"Thánh Địa Tội Ác - William Faulkner full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thánh Địa Tội Ác - William Faulkner full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội] Ebooks Nhóm Zalo Thánh Địa Tội Ác William Faulkner Dịch giả: TRẦN NGHI HOÀNG NXB: Văn học Phát hành: Công ty Sách Bách Việt Năm: 2012 Dựa theo nguyên tác: Sanctuary - Random House - 1931 Nguồn sách và ảnh: [VCTVEGROUP] Chuyển thể ebook: amylee tve-4u.org William Cuthbert Faulkner (tên khai sinh là Falkner) Là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, ông được trao giải Nobel Văn học vào năm 1949. Sánh vai với Mark Twain, Robert Penn Warren, Flannery O’Connor, Truman Capote, Eudora Welty, Thomas Wolfe, Harper Lee và Tennessee Williams, ông trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất của nền văn văn học miền Nam nước Mỹ. William Faulkner, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, sinh ngày 25/09/1897 tại New Albany, Mississippi. Ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, The Marble Faun vào năm 1924, một tuyển tập những bài thơ nhưng lại giống như biên niên sử văn học về cuộc sống ở các tiểu bang của miền Nam nước Mỹ, đặc biệt về địa danh hư cấu Yoknapatawpha, khung cảnh cho một số tiểu thuyết sau này của ông. Chẳng hạn như cuốn Sanctuary (1931), The Hamlet (1940), The Town (1957) và The Mansion (1959), ông miêu tả tỉ mỉ đời sống nội chiến ở miền Nam, chú trọng vào cuộc đời các nhân vật (đặc biệt là những thành viên trong gia đình Snopes) và sự thay đổi đạo đức trong một xã hội đang ngày càng suy đồi. Những tiểu thuyết khác của ông bao gồm The Sound and the Fury (1929), As I Lay Dying (1930), Light in August (1932), Absalom! Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), Intruder in the Dust (1948), Requiem for a Nun (1951), A Fable (1954) và The Reivers (1962). Hai tác phẩm sau cùng đã đem lại cho ông giải thưởng Pulitzer cao quý. Đồng thời ông cũng là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, thơ và tiểu luận. Bằng việc kết hợp chủ nghĩa tượng trưng với tiểu thuyết dòng ý thức, ông đã sáng tạo nên một phương pháp viết tiểu thuyết mới. Vào năm 1949, ông đã vinh dự nhận giải Nobel Văn học. William Faulkner mất tại Byhalia, Mississippi, ngày 06/07/1962. Thánh địa tội ác là một cuốn tiểu thuyết đi sâu vào nghiên cứu bản chất của tội ác, chứa đựng nhiều yếu tố ly kỳ, bí ẩn, dựa trên những truyền thuyết dân gian của địa phương và vụ bắt cóc có thật xảy ra với Temple Drake, thiếu nữ mười bảy tuổi, vô cùng trong sáng ngây thơ nhưng đã bị dẫn dắt vào thế giới ngầm tại Memphis - nơi cô bị những tên xã hội đen giam giữ. 1 Xuyên qua khe hở của những bụi rậm bao bọc quanh con suối, Popeye quan sát người đàn ông đang uống nước. Một đường mòn dẫn từ con đường đến suối. Popeye quan sát người đàn ông - một người cao, gầy, không đội mũ, mặc chiếc quần bằng vải flannel xám và khoác trên tay chiếc áo khoác bằng len sần sùi - bắt đầu từ lúc anh ta xuất hiện từ đường mòn cho tới khi quỳ xuống bên dòng suối uống nước. Dòng suối bắt nguồn từ chỗ rễ sồi và chảy lên trên những xoáy cát. Nó được bao bọc bởi lũ cây mây, thạch nam và bách già cỗi, được viền bởi những tia sáng mặt trời không biết từ hướng nào rọi tới. Đâu đó, ẩn trong chốn bí mật gần đấy, một con chim hót lên ba tiếng rồi ngưng. Ở suối, người đàn ông uống nước nghiêng mặt vào dòng nước với vô vàn tia lấp lánh. Khi ngước lên, anh ta nhìn thấy phản chiếu cái mũ của Popeye, mặc dù không hề nghe thấy một tiếng động nào. Anh đã nhìn thấy, đối diện với mình, bên kia con suối một gã đàn ông nhỏ bé, hai bàn tay của hắn thọc trong túi áo khoác, một điếu thuốc nghiêng xuống cằm. Bộ trang phục màu đen đi cùng áo khoác thắt eo cao. Chiếc quần đóng đầy bùn của hắn xắn lên một đoạn trên đôi giày cũng lấm lem bùn. Mặt hắn kỳ quặc, thiếu máu, cứ như là bị nhìn xuyên qua ánh đèn điện; dưới cái nắng tĩnh lặng, cái mũ của hắn nghiêng nghiêng, hai cánh tay mảnh khảnh chống nạnh, hắn có nét hằn học, nông cạn của dấu in trên thiếc mạ. Phía sau hắn, con chim lại hót ba nhịp đơn điệu liên tục lặp lại: âm thanh vô nghĩa vọng ra từ tiếng thở dài và sự yên bình theo sau một cách tĩnh lặng đó dường như để cô lập chốn ấy, thoát ra sau một giây kế tiếp là âm thanh của một chiếc ô tô băng qua rồi tắt lịm phía xa. Người đàn ông uống nước đã quỳ xuống cạnh con suối. “Tao tin rằng mày có một khẩu súng lục trong túi”, gã đàn ông hằn học nói. Bên kia con suối, Popeye đã xuất hiện và dò xét người đàn ông đang uống nước bằng đôi mắt giống như hai cục cao su đen mềm. “Tao đang hỏi mày đấy”, Popeye nói. “Cái gì đang nằm trong túi của mày?” Áo khoác của người đàn ông nọ vẫn còn vắt trên cánh tay. Anh đưa tay kia về phía áo khoác, lôi ra từ một túi cái mũ phớt nhàu nát, từ túi kia một cuốn sách. “Túi nào?”, anh ta hỏi. “Đừng đưa tao xem”, Popeye nói. “Nói thôi.” Người đàn ông kia dừng tay. “Nó là một cuốn sách.” “Sách gì?”, Popeye hỏi. “Chỉ là một cuốn sách thôi. Loại mà một số người vẫn đọc.” “Mày đọc sách à?”, Popeye hỏi. Bàn tay người đàn ông bất động phía trên chiếc áo khoác. Từ hai bên bờ suối, hai người canh chừng nhau. Điếu thuốc tỏa hơi khói yếu ớt bay ngang mặt Popeye, một bên mặt của hắn nghiêng nghiêng tương phản với làn khói giống như một chiếc mặt nạ được khắc chạm với hai biểu cảm cùng lúc. Từ chiếc túi bên hông, Popeye lấy ra một chiếc khăn tay bẩn thỉu và trải lên mặt đất bên cạnh gót chân. Rồi hắn ngồi xuống, đối diện người đàn ông bên kia suối. Lúc ấy là khoảng bốn giờ chiều tháng Năm. Họ ngồi như vậy, đối diện nhau bên hai bờ suối, suốt hai giờ đồng hồ. Thỉnh thoảng con chim lại hót từ phía đầm lầy, như thể nó làm việc theo giờ vậy và hai lần nữa tiếng những chiếc ô tô vô hình chạy dọc theo đường chính vang lên rồi tắt lịm phía xa. Con chim lại cất tiếng hót. “Dĩ nhiên anh không biết tên của nó”, người đàn ông bên kia con suối nói. “Tôi không cho là anh biết chút gì đó về chim, ngoại trừ chim hót trong lồng ở phòng khách của khách sạn hoặc con chim có giá bốn đô la nằm trên một cái đĩa.” Popeye không nói gì. Hắn ngồi xổm trong bộ com lê đen chật bó, khạc nhổ xuống con suối, túi áo khoác bên phải của hắn xệ xuống sát vào hông, gói thuốc cong queo co rúm trong bàn tay nhỏ như tay búp bê. Hắn nhổ xuống dòng suối. Làn da xanh xao, nhợt nhạt. Cái mũi khoằm mờ nhạt và hoàn toàn không có cằm. Mặt của hắn giống như mặt của một con búp bê bằng sáp để quá gần lửa nóng và bị bỏ quên. Vắt ngang qua áo gi lê là một sợi dây bạc giống như mạng nhện. “Nhìn đây”, người đàn ông kia nói. “Tên tôi là Horace Benbow. Tôi là luật sư ở Kinston. Tôi từng sống ở Jefferson, phía xa kia; bây giờ, tôi đang trên đường tới đó. Bất cứ ai trong vùng này cũng có thể nói với anh rằng tôi vô hại. Nếu vấn đề là rượu whiskey thì tôi chẳng quan tâm anh sản xuất hay mua bán bao nhiêu đi chăng nữa. Tôi chỉ dừng ở đây để uống nước. Tất cả những gì tôi muốn làm là đến thị trấn, đến Jefferson.” Đôi mắt của Popeye tựa như hai cục cao su được nhào nặn và in lại những vết mờ nhạt của vân tay. “Tôi muốn đến Jefferson trước khi trời tối”, Benbow nói. “Anh không thể giữ tôi lại đây như thế này.” Không lấy điếu thuốc ra khỏi miệng, Popeye phun nó vào lòng suối. “Anh không thể giữ tôi lại như thế này”, Benbow nói. “Giả sử tôi thoát ra và bỏ chạy.” Popeye dán đôi mắt như cao su của hắn lên Benbow. “Mày muốn bỏ chạy à?” “Không”, Benbow trả lời. Popeye dời hai mắt của hắn đi: “Ừ, vậy thì đừng làm”. Benbow lại nghe thấy tiếng chim, cố gắng nhớ lại tên địa phương của nó. Trên con đường cái phía xa, tiếng một chiếc ô tô khác lại vang lên, rồi tắt lịm. Mặt trời đã dần khuất bóng. Popeye lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ túi quần ra, nhìn vào nó và bỏ lại túi, thõng nhẹ như một đồng xu. Nơi lối đi từ dòng suối nhập vào con đường nhánh phủ cát, có một cái cây vừa mới bị đốn hạ không lâu, chắn ngang đường. Hai người đàn ông đã leo qua cái cây đổ và đi tiếp, đường cái giờ ở phía sau họ. Trong cát có hai vết lõm xuống song song khá nông, nhưng không phải dấu chân người. Nơi ngã rẽ từ chỗ nước suối ngấm qua con đường, Benbow đã thấy vết bánh xe chạy nhanh. Popeye đi phía trước anh ta, bộ com lê bó chật và chiếc mũ cứng ngắc - tất cả đều góc cạnh, giống như một cái trụ đèn hiện đại. Qua hết cát, con đường đã hiện ra, quanh co, vượt khỏi cánh rừng. Trời đã gần tối. Popeye ngoái đầu, nhìn nhanh qua vai. “Nhanh cái chân lên”, hắn nói. “Tại sao chúng ta không đi tắt qua đồi?”, Benbow hỏi. “Xuyên qua rừng cây đó hả?”, Popeye hỏi. Hắn giật mạnh cái nón, ánh mắt độc ác, u ám trong cảnh chạng vạng khi nhìn xuống ngọn đồi nơi khu rừng nằm đó như một cái hồ đen tuyền. “Lạy Chúa.” Trời sắp tối hẳn. Dáng đi của Popeye rất chậm chạp. Bây giờ hắn bước kề bên Benbow và Benbow có thể liên tục trông thấy cái mũ thình lình quay mạnh từ bên này qua bên kia lúc Popeye nhìn đây đó với kiểu hằn học đê tiện. Cái mũ chỉ tới cằm của Benbow. Rồi một cái bóng mờ ảo với tốc độ cực nhanh lao về phía trước, đâm vào hai người và lướt đi lặng lẽ trên cặp cánh căng, để lại một luồng gió nhẹ giữa mặt bọn họ, Benbow nhận thấy cả cơ thể Popeye bật sát vào anh ta, bàn tay của hắn quắp vào áo khoác của Benbow. “Nó chỉ là một con cú”, Benbow nói. “Không có gì đâu, chỉ là một con cú thôi mà.” Rồi anh ta nói: “Họ gọi con hồng tước Carolina đó là chim bói cá. Chính là nó. Vậy mà lúc ở dưới kia, tôi không thể nhớ ra”, Popeye đang núp vào anh, bấu vào áo anh và tiếng rít qua kẽ răng của hắn giống như một con mèo. Nó có mùi đen tối, Benbow suy nghĩ, nó có mùi giống như cái chất màu đen tuôn ra từ mồm của Bovary(1) và chảy xuống mạng che mặt của cô ta vào lúc người ta nhấc đầu cô nàng lên. Một giây sau đó, bên trên khu rừng lởm chởm đen kịt, căn nhà sáng lên với cái đèn lỗi thời, tương phản với bầu trời tăm tối. * * * Căn nhà đã bị bùn lầy nước đọng tàn phá nên trông càng hoang vắng, trơ trụi nhô ra ở một lùm tuyết tùng nhỏ không được cắt xén. Nó đã từng là một mốc ranh giới, với cái tên địa phương là Old Frenchman, được dựng lên trước Nội Chiến; một loại nhà theo kiểu đồn điền nằm giữa dải đất rộng có những cánh đồng bông gòn, vườn tược và bãi cỏ xanh mà từ lâu đã biến thành rừng hoang, mọi người trong vùng lân cận đã kéo nó xuống dần từng mảnh để làm củi sưởi trong năm mươi năm hoặc thỉnh thoảng bí mật đào xới với sự lạc quan rằng người xây căn nhà này đã chôn vùi một món vàng ở đâu đó khi Grant đi ngang qua vùng này trong chiến dịch Vicsburg của ông ta. Ba người đàn ông đang ngồi trên những chiếc ghế ở cuối hiên nhà. Ở sâu trong cái hành lang trống, ánh đèn yếu ớt hắt ra. Hành lang chạy thẳng ra phía sau căn nhà. Popeye leo lên những bậc thang, ba người đàn ông nhìn hắn ta và người đồng hành của hắn. “Đây là ông giáo sư,” hắn nói, không dừng bước. Hắn vào trong nhà, tới chỗ hành lang. Hắn tiếp tục đi xuyên ra phía hiên sau, rẽ ngoặt và bước vào căn phòng có ánh đèn. Đó là nhà bếp. Một người phụ nữ đang đứng chỗ bếp lò. Cô ta mặc chiếc váy hoa liền thân bạc màu. Dưới chân là một đôi giày leo núi của đàn ông, không thắt dây, lõng thõng khi cô ta di chuyển. Cô ta quay nhìn Popeye, rồi trở lại nhìn cái bếp lò, nơi một chảo thịt đang xì xèo. Popeye đứng ngay cửa. Cái mũ của hắn nghiêng nghiêng ngang mặt. Hắn lấy ra một điếu thuốc từ túi quần, không lôi cả gói, vo kẹp, vuốt kéo, đặt nó vào mồm và bật một que diêm vào móng tay cái. “Có một con chim ngoài sân trước”, hắn nói. Người phụ nữ không nhìn xung quanh. Cô ta đang đảo thịt. “Tại sao lại nói với tôi?”, cô ta hỏi. “Tôi không phục vụ khách của Lee.” “Đó là một giáo sư”, Popeye nói. Người phụ nữ quay lại, một cái nĩa sắt lửng lơ trên tay. Phía sau bếp lò, trong bóng tối, là một thùng gỗ. “Ai cơ?” “Giáo sư”, Popeye nói. “Anh ta mang theo một cuốn sách.” “Anh ta làm gì ở đây?” “Tôi không biết. Tôi không nghĩ là phải hỏi. Có thể để đọc cuốn sách.” “Anh ta đã đến đây?” “Tôi tìm thấy anh ta ở chỗ con suối.” “Anh ta cố tìm cái nhà này ư?” “Tôi không biết”, Popeye nói. “Tôi không nghĩ là phải hỏi.” Người phụ nữ vẫn nhìn hắn. “Tôi sẽ gửi anh ta đến Jefferson trên xe tải”, Popeye nói. “Anh ta bảo muốn đến đấy.” “Tại sao kể cho tôi mấy chuyện này?”, người phụ nữ hỏi. “Cô là người nấu ăn. Anh ta sẽ muốn được ăn gì đó.” “Phải”, người phụ nữ nói. Cô ta quay lại cái bếp lò, “Tôi là người nấu ăn. Tôi nấu ăn cho đám mồi chài, đám ăn bám và đám gia súc. Đúng vậy. Tôi phải nấu ăn.” Ở bên cánh cửa, Popeye theo dõi người phụ nữ, điếu thuốc cong queo vắt ngang mặt hắn. Hai bàn tay hắn để trong túi quần. “Cô có thể bỏ đi. Tôi sẽ đưa cô về Memphis. Cô có thể tiếp tục xoay xở ngược xuôi.” Hắn quan sát sau lưng người phụ nữ. “Ở đây, cô trở nên phát phì. Từ bỏ nơi quê mùa này đi. Tôi sẽ không kể cho bọn ở đường Manuel biết đâu.” Người phụ nữ quay lại với cái nĩa trên tay. “Đồ con hoang”, cô ta nói. “Chắc rồi”, Popeye nói. “Tôi sẽ không kể với bọn chúng rằng Ruby Lamar bây giờ tụt dốc thê thảm ở nơi quê mùa này, đang đi một đôi giày mà Lee Goodwin đã vứt bỏ, đang tự chẻ củi. Không, tôi sẽ nói với họ là Lee Goodwin đang giàu to.” “Đồ con hoang”, người đàn bà nói. “Đồ con hoang.” “Chắc vậy rồi,” Popeye nói. Rồi hắn xoay đầu. Có tiếng chân lê qua hiên, rồi một người đàn ông bước vào. Người ông ta gập về phía trước trong chiếc áo khoác. Ông ta đi chân trần, chính là bàn chân trần mà người ta đã từng nghe nói đến. Ông ta có mái tóc bờm xờm cháy nắng, ẩm ướt và hôi hám, đôi mắt trắng đục hung dữ, một bộ râu ngắn màu vàng bẩn thỉu. “Tôi là con chó nếu thằng này đang không gây chuyện ở đây”, ông ta nói. “Ông muốn gì?”, người phụ nữ hỏi. Người đàn ông mặc áo khoác không trả lời. Trong lúc ngang qua, ông ta liếc nhìn Popeye một cách kín đáo và cảnh giác, mặc dù ông ta trông như thể đang chờ đúng lúc để cười cợt. Ông ta băng ngang nhà bếp với dáng đi kéo lê giống một con gấu với thái độ cảnh giác cùng hân hoan kín đáo, ông ta di chuyển một cái bàn lung lay trên sàn nhà và lấy ra một chiếc bình. Popeye theo dõi ông ta, hai ngón tay trỏ xỏ trong túi áo gi lê, điếu thuốc (hắn ta đã hút gần tàn mà chẳng cần chạm tay vào nó) cong queo vắt ngang mặt. Biểu cảm của hắn hoang dã, đúng hơn là hiểm ác, âm thầm theo dõi người đàn ông mặc áo khoác đi qua với sự cảnh giác rụt rè, chiếc bình được giấu dưới hông một cách vụng về, ông ta đang theo dõi Popeye, vẫn với thái độ cảnh giác và sẵn sàng cười cợt, mãi đến khi rời khỏi căn phòng. Một lần nữa, họ lại nghe thấy tiếng chân trần của ông ta ngoài hiên nhà. “Tôi thừa nhận”, Popeye nói, “tôi sẽ không nói với bọn trên đường Manuel rằng Ruby Lamar đang nấu ăn cho một gã ngốc nghếch cùng một gã nhu nhược”. “Đồ con hoang”, người phụ nữ nói, “Đồ rác rưởi”. (1) Một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Bà Bovary của nhà văn Gustave Flaubert. Emma - bà Bovary (cô là vợ của Charles Bovary) vì thất vọng với hôn nhân và chán ghét cuộc sống tẻ nhạt, giả dối nên đã ngoại tình hết lần này tới lần khác. Khi dan díu với gã nhân tình Rodolphe, Emma đã bị tên lái buôn L’heureux gạ gẫm mua sắm không tiếc tay và cô mắc nợ. L’heureux đe dọa nếu cô không trả được nợ thì hắn sẽ tịch thu tài sản. Emma hốt hoảng tìm đến các tình nhân cũ nhờ giúp đỡ nhưng đều bị từ chối. Không dám thú thật với chồng, cô tuyệt vọng ra cửa hàng của dược sĩ Homer mua một liều thạch tín và tự tử. 2 Khi người phụ nữ đi vào phòng ăn, trên tay là một đĩa thịt, Popeye và người đàn ông tìm cái bình ở nhà bếp cùng người lạ đã ngồi sẵn ở cái bàn ăn đóng từ ba mảnh gỗ tạp sần sùi. Bước vào ánh sáng của ngọn đèn đặt trên bàn, khuôn mặt người phụ nữ chưa già nua nhưng ủ rũ, đôi mắt lạnh giá. Quan sát người phụ nữ, Benbow thấy cô ta không nhìn anh một lần nào khi cô ta đặt đĩa thức ăn lên bàn và đứng lại nhìn bàn ăn một lát như cách mà các bà nội trợ vẫn thường làm, rồi bỏ đi. Cô ta cúi xuống một chiếc thùng vẫn mở nắp ở góc phòng, lấy từ trong đó một cái đĩa, dao và nĩa, mang đến bàn và đặt trước mặt Benbow, rồi như vô tình, tay áo cô ta chạm nhẹ vào vai anh. Lúc cô ta đang làm việc đó, Goodwin bước vào. Ông ta mặc chiếc áo khoác vấy bùn. Khuôn mặt gầy nhom biến dạng, xung quanh quai hàm là bộ râu đen lởm chởm; tóc của ông ta đã ngả hoa râm ở chỗ thái dương. Ông ta đang dìu một ông già với bộ râu dài màu trắng bẩn thỉu. Benbow nhìn Goodwin đặt ông già ngồi xuống ghế, ông ta ngoan ngoãn ngồi xuống với sự háo hức khốn khổ của người chỉ còn lại một giác quan, bởi ông ta vừa mù vừa điếc: một người đàn ông thấp lùn với cái đầu hói và khuôn mặt hồng hào, tròn trịa, phúng phính, đôi mắt bị đục nhân trông giống như hai cục đờm. Benbow nhìn ông già lấy một miếng giẻ rách bẩn thỉu từ trong túi ra và phun vào đó một thứ bã bọt hầu như không có màu, cái gì đó từng là thuốc lá sợi để nhai, rồi gấp miếng giẻ rách và nhét lại vào túi. Người phụ nữ chia phần từ đĩa thức ăn vào đĩa của ông già. Những người khác đã bắt đầu ăn, im lặng và đều đều, nhưng ông già ngồi đó, đầu ông ta chúi xuống cái đĩa, bộ râu nhúc nhích chậm chạp. Ông ta dò dẫm trên đĩa với bàn tay run rẩy thiếu tự tin và tìm ra một miếng thịt nhỏ, bắt đầu mút nó cho tới khi người phụ nữ quay lại, gõ vào đốt ngón tay của ông. Ông ta bỏ miếng thịt lại trên đĩa rồi Benbow nhìn người phụ nữ cắt nhỏ thức ăn trong đĩa, thịt, bánh mì và mọi thứ, sau đó đổ lúa miến lên trên. Benbow không quan sát nữa. Khi đã xong bữa ăn, Goodwin lại dìu ông già ra ngoài. Benbow quan sát hai người họ ra khỏi cửa và nghe tiếng họ đi lên hành lang. Đám đàn ông quay lại chỗ hiên. Người phụ nữ đã dọn sạch bàn ăn và mang những cái đĩa xuống bếp. Cô ta đặt chúng lên bàn và đi đến cái thùng phía sau bếp lò, đứng ở đó một lúc. Sau đó cô ta quay lại, đặt đồ ăn tối của mình lên đĩa, ngồi vào bàn, ăn và châm một điếu thuốc từ cái đèn dầu, rửa những cái đĩa rồi xếp chúng lên kệ. Tiếp theo, cô ta quay lên hành lang. Không ra ngoài hiên, cô chỉ đứng bên trong cánh cửa, lắng nghe câu chuyện của họ, lắng nghe người lạ nói và cái âm thanh nho nhỏ không rõ ràng khi họ chuyền cái bình có tay cầm vòng quanh. “Điều này thật ngu ngốc”, người phụ nữ nói, “Anh ta muốn gì...”