọn Chile hay bọn Ecuador, a, giá như bên dưới dấu những đôi ủng kia là máu, cho chúng nó chết hết đi!” họ sẽ đến dưới bức tường gạch cao, mồ hôi đầm đìa và luôn miệng chửi thề, quàng súng trường qua vai và xòe những bàn tay sưng tấy bám lên mép tường, móng tay cầu chặt vào những chỗ lồi lõm, áp người vào bức tường và trườn thẳng đứng lên, hai mắt dán vào mép tường đang tiến lại gần, sau đó nhảy lên co mình lại trên không rồi rơi xuống và chỉ nghe thấy tiếng rủa thầm của chính mình và dòng máu sôi lên trong huyết quản như muốn bật tung ra ở hai bên thái dương và lồng ngực để hướng về phía ánh sáng. Nhưng Gamboa đã ở ngay trước mặt, trên đỉnh tảng đá, chỉ hơi bị nhàu tí quần áo, đang vừa hít thở làn gió biển vừa tính tính toán toán. Quỳ hoặc nằm, tất cả học viên đều chăm chú quan sát ông ta: lúc này sống hay là chết phụ thuộc vào đôi môi ông. Bỗng nhiên, ánh mắt của ông bùng lên cuồng nộ, những con chim biển thành lũ sâu bọ. “Tách nhau ra! Gì mà túm cả lại như bầy nhện thế kia!” Bầy sâu bọ đứng cả dậy, tản ra, những bộ quân phục dã chiến cũ ngàn lần nhàu nhĩ phồng lên trước gió và những miếng vá miếng rách trên quân phục trông cứ như những vết thương vết lở loét, lại phải lao vào những vũng bùn, lẫn trong đám cỏ, nhưng những cặp mắt vẫn phải dán chặt vào Gamboa, hiền lành, nhẫn nhục, giống như trong cái buổi tối đáng ghét hôm trước khi viên trung úy khai tử Nhóm bạn. Nhóm bạn đã ra đời trong những ngày đầu cuộc sống học viên, tức là bốn mươi tám tiếng sau khi cởi bỏ bộ thường phục ra và đầu trọc lốc giống hệt nhau sau khi thợ cắt tóc của nhà trường đã ra tay, mặc vào mình bộ quân phục kaki lúc đó còn mới tinh và lần đầu tiên tập hợp thành hàng ngũ trên sân vận động theo tiếng còi và những tiếng hô nặng như chì. Đó là ngày cuối cùng của mùa hè và bầu trời trên thủ đô Lima u ám lại, sau ba tháng cháy như lõi than ở ngoài bãi biển, để rồi sẽ chìm vào giấc ngủ dài xám xịt. Họ đến từ mọi miền trên đất nước Perú; trước đây chưa hề quen biết nhau và bây giờ tập hợp thành khối người đông đặc, đứng trước các khối nhà xi măng mà phía trong đó họ chưa biết có những gì. Tiếng nói của đại úy Garrido cảnh báo cho họ hiểu rằng cuộc sống dân sự đã chấm dứt đối với họ trong vòng ba năm từ nay trở đi, ở đây họ sẽ được đào luyện thành những người đàn ông, rằng tinh thần quân nhân được cấu thành bởi ba yếu tố đơn giản: phục tùng, làm việc và dũng cảm. Nhưng chuyện đó sẽ đến sau, ngay sau khi kết thúc bữa ăn trưa đầu tiên ở trong trường, khi mà cuối cùng thì họ cũng được hưởng trong giây lát cái tự do không phải chịu sự cai quản của các viên sĩ quan và hạ sĩ quan, đi ra khỏi phòng ăn, hòa lẫn vào các học viên năm thứ tư và thứ năm mà lúc này họ đang nhìn với vẻ e ngại không phải là không pha chút tò mò và thậm chí cảm tình. Thằng Nô Lệ chỉ có một mình, nó vừa ra khỏi phòng ăn xuống bậc thang và đi về phía khu đất trống thì bỗng có hai bàn tay như gọng kìm túm chặt lấy hai cánh tay nó và tiếng nói thì thào bên tai: “Đi với chúng tao, đồ chó con.” Nó mỉm cười và ngoan ngoãn đi theo những tên kia. Xung quanh nó còn có rất nhiều bạn mà nó mới làm quen sáng nay cũng đang bị áp tải dẫn ra phía bãi cỏ trên đường đi về khu nhà ngủ năm thứ tư. Ngày hôm đó không có lớp. Lũ chó con nằm trong tay đám học viên năm thứ tư từ sau bữa cơm trưa cho đến bữa cơm chiều, khoảng tám tiếng đồng hồ. Nô Lệ không nhớ đã bị đưa đi đến trung đội mấy và ai là người dẫn nó đi. Nhưng khu nhà ngủ đầy khói, đầy những người vận quân phục và tràn ngập tiếng cười, tiếng hò reo. Vừa bước qua khỏi cửa ra vào, nụ cười vẫn còn đó trên môi, nó đã cảm thấy bị đánh mạnh sau lưng. Nó ngã xuống đất, lăn lông lốc và lật ngửa ra. Nó cố đứng dậy, nhưng không được: một bàn chân đã giẫm lên bụng nó. Mười gương mặt lạnh lùng nhìn nó như nhìn con sâu con bọ, khiến nó không nhìn thấy được trần nhà. Một tiếng nói cất lên: “Để bắt đầu, mày hãy hát một trăm lần “Tôi là con chó” theo điệu corrido của Mexico.” Nó không làm được. Nó hết sức kinh ngạc, hai con mắt như bung ra khỏi tròng. Cổ họng bỏng rát. Cái chân nhấn khẽ lên bụng nó. “Hắn không muốn,” giọng nói lại cất lên. “Con chó con này không muốn hát.” Và thế là những gương mặt kia há mồm ra nhổ đầy nước miếng vào người nó, không chỉ một lần, mà nhiều lần, đến mức nó phải nhắm mắt lại. Sau loạt nhổ nước bọt này, tiếng nói vô danh kia lại nhắc lại như trong băng ghi âm: “Mày hãy hát một trăm lần “Tôi là con chó” theo điệu corrido của Mexico.” Lần này nó phải phục tùng, phải cất giọng ồ ồ hát cái câu mà lũ kia đã ra lệnh ghép vào phần nhạc của bài Ở nơi kia trong trang trại lớn, thực ra đó là việc khó: loại bỏ lời nguyên thủy, giai điệu của bài ca trở thành một loạt những tiếng rên. Nhưng lũ kia không hề lấy đó làm điều; chúng vẫn lắng nghe. “Thôi, đủ rồi,” tiếng nói lại cất lên. “Bây giờ thì theo điệu bolero.” Sau đó theo điệu mambo và điệu valse bản địa. Sau đó chúng ra lệnh cho nó: “Đứng dậy.” Nó đứng dậy, lấy tay lau nước bọt trên mặt và phủi bụi ở mông. Giọng nói hỏi: “Có ai bảo mày phải lau cái mặt mẹt chưa hả? Chưa, chưa có ai nói với mày điều đó cả đâu.” Những gương mặt lại há mồm ra và nó lại tự động nhắm mắt, cho đến khi chuyên kia kết thúc. Tiếng nói cất lên: “Này, hai người đứng cạnh mày đều là các anh học viên cả, nhớ chưa chó con. Mày đứng nghiêm xem nào. Như vậy, tốt rồi. Hai vị học viên này đang đánh cược với nhau và mày sẽ làm trọng tài.” Tên bên phải ra đòn vào nó đầu tiên và Nô Lệ cảm thấy cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt. Tên bên trái đăm gần như ngay tức thì. “Được rồi,” giọng nói vang lên. “Bên nào đẫm mạnh hơn?” “Người bên trái ạ.” “À, thế ư?” một tiếng nói khác đáp lại. “Hóa ra tao lại là một con quỷ đáng thương ư? Nào, ta thử lại lần nữa xem sao, mày phải chú ý vào đấy.” Nô Lệ chao đảo vì cú đấm, nhưng vẫn chưa gục xuống: tay của các tên học viên đứng xung quanh đã giữ và đưa nó về lại vị trí. “Thế bây giờ mày nghĩ sao nào? Ai là người đấm mạnh hơn?” “Cả hai đấm như nhau.” “Mày muốn nói là hòa chứ gì,” tiếng nói nhấn mạnh. “Thế thì hai đứa phải thi lại cho đến khi không còn hòa nhau nữa.” Một lúc sau, giọng nói không biết mệt mỏi kia lại hỏi: “Mà này, chó con, mày có đau hai cánh tay không đấy?” “Không,” Nô Lệ nói. Đúng như vậy; nó đã mất cảm giác về cơ thể mình và về thời gian. Tinh thần nó đang phiêu du ngây ngất trên biển không chút gợn sóng của Cảng Eten và nó nghe tiếng nói của mẹ: “Con chơi cẩn thận nhé, Ricardito,” và bà đang dang rộng vòng tay che chở, dưới ánh nắng chói chang. “Láo,” tiếng nói cất lên. “Nếu không đau, tại sao mày lại khóc, chó con?” Nó nghĩ: “Thế là kết thúc rồi.” Nhưng thật ra mới chỉ là bắt đầu. “Mày là con chó hay con người?” tiếng nói hỏi. “Con chó, thưa anh học viên.” “Thế tại sao mày lại đứng hai chân? Loài chó đi bốn chân cơ mà. Nó cúi người xuống, khi đặt hai tay xuống đất nó mới cảm thấy hai cánh tay rát bỏng, đến khủng khiếp. Mắt nó chợt phát hiện ra rằng cùng với nó còn có một đứa trai trẻ khác cũng đang ở tư thế đi bốn chân. “Được rồi,” tiếng nói cất lên. “Khi hai con chó gặp nhau ở ngoài đường, chúng sẽ làm gì? Trả lời đi, tên học viên này. Tao đang nói với mày đấy.” Thằng Nô Lệ bị đá mạnh vào mông đít và phải trả lời ngay tức thì. “Em không biết, thưa anh học viên.” “Chúng đánh nhau,” tiếng nói nhắc. “Chó sẽ sủa và lao vào nhau. Và cắn xé nhau.” Thằng Nô Lệ không còn nhớ gương mặt của cậu bé cùng bị thực hiện lễ khai tâm hôm đó cùng với nó. Có lẽ ở một trong mấy trung đội cuối cùng vì trông nó khá nhỏ bé. Mặt nó méo xệch đi vì sợ hãi và, khi tiếng nói vừa ngừng, Nô Lệ đã thấy đứa kia vừa bò đến chỗ nó vừa sủa rống lên đến sùi cả bọt mép, và bỗng nhiên Nô Lệ cảm thấy vai mình bị đau buốt như bị chó dại cắn và thế là toàn thân nó phản ứng lại quyết liệt, và trong khi vừa sủa vừa cắn xé, nó tin chắc rằng da mình đã mọc đầy lớp lông cứng, miệng mình đã biến thành mõm nhọn và, cuối lưng mình có cái đuôi đang ngoe nguẩy như chiếc roi da. “Đủ rồi,” tiếng nói vang lên. “Mày thắng. Ngược lại thằng lùn kia lừa chúng tao. Nó không phải chó đực mà là chó cái. Chúng mày có biết chuyện gì sẽ xảy ra khi một con chó đực với một con chó cái gặp nhau ở ngoài phố không hả?” “Không, thưa anh học viên,” Nô Lệ nói. “Chúng sẽ liếm cho nhau. Đầu tiên chúng âu yếm ngửi nhau đã rồi sau đó mới liếm nhau.” Rồi sau đó bọn chúng lôi nó ra khỏi nhà ngủ đoạn kéo ra sân vận động và nó chẳng nhớ nổi lúc đó trời còn sáng hay đã tối rồi. Ở đó chúng lột truồng nó ra và tiếng nói ra lệnh cho nó bơi ngửa trên nền đường piste dùng cho môn điền kinh, xung quanh sân bóng đá. Sau đó chúng đưa nó vào