"Thanh Lâu - Tập 1 - Vương Diên Niên full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thanh Lâu - Tập 1 - Vương Diên Niên full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Thanh lâu - Tập 1 Tác giả Vương Diên Niên Dịch giả Minh Khuê NXB Phương Đông ebook©vctvegroup Tôi là người phụ nữ khổ nhất thế giới (Tự bạch của nhân vật chính) Tôi sinh ra vào thời kỳ đầu những năm 30 trong cuộc hỗn chiến quân phiệt. Vừa sinh ra cõi đời, tôi hoàn toàn không được lựa chọn, phải sống cảnh đói nghèo, khổ nạn và gian nguy. Bảy tuổi mất mẹ, tôi thành cô nhi, chín tuổi bị bán vào công quán làm kẻ hầu hạ, mười tuổi lưu lạc làm ăn xin, mười một tuổi vào đại vũ đoàn Hóa Nghinh tập võ học kịch, mười hai tuổi làm con dâu, mười bốn tuổi bị người ta gạt bán vào kỹ viện làm kỹ nữ. Tuy thân mang tuyệt kỹ, cũng từng thi triển võ công để phản kháng, nhưng tôi không thể thoát khỏi hắc động của xã hội ghê gớm đó. Trong cuộc sống bán thân bán nụ cười, tôi bị người ta bán như bán súc vật, từ Thành Đô đến Bảo Kê, đến Lan Châu, chuyển bán qua ba thành phố lớn, bốn kỹ viện. Tôi, thân nô lệ phải theo họ của chủ nhân, từng có sáu cái tên: Lưu Hồng Chi, Khang Tiểu Muội, Tô Thu Chi, Điền Thanh Đệ, Mã Hương Ngọc, Thù Hương Ngọc. Trong sáu tên này, thời gian gọi tên Khang Tiểu Muội là dài nhất, vì lúc này tôi mười một tuổi tập võ học kịch, trưởng đoàn ban ân, cho tôi giả làm cháu của Khang Tử Lâm thuộc hàng thái sơn bắc đẩu của võ học Tứ Xuyên. Tôi từng tiếp khách là sĩ quan Mỹ, cũng từng tiếp qua nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng là Hồ Tông Nam, Mã Bộ Phương. Cuối cùng tôi theo Ngụy Sấu Bằng lớn hơn tôi ba mươi tám tuổi, là thư ký của tướng quân Phùng Ngọc Tường. Từ đó tôi thoát khỏi hầm chông sống đời hoàn lương. Tháng 8 năm 1949, Lan Châu giải phóng, tôi bước lên bến bờ mới, làm lại con người mới, cũng từ đây tôi chính thức có một cái tên công dân thuộc về mình, trong nước Trung Quốc mới – Khang Tố Trân. Nhớ lại chuyện cũ, những chị em trong thanh lâu đã tử nạn luôn sống trong lòng tôi. Tôi vừa học văn hóa, vừa tập luyện võ công, tôi muốn tra tìm hung phạm để báo thù cho chị em tử nạn, nhưng tâm nguyện lớn nhất của tôi chính là viết một quyển sách, đem những chuyện bi thảm của chị em chúng tôi viết ra, truyền lại đời sau. Mùa xuân năm 1951, Sấu Bằng đi Tây An công tác, ông đưa tôi đến những nơi tôi từng chịu khổ: Bảo Kê, Thành Đô để khảo sát thực địa. Ở Tây An, tôi làm quen Điền Cửu Hồng là danh kỹ Tây An mà tôi gọi là cô cô. Cô cô giúp tôi tích lũy tài liệu phong phú hơn cho việc viết sách sau này. Năm 1957, tôi từ biệt Tây Bắc, theo người chồng đã về hưu trở lại quê hương làng Mộc Điếm, huyện Thúc Lộc (nay là thành phố Tân Tập) tỉnh Hà Bắc. Thoái ẩn điền viên, vốn muốn luyện võ viết sách, thay đổi nhanh chóng cuộc đời, tôi đến vùng đất công nghiệp Hải Hà, rèn luyện trong lao động gian khổ. Tôi dần mất đi hương thơm và dịu dàng của nữ tính, tay chân tôi trở nên thô kệch. Hàng ngày tôi cùng các dân công vật lộn trong con kênh mới đào, tôi có thể vật ngã hàng mấy thanh niên hai mươi mấy tuổi khỏe mạnh. Ngày tháng sau này là thời kỳ khốn khó: lũ lụt dìm huyện Thúc Lộc, thiên tai vừa qua, lại gặp phải cách mạng văn hóa. Tôi và Sấu Bằng cùng chịu đả kích trở thành phản cách mạng, bị nhốt vào chuồng bò. Hơn một trăm ảnh của chị em mà tôi trân quí cất giấu gần như toàn bộ bị Hồng Vệ binh lục xét tịch thu, coi là văn hóa phẩm độc hại, thảy vào lửa đốt. Sấu Bằng bị đàn áp đến nhảy giếng tự tử. Tôi cũng ba lần cải giá, từ Mộc Điếm đến Hình Gia Trang đến Quách Tây. Tôi chịu khổ tận cùng bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, tôi kiên quyết ly hôn, may là cán bộ của Quách Tây cho tôi con đường sống, cho tôi làm cấp dưỡng của đội sản xuất, chuồng bò trở thành nhà chính thức của tôi... Mãi đến sau đại hội toàn Tam Trung, tôi mới được giải phóng lần thứ hai. Ngày giờ vừa thong thả, giấc mộng cao xa mà tôi chôn vùi bao năm nay dần dà sống lại trong lòng tôi. Đúng lúc này, tôi nghe người ta đồn rạp phim Tân Tập đang chiếu bộ phim “Vọng hương”, tả lại cuộc sống của kỹ nữ, thế là tôi xin nghỉ phép một ngày vào thành phố xem phim. Quyết tâm viết sách lại sôi sục như núi lửa phun trào, tôi nghĩ rằng chuyện của tôi và các chị em so với “Vọng hương” của Nhật Bản phong phú hơn nhiều lắm, màu sắc hơn nhiều lắm. Người ta có thể quay thành phim, tôi không thể viết một quyển sách sao? Sau khi về làng, tôi lập tức đến quầy hàng mua giấy bút. Nửa đêm ở trong chuồng bò, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét và đám bò ngựa hiền hòa, tôi âm thầm viết lại cuộc đời mình: Tôi không biết viết tiểu thuyết, chuyện xưa theo máu và nước mắt của tôi và các chị em mà chảy ra, khóc khóc viết viết, viết viết khóc khóc. Mặc dù viết đầy chữ sai tôi cũng viết xong mấy quyển lớn. Tôi nhảy lên xe đạp, đạp cả hai mươi lăm cây số, giao bản thảo cho Phòng Văn hóa huyện. Sau đó tôi biết bản thảo ấy như muối liệng vào biển. Tôi lại lần nữa chết cả lòng... Tháng 5 năm 1985, Liên hiệp Văn hóa thành phố được thành lập (năm 1986 Tân Tập được nâng thành thành phố cấp huyện). Đảng và Chính phủ giúp tôi cầm lại bút. Cấp trên cử người giúp tôi chỉnh bản thảo thành tiểu thuyết. Sự tích tôi “viết sách” từng vang dội một thời và việc người khác chỉnh lý bản thảo giúp tôi biên tập thành tiểu thuyết cũng gây xôn xao mấy năm. Nhưng khi đó tôi không xác định được rốt cuộc ai có thể đem cuộc đời truyền kỳ của tôi viết thành một bộ toàn tập có phong cách thống nhất, chân thực, cảm động lòng người. Mãi đến năm 1995, tôi mới biết hai bộ “Thanh lâu hận” và “Thanh lâu hận tục tập” có ảnh hưởng tương đối lớn. Vương Diên Niên là tác giả chấp bút cho tôi hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Tuy ông đã chuyển sang viết trường thiên tiểu thuyết khác nhưng tôi nghĩ mình không thể mất đi người này. Tôi kiên trì trong một tháng viết cho ông ba bức thư. Tôi muốn ông tiếp tục viết toàn tập cho tôi. Đáng tiếc, tôi khổ nhọc viết mười năm, gần hai trăm quyển viết tay của tôi thất lạc trong dân gian tìm lại không được. Mùa đông năm 1996, tôi u uất thành bệnh. Tôi dự cảm mình sắp làm “láng giềng” của Diêm vương rồi. Tối rất sợ một khi tôi xuôi tay nhắm mắt thì chuyện kể đầy lòng của tôi sẽ chui vào quan tài. Thời gian không cho phép chậm trễ, tôi lập tức nhờ chồng sau của tôi là Dã Hoài Khởi gửi thư cho Vương Diên Niên mời ông đến giường bệnh của tôi. Tôi đem một phần hình ảnh tư liệu quý giá cất giấu bấy lâu giao hết cho ông, ủy thác ông viết toàn tập cho tôi, tuy bản thảo viết tay thất lạc khó tìm lại được nhưng chuyện kể chân thật nhất nằm trong tim tôi. Đối diện với Vương Diên Niên cũng bằng như đối mặt với hàng ngàn hàng vạn độc giả trên xã hội, tôi muốn tố cáo với mọi người, muốn đem cả cuộc đời mình dùng chân tình, dùng nước mắt kể ra, khóc ra, ngâm ra, hát ra... Mở đầu của câu chuyện chính là năm đại tai nạn mà tôi ra đời. 1 Năm 1931, huyện An Nhạc, tỉnh Tứ Xuyên lại hạn hán mất mùa. Đời sống của nông dân quá khó khăn, cha mẹ tôi phải rời quê nhà ở làng Hoàng Giác đi bộ đến Thành Đô, sống nhờ vào ông nội và bác tôi. Khi đó tôi còn nằm trong bụng mẹ. Ông nội và bác tôi bán đậu hủ ở Hậu Tể Môn, mua gánh bán bưng nên nuôi không nổi một nhà ba miệng ăn chúng tôi (sắp thành bốn miệng). Cha mẹ tôi lưu lạc đến kênh Đại Dương. Kênh Đại Dương là khu dân nghèo nổi tiếng ở Thành Đô, một con kênh nước đen hôi thối dài 1,5 cây số. Trên mặt nước đen lềnh bềnh rêu xanh. Suốt ba mùa xuân, hạ, thu ruồi muỗi ken dày. Có ba cây cầu ván bắc qua kênh. Hai bên bờ là những dãy nhà được dựng lên bằng cỏ sơ sài. Bảo trưởng Phan Điền Hải chuyên cho người nghèo chạy nạn thuê phòng, cũng chính mùa đông năm này mẹ sinh ra tôi trong một gian nhà cỏ. Vừa đến thế giới hắc ám, ác ôn, hôi thối này tôi liền nếm đủ mùi bần cùng đói rét khủng khiếp. Tôi chưa từng biết đường có vị ngọt, thịt là thơm. Mẹ tôi giặt quần áo cho Phan bảo trưởng, cha tôi thì kéo xe cho nhà Trần dinh trưởng. Cha mẹ làm việc quần quật nhưng chúng tôi vẫn thường chịu đói rách. Tôi nhớ lại, hưởng thụ lớn nhất là tết mỗi năm mẹ tôi bẻ mấy cây mía lau từ vùng ven về cho chúng tôi nhai nhóp nhép. Những ngày đông giá là những ngày tháng hành hạ chúng tôi khổ sở nhất, gió bấc lùa qua khe ùa vào nhà tranh, cả nhà bốn người đắp chung chiếc mền bông rách vá chằng vá đụp. Tôi lớn được năm sáu tuổi vẫn phải ở trần không có áo mặc. Ban ngày để lưng trần đen thui, cầm cái kẹp sắt nhỏ đi theo anh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để bới rác, lượm thức ăn giống như hai con chó hoang nhỏ. Cuộc sống khốn khổ đã thế mà cha tôi lại lao vào hút thuốc phiện, tiền kéo xe kiếm được càng lúc càng ít đem về nhà. Về sau hiếm hoi ông mới về nhà, nếu có về thì cũng say bét nhè, vừa đặt chân vào cửa đã nổi cơn ghiền, bắt buộc mẹ đưa tiền. Mẹ khóc lóc chống đối thì bị cha đánh đập, cuối cùng ông cũng giật nốt chút xíu tiền trong nhà rồi bỏ đi. Trước nay tôi không nhớ cha quan tâm tôi như thế nào. Những năm tháng đó, chết chóc là chuyện bình thường, cái chết như hình bóng bám sát con người, đặc biệt là người nghèo. Lũ quỷ Nhật xâm chiếm hơn phân nửa Trung Quốc, móng vuốt ma quỷ của chúng tuy chưa thò đến Thành Đô nhưng máy bay của giặc Nhật thường quần đảo trên không, ném bom xuống Thành Đô. Tôi nhớ có một chiều thu, tôi theo anh đi đường Nam Phủ lượm rau vụn. Cảnh báo vang lên, đông đảo người đi đường nhốn nháo cuống cuồng như chim sợ ná. Chớp mắt, máy bay địch quần đảo giống như bầy diều hâu hung hăng thả bom xuống liên hồi. Tiếng nổ ầm đùng vang không ngớt, khói bụi mịt mù, đất đai rung chuyển, tường ngã nhà sập. Tôi và anh kinh sợ chui vào trong một cái hầm chờ chết, cảm thấy lục phủ ngũ tạng sắp bị xé toang ra. Sau oanh tạc, không gian yên tĩnh khoảnh khắc rồi khắp đường phố vang rân tiếng khóc la. Tôi và anh từ trong hầm bò lên, đường Nam Phủ đã hoàn toàn biến dạng. Trong hố bom chằng chịt là ngổn ngang thi thể không toàn vẹn, đầy máu, trên cây cháy nám treo lòng thòng ruột người, trên tường đổ nát dính máu thịt óc của người, thật thê thảm! Không lâu, chính phủ Quốc Dân phái người tới, hai chiếc xe hơi xuyên qua đám cảnh sát da vàng chạy đến hiện trường. Họ đào từ một hầm phòng không đã bị sập bịt kín, lôi ra từng xác chết ngộp, lột tiền bạc, đồng hồ, dây chuyền... những vật đáng tiền trên thi thể cho vào một bao tải ném lên xe rồi chạy mất. Giữa ranh giới của sự sống và cái chết đó, tôi lây lất đến bảy tuổi. Con gái phải có áo che chỗ xấu hổ. Một tối, mẹ tôi gương mặt tiều tụy ôm tôi vào lòng, vuốt lưng trần của tôi, nói: — Tiểu Muội, con ráng lượm ve chai nhiều nghe, bán có tiền mẹ mua cho con một cái áo đầm bông. Tôi mừng nhảy tưng tưng như gặp chuyện vui nhất trong đời. Tôi muốn có áo đầm bông mới để mặc, thế là tôi cố sức lượm ve chai, tôi thức dậy sớm hơn cả anh mình. Chạng vạng hôm đó tôi vác một bao tải hí hửng đi về nhà. Đến kênh nước thối, xa xa nhìn thấy cửa nhà đông người chen chúc, tôi đoán trong nhà đã xảy ra chuyện lớn vội xoải bàn chân đen thui loạng choạng chạy vào nhà cỏ. Mẹ nằm trên giường, gương mặt trắng nhợt, mắt nhắm nghiền, miệng rên nho nhỏ, thân dưới của bà máu tuôn dầm dề. Anh đang ở bên cạnh mẹ khóc nức nở. Hàng xóm tốt bụng đứng chung quanh chắt lưỡi hít hà. Tôi ngơ ngác không biết đã xảy ra chuyện gì. Thì ra cha tôi lại về nhà, cha và mẹ gây một trận um sùm rồi cha gom đi hết hai đồng cuối cùng của mẹ. Mẹ không trả được tiền nhà tháng này cho Phan bảo trưởng. Phan bảo trưởng mang đôi giầy bốt màu đen, đội nón sa đen, giắt bên mình cây côn màu đen, đến nhà đòi nợ. Mẹ tôi nhỏ nhẹ xin khất. Phan bảo trưởng nổi lòng tà dâm, thô bỉ trêu chọc, mó máy tay chân nhưng mẹ tôi hết sức phản kháng. Phan bảo trưởng thẹn quá hóa giận giơ chân mang đôi giầy bốt đá vào bụng hơi nhô lên của mẹ khiến mẹ ngất xỉu tại chỗ, hạ bộ chảy đầy máu. Nhìn thấy mẹ gặp thảm cảnh như vậy nhưng tôi không khóc cũng không bi thương vì tôi cho rằng mẹ sẽ mau chóng mở mắt ra gọi tên tôi, mẹ đã hứa mua áo đầm mới cho tôi mà! Lúc này người tôi hận nhất chính là cha, chính cha đã gây nên đại nạn như vậy cho cả nhà, không biết cha lại chui vào tiệm hút nào nữa rồi? Mẹ rên rỉ hấp hối đến nửa đêm thì chết thật! Trong chiếc quần tuôn đầy máu, còn đẻ non một bé gái mới thành hình, nó là em gái của tôi. Khi tôi biết mẹ thật sự bỏ chúng tôi đi rồi, tôi mới bật gào khóc, thạm chí phát điên! Hôm sau, ông nội, bác trai, bác gái tôi đều đến. Ông nội và bác muốn tìm Phan bảo trưởng nói lý lẽ, muốn thưa kiện tên ác ôn này. Hàng xóm vừa nghe có thưa kiện ai nấy len lén tản đi, ngay cả thím Lưu nhân chứng cũng không thấy bóng dáng. Bác gái khẽ giật chéo áo bác trai ngăn cản: — Ôi, có bầu trời không có mặt trời, cáo trạng, nha môn chỉ mở ra cho kẻ có tiền! Chỉ nội hai con chó lông vàng to như trâu của nhà họ Phan thôi, anh cũng đừng mơ bước được vào cửa, trước mắt lo chuyện chôn người kìa! Bác trai thở dài ai oán, ông nội trợn mắt nhìn trời, miệng run run phún máu tươi. Ông nội kéo tôi và anh dập đầu với những chòm xóm nghèo xin giúp đỡ. Làng xóm giúp chúng tôi chôn mẹ trên một bãi tha ma phía tây bắc kênh nước thối. Gió thu hiu hắt thổi mấy tờ giấy tiền bị đốt bay lên trời. Tôi mơ hồ nhớ năm đó mẹ khoảng hai mươi tám tuổi, đôi má đầy đặn đôi mắt to vô cùng xinh đẹp. Tôi và anh từ đó thành cô nhi. Cùng lúc này chú họ từ quê hương chạy nạn cũng đến Thành Đô, vừa thấy tình cảnh trước mắt chú họ quyết định đến Trùng Khánh, đồng ý mang anh theo. Tôi bảy tuổi chỉ còn nước theo nội và bác. Bác gái mặt không vui, giật mạnh vạt áo bác trai một cái đề nghị cho tôi cùng đi Trùng Khánh, nhưng ông nội giữ tôi lại, ông đưa bàn tay thô ráp như cây táo già ôm tấm lưng trần của tôi, hai mắt đầy nước mắt, kiên quyết nói: — Cháu ngoan, cháu sẽ chẳng đi đâu, có gì ăn ông cháu ta cùng ăn. Anh ôm tôi khóc lóc đau khổ một hồi rồi thiểu não đi Trùng Khánh. Tôi theo ông nội, lần đầu giống một con người, mặc được bộ đồ vải thô mà ông mua cho tôi trong tiệm cầm đồ, chân cũng được mang đôi giày cỏ. Nhà ông nội lại thêm một miệng ăn, chân mày bác gái rõ ràng càng nhíu chặt. Bác gái là một phụ nữ thấp bé, chân nhỏ nhanh nhẹn, trên gương mặt nhỏ trắng trẻo suốt ngày giống như phủ lớp băng, trong đôi mắt to khá đẹp giống như có băng tuyết lấp lánh. Cứ nhìn sắc mặt và ánh mắt của bác gái là tôi liền luống cuống. Từ khi có tôi, ngày ngày cứ nửa đêm là đã nghe giọng nói lanh lảnh của bác gái dội vào cái ổ nhỏ của tôi: — Thức dậy! Thức dậy làm đậu hủ! Đông người ăn cơm như vậy ông trời không có rớt bánh, xuống đâu. Tôi