. Cô ta lắng nghe giọng của người lạ; một giọng nói nhanh, yếu ớt đến kỳ dị, giọng của một người có thói quen nói rất nhiều, ngoài ra chẳng có gì. “Dù sao chăng nữa cũng không được uống rượu”, người phụ nữ nói sau cánh cửa. “Tốt hơn là anh ta nên tiếp tục đi đến nơi mà anh ta muốn đến, nơi mà người đàn bà thân thiết của anh ta có thể chăm sóc cho anh ta.” Cô lắng nghe anh ta. “Từ cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy vườn nho và cả cái giàn nữa. Nhưng tới mùa đông, tất cả chỉ còn lại một cái giàn trống không. Điều đó lý giải tại sao chúng ta biết Tự nhiên là đàn bà; bởi vì có sự tương đồng giữa nhu cầu xác thịt của giống cái và mùa giống cái. Như vậy, mỗi mùa xuân tôi có thể nhận thấy sự xôn xao ngàn năm ẩn giấu trong vườn nho, đó là lời hứa cám dỗ màu xanh đầy bất ổn. Đó là điều mà những bông hoa nho đem tới. Không nhiều lắm, đó là một vùng hoang vu và những cái cây phun trào nhựa sống, hoa không nhiều hơn lá, ẩn giấu dưới cái giàn, cho đến khoảng cuối tháng Năm, trong lúc chạng vạng, tiếng nói của con bé - Belle Bé nhỏ - giống như tiếng thì thầm của chính loài nho dại. Con bé không bao giờ nói: ‘Horace, đây là Louis, Paul hay bất cứ người nào’, mà chỉ nói: ‘Horace ấy mà’. Ông hiểu không, khoác lên mình chiếc váy màu trắng bé nhỏ lúc chạng vạng, cả hai cùng có vẻ kín đáo, cảnh giác và hơi nôn nóng. Tôi không hề thấy xa lạ với con bé nữa, giống như chính tôi đã sinh ra nó.” “Như vậy là sáng nay, không, tức là đã bốn ngày trước, thứ Năm con bé đã về nhà từ trường học và hôm đó là thứ Ba, tôi đã nói: ‘Cục cưng, nếu con tìm ra nó trên tàu hỏa, nó chắc chắn thuộc quyền sở hữu của công ty đường sắt, con mang nó về nhà là chống lại luật pháp, giống như hai điện cực trái dấu vậy’.” “Nó cũng tốt như ông mà. Nó đi đến Tulane.” “Nhưng trên một tàu hỏa”, tôi đáp. “Cháu đã tìm thấy nó trong một chỗ còn tồi tệ hơn trên tàu hỏa nữa.” “Ta biết”, tôi đáp. “Ta cũng từng có một thứ như thế. Nhưng con đừng mang chúng về nhà. Con chỉ nên bước qua chúng và tiếp tục đi. Con không được làm bẩn đôi dép của mình.” Điều đó xảy ra trước bữa ăn tối, khi đó chúng tôi đang ở trong phòng khách, chỉ có hai chúng tôi trong nhà. Belle đã đi xuống phố. Rồi thì... “Chuyện của ông là gì vậy? Ông không phải bố tôi. Ông chỉ là... chỉ là...” “Cái gì”, tôi hỏi, “Chỉ là cái gì?”. “Vậy thì, đi mà nói với mẹ! Đó là điều ông nên làm.” “Nhưng con à, trên tàu hỏa...”, tôi nói, “Nếu nó mà vào phòng của con trong một khách sạn, ta sẽ giết nó. Nhưng lại là trên tàu hỏa, ta chán ghét lắm rồi. Hãy đuổi nó đi và bắt đầu lại”. “Ông thật là tốt! Ông thật là tốt! Đồ nhỏ mọn! Đồ nhỏ mọn!” “Hắn bị điên”, người phụ nữ nói, bất động sau cánh cửa. Giọng người lạ tiếp tục, lộn xộn, gấp gáp, dài dòng. “Rồi con bé nói ‘Không! Không!’, tôi ôm nó và con bé bám sát vào tôi. ‘Cháu không hề có ý như vậy! Horace! Horace!’ Tôi ngửi thấy mùi của những bông hoa bị vùi dập, những bông hoa mỏng manh, tàn tạ và nước mắt, khi ấy tôi nhìn thấy gương mặt con bé trong cái gương. Có một cái gương sau lưng con bé và một cái khác sau lưng tôi, con bé đang ngắm nhìn nó trong cái gương sau lưng tôi, không nhớ rằng còn một cái gương khác trong phòng mà tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt nó, tôi thấy nó đang ngắm nhìn phía sau tôi với sự thuần khiết vờ vĩnh. Điều đó có nghĩa Tự nhiên là ‘đàn bà’ và Sự Tiến bộ là ‘đàn ông’; Tự nhiên làm ra cây nho nhưng Sự Tiến bộ phát minh ra cái gương soi.” “Hắn bị điên”, người phụ nữ đang lắng nghe đằng sau cánh cửa, thốt lên. “Nhưng không hoàn toàn như vậy. Tôi có suy nghĩ rằng tuổi xuân, hoặc có lẽ bốn mươi ba năm tuổi đời, đã làm tôi đau khổ. Có lẽ tôi sẽ được bình an, khỏe mạnh nếu như tôi có một ngọn đồi để nghỉ ngơi trong một thời gian... Đó là miền đất ấy. Bằng phẳng, phì nhiêu, dường như vô vàn những cơn gió đã thổi tiền bạc tới nơi ấy. Giống như việc ông không hề cảm thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng mình có thể nhặt những chiếc lá rụng từ rừng cây, mang vào ngân hàng và đổi thành tiền. Vùng châu thổ đó. Năm nghìn dặm vuông, không có lấy một ngọn đồi, chỉ có những ụ đất của người da đỏ đã đắp để đứng lên đó khi con sông dâng nước tràn bờ.” “Tôi đã nghĩ nó đúng là ngọn đồi mà tôi hằng mong muốn mà không phải chính Belle Bé nhỏ đã khiến tôi có suy nghĩ đó. Ông có hiểu nó là cái gì không?” “Hắn ta...”, người phụ nữ đằng sau cánh cửa nói, “Lee không nên để cho...”. Benbow không chờ đợi câu trả lời nào. “Đó là một mảnh vải với phấn hồng trên ấy. Tôi đã biết mình sẽ tìm thấy nó trước khi đi vào trong phòng của Belle. Nó được chèn phía sau tấm gương soi: một cái khăn tay con bé từng dùng để chùi đi phần thừa khi trang điểm được nhét sau mặt lò sưởi. Tôi bỏ nó vào trong túi quần, lấy mũ xuống và bước ra. Tôi đã đi nhờ trên một chiếc xe tải trước khi nhận ra rằng tôi chẳng có đồng nào trong túi. Đó là phần nào của chuyện ấy, ông thấy đó, tôi không thể đổi tiền từ một tấm ngân phiếu. Tôi không thể xuống khỏi cái xe tải, trở lại thị trấn và lấy một ít tiền. Tôi không thể làm vậy. Đúng là tôi từng đi bộ và lang thang đi nhờ xe suốt từ đó. Tôi đã ngủ một đêm trong trại cưa ở một nhà máy, một đêm ở túp lều người da đen, một đêm trên xe vận chuyển hàng ở trạm nghỉ của tàu hỏa. Tôi chỉ muốn một ngọn đồi để nghỉ ngơi trên đó. Rồi thì tôi sẽ được bình yên và khỏe mạnh. Khi anh cưới vợ, anh bắt đầu cảm nhận thấy những vết thương lòng. Khi anh cưới vợ của một ai khác, anh bắt đầu thấy những vết thương lòng từ mười năm trước của một ai khác. Tôi chỉ muốn một ngọn đồi để nằm nghỉ một thời gian.” “Đồ ngốc”, người phụ nữ nói, “Đồ ngốc tội nghiệp”. Cô ta vẫn đứng sau cánh cửa. Popeye từ phía sau đi xuyên qua hành lang. Hắn đi ngang qua người phụ nữ mà không nói gì và đi lên chỗ cái hiên. “Đi nào”, hắn nói, “Kiếm tiền thôi”. Người phụ nữ nghe tiếng ba người đàn ông bỏ đi. Cô ta vẫn đứng đấy. Khi ấy, cô ta nghe thấy tiếng người lạ loạng choạng rời khỏi ghế và băng qua cái hiên. Rồi cô ta nhìn thấy anh ta, như một hình bóng mờ nhạt, một chiếc bóng nhạt nhòa của người đàn ông gầy gò trong thứ quần áo kỳ quái, mái tóc lưa thưa được chải gọn ghẽ, say mèm. “Người ta không cho anh ăn uống đàng hoàng à?”, người phụ nữ nói. Cô ta bất động, tựa nhẹ vào bức tường, anh ta đang đối diện cô. “Cô thích sống như thế này à?”, anh ta hỏi, “Tại sao cô làm thế? Cô hãy còn trẻ, cô có thể trở lại thành phố và khiến mình khá hơn còn nhanh hơn một cái chớp mắt”. Người phụ nữ không cử động, tựa nhẹ vào bức tường, hai cánh tay khoanh lại. “Đồ đáng thương, đồ đáng thương nhát gan”, người phụ nữ nói. “Cô thấy không”, anh ta nói, “Tôi thiếu can đảm, thứ đó đã rời bỏ tôi. Cỗ máy thì còn nguyên đây, nhưng nó không hoạt động”. Bàn tay anh ta dò dẫm trên gò má của người phụ nữ. “Cô hãy còn trẻ.” Người phụ nữ không cử động, cảm giác bàn tay của anh ta trên mặt cô, chạm vào da thịt cô như thể đang cố gắng nghiên cứu hình dạng, vị trí các xương và kết cấu cơ thể của người phụ nữ. “Thực tế, cô còn cả cuộc đời trước mặt. Cô bao nhiêu tuổi rồi? Cô chưa quá ba mươi được.” Giọng anh ta khẽ khàng, gần như thì thầm. Khi nói, người phụ nữ không hề hạ giọng. Không cử động, hai cánh tay vẫn khoanh trước ngực. “Tại sao anh rời bỏ vợ của anh?”, người phụ nữ hỏi. “Bởi vì cô ta đã ăn tôm”, anh ta đáp. “Tôi không thể... Đó là vào thứ Sáu, tôi suy nghĩ làm thế nào vào buổi chiều tôi phải đi đến nhà ga, lấy cái hộp tôm từ tàu hỏa, đi bộ về nhà với nó, đếm hàng trăm bước chân, đổi tay, và nó...” “Anh đã làm việc đó mỗi ngày à?”, người phụ nữ hỏi. “Không. Chỉ có thứ Sáu thôi. Nhưng tôi đã làm vậy trong mười năm, kể từ khi chúng tôi cưới nhau. Tôi vẫn không thích mùi tôm nhưng không ngại mang nó về nhà. Tôi có thể chịu đựng được chuyện đó nhưng vì cái hộp tôm chảy nước. Suốt đường về nhà, nó cứ nhỏ giọt và nhỏ giọt. Sau này, tôi tự đi theo sau chính tôi đến nhà ga, đứng một bên, nhìn Horace Benbow lấy cái hộp ra khỏi tàu hỏa và bắt đầu về nhà với nó, cứ một trăm bước chân lại đổi tay, tôi đi theo chính mình và nghĩ ngợi: Đây là gã Horace Benbow giả tạo với những giọt nước bốc mùi kinh khủng trên một lề đường ở Mississippi.” “Chao ôi”, người phụ nữ nói. Cô ta thở êm ả, hai cánh tay khoanh lại. Cô động đậy, anh ta bỏ tay ra khỏi người phụ nữ và đi theo cô ta xuống hành lang. Họ đi vào nhà bếp nơi cái đèn dầu đang tỏa sáng. “Hãy bỏ qua cách ăn mặc bê bối của tôi”, cô ta nói. Người phụ nữ đến bên cái thùng phía sau bếp lò, kéo ra và đứng cạnh nó, hai bàn tay giấu trong váy. Benbow đứng giữa căn phòng. “Tôi phải giấu nó trong thùng để lũ chuột không thể đến gần nó được”, người phụ nữ nói. “Cái gì?”, Benbow hỏi. “Nó là cái gì vậy?” Anh ta bước đến chỗ có thể nhìn vào cái thùng. Trong thùng có một đứa bé đang ngủ, chưa đầy một tuổi. Anh ta nhìn xuống khuôn mặt đứa bé. “Chao ôi”, anh ta kêu lên. “Cô có một bé trai.” Họ cùng nhìn xuống khuôn mặt say ngủ đang nhăn lại của đứa bé. Có tiếng động từ bên ngoài, tiếng bước chân đi vào hiên nhà. Người phụ nữ đẩy mạnh cái thùng về chỗ cũ trong góc bằng đầu gối khi Goodwin bước vào. “Được rồi”, Goodwin nói. “Tommy sẽ dẫn đường cho anh tới cái xe tải.” Ông ta quay lại, bước đi trên lối vào trong nhà. Benbow nhìn người phụ nữ. Hai bàn tay vẫn quấn bên trong váy. “Cảm ơn về bữa ăn tối”, anh ta nói. “Một ngày nào đó, có thể...” Anh nhìn người phụ nữ đang quan sát mình, khuôn mặt cô ta không ủ rũ lắm, chỉ hơi lạnh lùng như nó vốn thế. “May ra tôi có thể làm một điều gì đó cho cô ở Jefferson. Gửi cho cô một vài thứ cô cần...” Người phụ nữ xoay người, bỏ tay ra khỏi váy, thình lình cô ta giật tay lại và giấu chúng đi. “Mấy thứ tương tự như nước rửa bát và đồ để giặt giũ. Anh nên gửi cho tôi một cái cắt móng tay”, người phụ nữ nói. * * * Người này bước sau người kia thành một hàng, Tommy và Benbow đi xuống ngọn đồi, đi tiếp vào con đường bị bỏ quên. Benbow ngoái nhìn phía sau. Sự đổ nát thê lương của ngôi nhà in lên nền trời, bên trên đám tuyết tùng mờ xỉn, nhạt nhòa, tiêu điều, thăm thẳm. Con đường đã bị xói mòn lồi lõm quá mức để có thể gọi là một con đường và quá thẳng để có thể coi là một cái rãnh, đọng đầy bùn bởi những dòng nước vào mùa đông dâng lên đột ngột và bị nghẽn lại bởi những cây dương xỉ và cành lá mục nát. Theo sau Tommy, Benbow bước vào một con đường mòn mờ nhạt nơi có vô vàn dấu chân đã in lại trên những lớp thực vật bị phân hủy trong bùn đất. Trên đầu, vòm cây rừng thưa thớt tương phản với bầu trời. Con dốc trở nên khúc khuỷu. “Chúng tôi đã nhìn thấy một con cú quanh chỗ này”, Benbow nói. Phía trước anh ta, Tommy cười hô hố: “Tao chắc chắn là ngay cả con vật đó cũng làm hắn sợ”. “Đúng vậy”, Benbow trả lời. Anh ta theo sau cái bóng lờ mờ của Tommy, cố gắng bước cẩn thận, nói một cách cẩn thận vì đang say rượu. “Tao là con chó nếu hắn không phải là thằng ngu xuẩn nhát chết nhất mà tao từng biết”, Tommy nói. “Cũng tại đây, khi hắn đang đi trên con đường mòn để đến hiên nhà, có một con chó xuất hiện từ đằng sau ngôi nhà, đi ngược lên, khụt khịt ngửi mấy gót chân của hắn giống như bất kỳ con chó nào, tao sẽ là chó nếu hắn đã không sợ hãi giống như nó là rắn hổ mang trong khi hắn đi chân không, thế là hắn vung ra cây súng đồ chơi bé tí đó, bắn con chó chết tươi. Tao là chó nếu hắn không làm như thế.” “Nó là chó của ai vậy?”, Horace hỏi. “Của tao”, Tommy nói. Hắn ta cười như nắc nẻ: “Một con chó già đến nỗi không làm tổn hại nổi một con rệp”. Con đường dốc nhưng không lồi lõm; Benbow bước thận trọng, nhẹ nhàng trong cát. Tương phản màu cát nhạt nhòa, bây giờ anh có thể nhìn thấy Tommy đang lóng ngóng lê từng bước giống như một con la đi trong cát, không làm ra vẻ cố gắng, ngón chân cái của anh hất nhẹ cát lại phía sau từng cái yếu ớt. Cái cây kềnh càng bị đốn ngã chắn ngang con đường. Tommy đã trèo qua nó và Benbow làm theo, vẫn cẩn thận, rón rén, tự xoay xở để xuyên qua đám tán lá còn chưa khô, có vẻ vẫn xanh tươi. “Thằng Popeye đang...”, Tommy nói. Hắn ta quay lại. “Mày có thể vượt qua được không đấy?” “Tôi làm được mà”, Horace trả lời. Anh đã lấy lại thăng bằng. Tommy đi tiếp. “Thằng Popeye đang làm một vài việc nữa”, Tommy nói, “Toàn những điều vô ích, ví dụ như chặn con đường này bằng cách như vậy đó. Nếu con đường được thông suốt, chúng ta sẽ đi bộ chừng một dặm là đến chỗ mấy cái xe tải. Tao đã bảo người ta đến đây để mua hàng của Lee bốn năm nay và chẳng có thằng cảnh sát nào đến quấy rầy Lee hết. Vả lại, đem cái xe đó của hắn ra ngoài này lần nữa là chuyện lớn. Nhưng bọn họ không ngăn cản hắn. Tao sẽ là con chó nếu hắn không khiếp sợ chính cái bóng của hắn.” “Tôi cũng sợ điều đó”, Benbow nói, “nếu như bóng của hắn là bóng của tôi”. Tommy cười khùng khục. Con đường giờ đã trở thành một đường hầm đen ngòm được trải bằng thứ cát rất mịn, không còn thấy ánh sáng. “Ở đâu đó xung quanh chỗ này là đường mòn để rẽ đến con suối”, Benbow suy nghĩ, cố gắng phân biệt nơi con đường mòn dẫn vào mé rừng. Họ tiếp tục đi. “Ai lái chiếc xe tải?”, Benbow hỏi, “Mấy người ở Memphis à?”. “Đúng đấy”, Tommy nói, “Mấy cái xe tải đó là của thằng Popeye”. “Tại sao bọn Memphis đó không ở Memphis và để mấy người các anh yên ổn làm rượu của mình.” “Bởi vì ở đây có tiền”, Tommy nói, “Những vụ kiểu như một phần tư gallon(2) hay nửa gallon chỉ đem lại ít tiền thôi. Lee làm việc đó như là cho mượn mà không đòi trả lại, nhặt nhạnh thêm một hai đô la. Còn tiền nhiều là từ việc chở rượu đi bỏ mối mà ra đó...”