một phòng ngủ có nhiều giường và bắt nó hát, nhảy múa quanh một cái tủ đựng quần áo, bắt chước các diễn viên điện ảnh, đánh mấy đôi ủng, dùng lưỡi liếm sạch một miếng gạch vuông, thông dâm với chiếc gối, uống nước tiểu, nhưng tất cả những việc đó diễn ra nhanh đến chóng mặt và chẳng mấy chốc nó đã lại thấy mình ở trung đội của chính mình, nằm trên giường đôi mà nghĩ: “Ta thề sẽ trốn khỏi đây. Ngay ngày mai.” Cả căn nhà ngủ im phăng phắc. Đám trẻ nhìn nhau và, dù đã bị đánh đau, bị nhổ nước bọt khắp người, bị vẽ nguệch ngoạc đầy người, bị đái khắp người, chúng vẫn tỏ ra nghiêm túc và đầy thành kính như trong buổi lễ. Buổi tối hôm đó, sau tiếng kèn báo im lặng đi ngủ, Nhóm bạn đã ra đời. Tất cả đã đi nằm, nhưng không ai ngủ được. Người lính thổi kèn lệnh đã đi khỏi sân. Bỗng nhiên một cái bóng rời khỏi giường, băng qua phòng ngủ đi vào buồng tắm: cửa buồng tắm lắc tới lắc lui một lát. Ngay sau đó vang lên tiếng oẹ rồi tiếng nôn thốc nôn tháo. Gần như tất cả mọi người nhảy vội xuống giường, chạy chân đất đến buồng tắm: cao và gầy nhom, Vallano đứng giữa căn phòng vàng vọt, đang nôn hết những gì có trong dạ dày ra ngoài. Những người khác không tiến lại gần nó, chỉ quan sát gương mặt da đen đang nhăn nhó có nôn ra hết. Cuối cùng thì Vallano cũng tiến đến bồn rửa, súc miệng. Đến lúc đó cả bọn mới sục sôi bàn luận một cách ẳ lộn xộn chẳng ai nghe ai, chửi bới bọn học viên năm tư bằng những lời hết sức thô tục. “Chúng ta không thể cho qua việc này được. Phải làm gì đó chứ,” Arróspide nói. Gương mặt trắng trẻo của nó nổi bật giữa những gương mặt bạn bè màu đồng thau đầy góc cạnh. Nó đang lên cơn cuồng nộ, vung nắm đấm vào không trung. “Chúng mình gọi cái thằng có biệt danh là Báo Đen đến đi,” Cava đề nghị. Đó là lần đầu tiên cả bọn nghe đến cái tên này. “Đứa nào vậy?” một số đồng thanh hỏi lại. “Cũng ở trung đội này hả?” “Ừ,” Cava nói. Nó vẫn còn nằm trên giường. Giường đầu tiên, ngay cạnh buồng tắm. “Tại sao lại phải có thêm thằng Báo Đen?” Arróspide nói. “Tất cả chúng mình đây vẫn chưa đủ hay sao?” “Không,” Cava nói. “Không phải chuyện đó. Thằng ấy khác hẳn chúng mình. Bọn chúng không thể khai tâm được hắn. Chính tao thấy. Thậm chí nó còn không cho chúng có đủ thời gian nữa. Chúng đưa hắn cùng với tao ra sân vận động, ngay sau khu nhà ngủ. Và hắn cười vào mặt bọn chúng, nói với bọn chúng: “Hóa ra chúng mày định khai tâm cho tao à? Để xem xem nào, xem chúng mày làm được trò gì nào.” Nó cười vào mặt lũ kia. Mà chúng có đến mười tên cơ đấy.” “Rồi sao?” Arróspide hỏi. “Bọn chúng nhìn nó hơi ngạc nhiên,” Cava nói. “Chúng có độ mười tên, chúng mày nên nhớ đấy nhé. Nhưng ấy là chỉ khi chúng dẫn bọn tao ra đến sân vận động, còn khi đã đến đây thì bọn chúng còn kéo đến đông hơn, có đến hai mươi tên hay đông hơn nữa, cả một đống học viên năm tư. Thế mà hắn vẫn cười vào mặt bọn chúng; ‘Hóa ra chúng mày định khai tâm tao hả?’ hắn nói với cả lũ kia. ‘Tốt thôi, tốt thôi’.” “Rồi sao?” Alberto hỏi. “Mày là thằng chém mướn hả, chó con?” chúng hỏi nó. Và lúc đó, chúng mày chú ý lắng nghe nhé, nó lao vào bọn kia. Mà vừa lao vừa cười nữa chứ. Tao nó với chúng mày là lúc đó ở đây phải có đến mười hoặc hai mươi tên hoặc có lẽ còn đông hơn nữa. Nhưng chúng không thể túm được nó. Một số tên lôi thắt lưng ra vụt tới tấp từ xa về phía nó từ xa, nhưng tao thề là không thấy đứa nào dám sán lại gần nó. Và tao thề có Thánh mẫu Đồng trinh rằng tất cả lũ kia đều sợ nó, và tao thề là đã thấy không biết bao nhiêu đứa bị nó quật ngã lăn kềnh xuống đất, ôm lấy dái, hoặc ôm mặt bị thương tơi tả, chúng mày phải biết như thế. Và nó cứ tiếp tục cười vào mặt lũ kia, hò hét: ‘Hóa ra chúng mày định khai tâm tao hả? tốt thôi, tót thôi’.” “Tại sao mày lại gọi nó là Báo Đen?” Arróspide hỏi. “Có phải tao đặt đâu,” Cava nói. “Tự nó xưng vậy mà. Mải bao vây nó bọn kia quên mất tao. chúng dùng thắt lưng dọa nó còn nó bắt đầu chửi bới nhục mạ tất cả bọn kia, cả mẹ chúng, tất tần tật. Có một tên bèn nói: ‘Với con thú này thì phải đưa Gambarina ra đây mới trị được. Và nó gọi một tên học viên to khủng khiếp, mặt mũi trông rõ là gấu tới, chúng nói thằng đó là vận động viên cử tạ.” “Nó gọi thằng đó đến làm gì vậy?” Alberto hỏi. “Nhưng tại sao nó lại có tên là Báo Đen?” Arróspide lại hỏi. “Để hai đứa đánh nhau,” Cava nói. Chúng nói với nó: ‘Nghe này, thằng chó con kia, mày trông máu lắm, có một đứa cùng hạng cân với mày đây này.’ Nó liền trả lời lũ kia: ‘Tao tên là Báo Đen. Nếu gọi tao là chó con nữa thì chúng mày cứ liệu hồn đấy.’ ” “Bọn chúng cười chứ?” ai đó cất tiếng hỏi. “Không,” Cava nói. “Bọn chúng dọn một đấu trường nho nhỏ. Còn nó thì luôn cười cười cợt cợt. Kể cả khi đánh nhau, chúng mày nên biết rõ như vậy.” “Rồi sao?” Arróspide hỏi. “Chúng đánh nhau chẳng lâu mấy,” Cava nói. “Và tao nhận ra ngay vì sao nó có tên là Báo Đen. Nó rất nhanh nhẹn, nhanh nhẹn khủng khiếp, chúng mày đừng nghĩ là nó rất khỏe, nhưng mà nó nhanh nhẹn biến hóa cứ như người nó toàn là keo, còn tên Gambarina thì trố mắt ra thất vọng, không làm sao túm được nó. Báo Đen liên tục húc đầu, đá chân, húc đá túi bụi, bản thân nó thì chả hề hấn gì. Cho đến khi tên Gambarina phải nói: ‘Thôi, thể thao thế là đủ rồi; tao mệt lắm rồi, nhưng tất cả đều thấy hắn mệt bã người thở không ra hơi nữa.” “Rồi sao?” Alberto hỏi. “Thế thôi,” Cava nói. “Chúng đành để nó đi về và bắt đầu quay lại khai tâm tao.” “Gọi nó đến đây,” Arróspide nói. Chúng ngồi xổm thành hình tròn. Một số đã châm thuốc lá chuyển tay nhau hút. Căn phòng bắt đầu ngập trong khói thuốc. Khi Báo Đen được Cava dẫn vào trong buồng tắm thì tất cả bọn chúng đều hiểu là thằng Cava nói dối: hai gò má kia, cái cằm nọ đều đã bị đấm, cả cái mũi to giống như mũi chó bun kia cũng vậy. Nó đứng giữa vòng tròn nhìn những thằng khác sau hàng mi dài màu vàng, với đôi mắt màu cực xanh và đầy vẻ quyết liệt. Miệng nó mím chặt, dáng điệu đầy ngạo mạn và ánh mắt nhìn chầm chậm đầy dụng ý lần lượt từng đứa một. Cả tiếng cười sắc lẹm và đột ngột của nó tràn ngập căn phòng nữa. Nhưng không đứa nào lên tiếng trước. Chúng ngồi im chờ cho nó quan sát xong một lượt và tắt hẳn tiếng cười. “Nghe nói là cuộc khai tâm này kéo dài cả tháng trời,” Cava khẳng định. “Chúng ta không thể để cho ngày nào cũng diễn ra như hôm nay được.” Báo Đen gật đầu đồng tình. “Đúng,” nó nói. “Phải tự vệ. Chúng ta phải trả thù bọn năm thứ tư, phải bắt chúng trả giá cho những trò lếu láo này. Điều chủ yếu là phải nhớ mặt từng đứa và, nếu có thể, xem chúng ở trung đội nào, tên gì. Phải luôn luôn đi thành từng nhóm. Tối đến chúng mình phải họp lại, sau tiếng kèn báo yên lặng. À, còn phải tìm tên cho băng này chứ.” “Diều hâu, được không?” ai đó khẽ khàng gợi ý. “Không được,” Báo Đen nói. “Nghe như một cuộc chơi ấy. Ta gọi băng này là Nhóm bạn đi.” Lớp học bắt đầu ngay sáng hôm sau. Trong giờ ra chơi, bọn năm thứ tư lao vào đám chó con và tổ chức cuộc thi chạy như đuổi vịt: mươi mười lăm đứa trai trẻ, xếp thành hàng, hai tay chống nạnh hai chân khuỳnh khuỳnh đi khệnh khà khệnh khạng bắt chước loài vịt đều đều tiến lên theo nhịp tiếng hô, vừa đi vừa kêu quàng quạc. Những đứa đi sau cùng bị phạt cúi gập người làm góc vuông. Không chỉ lục soát lấy hết tiền bạc và thuốc lá của lũ chó con, bọn năm thứ tư chuẩn bị sẵn một thứ mà chúng gọi là nước khai vị gồm dấu mỡ lau súng, dầu ăn và nước xà phòng, và các nạn nhân buộc phải uống một hơi hết sạch thứ nước đó, cắn bằng hai hàm răng giữ cốc. Hai ngày sau, Nhóm bạn bắt đầu hoạt động ngay sau bữa điểm tâm. Học viên cả ba khóa ùa ra khỏi phòng ăn như ong vỡ tổ và tản ra như vết dầu loang trên khu đất trống. Bỗng nhiên một cơn mưa toàn là đá bay vút qua những cái đầu để trần và một học viên năm thứ tư lăn đùng xuống đất, rống lên đau đớn. Khi đã tập hợp thành hàng ngũ, bọn học viên năm thứ ba thấy rõ tên bị thương kia đang được các bạn khênh lên trạm xá. Ngay tối đó, một học viên gác đêm năm thứ tư đang nằm ngủ trên thảm cỏ thì bị những bóng người che mặt tấn công: sáng ra, người lính thổi kèn hiệu thấy nó bị trói chặt, nằm trần truồng, toàn thân đầy vết thâm tím và cứng đơ vì lạnh cóng. Một số khác thì bị ném đá, bị đòn nhừ tử; hành động táo tợn nhất là lẻn vào nhà bếp đổ hàng túi phân vào nồi xúp của năm thứ tư, khiến nhiều tên phải đi bệnh xá vì đau bụng. Bực tức vì những vụ lén trả thù, học viên năm thứ tư lại càng hằn học thực hiện những hành động khai tâm đối với đám học viên mới. Tối nào Nhóm bạn cũng họp lại, xem xét các phương án khác nhau, Báo Đen chọn một phương án, hoàn thiện thêm các chi tiết và ra chỉ thị cho những đứa khác. Tháng đầu tiên nhập học là