đang mơ mơ màng màng vội dụi hai mắt, mặc đồ vào đi giúp ông nội, bác trai nấu đậu hủ. Bận rộn cho đến khi nấu đậu hủ thành hai sọt lớn, thừa lúc còn nóng ông nội và bác trai mỗi người gánh một gánh, trời còn tờ mờ phải đến được đại lộ Hậu Tể Môn, gõ thanh tre rao bán. Còn tôi ư, cũng bắt đầu đi lượm rau cải vụn, lượm ve chai. Con không mẹ muốn đáng thương cỡ nào thì có đáng thương cỡ đó, bác gái keo kiệt rất ghét tôi. Bà thường giấu đồ ăn chỉ cho tôi một ít nước rau, lại hay dùng ánh mắt sắc lạnh lườm nguýt tôi, riết róng: — Trong bụng mầy bộ có máy xay hả? Nhỏ mà không làm chỉ có nước ăn xin! Bác trai tốt bụng nhưng không dám hó hé với bác gái, có thể thương yêu tôi chỉ có ông nội. Tôi thường thấy đói, ông nội mò trong ngực áo lấy ra khi củ khoai lang, khi cái bánh nướng nóng mua trên chợ mang về lén lút giấm giúi vào tay tôi. Chưa bao lâu, một tai nạn lại rơi vào gia đình này cướp đi người thân duy nhất của tôi. Ông nội bị người ta đánh! Hai cảnh sát của Hậu Tể Môn lấy mấy miếng đậu hủ của ông nội mà không trả tiền. Chúng dùng báng súng đập ông một trận tàn nhẫn. Ông nội hơn bảy mươi tuổi được người ta cõng về nhà, nằm sóng soài trên giường. Ông vừa tức vừa giận thổ ra máu tươi, không mấy chốc ông nhắm mắt từ bỏ thế giới bất công này. Không có ông nội việc mua bán đậu hủ càng sa sút, bệ rạc. Bác gái đối với tôi càng thêm vô tình. Chúng tôi chịu đựng qua mùa đông khắc nghiệt. Đến năm sau, mùa xuân ấm áp hoa nở có người tìm được công việc lao công trong phi trường cho bác trai, bác gái, thế là tôi đi theo bác trai, bác gái dời đến một nơi gọi là Sa Hà Phố. Nơi đó có một khoảng rừng trúc nhỏ, trong rừng trúc có mấy căn nhà tranh. Đến hoàn cảnh mới, bác gái giỏi tính toán tuyệt đối không nuôi tôi ăn cơm suông, bảo bác trai làm một cái chuồng thỏ đặt chỗ râm mát trong vườn, mang về hai mươi thỏ con, tiếp theo ném cho tôi một cái liềm nhỏ, sầm mặt ra lệnh: — Cắt cỏ đi, hai mươi con thỏ này giao mầy nuôi. Thỏ no thì mầy no, đừng có làm biếng! Thân thể gầy gò của tôi vác cái sọt tre to đùng đi ra vùng ven trong ngày xuân. Trước kia, cắt rau dại chỉ cần dùng cái dao nhỏ, cắt cỏ phải dùng liềm. Đây là lần đầu tôi sử dụng liềm. Tôi cắt xuống dưới, cái liềm cắm vào trong đất giật lên trên, lưỡi liềm lướt trên rễ ngọn cỏ mà không cắm xuống dưới nên cứa vào ngón tay tôi, máu tươi chảy tuôn ra. Tôi đau quá gọi: — Mẹ ơi! Tôi xé một miếng vạt áo quấn ngón tay. Ngón tay bị thương làm việc không tiện, đến trưa về nhà chỉ cắt được một lớp cỏ. Bác gái thấy thế, miệng ngoác ra cười mỉa mai, oang oang nói: — Ồ, giỏi quá nhỉ! cắt thật không ít, đủ nuôi cào cào rồi. Ra công không chịu ra sức, mầy nói bữa cơm này mầy ăn thế nào đây? Tôi nín thinh gục đầu ôm ngón tay bị đứt, nước mắt rơi lộp độp. Bác trai ra mặt giải vây cho tôi: — Được rồi, được rồi, nó mới tám tuổi, lại chưa làm qua chuyện này, vào nhà ăn cơm, chiều cắt thêm. Vì để không bị mắng, vì để được ăn cơm no, tôi gắng sức tìm kiếm khắp nơi để cắt cỏ, cỏ cắt càng lúc càng nhiều nhưng tôi vẫn thường bị đói. Bác gái bủn xỉn luôn luôn tiếc không cho nhiều cơm. Tôi ăn cơm bằng một chén gỗ nhỏ, không chờ tôi ăn xong một chén bác gái đã giật lấy bới thêm cơm, cơm còn lại trong nồi thì vét hết cho bác trai, khi tôi muốn ăn thêm trong nồi chỉ còn một lớp nước cơm. Từ từ tôi tìm được một cách, lần đầu tôi chỉ bới nửa chén, ăn nhanh cho xong rồi mới bới đầy chén, chỉ có ăn cơm no mới có đủ sức cắt cỏ nhiều. Sáng hôm nay, tôi cắt được đầy một sọt cỏ non xanh mướt, lưng đẫm mồ hôi vác nó về nhà. Nhưng chờ đón tôi là hai cánh cửa tre đan mắt cáo đã đóng chặt, được khóa bằng ống khóa lớn. Lúc này tôi mới hay trời đã quá trưa, bác gái chắc đi đưa quần áo cho phi trường rồi. Không có chìa khóa tôi không vào nhà được, bụng đói cồn cào, thế là tôi quyết định nhấc cánh cửa lên. Tôi đặt sọt xuống, nhấc trục cánh cửa lên, quả nhiên mở được một cánh. Tôi vào nhà, trước tiên chạy đến chuồng thỏ, hai mươi con thỏ như nước lũ tràn ra giành ăn cỏ xanh tôi đổ xuống. Tôi không màng rửa tay chạy ngay vào nhà bếp giở nắp nồi lên. Tôi chưng hửng, trong nồi trông trơn không còn một hột cơm. Tôi bất giác tức uất đến ngực đập thình thịch, bác gái nhẫn tâm không chừa cho tôi một chút cơm. Sục sạo khắp nơi cũng không tìm được chút thức ăn, cuối cùng tôi lôi ra được một cái khạp nhỏ cạnh bàn, bên trong còn phân nửa gạo trắng. Người đói khát cái gì cũng ăn được, tôi bốc gạo sống trong khạp nhét vào miệng giống như súc vật nhai nhóp nhép. Chạng vạng bác gái phát hiện trong khạp mất gạo, bà dằn mạnh nắp khạp, rít giọng: — Ồ... hay quá nhỉ... Gạo trong khạp đãi chuột rồi, một con chuột to! Bác trai nghe vậy hỏi thẳng tôi: — Cháu à, là cháu làm à? Tôi cũng tình thực kể buổi trưa tôi không có cơm ăn. Lần này chọc giận bác gái, đôi chân nhỏ của bác từ trong ngạch cửa nhảy phóc một cái xông tới mặt tôi xỉa xói: — Mầy là đứa mất dạy chết mẹ. Mầy dám nói dóc nói láo, nói tao không cho mầy ăn cơm, mầy ói đồ ăn ra đây xem, mầy ói ra đây cho mau! Bác gái gầm lên, ánh mắt lạnh băng, thuận tay chụp cây sào bên cửa đuổi đánh tôi, vừa đánh vừa rít: — Mầy ăn không ăn ói ra cho tao coi... Bác trai chạy qua giật lấy “hung khí” của bác gái, hét vào bộ mặt giận dữ của bác gái: — Bà không được đánh nó. Nó là đứa con mất mẹ. Bác gái lại nghiến răng ken két nói: — Không mẹ nhưng nó có cha, bảo nó đi tìm cha nó đi! Bác trai xuống giọng: — Thôi dừng gây nữa, không sợ người ngoài cười sao? Bác gái càng rống lên tru tréo: — Cười hả? Đứa nào cười đứa đó là con hà mã. Hỏi trời này, hỏi đất này, hỏi lương tâm của nó, hồi mẹ nó còn nó có được mặc áo không? Nó có được một ngày ăn ba bữa cơm không? ông thử thịt trên người nó là mập hay ốm? Được, tôi không thèm quản nữa, máu thịt họ Khang ông thì ông thương đi tôi không quản nữa. Bác gái quay ngoắt người phe phẩy đi ra trước cửa nhà ngồi phịch trên ngạch cửa, bù lu bù loa kể lể. Bảc trai vừa gấp vừa giận vừa bó tay đi loanh quanh hai vòng, cố gắng dằn cơn giận, lựa lời khuyên giải bác gái. Tôi âm thầm chảy nước mắt, căm hận người cha hút thuốc phiện của tôi. Vì để nuôi được bản thân, tôi chỉ đành nhẫn nhịn đi cắt cỏ nuôi thỏ. Có một ngày vì đói quá tôi cắt cỏ không nhiều về đến nhà ánh mắt lạnh băng của bác gái chiếu vào sọt tre của tôi mấy lượt, hừ một tiếng, cố ý không nói, liếc bác trai ra dấu xử lý tôi. Bác trai đang ngồi hút thuốc trước cửa sổ quả nhiên lên tiếng: — Cháu à, sao cắt ít cỏ vậy, ham chơi phải không? Tôi không dám nói đói, mím miệng cúi gục đầu. Bác gái trái lại giả làm người tốt: — Bỏ đi, ngày mai cắt nhiều một chút, chắc đã đói rồi mau ăn cơm thôi. Cháu nè, bưng cơm trên lò ra bàn đi. Tôi vừa nghe bác gái nói, nhất thời có vẻ được thương yêu mà hết hồn vội chạy thẳng vào lò mà bưng cơm. Cơm trong nồi đất chỉ là cơm cháy mà bác gái đem từ nhà ăn phi trường về, thêm nước nấu thành một nồi lớn. Tôi dùng sức bưng mép nồi đi ra ngoài bàn, chợt phát giác nồi cháo quá nóng giống như bưng phải sắt nung đỏ, tôi mau chân bước, cháo trong nồi sóng sánh trào ra hai lưng bàn tay đau như bị đốt, tôi giật mình “Cảng” nồi cháo rớt xuống đất bể tan tành thành đông vụn. Lần này bác gái nhảy nhổm lên: — Coi kìa, coi kìa, mầy làm chút việc cũng hư hỏng! Tụi tao hôm nay ngán đến tận cổ rồi. Bác trai lần đầu nổi giận, mặt hầm hầm xông vào tôi quát: — Làm gì vậy hả? Mầy thật không nên thân! Bác gái ở bên cạnh “đổ thêm dầu vào lửa” nói: — Hôm nay rớt nồi, ngày mai đập nồi. Tao có được cơm này dễ lắm hả? Tao phải dày mặt gọi người ta bằng ông bằng bà mới xin về đó... — Hốt lên cho tao! – Bác trai đá hai đá mạnh vào mông của tôi. Tôi ngã sấp xuống đất: — Hức, hức... – Tôi khóc hai tiếng vội bụm miệng khóc nghẹn, hốt hồ cháo trên đất lên. Trong đêm ngủ trên nệm cỏ, lưng bàn tay bị phỏng của tôi đau thấu tim. Tôi lặng lẽ quẹt nước mắt không biết phải làm sao mới bớt đau, rất muốn dùng nước lạnh ngâm qua, nhớ đến lu nước trong vườn, không nhịn được tôi ở trần chạy ra ngoài sân, vội nhúng hai tay vào trong nước lạnh. Hây da! Quả nhiên dễ chịu rất nhiều. Đúng lúc đó tôi nghe trong nhà bác trai bác gái nói chuyện. — Tôi thấy bà cố tình muốn đuổi cháu gái đi. – Bác trai nói. — Tôi đương nhiên không muốn cho nó ở lại ở đây. – Bác gái nói. — Nó cũng không phải để chúng ta nuôi suông. — Chuyện nuôi nó hay không nuôi không quan trọng, đừng quên nó còn có một thằng cha không đàng hoàng, chỉ cần con gái ở lại ở đây, cha nó sớm muộn sẽ tìm tới, hôm nay mượn tiền ngày mai xin gạo, ông là anh ruột cha nó, mượn rồi không trả, ông một chiêu cũng không có, tới nước này ông có nghĩ qua chưa? Bác trai im thin thít. Lòng tôi đau như dao cắt. Thì ra bác gái trị tôi chính vì người cha ghiền thuốc phiện của tôi. Tôi vô cùng buồn bã ôm lu nước ngồi bệt xuống đất, tha thiết nhớ đến mẹ đã khuất và ông nội hiền lương, cũng vô cùng nhớ thương người anh An Oa Tử ở Trùng Khánh xa xôi. Nếu họ đều ở đây tôi làm sao phải chịu tội như vầy. Tại sao số mạng của tôi còn không bằng nhạn trên trời thỏ dưới đất? Nghĩ ngợi mãi không nhịn được tôi khóc rưng rức. Bác gái trong nhà bị kinh động hầm hầm hét ra ngoài cửa sổ: — Ai? Con ranh khóc gì mà khóc, chê nhà này không tốt đi tìm cha mầy đi. Bác gái khoác áo lạnh giống như diều hâu già bắt gà con xách cổ tôi lên, xòe tay dùng hết sức tát một cái vào mặt tôi. Tôi bò trên cỏ. Hai tay bác gái dùng hết sức ngắt nhéo tôi. Tôi đau quá lăn lộn kêu la. Bà ngắt nhéo càng dữ, còn xổ tóc tôi ra. Bác trai không ra cứu tôi, có lẽ ông cũng không muốn giữ tôi lại. Nhưng tôi còn có thể đi đâu được chứ? Tôi hận mình sao không thác sinh làm một con chim hay một con thỏ hoang. Tôi đau đớn cả đêm, lén khóc cả đêm. Sáng hôm sau vừa thức dậy nhìn hai bàn tay tôi sợ giật nẩy người, khắp lưng bàn tay nổi đầy mụn nước to, nhưng tôi vẫn phải ra ngoài thành cắt cỏ. Ngày tháng khổ nạn từng ngày từng ngày trôi qua. Mùa xuân năm đó, thỏ tôi nuôi đã bán được mấy lứa rồi, bác gái lại mua về hai mươi thỏ con. Có lẽ vì tôi có góp công với gia đình này nên bác gái đối với tôi dường như có tốt hơn một chút. Tôi thật sự hy vọng cha tôi vĩnh viễn đừng tìm đến nơi này. Trưa hôm nay tôi cắt đầy một sọt cỏ vác về nhà, phát hiện cánh cửa tre lại đóng chặt. Tôi dùng cách cũ cõng cánh cửa lên nhưng cảm thấy xây xẩm, người phát lạnh run, tôi nghĩ chắc là do đói, liền cho thỏ ăn cỏ rồi loạng choạng đi vào nhà bếp. Giở nắp nồi, trong nồi cũng trống trơn như cũ, tôi sững sờ giây lát liền tìm khạp gạo, trong khạp sạch bong không sót một hạt gạo, nhất định là bác gái đã giấu gạo nơi khác. Tôi chín tuổi đã biết động não, nhìn thấy trên vách treo cái vợt trúc nẩy ra ý đến bờ sông vớt ít cá tép con để ăn. Tôi liền lên tinh thần, vác vợt chạy ra ngoại thành. Không lâu tôi đem về một rổ lớn cá tép con, những sinh vật bé nhỏ trắng muốt lóng lánh này cho vào nồi nấu, chốc lát đã chín, mùi thơm nức mũi tỏa khắp nhà. Múc một chén to ăn, ôi chao! Ngon chẳng thua gì “hải sản”. Ăn xong, cái bụng nhỏ của tôi no tròn, nghĩ thức ăn ngon vầy sao không vớt nhiều một chút đem về, không biết tối nay có cơm ăn hay không? Tôi lùa thỏ vào chuồng, chặn tảng đá rồi chạy ra ngoài. Con sông nhỏ nước trong veo ánh bóng hoa vàng cỏ xanh, một đôi bướm hoa bay rập rờn trên dám cỏ nước. Tôi biết chỗ có nhiều cỏ thì tôm tép càng nhiều, thế là tôi xắn ông quần nhảy vào trong đám cỏ chỗ nước sâu. “Ui da!” ngón chân trái đụng vào đầu một cục đá, đau nhói, dưới nước sâu phụt lên một luồng máu tươi. Tôi kêu liên tu: “Mẹ ơi, mẹ ơi!”, nhấc bàn chân trái lên, ôi thôi cả móng chân cái bị lật lên, máu đỏ nhỏ đầy trên cỏ. Tôi khóc hu hu leo lên bờ, lôi giày cỏ bụm chân gian nan cà nhắc về nhà, khó khăn mới đến được cửa nhà. Bác gái đang đứng ngắm mấy con thỏ thấy bộ dạng nhếch nhác của tôi thoáng ngơ ngác rồi đảo tròn con ngươi lạnh băng mấy cái, hỏi: — Mầy không đi cắt cỏ hả? – Bà nhảy dựng, giậm bàn chân nhỏ gầm lên như sấm – Giỏi cho tiểu tạp chủng, mầy vớt rùa để chơi, tao thấy mầy càng lúc càng mất dạy, đi cắt cỏ đi! Tôi khóc nói tôi đau chân, bác gái hoàn toàn không để ý đến chuyện này, nhấc giỏ trúc thảy vào tôi quát: — Mầy tự làm tự chịu, tróc chút móng chân thì bắt chước muốn đình công hả? Đi ngay! Cắt cỏ cho tao, cắt không đầy sọt đừng về ăn cơm. Tôi cắn chặt răng vác sọt trúc cà nhắc trở lại bên bờ sông. Đôi bướm hoa bay mất rồi, có lẽ về nhà tìm mẹ của chúng. Trên bãi cỏ ven sông có con bò mẹ đang đưa lưỡi âu yếm liếm láp con bê đang ngủ bên cạnh nó. Tôi không bằng bướm, càng không bằng bò con. Tôi ráng nhịn đau gian nan cắt cỏ, nhớ mẹ, nhớ anh, nhớ ông nội. Từng giọt nước mắt nóng hổi rớt xuống bùn, toàn thân phát lạnh, hơi thở càng lúc càng gấp, tôi ngồi xổm cắt cỏ không nổi liền quỳ xuống đất cắt. Bất chợt tôi cảm thấy trời đất xoay mòng mòng, người lật nghiêng lăn tõm xuống nước không còn đủ sức để bò lên. Có chú chăn trâu vội chạy đến kéo tôi lên bờ, hết hồn kêu: — Cháu bệnh rồi, đầu nóng lắm, bệnh thế này còn ra ngoài đi làm, cha mẹ cháu thật là... mau về nhà đi! Tôi không biết mình làm cách nào về đến nhà, cũng không biết làm cách nào cõng được cánh cổng đã khóa lên, trong lòng chì thấy căm hận mãnh liệt. Tôi đến trước lò giở cái nồi trông trơn lên, giận dữ nói: — Không cho tôi ăn cơm thì ai cũng đừng hòng ăn! Tôi nhặt cục gạch chặn cửa lên, đập vào đáy nồi một tiếng “tung”, đáy nồi lủng một lỗ to. Lần đầu tiên tôi phản kháng, có bắt đầu rồi thì tiếp theo cái gì cũng không sợ, cái gì cũng mặc kệ, tôi chạy đến bên chuồng thỏ đẩy cửa đá ra, hai mươi con thỏ con giương con ngươi đỏ tươi chen chúc qua, tôi hầm hầm mắng chúng: — Đều do bọn thỏ ngu tụi bây hại tao, mẹ nó! Tôi nắm một con hầm hầm ném mạnh ra sân, chết rồi, lại nắm một con khác ném chết, toàn bộ hai mươi con thỏ nhỏ đã bị tôi ném chết hết. Tôi hả cơn căm hận, trong lòng thoải mái, ngửa mặt cười ha ha, cười, cười mãi, trước mắt bỗng tối sầm, tôi hết biết gì nữa. Khi tôi tỉnh lại thì đã là trưa ngày hôm sau. Mặt trời ấm áp chiếu vào căn nhà nhỏ. Miệng tôi khô khốc muốn tìm nước uống. Lúc này tôi mới phát giác tay chân mình đã bị dây thừng trói chặt. Tôi nhớ lại cuộc báo thù sảng khoái hôm qua liền an tâm thoải mái nhắm mắt chờ đợi, giết hay phạt tôi đều nhận hết. Không lâu có người đến cạnh tôi, cởi trói cho tôi, sờ trán tôi. Tôi cố ý nhắm nghiền mắt. — Cháu à! – Tiếng của bác trai hiền hậu. Tôi mở mắt ra, bác trai đưa một chén nước gừng ấm pha đường, giọng bác ấm áp: — Cháu quá yếu rồi lại trúng gió, uống chén nước đường này để để mồ hôi. Tôi mở to hai mắt nhìn thẳng vào sắc mặt bình tĩnh của bác trai. Sao vậy, kẻ gây ra họa còn được uống nước gừng pha