. “Ồ”, Benbow nói, “Tôi nghĩ thà chết đói còn hơn là gã đó cứ lảng vảng quanh mình”. Tommy cười khùng khục. “Popeye cũng được. Hắn chỉ thọc mạch một chút thôi.” Hắn ta vẫn bước đều, tương phản với sự tĩnh lặng, tăm tối của con đường phủ đầy cát. “Tao là con chó nếu ngay lúc này hắn không gây ra một chuyện gì đó. Phải vậy không?” “Đúng”, Benbow đáp, “hắn là thằng chuyên gây chuyện rắc rối”. Chiếc xe tải đang đợi trên đường, đoạn này đã trở lại là đường đất sét, bắt đầu dẫn tới quốc lộ rải sỏi. Hai gã đàn ông đang ngồi trên rào chắn của con đường chính, hút thuốc lá. “Tụi mày lề mề quá”, một trong hai gã đàn ông nói, “Không phải vậy sao? Đáng nhẽ bây giờ tao đã đi được nửa đường đến thị trấn. Còn một người phụ nữ đang đợi tao đấy”. “Chắc rồi”, gã đàn ông còn lại nói, “Cô ta đang nằm ngửa chờ mày đấy”. Gã đàn ông thứ nhất lầm bầm nguyền rủa gã thứ hai. “Bọn tao đến nhanh nhất có thể rồi”, Tommy nói, “Tại sao bọn mày không treo một cái đèn? Nếu tao và hắn ta là cảnh sát, bọn tao đã tìm được bọn mày”. “Chà, biến đi, mấy thằng con hoang”, gã thứ nhất nói. Chúng búng mấy điếu thuốc văng đi và leo vào trong xe tải. Tommy cười khùng khục. Benbow quay lại và bắt tay với hắn ta. “Tạm biệt”, anh nói, “và rất cảm ơn, anh...”. “Tên tao là Tommy”, người kia nói. Bàn tay chai sạn, uể oải của hắn ta vụng về luồn vào bàn tay của Benbow và trang trọng lắc nó một cái rồi lóng ngóng rút về. Hắn ta đứng đó, dáng lùn tịt bè bè, kỳ quái tương phản ánh sáng nhạt nhòa của con đường, trong khi Benbow bước lên bậc thang. Anh bị sẩy chân, cố ghìm người lại. “Cẩn thận đấy”, một giọng nói từ buồng lái xe tải vọng ra. Benbow đã vào trong. Gã đàn ông thứ hai dựng một khẩu súng săn phía sau chỗ ngồi. Chiếc xe tải nổ máy chuyển động trên mặt đất loang lổ, tiến vào quốc lộ rải sỏi, về hướng Jefferson và Memphis. (2) 1 gallon = 3,785 lít 3 Vào buổi chiều ngày hôm sau, Benbow đã ở nhà cô em gái của anh. Đó là một vùng quê cách Jefferson bốn dặm, căn nhà là của gia đình chồng cô. Cô là quả phụ sống trong một ngôi nhà lớn cùng đứa con trai mười tuổi và bà dì bên chồng: người đàn bà chín mươi tuổi, người đã gắn cả cuộc đời với chiếc xe lăn, được quen gọi với cái tên bà Jenny. Bà và Benbow đang đứng bên cửa sổ, quan sát cô em gái của anh ta và một thanh niên trẻ đang đi dạo trong khu vườn. Em gái anh đã là một quả phụ mười năm nay. “Tại sao nó không tái hôn?”, Benbow hỏi. “Ta đã nói với cháu rồi”, bà Jenny nói, “Một người đàn bà trẻ cần một người đàn ông”. “Nhưng không phải là cái tên đó”, Benbow nói. Anh nhìn hai người họ. Cậu thanh niên mặc bộ đồ bằng vải flannel và chiếc áo khoác xanh da trời, một chàng trai đầy đặn, khuôn mặt phúng phính với thái độ vênh váo, có lẽ đến từ một trường đại học. “Nó có vẻ thích con nít. Có lẽ vì chính nó đang có một đứa trẻ. Tên nào thế kia? Có phải vẫn là cái tên mà nó từng hẹn hò vào mùa thu trước? “Gowan Stevens”, bà Jenny nói, “Cháu chắc là còn nhớ Gowan”. “Đúng vậy”, Benbow nói, “Bây giờ cháu nhớ rồi. Tháng Mười năm ngoái”. Vào thời gian đó, anh đi ngang qua Jefferson trên đường về nhà và qua đêm ở ngôi nhà của em gái. Vẫn từ cái cửa sổ này, anh và bà Jenny đã quan sát hai người họ dạo bước trong khu vườn ngát hương thơm của các loài hoa nở rộ cuối tháng Mười. Lần đó, Stevens mặc bộ đồ màu nâu và là kẻ xa lạ đối với Horace. “Cậu ta cũng mới tới đây từ khi trở về nhà từ Virginia mùa xuân trước”, bà Jenny nói, “Thằng bé là con của Jones đó, Herschell. Đúng rồi. Herschell”. “Ái chà”, Benbow nói, “Một F.F.V(3), hay chỉ là một kẻ tạm trú không may mắn ở đấy?”. “Ở trường, trường đại học ấy. Cậu ta đến đó học. Cháu không nhớ cậu ta bởi vì cậu ta vẫn còn quấn trong tã lót khi cháu rời Jefferson.” “Đừng để Belle nghe thấy bà nói như thế”, Benbow nói. Anh quan sát hai người họ. Họ đến gần căn nhà và biến mất ở một chỗ khuất nào đó. Một giây sau, họ đi lên những bậc thang và vào phòng. Stevens bước vào trong với cái đầu bóng mượt, cái mặt phúng phính, tự tin. Bà Jenny đã đưa tay của bà cho cậu và cậu ta cúi thân người béo mập xuống để hôn nó. “Trẻ ra và xinh đẹp hơn từng ngày”, cậu ta nói, “Cháu vừa nói với Narcissa rằng nếu bà mà đứng lên ra khỏi cái xe lăn kia và trở thành bạn gái của cháu, cô ấy sẽ không thể có cơ hội”. “Ngày mai, ta sẽ làm chuyện đó”, bà Jenny nói, “Narcissa...”. Narcissa là một phụ nữ cao lớn, mái tóc sẫm màu, cái mặt to, đần độn, thanh thản. Cô ta mặc một bộ quần áo bình thường màu trắng. “Anh Horace, đây là Gowan Stevens”, cô ta nói, “Gowan, còn đây là anh trai em”. “Xin chào ngài”, Stevens nói. Cậu ta siết chặt tay Benbow, mạnh mẽ và thân thiết. Khi đó, cậu bé Benbow Sartoris, cháu trai của Benbow, bước vào. “Tôi từng nghe nói về anh”, Stevens nói. “Gowan đi học ở Virginia”, cậu bé nói. “Ồ”, Benbow nói, “Tôi có nghe chuyện đó”. “Cảm ơn”, Stevens nói, “Nhưng không phải ai cũng học ở Harvard”. “Cám ơn cậu”, Benbow nói, “Nó là Oxford”. “Horace luôn luôn bảo mọi người rằng anh ta đã học ở Oxford(4) đến nỗi họ nghĩ là anh ta muốn nói tới cái trường đại học của nhà nước và anh ta có thể nói với họ sự khác nhau”, bà Jenny nói. “Gowan đến Oxford nhiều lắm”, cậu bé nói, “Anh ấy kiếm được một cô õng ẹo ở đó. Anh ấy dắt cô ta đến những buổi khiêu vũ. Có đúng không, anh Gowan?”. “Đúng rồi, anh bạn”, Stevens nói, “Một cô nàng tóc đỏ”. “Im đi nào”, Narcissa nói. Cô ta nhìn người anh trai của mình. “Belle và Belle Bé nhỏ thế nào rồi?” Cô ta định nói điều gì đó nhưng lại im bặt. Cô ta vẫn nhìn chằm chằm người anh trai một cách nghiêm nghị và đầy ẩn ý. “Nếu cháu vẫn tiếp tục trông đợi anh trai chạy trốn khỏi Belle, anh ta sẽ làm vậy”, bà Jenny nói, “Một ngày nào đó, anh ta sẽ làm thế. Nhưng thậm chí khi ấy, cháu vẫn không hài lòng”. Bà nói: “Một số phụ nữ không muốn một người đàn ông cưới một phụ nữ nào đó. Nhưng tất cả phụ nữ đều sẽ nổi điên nếu anh ta đột ngột bỏ rơi cô ta”. “Bà thôi ngay đi”, Narcissa nói. “Vâng, thưa quý bà”, bà Jenny nói. “Horace dạo gần đây cứ bị buộc chặt vào một sợi dây. Nhưng tốt hơn là anh không nên kháng cự quá quyết liệt làm gì, Horace, có thể nó không hề thít chặt anh ở cuối dây bên kia đâu.” Phía bên kia đại sảnh, một cái chuông nhỏ đang kêu vang. Cả Stevens và Benbow cùng di chuyển về phía tay cầm chiếc xe lăn của bà Jenny. “Xin hãy tự chủ, thưa ngài”, Benbow nói, “Vì tôi dường như đang trở thành một người khách.” “Sao vậy, Horace”, bà Jenny nói. “Narcissa, cháu sẽ trèo lên chỗ cái rương trên gác thượng và lấy mấy cây súng chứ?” Bà quay sang cậu bé. “Còn cháu tiếp tục đi về phía trước, bảo họ hãy bắt đầu tấu nhạc và chuẩn bị sẵn hoa hồng.” “Tấu nhạc gì vậy ạ?”, cậu bé hỏi. “Trên bàn có mấy bông hồng”, Narcissa nói, “Gowan mang đến. Đi dùng bữa tối thôi”. * * * Xuyên qua cửa sổ, Benbow và bà Jenny quan sát hai người họ. Narcissa vẫn trong trang phục trắng, Stevens trong bộ quần áo flannel và áo khoác màu xanh da trời, họ đang đi dạo trong vườn. “Một người đàn ông Virginia hào hoa phong nhã trong bữa ăn tối đêm đó đã nói với chúng ta cách họ dạy cậu ta biết uống rượu như một người đàn ông thanh lịch. Bỏ một con bọ cánh cứng vào rượu và anh có một con bọ hung, bỏ một người Mississippi vào rượu và anh có một người hào hoa phong nhã...” “Gowan Stevens”, bà Jenny nói. Họ quan sát hai người kia biến mất ở một chỗ khuất xa ngôi nhà. Một lúc lâu sau, anh nghe tiếng hai người họ đi xuống đại sảnh. Khi họ bước vào trong, không phải là Stevens mà là cậu bé. “Anh ấy sẽ không ở lại”, Narcissa nói, “anh ấy phải đi Oxford. Có một buổi khiêu vũ ở trường đại học vào tối thứ Sáu. Anh ấy có một cuộc hẹn với cô bạn”. “Cậu ta hẳn là sẽ tìm thấy nhiều cơ hội để mà lịch thiệp uống rượu ở đó”, Horace nói. “Lịch thiệp trong bất cứ việc nào khác nữa. Anh cho rằng đó là lý do cậu ta phải đi sớm đấy.” “Đưa một gái già đến một cuộc khiêu vũ”, cậu bé nói, “Anh ấy sẽ đến Starkville vào thứ Bảy, tới chỗ có trận đấu bóng chày. Anh ấy nói muốn đưa cháu theo nhưng cháu biết bác sẽ không cho cháu đi”. (3) Viết tắt của First Families of Virginia (Những gia đình đầu tiên của Virginia): là những gia đình ở thuộc địa Virginia, những người nổi bật và giàu có trong xã hội, nhưng không nhất thiết phải là người định cư sớm nhất. (4) Trường Oxford mà Benbow từng theo học là một ngôi trường ở Anh. Ở Mỹ cũng có một địa phương tên là Oxford, là nơi tọa lạc của trường Đại học Mississippi. 4 Sau bữa ăn tối, những người dân thị trấn lái xe xuyên qua sân trường đại học hoặc một ứng viên dự thi cao học đang trên đường đến thư viện hay giảng viên của một khoa nào đó sẽ bị giật mình khi thấy Temple kẹp áo khoác dưới cánh tay, đang sải những bước dài. Bóng của cô chuyển động lướt qua những khung cửa sổ đang sáng đèn của “trại giam”, mà thực ra là một khu nội trú nữ sinh. Cái bóng biến mất vào bóng tối bên cạnh bức tường thư viện và có lẽ chuyển động cuối cùng người ta thấy được là cô ta nhảy vào chiếc xe đang chờ sẵn ở đấy với động cơ đang nổ. Đó là xe của gã trai trong thị trấn. Sinh viên trong trường không được phép dùng ô tô. Những anh chàng - không đội mũ, mặc quần ống bó và áo pull sáng màu - ra vẻ khinh khỉnh với bọn con trai thị trấn, những kẻ đội mũ giống hình cái bát úp cứng ngắc trên những cái đầu bôi dầu thơm, mặc áo khoác bó sát và quần rộng lùng thùng, với vẻ cao ngạo và tức tối. Vào các tối thứ Bảy xen kẽ, tại những buổi khiêu vũ ở Letter Club, hoặc vào ba buổi dạ hội hằng năm, những gã trai trong thị trấn đi lang thang, tùy tiện và sẵn sàng gây hấn, chúng đội mũ giống nhau, cổ áo bẻ dựng lên, quan sát cô gái đi vào phòng nhảy khoác cánh tay áo đen của chàng sinh viên đại học và biến mất theo một cú xoay mình lộng lẫy trong cơn lốc của âm nhạc, với cái đầu thanh tú ngẩng cao. Đôi môi tô son đậm, cái cằm mịn màng, đôi mắt vô cảm của cô gái nhìn quanh, trầm tĩnh, kín đáo dò tìm. Lúc sau, tiếng nhạc vượt ra ngoài cửa kính, chúng ngắm nhìn cô gái xuyên qua những ô cửa sổ khi cô lướt qua theo vòng xoay từ đôi tay áo màu đen này đến một đôi tay áo màu đen kế tiếp. Eo của cô thon thả chuyển động linh hoạt giữa lúc chuyển giao, đôi chân nhịp nhàng lấp đầy khoảng ngắt quãng của âm nhạc. Chúng cúi xuống uống rượu trong những cái chai dẹt và châm lửa hút thuốc, những cổ áo bẻ dựng lên, những cái đầu đội mũ, giống như một hàng tượng bán thân đội mũ và được gắn chặt vào cửa sổ. Thường có khoảng ba hoặc bốn tên trong bọn chúng ở đó khi ban nhạc chơi bài Home, Sweet Home, thơ thẩn gần cửa ra vào, những gương mặt lạnh lùng, gây hấn, một chút cau có vì thiếu ngủ, quan sát từng đối trai gái mệt mỏi đi ra sau những giờ ồn ào nhảy nhót. Ba tên quan sát Temple và Gowan Stevens đi ra, bước vào làn không khí lạnh giá của buổi sáng tinh mơ mùa xuân. Gương mặt của cô gái hết sức xanh xao, đã được phủ phấn lên cách đấy không lâu, những lọn tóc đỏ của cô ta duỗi ra như hết đà cong. Đôi đồng tử vô hồn cố chống lại sự buồn ngủ. Sau đó cô gái uể oải nhấc một cánh tay lên, có phải hướng về phía chúng hay không, chẳng ai dám chắc được. Bọn chúng không phản ứng lại, không có tia sáng nào trong những đôi mắt lạnh lẽo ấy. Chúng đã quan sát Gowan luồn nhanh cánh tay vào tay cô gái và ngẫu nhiên thoáng thấy được phần hông và đùi lúc cô gái chui vào trong xe của cậu ta. Đó là một cái xe dài, thấp, không mui, có một đèn đi đêm. “Thằng chó đẻ đó là ai thế?”, một gã hỏi. “Bố của tao là một thẩm phán”, gã thứ hai cay đắng nói với chất giọng the thé. “Chết tiệt. Đi xuống phố thôi.” Chúng rời đi. Chúng la hét theo chiếc xe, nhưng nó không dừng lại. Trên chiếc cầu băng qua đường ray tàu hỏa, chúng dừng lại và tu rượu ừng ực. Gã cuối cùng định ném cái chai qua rào chắn. Gã thứ hai giữ tay gã kia lại. “Hãy đưa nó cho tao”, gã thứ hai nói. Gã đập vỡ cái chai một cách cẩn trọng và rải những mảnh vỡ trên đường. Hai gã kia quan sát đồng bọn của mình. “Mày còn chẳng đủ sức để đến dự một buổi khiêu vũ của trường đại học”, gã thứ nhất nói, “Tội nghiệp thằng con hoang”. “Bố của tao là một thẩm phán”, gã thứ hai vừa nói vừa cố dựng những mảnh vỡ lởm chởm chĩa lên trên mặt đường. “Có một cái xe đang tới kìa”, gã thứ ba nói. Cái xe có gắn ba đèn đằng trước. Bọn chúng nghiêng người nép vào hàng rào, kéo lệch những cái mũ ngược lại phía có ánh sáng, quan sát Temple và Gowan đi ngang qua. Đầu Temple cúi thấp. Chiếc xe chuyển động chậm chạp. “Thằng con hoang đáng thương”, gã thứ nhất nói. “Tao ư?”, gã thứ hai hỏi. Gã lấy thứ gì đó từ túi quần và vụt nhẹ một cái, mùi nước hoa thoang thoảng bay qua mặt chúng. “Tao ư?” “Mày nói vậy còn gì.” “Doc đã chôm cái quần lót đó ở Memphis”, gã thứ ba nói, “của một con điếm khốn kiếp”. “Mày là thằng nói dối đáng khinh”, Doc nói. Chúng quan sát luồng ánh sáng hình dẻ quạt, phát ra từ đèn hậu của chiếc xe, ánh sáng màu đỏ sẫm ấy từ từ thu nhỏ lại, dừng ở ngay “trại giam”. Đèn xe đã tắt. Một lúc sau, tiếng cửa xe đóng sầm. Đèn lại bật sáng, chiếc xe lăn bánh trườn di. Nó đến gần chỗ bọn chúng đang đứng. Chúng nghiêng người nép vào hàng rào thành một dọc, những cái mũ được kéo nghiêng để che ánh sáng. Những mảnh chai vỡ lấp lánh trong ánh đèn. Chiếc xe đã chạy tới và dừng lại ở phía đối diện bọn chúng. “Các anh đang đi xuống phố à?”, Gowan hỏi, mở cửa xe. Chúng vẫn tựa người vào hàng rào, rồi gã thứ nhất nói “Cảm ơn” một cách thô lỗ và chúng chui vào xe, hai tên kia ở băng ghế sau, gã thứ nhất ngồi cạnh Gowan. “Lái về hướng này”, gã thứ nhất nói, “Ai đó đã đập vỡ một cái chai đằng kia”. “Cảm ơn”, Gowan nói. Chiếc xe tiếp tục chạy. “Các anh đến cuộc chơi ngày mai ở Starkville chứ?” Hai gã ở băng ghế sau không nói gì. “Tôi không biết”, gã thứ nhất nói, “Tôi chưa tính đến”. “Tôi là một người lạ ở đây”, Gowan nói, “Tối hôm nay, tôi đã hết sạch rượu và tôi có một cuộc hẹn vào sáng sớm mai. Các anh có thể chỉ cho tôi biết chỗ mua rượu ở đâu không?”. “Bây giờ quá muộn rồi”, gã thứ nhất nói. Hắn quay lại hai tên kia. “Mày biết ai có thể bán rượu cho anh ta vào lúc khuya khoắt này không, Doc?” “Có lẽ là Luke”, gã thứ ba nói. “Ông ta ở đâu vậy?”, Gowan hỏi. “Chạy tiếp đi”, gã thứ nhất nói, “Tôi sẽ chỉ cho anh”. Họ băng qua quảng trường và ra khỏi thị trấn chừng nửa dặm. “Đây là con đường đi đến Taylor phải không?” “Đúng rồi”, gã thứ nhất nói. “Tôi phải lái xe tới đó vào sáng sớm mai”, Gowan nói, “Bắt buộc phải đến trước người đặc biệt đó. Các anh không đi đến cuộc chơi, các anh nói như vậy mà”. “Tôi chưa nghĩ tới điều đó”, gã thứ nhất nói, “Dừng ở đây đi”. Một chân dốc hiện ra, trên đỉnh nhấp nhô mấy cái cây sồi còi cọc. “Anh chờ ở đây”, gã đầu tiên nói. Gowan đã tắt đèn xe. Họ có thể nghe thấy tiếng gã kia trườn lên con dốc. “Rượu của ông Luke có ngon không?”, Gowan hỏi. “Khá ngon. Ngon như bất cứ thứ rượu nào khác, tôi nghĩ vậy”, gã thứ ba nói. “Nếu không thích, anh không cần phải uống nó”, Doc nói. Gowan quay cái mặt phúng phính nhìn vào hắn. “Ngon giống loại anh uống tối nay đấy”, gã thứ ba nói. “Mà cái loại tối nay, có ai bắt anh uống đâu”. Doc nói. “Ở đây họ không làm được rượu ngon như gần trường tôi”, Gowan nói. “Anh từ đầu đến?”, gã thứ ba hỏi. “Virgin... Ồ, Jefferson. Tôi đã học ở Virginia. Ở đó, họ dạy tôi cách uống rượu.” Hai gã kia không nói gì. Gã thứ nhất đã quay lại con dốc, sớm so với dự tính chừng một phút. Hắn đã có một cái bình, loại để đựng nước trái cây. Gowan nhấc nó lên cao và ngắm nhìn. Một thứ chất lỏng lờ nhờ, vẻ vô hại. Cậu ta mở nắp cái bình và giơ nó ra. “Uống.” Gã thứ nhất cầm lấy bình và đưa nó cho mấy gã ngồi ghế phía sau. “Uống.” Gã thứ ba uống, nhưng Doc thì từ chối. Gowan đã uống. “Lạy Chúa”, cậu ta nói, “mấy anh uống thứ này bằng cách nào vậy?”