thời gian học viên bị cấm trại không được phép ra ngoài, song nó đã trôi qua nhanh giữa bầu không khí vô cùng phấn khích. Ngoài sự căng thẳng vì những trò khai tâm của năm thứ tư đối với năm thứ ba và các hoạt động trả đũa của Nhóm bạn, lúc này còn thêm cảnh nhộn nhạo mới: sắp đến hôm được phép ra ngoài đi chơi, người ta chuẩn bị phát cho học viên những bộ quân phục màu xanh thẫm. Mỗi ngày các sĩ quan đều dành ra một giờ giảng giải cho học viên biết các quy định về cách hành xử của học viên mặc quân phục khi ở ngoài đường phố. “Bộ quân phục,” Vallano nói, háo hức đảo tròn hai con mắt, “nó cuốn hút bọn con gái chả khác gì ruồi bâu lấy mật ấy.” “Cũng chưa đến mức nghiêm trọng như người ta đã nói, cũng chẳng giống như hồi đó mình từng nghĩ, trừ những gì đã xảy ra khi Gamboa bước vào buồng tắm sau hồi kèn lệnh báo yên lặng, cũng không thể so sánh tháng ấy với những ngày Chủ nhật bị cấm trại, làm sao có thể so sánh thế được.” Những ngày Chủ nhật đó, lũ học viên năm thứ ba là chủ của nhà trường. Buổi trưa người ta chiếu phim cho chúng xem, buổi chiều thì thân nhân đến thăm học viên: lũ chó con, được bao nhiêu người ân cần thương mến vây quanh, cùng dạo chơi dọc đường piste, ở khu đất trống, sân vận động và các sân vườn. Một tuần trước khi được phép đi chơi ở ngoài trường, người ta bắt chúng thử quân phục: quần màu xanh thẫm, áo va rơi màu đen, hàng cúc mạ đồng vàng chóe, mũ kê pi trắng. Mái tóc mọc chậm chạp trên đầu, những cái đầu trong đó nỗi thèm khát lại được đi ra phó ngày một lớn lên. Ở trung đội, sau cuộc họp của Nhóm bạn, các học viên trao đổi với nhau về kế hoạch của mình cho chuyến đi chơi đầu tiên. “Làm sao mà biết được, đấy chỉ do ngẫu nhiên hay do có ai mách bảo, nếu như hôm đó là Huarina trực thì sao, hay là trung úy Cobos? ừ, ít nhất thì cũng không nhanh vậy đâu, tao chợt nghĩ là nếu ông ấy không phát hiện ra Nhóm bạn thì trung đội đã không trở thành cái đống cứt thế này, thì chúng mình đã sống khỏe sống ngon rồi, không nhanh vậy đâu.” Báo Đen đứng thẳng người miêu tả một học viên năm thứ tư, một trung đội trưởng. Những đứa khác ngồi xổm lắng nghe, giống như mọi khi; những mẩu thuốc lá được chuyền từ tay này sang tay khác. Khói thuốc bốc lên, chạm trần nhà, chìm xuống tận mặt đất và tiếp tục lan tỏa khắp phòng như một con quỷ thân hình trắng nhờ nhờ luôn biến đổi. “Nhưng thằng cha kia đã làm được gì chứ, có phải là chúng mình cứ phải cõng mãi một xác chết đâu, Báo Đen,” Vallano nói. “Trả thù là việc tốt nhưng đừng thái quá,” Urioste nói. “Tao thấy cái điều thối tha nhất trong chuyện này là ta có thể bị chột mắt như chơi,” Pallasta nói. “Gieo gió thì gặp bão mà lị,” Báo Đen nói. “Ta có làm gì hại ông ấy đâu nhỉ. Mà ông ấy đã làm gì?” Đáng lý ra trung úy Gamboa phải gõ và đẩy cửa ra vào bằng hai tay hoặc đạp để mở cửa, nhưng dù sao thì đám học viên cũng bị chộp quả tang, không phải vì nghe thấy tiếng cửa ra vào va đập mạnh cũng chẳng phải vì tiếng hét của Arróspide, mà là do nhìn thấy làn khói thuốc đặc quánh luồn qua khe cửa tối sẫm của khu nhà ngủ, gần như bao trùm cả người trung úy Gamboa lúc đó còn dùng hai tay giữ cửa ra vào. Những mẩu thuốc lá vứt bừa bãi dưới sàn nhà còn cháy âm ỉ. Cả bọn đều đi chân đất nên không dám dập tắt bằng chân. tất cả đều nhìn về phía trước và đứng thật nghiêm. Gamboa giẫm lên các mẩu thuốc lá. Sau đó đếm số học viên đang có mặt. “Ba mươi hai,” ông nói. “Toàn bộ trung đội. Ai là trung đội trưởng?” Arróspide tiến lên một bước. “Cậu hãy giải thích thật chi tiết trò chơi này ngay,” Gamboa bình thản nói. “Từ đầu. Và không được quên bất cứ một chi tiết nào. Arróspide liếc nhìn các bạn và trung úy Gamboa đứng yên sừng sững như thân cây, chờ đợi. “Sao ông ấy cứ có cái vẻ bị sao đó để mà chực khóc lóc đến nơi thế nhỉ? Dù gì thì cả lũ chúng tao đều là con của ông ấy, khi tất cả bắt đầu khóc với ông, thưa trung úy, thật xấu hổ biết bao, ông không thể biết được chúng đã khai tâm chúng tôi ra sao đâu ạ, chẳng phải đàn ông thì tự vệ là điều tự nhiên hay sao? Thật nhục nhẵ quá chừng, chúng đã đánh đập chúng tôi, thưa trung úy, chúng làm chúng tôi khốn khổ, chúng chửi rủa mẹ chúng tôi, xin trung úy hãy nhìn Montesino thảm hại cỡ nào vì bị bắt cúi gập người chịu đấm chịu đạp biết bao nhiêu lần, giờ thì nó như gà gặp mưa, nhục nhã biết bao, mà không dám nói với chúng tôi lời nào, còn gì để nói, thôi nào, kể những việc cụ thể, không bình luận gì thêm, lần lượt từng người nói, không làm ồn ào để khỏi ảnh hưởng đến các trung đội khác, thật nhục nhã biết bao đối với nội quy, hắn bắt đầu đọc nội quy, cần phải đuổi tất cả chúng ra khỏi trường, nhưng Quan đội rất độ lượng và hiểu lũ chó con vốn chưa quen với nếp sống quân nhân, biết tôn trọng cấp trên và bạn học, trò chơi này đã chấm hết, vâng thưa trung úy, và vì đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng nên tôi không báo cáo với ông, vâng đúng thế thưa trung úy, tôi chỉ không cho họ được phép ra khỏi trường trong lần đầu tiên này, vâng đúng thế thưa trung úy, để xem liệu họ có thể trở thành đàn ông ra đàn ông được không, vâng đúng thế thưa trung úy, chắc chắn họ sẽ không còn tái phạm nữa và nếu xảy ra thì tôi sẽ phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng Sĩ quan, vâng đúng thế thưa trung úy, tất cả học viên phải học thuộc lòng nội quy nếu muốn được ra khỏi trường đi chơi vào thứ Bảy tới, bây giờ thì tất cả đi ngủ ngay, những người gác đêm hãy về ngay vị trí của mình, năm phút nữa phải báo cáo tình hình cho tôi, vâng đúng như thế thưa trung úy.” Nhóm bạn không họp lại lần nào nữa, mặc dù sau đó Báo Đen có lấy tên này đặt cho nhóm của mình. Hôm đó, thứ Bảy ngày một tháng Sáu, học viên của trung đội, đứng dọc theo lan can sắt, đã nhìn thấy những chó con của các trung đội khác, hiên ngang và ngạo nghễ như dòng thác chảy ùa vào đại lộ Costanera, nhuộm đường phố này một màu quân phục mới tinh, màu trắng tinh những chiếc mũ kê pi, những túi da mới láng coóng; chúng thấy họ đang tập trung ở khu đất hẹp, sau lưng là sóng biển đập ì ầm, chờ chuyến xe buýt Miraflores-Callao, hoặc đang đi trên con đường dẫn đến đại lộ Las Palmeras, sau đó sẽ đi đến đại lộ Progreso (cắt ngang một vùng gồm ẳ các trang trại và chạy thẳng vào thành phố Lima ở khu vực Breha hoặc, theo hướng ngược lại, tiếp tục đánh một vòng cua rộng xuống tận Bellavista và E1 Callao); chúng thấy họ mất hút ở đó và, khi con đường nhựa đã trở lại vắng vẻ và ẩm ướt vì sương mù, chúng vẫn tiếp tục dán mũi vào thanh sắt; sau đó chúng nghe tiếng kèn gọi ăn trưa, liền chầm chậm và im lặng đi bộ về khu dành cho năm học của mình, xa dần tượng đài người anh hùng đang ngắm nhìn với đôi mắt đui mù cái niềm vui bùng nổ nơi những người đang vắng mặt ở trường và sự buồn tủi của những người bị phạt cấm trại đang mất hút giữa các căn nhà nặng nề xám xịt. Cũng chiều hôm đó, khi rời khỏi phòng ăn trước cặp mắt lờ đờ của con lạc đà cừu, đã xảy ra cuộc đánh lộn đầu tiên: “Tao ư? Đáng lý phải để tao yên, Vallano đáng lý phải để yên, Cava đáng lý phải để yên, Arróspide, ai đây? Chẳng ai cả, chỉ có nó thôi, thằng Báo Đen, nó đâu phải là chúa trời và thế thì tất cả đáng lý phải khác chứ, nếu như nó trả lời thì sẽ khác chứ, nếu nó ục nhau hoặc tóm lấy viên đá hay cây gậy thì sẽ khác chứ, nếu nó bỏ chạy thì cũng khác, nhưng không được run sợ, mày hiểu chứ, run sợ là không được.” Chúng đang ở trên các bậc thang, đang từ trên đi xuống, thì bỗng xảy ra lộn xộn và hai đứa bị đạp ngã lộn nhào xuống vạt cỏ. Hai đứa bị ngã đứng dậy; ba chục cặp mắt từ trên các bậc thang nhìn chăm chú vào chúng như từ trên khán đài xem đấu bò. Chưa ai kịp can thiệp vào, thậm chí còn chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra, thì Báo Đen bỗng trở nên như con mãnh thú bị tấn công, xông vào đấm thẳng vào mặt tên kia không một lời báo trước, sau đó thì nhảy bổ lên trên tên kia, tiếp tục thọi vào đầu, vào mặt, vào lưng; đám học viên đứng nhìn hai nắm đấm nện liên hồi kỳ trận đó mà không nghe thấy một tiếng kêu than nào của tên kia, “Xin lỗi, Báo Đen, tôi chỉ vô tình đẩy anh thôi, tôi thề chỉ là ngẫu nhiên thôi mà.” “Điều không nên làm là quỳ gối, cái này thì không được. Ngoài ra còn chắp hai tay, giống như mẹ tao làm trong tuần cúng chín ngày, như thằng nhóc trong lễ ban thánh thể đầu tiên ở nhà thờ, Báo Đen trông cứ như cha xứ còn tên kia thì quỳ mọp xuống như đang xưng tội, tao nhớ như vậy đó,” Respigliosi nói, “tao còn sợ đến rùng cả mình nữa đấy mày ạ.” Báo Đen đứng, khinh bỉ nhìn tên kia quỳ gối, nắm đấm còn giơ lên cao như chuẩn bị giáng xuống gương mặt bệch như tờ giấy của thằng kia. Những học viên khác