đường? Bác trai đưa chén nước gừng pha đường sát miệng, tôi bất kể ba lần bảy hai mươi mốt, bưng chén nước uống ừng ực. Lập tức tôi cảm thấy toàn thân dễ chịu, lỗ chân lông rịn ra mồ hôi. Bác trai chờ tôi uống xong mới bình thản nói với tôi: — Nếu cháu đi được thì ra gặp cha, cha cháu đến kìa. — Cha?! – Tôi nghe như sét đánh, toàn thân run rẩy, mất hồn nhìn bác trai. — Cha cháu đến kìa, đang nói chuyện trong nhà. – Bác trai lặp lại. Tôi biết bác trai không gạt tôi. Tôi nghiêng tai lắng nghe, quả nhiên có giọng của cha. — Cha! Tôi kêu lên lồm cồm bò ra khỏi đống cỏ khô, không kịp mang giày chỉ một bước nhảy khỏi căn buồng nhỏ dưới mái hiên nhà lao vào trong nhà, nhưng vừa đến cửa thì tôi sựng lại. Tôi sợ gặp bác gái càng không muốn gặp người cha bệ rạc. Một thứ tình cảm cực kỳ phức tạp cuộn lên trong lòng tôi, cha thấy tôi gọi: — Tiểu Muội! Tôi thấy bộ dạng nghiện ngập còn da bọc xương như chó sói hoang của cha, vội quay đầu vụt chạy ra khỏi nhà, chạy về căn buồng dưới mái hiên của mình. Bác gái sợ cha đến, tôi cũng sợ cha đến, nhưng cha đã đến rồi! Sau đó, bác trai mới nói tôi biết cha cũng hết đường để đi mới tìm đến nơi này. Thì ra bà lớn và bà hai của nhà Trần dinh trưởng tranh chấp nên mâu thuẫn nhau, cả hai giành cha làm phu kéo xe cho họ. Bà lớn nói cần dùng xe đưa con bà đi học không thể trễ. Bà hai nói gấp dùng xe đi dự vũ hội. Rốt cuộc cha tham hút mấy gói thuốc của bà lớn nên đưa con bà lớn đi học. Bà hai ghi hận trong lòng lệnh cho người giữ cửa ra tay đánh cha, dùng cây chặn cửa đập gãy chân phải của cha. Cha chỉ có thể đến ở nhà bác trai vừa trị thương vừa ăn cơm. Còn tôi, vết thương lòng tôi đã kết chặt với cha không thể cởi bỏ, hơn nữa tôi luôn có một linh cảm đại họa sẽ giáng xuống đầu. Nhưng lạ lùng là từ khi cha đến ở, bác gái hung hãn tốt hơn trước nhiều, không còn cau có cáu gắt, mắt cũng có ánh mùa xuân. Tôi cũng không còn chịu cực cắt cỏ lại được ăn no chút ít. Tôi ngây thơ nghĩ, có lẽ nhờ cha tôi tới, có người bảo vệ tôi, cũng có lẽ tôi quậy tưng một trận khiến bác gái đã sợ tôi. Tôi ung dung sống qua nửa tháng, cha đã có thể xuống giường bước đi. Một hôm bác gái tươi roi rói kéo tôi đến bên giường của cha nói: — Chú là cha ruột của nó, chuyện con chúng ta chi bằng chính chú nói với nó. Cha giống con sói khô đét rũ rượi ngồi dậy, ngáp mấy cái, quẹt nước mũi, than thở với tôi: — Tiểu Muội, cha có lỗi với con, càng có lỗi với mẹ con. Con bây giờ không còn nhỏ nữa, nhà bác trai con lại không còn thỏ để nuôi, con xem thân thể cha như vầy, con không thể sống dựa vào nơi này, cho nên cha muốn đem con đến làm a hoàn cho một nhà giàu. Tôi nghe nhưng không hiểu cha muốn nói gì, cũng không biết làm a hoàn là làm gì, chớp chớp mắt nhìn cha đang quẹt nước mắt. Bác gái khều cha, mặt mày rạng rỡ kề trước mặt tôi nói a hoàn nhà giàu đó được ở lầu cao nhà rộng, mặc lụa là gấm vóc, ăn sơn hào hải vị, muỗng ăn cơm đều bằng vàng, bằng bạc. Tôi khờ khạo đâm ra mơ mộng, coi làm a hoàn như lên tiên cảnh. Sáng sớm hôm sau, bác gái sốt sắng bước nhẹ đôi chân nhỏ đến báo tin vui với tôi: — Cháu à, có người đến đón cháu kìa. Cháu cũng đừng ăn cơm để dành bụng đi ăn sơn hào hải vị. Tôi bước ra khỏi căn buồng dưới mái hiên trông thấy cha dẫn đến một người đàn ông chừng năm mươi tuổi mặt như lưỡi dao, đi lăng quăng như rắn nước, mặc áo vải dài cũ màu xanh, đeo cặp kiếng gọng đen. Cha chỉ chỏ tôi. Người đàn ông đó ngắm nghía tôi như xem một món hàng, đi quanh quanh tôi mấy vòng, sau đó bập bập điếu thuốc, gục gặc đầu với cha. Cha khom lưng vội đưa bộ mặt cười đồng tình, lại lom khom lượm điếu thuốc mà người đó ném bỏ lên, rồi ngoắt tôi, nói: — Con à, chúng ta đi theo bác Hàn này, đi thôi, Tôi ngạc nhiên nhìn khắp nơi, tại sao lúc này không thấy bác trai lộ mặt? Bác gái đẩy lưng nhỏ của tôi, cười hề hề nói: — Mau đi hưởng phúc đi, trong ổ gà của chúng ta bay ra phượng hoàng rồi. Tôi lơ ngơ lóng ngóng đi theo người cha khập khiễng của tôi, theo bác Hàn xa lạ đó đi về nơi mà tôi ảo tưởng là tiên cảnh – Lưu gia công quán. 2 Lưu gia công quán tọa lạc ở phía nam đường Nam Phủ. Vừa bước chân vào nơi này, tôi hoàn toàn choáng ngợp, cứ ngỡ mình lạc vào hoàng cung hay tiên cảnh. Phía trước công quán được xây tường sơn xanh, nền đá, nóc lợp ngói lưu ly vàng, cổng treo biển chữ do danh nhân viết, hai bên cổng lớn chữ phúc là hai con sư tử đá xanh uy mãnh. Vào cổng, ba mặt lầu đài, bốn phía trúc biếc, tiền viện có miếu vũ thờ tổ tiên, trà lầu tiếp khách, còn có phòng tài vụ, phòng bảo vệ. Qua khỏi cửa hình trăng tròn, trung viện là phòng ngủ, phòng đọc sách, phòng dưỡng sinh của lão thái gia Lưu Trấn Sinh, còn có phòng tắm, phòng trang điểm, phòng đánh mạc chược của các quý phu nhân. Hậu viện là phòng ốc kiểu hoa viên của đám thị nữ, a hoàn, tiểu thư, các mợ lớn mợ nhỏ. Tôi nhìn đâu cũng hoa mắt, liếc nhìn ai cũng đều chít lưỡi hít hà khen thầm. Trong phòng đãi khách ở tiền viện, Lưu Trấn Sinh ngồi trên chiếc ghế tựa lớn sang trọng, tuổi gần tám mươi, tóc bạc nhưng da hồng hào, râu trắng bay phất phơ. Mấy a hoàn ăn mặc tươi tắn, da mịn màng, đang vây quanh lão, hầu hạ lão ăn bát canh táo đỏ ngân nhĩ. Khi đó tôi không biết đó là canh gì, chỉ hiếu kỳ nhìn lom lom vào chiếc muỗng bạc trong tay lão và quả táo nhỏ đỏ tươi trong canh, tôi nghĩ chắc dó là muỗng bạc thật. Thình lình Lưu Trấn Sinh phun phì phì, đám phụ nữ trong phòng đều hoảng hồn. Một a hoàn áo đỏ vội cầm ống nhổ đưa lão. Một a hoàn áo xanh vội vỗ vỗ lưng lão. Người giữ cổng quắc mắt với tôi, xua tôi như đuổi ruồi: — Đi đi, đi ra chờ bên ngoài đại điện. – Tôi vội lui ra bên ngoài phòng khách trải thảm đỏ, lúc này mới nhận ra bộ mình dơ bẩn của tôi khiến chủ nhân phát ói. — Ăn mày à? Ăn mày à? Ai lại xua đuổi tôi nữa vậy? Tôi ngẩng đầu nhìn lên trên cửa. Trời ạ! Chim anh vũ trong lồng vàng của Lưu phủ cũng biết nói thay chủ nhân. Bầy chó đen giữ nhà bên trong hàng rào hung tợn sủa vang. Tôi thật hãi hùng sợ đám chó đó chạy ra cắn tôi. Tôi nghĩ, làm một con chim hoặc một con chó trong phủ này còn tôn quý hơn đám người nghèo khổ bên ngoài. Cho đến khi cha bị người ta đẩy ra tôi mới hoàn hồn, thấy cha hai mắt rươm rướm, nhét một tấm giấy có ấn dấu tay đỏ vào lòng, nhìn tôi một cái rồi hối hả đi theo bác Hàn. Người giữ cổng bước tới, rít hơi thuốc, nhướng đôi mày gian thần, lom lom nhìn tôi một cái rồi nói: — Theo tao! Tôi liền đi theo hắn về phía trạch viện sâu thẳm của đại viện công quán. Khi đó tôi chẳng chút buồn lo trái lại còn cảm thấy đến được phủ đệ như tiên cảnh này thật may mắn quá, vui mừng quá! Phía sau lưng, con chim anh vũ vẫn đang học tiếng người, gọi: “Hoa tử, a hoàn gánh nước...” Chúng tôi đi xuyên qua khung cửa hình trăng tròn, xuyên qua từng lớp hoa, trúc, đến trước một thái lầu. Có một tiểu a hoàn áo hồng đang dùng bình xịt tưới hoa. Hoại Tam gọi lớn: — Hồng Cảnh, người mới tới rồi, giao nó cho cô nè. Cô gái nhỏ tên Hồng Cảnh ghé sát đôi mắt to xinh đẹp nhìn tôi. Tôi liền thấy thích người chị này bất giác thân mật gọi một tiếng: — Chị Hồng Canh! Hồng Cảnh mỉm cười, trên gương mặt tròn như trái táo xuất hiện hai lúm đồng tiền, nhưng chị mau chóng nghiêm mặt, trịnh trọng nói với tôi: — Em đến đây là cùng chị hầu hạ đại thái thái và đại tiểu thư, phải cần mẫn nhanh nhẹn. Tôi mừng quá lập tức cam đoan: — Em sẽ cần mẫn nhanh nhẹn, việc gì em cũng có thể làm được. — Thật không? — Thật mà! Hồng Cảnh lại ngắm nghía tôi từ đầu đến chân một lượt, phì cười nói: — Tốt, phải huấn luyện em trước đã. – Nói dứt Hồng Cảnh xoay người đi vào lầu, chốc lát chị bưng ra một thứ giống như cái trống, chính giữa to hai đầu nhỏ, đậy kín bằng nắp gỗ đỏ đặt trước mặt tôi, nói – Trước tiên em đi đổ mã dũng đi. Đây là công việc đầu tiên a hoàn phải làm. Tôi nhìn vào “trống gỗ đỏ” hỏi: — Cái gì gọi là mã dũng vậy? Cả khu vườn vang tiếng cười giòn của Hồng Cảnh: — Trời ơi, em gái khờ quá, ngay cả mã dũng mà cũng không biết nữa. Đây là thứ đồ để trên lầu dùng tiêu tiểu, ha ha... Tôi lại một phen kinh ngạc, thứ đồ dùng tiêu tiểu của người giàu sao còn đẹp hơn cả chén ăn cơm của người nghèo, tôi lại hỏi Hồng Cảnh: — Đổ ở đâu? Đôi mắt to của Hồng Cảnh chớp chớp đầy vẻ thần bí nói: — Em nghe nè, trên đường có người đến thu phân, em đi đổ vào trong xe phân lớn trên đường đi. Tôi ngây thơ nghĩ đại khái phân của người giàu cũng đáng tiền chăng. Để chứng tỏ mình cần mẫn nhanh nhẹn tôi dùng sức bê thùng phân lên chạy về phía cái cổng lớn xa lắc kia. Sương sớm lãng đãng phủ trên nóc lầu, trên ngọn trúc. Trên nhành trúc có mấy con họa mi đang bay lượn hót ríu ra ríu rít. Dưới lầu đám phụ nữ đang đánh răng, nam nhân đang đánh quyền. Tôi vì bụng đói meo gượng gạo đi được đến cổng thì cảm thấy mắt tối sầm, vừa định bước qua ngạch cổng thì thân mình liêu xiêu té nhào xuống đất. Phân và nước tiểu đổ tràn ra cổng. Đúng lúc, Lưu Trấn Sinh khoác áo dài mới bằng gấm màu lam được mấy bảo vệ, a hoàn phò theo ra cổng. Lão ngửi thấy mùi thối dậy trời, thấy đầy đất là phân và nước tiểu. Bộ râu dê dựng ngược, lão nổi trận lôi đình cầm gậy đùng đùng xông vào tôi quát tháo: — Hay cho con ranh con này, vừa đến đã làm bại hoại môn uy của ta, người đâu! Hoại Tam canh cổng hộc tốc chạy tới đá tôi một đá văng tuốt vào trong sân. Ngay lúc đó có một thanh niên mặc đồng phục học sinh màu trắng, người này chính là Lưu Thanh Thủy cháu nội của Lưu Trấn Sinh. Lưu Thanh Thủy vừa mắng vừa dang tay tát tôi hai cái vào mặt, ra lệnh cho Hoại Tam: — Bảo nó liếm cho sạch, liếm không sạch cứ đánh cho chết. – Lưu Trấn Sinh nhìn đồng hồ liền bảo – Dạy dỗ nó tốt cho ta! Sau đó Lưu Trấn Sinh cùng đám tùy tùng từng người đưa tay bụm mũi theo cửa hông ra ngoài. Mặt tôi đau rát, bầy chó trong chuồng cũng sủa inh ỏi. Hoại Tam cầm roi da bò vụt lấy vụt để vào tôi. Tôi oan ức la lớn: — Khoan hãy đánh tôi, tôi tìm cha tôi, để cho tôi đi, tôi không làm nữa! Đôi mày gian thần của Hoại Tam dựng lên, mặt mũi gian ác cười hắc hắc: — Cha mầy đã bán mầy rồi. Hôm nay tao có đánh chết mầy thì mầy cũng là quỷ của Lưu gia. Tôi giật mình như bị sét đánh. Cái roi da lạnh lùng quất vào người tôi. Tôi đau đớn lăn lộn trên đất kêu la. Người vây quanh rất đông nhưng không ai đến cứu tôi. Tôi gọi mẹ, gọi anh, gọi trời xanh. Lúc này bỗng nghe tiếng một cô gái uy nghiêm hét: — Dừng tay! Roi ngừng, tôi từ dưới đất ngóc đầu lên thấy ở cổng bước vào một nữ sinh khoảng mười tám mười chín tuổi rất đẹp, khuôn mặt như đĩa bạc, đôi mắt như sao sáng, thắt hai bím tóc ngắn, mặc áo trắng váy xanh, đôi vớ tơ màu trắng, đôi hài da màu đậu xanh. Cô gái khí độ bất phàm này chính là Lưu Thanh Hàn, chị của Lưu Thanh Thủy. Lưu Thanh Hàn giống như nữ thần từ trên trời giáng hạ dội tắt lửa giận của Hoại Tam. Cô chỉ hỏi Hoại Tam dăm ba câu liền ngăn được chuyện này, cô nói: — Đã là a hoàn mua cho ta, theo lý là do ta dạy dỗ. Em gái, em nói đi, rốt cuộc là chuyện gì? Tôi như gặp được Bồ tát, quỳ xuống kể đầu đuôi câu chuyện. Tiểu thư Lưu Thanh Hàn giận dữ nhìn quanh nghiêm giọng quát: — Hồng Cảnh, ra đây cho ta! Hồng Cảnh sợ hãi đang trốn trong bụi trúc, khiếp vía khúm núm chạy ra, quỳ trước mặt đại tiểu thư. Đại tiểu thư tát một bạt tay vào mặt Hồng Cảnh, giận dữ mắng: — Chuyện hôm nay toàn do mi, ta rất ít ra tay đánh mi, mi không nên chọc ghẹo a hoàn mới đến. Roi đâu! Hồng Cảnh vội lạy xin tha. Tôi thấy đại tiểu thư sáng suốt đại nghĩa cũng quỳ xuống xin tha cho Hồng Cảnh: — Đại tiểu thư xin tha cho chị ấy, em đã nhận roi thay cho chị ấy rồi, đừng đánh chị ấy nữa. Đại tiểu thư rất đỗi ngạc nhiên nhìn tôi, cuối cùng mỉm cười hài lòng khoát tay nói: — Được rồi, đứng dậy hết đi. Hồng Cảnh đưa nó đi tắm rửa. Tôi và Hồng Cảnh đưa mắt nhìn nhau cười, cùng đứng lên. Dưới sự săn sóc của Hồng Cảnh, lần đầu tôi được ngồi trong một bồn gỗ lớn trong phòng tắm tắm rửa thoải mái, cũng lần đầu tuột sạch đi lớp cáu bẩn đã bám cứng trên người chín năm, nhìn thấy được lớp da thịt trắng trẻo. Đích thân đại tiểu thư đến phòng tắm sửa soạn cho tôi. Cô mang theo kéo, lược, gương và một bộ đồ bông xinh xắn. Lần đầu mặc được gấm lụa, người tôi sảng khoái dễ chịu như được chấp cánh bay. Đại tiểu thư như người mẹ chải tóc cho tôi. Tóc của tôi quến cục làm cách nào cũng chải không suôn. Đại tiểu thư dứt khoát cắt xoèn xoẹt một hồi tóc tôi ngắn ngủn như tóc con trai. Cô đứng thẳng lên ngó tôi, cùng Hồng Cảnh cười ngặt nghẽo. Tôi ngơ ngác. Đại tiểu thư đưa gương qua, nói: — Tự xem đi, đẹp hay xấu? Tôi vừa nhìn vào gương, trong gương xuất hiện một con nhóc tóc ngắn lam nham nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ. Con gái không có tóc thì còn giống thứ gì, xấu hổ chết. Tôi hốt hoảng, nhắm tịt hai mắt, khóc ồ ồ. Đại tiểu thư và Hồng Cảnh cười càng giòn. Tôi khóc càng dữ. Bất ngờ “bốp”. Mặt tôi hứng một bạt tai, trong phòng lặng phắt, tiểu thư tay đỡ gương mặt xinh đẹp của mình nghiêm túc nhìn tôi, hỏi: — Biết tại sao ta đánh em không? Tôi nín thở lắc lắc đầu. Đại tiểu thư chỉ vào ngực tôi nói: — Nhớ kỹ, bổn tiểu thư ghét nhất người ưa khóc. Làm người cần phải đứng thẳng lưng, phải kiên cường, phải tự cường. Nhớ kỹ chưa? Tôi gật đầu liên tục, lòng như tăng sức mạnh. Đại tiểu thư lại cười hiền hậu, đưa tay vuốt vuốt gò má mới bị đánh của tôi thân thiết nói: — Ta đặt cho em một cái tên, nó tên Hồng Cảnh, em thì sao? Tên Hồng Chi, Lưu Hồng Chi. Hồng Chi. —Dạ. — Ăn cơm đi. — Dạ, dạ. – Tôi kích động ứng tiếng, lần đầu tôi có tên của mình. Vào phòng ăn, tôi đã đói cồn cào từ sớm nên khi Hồng Cảnh mang phần cơm đầy thịt vào, tôi vội giật lấy bát, bất kể có muỗng đũa, dùng tay bốc mấy miếng đã ăn sạch bát cơm. Đại tiểu thư lạ lùng nhìn tôi, bảo Hồng Cảnh: — Đi, đem thêm một phần nữa cho nó ăn cho no. Hồng Cảnh nhún vai với tôi. Bát cơm thứ hai tôi cũng dùng cách cũ và tốc độ cũ ăn sạch. Lần đầu tôi được ăn một bữa cơm no ứ. Tôi đưa bàn tay dơ chùi vào bộ đồ. Đại tiểu thư lạnh lùng tát tôi một bạt tay: — Nhớ kỹ về sau không được chùi lên đồ! Lúc này tôi mới nhớ, tôi đã không còn là con nhóc dơ bẩn trước kia, tôi là Lưu Hồng Chi của Lưu gia công quán. Ngày đầu vào công quán tôi được ăn no nê, không lâu cái bụng nhỏ bị chướng quặn đau như dao cắt. Tôi không nhịn được ôm bụng rên hừ hừ. Đại tiểu thư nhìn tôi bật cười ha ha. Tiếng cười giòn tan đó khiến mọi vật dường như cũng reo vui. Tôi phát giận đại tiểu thư, người ta đau muốn chết mà cô xem như trò đùa. Tôi hờn dỗi chạy xuống lầu chúi vào một bụi trúc cố sức móc họng cho ói thức ăn ra. Một ly nước nóng đưa đến trước mặt tôi, đại tiểu thư đưa tôi một bịch nhỏ, nói: — Đây là bột bã đậu, uống đi, tiêu chảy