. “Bọn này không uống thứ rượu đểu ở Virginia”, Doc nói. Gowan xoay người và nhìn vào hắn ta. “Câm mồm, Doc”, gã thứ ba nói. “Đừng để ý tới hắn”, hắn nói, “Hắn rên rỉ cả tối nay rồi”. “Chó đẻ”, Doc nói. “Anh bạn gọi tôi thế đó hả?”, Gowan hỏi. “Dĩ nhiên hắn không chửi anh”, gã thứ ba nói, “Doc ổn mà. Thôi nào, Doc. Uống một ngụm đi”. “Tao mặc kệ chúng mày”, Doc nói, “Đưa rượu đây”. Bọn chúng quay trở lại phố. “Tiệm Shack sẽ mở cửa”, gã thứ nhất nói, “Chỗ gần kho chứa hàng ấy”. Đó là một quán ăn kiêm cửa hàng bánh kẹo. Ở đó chỉ có duy nhất một người đàn ông đeo cái tạp dề bẩn thỉu. Bọn chúng đi bằng cửa sau, ngồi vào trong góc với một cái bàn và bốn cái ghế. Người đàn ông mang đến bốn cái ly và Coca. “Có thể cho tôi ít đường, nước và một trái chanh không, chủ quán?”, Gowan hỏi. Người đàn ông mang mấy thứ đó tới. Mấy gã kia quan sát Gowan chế món whiskey sour. “Họ dạy tôi uống theo cách này”, cậu ta nói. Bọn chúng quan sát cậu ta uống nó. “Đối với tôi mà nói thì không có sức mạnh lắm”, cậu ta nói, đổ rượu vào đầy cái ly của mình rồi uống nó. “Anh chắc là uống được cái thứ này chứ?”, gã thứ ba nói. “Tôi được đào tạo trong một ngôi trường tốt.” Ở đấy có một khung cửa sổ cao. Từ đó có thể thấy bầu trời xanh hơn, tươi mới hơn. “Uống ly nữa đi, anh bạn”, cậu ta nói, lại rót đầy ly của mình. Mấy gã kia cố tỏ ra trầm lặng. “Ở trường, họ cho rằng thà bị ngã còn hơn đầu hàng.” Chúng quan sát cậu ta uống ly đó. Chúng thấy chóp mũi cậu ta thình lình ướt đẫm mồ hôi. “Đấy, cỡ hắn cũng chỉ thế thôi”, Doc nói. “Ai nói như thế?”, Gowan hỏi. Cậu ta đổ một ít rượu vào trong cái ly. “Giá mà chúng ta có một ít rượu tử tế. Tôi biết một ông trong thị trấn của tôi tên là Goodwin làm...” “Kiểu đó ở trường họ gọi là một cái nốc cạn đấy”, Doc nói. Gowan nhìn hắn. “Anh nghĩ thế à? Nhìn đây.” Cậu ta đổ rượu vào trong cái ly. Bọn chúng quan sát rượu dâng cao lên. “Hãy coi chừng, anh bạn”, gã thứ ba nói. Gowan đổ rượu đầy ắp ly, nhấc lên và điềm tĩnh uống cạn nó. Cậu ta còn nhớ đặt cái ly xuống một cách cẩn thận, rồi cậu nhận ra mình đang ở ngoài trời trong không khí lạnh lẽo và một động cơ đang nổ ở đầu của một dãy toa tàu sẫm màu trên một đường tránh tàu, cậu ta đang cố nói với ai đó rằng mình từng được dạy cách uống rượu như một quý ông. Cậu ta vẫn đang cố nói với bọn chúng, trong một chỗ tối tăm chật hẹp nồng nặc mùi của nước tiểu và dầu creozot, rồi nôn mửa vào trong thùng phế thải, cố gắng bảo bọn chúng rằng cậu ta phải có mặt ở Taylor lúc sáu rưỡi sáng, khi người đặc biệt đã tới. Cơn bùng nổ trôi qua, cậu ta cảm thấy mệt mỏi cùng cực, yếu đuối, cơn thèm muốn được nằm xuống đã được kiềm chế lại và trong ánh lửa lóe sáng của một que diêm, cậu ta tựa vào bức tường, hai mắt chậm chạp tập trung nhìn vào một cái tên được viết trên đấy bằng bút chì. Cậu nhắm một mắt, tựa vào bức tường, lắc lư, chảy nước mũi và đọc cái tên. Và rồi cậu ta nhìn vào chúng, lắc lắc đầu. “Tên cô ta... Cô ta tên là... Tôi biết mà. Một cô gái đẹp. Ăn diện. Đã hẹn đưa cô ta đến Stark... Starkville. Không có người nào theo canh chừng, hiểu chưa?” Vừa tựa người vào bức tường, mũi chảy nước và miệng lẩm bẩm, cậu ta dần đi vào giấc ngủ. Ngay lập tức, cậu ta cố gắng chống lại cơn buồn ngủ. Nhưng dường như cậu ta vẫn chưa ý thức được về chuyện thời gian trôi đi trong lúc đó, nó là một yếu tố cần thiết đối với cậu ta; nếu không tỉnh dậy cậu ta sẽ phải hối tiếc. Rất lâu sau đó, cậu ta biết rằng hai mắt mình đã mở, đang đợi chờ thị giác quay lại. Rồi cậu ta đã nhìn thấy trở lại, mà không biết ngay lúc đó rằng mình đã tỉnh. Cậu ta nằm yên lặng. Vì bất thình lình thoát khỏi cơn ngủ, cậu đã hoàn tất mục đích muốn tự đánh thức mình. Cậu ta đang nằm trong tư thế gò bó dưới một cái vòm thấp, nhìn đối diện vào mặt tiền của một tòa nhà xa lạ, phía trên đó, một cụm mây nhỏ sáng hồng với tia nắng mặt trời xao động, cậu ta hoàn toàn không có một chút cảm giác. Rồi cậu ta nôn mửa mà không nhận thức được, cậu ta cố nhấc người lên và ngã sõng soài xuống sàn xe, đập mạnh đầu vào cửa. Cú đập đã khiến cậu hoàn toàn thức tỉnh, mở cửa xe và rơi nửa thân người trên mặt đất, cậu ta lê lết đứng lên và chạy liêu xiêu ngược về hướng nhà ga. Cậu ta ngã. Chống hai tay và quỳ gối, cậu ta nhìn đường ray rồi lại nhìn khoảng trời ngập nắng với sự hoài nghi và nỗi tuyệt vọng. Trong chiếc áo khoác dạ hội vấy bẩn, cổ áo mở bung và mái tóc rối tung, cậu ta đứng lên và chạy tiếp. Mình đã say không biết trời đất gì, cậu giận dữ nghĩ, mình đã bất tỉnh. Mình đã bất tỉnh. Khoảng đất bằng phẳng hoang vắng, ngoại trừ một gã da đen đang cầm chổi. “Lạy Chúa, bọn da trắng”, gã nói. “Tàu hỏa”, Gowan nói, “Người đặc biệt. Người ở trên chuyến tàu đó”. “Đi rồi. Cách đây năm phút.” Ngừng quét, gã da đen quan sát Gowan quay đầu và chạy ngược lại đến chỗ chiếc xe và bổ nhào vào trong. Cái bình nằm trên sàn xe. Cậu ta đá nó sang một bên và nổ máy. Cậu ta biết rằng bao tử của mình đang cần một thứ gì đó, nhưng không còn thời gian nữa. Cậu ta nhìn xuống cái bình. Ruột gan cuộn lại lạnh ngắt, nhưng cậu đưa cái bình lên và uống, thô tục và tham lam, nuốt cái tắc nghẹn xuống, ấn nhanh một điếu thuốc lá vào mồm để ngăn cơn xúc động. Ngay lập tức, cậu ta cảm thấy khá hơn. Cậu ta vượt qua quảng trường với tốc độ bốn mươi lăm dặm một giờ. Lúc đó đã sáu giờ mười lăm. Cậu ta đang trên đường tới Taylor và tăng tốc. Uống thêm ngụm nữa và không giảm tốc độ, cậu ta tới được Taylor khi chiếc tàu hỏa vừa lăn bánh ra khỏi nhà ga. Cậu ta lách xe vào khoảng giữa hai chiếc xe ngựa lúc toa cuối cùng vừa đi qua. Cửa tàu hỏa đã mở ra; Temple nhảy xuống và chạy một vài bước tới bên chiếc xe, trong khi một nhân viên tàu nghiêng người xuống và dứ dứ nắm đấm vào cô gái. Gowan đã bước ra khỏi xe. Cô gái quay lại và vội vã đi về phía cậu ta. Sau đó, cô ngập ngừng, đứng lại, rồi bước tiếp, nhìn chằm chằm vào gương mặt, mái tóc bê bết, cổ và cả cái áo nhàu nát của cậu ta. “Anh đã uống rượu”, cô gái nói, “Đồ con lợn. Anh là đồ con lợn bẩn thỉu”. “Anh đã có một đêm tuyệt vời. Em chẳng biết gì cả.” Cô gái nhìn quanh, rồi nhìn vào cái nhà ga màu vàng trống trải, những người đàn ông mặc quần áo công nhân đang chậm rãi nhai thuốc và quan sát cô ta, họ bước xuống đường ray mà chiếc tàu hỏa vừa đi khỏi, vào bốn luồng khói tàu hầu như đã mờ lịm phía xa khi âm thanh của còi tàu vọng lại. “Anh là đồ con lợn bẩn thỉu”, cô gái nói. “Như thế này anh không thể đi đâu hết. Thậm chí anh không cả thay quần áo.” Cô gái lại dừng lại ngay chỗ chiếc xe. “Có cái gì sau lưng anh vậy?” “Bình đựng nước”, Gowan nói, “Vào đi”. Cô gái nhìn cậu ta, đôi môi trâng tráo đỏ tươi, đôi mắt lạnh lẽo cảnh giác dưới chiếc mũ và một lọn tóc quăn màu đỏ xổ ra ngoài. Cô gái nhìn ngược vào nhà ga một lần nữa, trông nó thật trống vắng ảm đạm và xấu xí trong một buổi sáng tươi mát. Cô gái nhảy vào xe, co hai chân dưới thân người. “Biến khỏi chỗ này thôi.” Cậu ta mở máy và quay vòng ra. “Tốt hơn là anh nên đưa em quay về Oxford”, cô nói. Cô nhìn ngược lại vào nhà ga. Bây giờ nó nằm trong bóng của một đám mây trên cao chụp xuống. “Anh nên làm thế”, cô nói. Vào lúc hai giờ chiều hôm đó, khi đang chạy với tốc độ khá nhanh xuyên qua âm thanh rì rào của khu rừng thông hoang tàn, Gowan ngoặt xe từ con đường rải sỏi vào trong một đường hẹp giữa hai bờ đất, chúi thẳng xuống gốc một cây bách và sa lầy ở đó. Cậu ta mặc một cái áo sơ mi màu xanh rẻ tiền bên dưới áo khoác dạ hội. Hai mắt đỏ ngầu, hơi thở hổn hển, râu mọc quanh cằm lởm chởm và dù cậu ta đã cố gắng hết sức và kiên trì nhưng chiếc xe vẫn nảy lên dập xuống trong tiếng máy mệt mỏi vì lún sâu trong bùn đất. Temple nghĩ thầm, râu tóc cậu ta đã mọc dài từ lúc họ rời khỏi Dumfries. Đó là nhờ một loại thuốc cho tóc mà cậu ta đã uống. Cậu ta đã mua nó ở Dumfries. Cậu ta nhìn cô gái, cảm nhận tia mắt của cô. “Bây giờ, đừng nôn nóng. Không cần tới mười phút để chạy đến chỗ của Goodwin và mua một chai rượu đâu. Chưa đến mười phút. Anh đã nói phải đưa em đến Starkville trước khi tàu hỏa đến và anh sẽ làm. Chẳng lẽ em không tin anh?” Cô gái không nói gì, đang nghĩ về chiếc tàu hỏa treo cờ buông rèm đã đến Starkville; về những khán đài đầy màu sắc; ban nhạc, cái loa đẹp lộng lẫy phát ra tiếng bass; những chấm lóng lánh màu xanh trên những người nhạc công. Cô cúi xuống, phát ra những âm thanh ngắn, những tiếng rấm rứt như tiếng gà đầm lầy đang sợ hãi một con cá sấu, không biết chắc chắn sự nguy hiểm tới từ phía nào, bất động, tĩnh lặng, động viên nhau với những tiếng kêu ngắn vô nghĩa, ai oán và tuyệt vọng. “Hãy cứ cố gắng tiếp cận anh bằng những cách ngây thơ ngốc nghếch của em. Đừng tưởng anh đã qua đêm với mấy đứa nhiều chuyện bị thịt như em mà không biết gì. Đừng tưởng anh cho chúng uống rượu của anh bởi vì anh hào phóng. Em thì xinh đẹp ngoan hiền lắm đấy, không phải vậy sao? Em nghĩ là có thể tung tẩy lung tung cả tuần với bất cứ tên bán rong quê mùa nào có một chiếc Ford và biến anh trở thành thằng bị xỏ mũi vào thứ Bảy, không phải vậy à? Đừng tưởng anh không thấy tên em được viết trên cái vách tường nhà xí đó. Em không tin anh à?” Cô gái lặng thinh, cố giữ thẳng mình khi chiếc xe lắc lư tròng trành từ bờ đất bên này qua bờ đất bên kia ở những khúc quẹo với tốc độ chóng mặt. Cậu ta vẫn nhìn cô gái mà không hề giữ tay lái thăng bằng. “Thề với Chúa, anh muốn thấy được người phụ nữ có thể...” Con đường bằng phẳng đi vào trong cát, hoàn toàn ra khỏi những khúc quẹo, hai bên đường là những khu đất hoang mọc đầy cây mây và thạch nam. Chiếc xe lắc lư từ bên này qua bên kia vì bị lún vào cát. Cô gái thấy một cái cây chắn ngang con đường nhưng cô chỉ cố giữ thăng bằng một lần nữa. Dường như đối với cô, đó là một cái kết bất hạnh và hợp lý với chuyến tàu đầy rắc rối mà cô bị mắc kẹt. Cô ngồi bất động yên lặng quan sát khi Gowan hình như đang nhìn thẳng phía trước, đâm sầm vào cái cây với tốc độ hai mươi dặm một giờ. Chiếc xe đập mạnh, bật ra sau, sau đó đâm vào cái cây lần nữa và lật nghiêng về một bên. Cô gái cảm giác mình bay xuyên qua không khí, đem theo một vết thương tê dại trên vai sau cú va chạm, cô nhìn thấy hình ảnh hai gã đàn ông đang chăm chú nhìn từ ven rừng có những cây mây. Cô gái bò về hướng chân mình và đầu cô trở lại vị trí bình thường, cô nhìn thấy hai gã đàn ông bước vào con đường, một gã trong bộ com lê đen bó sát, đội một cái mũ, đang phì phèo điếu thuốc lá, gã kia để đầu trần, mặc áo khoác làm việc, mang theo một cây súng săn, khuôn mặt đầy râu ria của gã há hốc ra ngạc nhiên đến chậm chạp. Tiếp tục vận động những khớp xương tê cứng để chúng vận hành trở lại, cô gái úp mặt xuống. Vẫn không dừng lại, cô gái xoay người và ngồi dậy, miệng cô mở lớn, theo sau tiếng thở hụt hơi là tiếng rên rỉ. Gã đàn ông mặc áo khoác làm việc vẫn đang nhìn cô, miệng hắn ta vẫn há ra trong sự ngạc nhiên đến ngờ nghệch. Gã đàn ông kia đang tựa người vào chiếc xe bị lật, cái áo khoác chật cứng làm nhô những chóp nhọn trên hai vai hắn ta. Sau đó tiếng động cơ tắt lịm, mặc dù bánh trước xe vẫn tiếp tục biếng nhác quay tròn một cách chậm chạp. 5 Gã đàn ông mặc áo khoác làm việc đi chân trần. Hắn ta đi tới phía trước Temple và Gowan với cây súng săn nhún nhảy trong tay, hai bàn chân bè bè bước dễ dàng trong cát trong khi Temple bị thụt lún gần xuống tận mắt cá chân mỗi khi bước đi. Thỉnh thoảng, hắn lại ngoái nhìn hai người, nhìn khuôn mặt bê bết máu và bộ quần áo vấy bẩn của Gowan, nhìn Temple đang chật vật, lảo đảo đi trên đôi giày cao gót. “Rất khó đi, phải không?”, hắn nói, “Nếu tháo đôi giày cao gót đó ra, cô sẽ xoay sở tốt hơn”. “Tôi sẽ thử”, Temple nói. Cô dừng lại, bám vào Gowan, lần lượt đứng đổi chân và tháo giày. Gã đàn ông quan sát cô gái và nhìn đôi giày. “Mẹ kiếp, nếu tôi có thể bỏ lọt được hai ngón tay của mình vào trong chiếc giày đó”, hắn nói, “Tôi có thể nhìn nó được không?”. Cô gái đưa cho hắn một chiếc. “Mẹ kiếp, lột da tôi mất”, hắn nói. Hắn nhìn chằm chằm vào Temple, vô cảm, trống rỗng. Tóc hắn mọc vô tội vạ, như những cọng rơm, bạc trắng ở ngọn, đậm hơn ở xung quanh hai tai và cổ, xoăn và rối bù. “Cô ta cũng là một cô gái vừa tầm đấy”, hắn nói, “với hai cái chân khẳng khiu. Cô ta nặng bao nhiều cân vậy?”. Temple xòe bàn tay ra. Gã đàn ông chậm chạp trả lại chiếc giày và nhìn xuống. “Cậu ta chưa cấy giống vào chỗ đó đấy chứ?” “Thôi đi”, Gowan nói, “tiếp tục đi thôi. Chúng tôi phải lấy một cái xe và quay trở lại Jefferson trong đêm”. Khi hết quãng đường lún cát, Temple ngồi xuống và đi lại giày. Cô nhận ra gã đàn ông đang nhìn cô nhấc đùi lên và theo phản xạ, cô kéo cái váy của mình xuống, đứng bật dậy. “Được rồi”, cô nói, “cứ đi tiếp đi. Anh không biết đường à?”. Căn nhà dần hiện ra trong tầm mắt, bên trên lùm cây tuyết tùng, xa xa là khoảng đen của vườn táo nhà ai đó đang phô ra dưới nắng chiều. Nó được trồng trên một bãi đất điêu tàn, bao quanh là đất bỏ hoang và những nấm mồ của những người chết trong cuộc Nội chiến. Không có bất cứ dấu hiệu nào của sự trông nom, chăm sóc - cái cày hay công cụ làm việc nào; không có dấu hiệu của sự trồng trọt, cai quản - chỉ có cảnh hoang vắng thê lương do thời tiết tàn phá khu rừng nhỏ ảm đạm, những cơn gió rét buốt thổi xuyên qua nó, kéo dài chuỗi âm thanh xì xào buồn bã. Temple đã đứng lại. “Tôi không muốn tới chỗ đó”, cô nói. “Anh đi đi và lấy cái xe”, cô nói với gã đàn ông. “Chúng tôi sẽ chờ ở đây”. “Hắn đã bảo tất cả cùng đi đến đó”, gã đàn ông nói. “Ai bảo?”, Temple hỏi, “Gã da đen đó nghĩ là hắn có thể bảo tôi phải làm gì à?”. “Ôi chà! Thôi, đi nào”, Gowan nói, “Hãy đi gặp Goodwin và lấy một cái xe. Bắt đầu muộn rồi đấy. Cô ấy, vợ Goodwin cũng ở đấy, có phải không?”. “Cậu ta có vẻ dễ thích nghi đấy”, gã đàn ông nói. “Đi nào”, Gowan nói. Họ tiếp tục đi đến căn nhà. Gã đàn ông mang vũ khí đi vào hiên nhà và dựng cây súng săn phía sau cánh cửa. “Cô ấy loanh quanh đâu đây thôi”, hắn nói. Hắn lại nhìn Temple. “Cô không phải là nguyên nhân phiền phức cho cô ấy đâu”, hắn nói, “Lee sẽ đưa cô đến thị trấn, tôi nghĩ vậy”. Temple nhìn hắn. “Tên của anh là gì?” “Tên tôi là Tommy”, hắn nói. “Cô không cần phải băn khoăn.” Hành lang mở ra xuyên suốt căn nhà. Cô gái bước vào trong. “Em đi đâu vậy?”, Gowan hỏi. “Tại sao em không chờ ngoài này?” Cô gái không trả lời. Cô tiếp tục đi xuống hành lang. Từ phía sau lưng, cô có thể nghe thấy tiếng của Gowan và Tommy. Hiên sau nhà ngập nắng, một mảng nắng được đóng khung bởi khoảng trống chỗ cánh cửa. Vượt qua cánh cửa, cô gái có thể thấy một con dốc hẹp mọc đầy cỏ dại và một chuồng gia súc to lớn, phía sau đã đổ nát, tiêu điều, nằm lặng lẽ dưới ánh nắng. Bên phải cánh cửa, cô nhìn thấy góc của một cái kho nằm tách biệt hoặc của một chái nhà phụ. Nhưng cô chẳng nghe thấy bất cứ âm thanh nào ngoại trừ những tiếng nói ở nhà trước. Cô gái tiếp tục đi chầm chậm. Rồi dừng lại. Trong cái ô vuông của ánh nắng được tạo ra bởi cánh cửa, có bóng cái đầu của một người đàn ông, cô chưa hoàn toàn kiệt sức, đang ở tư thế sẵn sàng bỏ chạy. Nhưng cái bóng không đội mũ, vì thế cô quay lại và thận trọng nhón chân đi đến cánh cửa, nhìn ngó xung quanh. Một người đàn ông ngồi trên cái ghế được ghép bằng những thanh gỗ, trong ánh nắng, sau đầu ông ta hói trụi, phía đầu tóc bạc ngang trán quay về phía cô gái, hai bàn tay ông ta vắt chéo trên đầu cây gậy xù xì. Cô gái hiện ra trên cái hiên sau. “Chào ông”, cô nói. Ông già không động đậy. Cô gái tiến thêm, rồi liếc nhanh qua vai. Cô nghĩ mình đã thấy một làn khói bay ra từ căn phòng tách biệt chỗ cái hiên làm thành hình chữ L, nhưng nó đã tan mất. Trên một sợi dây thép căng giữa hai cây cột phía trước cánh cửa đó, phơi ba hàng quần áo ẩm ướt, dường như vừa được giặt xong, trong đó có một bộ quần áo lót phụ nữ màu hồng bằng lụa đã cũ và bạc màu. Chúng đã được giặt nhiều đến nỗi những viền đăng ten trông giống như một mớ rách tả tơi, những thớ vải đã sờn. Có một chỗ rách được đắp miếng vá bằng vải hoa nhợt nhạt, đã được khâu gọn gàng. Temple nhìn người đàn ông lần nữa. Trong một khoảnh khắc, cô nghĩ rằng đôi mắt ông ta đang nhắm lại, nhưng rồi cô tin là ông ta hoàn toàn không có mắt, bởi vì giữa những mí mắt có hai vật thể giống như hai hòn bi màu vàng nhờ nhờ nằm đó bất động. “Gowan”, cô thì thầm, rồi hét lên: “Gowan!” và quay đầu bỏ chạy, đầu óc cô đã ổn định lại, đúng lúc một âm thanh xuyên qua cánh cửa mà cô từng thấy làn khói: “Ông ta không thể nghe được cô. Cô muốn gì?”