không nhúc nhích. “Tao thấy kinh tởm mày,” Báo Đen nói. “Mày không có nổi lòng tự trọng, chẳng có cái quái gì cả. Mày chỉ là tên nô lệ.” “Tám giờ rưỡi,” trung úy Gamboa nói. “Chỉ còn mười phút nữa thôi.” Trong phòng học bỗng rộn lên một thứ tiếng nghe như tiếng ngáy, tiếng sột soạt của những chiếc cặp sách. “Mình phải ra buồng tắm hút điếu thuốc mới được,” Alberto tự nhủ trong khi ký tên vào bài kiểm tra. Vừa lúc này có một mẩu giấy vo tròn rơi ngay xuống bên ngoài chiếc cặp, lăn mấy xăngtimét dưới mắt nó và dừng lại ngay gần tay nó. Trước khi nhặt lên, nó đảo mắt nhìn xung quanh một lượt. Sau đó ngước mắt nhìn lên: trung úy Gamboa đang mỉm cười với nó. “Ông ấy thấy rồi sao?” Alberto nghĩ và nhìn xuống vừa đúng lúc viên trung úy nói: “Học viên kia, liệu cậu có định đưa cho tôi cái vật vừa hạ cánh xuống cặp sách hay không đây? Những người khác, giữ im lặng!” Alberto đứng dậy. Gamboa nhận quả bóng giấy mà chẳng thèm nhìn đến. Ông gỡ tờ giấy ra đưa lên cao, soi trong ánh sáng. Trong khi đọc tờ giấy, hai mắt ông vẫn như hai con châu chấu nhảy từ tờ giấy đến các cặp sách. “Cậu biết trong tờ giấy này có gì chứ, học viên?” Gamboa hỏi. “Thưa trung úy, không ạ.” “Không gì khác ngoài công thức cho bài kiểm tra. Cậu thấy thế nào? Cậu biết ai đã gửi cho mình tặng phẩm này chứ?” “Thưa trung úy, không ạ.” “Thần hộ mệnh của cậu đấy,” Gamboa nói. “Cậu có biết là ai không?” “Thưa trung úy, không ạ.” “Ngồi xuống nộp bài kiểm tra ngay,” Gamboa xé tan mảnh giấy và để các mẩu giấy trắng lên một bàn học viên, rồi nói thêm: “Vị thần hộ mệnh có ba mươi giây để đứng dậy.” Học viên nhìn nhau. “Qua mười lăm giây rồi,” Gamboa nói. “Tôi đã nói là chỉ có ba mươi giây thôi đấy.” “Thưa trung úy, chính tôi ạ,” một tiếng nói mỏng tang cất lên. Alberto quay người lại: Nô Lệ đứng lên, mặt tái mét, dường như nó không hé nghe thấy tiếng cười của các học viên khác. “Họ tên,” Gamboa nói. “Ricardo Arana.” “Cậu có biết rằng bài kiểm tra là từng cá nhân phải tự làm không?” “Thưa trung úy, có ạ.” “Được rồi,” Gamboa nói. “Thế thì cậu cũng sẽ biết rằng tôi buộc phải phạt cậu cấm trại trong hai ngày thứ Bảy và Chủ nhật. Đời sống quân nhân là vậy, không châm chước cho bất cứ ai, kể cả các vị thần hộ mệnh.” Ông nhìn đồng hồ rồi bổ sung: “Đã hết giờ. Tất cả nộp bài kiểm tra.” III MÌNH ĐÃ Ở Sáenz Pena và khi ra khỏi đó liền đi bộ về Bellavista. Thỉnh thoảng mình cũng gặp Higueras, bạn của anh mình trước khi Perico bị đẩy vào lính. Anh ta luôn hỏi mình: “Em có tin tức gì về anh trai không?” “Hoàn toàn không ạ, kể từ khi bị điều lên vùng rừng núi, anh ấy không bao giờ thư từ gì nữa.” “Đi đâu mà vội vàng thế? Vào đây nói chuyện tí đã nào.” Mình đang muốn về Bellavista càng sớm càng tốt, nhưng Higueras lớn tuổi hơn mà lại đã hạ cố đối xử với mình như bạn cùng trang lứa. Anh đưa mình đến một quán rượu bình dân và nói: “Em uống gì nào?” “Em không biết, gì cũng được ạ, anh uống gì em uống nấy.” “Được rồi,” Higueras gầy còm nói. ‘Ông chủ ơi, cho hai ly nhé!” Và sau đó anh vỗ vai mình: “Cẩn thận đừng để say đấy nhé.” Ly rượu nặng làm mình cháy họng và trào cả nước mắt. Anh ấy nói: “Nhấm một tí chanh. Có chanh vào rượu sẽ nhẹ hơn. Và hút một điếu thuốc nữa.” Chúng mình nói với nhau về bóng đá, về nhà trường, về anh của mình. Anh ấy kể cho mình nghe nhiều chuyện về Perico, người mà bấy nay mình vẫn tưởng là hiền lành hóa ra lại là một gà chọi có hạng, buổi tối nọ đã ục nhau chí mạng vì một người phụ nữ. Kinh ngạc hơn nữa, anh ấy còn là một kẻ hết sức si tình. Khi Higueras kể rằng Perico đã từng làm một cô gái có mang và suýt nữa họ cưỡng bức anh ấy phải cưới cô ta, mình cứng họng luôn. “Đúng thế,” anh ta nói với mình, “em đã có một đứa cháu khoảng bốn tuổi rồi đấy. Em đã cảm thấy mình già chưa nào?” Nhưng anh ấy chỉ làm mình vui vẻ trong giây lát, sau đó mình thường tìm mọi cớ để đi. Khi về đến nhà mình thường hết sức hồi hộp, mẹ mà sinh nghi thì chắc mình ngượng lắm đấy. Mình lấy sách ra và nói với mẹ, “Con sang nhà bên học đây ạ,” và hầu như mẹ không trả lời, chỉ gật đầu thôi, nhiều khi cũng chẳng thèm gật nữa. Nhà bên cạnh lớn hơn nhà mình, nhưng cũng cổ lỗ như nhau. Trước khi gõ cửa mình thường xoa hai tay cho đến khi tay đỏ hồng lên, đến như vậy mà mình cũng chưa hết đổ mồ hôi. Đôi khi chính Teresa ra mở cửa. Nhìn thấy ẳ em là mình lại thấy phấn chấn hẳn lên. Nhưng chính bà dì mới là người hầu như luôn luôn mở cửa cho mình. Bà ấy là bạn của mẹ mình; bà ấy không ưa mình, nghe nói hồi còn bé mình luôn luôn quấy rầy bà ấy. Bà ấy bảo mình vào và cắm cẳn nói: “Hai đứa vào trong bếp mà học, ở đó sáng sủa hơn.” Hai đứa chúng mình ngồi học bài trong khi bà dì nấu nướng và căn phòng đầy mùi hành tỏi. Teresa làm gì cũng rất chi nề nếp, tất cả sách vở của em đều được bọc cẩn thận nhìn thật đáng nể, và chữ viết của em nhỏ nhưng hết sức đều đặn; không bao giờ em để dây bẩn lên sách vở, các để mục bao giờ cũng được em gạch dưới bằng hai màu khác nhau. Mình từng nói với em: “Cậu sẽ thành họa sĩ đấy” khiến em cười vui vẻ. Bởi vì cứ mỗi khi mình mở miệng ra là em đã cười, một nụ cười không thể nào quên được. Em cười thật sự, rất mạnh mẽ và là để tán thưởng. Đôi khi thấy em từ trường về ai cũng phải thừa nhận là trông em khác hẳn những cô bé khác, không bao giờ thấy tóc em bị rối hay hai tay bị dây mực. Mình thích nhất là gương mặt của em. Hai chân em còn gầy khẳng khiu và ngực chưa nổi rõ lên, hoặc có khi đã có rồi cũng nên, nhưng có lẽ vì mình chẳng bao giờ nghĩ ngợi gì đến chân và ngực của em, mà chỉ chăm chăm nhìn và nghĩ đến gương mặt em mà thôi. Ban đêm, nếu còn trằn trọc trên giường và bỗng nhớ đến em, mình lại cảm thấy thẹn thùng và sẽ phải đi tiểu. Nhưng, ngược lại, suốt ngày mình chỉ nghĩ đến hôn em. Mỗi khi nhắm mắt lại và mường tượng thấy em là dường như mình thấy mọi người đều coi chúng mình đã lớn đã kết hôn với nhau rồi. Các buổi chiều chúng mình học chung với nhau khoảng hai giờ, có khi còn lâu hơn, và mình thường nói dối: “Tớ có một đống bài tập” để hai đứa được ở lại trong bếp lâu hơn một chút. Mặc dù mình cũng thường nói với em: “Nếu cậu mệt thì tớ sẽ về nhà,” nhưng em chẳng bao giờ mệt. Năm đó ở trường học mình đạt điểm số cao ngất và các thầy đánh giá mình rất cao, thường lấy mình làm gương, nêu tên mình trên bảng danh dự của trường, đôi khi còn cử mình làm cán sự học tập nữa và bọn trẻ ở Sáenz Peria thường gọi mình là thằng học gạo. Mình không chơi thân với các bạn học, ở trường thì còn nói chuyện với nhau, nhưng ra khỏi cổng trường là mình tránh mặt tụi nó. Mình chỉ hay đi gặp anh Higueras. Mình thường gặp anh ở góc quảng trường Bellavista, chỉ mới nhìn thấy mình đi đến là anh đã đi ngay lại. Thời bấy giờ mình chỉ chăm chăm mong đến năm giờ và thứ mình ghét nhất chính là ngày Chủ nhật. Bởi vì chúng mình chỉ cùng học cho đến ngày thứ Bảy, còn Chủ nhật Teresa thường đi với dì về Lima, về nhà những người trong gia đình, nên mình đành tự giam mình suốt ngày trong nhà hoặc đi Potao xem các đội bóng hạng hai thi đấu. Mẹ không bao giờ cho mình tiền và luôn ca cẩm về số tiền trợ cấp hưu trí mà bố còn để lại cho mẹ khi ông mất. “Điều tệ hại nhất là bố con đã từng phục vụ cho chính phủ suốt hơn ba mươi năm,” bà thường nói. “Trên đời không gì bạc bẽo hơn chính phủ đâu.” Tiền trợ cấp hưu trí chỉ vừa đủ trả tiền thuê nhà và tiền ăn. Mình đã từng đi xem phim với bọn bạn học vài lần, nhưng chắc là năm ấy mình trắng tay, không xem đá bóng cũng chẳng đi đâu được hết. Ngược lại, năm kế đó, mặc dù có tiền, mình vẫn cảm thấy cay đắng khi nghĩ làm sao để có thể chiều nào cũng được học với Teresa. Nhưng tuyệt hơn cả vụ con gà mái và thằng lùn chính là chuyện đã xảy ra trong phòng chiếu phim. Malpapeada, im nào, đừng cựa quậy nữa, đụng vào hàm răng của mày ghê thấy mẹ. Thế càng tốt. Hồi ấy chúng mình đang năm thứ tư, nhưng mặc dù cả một năm trường đã trôi qua kể từ ngày Gamboa giết chết Nhóm bạn lớn, thằng Báo Đen vẫn tiếp tục nói: “Một ngày nào đó mọi việc sẽ trở lại như cũ và bốn chúng mình sẽ trở thành chỉ huy.” Và còn hay hơn trước nữa là đằng khác, bởi vì trước đây khi chúng mình còn là lũ chó con thì Nhóm bạn chỉ bó hẹp trong một trung đội nhưng lần đó dường như cả năm trời mình ở trong Nhóm bạn và trên thực tế chính chúng mình là người chỉ huy, thằng Báo Đen có uy hơn chúng mình một chút. Và khi diễn ra trò khai tâm lũ chó con, rõ ràng là cả trung đội đứng về phía chúng mình, ủng hộ chúng mình. “Leo lên cầu thang mau, chó con,” Xoăn nói, “nhanh lên nào không tao nổi cơn bực lên đấy.” Cái điệu thằng bé nhìn chúng mình kìa, cái điệu nó nhìn chúng mình. “Thưa các anh học viên, độ cao