ra thì khỏe. Tôi vội vàng uống bột bã đậu. Một lát sau bụng kêu rột rột, tôi quýnh quáng chạy vào nhà xí... Chủ nhân Lưu Trấn Sinh là một nhân vật có vai vế rất lớn. Lão đảm nhiệm Khu trưởng khu tám Thành Đô, lại là người đứng đầu của Thanh bang, nghe nói lão còn là huynh đệ kết nghĩa với Đặng Tích Hầu, tỉnh trưởng tỉnh Tứ Xuyên. Con trai lớn của lão, Lưu Lai Phú, làm việc trong giới quân nhân. Con trai thứ hai Lưu Lai Quý, nhậm chức Dinh trưởng chiến khu hai Thành Đô. Cháu nội Lưu Thanh Thủy, học viên sĩ quan. Cháu nội gái Lưu Thanh Hàn học đại học. Thế lực của Lưu gia ở toàn vùng Tứ Xuyên có thể nói giậm một chân đủ khiến đất rung núi lở. Một công quán rộng thênh thang mà chẳng tên trộm vặt nào dám đến, Thanh bang cũng không dám cướp, ngay cả máy bay Nhật oanh tạc tan nát đường Nam Phủ cũng không động đến một ngọn cây cọng cỏ của công quán. Còn có một câu đố khó giải, ông lão Lưu Trấn Sinh đã ngoài bảy mươi bảy tuổi nhưng người hồng hào khang kiện trông chỉ độ năm, sáu mươi tuổi, trái lại đám a hoàn trong nhà lão ai nấy người gầy ốm da vàng. Nghe nói dám a hoàn bên cạnh lão chống chọi không đến một hai năm thì có người khô đét mà chết, không ai hiểu nổi rốt cuộc là chuyện gì. Vì tôi nhỏ nhất trong đám a hoàn, lại thường ở trong phòng của đại tiểu thư, đại thái thái, cho nên rất nhiều tai nạn còn chưa rớt xuống đầu tôi. Những a hoàn lớn hơn tôi như Hồng Ngư, Hồng Lượng, Hồng Nguyệt, Hồng Tỏa, họ đều không yên, bất cứ lúc nào cũng có thể nếm đủ tàn hại. Hai đứa con của Lưu Trấn Sinh và thằng cháu nội Lưu Thanh Thủy thường khi dẫn binh lính lên lầu uống rượu, đánh bài không thể thiếu được a hoàn hầu hạ. Lũ quỷ hám rượu háo sắc này thường tìm mấy a hoàn hơi lớn chọc ghẹo vui đùa, sờ mó suồng sã, a hoàn nào cũng đều có nguy cơ bị gian dâm. Nếu a hoàn nào không ngoan ngoãn thuận theo, Lưu Thanh Thủy liền ra lệnh lột hết quần áo, lấy lông đuôi heo chích vào đầu vú của người đó, trong đêm khuya nghe những tiếng kêu thảm thiết đó thường khiến tôi khiếp sợ. Trong phủ nếu mất mát vật gì thì đám a hoàn là những kẻ chịu xui xẻo trước. Đôi lúc cũng thật sự tìm thấy được chiếc nhẫn, tiền bạc, bánh trái từ người a hoàn, vì những a hoàn này giống như tôi đều là con nhà nghèo khó, bên ngoài còn có người thân đang đói khổ. Trong phủ a hoàn nào gặp nạn đều mong ngóng đại tiểu thư trở về giống như mong ngóng Bồ tát từ bi vậy. Đại tiểu thư vừa đi học về là như “thiên đường” của tôi. Tôi có thể bên cạnh cô nghe cô đọc thơ, ca hát, kể chuyện, xem cô múa kiếm, nhìn cô bênh vực người làm mà tranh cãi với ông nội, cha, em trai của cô. Đại tiểu thư thần kỳ thậm chí là một câu đố của Lưu phủ này. Tôi cho rằng Lưu Thanh Hàn đại tiểu thư nhất định là Bồ tát do ông trời phái xuống hoặc là một hiệp nữ. Đại tiểu thư không ở nhà thì tôi hầu hạ đại thái thái. Tính đại thái thái cũng rất lương thiện. Đây cũng thật là phước cho thân phận a hoàn của tôi. Trong khoảng thời gian này tôi học được cách nhìn sắc mặt người mà hành sự, nắm được một số qui luật sinh hoạt của chủ nhân, biết họ lúc nào đánh bài, lúc nào hút thuốc phiện, lúc nào ăn uống, tiêu tiểu. Tôi cảm thấy mình trưởng thành không ít, tốt hơn sống với bác gái rất nhiều. Chớp mắt đến mùa xuân năm sau tôi được mười tuổi. Còn nhớ hôm đó là ngày 24 tháng 4, đại tiểu thư trở về, không còn phong thái phóng khoáng thường ngày, mặt mày như phủ lớp mây đen. Tiểu thư cau có buồn bực và hút thuốc. Đại tiểu thư vốn đâu biết hút thuốc. Tôi nghĩ chắc đại tiểu thư có tâm sự nhưng không dám hỏi. Để tiểu thư được vui vẻ tôi nhìn ra ngoài cửa nói: — Đại tiểu thư, trời hôm nay sáng sủa, cô dẫn em dạo phố nhé. Tiểu thư quả nhiên đổi buồn làm vui nhìn trúc xanh ngoài cửa sổ thổi phù phù điếu thuốc, khoát tay nói: — Được, ra ngoài đi lòng vòng. Tôi vui mừng vỗ tay, vừa đi lượm tàn thuốc vừa đi lấy giày cho tiểu thư, hỏi: — Chúng ta đi đâu? — Đường Xuân Hi. Thế là tôi vui vẻ theo đại tiểu thư ngồi lên xe ngựa kéo ra khỏi Lưu phủ thâm nghiêm. Đường Xuân Hi là phố chợ phồn hoa nhất Thành Đô. Đường không rộng nhưng rất náo nhiệt, người, xe đông đúc, quán tiệm đan xen, ca lầu kỹ viện cũng nhiều. Đại tiểu thư dẫn tôi xuống xe, mua cho tôi hai cái bánh chiên. Chúng tôi luồn lách trong dòng người nhộn nhịp. Tôi ngắm nhìn đủ dạng người trên đường, ngắm nghía hàng hóa lớn nhỏ đủ loại đủ màu thật là no cả mắt. Phía trước không xa có một ca lầu, nơi đó yểu điệu bước đến hai ca kỹ xinh đẹp. Tôi mở to đôi mắt hiếu kỳ, từ khi quen biết đại tiểu thư tôi mới bắt đầu yêu phụ nữ đẹp. Hai cô gái này đẹp quá, đều là mình tiên vóc liễu, một người mặc váy trắng, một người mặc váy xanh. Tôi liền nhớ đến câu chuyện thần thoại Bạch xà Thanh xà mà đại tiểu thư kể cho tôi nghe liền kéo tay áo của đại tiểu thư chỉ vào hai ca kỹ nói: — Đại tiểu thư, cô xem hai mỹ nhân đó thật giống Thanh xà Bạch xà trên núi Nga Mi. Đại tiểu thư chán ghét nói: — Không được nhắc đến núi Nga Mi. Tôi lại ngắm nhìn đôi người đẹp đó, mơ màng nói: — Đúng là Thanh xà Bạch xà xuống núi Nga Mi rồi. Đại tiểu thư dừng bước, gương mặt như đĩa bạc chợt phừng lửa giận, đôi mày tằm dựng đứng, ánh mắt bén như hai lưỡi kiếm. Tôi sợ sệt thoái lui một bước, hỏi lại: — Núi Nga Mi thì sao? Em còn muốn lên núi bái Phật nữa. — Càng không cho phép em nhắc đến Phật! – Đại tiểu thư giận dữ hét, tát một bạt tai vào mặt tôi xiểng niểng. Tôi hoảng hồn bụm mặt nhìn đại tiểu thư, nước mắt nhỏ giọt. — Đi về! – Đại tiểu thư giận dữ hét. Tôi không biết tại sao gây nên họa ngơ ngác theo đại tiểu thư về phủ. Sau khi đại tiểu thư về nhà thì ở suốt trên lầu. Mãi đến tối tôi bưng lên một dĩa bánh bao bột trắng và giò chéo quẩy, đại tiểu thư mới uể oải ngồi dậy nhạt nhẽo ăn mấy miếng. Tôi ăn xong cơm tối, dọn dẹp xong chén bát, rồi lớn gan quỳ trước mặt đại tiểu thư run run hỏi: — Đại tiểu thư, em là a hoàn của cô, có sai thì đánh thì mắng, nhưng mà em thật sự không biết hôm nay em làm sai chuyện gì, thỉnh đại tiểu thư chỉ dạy. Đại tiểu thư liếc tôi một cái, mắng: — Con ranh, giỏi kiếm chuyện. Thôi được, ta coi em như một người lớn, sẽ đem hết nỗi khổ trong lòng thổ lộ với em. Đứng lên đi. Tôi ngoan ngoãn đứng lên, đỡ tiểu thư ngồi xuống, thắc mắc: — Người có địa vị như đại tiểu thư tại sao cũng có nỗi khổ chứ? Tối hôm nay trong phủ thật yên tĩnh, trên lầu thật yên tĩnh, Hồng Cảnh ở trong phòng đại thái thái, đại tiểu thư mở lòng kể tôi nghe một đoạn tao ngộ trước kia của mẹ cô. Đó là vào năm Viên Thế Khải lên ngôi. Tham quan hoành hành vơ vét, binh lính giết người cướp của, có một nhóm ăn cướp chạy lên núi Nga Mi giả trang thành hòa thượng chế tạo ra Phật sống hiện thế để gạt tiền bạc của bá tính bốn phương. Ngày 24 tháng 4 năm đó đến ngày Phật sống hiện thế, mẹ của Lưu Thanh Hàn tên Phiên Ngọc Bình tuổi vừa mười tám chưa từng bước chân ra ngoài. Bà là quý tiểu thư của Phiên công quán, cha kinh doanh ngân hàng, có nhiều tài sản. Phiên Ngọc Bình cảm thấy trong phủ bức bối muốn đến núi Nga Mi xem Phật sống hiện thế. Cha bà phái hai cận vệ thuê một cái võng gánh bà đến núi Nga Mi. Đúng lúc Phiên Khánh Hạnh, anh bà đang học đại học cũng vừa về nhà, rất thích náo nhiệt, mời bạn thân là Thi Nại An cùng đi núi Nga Mi. Trên lưng núi Nga Mi xanh biếc thơ mộng có một ngôi miếu hùng vĩ, trước miếu xây một Phật đài cao. Một vị Phật sông khoác cà sa màu đỏ đang ngồi nghiêm trang trên bảo tọa liên hoa. Phật sông này mặt to chữ điền, trán rộng mũi tròn, da trắng mịn, sáng bóng. Thiện nam tín nữ bái Phật kết thành đoàn lũ lượt đến trước Phật sống, ném nhang ném tiền vào thùng gỗ lớn, người ném ngân phiếu, người ném tiền bạc. Tất cả đều quỳ mọp trước miếu lớn lễ lạy chờ đợi hỏa thiêu Phật sống để Ngài thăng thiên. Phiên Ngọc Bình vì cầu Phật phù hộ nên cũng hướng về Phật sống cúng dường mấy thỏi bạc. Mọi người triều bái Phật xong, Phật sống sắp thăng thiên, có một lão phương trượng khoác cà sa màu vàng đến trước Phật đài, một tay niệm Phật châu, giơ ngón tay lên miệng ra dấu im lặng, tụng niệm có kinh có kệ với mọi người: “A Di Đà Phật, thiện tai, thiện tai! Các vị thí chủ, Phật sống đã thề, chỉ vì các người thai phàm nhục thể nghe không được âm thanh nên sẽ do ta truyền đạt. Phật sống nói, các người ngàn dặm xa xôi đến đây đốt hương cúng Phật, Phật sống cảm niệm lòng thành của các người, sau khi Phật sống thăng thiên sẽ phù hộ cả nhà lớn nhỏ các người tai qua nạn khỏi, nhưng Phật sống cảm niệm chúng sinh đau khổ trên đời cho nên một tháng sau còn trở về bên cạnh các người. Thỉnh các vị thí chủ dùng lòng thành thượng cúng Phật sống để Phật sống thăng thiên, A Di Đà Phật..” Lão hòa thượng giảng giải xong, các hòa thượng đang quỳ dọc hai bên miếu rào rào niệm kinh văn. Một tiểu hòa thượng cầm đuốc châm vào đống củi lớn đã tưới dầu bên dưới Phật sống, lập tức khói đen, lửa mạnh ngùn ngụt bốc vọt lên trời. Ai nấy đều cúi đầu sì sụp lạy. Hai tiếng đồng hồ sau mọi người nhìn thấy một đống xương cháy trước miếu đài. Phiên Ngọc Bình xem xong Phật sống thăng thiên thì ngày đêm đi suốt về Thành Đô, nhưng Phiên Khánh Hạnh, anh trai cô trái lại từ đó mất tích. Cả nhà tìm kiếm khắp nơi, gặp được Thi Nại An bạn của Phiên Khánh Hạnh, Thi Nại An nói: “Ngày Phật sống thăng thiên có một lão hòa thượng gọi Khánh Hạnh đi, lão hòa thượng nói là bạn thân của cha Khánh Hạnh”. Phiên lão nghe vậy càng bất an, ông chưa từng có bạn làm hòa thượng, Phiên gia tức tốc phái người lên núi điều tra nhưng không có kết quả. Một tháng sau, đến ngày Phật sống hiện thế, đột nhiên có người báo tin là Phật sống núi Nga Mi giống hệt Phiên Khánh Hạnh. Cha mẹ của Phiên Ngọc Bình đích thân lên núi tìm hiểu, nhận chính xác Phật sống tọa thiền bảy ngày thăng thiên chính là Phiên Khánh Hạnh Thì ra, ngày 24 tháng 4 đó Phiên Khánh Hạnh vừa đến núi Nga Mi liền bị đám hòa thượng gặp, chúng thấy anh tướng mạo mặt vuông đầu to rất thích hợp làm Phật sông liền dùng ngụy kế cho một lão hòa thượng ra mặt nói là bạn thân của Phiên lão gia gạt Phiên Khánh Hạnh vào cửa miếu rồi trói nhốt vào sơn động bí mật, bắt đầu chế tác Phật sống. Trước tiên họ bỏ đói anh mấy ngày, sau đó bắt anh ăn cơm trộn với thịt mỡ có pha thuốc, thân thể anh mập phì rất nhanh, trong một tháng mập đến tứ chi không thể động đậy, hai mắt khép hờ, toàn thân bóng lưỡng như phát sáng, không thể mở miệng nói chuyện, vậy là đã chế thành Phật sống gạt tiền tài thiên hạ, đốt lửa hỏa thiêu, chết rồi không còn đối chứng. Cha mẹ và tiểu thư Phiên gia nhận chính xác Phật sống chính là Phiên Khánh Hạnh. Họ gấp rút về Thành Đô bàn kế giải cứu, mạch rễ duy nhất của Phiên gia này quyết không thể để đoạn hương hỏa. Nghĩ tới tính lui cuối cùng chỉ còn một con đường là cầu cứu Lưu Trấn Sinh. Lão lang sói gian giảo Lưu Trấn Sinh liền thừa cơ cháy nhà mà cướp, Phiên lão gia hứa với Lưu Trấn Sinh sau khi thành công sẽ gả con gái Phiên Ngọc Bình cho đại công tử của Lưu Trấn Sinh, còn hiến nửa tài sản cho Lưu phủ. Lưu Trấn Sinh biết Phiên Ngọc Bình như hoa như ngọc, còn con trai của mình thì xấu xí bất tài, đang lo không tìm được vợ tốt giờ lại có thêm nửa phần gia sản của Phiên gia, lão khoái chí lập tức viết hợp đồng. Trước khi Phật sống thăng thiên, Lưu Trấn Sinh tập hợp nhóm đệ tử Thanh bang võ công cao cường hóa trang thành khách dâng hương tức tốc kéo lên núi Nga Mi. Họ đã định xong kế giải cứu. Trong khi lão phương trượng giả truyền Phật ngôn để gạt tín đồ, sau miếu thình lình bốc cháy. Đám hòa thượng hoảng loạn ùn ùn chạy ra hậu viện. Cao thủ Thanh bang tràn lên Phật đài, thi triển võ công đánh bại đám tiểu tăng, cướp được Phật sống khiêng chạy xuống núi, vừa đánh vừa lui cuối cùng đã cứu được Phiên Khánh Hạnh sắp bị hỏa thiêu, đưa về Phiên công quán. Giải cứu thành công, Phiên Ngọc Bình xinh đẹp đoan trang phải khuất thân gả đến Lưu gia công quán làm vợ tên xấu xí Lưu Lai Phúc cùng với nửa gia sản khổng lồ. Nhưng Phiên Khánh Hạnh chịu mọi sự tàn hại phi nhân tính đó không quá ba ngày cũng không sống nổi. Phụ mẫu Phiên gia chịu không nổi đả kích mãnh liệt này chỉ cách một đêm cũng tức đến ói máu mà chết. Vậy là toàn bộ gia sản của Phiên công quán gom hết vào nhà Lưu Trấn Sinh. Lưu Trấn Sinh dùng tiền bạc đó tu sửa phủ trạch mới cho Lưu gia công quán khí thế như hoàng cung này. Phiên Ngọc Bình rơi vào ổ quỷ, có thù không lực để báo, có oan không chỗ để kêu, đành nhẫn nhục sống thừa. Nối dõi tông đường là đại sự đứng đầu trong cái công quán dâm ô này. Khi bụng của Phiên Ngọc Bình hơi nhô lên, tất cả thành viên gia tộc Lưu phủ đều mong ngóng Phiên Ngọc Bình sanh cho họ một thằng con trai tiếp nối hương hỏa, không ngờ Phiên Ngọc Bình sinh ra một bé gái. Trưởng bối trong phủ đều giận dữ chì chiết, Lưu Lai Phúc xấu người ác tính chụp đứa trẻ sơ sinh ném vào thùng phân, nhờ Phiên Ngọc Bình kịp thời nhảy lên dang áo ra đỡ đón được vào lòng, hài nhi gái bất hạnh mới bảo toàn được mạng nhỏ. Đứa bé gái này chính là đại tiểu thư Lưu Thanh Hàn. Bị tai nạn đợt sinh đầu, có thai lần thứ hai Phiên Ngọc Bình sợ khiếp đảm, sợ sinh một bé gái nữa thì hậu quả khó lường cho nên đến lúc sinh cũng âm thầm, đứa bé sinh ra trong đũng quần ở phía trước bếp lò, còn Phiên Ngọc Bình sợ quá ngất xỉu, may mà lần này sinh con trai, bé trai này chính là Lưu Thanh Thủy. Phiên Ngọc Bình cũng nhờ vậy được lên bảo tọa đại thái thái. Nghe xong chuyện kể của đại tiểu thư, phút chốc tôi như lớn thêm mấy tuổi. Tôi cứ nghĩ người nghèo cùng trong thiên hạ mới có vận mạng bi thảm, nào ngờ đại thái thái thân ở ngôi cao, là đại tiểu thư của nhà phú quý cũng có mối thù huyết lệ và khổ nạn ly kỳ như vậy. — Hồng Chi. – Đại tiểu thư chưa từng rơi lệ này đưa tay áo chùi mắt, nắm bàn tay nhỏ của tôi nhìn hồi lâu rồi chậm rãi nói – Tương lai em sẽ là một cô gái xinh đẹp, xinh đẹp có lẽ là tấm môn bài của tai nạn. Nhớ kỹ, vừa đến mười lăm tuổi em phải lập tức rời khỏi nơi này, Từ khi đại tiểu thư kể tôi nghe lịch sử gia đình thê thảm thống khổ của mẹ cô, tự đáy lòng tôi càng yêu quý đại tiểu thư hơn. Cô như một đại thụ rễ sâu lá dày, vững chắc che chở cho bọn “côn trùng”, “chim nhỏ” tội nghiệp chúng tôi. Cho dù đại tiểu thư không có ở bên cạnh, đám a hoàn chúng tôi cũng cảm thấy sau lưng có chỗ tựa. Vừa nghĩ đến tiểu thư chúng tôi đều nhận định thế giới này còn có chính nghĩa, còn có chân tình và lương thiện. Thời gian chớp mắt đến giữa hạ, xế chiều hôm nay thời tiết hết sức nóng bức, Hoại Tam canh cổng chạy đi tắm nước lạnh. Tôi ngồi trong hốc cổng đang hưởng thụ “gió qua ngô”, đang dùng bột gạch để tẩy rửa chất dầu trong tẩu thuốc phiện, đột nhiên con chó đen lớn đang nằm ngủ bên cạnh tôi bật dậy sủa oang