. Cô ta xoay người nhìn nhưng không ngừng lại, sải những bước dài, vẫn quan sát ông già, cô chạy ra khỏi cái hiên và ngay lập tức nôn mửa vào lòng bàn tay, khuỵu xuống một đống rác rưởi đầy tro tàn, những lon thiếc và xương xẩu trắng ởn. Cô đã nhìn thấy Popeye đang quan sát mình từ một góc nhà, hai bàn tay của hắn thọc trong túi quần và một điếu thuốc cong queo vắt nghiêng trên mặt. Vẫn không ngừng lại, cô trườn trên cái hiên và lao vào trong căn bếp, nơi có một người phụ nữ ngồi bên chiếc bàn, trên tay cô ta kẹp một điếu thuốc đang cháy, nhìn ra cửa. 6 Popeye tiếp tục đi loanh quanh trong nhà. Gowan đang tựa lên thành hiên, cẩn thận đưa tay bịt vào cái mũi đang chảy máu. Tommy ngồi xổm trên hai gót chân dựa vào tường. “Vì Chúa”, Popeye nói, “tại sao mày không dắt nó ra phía sau và rửa giúp nó? Chẳng lẽ mày muốn nó ngồi quanh quẩn ở đây cả ngày và giương mắt ra như một con lợn thiến với cái cuống họng bị cắt?”. Hắn bập điếu thuốc vừa cuốn vào miệng và ngồi trên bậc thang cao nhất, bắt đầu cạo hai chiếc giày đầy bùn đất bằng một con dao nhíp bằng bạc gắn ở cuối cái dây xích đồng hồ. Tommy đã đứng dậy. “Anh đã nói một vài điều về...”, Gowan hỏi. “Psssst!”, Tommy nói. Hắn ta bắt đầu nháy mắt ra hiệu và cau mày khó chịu với Gowan, hất đầu về phía lưng Popeye. “Và sau đó mày sẽ tiếp tục đi xuống con đường đó”, Popeye nói, “Mày nghe không?”. “Tao nghĩ mày đã sắp xếp việc theo dõi chỗ đó rồi”, Tommy nói. “Đừng nghĩ thế”, Popeye nói, cạo vào gấu quần của hắn. “Mày đã từng qua được bốn chục năm mà không cần rượu. Mày hãy làm những gì tao đã bảo.” Khi đến chỗ hiên sau, Tommy nói: “Hắn không thể chịu đựng được bất cứ ai... Lúc này trông hắn không giống một thằng kỳ dị à? Đáng nhẽ ra hắn nên ở trong một gánh xiếc để... Hắn không cho bất cứ ai uống rượu ở đây ngoại trừ Lee. Chính hắn cũng chẳng uống chút nào và chỉ cho tao một ngụm”. “Anh ta nói anh đã bốn chục tuổi rồi”, Gowannói. “Tuổi tao đâu có nhiều vậy”, Tommy nói. “Anh bao nhiêu tuổi rồi? Ba mươi?” “Tao không biết. Tuy nhiên, nhưng không nhiều như nó nói”. Ông già ngồi trong cái ghế, trong ánh nắng. “Chỉ là Pap thôi mà”, hắn ta nói. Cái bóng của rừng tuyết tùng đã chạm tới chân ông già. Nó sắp lên tới đầu gối ông ta. Bàn tay ông già đã bỏ ra ngoài và sờ soạng xung quanh đầu gối, chìm vào trong bóng mát và trở nên bất động. Rồi ông đứng lên và túm lấy cái ghế, gõ nhẹ về phía trước bằng cây gậy. Sau đó, ông ta lê xuống theo tiếng gõ, từng bước hấp tấp, đến nỗi bọn họ phải nhanh chóng bước tránh sang một bên. Ông già kéo lê cái ghế vào chỗ có nhiều ánh nắng và lại ngồi xuống, ngửa mặt vào nắng, hai bàn tay vắt chéo trên đầu gậy. “Đó là Pap”, Tommy nói, “vừa mù vừa điếc. Tao là con chó nếu không căm hận khi không thể nói chuyện và thậm chí không thèm quan tâm đến việc vừa ăn cái gì”. Trên một tấm ván giữa hai cây cột đặt một cái xô mạ kẽm, một chậu thiếc, một cái đĩa rạn nứt chứa một miếng xà phòng màu vàng. “Kệ mẹ rửa ráy”, Gowan nói, “Làm chút rượu đã nhé?”. “Tao thấy dường như mày đã uống quá nhiều rượu rồi. Tao là con chó nếu mày đã không lái cái xe quái quỷ ấy đâm thẳng vào ngay cái cây đó.” “Thử đi mà. Chẳng lẽ anh không giấu chút nào ở đâu đó sao?” “Có thể còn một chút trong chuồng gia súc. Nhưng không được để hắn nghe thấy tiếng chúng ta, nếu không hắn sẽ túm được và đánh cho vì tội ăn trộm đấy.” Hắn đi ngược lại phía cửa và nhìn chăm chú lên cái hành lang. Rồi thì họ rời khỏi cái hiên và đi về hướng chuồng gia súc, băng qua nơi từng là nhà bếp nhìn ra khu vườn nhỏ, bây giờ trông nó thật tiêu điều với tuyết tùng và những cây non nhú lên như dùi cui của cảnh sát. Hai lần Tommy quay đầu nhìn lại phía sau. Lần thứ hai, hắn nói: “Mày hỏi xem vợ mày có muốn gì không.” Temple đã đứng chỗ cửa nhà bếp. “Gowan”, cô ta gọi. “Mày đưa cho cô ta cái gì đi”, Tommy nói, “Nếu cô ta không im miệng, hắn sẽ nghe thấy chúng ta”. Gowan phẩy tay. Bọn họ tiếp tục đi và chui vào cái chuồng gia súc. Sát bên lối vào có một cái thang thô sơ dựng ở đó. “Tốt hơn là mày nên chờ ở đây cho đến khi tao lên đó”, Tommy nói, “Cái thang quỷ quái này đã mục nát, có thể không chịu nổi hai người đâu”. “Vậy thì, tại sao anh không sửa nó? Chẳng lẽ anh không dùng nó hằng ngày à?” “Nó giữ được mà, miễn là đừng nặng quá”, Tommy nói. Hắn ta leo lên thang. Rồi đến lượt Gowan, xuyên qua cái cửa sập, tiến vào bên trong những tia nắng màu vàng chiếu lờ mờ xuyên qua vách tường và mái nhà đổ nát. “Bước lên chỗ tao bước”, hắn ta nói, “Mày sẽ dẫm lên một chỗ ván sút và tỉnh lại thấy mình đang nằm ở tầng dưới trước khi biết chuyện gì đã xảy ra”. Hắn ta thận trọng từng bước băng qua cái sàn căn gác và bới ra một cái bình bằng đất từ một đống cỏ khô mục nát trong góc. “Một chỗ mà hắn sẽ không tìm được”, hắn nói, “Nỗi sợ sẽ làm đổ mấy gallon rượu ra khỏi tay hắn đấy”. Bọn họ uống rượu. “Trước đây tao từng nhìn thấy mày”, hắn ta nói, “nhưng không biết tên”. “Tôi là Stevens. Tôi mua rượu của Lee ba năm nay. Khi nào thì ông ta quay về? Chúng tôi phải cố gắng đến được thị trấn.” “Ông ta sẽ về đây sớm. Tao từng thấy mày trước đây. Một thằng Jefferson khác cũng quờ quạng ngoài này ba bốn đêm gì đó. Tao cũng không biết tên hắn. Bộ dạng y như thằng ba hoa. Cứ nói mãi làm thế nào hắn tán tỉnh được và bỏ vợ hắn. Uống thêm đi”, hắn nói rồi im bặt và chầm chậm ngồi xổm xuống, hai bàn tay đưa cái bình đất lên, đầu cúi xuống như nghe ngóng. Sau một giây, tiếng nói cất lên lần nữa, từ cái hành lang bên dưới. “Thằng kia.” Tommy nhìn vào Gowan. Miệng hắn xệ xuống. Răng hắn cáu bẩn và nằm lộn xộn, bộ râu mềm màu vàng nâu. “Mày, thằng trên kia”, giọng nói vang lên. “Nghe thấy tiếng hắn không?”, Tommy thì thầm, run rẩy. “Tên của tao là Tommy.” “Thôi đi”, giọng nói lại cất lên. “Tao biết mày ở đấy.” “Tao nghĩ chúng ta nên...”, Tommy nói, “Chắc chắn hắn sẵn sàng bắn một phát xuyên qua cái sàn lên đây”. “Lạy Chúa”, Gowan nói, “Tại sao anh không... Đây”, cậu ta la lên, “chúng tôi xuống đây!”. Popeye đã đứng sau cái cửa, hai ngón trỏ thọc vào túi áo gi lê. Bầu trời ngả sang ánh chiều tà. Khi bọn họ rời chuồng gia súc và xuất hiện chỗ cánh cửa, Temple đã bước ra từ hiên sau. Cô gái khựng lại, quan sát bọn họ, sau đó đi xuống đồi. Cô bắt đầu bỏ chạy. “Tao không bảo mày phải đi xuống dưới con đường kia sao?”, Popeye nói. “Tao và nó chỉ bước xuống đây có một chút”, Tommy nói. “Tao đã bảo mày phải đi xuống dưới con đường kia, hay tao không nói?” “Rồiiiii”, Tommy nói, “Mày có bảo tao”. Popyey quay lưng đi, không một chút liếc mắt đến Gowan. Tommy đi theo sau. Lưng của hắn ta vẫn run rẩy. Temple chạm mặt Popeye ở giữa đường đến căn nhà. Cô ta đang chạy rất nhanh. Thậm chí cái áo khoác đang đập phành phạch cũng không bắt kịp cô, chưa kịp lường trước, ngay tức khắc cô chạm mặt Popeye với biểu hiện nhăn nhó, căng thẳng, hai hàm răng khua vào nhau. Hắn không dừng lại. Temple tiếp tục chạy. Cô vượt qua mặt Tommy và chộp lấy cánh tay Gowan. “Gowan, em sợ. Chị ta đã bảo với em đừng có... Anh lại uống rượu, anh thậm chí không cả lau rửa máu me… Chị ta bảo chúng ta đi khỏi chỗ này...” Đôi mắt cô gái rất đen, khuôn mặt nhỏ nhắn xanh xao mệt mỏi và lem luốc. Cô nhìn về hướng căn nhà. Popeye vừa quẹo vào cái góc. “Chị ta phải đi bộ thật xa để đến một con suối lấy nước, chị ta... Họ có một đứa bé xinh xắn trong một cái thùng nằm sau bếp lò. Gowan, chị ta bảo em đừng có ở đây khi trời tối. Chị ta bảo đi hỏi hắn ta. Hắn ta có một chiếc xe. Chị ta bảo chị ta không nghĩ hắn...” “Hỏi ai?”, Gowan hỏi. Tommy quay nhìn lại hai người. Rồi hắn tiếp tục đi. “Gã da đen đó. Chị ta bảo chị ta không nghĩ hắn ta sẽ giúp, nhưng hắn có thể. Đi nào.” Họ đi về hướng căn nhà. Một con đường nhỏ vòng quanh nhà dẫn tới phía trước. Chiếc xe đã đậu ở giữa con đường mòn và căn nhà. Temple nhìn khuôn mặt phúng phính của Gowan lần nữa, bàn tay cô để lên cửa xe. “Chiếc xe này sẽ không làm mất thời gian của hắn lắm đâu. Một thằng nhỏ ở khu nhà em cũng có một chiếc. Nó chạy tám mươi dặm một giờ. Tất cả công việc hắn cần phải làm chỉ là lái xe đưa chúng ta tới thị trấn, bởi vì chị ta hỏi chúng ta đã cưới nhau chưa và em buộc phải nói là đã. Chỉ cần tới một đường tàu hỏa. Có thể một nơi nào đó gần hơn là Jefferson”, cô gái thì thầm, nhìn chằm chằm vào cậu ta, bàn tay của cô vuốt dọc theo cạnh cánh cửa. “Ồ”, Gowan nói, “Anh sẽ phải đi hỏi hắn, phải không? Em khùng quá rồi. Em nghĩ con khỉ đó sẽ giúp à? Anh thà ở lại đây một tuần còn hơn đi đâu đó với hắn”. “Chị ta nói phải như vậy. Chị ta nói em không được ở đây.” “Em điên rồi. Đi lại đây.” “Anh sẽ không hỏi hắn à? Anh sẽ không làm chuyện đó à?” “Không. Chờ đến khi Lee về đi. Anh nói em biết, ông ta sẽ kiếm cho chúng ta một cái xe.” Họ tiếp tục đi trên con đường nhỏ. Popeye đang đứng dựa vào một cây cột và châm thuốc. Temple chạy lên những bậc thang gập ghềnh. “Nói đi”, cô gái nói, “anh không muốn chở chúng tôi đến thị trấn đúng không?”. Hắn quay đầu lại, điếu thuốc vắt vẻo trên môi, còn que diêm nằm giữa hai bàn tay khum lại. Miệng của Temple cứng lại trong điệu bộ nhăn nhó, xin xỏ. Popeye nghiêng điếu thuốc vào que diêm. “Không”, hắn nói. “Thôi nào”, Temple nói, “Làm một người tốt bụng vui vẻ đi. Anh sẽ không mất nhiều thời gian với chiếc Packard đó đâu. Giúp dùm nhé? Chúng tôi sẽ trả tiền cho anh”. Popeye rít một hơi thuốc. Hắn búng que diêm vào đám cây cần sa. Hắn nói nhỏ nhưng rất lạnh lùng: “Bảo con đĩ của mày tránh xa khỏi tao, thằng kia”. Gowan nặng nề xê dịch như một gã vụng về lóng ngóng, có thể làm một con ngựa tính khí hiền hòa bất ngờ bị trêu tức. “Nhìn đây này”, hắn nói. Popeye thổi ra, luồng khói chìm xuống, tách thành hai sợi mỏng. “Tôi không thích như thế”, Gowan nói, “Anh có biết là anh đang nói chuyện với ai không?”. Cậu ta tiếp tục kiểu xê dịch nặng nề đó, giống như không thể ngừng lại nhưng cũng không thể hoàn tất nó. “Tôi không thích như thế.” Popeye quay đầu và nhìn Gowan. Rồi hắn thôi nhìn cậu ta và Temple đột ngột nói: “Anh đã mặc bộ com lê đó và rơi xuống con sông nào vậy? Anh phải làm sạch nó vào ban đêm đúng không?” Khi ấy cô gái đang di chuyển về phía cửa, một bàn tay của Gowan đặt hờ trên lưng cô, đầu cô ngoái lại, tiếng gót giày kêu lọc cọc. Popeye bất động dựa vào cây cột, đầu của hắn xoay nghiêng. “Chẳng lẽ em muốn...”, Gowan rít lên. “Anh là đồ bỏ đi!”, Temple la lên. “Anh là đồ bỏ đi!” Gowan thô bạo đẩy cô gái vào trong nhà. “Chẳng lẽ em muốn thằng cha đó đập văng cái đầu đần độn của em đi hả?”, cậu ta nói. “Anh sợ hắn!”, Temple nói, “Anh đã sợ hãi”. “Câm mồm lại!”, Gowan nói. Cậu ta bắt đầu lắc người cô gái. Bàn chân của họ giậm lên cái sàn nhà trần trụi như thể đang biểu diễn một cuộc khiêu vũ vụng về và họ bám vào nhau, lảo đảo chúi vào vách tường. “Hãy coi chừng”, cậu ta nói, “em lại đang làm đảo lộn mọi chuyện của anh đấy”. Cô gái vùng ra, bỏ chạy. Cậu ta dựa vào tường và nhìn theo bóng cô gái chạy ra khỏi cửa sau. Cô gái chạy vào trong nhà bếp. Trong đó tối đen, ngoại trừ một chút ánh sáng xung quanh cái cửa bếp lò. Cô gái quay người, chạy ra khỏi cửa và nhìn thấy Gowan đang đi xuống đồi về chuồng gia súc. Anh ta đi uống thêm rượu, cô gái nghĩ, anh ta sẽ lại say nữa. Chuyện đó sẽ xảy ra lần thứ ba trong ngày hôm nay. Bóng tối chạng vạng làm hành lang trở nên tĩnh mịch hơn. Cô gái nhón gót chân, lắng nghe và nghĩ thầm, mình đang đói. Cả ngày, mình đã không được ăn gì, cô nghĩ về trường học, ánh sáng tỏa ra từ những khung cửa sổ, từng đôi đang chậm rãi đi tản bộ về hướng âm thanh của tiếng chuông báo bữa ăn tối và về người cha của cô đang ngồi trên hiên nhà, chân gác trên lan can, quan sát một người da đen đang cắt cỏ. Cô gái di chuyển lặng lẽ trên những ngón chân. Bên cạnh cánh cửa, cây súng săn đang dựa vào góc tường, có trườn vào trong cái góc bên cạnh nó và bắt đầu khóc. Ngay tức thì, cô ngừng lại và nín thở. Một cái gì đó đang di chuyển từ phía xa, chỗ đối diện với bức tường mà cô đang tựa vào. Trong một khắc ngắn ngủi, nó băng qua căn phòng, những tiếng động của sự va chạm vấp váp, một tiếng gõ khô khan đi trước. Nó nổi bật khi bước vào trong hành lang và cô gái thét lên, cảm thấy hai lá phổi đang cạn kiệt, lúc lâu sau, không khí đã thoát ra và sau khi lồng ngực của cô trống rỗng, cơ hoành làm việc trở lại, cô quan sát ông già đi xuống hành lang với một bước lê chân dài, cây gậy nằm trong một bàn tay và cái khuỷu tay kia vểnh lên ở một góc cao tính từ chỗ thắt lưng. Bỏ chạy, cô gái vượt qua mặt ông già... một cái bóng mờ, đứng dạng chân theo cách khác thường ở chỗ thành hiên... và tiếp tục chạy vào nhà bếp, lao vào góc phía sau bếp lò. Cúi xuống núp, cô gái kéo cái thùng và lối nó ra che trước mặt. Bàn tay cô chạm vào mặt đứa bé, rồi cô vòng hai cánh tay xung quanh cái thùng, ôm lấy nó, nhìn chằm chằm từ sau cái thùng vào cánh cửa mờ nhạt và cố gắng cầu nguyện. Nhưng cô gái không thể nghĩ ra bất cứ cái tên nào của vị Cha siêu phàm trên thiên đường, đến nỗi cô bắt đầu nói: “Cha của tôi là một quan tòa, cha của tôi là một quan tòa” lặp đi và lặp lại mãi cho đến khi Goodwin chạy nhẹ nhàng vào trong phòng. Ông ta bật một que diêm, giơ nó cao quá đầu và nhìn xuống cô gái cho đến khi ánh lửa chạm ngón tay. “Ha”, ông ta nói. Cô gái nghe thấy ông bật diêm, bước hai bước, rồi bàn tay ông chạm vào gò má cô, ông ta tóm lấy cổ và xách cô lên từ phía sau cái thùng như một con mèo. “Cô đang làm gì trong nhà tôi vậy?”, ông ta hỏi. 7 Đâu đó phía xa ánh đèn hành lang, cô gái có thể nghe thấy những giọng nói... và sau đó đến một tiếng cười khàn khàn thô ráp, tiếng cười nhạo báng của một người đàn ông xuyên qua cái tiếng xèo xèo của thịt rán trên bếp lò nơi người phụ nữ đang đứng đó. Duy nhất một lần cô gái nghe tiếng những đôi giày nặng nề đi xuống hành lang và một giây sau đó, là tiếng loảng xoảng của cái muôi nhúng trong cái xô mạ kẽm và giọng của tên đã từng cười và chửi thề. Giữ chặt chiếc áo khoác, cô gái ló mặt ra cửa nhìn quanh với đôi mắt mở to, luống cuống tò mò như một đứa trẻ, cô thấy Gowan và một gã đàn ông với chiếc quần ka ki ống túm. Anh ta lại say nữa, cô gái nghĩ. Anh ta đã say bốn lần từ khi hai người rời khỏi Taylor. “Ông ta có phải là em của chị không?”, cô gái hỏi. “Ai?”, người phụ nữ hỏi. “Cái gì của tôi?”, cô lật miếng thịt đang xì xèo trên chảo rán. “Tôi nghĩ em trai của chị có thể cũng ở đây.” “Chúa ơi!”, người phụ nữ nói. Cô lật miếng thịt bằng một cái nữa. “Tôi hy vọng không phải.” “Em của chị ở đâu?”, Temple hỏi, nhìn săm soi từ chỗ cánh cửa. “Tôi có bốn anh em trai. Hai người là luật sư và một người làm báo. Thằng nhỏ vẫn còn đi học. Ở Yale. Cha của tôi là quan tòa. Quan tòa Drake của Jackson.” Cô gái nghĩ về người cha đang ngồi trên hiên nhà, trong bộ com lê bằng nỉ, một cái quạt bằng lá cọ trên tay ông, đang quan sát người da đen cắt cỏ. Người phụ nữ mở cái lò và nhìn vào trong. “Không ai mời cô đến chỗ này. Tôi cũng không mời cô ở lại. Tôi đã bảo cô phải đi trong lúc trời còn sáng mà.” “Tôi có thể làm gì đây? Tôi đã hỏi hắn. Gowan thì không nghe, đến mức tôi phải hỏi tên kia.” Người phụ nữ đóng cửa lò lại và quay ra nhìn Temple, lưng hướng về ánh sáng. “Cô có thể làm gì à? Cô có biết tôi phải làm thế nào để lấy nước không? Tôi đi bộ. Một dặm. Sáu lần một ngày. Cộng lại đi.” Cô đến cái bàn, lấy một bao thuốc lá và lắc cho một điếu nhô ra. “Tôi xin một điếu được không?”, Temple hỏi. Người phụ nữ lia nhẹ gói thuốc dọc mặt bàn. Cô ta lấy cái chụp đèn ra và châm thuốc bằng bấc. Temple cầm gói thuốc lên và lắng tai nghe Gowan và gã đàn ông kia đi vào căn nhà. “Bọn chúng ở trong đó rất đông”, cô ta than vãn, ngắm điếu thuốc lụi dần trên ngón tay. Người phụ nữ đã trở lại chỗ bếp lò. Cô lật miếng thịt. “Gowan lại tiếp tục say sưa. Ngày hôm nay, anh ta đã say rượu ba lần rồi. Anh ta đã say lúc tôi xuống khỏi chuyến tàu hỏa ở Taylor và tôi đang bị án treo, tôi đã bảo anh ta ném cái chai rượu đi nhưng khi chúng tôi dừng ở cái tiệm nhỏ thôn dã ấy để mua một cái áo sơ mi, anh ta lại say lần nữa. Vì vậy, chúng tôi chưa ăn uống gì, chúng tôi dừng lại ở Dumfries và đi vào một nhà hàng nhưng tôi đã quá lo lắng nên không ăn được, tôi không thể tìm thấy anh ta và sau đó anh ta đi một con đường khác, tôi đã chạm được vào cái chai trong túi anh ta trước khi anh ta hất văng tay tôi ra. Gowan ta nói là tôi giữ cái bật lửa của anh ta và sau đó khi anh ta làm mất nó, tôi bảo là anh ta đã cầm nó, thì anh ta lại thề rằng chưa từng có một cái bật lửa nào trong đời.” Miếng thịt xì xèo trong chảo rán. “Anh ta đã say xỉn ba lần rồi”, Temple nói, “Ba lần trong một ngày. Buddy... đó là Hubert, thằng em nhỏ nhất của tôi... bảo rằng nếu nó bắt gặp tôi với một gã say, nó sẽ đánh tôi thẳng tay. Và giờ đây tôi đang đi với một gã đã say ba lần trong một ngày”. Tựa hông vào bàn, bàn tay cô vò điếu thuốc, cô bắt đầu cười. “Chị không thấy chuyện đó khôi hài ư?”, cô nói. Sau đó, cô ngưng cười bằng cách nín thở, cô có thể nghe tiếng tí tách thoát ra từ cái chụp đèn, tiếng miếng thịt trong chảo rán và tiếng rít của cái ấm đun nước trên bếp lò, cùng những tiếng nói thô ráp, cộc lốc, âm thanh vô nghĩa đặc thù của giống đực vọng từ trong nhà. “Chị phải nấu ăn cho tất cả bọn chúng mỗi đêm. Tất cả bọn đàn ông đó ăn ở đây, cái nhà đầy người vào ban đêm, trong bóng tối...” Cô gái thả điều thuốc nhàu nát khỏi tay. “Xin phép cho tôi bế đứa bé nhé? Tôi biết cách mà, tôi sẽ bế tốt thôi.” Cô chạy đến cái thùng, khom người xuống và nhấc đứa bé đang ngủ lên. Nó đã mở hai mắt và đang rên rỉ. “Đây, đây, Temple bế cưng đây.” Cô gái đu đưa đứa bé, vụng về ôm nó cao lên trong hai cánh tay gầy. “Nghe này”, cô nói, nhìn vào lưng người phụ nữ, “chị sẽ hỏi ông ta chứ? Ý tôi là chồng chị. Ông ta có thể lấy một chiếc xe và đưa tôi đến chỗ nào đó. Chị sẽ giúp tôi chứ? Chị sẽ hỏi ông ta chứ?”