làm em chóng mặt ạ.” Báo Đen bật cười rộ còn Cava thì tỏ ra giận dữ: “Mày có biết đang giễu cợt ai không hả, chó con?” Nó đành leo lên, nhưng mà nó sợ quá chừng. “Leo lên nào, leo lên đi, nhóc con,” Xoăn nói. “Và giờ thì hát đi,” Báo Đen nói với nó, “nhưng phải hát giống như nghệ sĩ, cả hai tay vung lên đưa xuống ấy.” Nó lắc lư như con khỉ và chiếc thang cũng đang lung lay trên nền gạch men. “Nếu em ngã thì sao, các anh học viên?” “Thì mày cứ ngã,” mình nói với nó. Nó đứng run rẩy trên chiếc thang và bắt đầu hát. “Nó sắp vỡ sọ đến nơi rồi,” Cava nói và Báo Đen cười to gấp đôi. Nhưng cú ngã chẳng nghĩa lý gì, trong cuộc diễn tập vừa qua mình đã nhảy xuống từ nơi cao hơn thế nữa cơ mà. Nó túm lấy cái chậu để làm gì thế nhỉ? “Hình như nó bị đứt ngón tay rồi,” Báo Đen nói khi nhìn thấy, bàn tay nó rỉ máu. “Bị phạt cấm trại một tháng hoặc lâu hơn,” viên đại úy nói, “vào tất cả các buổi tối, cho đến khi phát hiện ra những kẻ phạm lỗi.” Trung đội giữ thái độ đúng đắn và Báo Đen nói với tất cả: “Tại sao chúng mày lại không muốn vào Nhóm bạn một lần nữa nếu chúng mày là đàn ông chính hiệu?” Lũ chó con đều là những đứa rất hiền lành, đụng đến chúng chẳng hay ho gì. Thà đánh nhau với bọn năm thứ năm cho ra trò còn hơn trò khai tâm, đến chết mình cũng không thể quên được cái năm đó, nhất là những gì xảy ra trong rạp chiếu phim. Mọi chuyện đều do Báo Đen bày đặt ra cả, nó đứng ngay cạnh mình và suýt nữa thì mình bị đấm vỡ xương vai. Bọn chó con đã gặp may, lần ấy hầu như chúng không bị động đến, chúng mình quá bận rộn với bọn năm thứ năm mà lị. Cuộc trả thù diễn ra thật ngọt ngào, chưa bao giờ mình được tận hưởng niềm vui như ngày hôm đó trên sân vận động, khi mình nhìn thấy gương mặt một trong mấy thằng trong nhóm đã từng khai tâm cho mình hồi mình còn là chó con. Gần như chúng đẩy bật chúng mình ra, nhưng không sao, mình thề. Chuyện giữa năm thứ tư và năm thứ ba chỉ là cuộc chơi, mối thâm thù thật sự chính là giữa năm thứ tư và năm thứ năm. Ai mà quên nổi trò khai tâm mà chúng đã áp đặt lên chúng mình năm trước đấy? Vì thế chuyện xảy ra trong phòng chiếu phim giữa năm thứ năm và bọn chó con chỉ là tạo cớ cho cuộc ẩu đả mà thôi. Chuyện mấy cái mũ kê pi cũng là trò do Báo Đen nghĩ ra. Nếu thấy một thằng năm thứ năm đi đến, mình cứ cho nó tiến lại gần và khi chỉ còn cách độ một mét thì mình sẽ giơ tay lên đầu như để chào nó vậy, nó sẽ chào lại mình thế là mình bỏ mũ ra. “Mày định giỡn mặt tao hả?” “Đâu có, thưa anh học viên, tôi chỉ gãi gáy vì bị quá nhiều gàu thôi mà.” Có một cuộc chiến tranh, rõ ràng đang có những cái đầu nóng ở trong phòng chiếu phim. Thậm chí trời thật nóng dù đang mùa đông, cũng dễ hiểu vì mái nhà bằng tôn và hơn một ngàn người đang bị nhồi nhét trong phòng, cả lũ chúng mình ngột ngạt không chịu nổi. Mình không thấy mặt nó khi vào đây, chỉ nghe thấy giọng nó và vì nó là thằng quê vùng rừng rú. “Chật chội quá, tao mông thì to mà ghế thì quá nhỏ,” Báo Đen nói, nó ngồi ở hàng cuối của lớp thứ tư và thằng Nhà Thơ đang đòi tiền của ai đó, “Nghe này, mày tưởng tao làm không công hay tao làm vì cái mặt xinh xắn của mày thôi ư?” đèn đã tắt, trong phòng tối sầm và tiếng xì xào nói với nó “Im mồm đi không thì mưa bây giờ đấy.” Chắc là Báo Đen đã lấy gạch kê xuống đít ngồi cho cao lên để nhìn cho rõ nên che mắt những tên ở phía sau. Mình hơi gập người xuống, định bật que diêm, và khi nghe thấy tên năm thứ năm nói thì điếu thuốc lá bị rơi mất, thế là mình phải quỳ xuống tìm và mọi người phải dịch ra. “Này, anh bạn học viên kia, bỏ ngay mấy viên gạch ở ghế của mày xuống, tao muốn xem phim.” “Mày nói với tao đấy hả, anh bạn học viên?” mình hỏi nó. “Không, với thằng ngồi cạnh mày ấy.” “Với tao hả?” Báo Đen nói với nó. “Không với mày thì với ai nữa?” “Làm ơn,” Báo Đen nói, “im mồm đi để tao còn xem mấy thằng cao bồi kia.” “Mày không rút mấy viên gạch xuống hả?” “E là không,” Báo Đen nói. Và lúc đó thì mình ngồi lên ghế, không tìm điếu thuốc nữa, có lẽ ai đó đã nhặt được. Ở đây sẽ có vụ xô xát, tốt hơn hết mình cứ thít chặt thắt lưng lại đã. “Mày không muốn tuân lệnh hả?” tên năm thứ năm nói. “Không,” Báo Đen nói. “Sao lại phải tuân lệnh?” nó chủ động chọc tức tên kia. Lúc đó những tên ở phía sau bắt đầu huýt sáo ầm ĩ. Nhà Thơ bắt đầu hát “Ái, ai, ài” và toàn trung đội hát theo nó. “Chúng mày muốn chọc tức tao hả?” tên học viên năm thứ năm hỏi. “Hình như đúng thế đấy, anh học viên ạ,” Báo Đen nói với nó. Trong bóng tối một cuộc xô xát sẽ xảy ra, rồi nó sẽ được kể lại ở ngoài phố, ngoài quảng trường, trong bóng đêm và trong phòng họp, một chuyện xưa nay chưa ai từng chứng kiến. Báo Đen tự nhận mình là người đầu tiên khơi mào cho cuộc xô xát này, nhưng trí nhớ của mình chẳng bao giờ sai đâu. Chính tên kia mới là kẻ khởi đầu. Hoặc một đứa bạn muốn gỡ thể diện cho nó. Và có lẽ hắn ta nổi khùng, hùng hổ xông vào Báo Đen, mình đau buốt hai màng nhĩ vì tiếng hò hét. Tất cả mọi người đứng dậy và mình chợt thấy những bóng đen lao vào mình và mình bị đăm đá tới tấp. Đúng là mình chẳng còn nhớ tí gì về cuốn phim mới bắt đầu được chiếu. Thế còn Nhà Thơ, nó cũng bị đánh tơi tả hay cố gào thét ầm ĩ vờ như bị phát điên chăng? Và còn cả tiếng gào thét của trung úy Huarina nữa, “Bật đèn lên, hạ sĩ đâu rồi, bật đèn lên, ông điếc hả?” Và bọn chó con cũng gào “Bật đèn lên, bật đèn lên,” chúng không biết chuyện gì đã xảy ra, chắc chúng nghĩ là học viên hai lớp trên lợi dụng bóng tối để tấn công chúng. Những điếu thuốc lá bay loạn trên đầu, ai cũng chỉ mong thoát ngay khỏi cảnh đó, không ai muốn bị bắt quả tang đang hút thuốc trong phòng, cũng còn may là không xảy ra hỏa hoạn. Uỵch nhau thế này mới là uỵch chớ anh em, đừng để cho đứa nào được lành lặn đấy, đã đến lúc trả được thù rồi. Pirinolas à, tao không hiểu nổi làm sao thằng Báo Đen sống sót thoát ra được. Những bóng đen lao qua rồi lại lao qua bên cạnh mình và hai tay mình đau nhức còn hai chân thì mỏi rã rời vì đạp, ẳ chắc thế nào mình chẳng đạp đá nhầm vài đứa năm thứ tư, trong cảnh tranh tối tranh sáng này làm sao phân biệt nổi. “Chuyện gì đã xảy ra với những bóng đèn khốn kia hở hạ sĩ Varúa?” trung úy Huarina hét to, “ông không thấy là bọn dã thú này đang giết nhau hả?” Cả một cơn mưa đổ vật trút xuống khắp nơi, rất may là không ai bị tử thương. Và khi đèn được bật lên thì chỉ còn nghe thấy tiếng huýt sáo. Chẳng còn thấy mặt mũi trung úy Huarina đâu nữa, nhưng vẫn còn thấy mấy trung úy phụ trách năm thứ năm và năm thứ ba cùng các vị hạ sĩ quan. “Tránh ra nào, mẹ kiếp, tránh ra nào,” nhưng mà đứa nào tránh ra nhường bước là đứa đó toi đời. Và, cả một lũ côn đồ, cuối cùng thì chúng cũng bắt đầu động tay động chân, đấm đá lung tung và làm sao mình có thể quên được cảnh đó vì thằng Chuột giáng một cú thôi sơn trúng ngực khiến mình gần như tắt thở. Mình lia mắt tìm nó, tự nhủ nếu gây ra tai họa thì nó phải trả giá, nhưng nó đang ở đằng kia trông hăng hái hơn ai hết, vừa dang tay tát hết người này đến người khác vừa cười ha hả, dường như nó được thần linh bảo vệ thì phải, chẳng ai đụng được tới nó. Và sau đó, làm bộ mới cừ làm sao chứ, tất cả đều rất cừ khi cố lừa các vị trung úy và hạ sĩ quan, ở đây đâu có chuyện gì xảy ra đâu ạ, chúng tôi đều là bạn bè nhau, tôi chẳng hề biết một tí tì ti nào về chuyện này, kể cả bọn năm thứ năm, các ngài phải công minh chứ ạ. Sau đó họ bắt bọn chó con đi ra khỏi phòng, trông chúng ngơ ngơ ngác ngác, tiếp theo là bọn năm thứ năm. Bọn chúng mình còn lại trong phòng họp và chúng mình bắt đầu hát “Ái, ai, ài.” “Tao cho rằng mình đã cho chúng nếm mùi hai viên gạch làm chúng khó chịu lắm,” Báo Đen nói. Và tất cả bắt đầu nói: “Bọn năm thứ năm điên lắm, chúng mình đã làm chúng bẽ mặt trước bọn chó con, tối nay chắc chắn chúng sẽ tấn công khu phòng ngủ của năm thứ tư cho mà xem.” Các vị sĩ quan nháo nhác chạy qua chạy lại hết chỗ này sang chỗ khác cứ như lũ chuột, hỏi liên tục: “Vụ lộn xộn bát nháo này bắt đầu như thế nào hả?”, “Nói mau, hay chúng bay muốn vào nhà giam.” Chúng mình chẳng thèm nghe họ nói. Bọn năm thứ năm sẽ đến, chúng sẽ đến, chúng ta không được để chúng bất ngờ tấn công phòng ngủ của chúng ta, chúng ta sẽ ra ngoài bãi trống chờ sẵn chúng. Báo Đen đang đứng bên tủ quần áo và tất cả đều nghe lời nó như hồi bọn chúng mình còn là lũ chó con và Nhóm bạn họp lại trong buồng tắm đề ra kế hoạch trả thù. Phải tự vệ, người khôn ngoan biết phòng xa thì bằng hai người thường, những đứa nào đến phiên gác đêm thì hãy ra ngay đường piste làm nhiệm vụ cảnh giới. Khi chúng đến gần phải hét to lên báo hiệu để chúng tao ùa ra. Tất cả phải chuẩn bị sẵn những gì ném