oang ra phía ngoài cổng, tiếp theo nghe tiếng kêu đau đớn của một lão già. Tôi liền ném tẩu thuốc, chạy đến cổng quát chó: — Hắc báo, cút vô! Con chó đen lớn bất mãn gầm gừ chạy vào nhà. Phía dưới bậc thềm một ông lão hơn bảy mươi tuổi, ốm như que củi nằm sóng soài. Mái tóc dài của lão túm thành một búi. Trong ống quần rách máu tươi tươm ra, một cái bát sành bể văng bên cạnh. Tôi vừa thấy máu liền vội chạy xuống xé vạt áo băng chân cho ông lão. Ông lão rên rỉ nói với tôi, lão đã ba ngày không có cơm ăn, quá đói mới đến cổng công quán lượm lá trà ăn đỡ thì bị chó cắn. Nhìn ông lão đáng thương này tôi nhớ đến ông nội đã chết của mình, mắt cay cay, vội dặn: — Cụ ơi đừng đi, con vào một chút sẽ trở lại. Tôi chạy vụt vào trong sân nhốt chó lại, rồi nhanh chân vào phòng ngủ của tiểu thư. Tiểu thư về nhà nghỉ hè, đang đánh bài với đại thái thái. Tôi sợ ông lão bỏ đi nên không kịp bẩm báo, mò dưới gối nằm của tiểu thư tìm được một túi tiền thêu hoa dày cộp, vừa mở ra nhìn, ô, một xấp ngân phiếu mới dày cộp. Tôi không dám lấy nhiều lựa hai tờ số tiền nhỏ, rồi mở tủ bếp lấy vài cái bánh nướng giấu trong áo chạy bay ra ngoài cổng... Khi tôi trở lên lầu, tiểu thư đang cầm bóp tiền, hầm hầm giận dữ ngồi trên giường. Tôi vừa gọi một tiếng: — Tiểu thư! Tiểu thư tát vào mặt tôi hầm hừ mắng: — Con ranh đáng chết, dám ăn cắp tiền của ta! Chỉ tại ta cưng chiều mi hư rồi! Tôi vội quỳ xuống trước mặt tiểu thư, thẳng thắn nói: — Tiểu thư, em ăn trộm tiền, nhưng em trộm tiền không phải cho mình. — Mi đem cho ai? — Tiểu thư, không phải cô thường dạy, làm người phải có tình đồng cảm sao? – Tôi bèn kể chuyện chó cắn lão ăn xin. Mặt tiểu thư giãn ra từ âm u chuyển sang rạng rỡ, kéo bàn tay tôi hiền hòa nói: — Hồng Chi, đứng dậy đi, em làm rất đúng. Em đã tích đức cho phủ này. Về sau có chuyện như vậy phải báo trước cho chị một tiếng. Tôi vui mừng nhảy cỡn lên, kéo theo tiểu thư nhảy tưng tưng: — Tiểu thư, cô là người tốt nhất trên đời này. Tiểu thư mỉm cười ấn vai tôi xuống nói: — Đừng nhảy nữa, giữ sức để ngày mai dùng. — Ngày mai? – Tôi ngơ ngác. Tiểu thư thở dài chán nản nói: — Ngày mai bốn cô của chị sẽ đến. Cô lớn của chị sắp năm mươi tuổi mới sinh được con trai, thật không phải chuyện dễ, nối dõi tông đường là đại sự của nhà giàu, do đó phải mở tiệc lớn, thỉnh mời đông khách, thật phiền phức. Tôi nghe được tin này không khỏi rầu rĩ, như vậy không phải bọn a hoàn chúng tôi sẽ mệt chết sao. Sáng sớm hôm sau, bọn a hoàn chúng tôi đều dậy sớm quét sân, dọn phòng, ăn cơm sớm rồi vội vàng nấu nước pha trà, bày hoa quả. Hừng sáng, ngoài cổng vang lên tiếng xe ngựa dừng, các cô lớn nhỏ của Lưu gia quả nhiên đều đến. Lưu Thái Tuệ, Lưu Thái Bích, Lưu Thái Hà, Lưu Thái Vân, bốn chị em đều mang theo lễ vật đủ màu sắc. Lưu Trấn Sinh vuốt râu trắng, mặt mày hớn hở tiếp đón trong sân, ngựa xe đậu đầy cả một khoảng rộng. Tôi đã thấy được Lưu Thái Tuệ bồng trong lòng một em bé bụ bẫm, mặc yếm đỏ. Chồng bà đi sát bên cạnh, là Ngưu Hữu, Đội trưởng đội hiến binh, mặt đen sì. Em bé bụ bẫm đương nhiên trở thành chủ đề trò chuyện rôm rả. Mọi người vây quanh Lưu Thái Tuệ và em bé chúc mọi lời cát tường: — Ô, bé tên gì vậy? — Tên Ngưu Xưng Tâm. — Ngưu Xưng Tâm, tên đẹp đó, trông kìa, tướng mạo đầy phúc khí giống y Đội trưởng hiến binh Ngưu Hữu cha của nó. — Đứa bé này vừa nhìn đã biết có tài năng, lớn lên nhất định giỏi hơn cha nó. — Đúng vậy, cha nó có súng colt, còn nó sẽ được súng trường, không, phải lấy được một đại pháo. Má Tế len vô, chen miệng nói: — Quý vị đừng đoán mò, trong giới võ bị, vật nắm được càng nhỏ thì chức quan càng lớn. Có người hỏi: — Vậy bà nói là gì nào? — Chuyện này...? – Má Tế nhất thời nghẹn họng không nghĩ ra có vật gì tốt hơn súng colt, nhìn thấy đại tiểu thư bước qua, nhạy bén kéo tiểu thư đến, nói – Tiểu thư, cô qua đây xem xem, cô là người đọc sách, xem coi đứa bé này tương lai sẽ thành đại nhân vật gì? Đại tiểu thư ngắm nghía em bé bụ bẫm trong lòng Lưu Thái Tuệ một lát chợt nhớ đến câu nói của một đại nhân vật, cười cười nói: — Đứa bé sau này sẽ chết! Bầu không khí đang náo nhiệt dột nhiên lặng thinh, ai nấy trợn tròn mắt sững sờ. Chữ chết mà tiểu thư vừa nói, lão chủ nhân là người đầu tiên nuốt không trôi, mắng: — Thanh Hàn, cắt câu đoán chữ, sao lại nói gở như vậy? Tiểu thư phản bác: — Cháu nói không đúng sao? Sinh lão bệnh tử là qui luật tự nhiên, ai nói mình thoát được? Lão gia giận tới mức trái cổ chạy lên chạy xuống. Lưu Thái Tuệ mặt tròn chảy xệ thành dài ngoằng. Viên đội trưởng hiến binh thì cứ trợn đôi mắt trâu, theo thói quen đưa tay sờ báng súng colt. Tôi thấy tình thế không ổn vội chạy qua nói đại: — Tiểu thư, đại thái thái gọi cô kìa. – Tiểu thư nhếch nụ cười khinh miệt, quay người đi về phía hậu viện. Lên lầu rồi, tôi đối với tiểu thư không biết là kính phục hay trách cứ: — Tiểu thư, gan của cô thật lớn đó. Tiểu thư cười khanh khách một trận rồi hừ mũi, nói: — Con trai bảo bối gì chứ, còn không biết từ đâu mà có nữa. Tôi hỏi ngược lại: — Không phải của bà cô lớn và đội trưởng hiến binh sao? Tiểu thư lắc lắc đầu đáp: — Ta thấy cô lớn không giống vừa sinh em bé. Tôi tròn xoe đôi mắt không nói nên lời. Tiểu thư nói như cá cược với tôi: — Hồng Chi, chúng ta đoán trước nhé, nếu trong phủ trương cờ gióng trống mời khách khứa, đứa bé chính là con của cô lớn và chồng, còn nếu họ không mời khách thì lai lịch nó bất minh, khẳng định có oan tình. Hây da! Lời của tiểu thư thật linh, Lưu Thái Tuệ và đội trưởng hiến binh không đồng ý mở tiệc mời khách. Lưu Thái Tuệ thanh minh khắp nhà, nói thầy tướng đoán mạng không được làm rình rang. Tiếp theo, trong phủ xuất hiện một chuyện phiền phức khác, phải tìm vú nuôi cho bé tiểu Xưng Tâm. Lần đầu tôi mới biết, Lưu phủ chọn vú nuôi còn khó hơn hoàng cung chọn phi tần. Ngay hôm đó, Lưu Thái Tuệ phái Hoại Tam và má Tế đến đường Hồng Thổ Địa Miếu. Hồng Thổ Địa Miếu lâu nay được gọi là “chợ người” giống như chợ heo,, chợ bò ở địa phương, là nơi chuyên môn mua bán nhân khẩu. Những bé trai bé gái không cha không mẹ, thanh niên thiếu phụ gia cảnh bần hàn vì để nuôi sống bản thân, bọn họ đầu giắt cây cỏ đến nơi này quỳ ven đường tự bán thân mình. Hoại Tam và má Tế vừa đến “chợ người”, đám phụ nữ trẻ trung muôn làm vú nuôi bất kể xấu hổ cởi áo bày ra từng đôi vú sữa to trắng hếu để người ta nhìn, để người ta tùy tiện sờ sờ nắn nắn. Vú nuôi đậu vòng sơ tuyển được đưa vào phủ. Bà hai của Lưu phủ và Lưu Thái Tuệ ngồi ở phòng khách tuyển chọn lần nữa, tướng mạo xấu không chọn, hình dạng đẹp không chọn, đầu vú nhỏ không chọn, sữa ít không chọn, có bệnh không chọn, hơi thở hôi không chọn, đến mấy ngày sau mới chọn được một phụ nữ trẻ trung có bầu sữa to, người Hà Nam. Lai lịch của tiểu Xưng Tâm luôn là một câu đố trang lòng tôi. Lại một buổi sáng mây hồng đầy trời tráng lệ, tôi không thể nào tin một tai nạn khủng khiếp nhuộm đầy sắc máu nương vào ánh hồng diễm tuyệt mà nhuộm trên ngọn trúc, nóc lầu, nương vào tiếng chim ca hót hòa bình mừng sáng sớm, nương vào những mảng ngói lầu huy hoàng của Lưu phủ trong u u minh minh đã chụp xuống đầu đại tiểu thư kính yêu nhất của tôi. Còn tôi vô tình trở thành dây dẫn lửa cho tai nạn thảm khốc này. Tôi vừa thức dậy thì lẹ làng dọn dẹp phòng ốc của tiểu thư, lau chùi bàn ghế, lau chùi bàn phấn, kiếng trang điểm. Làm xong việc mệt đến xương cốt rã rời. Thấy tiểu thư đang chăm chú đọc sách, tôi liền chạy đến tiền viện, ngồi trên một ghế đá trong bóng râm của bụi trúc để hóng mát, không lâu tôi lim dim ngủ gật. Tôi mơ hồ nghe có tiếng khóc nho nhỏ, tôi vốn cho rằng mình đang mơ, mở bừng mắt tôi thấy một bóng người ốm yếu nhỏ bé mặc váy dài bằng sa đỏ. — Ai? –Tôi hỏi. Đứa bé đang khóc ngẩng đầu lên, dọa tôi hết hồn. Bé gái này ốm tong teo, nhợt nhạt, hốc mắt sâu hoắm, cạnh hàm giơ xương, nhướng hai đôi ngươi tròn xoe thật giống quỷ từ trong quan tài chui ra. — Mi là người hay là quỷ? – Tôi sợ sệt thoái lui một bước. Cô bé giơ cánh tay nhỏ như xương khô chùi mắt nhìn tôi, nói: — Em không phải quỷ, em là Hồng Thu. Chị không nhận ra em sao chị Hồng Chi? — Hồng Thu? Tôi nghĩ ngợi một lát đột nhiên nhớ lại, đây không phải a hoàn hầu hạ Lưu Trấn Sinh sao? Tại sao nó thành bộ dạng như vầy? Mùa đông năm ngoái tôi đang quét sân thì thấy Lưu Trấn Sinh đưa về một tiểu a hoàn mua từ bên ngoài, chính là Hồng Thu này. Khi đó nó rất ốm yếu, sau khi đi theo lão gia trên danh nghĩa là a hoàn nhưng không phải làm việc gì cả, được cùng ăn cùng uống với lão gia. Hai tháng sau tiểu cô nương đã trắng trẻo mập mạp lên, sau đó rất lâu không thấy Hồng Thu. Hôm nay Hồng Thu ốm hơn lúc vừa mới đến. Tôi bóp nhẹ đầu vai nhọn hoắc của Hồng Thu. Hồng Thu đau kêu ai da, ai da. Tôi trách nó: — Xem em kìa, đi theo lão gia nên thành nhõng nhẽo. Vừa rồi tại sao em khóc? Hồng Thu chỉ vào đủng quần của mình nói: — Chỗ bọng đái của em đau lắm. Tôi thấy Hồng Thu chắc chắn có bệnh, lập tức sinh lòng thương xót, nhớ đến tiểu thư biết chút ít y học, liền nói với Hồng Thu: — Có lẽ bọng đái của em bị viêm, chị dẫn em tìm tiểu thư nhờ giúp đỡ nhé. Hồng Thu đồng ý. Tôi dẫn nó đi thẳng đến hậu viện. Nhưng đi chưa mấy bước Hồng Thu đã thở hổn ha hổn hển, tôi sốt ruột nói: — Ôi dào, đi kiểu này chắc phải cả năm mới tới nơi, lại đây chị cõng cho! Vừa cõng Hồng Thu lên, tôi càng kinh ngạc, sao nó nhẹ như bấc đèn vậy? Tiểu thư đọc sách trên lầu, vừa thấy Hồng Thu, cô nhướng mày tằm: — A! – Tiểu thư ném sách, sờ vào bộ xương khô của nó nói – Em không phải là a hoàn của ông nội sao? Em bệnh gì vậy? Hồng Thu há miệng thở, một câu cũng không đủ sức nói. Tôi liền nói với tiểu thư chuyện nó bị đau hạ bộ. Tiểu thư nhăn mày, đa nghi suy nghĩ một hồi, ra lệnh cho Hồng Thu: — Hồng Thu, cởi quần ra để ta xem. Hồng Thu giật bắn người, giống con dê con sắp bị chết cóng trong đất tuyết. Tôi định cởi quần cho nó, nó sợ hãi tuôn chạy xuống lầu, tôi vội chạy lôi nó lại. Hồng Thu càng kinh hoảng túm chặt thắt lưng, không ngớt van cầu: — Không, không, thả em ra, em muốn trở về, không cho các chị xem. Tiểu thư sải mấy bước tới gần, nhấc nó như nhấc một con gà con thẩy lên giường, thoắt chốc đã lột quần của nó ra. Tôi hãi hùng nhìn âm hộ đỏ lừ sưng tấy của Hồng Thu, tiểu thư truy hỏi: — Hồng Thu, tại sao âm hộ của em sưng đỏ như vầy? Hồng Thu khóc nức lên. Tôi biết tiểu thư ghét nhất a hoàn khóc lóc, lo tiểu thư đánh nó một bạt tai chắc nó mất thở luôn. Nhưng không, tiểu thư đưa tay lau nước mắt cho nó, nhỏ nhẹ hỏi: — Hồng Thu, cho chị biết, em bị hành hạ thế nào? Lão gia đối đãi em ra sao? Hồng Thu chảy nước mắt, lắc đầu không nói một lời. Tiểu thư lại vỗ về nó: — Hồng Thu, em nói đi, có ta đây làm chủ, em không phải sợ gì hết. Hồng Thu vẫn cứ khóc, cứ lắc đầu. Tiểu thư nổi nóng giơ tay chụp cổ Hồng Thu, quắc mắt quát: . — Mi có chịu nói hay không? Không nói ta bóp chết mi, nói mau! Hồng Thu đau đến toàn thân rúm ró. Tôi sợ tiểu thư bóp chết nó thật, đang muốn van xin thì Hồng Thu lên tiếng: — Em nói, em nói, em nói hết. Tiểu thư buông em ra nếu không em mất mạng. — Mi nói mau! – Tiểu thư buông tay ra. Hồng Thu xoa xoa cổ họng, thở khò khè một lát mới nghẹn ngào kể ra những màn kịch ác hiểm, xấu hổ nhất mà Lưu Trấn Sinh đã tạo ra. — Mùa đông năm ngoái em được lão gia mua về. Khi ấy lão gia rất thích em. Cả ngày gọi em là bảo bối, ông ăn gì em ăn cái nấy. Mỗi đêm ông ôm em ngủ, em rất sung sướng. Sau đó, mỗi đêm trước khi ngủ ông tắm rửa cho em, rồi nhét vào trong âm hộ của em... – Hồng Thu không dám nói tiếp, hai mắt lộ vẻ khủng hoảng. — Nói mau! ông nhét cái gì? – Ánh mắt tiểu thư nhọn như đinh xoáy vào hốc mắt sâu hoắm của Hồng Thu. Giọng Hồng Thu run rẩy: — Mỗi tôi ông nhét vào âm hộ em một quả táo đỏ rồi băng lên một miếng vải đỏ. Đầu hôm còn đỡ, sau nửa đêm chỗ đó đau như dao cắt. — Súc sinh! – Tiểu thư mặt đỏ bừng chưởi một tiếng. Hồng Thu sợ bay hồn, vội đổi khẩu cung: — Không nói nữa, em nói sai rồi, em không nói gì hết. Tiểu thư vội giải thích: — Chị không mắng em. Hồng Thu, em kể tiếp đi. Hồng Chi, em ra cửa lầu canh chừng. Tôi đi ra cửa lầu, Hồng Thu kể tiếp: — Em sợ nhất là qua đêm, vừa qua nửa đêm em đau đến ngủ không được. Lão gia nói với em, nếu không phải để em làm hồng nhuận những quả táo đỏ đó đã không tốn nhiều tiền mua em về. Em vừa khóc ra tiếng ông liền dùng kim châm đâm vào da bụng em. Trời sáng, lão gia mới lấy táo đỏ ra, rửa sơ qua nấu chung với canh ngân nhỉ. — A! Trời thần ơi, tuệ nhãn của ông đâu rồi? Đây lại là một màn kịch nhục nhã được che đậy dưới tấm biển “trung hiếu truyền gia”, này. Thiên lôi ơi, cây búa của ông đâu rồi? Đây chính là nguyên nhân các a hoàn bị chết khô! – Tiểu thư ngửa mặt than trời, nhắm đôi mắt lăn dài hai hàng lệ nóng. Tôi kinh sợ nhớ lại khi mới vào phủ, nhìn thấy chén canh táo đỏ ngân nhỉ mà Lưu Trấn Sinh uống. Lưu Trấn Sinh mất hết nhân tính này vì bản thân dưỡng lão ích thọ đã hoang đường cho rằng táo đỏ hấp thu âm dịch của nữ đồng tử trở thành diệu dược trường thọ. Tôi nhìn tiểu thư giận như bốc hỏa, lại nhìn Hồng Thu ốm quắt queo đến đáng thương, tôi kéo Hồng Thu đến hỏi: — Vì sao em phải nhảy vào “hầm lửa” như vầy? Em không có cha mẹ sao? Hồng Thu lại chảy nước mắt kể với tôi, nó họ Đoàn, tên thật là Nữ Oa, nhà ở số 2 hẻm Bảo Toàn. Mùa đông năm ngoái mẹ chết, cha hút thuốc phiện thiếu nợ nên bán nó vào Lưu phủ. A, thì ra nó cũng giống tôi, cha nó cũng là quỷ thuốc phiện. Tôi nhào qua tiểu thư quỳ xuống van cầu cho Hồng Thu: — Tiểu thư, chỉ có cô mới cứu được nó. Chúng ta không thể để nó bị chết khô. Tiểu thư đứng yên bất động, nhưng bàn tay búp măng của cô siết chặt thành một nắm đấm. Bộ ngực bên trong chiếc áo hoa đào phập phồng mãnh liệt. Tôi loáng thoáng nghe răng ngọc của tiểu thư nghiến ken két, lửa giận cháy bừng bừng, đôi hài thêu hoa của tiểu thư giậm mạnh xuống lầu, đôi mắt sáng lẫm liệt chất vấn Hồng Thu: — Hồng Thu, nói thực đi, em muốn theo lão gia hay là muốn về nhà? Hồng Thu không hiểu ngơ ngác chớp chớp mắt, tiểu thư hỏi lại: — Nói đi, em có muốn về nhà không? Hồng Thu vội vàng quỳ xuống mừng rỡ đáp: — Em về nhà, em muốn về nhà. Tiểu thư lôi tay áo của nó, suy nghĩ một lát, nói: — Trước tiên, không thể để em về nhà, ta đã có biện pháp. Hồng Chi. — Có! – Tôi mau mắn lên tiếng. — Gọi Hoại Tam vào đây cho ta. — Dạ. Tôi nhanh chân chạy xuống lầu, tiểu thư dang tay ngăn tôi lại: — Phải giữ bí mật, chuyện lộ ra chắc chắn mất mạng. Tôi gật gật đầu, cố gắng trấn tĩnh, xuống thang lầu chạy thẳng ra tiền viện. Thừa lúc vắng vẻ, tiểu thư mau chóng viết một bức thư nhét vào áo Hồng Thu. Tôi mau chóng gọi Hoại Tam