. Đứa bé đã ngừng rên rỉ. Hai mí mắt màu chì của nó hé ra để lộ một lằn mỏng của tròng mắt. “Tôi không sợ đâu”, Temple nói, “Những chuyện như thế sẽ không xảy ra. Có phải không? Họ cũng giống như những người khác. Chị cũng giống như những người khác thôi. Với một đứa bé sơ sinh. Bên cạnh đó, cha của tôi là một qu... quan tòa. Ngài thố... thống đốc đến nhà chúng tôi để ă... ăn... Một đứa b... bé hết sức dễ thương nè”, cô gái rên rỉ, nhấc đứa bé lên gần mặt; “nếu mấy người xấu làm đau Temple, cư... cưng sẽ nói với bọn lính của ngài thống đốc, phải không cư... cưng?”. “Giống như những người nào?”, người phụ nữ đang lật miếng thịt, hỏi, “Chẳng lẽ cô nghĩ Lee không có chuyện gì tốt hơn để làm ngoài chuyện săn đuổi những đứa con nít rẻ tiền kiểu như cô...”. Cô ta mở cửa lò và ném điếu thuốc vào trong, rồi đóng sầm lại. Để nựng nịu đứa bé, Temple phải đẩy mũ của cô ra phía sau, những lọn tóc quăn trông rất gợi cảm. “Tại sao cô lại đến đây?” “Đó là do Gowan. Tôi đã nài nỉ anh ta. Chúng tôi đã nhỡ trận bóng rồi, tôi nài nỉ anh ta chỉ cần đưa tôi đến Starkville trước khi người đặc biệt quay lại, họ sẽ không biết tôi đã vắng mặt trên tàu, bởi vì người trông thấy tôi rời khỏi tàu sẽ không nói ra. Nhưng anh ta không làm thế. Anh ta bảo chúng tôi phải dừng ở đây một phút để mua thêm whiskey và lúc đó anh ta đã say rồi. Anh ta lại say lần nữa kể từ khi chúng tôi rời Taylor, tôi đang bị án treo và cha tôi chỉ còn cách chết thôi. Nhưng anh ta không làm vậy. Một lần nữa, anh ta lại say sưa trong khi tôi van xin anh ta hãy đưa tôi đến bất cứ thị trấn nào đó và cho tôi xuống.” “Án treo?”, người phụ nữ hỏi. “Vì đã trốn ra ngoài vào ban đêm. Bởi vì chỉ có lũ con trai thị trấn mới có xe và khi chị có cuộc hẹn với một anh chàng người thị trấn vào thứ Sáu, thứ Bảy hay Chủ Nhật, bọn trai trong trường sẽ không thể hẹn hò với chị, bởi vì họ không có xe. Cho nên tôi phải trốn ra ngoài. Và một con nhỏ không thích tôi đã mách lại với chủ nhiệm khoa, bởi vì tôi hẹn hò với một tên mà nó thích, trong khi tên đó chưa bao giờ hẹn hò với nó.” “Nếu cô không trốn ra ngoài, cô sẽ chẳng dính vào vụ lái xe”, người phụ nữ nói, “Đúng không? Và bây giờ khi đã trốn ra ngoài thường xuyên, thì cô lại kêu than”. “Gowan không phải là một gã trai thị trấn. Anh ta từ Jefferson tới và đi học ở Virginia. Anh ta khoe họ đã dạy anh ta uống rượu như một người đàn ông quý phái, tôi đã phải van xin chỉ cần cho tôi xuống khỏi xe ở bất cứ chỗ nào và cho tôi mượn đủ tiền để mua một cái vé bởi vì tôi chỉ còn có hai đô la, nhưng anh ta...” “Ôi chao, tôi biết loại người như cô mà”, người phụ nữ nói, “Phụ nữ lương thiện. Quá tuyệt hảo nên sẽ không dính líu tới những người bình dân. Cô sẽ trốn ra ngoài vào ban đêm với lũ con nít, nhưng chỉ để cho một người đàn ông đi cùng”. Cô ta lật thịt. “Lấy tất cả những gì cô có thể lấy và không cho lại thứ gì hết. ‘Tôi là một cô gái trong sạch, tôi không làm như thế’. Cô sẽ trốn ra ngoài với lũ trẻ, đốt xăng của chúng, ăn thức ăn của chúng, nhưng chỉ để một anh chàng nam tính nhìn cô và cô thấy ngại ngùng, bởi vì cha cô là quan tòa và bốn người anh em của cô có thể không thích chuyện đó. Nhưng đến khi cô lâm vào một hoàn cảnh bế tắc, cô sẽ đến khóc lóc với ai? Với chúng tôi, hạng người không đủ tư cách buộc dây giày cho ông quan tòa toàn năng.” Từ khuôn mặt đứa bé, Temple chuyển sang nhìn chằm chằm vào lưng người phụ nữ, khuôn mặt cô gái giống như một cái mặt nạ nhỏ nhợt nhạt dưới cái mũ mong manh. “Anh của tôi nói anh ấy sẽ giết Frank. Trước đấy, anh ấy không nói sẽ cho tôi một trận đòn nếu bắt gặp tôi với Frank; anh ấy nói sẽ giết thằng khốn nạn chó đẻ trong cái xe ngựa màu vàng, còn cha tôi mắng anh tôi và nói ông vẫn có thể điều hành gia đình chúng tôi một thời gian dài nữa và xua tôi vào nhà, nhốt tôi trong đó rồi đi xuống cái cầu để chờ Frank. Nhưng tôi không phải là một đứa hèn nhát. Tôi leo xuống theo cái máng nước và tìm cách chặn Frank lại, nói cho anh ấy biết. Tôi van xin anh ấy hãy đi nơi khác đi, nhưng anh ấy nói chúng tôi phải cùng đi. Khi chúng tôi trở lại cái xe nhỏ, tôi biết đó là lần cuối cùng. Tôi biết thế và đã van xin anh ấy một lần nữa hãy bỏ đi nơi khác, nhưng anh nói sẽ lái xe đưa tôi về nhà để lấy va li và chúng tôi phải nói chuyện với cha. Anh ấy không phải là một người hèn nhát. Cha tôi đang ngồi trên hiên. Ông nói ‘Đi ra khỏi cái xe đó’ và tôi ra khỏi xe, tôi van xin Frank hãy đi đi, nhưng anh ấy cũng ra khỏi xe và chúng tôi đi lên con đường nhỏ, cha vòng ra sau cánh cửa và lấy cây súng săn. Tôi đứng trước mặt Frank và cha nói: ‘Mày cũng muốn vậy à?’, tôi đã cố đứng trước nhưng Frank đẩy mạnh tôi ra sau lưng anh và giữ tôi lại. Rồi cha đã bắn anh và nói: ‘Đi xuống dưới đó và che chắn cho cái dơ bẩn của mày đi, con đĩ’.” “Tôi đã từng bị gọi như thế” , Temple thì thầm và ôm ấp đứa bé đang ngủ trong hai cánh tay gầy đưa cao của cô, vừa nhìn chằm chằm vào lưng người phụ nữ. “Nhưng cô trông rất ngon mắt. Cô sẽ dễ bị biến thành trò giải trí rẻ tiền. Cô có biết bây giờ cô đang vướng vào chuyện gì không?”, cô ta nhìn cô gái, cái nĩa cầm trong tay. “Cô nghĩ bây giờ cô đang gặp mấy đứa con nít hả? Bọn con nít đó sẽ buông lời chửi rủa mà chẳng quan tâm cô có thích chuyện đó hay không. Hãy để tôi nói cho cô biết là cô đã đi vào nhà của ai mà không được chào đón, con người mà cô đang đòi hỏi ông ta phải bỏ mọi thứ và đưa cô trở lại cái nơi mà cô không bao giờ có lý do phải bỏ đi. Khi là một người lính ở Philippines, ông ta đã giết một tên lính khác để giành một con trong đám đàn bà mọi đen đó và họ đã áp giải ông ta đến Leavenworth. Về sau, đến thời chiến tranh, họ cho ông ta ra để đi đánh giặc. Ông ta được hai huy chương, khi hết chiến tranh họ lại nhốt ông ta vào trong Leavenworth cho đến khi luật sư nhờ được một dân biểu can thiệp cho ông ta ra. Sau đó, tôi có thể thoát được chuyện ‘làm trò hề’ như trước...” “Làm trò hề?”, Temple thì thầm, ôm đứa bé, tự nhìn thấy mình không hơn một vật được kéo dãn ra, một đứa trẻ cẳng dài trong bộ quần áo ngắn ngủn đội cái nón nghiêng. “Đúng, đồ mặt sữa!”, người phụ nữ nói. “Cô cho là tôi đã làm thế nào để trả tiền cho gã luật sư đó? Đó là loại đàn ông mà cô nghĩ là ông ta sẽ quan tâm đến..., với cái nĩa trên tay cô ta bước đến và bập nhẹ mấy ngón tay của mình lên mặt Temple, hằn học, “... những chuyện gì xảy ra với cô. Cô, đứa con gái nhỏ với bộ mặt búp bê hư hỏng, cô phải nghĩ rằng cô không thể đi vào một căn phòng nơi một gã đàn ông không còn là chính hắn nữa”. Đằng sau cái váy bạc màu, ngực cô ta phập phồng hít những hơi thật sâu. Với hai bàn tay chống nạnh, cô ta nhìn Temple với đôi mắt tóe lửa. “Đàn ông ư? Cô chưa bao giờ có kinh nghiệm về một gã đàn ông thực sự. Cô chẳng hề biết một gã đàn ông thực sự ham muốn cái gì. Và tạ ơn mấy ngôi sao chiếu mệnh của cô là cô chưa và sẽ chẳng bao giờ biết, do đó về sau cô chỉ nhận ra được điều mà một cái mặt sữa như cô đáng giá và tất cả những gì còn lại là cô nghĩ cô đố kỵ khi chỉ vừa hoảng sợ về chuyện đó. Nếu anh ta chỉ vừa đủ nam tính để gọi cô là con điếm, cô sẽ nói: Vâng, vâng và cô sẽ bò lê lết trần truồng trong bẩn thỉu và nhục nhã bởi anh ta đã gọi cô như thế... Đưa đứa bé cho tôi.” Temple ôm đứa bé, nhìn chằm chằm người phụ nữ, miệng của cô gái cử động như thể là cô đã nói Vâng, vâng, vâng. Người phụ nữ ném cái nĩa lên mặt bàn. “Buông ra”, cô ta vừa nói vừa nhấc đứa bé ra. Đứa bé mở hai mắt và khóc thét. Người phụ nữ kéo một cái ghế và ngồi xuống, đứa bé nằm trong lòng cô ta. “Cô lấy hộ tôi cái tã trên dây thép đằng xa kia chứ?”, cô ta nói. Temple vẫn chôn chân trên sàn, đôi môi mấp máy. “Cô sợ đến nỗi không dám ra ngoài đó, đúng không?”, người phụ nữ nói. Cô ta đứng lên. “Không”, Temple nói, “Tôi sẽ lấy...”. “Tôi sẽ lấy nó.” Đôi giày leo núi không buộc dây lê lệt sệt ngang nhà bếp. Người phụ nữ quay lại, kéo một cái ghế nữa đến cạnh bếp lò, căng hai miếng vải còn lại và bộ quần áo lót trên dây, rồi lại ngồi xuống, đặt đứa bé nằm trên lòng. Đứa bé rên rỉ. “Ngoan nào”, cô ta nói, “ngoan nào, mẹ đây”, khuôn mặt của cô trong ánh đèn bấc mang vẻ ưu tư. Cô ta thay tã cho đứa bé và đặt nó vào trong cái thùng. Sau đó, cô ta lấy một cái đĩa phẳng xuống từ cái tủ bát được che bằng vải bao bố kéo qua lại được, lấy cái nĩa và đến gần, nhìn vào mặt Temple lần nữa. “Nghe đây. Nếu tôi lấy một cái xe cho cô, cô chắc chắn sẽ đi khỏi chỗ này chứ?”, người phụ nữ nói. Nhìn chằm chằm vào chị ta, Temple cử động miệng như thể cô đang thử nghiệm từ ngữ, nhấm nháp chúng. “Cô chắc chắn sẽ đi ra đằng sau, chui vào trong xe và đi khỏi, không bao giờ trở lại đây chứ?” “Đúng vậy”, Temple thì thầm, “Bất cứ đâu. Bất cứ điều gì”. Dường như đôi mắt lạnh lùng của người phụ nữ không hề cử động, cô ta nhìn Temple từ đầu xuống chân. Temple có thể cảm thấy tất cả những thớ thịt đang co rút lại như những cây nho khô quắt trong ánh nắng ban trưa. “Cô bé tội nghiệp hèn nhát và ngu xuẩn”, người phụ nữ nói bằng giọng trầm lạnh. “Cô đang đóng kịch.” “Tôi không làm vậy. Tôi không làm vậy mà.” “Giờ thì cô sẽ có chuyện để kể cho bọn chúng khi cô quay lại. Đúng không?” Mặt đối mặt, tiếng nói của họ giống như những cái bóng hiện trên hai bức tường gần đấy. “Cô đang đóng kịch.” “Bất cứ điều gì cũng được. Chỉ cần tôi có thể rời khỏi đây. Bất cứ đâu.” “Lee không phải là vấn đề khiến tôi sợ hãi. Chẳng lẽ cô tưởng ông ta chơi trò đó mỗi khi có con chó cái nhỏ động cỡn chạy đến đây hả? Vấn đề là cô.” “Được. Tôi sẽ đi bất cứ đâu.” “Tôi biết loại người như cô. Tôi đã từng gặp chúng. Tất cả đều đang chạy, nhưng không quá nhanh. Không nhanh đến mức không thể nói chuyện với một người đàn ông thực sự khi cô thấy hắn ta. Cô nghĩ cô có người đàn ông duy nhất trên thế giới à?” “Gowan”, Temple thì thầm, “Gowan”. “Tôi từng làm nô lệ cho tên đàn ông đó”, người phụ nữ thì thầm, đôi môi cử động rất ít, giọng nói thản nhiên. Như thể, cô ta đang đọc thuộc lòng công thức làm bánh mì. “Tôi đã làm bồi bàn ca đêm để có thể gặp ông ta trong tù vào Chủ nhật. Tôi sống hai năm trong một căn phòng nhỏ, nấu ăn trên một cái đèn hàn khí bởi vì tôi đã hứa với ông ta. Tôi đã lừa dối ông ta và kiếm tiền để mang ông ta ra khỏi tù và khi tôi nói với ông ta làm thế nào tôi kiếm được tiền, ông ta đánh tôi. Và bây giờ cô đã đến nơi mà cô không được chào đón. Chẳng có ai mời cô đến đây cả. Cũng chẳng có ai quan tâm đến chuyện cô sợ hãi hay không. Sợ hãi ư? Cô không có khí phách để thực sự sợ hãi, cũng chẳng đủ dũng cảm để yêu.” “Tôi sẽ trả công cho chị”, Temple thì thầm. “Bất cứ thứ gì chị muốn. Cha tôi sẽ đưa nó cho tôi.” Người phụ nữ nhìn cô gái, nét mặt vô cảm và cứng nhắc giống như lúc trước khi cô nói chuyện với cô gái. “Tôi sẽ gửi quần áo cho chị. Tôi có một cái áo khoác mới bằng lông thú. Tôi chỉ mới mặc nó từ Giáng sinh. Nó còn như mới vậy.” Người phụ nữ cười. Miệng cười nhưng không phát ra âm thanh, không có bất cứ cử động nào trên khuôn mặt. “Quần áo? Tôi đã từng có ba cái áo choàng lông thú. Tôi đã đem một trong ba cái tặng cho một người đàn bà trong hẻm gần quán rượu. Quần áo? Chúa ơi!” Người phụ nữ đột ngột xoay người. “Tôi sẽ lấy một cái xe. Cô sẽ đi khỏi chỗ này và đừng bao giờ quay lại. Cô có nghe không?” “Được”, Temple thì thầm. Vô cảm, xanh xao, như một người mộng du, cô gái nhìn người phụ nữ chuyển miếng thịt vào cái đĩa lớn và đổ nước xốt lên trên đó. Từ cái lò nướng, cô ta kéo ra một cái chảo chứa đầy bánh quy mặn và đặt chúng lên một cái đĩa. “Tôi có thể giúp chị không?”, Temple thì thầm. Người phụ nữ không nói gì. Cô ta bê hai cái đĩa lên và đi ra ngoài. Temple đi đến cái bàn, lấy một điếu từ gói thuốc và đứng ngây ra nhìn vào cái đèn dầu. Một bên của ống khói bị ám đen. Ở phía bên kia một vết nứt chạy xuống một gờ cong mỏng màu bạc. Cái đèn làm bằng sắt mạ thiếc, bọc xung quanh cổ đèn là một lớp dầu bẩn. Temple châm điếu thuốc từ cái đèn, suy nghĩ, kẹp điếu thuốc trong tay và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa bập bùng. Người phụ nữ quay trở lại. Cô ta vén một bên vạt chiếc váy và nhấc cái bình cà phê bẩn từ bếp lò lên. “Tôi có thể rửa giúp chị cái bình đó?”, Temple nói. “Không. Đến đó và ăn bữa tối của cô đi.” Người phụ nữ đi ra ngoài. Temple đứng tại cái bàn, điếu thuốc vẫn nằm trong tay. Bóng của bếp lò phủ lên cái thùng có đứa bé. Trên những miếng lót dưới đáy thùng, có thể nhận ra đứa bé bởi bóng của những đường cong mềm mại nhỏ bé của nó, cô gái đi đến, đứng bên cái thùng, nhìn xuống khuôn mặt trơn láng và hai mí mắt của đứa bé. Một tiếng thì thầm mỏng manh của bóng tối chụp lên đầu đứa bé và để lại sự ẩm ướt trên chân mày; một cánh tay gầy gò gập lại, bàn tay nắm lại bên cạnh gò má. Temple khom người trên cái thùng. “Thằng bé sắp chết”, Temple thì thầm. Cong người xuống, bóng của cô gái hiện trên bức tường, áo khoác không rõ hình dáng, mũ của cô nghiêng nghiêng kỳ quái trên mái tóc xổ tung gớm ghiếc. “Đứa bé tội nghiệp”, cô thì thầm, “đứa bé đáng thương”. Những tiếng nói của bọn đàn ông lớn dần. Cô gái nghe thấy một tiếng giậm chân trong hành lang, tiếng cọt kẹt của những cái ghế, giọng gã đàn ông từng cười lớn hơn cả bọn lại đang cười. Cô gái xoay người, rồi lại bất động, canh chừng phía cửa. Người phụ nữ đã đi vào. “Đi ăn bữa tối của cô đi”, người phụ nữ nói. “Chiếc xe”, Temple nói, “Tôi có thể đi ngay bây giờ, trong khi bọn họ đang ăn”. “Xe gì?”, người phụ nữ hỏi, “Đến bàn và ăn đi. Không có ai làm hại cô đâu”. “Tôi không đói. Tôi chưa ăn gì ngày hôm nay nhưng tôi không đói chút nào.” “Đến và ăn bữa tối của cô đi”, người phụ nữ nói. “Tôi sẽ đợi và ăn khi nào chị ăn.” “Đến và ăn bữa tối của cô đi. Tôi chưa biết sẽ làm xong việc ở đây vào lúc nào đâu.” 8 Temple đi vào phòng ăn từ nhà bếp, dáng vẻ đầy khúm núm; cô ta gần như không nhìn thấy gì khi bước vào, giữ chặt cái áo khoác quanh người, cái mũ xô lệch, nảy lên và rơi xuống, trông rất gợi cảm. Sau một giây, cô ta nhìn thấy Tommy. Cô ta đi thẳng về phía hắn ta, như thể cô đã tìm hắn ta suốt thời gian qua. Một cái gì đó xen vào: một cánh tay cứng ngắc, cô gái cố gắng lảng tránh nó, nhìn thẳng vào Tommy. “Đây này”, Gowan nói từ phía bên kia cái bàn, ghế của cậu ta dịch về phía sau, “em đi vòng qua đây”. “Ngoài này, người anh em”, tên đàn ông từng chặn cô gái nói, người mà cô nhận ra chính là gã rất hay cười, “mày say rồi. Lại đây, nhỏ”. Cánh tay cứng ngắc của hắn ta vòng ngang giữa người cô gái. Cô xô mạnh nó, cười một cách cứng ngắc với Tommy. “Lùi ra, Tommy”, tên đàn ông nói. “Mày không biết cách cư xử hả, thằng con hoang?” Tommy cười khùng khục, lê cái ghế của mình dọc theo sàn nhà. Tên đàn ông nắm cổ tay cô gái kéo về phía hắn. Bên kia bàn, Gowan đã đứng lên, tựa người vào bàn. Cô gái bắt đầu kháng cự, vẫn giữ nụ cười cứng ngắc với Tommy và gỡ những ngón tay của tên đàn ông. “Thôi đi, Van”, Goodwin nói. “Ngồi ngay lên lòng tao đây này”, Van nói. “Thả cô ta ra”, Goodwin nói. “Đứa nào bảo được tao?”, Van nói, “Đứa nào đủ sức?”