được, giấy vệ sinh cuộn chặt lại nắm chặt trong tay, như thế thì những cú đấm sẽ mạnh không khác gì cú đá hậu của loài lừa, phải gài lưỡi dao cạo râu vào đầu mũi giày như cựa gà chọi, bỏ ngay đá đầy túi, đừng quên bọc kín hạ bộ, ai cũng phải bảo vệ hai hòn dái kỹ hơn cả linh hồn đấy. Tất cả đều tuân theo lệnh này và tên Xoăn nhảy tưng tưng trên giường như hồi trước khi Nhóm bạn mới bắt đầu chứ không ỉu xìu xìu như suốt năm rồi, chúng bay nghe này, những phòng khác cũng đang chuẩn bị cho trận quyết đấu này. “Mẹ kiếp, không đủ đá rồi,” Nhà thơ nói, “chúng mình phải bóc vài viên gạch men thôi.” Và cả bọn mời nhau hút thuốc và ôm chầm lấy nhau. Chúng mình lên giường nằm mặc nguyên quân phục, một số còn mang cả giày. Chúng đến rồi, chúng đến rồi à? Malpapeada, im nào, không được nhe răng ra thế, đồ láo lếu. Đến con chó cái này cũng chộn rộn hẳn lên, vừa sủa vừa nhảy, trước nay nó vốn điểm đạm lắm mà, chắc mày sẽ phải đến ngủ ở chỗ con lạc đà cừu mất thôi, tao phải lo cho cả lũ chúng nó kia kìa, để chúng không bị bọn năm thứ năm bắt nạt. Căn nhà ở góc cuối ô phố thứ hai giữa hai phố Diego Ferré và Ocharán có tường rào màu trắng cao một mét và bề ngang ở mỗi phố dài mười mét. Chính ở góc giao nhau của hai phía bờ tường có một cột đèn nằm bên mép vỉa hè. Cái cột đèn và bờ tường song song làm thành hai cột khung thành cho đội bóng nào bốc thăm được; đội không bốc thăm trúng sẽ phải tự dựng khung thành lấy, cách đó độ năm mươi mét cũng trên đường Ocharán, bằng một viên đá hoặc một đống quần áo và áo khoác ở bên mép đường. Nhưng mặc dù khung thành chỉ rộng bằng chiều ngang đường, sân bóng chiếm hết cả con phố. Chúng chơi bóng đá thu nhỏ. Chúng đi giày thể thao, giống như trong sân ở câu lạc bộ Terrazas, và không bơm bóng quá căng để nó không nẩy quá. Nói chung chúng chỉ chơi những đường bóng thấp, chuyền ngắn, sút vào khung thành ở cự ly rất ngắn và không mạnh. Các đường biên được vẽ bằng phấn, nhưng chỉ chơi ít phút là vạch phấn này sẽ bị xóa vì vết giày và vết bóng lăn, nên nhiều khi phải tranh cãi nẩy lửa để xác định xem bàn thắng có hợp lệ hay không. Trận đấu thường diễn ra trong bầu không khí lo sợ và cảnh giác. Đôi khi, tuy đã hết sức đề phòng nhưng cũng không thể tránh được là Pluto hoặc một cầu thủ nào đó quá hăng hái sút mạnh hoặc đội đầu thật căng khiến quả bóng vượt qua khỏi một trong những bức tường của mấy nhà xung quanh sân bóng, văng vào vườn, đè bẹp hàng cây mỏ hạc và nếu mạnh nữa thì có thể đập ầm ĩ vào cửa ra vào hoặc cửa kính, tệ hơn nữa thì làm vỡ tan luôn kính, lúc đó thì đành mãi mãi quên đi quả bóng, đám câu thủ chỉ còn cách kêu trời và chạy thục mạng. Tất cả bỏ chạy trốn và vừa chạy Pluto vừa hét: “Họ đuổi theo chúng mình kìa, họ theo ngay đằng sau.” Chẳng ai dám quay đầu lại nhìn xem có đúng hay không, tất cả càng chạy cuống chạy cuồng và nhắc lại: “Nhanh lên, họ đang đuổi theo, họ gọi cảnh sát rồi,” và lúc này chính Alberto sẽ là kẻ dẫn đầu đám chạy trốn, gần như hụt hơi nhưng vẫn gào to: “Chạy đến khe núi cạn ngay, chúng mình chạy nhanh đến khe núi cạn đi!” Và tất cả chạy theo nó, vừa chạy vừa gào to: “Được, được đấy, chạy đến khe núi cạn!” và nó cảm nhận được quanh mình tiếng thở gầp gáp của những đứa khác, tiếng thở hổn hển nghe như muông thú của Pluto; tiếng thở ngắn và liên tục của Tico; tiếng thở yếu ớt và xa dần của Bebe, bởi vì nó là đứa chạy chậm nhất; tiếng thở bình thản, đều đều như vận động viên của Emilio, đó là một cách thở hết sức khoa học, tiết kiệm sức, hít vào thật sâu đằng mũi thở ra đằng mồm, và bên cạnh đó là tiếng thở của Paco, của Sorbino, tiếng thở của tất cả những đứa khác, một thứ tiếng động trầm lắng, đầy sinh khí đang bao bọc nó và truyền cho nó hứng khởi để tiếp tục lao qua ô phố thứ hai ở góc phố Diego Ferré và vượt đến góc phố Colón rồi quặt sang phải, men theo bức tường nhanh chóng vượt qua vòng cua. Sau đó thì cuộc chạy trốn trở nên dễ dàng hơn, bởi vì dốc phố Colón trải dài thoai thoải và hơn nữa còn có thể nhìn thấy, ít nhất là qua cả một ô phố, những viên gạch màu đỏ của bờ kè ven bờ biển Malecón và, xa hơn nữa, mặt biển xanh xám hòa lẫn vào đường chân trời, bãi biển kia chúng sắp chạy tới nơi. Bọn trẻ trong khu phố vẫn thường trêu đùa Alberto bởi vì mỗi khi chúng ngồi bệt trên mảng cỏ hình vuông nho nhỏ ngoài sân nhà Pluto để bàn luận về các dự định này nọ thì nó thường là người đề nghị: “Chúng mình đến khe núi cạn đi.” Những chuyến đi chơi ở khe núi cạn thường mất nhiều thời gian và khá vất vả. Chúng phải nhảy qua bức tường bằng gạch cuối phố Colón, cố sao khi rơi xuống phải đúng mảnh đất mềm bằng phẳng, phải chăm chú nhìn thật kỹ vách thẳng đứng của dốc đá, bàn bạc con đường phải vượt qua, từ trên cao tính cách vượt qua các chướng ngại vật trước khi đến được bờ biển đầy đá lổn nhổn. Alberto là một chiến lược gia đầy nhiệt huyết. Vừa chăm chú nhìn khe núi nó vừa chỉ ra lộ trình phải đi với những lời ngắn gọn, cử chỉ dứt khoát, bắt chước nhân vật chính trong các cuốn phim từng xem: “Phía đằng kia, trước hết là tảng đá có mấy cái lá nhọn chĩa lên, đá to lắm đấy; từ đó chỉ cần nhảy cỡ một mét, chúng mày chú ý nhé, sau đó là đến các tảng đá đen phẳng lì, từ đó trở đi thì sẽ dễ hơn, phía bên kia có nhiều rêu, chúng mình có thể trượt ngã đấy, chúng mày chú ý, con đường này có thể dẫn đến một bãi biển nhỏ nơi ta từng đến rồi đấy.” Nếu có đứa nào cãi lại (ví dụ như Emilio vốn cũng thích làm chỉ huy) thì Alberto sẽ hăng hái bảo vệ ý kiến của mình bằng được; đám trẻ trong khu phố chia làm hai nhóm. Chính những cuộc cãi nhau ầm ĩ đó khiến các buổi sáng ẩm ướt ở khu Miraflores như được hâm nóng lên. Phía sau lưng chúng, dọc đường phố men theo kè bê tông ven bờ biển, hàng dãy ô tô nối nhau đi như bất tận; thỉnh thoảng một hành khách thò đầu ra cửa xe chăm chăm nhìn chúng; nếu hành khách đó là một đứa trẻ thì hai mắt sẽ bừng lên vẻ thèm khát ghen tị. Quan điểm của Alberto thường lấn át ý kiến của những đứa khác, bởi trong các cuộc bàn cãi này nó thường tỏ ra hết sức nhiệt tình, hết sức cương quyết khiến các bạn phải chịu đựng đến mệt mỏi. Chúng đi xuống phía dưới thật chậm, chẳng còn dầu vết gì của những cuộc cãi vã nữa, mà tràn ngập tinh thần anh em được biểu hiện qua ánh mắt nhìn, qua những nụ cười và những lời động viên nhau. Mỗi khi ai đó vượt qua được một chướng ngại vật hoặc thực hiện được một cú nhảy hiểm nghèo thì những đứa khác vỗ tay hoan hô. Thời gian trôi qua thật chậm chạp, hết sức căng thẳng. Càng đến gần mục tiêu, chúng càng trở nên quả cảm; đã cảm nhận được rất gần cái âm thanh đặc trưng mà tối tối vẫn vọng đến tận giường từng đứa ở khu Miraflores và lúc này trong tiếng sóng vỗ ầm ào vào từng doi đá, chúng đã ngửi thầy mùi nồng nàn của muối và vỏ sò ốc sạch bóng và chỉ chút nữa thôi là cả bọn đã ở trên bãi biển nhỏ xíu hình rẻ quạt nằm gọn giữa dãy núi đá và bờ cát, nơi chúng sẽ tụ tập lại, tán chuyện, trêu đùa nhau, cười thỏa thích vì vượt qua bao khó khăn khi đi xuống núi, giả tảng như bị đẩy xuống, trong tiếng hò reo huyên náo cả một vùng hẻm núi. Trong những buổi sáng không quá lạnh giá hoặc những buổi chiều có ánh mặt trời ấm áp le lói giữa trời mây xám, trong tiếng cổ vũ cuồng nhiệt của bạn bè, Alberto cởi giày tất ra, xắn ống quần lên tận đầu gối, nhảy ào xuống biển để được cảm nhận nơi chân cái lạnh của nước biển và nét bằng phẳng mịn màng của những tảng đá ngâm mình trong lòng biển và, từ đó, một tay giữ quần, một tay giơ lên cao vẫy gọi bạn bè, những thằng bạn dựa lưng vào nhau, đến lượt mình cũng cởi hết giày tất và ào xuống gặp nó, khoát nước vào nhau và bắt đầu trận đùa nghịch ầm ĩ. Sau đó, lạnh buốt đến tận xương, chúng mới quay lại bãi biển, nằm dài trên những tảng đá, bàn cách leo trở lên. Chuyến leo núi này thật vất vả và mệt mỏi. Khi về đến khu phố, chúng ngồi vật xuống bãi cỏ trong vườn nhà Pluto, hút thuốc lá Viceroy mới mua nơi cửa hàng ở ngay góc phố, cùng với kẹo bạc hà để át mùi hôi của thứ thuốc lá rẻ tiền này. Những khi không chơi bóng đá, không leo xuống khe núi, không đua xe đạp vòng quanh khối phố thì chúng đi xem phim. Thứ Bảy từng nhóm thường kéo nhau đi đến các rạp chiếu phim buổi sáng ở Excélsior hoặc ở Ricardo Palma, thường ngồi tầng trên là chính. Chúng thường ngồi ngay hàng ghế đầu, nói chuyện ồn ào, vứt que diêm đang cháy xuống sàn ngay sát sân khấu, tranh cãi ầm ĩ về các tình huống trong phim. Những ngày chủ nhật thì khác. Buổi sáng phải đi lễ nhà thờ ở Champagnat de Miraflores; chỉ có Emilio và Alberto học ở thành phố Lima. Nói chung chúng tụ tập lại với nhau vào khoảng mười giờ sáng ở Công viên Trung tâm, vẫn mặc đồng phục, ngồi