lên lầu. Hoại Tam phe phẩy quạt giấy đen lom khom gật đầu hỏi tiểu thư: — Tiểu thư có gì căn dặn? Tiểu thư chỉ vào Hồng Thu: — Mi đưa nó ra ngoài trị bệnh, đưa đến số 8 hẻm Tử Trúc giao cho một người tên Vương Lâm. Hoại Tam vừa nhìn thấy Hồng Thu thì hai cặp chân mày gian thần rũ xuống, cười nhăn nhó nói: — Chuyện này rất khó. Tiểu a đầu là bảo bối của lão gia, lão gia biết việc này chưa? Tiểu thư sầm mặt vỗ mép giường mắng: — Vô phép! Mi chỉ nghe lão gia không nghe lời ta hả? Lão gia trách tội có ta đỡ cho. Đi mau! – Nói xong, tiểu thư rút một xấp ngân phiếu nhét vào tay Hoại Tam. Mặt Hoại Tam lập tức sáng rỡ, gật đầu nói: — Ai nói không đi, tôi đi ngay. Đại tiểu thư cứ an tâm, he he, cứ an tâm. — Mi cõng nó xuống đi. — Vâng, vâng. – Hoại Tam vui mừng cất ngân phiếu, cõng Hồng Thu xuống lầu, bình an đưa Hồng Thu ra khỏi Lưu phủ. Hồng Thu trốn được rồi, tôi trái lại lo lắng thay cho tiểu thư. Buổi trưa, Hồng Cảnh chạy gấp lên lầu, vào phòng gọi: — Đại tiểu thư, lão gia gọi cô. Tôi và tiểu thư cùng lo sợ, ai nấy đều biết lão gia một năm 365 ngày hầu như ngày nào cũng đều ăn cơm trưa ở bên ngoài. Hôm nay lão gia đột nhiên trở về, nhất định là nhớ lại chuyện quên khóa cửa nhốt Hồng Thu, sợ Hồng Thu chạy ra ngoài thổ lộ cơ mật nhục nhã ác ôn của lão. Tôi phập phồng không yên, dự cảm một trận đấu tàn khốc sắp xảy ra, tôi muốn giữ tiểu thư lại nhưng tiểu thư nói: — Trốn được mùng một không trốn được mười lăm, thiên lý ở trên, ta không sợ. – Cô ưỡn ngực thẳng người đi gặp ông nội cô. Lão thái gia ngồi nghiêm trang trước bàn bát Tiên, cúi đầu, nhắm mắt, sắc mặt xám xịt, bên phải lão là Hoại Tam. Tiểu thư thấy không khí nặng nề nên đoán ông nội đã biết tất cả. — Ông nội! – Tiểu thư không muốn ông nội mất mặt giả vờ như không có gì. Lão thái gia giống như sắt đúc, trừ hơi thở còn lại toàn thân bất động. Tiểu thư liên tiếp gọi ba lần ông nội. Mắt của Lưu Trấn Sinh từ từ nhướng lên, đột ngột hai con mắt mở bừng tròn xoe, bắn ra tia sáng lạnh băng, tiểu thư bất giác rùng mình. Ánh mắt đáng sợ nầy của ông nội lần dầu cô mới nhìn thấy. — Mi còn nhận ông nội này sao? – Lão thái gia mở miệng nói, nhưng không cho phép cháu gái ngồi. — Nhận! – Tiểu thư nói quả quyết. Lão thái gia trong lòng nổi trận lôi đình mà ngoài mặt bình thản hỏi lại cháu gái: — Mi tự vấn lương tâm, nghĩ xem từ nhỏ đến lớn ông nội này đối đãi với mi thế nào? — Yêu như viên ngọc trong lòng bàn tay. – Cô trả lời dứt khoát. — Vậy cái nhà này là mi làm chủ hay ta làm chủ? – Lão thái gia từng câu càng lợi hại. Tiểu thư đáp quả quyết: — Đâu cần phải hỏi, ông nội là chủ của cả nhà. Lão thái gia giống như túm được cán dao, bàn tay đeo nhẫn vàng vỗ rầm lên bàn, sầm mặt giận dữ quát: — Mi thừa nhận ông nội mi làm chủ, tại sao mi lén ta đưa a hoàn đi? Chuyện này mi làm có đúng không? — Đúng! – Tiểu thư trả lời như chém đinh chặt sắt. Lão thái gia từ trên ghế nhảy dựng lên, đang muốn phát hỏa. Hoại Tam vội chạy qua khuyên lão thái gia ngồi xuống, rồi cúi đầu khom lưng đi đến trước mặt tiểu thư nói: — Đại tiểu thư thấy lão thái gia giận như vậy, đây là cửa nhà của “trung hiếu truyền gia”, cô hãy mau dập đầu nhận sai với lão thái gia đi, rồi đem Hồng Thu... — Cút xéo đi! – Tiểu thư không còn nhịn nổi, mắng Hoại Tam tiếp theo tát hắn một bạt tai. Hoại Tam bụm mặt thoái lui mấy bước, nghiến răng trèo trẹo nói: — Được, được, tôi cút, tôi cút. – Hắn như con chó bị đá chuồn lẹ ra khỏi cửa. Lão thái gia lửa giận bốc đầu, râu dê dựng ngược, hét: — Lưu Thanh Hàn, mi không phải là dòng giống Lưu gia. Ta nuôi mi như nuôi sói phản chủ. Mi là thứ ăn trong nhà lo chuyện thiên hạ, ta đánh chết mi! – Bàn tay hộ pháp của lão gia trái phải dang ra nhắm đúng mặt cháu gái tát bôm bốp. Lưu Thanh Hàn nhắm chặt đôi mắt đứng yên bất động. Lão gia đánh mệt rồi thở phì phì, ngồi phịch xuống ghế tựa. Lưu Thanh Hàn đưa tay chùi máu bên khóe miệng. Cô bỗng mở to đôi mắt ra, từng lời cô nói nặng ngàn cân: — Tôi gọi lão một tiếng ông nội cuối cùng, ông nội, chuyện hôm nay, cháu không sai. Nếu nội còn nhận đứa cháu này thì nội đừng làm những chuyện tàn hại a hoàn như vậy, đừng truy cứu chuyện Hồng Thu nữa, cũng chính là vãn hồi lại nhân tính của nội. Nếu ác cũ không giảm, thú tính không bớt thì cháu sẽ đem án táo đỏ của nội viết bài đăng báo. – Tiểu thư nói dứt quay người đi ra khỏi cửa. Lưu Trấn Sinh phút chốc hoảng loạn, sợ muốn bể tim, lão lập tức gọi: — Thanh Hàn, khoan đã! Tiểu thư dừng bước. Lưu Trấn Sinh bước đến trước mặt tiểu thư, lắc mình một cái đã biến thành ông lão khổ sở nước mắt giàn giụa, lão năn nỉ cháu nội: — Thanh Hàn à, chuyện trong nhà đừng để bên ngoài biết. Chuyện xấu hổ này ngàn lần không được đăng báo, cũng không được kể với người ngoài, giữ cho ông nội một chút thể diện. Chuyện này mà đồn ra ngoài thì toàn bộ uy danh của Lưu gia hoàn toàn đổ sạch. Lưu Thanh Hàn vừa thấy ông nội nhận tội liền mềm lòng, trước khi đi còn đập thêm “một chùy”: — Nội không sửa đổi lỗi cũ cháu nhất định sẹ đăng báo! Tiểu thư về đến lầu của mình. Tôi vừa thấy sắc mặt tiểu thư liền biết tiểu thư đã “hạ gục” lão Lưu Trấn Sinh âm hiểm. Tôi hứng thú theo hỏi mãi quá trình tranh đấu này. Buổi tối, Lưu Trấn Sinh đứng ngồi không yên, bày một bàn tiệc nhỏ, gọi cháu gái đến thừa nhận sai lầm. Lão thái gia hồi phục diện mạo của ông nội hiền từ, hòa ái. Tiểu thư thật sự cảm động, cô nâng ly chúc mừng ông nội tự làm mới mình, đồng thời cũng thề với ông nội vĩnh viễn không nhắc tới chuyện này. Họ uống rượu cho đến khuya. Nửa vầng trăng lên cao tiểu thư say khước trở về. Tôi đốt đèn cầy chúc mừng tiểu thư thắng lợi. Tiểu thư nằm trên giường nghỉ ngơi một lát, thình lình bật dậy trịnh trọng nói một câu hoàn toàn bất ngờ: — Hồng Chi, ngày mai ta phải đi rồi, đến một nơi rất xa. Tôi sững sờ vội hỏi: — Tiểu thư đi đâu? — Đến Xuyên Đông tìm bộ đội kháng Nhật để đầu quân. — Tiểu thư ơi, còn em phải làm sao? Tiểu thư đừng có đi! – Tôi hốt hoảng. Tiểu thư thân thiết vuốt gương mặt nhỏ của tôi, xem tôi như một người trưởng thành đem lòng mình ra tâm sự: — Chị nhất định phải đi. Chị lo có một ngày ông nội sẽ hại chết chị. Đôi với em cũng không an toàn. Tôi ngây thơ hỏi: — Không phải lão gia đã nhận sai rồi sao? Tiểu thư mỉm cười lắc lắc đầu: — Hiện giờ nội nhận sai, nhưng chị nắm bí mật lớn nhất của nội, đó là uy hiếp lớn nhất với nội. Hồng Chi, chị nghĩ, chị ra ngoài xông pha trước, tìm được một con đường mới sẽ trở về đón em đi, rồi tìm Hồng Thu. Chị nhất định đưa hai đứa trẻ khổ này tìm một hoàn cảnh mới, cho các em học hành, làm một phụ nữ mới. Tôi nghe tâm sự bi tráng của tiểu thư, nhìn thấy ý chí của tiểu thư càng nhận định tiểu thư là một nữ thần đẹp nhất trên đời này và là một người mẹ vĩ đại nhất. Vì thế, tôi càng lo lắng cho an nguy của tiểu thư: — Tiểu thư, đường đời loạn lạc như vầy, kẻ xấu đông như vậy, cô đẹp thế này, em sợ kẻ xấu sẽ hại cô. — Hại chị? Ha ha, ha... – Tiểu thư sảng khoái bật cười, trong tiếng cười tràn đầy can đảm và tự tin. Bàn tay tiểu thư đầy sức mạnh đặt lên vai tôi – Hồng Chi, trên đời này không có chút bản lĩnh là không được, đặc biệt là phụ nữ. Chị cho em biết một bí mật, chị có võ công, là công phu thật sự. — Thật sao? – Tôi nhìn cô, ánh mắt đầy tia sáng kỳ dị. Tiểu thư mỉm cười thần bí nói: — Ở bên ngoài chị đã dựa vào võ công bản thân và thế lực của Lưu gia trừng trị nhiều lưu manh ác ôn, cứu giúp không ít phụ nữ bần khổ. Đi, vào trong vườn chị biểu diễn vài tuyệt chiêu cho em xem. — Hay quá, hay quá, tiểu thư! – Tôi thật sự bái phục tiểu thư sát đất. Tiểu thư lấy trên đầu giường xuống thanh long bảo kiếm của mình, oai phong rút kiếm ra múa loang loáng, ánh sáng lạnh chiếu tứ phía. Tôi liền cầm đuốc dẫn đường cho tiểu thư. Đột nhiên tiểu thư nhăn tít chân mày, hai tay ôm bụng. Tôi đặt đèn cầy xuống, hỏi: — Tiểu thư, cô sao vậy? Bảo kiếm của tiểu thư rớt leng keng xuống sàn. Hai tay tiểu thư ôm bụng cong gập người. Tôi quỳ mọp xuống hoảng kinh hỏi: — Tiểu thư, cô uống rượu say phải không? Lên giường nằm nghỉ đi. Tiểu thư ngẩng đầu, tôi hốt hoảng, sắc mặt cô phút chốc biến thành vàng ệch, từng giọt mồ hôi to như hạt đậu chảy dài. — Tiểu thư, tiểu thư... – Tôi hét lên lo sợ. Tiểu thư túm tay tôi rên rỉ nói: — Chị mắc lừa rồi, mau gọi mẹ chị đến, mau đi! Tôi loạng choạng bò dậy dường như hiểu ra điều gì nhưng không dám nghĩ tiếp, cắm đầu chạy xuống lầu. Trong đêm trăng sáng tỏ, nhành trúc đứng yên, gió không thổi mà bên tai tôi gió ào ào, trời không mưa mà trên đầu tôi nước liên tục chảy xuống. Tôi cảm thấy con đường chạy qua lầu đại thái thái dài quá dài. Tôi chạy bất kể sống chết lên lầu thái thái, không màng gõ cửa nhào đại vào. Đại thái thái đang nằm trên giường hút thuốc phiện kinh sợ làm rớt tẩu thuốc, tôi gấp gáp gọi: — Mau lên, tiểu thư bệnh nguy cấp, đau sắp chết... Thái thái đang mặc áo ngủ vội nhảy xuống giường tìm giày, trong phòng bên cạnh a hoàn Hồng Cảnh cũng vội cài khuy áo chạy ra. Hai chúng tôi đỡ đại thái thái xuống lầu, chạy nhanh về lầu của tiểu thư, nhưng bàn chân của thái thái nhỏ bé, chúng tôi đi không được nhanh, chúng tôi chỉ đành bước theo bước chân kiểu chữ bát nhỏ bé của bà. Khi chúng tôi chạy được đến dưới lầu tiểu thư, trên lầu đã phát ra một tiếng hét bi thảm hãi người, tiếng kêu thảm xé tan đêm đen yên tĩnh: — Lưu Trấn Sinh... súc sinh... “Xoảng xoảng” kiếng cửa sổ đã bể, một đạo hàn quang bắn ra cửa sổ, kiếm thanh long cắm trên thân trúc cao cao trong vườn, tiếp theo là sự im lặng kinh người. — Đại tiểu thư... – Tôi và Hồng Cảnh bàng hoàng kêu lên. — Thanh Hàn... – Đại thái thái cũng bàng hoàng kêu lên. Đêm trăng sáng lạnh, không gian vẫn im lặng kinh người. Khi chúng tôi chạy được lên lầu thì hồn vía cũng đều bay mất, trong phòng ra trải giường, mùng mền bị xé nát. Trên bức tường trắng đầu giường có một bệt lớn máu đỏ, rõ ràng là từ trong người tiểu thư phun ra. Tiểu thư Lưu Thanh Hàn mắt mở to giận dữ, ngồi tựa vào tường như bức tượng, trên vách tường bên phải của tiểu thư viết hai chữ to bằng máu, tôi và Hồng Cảnh đều không biết chữ, đại thái thái run rẩy đọc: “Rượu độc...” 3 Lưu Thanh Hàn chết rồi, nhưng tôi không quá bi thương vì tôi cho rằng sự thật tàn khốc này chỉ là một cơn ác mộng. Đầu óc tôi trống rỗng, mắt mở trừng trừng nhìn đại thái thái vừa kêu vừa lắc thi thể diễm tuyệt của tiểu thư khóc ngất, rồi đại thái thái giống như điên chạy ào xuống lầu nói muốn tìm Lưu Trấn Sinh liều mạng. Tôi đoán chắc lại có một trận huyết họa sắp bộc phát. Nhưng không, đại thái thái tính tình nhu nhược đã bị uy nghiêm của Lưu Trấn Sinh đè bẹp. Lưu Trấn Sinh gian giảo từ trong phòng chạy ra giả vờ khóc mấy tiếng, nhìn lên trời than thở: — Thanh Hàn, cháu gái ngoan của ta, cháu đói bụng uống rượu, trúng rượu dẫn đến vong mạng. Ta hối hận quá, tại sao không để ta chết cho rồi. Hu hu... – Lưu Trấn Sinh lại khóc, khóc thảm thiết hơn đại thái thái. Đại thái thái yếu mềm bước đến khuyên Lưu Trấn Sinh: — Cha ơi, cha đừng khóc mà tổn hại sức khỏe, Thanh Hàn chết là nó không có phúc phận... Mọi người đều khuyên lão thái gia bớt đau thương. Lưu Trấn Sinh chỉ trông chờ câu nói này của đại thái thái và mọi người, lão dùng khăn tay trắng muốt lau mặt chùi miệng, chớp mắt lại hồi phục vẻ uy nghiêm thường ngày, hối hả sai người đến tiệm quan tài đem về một cỗ quan tài gỗ quý sơn đỏ, tẩm liệm thi thể đẹp đẽ của tiểu thư xong, ngay trong đêm đem đi chôn, lý do là khuê nữ là quỷ ngoại tộc, lại chết không bình thường không tiện để qua đêm. Chuyện này xử lý quá sạch sẽ, gọn gàng, thật sự giống một cơn ác mộng. Không còn đại tiểu thư, tòa lầu của tiểu thư treo đèn lồng đen. Lão thái gia gọi tôi qua, quanh co thẩm vấn cả nửa ngày. Tôi giấu chặt chuyện Hồng Thu, khăng khăng nói cái gì cũng không biết. Lão thái gia tin rằng tôi là một đứa con nít chỉ biết cắm đầu làm việc nên cũng buông tha. Từ đó về sau, nhiệm vụ của tôi là cùng Hồng Cảnh hầu hạ đại thái thái, vì đại thái thái đã thành người ngây ngây dại dại rồi. Lưu Lai Phúc chồng bà càng ghét bỏ bà, thường đánh đập bà. Lưu Thanh Thủy con trai bà lại thường vắng mặt, người bên cạnh chỉ có tôi và Hồng Cảnh. Hồng Cảnh buồn rầu trở nên trầm uất. Còn tôi vẫn không tin tiểu thư đã chết, một tiểu thư xinh đẹp lại lương thiện đến thế làm sao mà chết được? Tôi vẫn đinh ninh tiểu thư đã đi Xuyên Đông rồi, cưỡi ngựa, đeo kiếm, lẫm liệt giết giặc Nhật, không lâu tiểu thư sẽ về đón tôi. Nhiều lần tôi đứng lặng dưới cửa sổ lầu tiểu thư chăm chú nhìn chậu trúc kiểng trên bậu cửa sổ đang từ từ biến thành vàng héo, từ vàng héo biến thành trắng khô, rồi từ trắng khô hoàn toàn mục rã bay trong gió. Lúc này tôi mới tin, tiểu thư Lưu Thanh Hàn thật sự đã chết rồi! Tôi chui vào trong lùm trúc khóc ngất một hồi, nước mắt của tôi chảy ra đủ để cho đá mọc mầm. Không lâu sau, đại thái thái nổi cơn thần kinh lén chạy ra ngoài nhảy xuống sông tự tử. Phiên Ngọc Bình khổ một đời, oan ức một đời đã kết thúc cuộc đời như vậy! Người trong phủ không ai còn dám nhắc đến đại thái thái và đại tiểu thư, chỉ có con chim anh vũ trên cửa đại đình tiền viện đôi lúc vẫn còn gọi: “Đại tiểu thư tốt, chào đại thái thái, a hoàn gánh nước, đại tiểu thư tốt!” Chớp mắt đã đến mùa thu lá vàng rơi rụng, trong Lưu phủ lại có đại hỉ sự, Lưu Trấn Sinh nạp thiếp. Lão thái gia gần tám mươi tuổi kiếm được một a đầu mặt như quả táo hồng, mắt hạnh, càm đào, a đầu này lấy tên Hồng Lịch, nói là mười bảy tuổi nhưng nhìn vào chỉ khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Ba ngày trước ngày hỉ sự, chúng tôi đã lo đầy đủ thực phẩm chuẩn bị tiệc, bận đến chân không kịp xỏ giày. Đến ngày vui, Lưu phủ tưng bừng còn hơn cả miếu hội, không ít khách quý có máu mặt trong bạn bè, bà con, giới quân sự, chính trị, hai đường hắc bạch đến dự, tiệc rượu có bốn mươi bàn. Trong tiếng pháo nổ đì đạch, Lưu Trấn Sinh râu trắng áo bào tím cùng với tiểu Hồng Lịch mặt phấn váy đỏ song song bái thiên địa, khách khứa các giới lũ lượt ca tụng nói lão thái gia người già thanh xuân vẫn còn, khoa trương Hồng Lịch là phước tu ba đời. Tôi lặng lẽ xót xa cho Hồng Lịch, Lưu phủ có thế lực này thật là mất màu lục thì khoác màu đỏ. Chồng–già vợ trẻ bái tổ đường xong tiếp theo là vũ hội, chủ yếu là để người ta thưởng thức bộ đồ khiêu vũ quý giá của nhị thái thái Lưu phủ. Trong tiếng nhạc du dương phát ra từ máy đĩa, một số quan chức trọng yếu của giới quân sự, chính trị dìu tình nhân cùng nhảy một vòng “Mạn tứ bộ”, tiếp theo là nhị thái thái Nguyễn Ngọc Hoàn mặc bộ đồ vũ hội thần kỳ ra sàn nhảy điệu “Bạch nhạn vũ” kiểu Mỹ. Người phụ nữ hai mươi sáu tuổi này thân