. “Thả cô ta ra”, Goodwin nói. Rồi cô gái được thả ra. Sau đó, cô chầm chậm lùi ra xa. Phía sau cô gái, người phụ nữ đang đi vào với một cái đĩa, rồi bước sang một bên. Vẫn cười một cách đau đớn và cứng ngắc, Temple lùi ra khỏi phòng. Trong hành lang, cô gái xoay người và chạy. Cô chạy ra khỏi cái hiên, vào bãi cỏ dại và cố chạy nhanh. Cô chạy đến con đường mòn và đi xuống chừng năm mươi yards(5) trong bóng tối, rồi không hề ngừng lại, cô gái xoay người chạy ngược về căn nhà, nhảy lên cái hiên và áp người trốn sau cánh cửa đúng lúc một người đi đến từ hành lang. Đó là Tommy. “Ôi, cô đây rồi”, hắn ta nói. Hắn ta vụng về đẩy một cái gì đó vào cô gái. “Đây”, hắn ta nói. “Cái gì vậy?”, cô thì thầm. “Chút đồ ăn. Tôi chắc là cô đã không ăn gì kể từ sáng.” “Không. Thậm chí, cả sau đó cũng không”, cô thì thầm. “Cô ăn một chút đi và sẽ cảm thấy khá hơn”, hắn ta nói, đẩy cái đĩa vào cô. “Cô ngồi xuống đây và ăn đi, chỗ này sẽ không có ai quấy rầy cô. Mấy thằng khốn nạn.” Temple tựa người vào cánh cửa, khuôn mặt cô xanh xao, mệt mỏi như một con ma nhỏ dưới ánh sáng hắt ra từ phòng ăn. “Chị... chị...”, cô thầm thì. “Cô ta ở trong nhà bếp. Muốn tôi đi xuống dưới ấy với cô không?” Trong phòng ăn, một chiếc ghế bị kéo lệt sệt. Nhanh như chớp, Tommy nhìn thấy Temple trên con đường mòn, thân hình cô mảnh khảnh và bất động trong một giây như là đang chờ cho một người đi chậm đằng sau theo kịp. Rồi cô gái đã biến mất ở góc nhà như một cái bóng. Tommy đứng bên cửa, đĩa thức ăn còn đang nằm trên tay hắn ta. Rồi thì hắn quay đầu và nhìn xuống cái hành lang đúng lúc thấy cô gái vụt qua khoảng tối hướng tới nhà bếp. “Mấy thằng khốn nạn.” Hắn ta vẫn đang đứng đó khi những tên khác trở lại chỗ cái hiên. “Hắn lấy đầy một đĩa thức ăn”, Van nói. “Hắn cố lấy đầy một đĩa thịt lợn muối.” “Tao lấy cái gì cơ?”, Tommy nói. “Nhìn đấy”, Gowan nói. Van giật cái đĩa từ tay Tommy. Hắn ta quay lại với Gowan. “Mày không thích nó chứ?” “Tôi không thích”, Gowan nói. “Mày sẽ làm gì?”, Van hỏi. “Van”, Goodwin nói. “Chẳng lẽ mày tưởng mày đủ sức đấu với tao để mà nói là thích đĩa thịt của tao à?”, Van nói. “Tao thì đủ đấy”, Goodwin nói. Khi Van trở lại nhà bếp, Tommy theo sau hắn. Tommy dừng ở cửa và nghe tiếng Van trong nhà bếp. “Lại đây đi dạo một chút, con chó nhỏ”, Van nói. “Đi ra khỏi đây, Van”, người phụ nữ nói. “Lại đây đi dạo một chút”, Van nói, “Tao là một gã đàn ông rất tốt. Ruby sẽ bảo mày như vậy”. “Ra khỏi đây ngay lập tức”, người phụ nữ nói. “Mày muốn tao gọi Lee hả?”. Van đứng ngược sáng, mặc một cái áo sơ mi bằng ka ki và quần ống túm, một điếu thuốc vắt trên tai của hắn chìa ra từ mái tóc xoăn vàng mượt. Cách xa gã đàn ông, Temple đứng sau một cái ghế, miệng cô gái hé mở, đôi mắt đen huyền. Khi Tommy quay lại cái hiên với cái bình, hắn nói với Goodwin: “Tại sao mấy thằng bọn nó không thôi quấy rầy cô ta?”. “Đứa nào quấy rầy cô ta?” “Thằng Van. Cô ta rất sợ hãi. Tại sao chúng không để cô ta được yên?” “Đó không phải là chuyện của mày. Mày hãy đứng ngoài chuyện đó, nghe không?” “Mấy thằng đó phải thôi quấy rầy cô ta”, Tommy nói. Hắn ngồi xổm tựa vào tường. Bọn chúng đang uống rượu, chuyền tay nhau cái bình và trò chuyện. Với sự chú tâm cao độ, hắn ta lắng nghe bọn chúng, lắng nghe những chuyện tục tĩu và ngu xuẩn của Van về đời sống ở thành phố với sự khoái trá đặc biệt, hắn đang cười sằng sặc và uống khi tới lượt của hắn. Van và Gowan là hai tên làm công việc nói và Tommy lắng nghe chúng. “Hai thằng chúng nó vừa khít để thằng này đấm mạnh thằng kia”, hắn thì thầm với Goodwin đang ngồi ở ghế bên cạnh. “Nghe thấy không?” Chúng nói khá lớn tiếng; ngay lập tức Goodwin di chuyển nhẹ nhàng từ cái ghế, hai bàn chân bước trên sàn nhà với những tiếng động nhẹ; Tommy nhìn thấy Van đang đứng và Gowan đang đứng thẳng thủ thế ở đằng sau cái ghế của cậu ta. “Tao không bao giờ có ý...”, Van nói. “Vậy thì đừng nói ra”, Goodwin nói. Gowan không nói gì. Thằng khốn nạn đó, Tommy nghĩ thầm, thằng khốn nạn đó thậm chí không thể nói được nữa. “Câm mồm mày lại”, Goodwin nói. “Hãy nghĩ đến việc nói chuyện như...”, Gowan nói. Cậu ta chuyển động, lắc lư dựa vào cái ghế. Cái ghế lộn nhào. Gowan mò mẫm vấp vào bức tường. “Thề với Chúa. Tao sẽ...”, Van nói. “người đàn ông quý phái, tôi không...”, Gowannói. Goodwin lao người sang một bên với một cú quật ngược tay, ông ta đã túm được Van. Gowan ngã vào vách tường. “Khi tao nói ngồi xuống, tao muốn chúng mày làm đúng như vậy”, Goodwin nói. Sau chuyện đó, bọn họ lặng im trong một lúc. Goodwin trở lại ghế của ông ta. Bọn họ lại bắt đầu nói chuyện, chuyền tay nhau cái bình và Tommy lắng nghe. Nhưng chẳng mấy chốc, hắn ta lại bắt đầu nghĩ về Temple. Hắn cảm giác như hai bàn chân mình đang miết trên sàn nhà và toàn thân dằn vặt trong một nỗi lo lắng sâu sắc. “Bọn chúng phải ngừng quấy rầy cô gái.” “Đó không phải việc của mày”, Goodwin nói, “Hãy để từng đứa ngu ngốc trong bọn chúng...”. “Bọn chúng phải ngừng quấy rầy cô ta.” Popeye đi ra khỏi cửa. Hắn châm một điếu thuốc. Tommy ngắm khuôn mặt của hắn lóe sáng giữa hai bàn tay, hai má nhợt nhạt; hắn dõi mắt theo cái đốm lửa nhỏ của que diêm vừa được bắn vào vườn cần sa. Hắn cũng thế, Tommy nói. Cả hai đứa bọn chúng, thân thể hắn ta quằn quại chầm chậm. Tao là con chó nếu tao không có ý định đi xuống cái chuồng gia súc và ở đó. Tao là con chó nếu tao không làm. Hắn ta đứng lên, đôi chân không gây ra một tiếng động nào khi di chuyển trên hiên. Hắn bước vào con đường mòn và đi vòng quanh căn nhà. Có một ngọn đèn bên trong cửa sổ. Chưa từng có người dùng cái phòng ấy, hắn ta nói, dừng lại, rồi nghĩ, đó là chỗ cô gái đang ở, hắn ta đi đến cửa sổ và nhìn vào trong. Khung kính cửa sổ đã hạ xuống. Ở chỗ ô vuông cửa kính bị mất là một phiến sắt mạ thiếc rỉ sét đã được đóng vào. Temple đang ngồi trên giường, hai chân xếp lại dưới người, lưng thẳng đứng, mũ xô nghiêng về phía sau. Cô gái nhìn khá bé nhỏ, thật là nực cười nếu nói đó là cơ thể của một thiếu nữ mười bảy tuổi vì trông nó có vẻ tương xứng hơn với một cô bé tám hay mười tuổi, hai khuỷu tay đặt sát bên hông, mặt cô quay về hướng cánh cửa đối diện nơi có một chiếc ghế đã được chặn vào. Trong phòng chỉ có giường, chiếc chăn bạc màu và một chiếc ghế. Những bức tường từng được trát vữa, nhưng lớp vữa đã rạn nứt và rơi xuống, phơi ra lớp trát và những mảnh vải vụn trộn đất tơi mốc meo. Trên một bức vách có treo một áo mưa và một bi đông đựng nước được bọc bằng vải ka ki. Đầu của Temple bắt đầu cử động, xoay chầm chậm như thể cô gái đang lắng nghe cuộc chuyện trò của ai đó bên kia bức tường. Rồi khuôn mặt cô trở nên hết sức đau khổ, mặc dù không hề cử động, giống như một trong những món đồ chơi bằng giấy bồi trong lễ Phục sinh chứa đầy kẹo, rồi hoàn toàn bất động ở tư thế ban đầu đó. Sau đó, cô xoay đầu ngược lại, chầm chậm, dường như là những bước chân vô hình đã đi khỏi bức tường, ánh mắt cô quay về phía cái ghế áp vào cửa và bất động một lúc. Sau đó, cô gái hướng mặt ra phía trước và Tommy nhìn thấy cô lấy ra một chiếc đồng hồ bé xíu giấu trong chiếc tất dài của mình và nhìn vào nó. Với chiếc đồng hồ trong tay, cô ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào hắn ta, đôi mắt điềm tĩnh và trống rỗng giống như hai cái lỗ. Một lúc sau, cô gái nhìn xuống cái đồng hồ một lần nữa và bỏ nó lại trong chiếc tất dài. Cô ra khỏi giường, cởi áo khoác và đứng bất động, thẳng đơ giống như một đường chỉ trên chiếc váy ngắn ngủn, đầu cúi xuống, hai bàn tay đan chặt về phía trước. Cô lại ngồi lên giường. Hai chân co sát vào nhau, đầu cúi xuống. Cô ngẩng đầu lên và nhìn quanh căn phòng. Tommy có thể nghe thấy những tiếng nói từ chỗ cái hiên tối đen. Bọn họ lại lớn tiếng, sau đó những giọng nói hạ thấp dần thành những tiếng xì xào đều đều. Temple đứng bật dậy. Cô gái cởi quần áo, hai cánh tay mảnh dẻ uốn vòng cung trên cao, cái bóng như đang đùa cợt với những động tác của cô. Với cử chỉ đơn điệu, cô gái cởi xong quần áo, co người lại, trông cô bây giờ rất mỏng manh, tương xứng với bộ quần áo lót ngắn ngủn. Đầu cô hướng về cái ghế đang chặn ngay cánh cửa. Cô ném bộ đồ ra xa, với lấy cái áo choàng. Cô quấn nó quanh người, bấu vào chỗ hai tay áo. Sau đó, cái áo choàng ủ lấy bộ ngực của cô, cô xoay người và nhìn thẳng vào mắt Tommy, rồi cô chạy bổ tới chiếc ghế, ném mình lên đó. “Mấy thằng khốn nạn”, Tommy thì thầm, “mấy thằng khốn nạn”. Hắn ta có thể nghe tiếng bọn chúng ở chỗ cái hiên đằng trước và cơ thể hắn ta lại bắt đầu dằn vặt với một nỗi buồn sâu sắc. “Mấy thằng khốn nạn.” Khi hắn ta nhìn vào căn phòng lần nữa, Temple đang tiến về hướng hắn, giữ cái áo choàng quanh người. Cô lấy cái áo mưa từ cái móc, choàng nó bên ngoài cái áo và buộc chặt lại. Cô nhấc bi đông xuống và trở lại giường. Đặt cái bi đông lên giường, cô nhặt quần áo từ dưới sàn lên, phủi sạch bằng tay, cẩn thận xếp lại và đặt chúng lên giường. Sau đó, cô lật ngược cái chăn, trải nó lên tấm nệm. Không có ga trải giường, không gối và khi sờ vào tấm nệm, một lớp bụi tởm lợm lộ ra làm cô phải buột ra những tiếng kêu khe khẽ vì ghê sợ. Cô tháo giày, đặt lên giường và chui xuống dưới tấm chăn. Tommy có thể nghe thấy tiếng tấm nệm kêu răng rắc. Cô gái không nằm xuống ngay. Cô ngồi thẳng, bất động hoàn toàn, cái mũ nghiêng về phía sau đầu một cách đầy gợi cảm. Sau đó, cô chuyển cái bi đông, quần áo và đôi giày đến cạnh đầu, kéo cái áo mưa quấn quanh hai chân, nằm xuống và kéo cái chăn lên, sau đó cô ngồi dậy, bỏ mũ, giũ mái tóc và đặt cái mũ cùng với quần áo xuống giường. Cô lại chuẩn bị nằm xuống. Một lần nữa, cô gái ngập ngừng. Cô mở cái áo mưa, lấy ra một hộp phấn từ đâu đó và ngắm nhìn mình trong một cái gương bé tí, cô chải và giũ tóc bằng những ngón tay, thoa phấn lên mặt, cất hộp phấn, rồi cô lại nhìn vào đồng hồ và buộc cái áo mưa lại. Cô bỏ từng thứ quần áo, vật dụng dưới tấm chăn, rồi nằm xuống và kéo cái chăn lên tận cằm. Những tiếng nói im bặt một lúc và trong sự tĩnh lặng, Tommy có thể nghe thấy một cách mơ hồ, âm thanh đều đều lạo xạo của những thứ tạp nham nhồi bên trong tấm nệm mà Temple nằm, hai bàn tay cô khoanh trước ngực, đôi chân duỗi thẳng và khép lại trang trọng, giống như hình chạm khắc trên một ngôi mộ cổ. Những tiếng nói vẫn còn, hắn ta đã hoàn toàn quên bẵng bọn chúng cho đến khi nghe tiếng Goodwin nói: “Ngừng lại. Ngừng lại!”. Một cái ghế đổ chổng ngược; hắn ta nghe thấy tiếng chân huỳnh huỵch của Goodwin; tiếng cái ghế trước hiên như thể vừa bị đá sang một bên, hắn ta núp xuống, hai khuỷu tay thò ra một chút trong tư thế ngồi xổm, cảnh giác giống như con gấu. Tommy nghe thấy những âm thanh nhẹ, khô khốc như tiếng mấy quả bóng bi a. “Tommy”, Goodwin gọi. Khi cần thiết, ông ta có thể di chuyển qua những chướng ngại vật dày dặc, nhanh như một con chồn hay thằng ăn trộm. Ông ta ở chỗ cái hiên đúng lúc trông thấy Gowan bị ném sầm vào vách tường, trượt xuống, chúi người khỏi hiên và ngã vào bãi cỏ, Popeye ở chỗ cánh cửa, đang nhô đầu ra phía trước. “Tóm hắn lại!”, Goodwin nói. Tommy vội vã nhảy ra, đuổi theo Popeye. “Tôi tóm được...!”, Tommy chưa kịp nói hết câu thì Popeye đã đấm một cú dã man vào mặt hắn, “Mày dám làm thế hả? Bắt hắn lại”. Popeye đã ngừng lại. “Chúa ơi. Ông để bọn chúng ngồi quanh quẩn đây suốt đêm, tống đầy cái thứ chết tiệt vào ruột. Tôi đã bảo ông rồi. Chúa ơi.” Goodwin và Van đã nhập lại thành một cái bóng, khóa chặt lấy nhau, im lặng, hung dữ. “Buông ra!”, Van hét lên, “Tao sẽ giết...”. Tommy nhảy vào hai người. Họ ép cứng Van vào tường và giữ chặt hắn ta. “Giữ được hắn chưa?”, Goodwin hỏi. “Rồiii. Tôi tóm được hắn rồi. Kẹp chặt. Ông đừng trừng trị hắn.” “Thề với Chúa, tao sẽ...” “Không, không, ông muốn giết hắn à? Ông không thể làm thế. Ông muốn Popeye hủy hoại tất cả chúng ta sao?” Sau đó, mọi chuyện cũng trôi qua như cơn cuồng nộ của một trận bão đen tối, để lại sự yên tĩnh trống rỗng, họ im lặng chuyển động, khiêng Gowan ra khỏi bãi cỏ với những tiếng trò chuyện nho nhỏ hòa giải, chỉ bảo lẫn nhau. Họ mang cậu ta vào trong hành lang, nơi người phụ nữ đã đứng đó, tới chỗ cánh cửa căn phòng có Temple. “Cô ta khóa cửa rồi”, Van nói. Hắn đập cánh cửa dữ dội. “Mở cửa đi”, hắn hét lên, “Chúng tao mang cho mày một vị khách đây”. “Hừm”, Goodwin nói. “Trong đó không có cái khóa nào cả. Đẩy cửa đi.” “Tất nhiên”, Van nói, “Tao sẽ làm”. Hắn đá cánh cửa. Cái ghế oằn đi và văng vào trong phòng. Van tông cánh cửa mở ra và bọn họ đi vào, kéo theo hai chân Gowan. Van đá cái ghế văng ngang căn phòng. Sau đó, hắn nhìn thấy Temple đang đứng trong cái góc phía sau giường. Tóc của hắn đã xổ tung, lòa xòa quanh mặt, dài như tóc con gái. Hắn hất tóc ra phía sau. Cằm hắn đẫm máu và hắn ta thận trọng vỗ cho máu rớt xuống sàn nhà. “Tiếp tục đi”, Goodwin nói, khiêng Gowan, “để hắn lên giường”. Bọn chúng ném Gowan lên trên giường. Cái đầu be bét máu của cậu ta ngoẹo lên cạnh giường. Van xốc mạnh cậu ta lên và quăng vào trong. Cậu ta rên rỉ, nhấc tay lên. Van tát cậu ta một phát ngang mặt. “Nằm im, mày...” “Kệ hắn”, Goodwin nói. Ông ta giữ bàn tay của Van lại. Trong chốc lát, hai người nhìn nhau trừng trừng. “Tao nói, kệ hắn”, Goodwin nói, “Biến khỏi chỗ này”. “Xin che chở...”, Gowan lẩm bẩm, “... cô gái, con... nhà lành, xin che chở...”. “Biến ra khỏi đây, ngay lập tức”, Goodwin nói. Người phụ nữ đứng sau cánh cửa, bên cạnh Tommy, lưng của cô tựa vào nó. Bên dưới cái áo choàng rẻ tiền, cái váy ngủ của cô dài xuống tận chân. Van nhặt quần áo của Temple từ cái giường. “Van”, Goodwin nói, “Tao nói đi ra”. “Tao nghe thấy rồi”, Van nói. Hắn ta giũ mấy thứ quần áo ra. Sau đó, hắn nhìn Temple đang ngồi thu lu trong góc, hai cánh tay khoanh lại, đôi tay giữ chặt bờ vai. Goodwin di chuyển về hướng Van. Hắn ta bỏ quần áo xuống và đi vòng quanh cái giường. Popeye đã bước vào, trên tay hắn là một điếu thuốc. Bên cạnh người phụ nữ, Tommy phát ra một tiếng rít xuyên qua mấy cái răng lởm chởm. Hắn ta nhìn thấy Van nắm lấy cái áo mưa đang trùm quanh ngực của Temple và xé toạc nó ra. Sau đó, Goodwin nhảy vào giữa hai người, Van cúi đầu né tránh, quay người và Temple vụng về lóng ngóng trong cái áo mưa đã bị xé rách. Van và Goodwin bây giờ đang ở giữa phòng, đấm đá nhau, sau đó hắn ta nhìn thấy Popeye bước về hướng Temple. Van nằm dài trên sàn và Goodwin đang đứng trên hắn ta, hơi khom người, canh chừng phía sau Popeye. “Popeye”, Goodwin gọi. Popeye vẫn tiếp tục đi, điếu thuốc để lại một vệt khói dài đằng sau vai hắn, đầu hơi xoay như thể hắn không nhìn vào chỗ đang đi tới. “Đừng động vào cô ta”, Goodwin nói. Popeye dừng lại trước Temple, khuôn mặt của hắn hơi quay sang bên. Bàn tay phải nằm trong túi áo khoác. Bên dưới cái áo mưa trên ngực Temple, Tommy có thể nhìn thấy sự chuyển động của bàn tay kia, đang lần mò xuống cái áo khoác. “Bỏ tay của mày ra đi”, Goodwin nói, “Bỏ ra”. Popeye bỏ tay ra. Hắn đã quay lại, bỏ tay trong túi áo khoác và đang nhìn Goodwin. Sau đó, hắn quay lưng mặc kệ Goodwin và bỏ ra khỏi cửa. “Đây, Tommy”, Goodwin bình thản nói, “túm lấy hắn”. Họ nhấc Van lên và mang hắn ta ra ngoài. Người phụ nữ tránh qua một bên. Cô ta tựa vào tường, giữ chặt cái áo choàng. Bên kia căn phòng, Temple núp trong góc tường, vụng về lóng ngóng trong cái áo mưa rách tả tơi. Gowan bắt đầu ngáy. Goodwin quay trở lại. “Em nên đi ngủ lại đi”, ông ta nói. Người phụ nữ không hề nhúc nhích. Ông ta đặt tay lên vai cô. “Ruby.” “Vào lúc anh chấm dứt cái trò bịp bợm, Van đã bắt đầu và anh không để hắn ta kết thúc ư? Anh là kẻ đần độn đáng thương.” “Thôi, đi nào”, ông ta nói, bàn tay vẫn đặt trên vai cô ta. “Đi ngủ lại đi.” “Nhưng đừng quay trở lại. Tôi sẽ không ở đó đâu. Anh chẳng nợ tôi một cái gì hết. Đừng nghĩ là anh nợ tôi.” Goodwin cầm hai cổ tay cô và kéo chúng ra. Chậm rãi và điềm tĩnh, ông ta quặp hai cánh tay cô vòng ra sau lưng và giữ chúng bằng một tay. Tay kia, ông mở cái áo choàng. Cái áo ngủ bằng nhiễu màu hồng bạc màu, viền đăng ten, đã được giặt quá nhiều lần cho đến khi trông nó giống như bộ quần áo trên dây phơi với viền đăng ten đã bị rối xù. “Ha”, ông ta nói, “đồ tiếp khách đây sao?”