trên ghế đá quan sát người ta ra vào nhà thờ hoặc cãi vã với những đứa trẻ ở khu phố khác. Buổi chiều chúng cũng đi xem phim, nhưng lần này thì ăn vận tử tế, tóc chải gọn gàng, đóng khuôn trong chiếc áo sơ mi cổ cứng và đeo cà vạt theo yêu cầu của bố mẹ. Một số đứa còn phải đi cùng với chị em gái; số khác thì bám theo sau chúng dọc theo đại lộ Larco, vừa đi vừa trêu ghẹo mấy đứa kia là dại gái, là pê đê. Những cô bé trong khu phố, cũng đông đảo không kém gì bọn con trai, cũng tụ tập thành từng nhóm gắn bó với nhau chặt chẽ, luôn căm ghét bọn con trai thiếu điều đào đất đổ đi. Giữa các nhóm trai gái đó thường xuyên có một trận chiến triền miên. Khi bọn con trai tụ tập ở đâu đó mà thấy đứa con gái nào đi qua là chúng liền xông đến túm tóc cho đến khi cô bé bật khóc rồi thì trêu thằng anh không dám bênh em gái: “Bây giờ thế nào con bé cũng về mách bố và thế nào mày cũng được mấy cái bạt tai vì đã không bảo vệ được em gái đấy.” Và ngược lại, khi có một thằng nào lớ ngớ đi một mình, bọn con gái cũng sẽ lè lưỡi ra giễu cợt, gán cho nó đủ cái tên gọi thô bỉ nhất và hắn ta cũng đành phải chịu trận trước cảnh bị chọc quê này, mặt đỏ gay vì xấu hổ, nhưng không dám bước nhanh hơn chỉ để chứng tỏ mình không phải thằng hèn sợ đám đàn bà. Nhưng chúng đã không đến, tội nợ này là của các viên sĩ quan, đương nhiên thôi. Chúng mình cứ tưởng là bọn chúng và đã nhảy ra khỏi giường, nhưng mấy tên gác đêm đã ngăn chúng mình lại: “Nằm im, là bọn lính đấy.” Vào lúc nửa đêm đám lính dân vùng núi đã được dựng dậy và ra tập hợp ở đường piste, vũ trang đến tận răng, cứ như sắp ra trận đến nơi, còn có cả các vị trung úy và hạ sĩ quan nữa, có chuyện gì đó đang bốc mùi đây. Nhưng chúng vẫn muốn đến, sau này chúng mình được biết là bọn chúng cũng đã chuẩn bị suốt đêm, họ nói là chúng đã có cả nỏ và bom tự chế đựng amôniắc. Bọn lính, tụi mình chửi chúng nó chả còn thiếu nước gì, chúng nổi khùng chĩa lưỡi lê vào chúng mình. Không thể nào quên được chuyện này, nghe nói ngài đại tá gần như đánh ông ấy, hoặc đã đánh ông ấy rồi, “Huarina, ông thật chẳng ra cái thể thống gì,” chúng mình đã làm ông ta bẽ mặt trước ông bộ trưởng, trước các vị đại sứ, nghe nói ông ta gần như phát khóc. Mọi chuyện đáng lý đã kết thúc ở đấy nếu như ngày hôm sau không có cái lễ hội đó, ngài đại tá đă làm tốt, tức là đã buộc chúng tôi trình diễn như một bầy khỉ, ôm súng đi đứng trước mặt vị giám mục và ăn trưa trong bầu không khí anh em thân tình, biểu diễn thể dục và nhảy cao trước mặt các vị tướng các vị bộ trưởng và ăn trưa trong bầu không khí anh em thân tình, mặc trang phục đại lễ đi diễu binh và đứng nghe diễn văn, ăn trưa trong bầu không khí anh em thân rình trước các vị đại sứ, làm tốt đấy, làm được đấy. Mọi người đều biết là sẽ có chuyện xảy ra, cái đó đang treo lơ lửng trên không, Báo Đen nói: “Bây giờ ở trên sân vận động chúng mình phải thắng tất cả các cuộc thi, chúng mình không được thua trận nào hết, phải cho chúng trắng tay, cả chạy và nhảy, trong tất cả các môn thi đấu.” Nhưng hầu như chẳng có gì, chỉ có thi kéo co, cánh tay mình vẫn còn đau ê ẩm vì phải kéo cật lực, theo tiếng hò hét của mọi người “Trăn ơi, kéo mạnh vào,” “Trăn đâu, kéo nhanh vào,” “Mạnh vào, mạnh vào,” “Đồ láu cá, đồ láu cá.” Và vào buổi sáng, trước bữa điểm tâm, Báo Đen với mình đã đến chỗ Urioste và họ nói với chúng mình: “Kéo mạnh chết bỏ nhé, không được lùi đâu đấy, hãy làm tất cả vì toàn trung đội.” Người duy nhất không ngửi thấy những chuyện này chính là Huarina, ông ta là người yếu đuối. Ngược lại thằng cha Chuột lại có mũi rất thính: “Chớ có dại làm điều ngông cuồng gì trước mặt ông đại tá, tao chẳng để đứa nào cười vào mặt đâu, tao nhỏ con thật đấy nhưng tao đã giành chức vô địch judo đến bao nhiêu lần cũng không nhớ nổi.” Im nào, chó cái, đừng có nhe răng ra nữa, cho tao yên đi, Malpapeadita. Ở đây đầy người là người, mấy ông lính đã mang ghế ở nhà ăn ra hay đấy là ghế tự hồi nào trước đây chăng, nhưng phải nói ngay là lúc này đông người thật, không thể phân biệt được tướng quân Mendoza giữa bao nhiêu người vận quân phục. Có lẽ ông là người đeo huân huy chương nhiều nhất và mình sẽ phải cố nín cười khi nhớ lại chuyện chiếc micro, đỉnh điểm của bao nhiêu thứ xúi quẩy, bọn mình được một bữa cười bể bụng, mình đến đứt ruột mất, mình dám cá cái đầu mình là Gamboa có mặt, mình sẽ còn cười đến vỡ tung lồng ngực mỗi khi nhớ lại chuyện chiếc micro. Ai mà ngờ nổi chuyện sẽ thành ra nghiêm trọng vậy, nhưng mà xem bọn năm thứ năm đang giở trò gì kìa, chúng đang dùng mắt mà ném lửa sang bọn mình và đang há mồm như muốn chửi mẹ chúng mình. Chúng mình thì cũng bắt đầu chửi mẹ chúng nó, thì thầm thôi, từ từ thôi Malpapeada ơi. Tất cả học viên, đã sẵn sàng chưa? Chú ý nghe tiếng còi. “Tự chấn chỉnh đội hình,” tiếng nói phát ra từ micro. “Đổi hướng và bước đi,” “Đi thẳng về phía trước, đi đều bước.” Và bây giờ đến các vận động viên, mình hy vọng chúng đã tắm rửa thân thể sạch sẽ, đồ lợn ấy. Một, hai, ba, hãy bước nhẹ nhàng và hãy chào quý khách. Anh chàng lùn kia điều khiển gậy khá thuần thục, hầu như anh ta chẳng hề có cơ bắp tuy nhiên lại linh hoạt thế! Chúng mình chẳng hề thầy ngài đại tá nhưng cũng đâu có quan trọng gì, mình thuộc lòng hình ảnh ông rồi, tóc đã mượt như thế rồi thì cần gì phải vuốt keo nữa, cũng đừng ai lên giọng dạy mình về tư thế quân nhân khi mình nghĩ đến ngài đại tá, ông cởi thắt lưng và bụng ông sa thấu đất, thấy cái mặt ông là chỉ muốn cười đau ruột thôi. Mình tin điều duy nhất mà ngài đại tá thích thú là các buổi biểu diễn và các cuộc duyệt binh, hãy nhìn lũ bạn bè của mình, muôn thằng như một, giống hệt nhau, bước đều răm rắp, tùng tùng tùng cà rùng tùng tùng, trò xiếc bắt đầu, và giờ là những con chó đã được huấn luyện của mình, lũ rận, tụi voi cái biểu diễn đi thăng bằng, tùng tùng tùng cà rùng tùng tùng. Mình mà có cái giọng nhỏ nhẻ như của ông ấy thì mình sẽ hút thuốc thật nhiều cho nó khàn đi, giọng ấy đâu phải giọng quân nhân. Mình chưa bao giờ được thấy ông ấy trong các cuộc diễn tập, càng không thể hình dung ra ông lại có thể có mặt ở chiến hào, nhưng trong các cuộc biểu diễn thì có đấy, này hàng thứ ba bị cong rồi, học viên chú ý, các vị sĩ quan càng phải chú ý, động tác không được nhịp nhàng, đi không được đều và tư thế chưa được nghiêm, sao mà ẻo lả thế kia, mặt mũi gì mà ỉu xìu xìu thế. Nghe đồn ngài bộ trưởng vã mồ hôi đầm đìa và nói với đại tá: “Mấy thằng khốn kiếp kia đã hóa rồ hay sao vậy?” Đúng lúc chúng mình đối diện với nhau, khối năm thứ năm và khối năm thứ tư, ngay giữa sân bóng đá. Coi bộ chúng ngồi kìa, chúng loay hoay trên ghế trông chẳng khác gì lũ rắn đang cựa quậy còn phía bên kia là lũ ẳ chó con đang chăm chú nhìn mà chẳng hiểu gì, chúng mày cứ chờ đó thêm tí nữa rồi sẽ được chứng kiến một chuyện tuyệt hay. Huarina quay đầu về phía chúng mình nói: “Các cậu tin là làm được chứ?” “Ông có thể phạt chúng tôi cả năm nếu chúng tôi không thắng,” Báo Đen nói với ông ấy. Nhưng mình thì không tin chắc đến như vậy, chúng nó có những thằng to khủng như loài muông thú, Gambarina, Risueno, Carnero, toàn những con thú ghê gớm. Từ lâu mình đã bị đau hai cánh tay, chỉ còn có tinh thần là vững. “Báo Đen đâu lên trước đi,” từ trên lễ đài có tiếng gọi to và cả tiếng nói: “Trăn, mày là niềm hy vọng của chúng tao.” Bọn trong trung đội bắt đầu hát “ái, ai, ài” và Huarina bắt đầu cười cho đến khi nhận ra việc này có thể chọc tức bọn năm thứ năm, thế là ông ta bắt đầu giật giật tóc: “Lũ ngốc, chúng bay làm gì vậy, trên kia còn có tướng quân Mendoza, ngài đại sứ, ngài đại tá, chúng mày làm gì vậy,” nỗi kinh tởm hiện lên trong ánh mắt ông ta. Mình bật cười khi nhớ đến câu nói của ngài đại tá rằng “các trò đừng tưởng trò chơi này chỉ là chuyện của cơ bắp đơn thuần, cũng cần phải sử dụng đến trí thông minh và sự tinh quái, phải có chiến lược chung nữa đấy, không dễ phối hợp nhịp nhàng sự nỗ lực của nhiều người một lúc đâu,” mình buồn cười đến chết được. Bọn trẻ hoan hô chúng mình nồng nhiệt chưa từng thấy, bất cứ ai có trái tim trong lồng ngực đều không thể không rung động. Bọn năm thứ năm đã vào khu vực thi đấu với trang phục màu đen và chúng cũng được hoan hô nồng nhiệt. Một viên trung úy vẽ đường ranh giới và dường như chúng mình đang trong một cuộc thử sức thật sự, trong tiếng reo của cầu trường: “Năm thứ tư, năm thứ tư,” “Muốn hay không muốn thì năm tư cũng là cha chúng mày,” “chúng mày thích hay không thích thì năm tư cũng thắng.” “Còn mày, hét cái gì thế?” Báo Đen nói với mình, “mày không thấy hò hét như vậy chỉ tổ tốn sức hay sao hả?” nhưng bầu không khí xúc