hình mảnh khảnh vẻ mặt không đẹp lắm, ăn nói lỗ mãng, mái tóc thì chải kiểu sóng dợn thời trang nhất, bộ vũ y này được nhập khẩu, là hàng Mỹ giá trị liên thành. Vũ y có phần ngực đẹp như hoa sen mới nở, bên dưới xanh biếc như liễu mùa xuân, chất liệu toàn thân mỏng như cánh ve lại như sương mỏng, trên lai váy điểm xuyết sợi tơ vàng bạc, khi múa gió cuộn khiến người ta hoa cả mắt, người ngắm nghía vỗ tay rần rần khen ngợi. Tôi tin chắc chỉ có người của Lưu phủ mới có bộ vũ y thần kỳ như vậy. Sau vũ hội mới đến yến hội. Bưng thức ăn, chạy rót rượu, bọn a hoàn chúng tôi tất bật muốn đứt hơi. Yến hội kéo dài tới ba giờ chiều vẫn chưa kết thúc. Một số quan viên trọng yếu lúc đầu áo mũ chỉnh tề, uy nghiêm đáng kính, uống say rồi thì kẻ nào cũng lòi ra thói xấu, chưởi thề, la lối, tìm phụ nữ phá khuấy, không giống con người. Tôi không muốn lẫn trong đám nhơ nhớp này nên tìm cơ hội chạy khỏi khách đình đi tìm chim anh vũ biết gọi đại tiểu thư. Đi gần đến cổng, con chó đen ngoắc đuôi mừng tôi. Tôi cảm thấy những cầm thú này còn có thể gần gũi hơn đám người của Lưu phủ. Tôi sờ sờ ngực của chó đen, bất ngờ hắc cẩu giật dây xích nhào vào trong lỗ cổng sủa oang oang ra ngoài đường. Tôi nghĩ chắc lại có người nghèo đến, có phải lại là ông lão lượm bã trà hôm đó đến không? Tôi đá hắc cẩu một cái rồi chạy ra ngoài cửa. Bên dưới bậc thang có một ông lão đội nón cỏ rách, áo quần lam lũ khom lưng đứng đó. Tôi đang muốn hỏi lão tìm ai thì lão ngẩng bộ mặt ốm o dơ bẩn nói với tôi: — Con ơi, gặp được con rồi, con của cha. Tôi vừa thấy người này bất giác giật nảy người. Cha tôi! Cha tôi so với trước kia càng bệ rạc hơn nhiều, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, ông hoàn toàn thành một con quỷ ghiền thuốc nặng. Tôi thấy xót xa nhưng mau chóng nổi lên lửa giận, quay đầu đi vào trong sân. — Con ơi! – Cha tôi gọi quá thảm thương, khóc lóc van xin – Con ôi! Đời này của cha thật sự hết rồi. Cha lại hút thuốc phiện, một xu cũng không có. Hiện giờ hết đường để đi, con có tiền cho cha vài đồng đi. Tôi càng nhìn bộ dạng thiểu não của cha càng sôi gan, từng hình ảnh cũ tràn về, đồng thời cũng nhớ đến Hồng Thu suýt mất mạng. Bi kịch của Hồng Thu dẫn đến cái chết thê thảm của đại tiểu thư không phải đều do người cha hút thuốc phiện đó sao. Tôi cứng lòng, nghiêm khắc tuyên bố với cha: — Tôi không phải là con gái của ông. Ông đã bán tôi rồi, tôi không có cha, tôi là Lưu Hồng Chi, a hoàn của đại tiểu thư Lưu Thanh Hàn, ông đi mau đi! – Tôi hầm hầm trở vào trong đại viện. Cha vẫn ở ngoài gọi: — Con ơi, con không thể không nhận cha của con... Tiệc cưới của Lưu phủ kéo dài đến lúc lên đèn mới tan. Bọn người hầu chúng tôi ăn sơ sài chút cơm thừa canh cặn rồi vội vội vàng vàng rửa chén bát lau bàn quét sân. Ai nấy đều mệt đến đầu váng mắt hoa. Bọn tôi vừa muốn trở về nghỉ ngơi đột nhiên trong phòng hoa chúc của lão thái gia vang lên tiếng la lối khóc lóc của nhị thái thái Nguyễn Ngọc Hoàn: — Cha ơi, không xong rồi, trong nhà có kẻ trộm, bộ vũ y nhập khẩu của con đã bị người ta lấy cắp mất rồi. Đám hạ nhân bọn tôi sợ thất sắc, mặt mày xám ngoét. Tôi biết một trận bão táp sắp giáng xuống. Dựa vào tính tình điêu ngoa, ngang ngược của nhị thái thái nhất định sẽ quậy đến trời nghiêng đất lở. Hoại Tam lẹ lẹ lùa bọn tôi trở vào phòng khách. Lưu Trấn Sinh còn mặc đồ tân lang chống cây ba toong được cô tiểu thiếp Hồng Lịch mới cưới đỡ một bên uy nghiêm lẫm lẫm bước vào, theo sát sau lưng là nhị thái thái khí thế hung hãn. Đám người hầu, a hoàn đều tim đập thình thịch mất vía nhìn nhau. Lưu Trấn Sinh nhăn tít da mặt đứng giữa nhà dọng ba toong xuống đất, hai tay đặt trên đầu gậy. Ai nấy như bầy dê hồi hộp chờ đợi trách phạt, nhưng lão lặng thinh, đôi mắt gian tặc sáng quắc nhìn chằm chằm một lượt từng kẻ hạ nhân rồi chuyển ánh mắt vào nhị thái thái. Nhị thái thái tằng hắng cất giọng the thé nói: — Mọi người nghe đây, vũ y của ta đã bị lấy cắp, ai trộm ta đã biết, chim bay tất có bóng. Ai trộm hãy tự cung khai đừng chờ động đến gia pháp. Kẻ nào lấy cắp vũ y mau bước ra. Mọi người im thin thít. Trong sảnh lớn im lặng đến ngộp thở. Đôi mắt gian tặc của Lưu Trấn Sinh vẫn như cũ nhìn chằm chằm vào sắc mặt từng người. Nhị thái thái không chờ lâu, bộp hai bạt tai vào a hoàn gần bà nhất, tiếp theo bạt tai từng đứa a hoàn. Mặt tôi cũng hứng hai bạt tai nhưng không ai dám khóc chỉ đưa tay vò vò bộ mặt rát bỏng. Lão ác sói Lưu Trấn Sinh đầu tiên tằng hắng một tiếng, tiếp theo cười bén như dao, chậm rãi nói: — Mợ hai bọn bây mất vũ y. Bọn bây đều là kẻ hầu của Lưu gia đương nhiên phải triệu tập bọn bây đến nhưng không phải người nào cũng đều là kẻ gian. Triệu tập bọn bây đến là muốn bọn bây cung cấp manh mối. Hôm nay là ngày vui của ta, người qua lại đông đảo, có ai ra ngoài thời gian hơi lâu, có thể lấy đồ đi bán; thân thích của ai đến thừa cơ lấy đồ mang đi; hoặc giả là có người ngoài thừa cơ hội trộm đi. Nếu ai cung cấp manh mối ta trọng thưởng, nếu biết mà không nói bọn ta hỏi được thì khi đó tiêu đời. Lời nói của Lưu Trấn Sinh khiến đám hạ nhân hoạt bát hẳn lên, có tiếng bẳn bạc lào xào. Bọn người mệt muôn đứt hơi đều oán hận kẻ trộm vũ y này làm liên lụy mọi người không được nghỉ ngơi, rất nhiều người nghĩ manh mối. Đột nhiên có tiểu a hoàn la toáng lên: — Con có manh mối. Âm thanh này vang lên thu hút mọi ánh mắt. Mặt Lưu Trấn Sinh điểm nụ cười. Nhị thái thái vừa thấy Hồng Ngư, a hoàn của phòng mình, bà toét miệng cười bước qua, khom người xuống hỏi: — Hồng Ngư, ai trộm vũ y? Đừng sợ, cứ mạnh dạn nói. Tôi ngàn vạn lần không ngờ ngón tay của Hồng Ngư còn ghê gớm hơn họng súng chỉ thẳng vào tôi: — Là Hồng Chi! Ánh mắt mọi người lập tức chĩa vào tôi. Tôi cho rằng mình nghe nhầm, kinh ngạc hỏi lại: — Hồng Ngư, chị nói là tôi? — Là mày! – Hồng Ngư nói một cách khẳng định. Tôi hỏi ngược: — Chị có chứng cứ gì nói là tôi lấy cắp vũ y? Hồng Ngư nhất thời nghẹn giọng. Lưu Trấn Sinh cũng hỏi Hồng Ngư: — Mi nói nó trộm vũ y có chứng cứ gì? Hồng Ngư nhìn tôi mấy cái, nói với Lưu Trấn Sinh: — Lão thái gia không phải hỏi thân thích của ai đến sao? Buổi chiều con thấy cha nó đến xin tiền, nó đã ra ngoài một lúc. A! Thì ra là tai nạn do cha tôi mang tới, tôi vội ấm ức giải thích: — Cha con có đến, con chỉ đứng ngoài cửa nói với ông mấy câu, con không có lấy trộm vũ y của thái thái, chuyện này oan uổng cho con quá. Tôi bật khóc nhưng nước mắt của tôi không cảm động được nhị thái thái hung tàn. Nhị thái thái trợn tròn đôi mắt nhào qua tát tôi hai bạt tai, cất giọng the thé chưởi: — Đồ hạ tiện, lấy cắp vũ y của tao đổi tiền mà còn khóc hả? Không lấy lại vũ y cho tao thì tao lấy mạng mày! Tôi cao giọng kêu oan: — Con không lấy cắp. — Mày còn không nhận tội? – Nhị thái thái giơ tay túm lấy bím tóc tôi quấn một vòng lên cổ tay giật mạnh tới trước, tôi dập mặt xuống sàn. Tôi chỉ cảm thấy trên đầu trên sống lưng bị nắm đấm, bàn tay, bàn chân đánh đá loạn xạ. Tôi giãy giụa kêu la: — Oan uổng quá... Con oan uổng quá... Cuối cùng lão thái gia ngăn cản trận loạn đả này, lão tách nhị thái thái và đám người hầu kia ra, cố ra vẻ chủ trì công đạo nói: — Cho dù nó trộm vũ y cũng không được đánh đập nó như vậy. Nó không thừa nhận thì có pháp luật trị nó. Hoại Tam, đưa nó đến Sở Công an đường Đinh Tự đi. Vậy là tôi ngồi tù, tôi ngơ ngác trở thành một tên trộm trong nhà tù tối tăm ẩm thấp, hôi thối nhiều chuột như là địa ngục này. Lúc này tôi càng nhớ đại tiểu thư Lưu Thanh Hàn, nếu tiểu thư còn sống sự việc không đến nông nỗi này. Ngày hôm sau, tôi bị cảnh sát đưa đến phòng thẩm vấn. Chính giữa phòng đặt một cái bàn dài, tên sở trưởng mập đen ngồi phía sau bàn. Người này chính là Phùng sở trưởng, ở cổ có mọc một chùm lông đen, từng khiêu vũ ở Lưu phủ. Hai cảnh sát mặc đồ vàng phân ra đứng hai bên, bên phải còn có Hoại Tam, con chó chạy việc của Lưu gia. Lần đầu tôi đứng ở vị trí bị thẩm vấn lòng đầy sợ hãi giống như mình đúng là tên trộm. Phùng sở trưởng hất cái cằm bạnh hỏi tôi: — Mày là Lưu Hồng Chi, a hoàn của Lưu gia công quán? — Vâng. – Tôi đáp. Phùng sở trưởng đưa con mắt ti hí quan sát tôi tỉ mỉ lại nói: — Đây là Sở Công an, mày phải nói thực để tránh chịu khổ. Mày trả lời đi, mày đem vũ y trộm được giao cho ai? Hoặc bán cho kẻ nào? Tôi vô cùng uất ức, quỳ sụp xuống đất khóc kể: — Sở trưởng lão gia, con bị oan ức lắm. Con không có lấy trộm vũ y của nhị thái thái. Phùng sở trưởng vỗ bàn cái rầm, quát: — Giặc con, còn không biết tốt xấu, vũ y không phải mày trộm thì là ai? Nhà mày nghèo, cha mày lại hút thuốc phiện, hôm qua cha mày đến xin tiền, mày thừa cơ trộm vũ y đi, có phải không? Tôi nghe giọng điệu của Phùng sở trưởng giống hệt người nhà Lưu gia, cũng liền lớn gan nói: — Không phải, con không có ăn trộm. — Hả? Giỏi, để coi mầy có chịu khai không. Nào, đánh vào tay bốn mươi cái. Hai cảnh sát lập tức đến vách tường phía đông rút xuống một cây thước bảng tre. Một cảnh sát mở bàn tay tôi, một người ra tay đánh, chan chát. Mỗi thước đánh xuống tôi đau quá kêu: — Mẹ ơi! Họ đánh tay trái rồi đánh sang tay phải. Đau đớn chịu bốn mươi thước tre, hai bàn tay tôi đã sưng vù, tôi khóc hu hu. Phùng sở trưởng cười gằn mấy tiếng, hất bộ mặt như gấu lên hỏi: — Thế nào? Mau nhận tội đi. Không nhận tao treo mày lên cây đánh tiếp. — Khoan đã, khoan đã! – Hoại Tam ra mặt, hắn khom mình với Phùng sở trưởng cười cười xin – Sở trưởng, để tôi khuyên nó trước đã. Phùng sở trưởng khoát bàn tay mập ú, Hoại Tam kéo tôi đến góc tường, nhe hàm răng vàng khè, cười cười nhỏ tiếng nói: — Con nhóc, ở đây không có người ngoài, cho chú biết mày đem đồ cho ai, bất kể là thật hay giả chú cũng sẽ nghĩ cách vẹn toàn cho mày. Giả tình giả nghĩa của Hoại Tam thật sự đánh động tôi, khi đó tôi quá nhỏ rất cần có người lớn bảo vệ, đại tiểu thư không còn, tôi còn biết dựa vào ai chứ? Dựa không được nhành trúc tôi đành dựa vào dây thừng. Tôi liền quỳ trước mặt Hoại Tam khóc không thành tiếng nói: — Chú Tam, con thật sự bị oan. Xin chú hảo tâm cứu con với. Hoại Tam gật đầu nói: — Nói hay, nói hay, mày chỉ cần nghe theo chú là được rồi. — Con nghe, con nghe. — Được, được. – Hoại Tam đưa cái miệng đầy răng vàng khè kê sát tai tôi nói – Hồng Chi, để mau chóng dứt điểm chuyện này, mày phải thừa nhận mày trộm vũ y. Tôi lập tức lắc đầu nguầy nguậy: — Không được, không được. Hoại Tam ấn một cái vào vai tôi nói: — Con nhóc, chuyện hôm nay mày không thừa nhận không được. Hảo hán không kể thiệt thòi trước mắt, nếu mày ngang bướng họ trói mày lên cây đánh, cuối cùng thì mày cũng phải nhận, việc gì phải chịu khổ chịu trận roi đó. Mày nhận mày trộm vũ y nhưng không đưa cha mày mà nói bán cho một kẻ lượm ve chai, để tao trở về báo cáo thì xong việc. Nếu không, roi đánh, sắt nướng đến lúc đó chú cứu mày không được đâu. Tôi nghe Hoại Tam nói cũng có lý liền gật đầu. Hoại Tam liền cười hắc hắc, xá Phùng sở trưởng một cái, nịnh bợ nói: — Phùng sở trưởng, tôi năm lần bảy lượt thuyết phục được nó rồi. Áo là do nó trộm. Hồng Chi, nói đi. Tôi chiếu theo lời Hoại Tam dạy nói ra một lượt. Phùng sở trưởng toét miệng cười ha hả một hồi, vỗ bàn mắng tôi: — Con ranh mất dạy! Nào, dẫn nó ra đường tìm người mua y phục đó. Tìm không được y phục, mẹ nó, tao treo lên ngọn cây đánh chết mày. Lần này tôi thất kinh nhìn Hoại Tam cầu cứu. Hoại Tam nhìn xuống giả lơ. Một cảnh sát đá chân tôi nói: — Đi thôi, đừng đứng đó giả ngây thơ. Tôi biết mắc bẫy rồi, trở quẻ đã muộn, chỉ đành ra đường mò mẫm lòng vòng, đi tới đâu tính tới đó. Người mua kẻ bán và mùi vị các loại thực phẩm trên đại lộ réo gọi cơn đói khát trong bụng tôi. Tôi qua tôi ăn chưa no, cơm sáng lại không được ăn, bao tử nóng rực lên, hai chân mềm nhũn, chóng mặt hoa mắt. Đi một đoạn tôi chống chọi hết nổi ngồi bệt xuống đất, một cảnh sát đá vào chân tôi, cảnh sát kia đuổi đám người tò mò bu coi. Đúng lúc này trên đại lộ có một ông lão mua ve chai gánh hai sọt tre bước tới. Ông lão vừa đi vừa rao: — Mua đồng nát đây... quần áo cũ, giày cũ, báo cũ đây... Sau lưng tôi có người đẩy một cái, lại là Hoại Tam. Hoại Tam xúi giục tôi: — Hồng Chi, nghe chú an bày, thấy chưa? Ông lão đó chính là người mua y phục của mày, mau báo cảnh sát, chỉ cần một câu của mày chúng ta có thể về phủ báo cáo, mau đi! Tôi thơ ngây nào biết lợi hại của câu nói này, chỉ muốn mau về phủ ăn chút gì, tôi hồ đồ mắc lừa Hoại Tam, liền chỉ vào ông lão phía trước nói: — Cảnh sát, người mua y phục của tôi chính là lão. Hai cảnh sát liền nhào qua, mỗi người tát ông lão một bạt tai. ông lão còn chưa tỉnh hồn đã bị cảnh sát trói lại áp giải về Sở Công an. Họ dùng nghiêm hình bức cung, tay đấm roi quất, ông lão tức đến nỗi suýt đâm đầu vào người tôi. Phùng sở trưởng vội kết án, cho người treo ông lão lên cây giữa sân đánh một trận roi, chỉ một lát ông lão đã máu thịt lầy nhầy hấp hối. Tôi sợ mất hồn, ông trời trên đầu tôi như có đôi mắt sáng vừa đẹp đẽ vừa sắc bén giám sát tôi. Tôi hối hận cực kỳ, thương xót cho ông lão bất hạnh. — Đừng đánh nữa, sở trưởng, lão bị oan. Phùng sở trưởng trợn đôi mắt hí: — Lão bị oan? Tôi nói theo lương tâm: — Ông lão bị oan, con căn bản không bán đồ cho lão, con không biết lão. Con cũng không trộm đồ, đều do Hoại Tam biểu con hại lão. Hoại Tam hết hồn chửi tôi: — Mẹ nó, mày nói bậy gì vậy? Phùng sở trưởng quát lớn như sét đánh: — Hay cho con quỷ nhỏ này, đem đại gia mày ra làm trò đùa hả. Một lát nói không trộm một lát nói trộm bán cho ông lão này, một lát lại cắn ngược vào Hoại Tam, không cho mày nếm chút mùi thì mày không biết sự ghê gớm của tao. Treo nó lên đánh cho chết. Phùng sở trưởng vừa nói dứt, hai cảnh sát hùng hổ bước tới, trói quặt cánh tay tôi. Tôi hết sức vùng vẫy, quơ quào hai chân, hét toáng lên: — Oan uổng quá, chị Thanh Hàn ơi mau đến cứu em. Chị Thanh Hàn ơi... — Khoan đã! – Một tiếng quát uy nghiêm của phụ nữ vang lên khiến sở trưởng và hai cảnh sát giống như con rối bị dứt dây điều khiển đứng sựng lại. Ngoài cửa bước vào một phụ nữ độ khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, eo nhỏ chân dài, mắt sáng môi son, mặc áo sườn xám kiểu mới sát nách màu xanh da trời, tay phải cầm một tẩu thuốc chạm trổ hoa. Người phụ nữ này chính là vợ yêu của Phùng sở trưởng. Tôi vừa nhìn thấy người phụ nữ này khí thế bất phàm liền nhận định cô là Bồ tát đại từ đại bi. Vừa được mở trói tôi liền giãy khỏi hai cảnh sát chạy đến trước mặt Phùng thái thái quỳ hai gối khóc kể oan án của tôi và ông lão. May quá, lần này tôi lạy đúng thần thánh rồi! Phùng thái thái đưa tay kéo tôi đứng lên, nhằm vào Phùng sở trưởng khoát tẩu thuốc nói: — Thả ông lão xuống trước đã! Phùng sở trưởng ngoan ngoãn hất càm cho thuộc hạ. Hai cảnh sát lập tức thả ông lão đang hấp hối xuống. Phùng thái thái rất rộng rãi, đi đến trước mặt Hoại Tam, trước thưởng cho một gói thuốc điếu, sau đó mỉm cười nói: — Hoại Tam, chỗ này do ta làm chủ, mi về trước đi, nói với lão thái gia là y phục bán cho ta rồi. A hoàn này ta giữ nó lại, mi đừng lo, tất cả hậu quả do ta gánh. Hoại Tam mặt khổ sở nhướng nhướng con mắt gian thần, y phục không tìm về được trái lại mất toi một a hoàn, nhưng gã không dám phản đối đành phải thấp thỏm chuồn về. Phùng thái thái cũng muốn cho chồng chút thể diện, quay mặt qua mỉm nụ cười ngọt ngào nói với chồng: — Sở trưởng à, nể mặt em một chút, phái người đưa ông lão về, cho lão ít tiền trị thương. A đầu này em muốn giữ lại trong nhà sai khiến. Dựa vào giao tình của chúng ta và Lưu gia, lão thái gia nhất định nể mặt mà giơ cao đánh khẽ, sở trưởng thấy sao? Phùng sở trưởng chuyên hoành hành ngang ngược vừa thấy vợ đã thành dê con, ông nhìn tôi một lượt rồi khoát tay đồng ý. Phùng thái thái dẫn tôi vào phòng bà lấy nước thuốc thoa lên bàn tay sưng húp của tôi, tiếp theo lấy bánh trái điểm tâm bảo tôi ăn. Tôi đói meo nên ăn như sói nuốt cọp nhai. Phùng thái thái thân ái nói với tôi: — Hồng Chi, chúng ta thật có duyên phận, ta đang muốn tìm một a hoàn. Lưu Thanh Hàn là người con gái ta kính phục nhất, em là a hoàn của cô ấy, dựa vào điểm này ta cũng phải cứu em, thu nhận em, làm con gái nuôi của ta nhé? Tim tôi đập liên hồi. Tôi muốn từ chối nhưng lại sợ rơi vào cảnh quan ty oan uổng vừa rồi nên giả vờ vui mừng và sợ hãi gật gật đầu. Phùng thái thái cho rằng tôi đồng ý nên càng thân thiết hơn, vuốt vuốt mặt tôi gọi: — Con gái, con gái, ăn cơm trước đi rồi thay đồ mới, ngày mai mẹ dẫn con đi gặp một người, người này tên Triệu Ngọc Thành biết khắc gỗ, bảo anh ấy làm cho con một số đồ chơi. Phùng thái thái lập tức bảo người bày ra bữa cơm tối thịnh soạn. Tôi ăn no ứ bụng, có chút sức lực liền thân thiết gọi: — Mẹ, về sau con là con gái nuôi của mẹ. Con đi nhà xí trước rồi hãy thay đồ. Phùng thái thái không chút nghi ngờ, chắc bà cho rằng tôi ở bên cạnh bà là chuyện tốt cầu còn không được nên đồng ý cho tôi đi ra. Tôi phập phồng vừa đi vừa nghĩ, Phùng thái thái tuy tốt nhưng bà có chồng là sở trưởng xấu xa, tôi lý nào xấu tốt bất phân nhận giặc làm cha. Tôi chạy vào trong nhà xí góc đông nam, thấy không ai theo dõi, âm thầm khấn nguyện: “Lưu Thanh Hàn đại tiểu thư, xin cô trên trời linh thiêng giúp em lần nữa, giúp em trốn khỏi nơi này”. Thừa lúc đêm tối không người tôi cố sức bò lên mấy cây gỗ dựng bên tường, nén tay đau bò lên tường cũng bất kể bên dưới tối đen là giếng hay sông cứ liều mạng trượt xuống. Ra khỏi Sở Công an, tôi chạy trối chết mấy cây số mới dừng chân dưới gốc cây lớn ở ngã tư đường thở hồng hộc. Trên đường tối mịt mù không một chút âm thanh không bóng người qua lại. Bỗng một đám chó hoang vây tấn công tôi, tôi sợ quá cúi xuống lượm một cục đá, đám chó hoang mới chạy đi. Tôi phải đi đâu để an thân đây? Trong đêm khuya, tiếng mõ canh xa xa vọng lại, tôi biết đã canh hai, còn lâu lắm trời mới sáng, tóm lại phải tìm một nơi nghỉ ngơi. Tôi nhắm một con đường đi không mục đích, phía trước không xa có một gian nhà nhỏ bay ra mùi thối, đó chính là nhà xí, trên con đường này nhà duy nhất mở cửa, có thể vào cũng chỉ có nhà xí. Tôi mệt rã rời bước vào nhà xí, nhịn mùi thối tìm một nơi dựa tường ngồi xuống. Suốt mấy đêm không ngủ ngon giấc cho nên vừa đặt đít xuống thì hai mắt tôi đã díu lại ngủ vùi. Đột nhiên tôi bị một vòi nước nóng hổi tưới cho tỉnh ngủ, tôi nhảy dựng mắng: — Thằng quỷ nhỏ, mày đái vô đâu vậy? Người đang đi tiểu giật mình hét: — Có quỷ! – Rồi nó kéo quần chạy đi. Khi tôi nghe tiếng huyên náo ồn ào của phố chợ thì trời đã sáng rõ. Quán xá quầy hàng trên phố đã hoàn toàn mở cửa, đủ thứ âm thanh chào mời nhộn nhịp, đủ thứ mùi hấp dẫn khiến con đường nhỏ giống như khúc dồi trường ngũ vị. Tôi đi xuyên qua mùi vị của bánh nướng, bánh chéo quẫy, gánh mì, đủ loại điểm tâm, chỉ cảm thấy cuống họng khô khốc như bị một bàn tay quào quào. Người không tiền, tứ cố vô thân như tôi, chuyện khó cần đối phó đầu tiên là cơm ăn. Tôi mơ tưởng có ai đó đánh rơi túi tiền, thế là tôi cắm đầu nhìn trên đất, chạy tới chạy lui trên con đường dơ bẩn đó, chỉ có cây cỏ, cứt chó, còn một biện pháp duy nhất nữa là dày mặt xin ăn. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi xin, cụp mắt, không dám nói, cứ len lén liếc những khách thương có tiền đi lướt qua bên mình. Tôi chờ đợi rất lâu, cuối cùng đem hy vọng gởi gắm vào một bác mập bên quầy chéo quẫy. Tôi đi về phía quầy chéo quẫy chiên thơm phức đó, xòe bàn tay nhỏ ra, giọng run run đáng thương nói: — Bác ơi cho con xin chút thức ăn, hai ngày rồi con không có cơm ăn, bác ơi... — Cút ngay! – Người đó liếc tôi một cái, tiếng quát dữ tợn vang lên khiến tôi thoái lui một bước. Lần đầu vấp phải “đinh” không còn nói nên lời nữa, tôi dành theo cách cũ đứng ngờ nghệch ven đường, đưa bàn tay nhỏ quẹt nước mắt, người qua kẻ lại nhìn tôi như không thấy, mặt mũi họ dửng dưng. Từ sáng sớm đứng đến quá trưa tôi vẫn không xin được chút gì. Sau đó có một cô gái ăn mặc trang điểm diêm dúa như kỹ nữ nhét vào tay tôi hai xu. Tôi quỳ lạy người phụ nữ đó, nhưng hai xu này không đủ mua một cái bánh nướng, thế là tôi vào tiệm trà mua hai bình trà hạng bét ực hết vừa nước vừa lá vào bụng. Bụng tôi tròn căng nhưng kêu rồn rột phải chạy đi tiểu hai lần, giống như tất cả thức ăn vốn có trong bao tử bị nước trà tẩy sạch. Tôi không khác con chó hoang nhỏ bắt đầu lục lọi trong giỏ rác ven đường moi tìm hạt cây, lá trà, xương gà để ăn. Đến ngày thứ ba tôi đói mờ mắt, hai mắt nổi sương đen, lỗ tai lùng bùng. Tôi nghĩ chắc mình sẽ chết đói, liền tìm đến một bệ đá yên tĩnh bên đường, hai chân mềm nhũn ngã xuống bất tỉnh. — Hồng Chi, là cháu phải không? Tỉnh dậy, tỉnh dậy, Hồng Chi... Dường như trong giấc mơ tôi nghe có người gọi tên tôi. Quái lạ, tôi là kẻ tứ cố vô thân sao ai biết được cái tên của tôi ở Lưu gia công quán chứ? Ai da, có phải Lưu gia cho người đến bắt tôi. Tôi kích động mở bừng mắt, trước mắt tôi là một ông lão ăn xin tóc dài lạ hoắc. Ông lão ăn xin này áo quần cũ rách, mặt mày nhăn nhúm, trên lưng vác một sọt tre rách chứa đầy đồng nát. Tôi lại giật mình, có phải ông lão mua đồng nát bị tôi vu oan đó chết rồi hồn lão tìm tôi báo thù? — Ông là ai? – Tôi hết hồn hỏi. Ong lão híp mắt cười thân thiết: — Không nhận ra sao? Cháu không phải Lưu Hồng Chi, a hoàn của Lưu phủ sao? — Đúng vậy – Tôi càng kinh ngạc. Ông lão đưa ngón tay giống hệt rễ cây táo đen xỉ vào đầu tôi, lắc đầu cười nói: — Cháu đó, thật là quý nhân hay quên. Nhớ lại đi, lão bị chó Lưu gia cắn, cháu băng vết thương cho lão, cho lão thức ăn, hai đồng tiền... — A! – Tôi mừng vui reo lên – Lão gia gia, là lão sao? – Tôi muốn đứng lên nhưng trước mắt tôi tối sầm. Ông lão khom người đỡ tôi, nhìn sắc mặt tôi hỏi: — Sao cháu đến nước này? Cháu chưa ăn cơm phải không? Tôi rũ rượi lắc đầu nói: — Cháu đã ba ngày không ăn gì. Ông lão không nói một lời, đặt sọt xuống, moi từ trong đống giấy vụn ra một cái bát sành cũ nhét vào lòng tôi, tôi mở lớp giấy bịt miệng, là nửa bát cơm trắng và nửa cái đầu thỏ chín. Vừa thấy thức ăn, con quỷ đói trong tôi vội vàng chụp lấy đầu thỏ nhét vào lòng, xòe bàn tay bốc cơm lên nuốt, trong chớp mắt ăn sạch nửa chén. Trong bao tử tôi có thức ăn, cơm vừa mới ăn bốc ra mùi hôi. Tôi bốc cơm lên xem, cơm kéo nhựa. — Lão gia, cơm này thiu rồi – Tôi toét miệng nói. Ông lão lại đẩy cái bát qua cho tôi nói: — Cháu à, cơm ngon ai cho chúng ta ăn, cái này đối với chúng ta cũng kể như cơm tết, bình thường lão rất hiếm ăn được hạt cơm. Ăn đi. Nghe ông lão, tôi nín mũi vét sạch bát cơm. Tôi lôi đầu thỏ ra, định ăn một miếng thịt để át mùi cơm thiu, vừa nhìn trên thịt đỏ có rất nhiều giòi trắng tôi lập tức nhộn nhạo muốn ói. — Ông ơi, thịt có giòi rồi! Ông lão nắm chặt tay tôi có lẽ sợ tôi ném bỏ đầu thỏ, lão đón lấy đầu thỏ như bảo bôi nói: — Cháu à, món này có được càng không dễ. Cháu có biết, lão từng tuổi này mà vì cái đầu thỏ này lão phải gọi người ta bao nhiêu tiếng ông nội không? Cháu à, ăn đi, người đến nước này cũng không thể xét nét quá. Chúng ta cùng ăn nhé, giòi cũng là thịt mà. Ông lão xé một miếng thịt, ngay cả giòi cũng cho luôn vào miệng ăn ngon lành. Tôi thấy vậy cũng không muốn ói nữa, lấy nửa đầu thỏ cùng ăn. Ông lão bật cười, ông hỏi tôi tại sao đến nước này, tôi liền đem chuyện quan trường oan uổng, vụ nhị thái thái mất vũ y kể một lượt. Ông lão gật đầu thở dài nói: — Chạy ra được cũng tốt. Cháu không có chỗ ở phải không? Đến ở chung với lão, sau này ông cháu ta dựa nhau mà sống. Không biết cháu có chê bai ông lão này không? Tôi vui mừng nhảy lên ôm vai ông lão nói: — Tốt quá, ông nội, đây chính là chuyện cháu cầu mà không được. Ông nội vỗ vỗ cái đầu nhỏ của tôi, cười ha hả rung rinh chòm râu bạc: — Đi thôi, theo ông về nhà. Đây là duyên phận của chúng ta. Lão có cháu nội gái rồi nè, ha ha... Tôi cũng không hỏi đi đâu cứ theo ông lão, bỗng nhiên có một ông nội lại có một cái nhà, tôi cảm nhận được một thứ hạnh phúc lớn lao tìm được người thân. Chúng tôi một già một trẻ nói nói cười cười đi đường xuyên hẻm đến cửa nam. Ông nội dẫn tôi đến trước một cái lầu cổng gạch phía tây đường Nam Đại, rút chìa khóa mở cổng ra. Tôi vừa nhìn thấy cổng sơn đen rất hoành tráng, thầm nghĩ, nhà của ông nội đâu có tệ. Cổng mở rồi, tôi theo ông nội bước vào ngạch cổng, kinh hoảng thoái lui, ớn lạnh sống lưng, đây là đâu vậy? Dưới mái rạp âm u trong sân xếp từng lớp quan tài người chết. Ông nội thấy tôi không dám vào nên bước ra kéo tay tôi nói: — Cháu à, đừng sợ, đây là nhà tang lễ của tộc Lưu Trấn Sinh đường Nam Phủ. Tôi “Á” lên một tiếng, giãy khỏi ông nội thoái lui hàng mấy bước, không ngờ tôi chạy tới chạy lui vẫn chạy không khỏi bàn tay Lưu Trấn Sinh. Tôi sợ hãi từ biệt ông nội để chạy trốn, ông nội kéo tôi lại nói: — Cháu à, đừng sợ, ở nơi đây là an toàn nhất, nơi này người Lưu gia hiếm đến, có mua quan tài Hoại Tam mới dẫn người đến một lần, đến khi đó cháu chỉ cần nấp đi thì được rồi. Ông nội ở đây hơn một năm chưa từng gặp qua Lưu Trấn Sinh. Ông nội kể tôi nghe lai lịch của ông, ông vốn họ Thích, ba năm trước tiệm bánh nướng của ông bị hỏa hoạn, vợ và con trai ông bị thiêu chết, còn ông linh đinh một mình, men đường ăn xin, vào ở nhà tang lễ này. Lão canh quan tài cho họ Lưu, buổi tối ra đường đánh mõ canh, gõ mõ ba lượt, mỗi tháng Lưu gia trả cho lão hai đồng lương, bình thường nơi này coi như lão là bá chủ thiên hạ. Nghe ông nội kể tôi an tâm phần nào. Chúng tôi ở trong một gian nhà ngói nhỏ góc tây bắc của nhà tang lễ, lót cỏ làm giường, dùng gạch làm lò, một cái nồi sứt, hai cái chén mẻ, còn có một cái phèng la. ông cháu tôi ban ngày ra đường ăn xin, buổi tối chui vào giường cỏ ngủ. Nơi đây yên tĩnh cực kỳ, trừ bồ câu hoang và chích chòe thì chỉ có hai ông cháu. Tôi đem những thứ hạt quả, rễ khoai, bánh vụn, xương gà, lá trà nát tích trữ lại, đốt lò gạch đổ nó vào nước sôi làm “cơm” sáng và tối. Cuộc sống tuy khổ nhưng tôi thấm thìa được tình thân ái giữa người với người. Tôi và ông nội thường chọc nhau, thọc lét nhau, gõ đầu nhau, cùng chơi trò cưỡi ngựa trốn tìm. Trời se lạnh tôi mới biết ông nội bị bệnh viêm phế quản và sưng phổi. Chúng tôi không thể đốt lửa nấu cơm trong nhà, ông nội vừa ngửi khói thì ho sù sụ không ngớt. Tôi ra ngoài đốt lửa làm “cơm” để ông nội nghỉ ngơi nhiều. Tôi thường thay ông nội đi gõ mõ canh. Hai ông cháu sống êm đẹp hơn một tháng. Hoại Tam của Lưu phủ có ghé qua hai lần. Tôi chỉ cần chạy nấp sau quan tài khác thì trăm việc vô sự. Người mua quan tài xong thì đi, không ai muốn lân la nơi này. Thời tiết càng lúc càng lạnh. Quần áo trên người chúng tôi không những không có thêm trái lại càng rách nát hơn lúc đầu: quần áo của tôi lủng lổ chổ, đôi giày cũng lộ cả ngón chân, giày của ông nội tuy rách hơn nhưng ông không sợ lộ thịt, chân ông bị chai một lớp da dày cứng như sắt, giậm lên trái lê cũng có thể nghiến nó thành bột, nhưng chân nhỏ của tôi thì quá non nớt. Có một hôm, vào bới thức ăn trong đông rác, chân phải của tôi giẫm lên một cây đinh sắt, ngón chân cái bị đâm thủng máu tuôn dầm dề, chỉ mấy ngày ngón chân cái đã sưng vù như quả táo, viêm đỏ mưng mủ, toàn thân tôi nóng sốt. Tôi không thể đi xin, một mình ông nội xin về nuôi tôi. Tôi thêm lo lắng, ngón chân càng lúc càng mưng mủ, tôi thường hay cáu kỉnh, ông nội vỗ tôi như vỗ bé con, tôi giận ngón chân mình không biết điều, giận đến phát khóc. Một đêm khuya tôi lại cảm thấy chân đau buốt, tôi bị một cơn ho đánh thức, vừa mở mắt thấy trong phòng ánh lửa sáng rõ, a, là ông nội đang đốt một nhánh cây tùng, lôi ngón chân mủ của tôi vào miệng nút. — Đừng động đậy! – ông nội bảo. Tôi cứ mở mắt trừng trừng nhìn ông hút ngón chân mủ của tôi, hút xong ông quay mặt qua phun ra một ngụm máu mủ, chân của tôi từ khi chạy ra khỏi Lưu phủ chưa từng rửa vừa dơ vừa thối nhưng ông nội hình như không quan tâm, nhổ ra năm sáu ngụm máu mủ, lại dùng móng tay khều một hồi, sau đó móc từ trong ngón chân tôi ra một cây đinh nhọn dài cỡ nửa lóng tay. — Ha ha cháu à, vậy là êm rồi, thì ra nó giở trò quỷ. Chân tôi quả nhiên không còn đau nữa. Ba ngày sau tôi có thể bước đi, năm ngày sau tôi có thể ra đường cùng ông nội đi ăn xin. Việc ông nội hút ngón chân mủ trị thương cho tôi khắc ghi sâu sắc trong ký ức tôi. Chớp mắt đã đến rét đậm, bệnh ông nội càng nặng, ông ho sù sụ suốt đêm, hít thở khó nhọc, lạnh đến cóng người rên hừ hừ không ngớt. Tôi vắt óc suy nghĩ, làm cách nào mới có thể đốt ít lửa trong phòng để sưởi ấm. Tôi nhớ đến những nhánh cây khô ven sông Hộ Thành. Cây khô sẽ không tuôn khói, vậy là tôi đạp lên tuyết dày chạy ra bờ sông. Vì ông nội tôi phải tập leo cây, tôi giống như một thằng nhóc hoang dã bám vào mấy nhánh cây liễu già đã bị côn trùng cắn chết khô, bẻ xuống rất nhiều nhánh cây khô vác về nhà chất thành lò trong phòng để vừa sưởi ấm vừa nấu “cơm” cho ông nội. Nhưng tôi đã lầm, mấy nhánh củi khô đáng ghét này bên ngoài trông có vẻ khô nhưng bên trong lại ướt, nhóm lửa không lâu thì khói mờ mịt gian phòng nhỏ, ông nội ho dữ dội không ngừng, suýt chết ngạt. Mắt tôi bị khói xông chảy ràn rụa, đành khiêng ông nội ra đất tuyết bên ngoài. Khi tôi nấu “cơm” xong, khói cũng đã bay hết, trong phòng cũng ấm áp hơn thì ông nội đáng thương của tôi đã đông cứng ngất xỉu trong đất tuyết. — Ông nội, ông nội ơi, tại con hại ông nội! """