động quá mà: “Một roi ở đây, hây hây, một roi ở kia, ai, ai, hây, hây, ai, ai, năm thứ tư, năm thứ tư, hoan hô, hoan hô.” “Rồi,” Huarina nói. “Đến phiên chúng mày rồi đấy. Hành động sao cho đáng mặt, phải cho mọi người biết mình là năm nào, các bạn trẻ nhé,” ông chả mảy may ngờ trước chuyện gì sắp xảy ra. Các bạn trẻ, chạy nhanh vào, Báo Đen chạy đầu, cố lên, cố lên, Urioste, cố lên, cố lên, Trăn, ráng lên ráng lên, Torres, nhanh lên nhanh nữa lên, Riofrío, Pallasta, Pestana, Cuevas, Zapata, cố lên, cố lên, thà chết chứ không chịu nhường một li. Chạy nhanh lên, đừng há mồm ra, lễ đài gần thôi mà, nhanh lên để còn xem mặt tướng quân Mendoza chứ, đừng quên giơ hai tay lên khi Torres hô ba. Trên lễ đài có nhiều người hơn ta tưởng và biết bao nhiêu là quân nhân, có lẽ là trợ lý của ngài bộ trưởng đây, tao thích được nhìn mặt các ngài đại sứ, họ hoan hô chúng mình nhiệt tình quá đi mất thế mà chúng mình vẫn chưa bắt đầu. Đó, bây giờ mới được nửa vòng, trung úy chắc đã chuẩn bị dây xong, cha ở trên trời ơi, mong sao ông ấy làm những cái nút dây thật tốt, chà mặt mũi lũ năm thứ năm trông mới gớm ghiếc làm sao, chúng nó đâu có làm mình giật thót nổi đâu, gan đây to lắm, đâu có làm cho mình sợ được nào. “Cố lên, cố lên, ra-ra-rá.” Đúng lúc này Gambarina tiến tới gần hơn một chút và, chẳng chú ý gì đến ông trung úy đang giữ dây và đếm các nút buộc, liền nói: “Đừng có mà giở trò khôn vặt. Cẩn thận không là mất hai hòn dái đấy.” “Thế mẹ mày thì sao?” Báo Đen hỏi nó. “Tao với mày sẽ nói chuyện với nhau sau,” Gambarina nói. “Chuyện tếu thế là đủ rồi đấy,” trung úy nói, “các vị đại úy xin đến đây tập hợp thành hàng cho, khi tiếng còi vang lên thì bắt đầu kéo, khi có ai đặt chân lên phần sân của đội bạn thì tôi sẽ thổi còi ngay và mọi người dừng lại. Đội nào giành được hai điểm trước sẽ thắng. Đừng có mà khiếu nại hay kiện tụng gì, tôi bao giờ cũng là người rất công bằng.” Mạnh lên nào, mạnh lên nào, rướn lên nào, ngậm miệng lại, căng mặt ra, khán đài đang hò hét Trăn, Trăn nhiều hơn Báo Đen hay mình bị điên rồi, sao vẫn chưa thổi còi nhỉ. “Cố lên nhé,” Báo Đen nói, “kéo cho kỳ chết cũng cam lòng.” Và tên Gambarina bỏ dây ra mà giơ nắm đấm về phía chúng mình, chúng đang nổi khùng, làm sao chúng mày tránh được thất bại chớ. Và khiến cho chúng mình máu nhất vẫn là sự cỗ vũ của đám bạn; tiếng hò reo cứ vang vang trong đầu mình trong hai cánh tay mình và tất cả như tiếp thêm sức mạnh cho mình, anh em ơi, nào, một, hai, ba, không được, đức cha ơi, Chúa ơi, thiên thần ơi, bốn, năm, chiếc dây chão uốn éo như con rắn, mình đã biết là các nút buộc không đủ lớn để vừa tay cầm mà, năm, sáu, hai bàn tay cứ muốn trơn trượt đi thế này, bảy, chúng mình không tiến lên được thì mình chết mất, mình chả thấy ngực mình đâu nữa, những thằng đực như mình thì phải đổ mồ hôi như vậy chứ, chín, cố lên, cố lên, một giây nữa thôi chúng mày ơi, hăng lên, hăng lên, tiếng còi, mình chết mất thôi. Bọn năm thứ năm bắt đầu rống lên ầm ĩ, “Trung úy ơi, có bẫy,” “chúng tôi đã vượt qua ranh giới rồi, thưa trung úy,” chà tuyệt quá đi, những đứa năm thứ tư đứng cả dậy rồi, bỏ hết mũ ra rồi, cả một biển mũ kia kìa, họ đang hò reo phải không Trăn?, hát vang, khóc, hò reo, nước Perú muôn năm, các bạn ơi, năm thứ năm đáng chết, chúng mày đứng có chường cái bộ mặt nhăn nhó kia ra nữa, chúng tao đến là cười vỡ bụng đây này, hoan hô, hoan hô. “Không được ồn ào,” trung úy nói, “một không nghiêng về đội năm thứ tư. Chuẩn bị cho hiệp đấu thứ hai.” “Cố lên, các bạn, cổ động viên năm thứ tư tuyệt làm sao, thế mới đúng là gầm vang chớ, tao đang nhìn mày, người rừng Cava ơi, cả Xoăn nữa, chúng mày hò reo to vào, cái đó làm cho cơ bắp thêm nóng đấy, tao đang đổ mồ hôi đầm đìa như cái dây may xo bếp điện đây này, đừng có mà trườn đi đấy nhé, còn con chó Malpapeada này, đứng yên, đừng cắn tao. Chà, còn hai bàn chân nữa, sao mà tệ hại thế này, sao mà cứ chực trượt trên cỏ như đi pa tanh thế chứ, mình thấy hình như có cái gì sắp vỡ vụn ra ấy, dường như các mạch máu ở sau gáy mình sắp bung ra hay sao ẫy, đứa nào đang thoái chí thế không biết, mày đừng có mà cúi gập người như vậy, nhưng đứa nào là kẻ phản bội đang thả lỏng tay ra thế, nắm con rắn này thật chặt đi nào, chúng mày phải nghĩ đến danh dự của năm thứ tư chứ, ba, cố lên, hội cổ động viên sao rồi kìa, tệ quá Báo Đen ơi, chúng nó bằng điểm mình mất rồi. Nhưng chúng đã phải cố quá sức, đang quỳ cả xuống và đổ gục xuống đất dang hai tay thành chữ thập, thở hồng hộc như thú vật và mồ hôi đầm đìa. “Hai đội cùng được một điểm,” viên trung úy nói, “chớ có om sòm nhắng nhít thế kia, trông giống đàn bà lắm.” Và chúng bắt đầu bêu riếu trêu chọc để chúng tôi giảm nhuệ khí. “Kết thúc trận đấu thì chúng mày cũng tiêu đời luôn cho xem,” “Nhờ có Chúa ở trên trời, chúng tao sẽ băm nát chúng mày ra,” “Ngậm miệng lại đi không chúng tao táng vỡ mặt bây giờ đấy.” “Lũ khốn,” trung úy nói, “chúng mày không thấy là trên lễ đài người ta nghe được chúng mày chửi à, tao sẽ bắt chúng mày trả giá đắt đấy.” Cứ như trời mưa ở đây, mẹ chúng mày chứ, chà chà, mẹ chúng mày, rá-rá-rá. Lần này tiếng hô nhanh hơn và châm chọc hơn, đứa nào đứa nấy ra sức gào, thót bụng, phồng cổ đến nổi gân lên mà gào. “Năm thứ tư, năm thứ tư, xì xì, chiu, bùm, năm thứ tư!” “Thích hay không thì năm thứ tư cũng là cha chúng mày,” chỉ kéo mạnh một chút là chúng mày thua đứt. Và Báo Đen nói: “Tụi nó quyết tâm quật ngã chúng ta cho dù trên lễ đài biết bao vị tướng đang có mặt. Đây sẽ là cuộc đấu thế kỷ đấy. Chúng mày có thấy thằng Gambarina nhìn tao như thế nào không hả?” Mọi lời hò hét tục tĩu của đám cổ động viên vang động cả khoảng sân, xa xa xuất hiện hình bóng của Huarina chạy đi chạy lại, vị đại tá và vị bộ trưởng nghe thấy hết, các trung đội trưởng dọa mỗi trung đội sẽ lôi ra bốn, năm, mười người mà phạt cấm trại một hai tháng. Các bạn trẻ, kéo mạnh vào nào, đây là nỗ lực cuối cùng rồi, để xem ai mới thực sự là những kẻ có lông sư tử đầy ngực và dái bò tót đây. Chúng mình đang kéo cật lực thì chính lúc đó mình thấy một mảng màu nâu điểm chấm đỏ đang từ trên lễ đài chỗ năm thứ năm tràn xuống, một mảng nâu cứ lớn dần, cả một đám đông, “bọn năm thứ năm đang tràn xuống,” Báo Đen kêu to, “chúng mày ơi, phải tự vệ thôi,” thì vừa lúc đó Gambarina bỏ tay ra khỏi con rắn và những tên năm thứ năm khác đang kéo dây chão liền đổ sập xuống đất và vượt qua làn ranh, chúng mình thắng, rồi, mình hét lên, còn Báo Đen và thằng Gambarina lúc này đá bắt đầu vật lộn với nhau trên mặt đất, còn Urioste và Zapata thè cả lưỡi ra ngoài chạy qua bên cạnh mình và bắt đầu xông vào đấm đá bọn năm thứ năm, đám đông cứ lớn dần lớn dần, lúc đó Pallasta liền cởi áo phông ra vẫy vẫy lên phía năm thứ tư đang ngồi trên lễ đài ra hiệu hãy xuống đây, bọn chúng đang đánh chúng tao đây này, viên trung úy cố gỡ hai thằng Gambarina và Báo Đen ra nên không thể thấy được cả một đám người đã ở ngay sau lưng, mẹ kiếp, chúng mày không thấy là ngài đại tá ở trên kia à?, và một đám khác bắt đầu ào xuống, đó là người của mình, tất cả năm thứ tư đều ở trong Nhóm bạn, trong đám này có thằng người rừng Cava, người anh em Xoăn, chúng mình dựa lưng vào nhau mà đánh, tất cả đều đi đúng đường rồi đây và tất cả chúng mình đều là chỉ huy. Và, bỗng nhiên, tiếng nói nhỏ nhẹ của vị đại tá vang vọng khắp nơi, các vị sĩ quan, các vị sĩ quan, làm ơn dẹp ngay cảnh hỗn loạn này, thật là ô nhục đối với trường, và, trong khi đó bộ mặt của cái thằng đã khai tâm cho mình hồi năm trước đang nhìn mình với cái mõm rộng tím bầm, bố mày, hãy đợi đấy, tao với mày còn món nợ chưa trả mà, giá mà anh mình thấy mình lúc này nhỉ, anh đã từng căm ghét bọn người rừng đến thế, cái mõm đang há hốc ra kia và nỗi sợ hãi của lũ người rừng kia rồi thì bỗng nhiên bắt đầu một cơn mưa roi vọt tới tấp, các vị sĩ quan và hạ sĩ quan tháo thắt lưng da ra và người ta nói còn cả một số vị sĩ quan là khách mời từ trên lễ đài cũng nhào xuống và cũng rút thắt lưng da ra, thật là quá tợn, nhất là khi chúng không phải người ở đây, mình cảm thấy bị đánh không phải từ phần da mà từ đầu khóa cái thắt lưng, lưng của mình bị cứa ngang cứa dọc như ngựa vằn. “Thưa tướng quân, đấy là một âm mưu, nhưng tôi sẽ không nhân nhượng đâu,” “âm mưu âm miếc quái gì đâu, ông hãy làm điều gì đó để lũ khốn kiếp kia thôi đánh nhau đi đã nào,” “thưa đại tá, xin ngài hạ cái cần xuống, micro vẫn đang mở đấy ạ,” tiếng còi, roi vọt, bao nhiêu là trung úy và mình chẳng còn mắt mũi nào để nhìn thấy họ được nữa, các vết roi đánh bỏng rát trên bao nhiêu tấm lưng và Báo Đen cùng với Gambarina vẫn ôm chặt lấy nhau """