. “Nếu đây là bộ đồ duy nhất mà tôi có thì đó là lỗi của ai? Lỗi của ai hả? Không phải tôi. Tôi đã tặng chúng cho mấy con mọi đầy tớ sau một đêm. Nhưng anh tưởng là con mọi nào cũng lấy cái này mà không cười vào mặt tôi?” Ông ta thả cái áo choàng ra. Ông buông tay người phụ nữ và cô kéo cái áo choàng khép lại. Một tay đặt trên vai cô, ông ta bắt đầu đẩy cô về phía cửa. “Đi tiếp”, ông nói. Vai của cô xuôi theo. Nó tự di chuyển, cô xoay đầu lại nhìn ông ta. “Đi tiếp”, ông ta nói. Nhưng cô không nhúc nhích nữa. Ông ta quay lại, băng ngang căn phòng và đi thật nhanh vòng qua cái giường rồi bàn tay túm lấy phía trước cái áo mưa của Temple. Kéo cô lên, ông ta lắc cô gái, vai và đùi cô đập mạnh vào tường. “Đồ con gái ngu xuẩn!”, ông ta nói, “Đồ con gái ngu xuẩn!”. Đôi mắt cô mở lớn, đen tuyền, ánh sáng đèn dầu chiếu trên mặt cô và khuôn mặt ông ta phản chiếu trong đồng tử của cô như những hạt đậu Hà Lan trong hai bình mực. Ông buông cô gái ra. Cô ngã khuỵu xuống sàn, cái áo mưa sột soạt quanh người. Ông ta lại dựng cô gái lên và bắt đầu lắc cô ta, rồi nhìn vào người phụ nữ. “Lấy cái đèn đi”, ông nói. Người phụ nữ không hề động đậy. Đầu cô hơi cúi xuống một chút, dường như cô đang nghĩ về họ. Goodwin vung cánh tay kia vào phía sau hai đầu gối của Temple. Cô cảm thấy mình ngã xuống, sau đó cô đã ở trên giường, cạnh Gowan, nằm ngửa, xóc nảy lên xuống theo tiếng lọc xọc của những thứ gớm ghiếc trong tấm nệm. Cô nhìn ông ta băng ngang căn phòng và nhấc cái đèn dầu từ mặt lò sưởi. Người phụ nữ đã xoay đầu, đi theo ông ta, nét mặt nhìn nghiêng của cô dưới ánh đèn thật sắc cạnh. “Đi tiếp đi”, ông nói. Cô ta quay lại, gương mặt bị bóng tối che phủ hoàn toàn, cái đèn dầu bây giờ trên lưng cô và trong bàn tay ông ta đặt trên vai của cô. Bóng ông ta hoàn toàn bao trùm căn phòng; cái bóng của cánh tay ông đang với ngược ra sau, kéo cánh cửa sập lại. Gowan đã ngáy, từng hơi thở nghèn nghẹt rồi bị đứt quãng đột ngột, như thể sẽ chẳng bao giờ thở lại nữa. Tommy ở ngoài cánh cửa, trong hành lang. “Bọn chúng đã xuống chỗ cái xe tải chưa?”, Goodwin hỏi. “Chưa”, Tommy nói. “Tốt hơn là đi xem xét đi.” Goodwin nói. Họ đi tiếp. Tommy nhìn hai người đi vào bên trong một cánh cửa khác. Sau đó, hắn ta đi xuống nhà bếp bằng chân trần để không phát ra tiếng động nào, cổ hơi nghển ra để nghe ngóng. Trong nhà bếp, Popeye đang ngồi giạng chân trên một cái ghế, hút thuốc. Van đứng ở chỗ cái bàn, trước một mảnh kính vỡ, chải đầu bằng một cái lược bỏ túi. Trên mặt bàn để một cái đèn dầu, vải dính máu và một điếu thuốc đang cháy dở. Tommy ngồi xổm bên ngoài cánh cửa trong bóng tối. Hắn ta ngồi đó khi Goodwin đi ra với cái áo mưa. Goodwin đi vào nhà bếp mà không thấy hắn ta. “Tommy đâu?”, ông ta hỏi. Tommy nghe thấy Popeye nói điều gì đó, rồi Goodwin xuất hiện cùng với Van theo sau, bây giờ cái áo mưa ở trên cánh tay ông ta. “Đi nhanh lên”, Goodwin nói, “Đi lấy cái thứ chết tiệt đó ra khỏi đây”. Đôi mắt nhợt nhạt của Tommy bắt đầu sáng lên, như mắt loài mèo. Người phụ nữ có thể nhìn thấy bọn họ trong bóng tối khi Tommy rón rén đi vào phòng sau Popeye và khi Popeye đứng cạnh giường Temple nằm. Cô ta nhìn thấy bọn họ đột nhiên hiện ra từ bóng tối, sau đó bỏ đi. Cô có thể nghe tiếng Tommy đang thở bên cạnh mình, một lần nữa cô thấy bọn chúng hiện ra với những đôi mắt hung dữ, nghi ngờ, buồn bã, rồi lại bỏ đi và Tommy rón rén sau lưng Popeye ra khỏi căn phòng. Hắn ta nhìn thấy Popeye trở lại nhà bếp, nhưng không theo sau ngay lập tức. Hắn ta dừng lại ở ngay cửa, chỗ hành lang và ngồi xuống đó. Hắn ta lại bắt đầu cảm thấy dằn vặt, do dự, bàn chân trần di di trên mặt sàn với thân người lắc lư một cách mệt mỏi, yếu ớt, hắn chậm chạp chùi bàn tay sũng mồ hôi vào áo. “Lee cũng như vậy, Lee cũng như vậy”, hắn ta lẩm bẩm, “Mấy thằng khốn nạn, mấy thằng khốn nạn”. Hai lần, hắn ta bò dọc hiên cho đến khi có thể nhìn thấy bóng cái mũ của Popeye trên sàn căn bếp, sau đó, hắn ta quay lại hành lang rồi đến cánh cửa mà đằng sau đó, Temple đang nằm và Gowan đang ngáy. Lần thứ ba, hắn ta ngửi thấy mùi thuốc lá của Popeye. “Nếu hắn ta cứ như thế...”, hắn nói, “cả Lee nữa”, người hắn ta rung mạnh với vẻ hết sức khổ sở, “cả Lee nữa”. Khi Goodwin ra khỏi vũng nước bẩn và đi lên phía sau cái hiên thì Tommy lại ngồi xổm bên ngoài cánh cửa. “Chuyện quái quỷ gì vậy?”, Goodwin nói. “Tại sao mày không làm? Tao đi tìm mày một lúc rồi”. Ông ta nhìn trừng trừng vào Tommy, rồi chuyển ánh mắt vào trong bếp. “Mày sẵn sàng chưa?”, ông hỏi. Popeye đi đến cửa. Goodwin nhìn Tommy lần nữa. “Mày làm gì ở đây?” Popeye nhìn Tommy. Bây giờ, Tommy đã đứng lên, cọ cọ hai mu bàn chân vào nhau, nhìn Popeye. “Mày làm gì ở đây?”, Popeye hỏi. “Tao chẳng làm gì hết”, Tommy nói. “Mày đi theo tao phải không?” “Tao chẳng theo ai cả”, Tommy đột nhiên nói. “Tốt, khôn hồn thì đừng theo”, Popeye nói. “Đi thôi”, Goodwin nói, “Van đang đợi”. Bọn họ đi tiếp. Tommy theo sau. Một lần, hắn ta nhìn lại căn nhà, sau đó bước lóng ngóng sát sau lưng bọn họ. Thỉnh thoảng, hắn ta cảm thấy như thể tất cả máu trong cơ thể đột ngột sôi lên dữ dội, rồi chìm dần vào cảm giác buồn bực, khổ sở. “Mấy thằng khốn kiếp”, hắn ta thì thầm, “Mấy thằng khốn kiếp”. (5) 1 yard = 0,9144 mét. 9 Căn phòng tối đen. Người phụ nữ đứng bên trong cánh cửa, tựa vào tường, với cái áo choàng rẻ tiền và váy ngủ dài bằng nhiễu viền đăng ten, cửa không khóa. Cô có thể nghe thấy tiếng Gowan đang ngáy trên giường và những người đàn ông kia đang di chuyển, trên hiên và hành lang, trong nhà bếp, nói chuyện, những giọng nói không thể phân biệt được xuyên qua cánh cửa. Một lúc sau, bọn họ im lặng. Sau đó, cô không nghe thấy gì ngoại trừ tiếng thở nghèn nghẹt, tiếng ngáy và tiếng rên rỉ từ cái mũi và khuôn mặt méo mó của Gowan. Cô nghe thấy tiếng cánh cửa mở ra. Người đàn ông đi vào, không cố gắng giữ yên tĩnh. Ông ta đi vào, ngang qua chỗ chỉ cách cô một bước chân. Cô biết đó là Goodwin trước khi ông lên tiếng. Ông đi đến bên giường. “Đưa tôi cái áo mưa”, ông nói, “Ngồi dậy và cởi nó ra”. Người phụ nữ có thể nghe âm thanh ghê tởm của tấm nệm lúc Temple ngồi dậy và Goodwin lấy cái áo mưa khỏi người cô gái. Ông ta quay lại và đi ra ngoài. Người phụ nữ đứng sát cánh cửa. Cô có thể nhận ra tất cả bọn họ qua cách mà họ thở. Dù không nghe, hay cảm thấy gì nhưng khi cái cửa mở ra, cô bắt đầu đánh hơi thấy một thứ gì đó: mùi dầu bôi tóc mà Popeye đã dùng. Cô không hề nhìn thấy Popeye khi hắn đi vào phòng và ngang qua cô cho đến khi Tommy đi vào theo sau Popeye. Tommy rón rén đi vào phòng, cũng không một tiếng động; đáng lẽ cô không để ý tới việc hắn ta đi vào nhiều hơn Popeye, nếu không vì đôi mắt của hắn. Chúng rực cháy, như thiêu đốt lồng ngực, với sự ngờ vực hoang mang, sau đó chúng biến mất và người phụ nữ có thể cảm thấy hắn ta đang ngồi xuống bên cạnh mình; cô biết rằng hắn ta cũng đang nhìn về phía cái giường, trên đó là Temple và Gowan, Popeye đang đứng cạnh đó trong bóng tối. Người phụ nữ đứng sát cánh cửa. Cô không thể nghe thấy âm thanh phát ra từ tấm nệm, vì vậy cô vẫn đứng bất động, Tommy ngồi cạnh, mặt hắn ta hướng về cái giường. Sau đó cô lại ngửi thấy mùi dầu bôi tóc. Hay đúng hơn, cô cảm thấy Tommy xê dịch nhưng không một tiếng động, mặc dù chuyển động đó thổi những làn hơi nhẹ và lạnh lẽo vào người cô trong sự tĩnh mịch ảm đạm; không nghe thấy và nhìn thấy hắn ta, cô biết rằng Tommy lại rón rén ra khỏi căn phòng, theo sau Popeye. Cô nghe tiếng họ đi xuống hành lang, âm thanh cuối cùng tắt lịm phía ngoài căn nhà. Cô đi đến cái giường. Temple không hề cử động cho đến khi người phụ nữ sờ vào cô. Rồi cô gái bắt đầu chống cự. Người phụ nữ tìm thấy mồm của Temple và úp tay lên đó, mặc dù Temple không hề muốn thét lên. Cô gái nằm trên tấm nệm gớm ghiếc, vật vã từ bên này qua bên kia, giữ chặt cái áo choàng trên ngực nhưng không gây ra một tiếng động. “Đồ ngu!”, người phụ nữ thì thầm, âm thanh rất nhỏ nhưng dữ dội. “Là tôi đây.” Temple thôi không lăn lộn đầu, nhưng cô vẫn vật vã từ bên này qua bên kia dưới bàn tay người phụ nữ. “Tôi sẽ mách cha tôi!”, cô gái nói, “Tôi sẽ mách cha tôi!”. Người phụ nữ ôm chặt cô. “Ngồi dậy”, người phụ nữ nói. Temple ngừng vật lộn. Cô nằm yên, thân thể cứng đơ. Người phụ nữ có thể nghe thấy tiếng thở dữ dội của cô gái. “Cô sẽ ngồi dậy và bước đi một cách yên lặng chứ?”, người phụ nữ nói. “Được!”, Temple nói, “Chị sẽ đưa tôi ra khỏi đây chứ? Thật chứ?”. “Ừ”, người phụ nữ nói, “Ngồi dậy”. Temple ngồi dậy, lại những âm thanh gớm ghiếc phát ra từ tấm nệm. Trong bóng tối, bên cạnh cô là Gowan đang ngáy - những tiếng man rợ và sâu thẳm. Mới đầu Temple không thể tự mình đứng được. Người phụ nữ giữ cho cô đứng thẳng. “Thôi ngay”, người phụ nữ nói, “Cô bắt buộc phải thôi cái kiểu đó đi. Và nhất định phải giữ yên lặng”. “Tôi muốn quần áo của tôi”, Temple thì thầm, “Tôi không có gì trên người ngoài...”. “Cô muốn quần áo của cô”, người phụ nữ nói, “hay cô muốn thoát khỏi chỗ này?”. “Được”, Temple nói, “Bất cứ điều gì. Nếu chị giúp tôi ra khỏi chỗ này”. Họ di chuyển bằng chân trần trong bóng tối như những âm hồn. Họ rời căn nhà và băng qua cái hiên, tiếp tục hướng về chuồng gia súc. Khi họ đi được khoảng năm mươi yard khỏi căn nhà, người phụ nữ dừng lại xoay người và thình lình kéo mạnh Temple sát vào mặt, nắm chặt hai vai cô gái, mặt hai người sát vào nhau, người phụ nữ thì thầm nguyền rủa Temple, âm thanh không lớn hơn tiếng thở dài và chứa đầy sự điên tiết. Sau đó, người phụ nữ buông cô gái ra và họ tiếp tục đi. Họ đi vào hành lang. Trời tối đen như mực. Temple nghe tiếng người phụ nữ sờ vào vách tường. Tiếng cửa mở kẽo kẹt, người phụ nữ nắm tay cô gái và dẫn cô bước một bước vào trong một căn phòng, cô có thể cảm nhận được những bức tường và ngửi thấy một mùi khủng khiếp, người phụ nữ kéo cánh cửa đóng lại. Đúng lúc đó, đột ngột một vật không rõ hình dạng ngay gần họ sục sạo hoảng hốt rồi chạy cuồng lên, phát ra những âm thanh nhỏ bé ghê rợn. Temple giật mình, thân hình co giật, dưới bàn chân cô gái, vật đó đang lăn lộn rồi nhảy xổ vào người phụ nữ. “Chỉ là một con chuột”, người phụ nữ nói, nhưng Temple đã đổ ập người mình lên người phụ nữ, hai tay ôm chặt lấy cô, cố gắng nhấc hai chân lên khỏi sàn nhà. “Một con chuột?”, cô gái khóc rền rĩ, “Một con chuột? Mở cửa đi! Nhanh lên!”. “Thôi đi!”, người phụ nữ rít lên. Cô ta ôm chặt Temple cho đến khi cô gái hết run rẩy. Rồi họ quỳ cạnh nhau trên sàn nhà lạnh ngắt, tựa người vào bức tường. Một lúc sau, người phụ nữ thì thầm: “Đằng kia có một số vỏ hạt bông. Cô có thể nằm nghỉ ở đó”. Temple không trả lời. Cô gái rúc vào người phụ nữ, chầm chậm run rẩy và họ ngồi trong bóng tối. 10 Trong khi người phụ nữ nấu bữa điểm tâm, đứa bé vẫn còn... hay đã... ngủ trong chiếc thùng phía sau bếp lò, cô ta nghe thấy tiếng chân gấp gáp đang băng qua hiên và dừng lại ở cánh cửa. Khi nhìn quanh, cô thấy một gã đàn ông hoang dại, méo mó và be bết máu mà cô nhận ra được là Gowan. Gương mặt, bên dưới bộ râu ria lởm chởm hai ngày không cạo, rõ ràng là môi của cậu ta bị đứt. Một con mắt nhắm chặt và vết máu đã nhuốm tận tới thắt lưng chiếc áo sơ mi và áo khoác. Bằng cặp môi sưng phồng, cậu ta cố nói điều gì đó. Ban đầu, người phụ nữ không thể hiểu được một tiếng nào. “Đi rửa mặt đi”, cô nói, “À, chờ chút. Vào trong này và ngồi xuống. Tôi sẽ đi lấy cái chậu”. Cậu nhìn cô ta, cố gắng nói. “Ồ”, người phụ nữ nói, “Cô ấy không sao đâu. Cô ấy ở dưới kia, trong căn nhà nhỏ, đang ngủ”. Cô phải kiên nhẫn lặp lại ba hay bốn lần điều đó: “Trong căn nhà nhỏ. Đang ngủ. Tôi đã ở bên cô ấy đến tận sáng. Cậu đi rửa mặt ngay đi”. Sau đó, Gowan bình tĩnh hơn. Cậu ta bắt đầu nói về việc tìm một cái xe. “Chỗ gần nhất thì ở Tull, cách đây hai dặm”, người phụ nữ nói, “Rửa mặt và ăn một chút điểm tâm đã”. Gowan đi vào nhà bếp, nói về việc tìm một cái xe: “Tôi sẽ tìm xe và chở cô ấy ra phía sau trường. Một trong các cô gái sẽ đưa cô ấy lẻn vào. Rồi mọi việc sẽ ổn thôi. Chị không nghĩ là mọi việc sẽ ổn ư?”. Cậu ta đi đến cái bàn, lấy một điếu thuốc và cố châm nó bằng hai bàn tay đang run rẩy của mình. Cậu đặt điếu thuốc vào trong miệng một cách khó khăn và không thể châm lửa cho đến khi người phụ nữ đến bên và giữ cái bao diêm. Nhưng lấy được cái que diêm nào thì cậu ta lại đánh rơi cái ấy, sau đó cậu ta đứng dậy, cầm điếu thuốc trong tay, nhìn nó bằng con mắt còn lại với sự ngạc nhiên đến ngu ngốc. Cậu ném điếu thuốc đi và xoay người hướng về phía cửa, sửng sốt rồi định thần lại, cậu nói: “Tôi đi tìm xe”. “Ăn một chút gì trước đã”, người phụ nữ nói, “một tách cà phê có thể sẽ giúp ích cho cậu đấy”. “Đi tìm xe”, Gowan nói. Khi băng qua cái hiên, cậu dừng lại vừa đủ thời gian để vã một ít nước lên mặt và chẳng quan tâm đến việc sửa sang bề ngoài của mình. Khi rời căn nhà, cậu ta vẫn còn nghiêng ngả, chệnh choạng. Cậu nghĩ rằng mình vẫn còn say và chỉ có thể nhớ lại một cách mơ hồ những gì đã xảy ra đêm qua. Cậu đã tóm lấy Van, những mớ lộn xộn, đổ vỡ không rõ ràng và cậu không nhớ rằng mình đã bị đấm gục hai lần. Cậu chỉ có thể nhớ rằng mình đã ngất đi một lúc nào đó vào khoảng đầu đêm và nghĩ rằng cậu vẫn còn say. Nhưng khi đến chỗ cái xe đã bị đâm tan nát, nhìn thấy con đường mòn, đi theo nó đến con suối và uống cái thứ nước lạnh cóng, cậu ta nhận ra đây chính là thứ nước mà cậu cần và cậu quỳ xuống, vùi mặt vào dòng nước lạnh và cố gắng kiểm tra hình ảnh phản chiếu của gương mặt mình trên dòng nước, rên rỉ cầu nguyện với một sự tuyệt vọng. Cậu nghĩ về chuyện quay lại căn nhà để tìm một thứ đồ uống, sau đó cậu nghĩ mình sẽ phải đối mặt với Temple, bọn đàn ông và Temple ở đó, giữa bọn chúng. Khi cậu ta đến con đường cái, mặt trời đã lên khá cao, tỏa ánh nắng ấm áp. “Mình sẽ sửa soạn sạch sẽ lại một chút”, cậu nói, “và quay lại với một chiếc xe. Mình sẽ lựa chọn nên nói gì với cô ấy trên con đường đến thị trấn”. Cậu nghĩ về việc Temple trở về giữa những người có thể biết cậu. “Mình đã bị ngất hai lần mà”, cậu nói, “Mình đã bị ngất hai lần”. “Lạy Chúa, lạy Chúa”, cậu thì thầm, quằn quại trong bộ quần áo nhem nhuốc và đầy máu me với nỗi đau đớn, tức giận cực độ và cả sự nhục nhã. Đầu của cậu bắt đầu tỉnh táo bởi không khí xung quanh và sự vận động, nhưng ngay lúc cậu vừa cảm thấy khá hơn về thể xác, cái tương lai đen tối trở nên rõ ràng hơn. Thị trấn, thế giới bắt đầu xuất hiện như một ngõ cụt không lối thoát; một nơi mà cậu phải dấn sâu mãi mãi, cái thân thể đê tiện, hèn nhát của cậu sẽ bị săm soi bởi những đôi mắt kèm những lời xì xào bàn tán khi cậu đi qua và vào khoảng chín giờ sáng, cậu đã tới ngôi nhà, cái viễn cảnh phải đối mặt với Temple một lần nữa quá sức chịu đựng đối với cậu. Thế là cậu đặt một chiếc xe, chỉ hướng cho người đàn ông, trả tiền cho hắn ta và tiếp tục đi. Không lâu sau đó, một chiếc xe đang chạy ngược chiều đã dừng lại và đón cậu lên. 11 Temple đang nằm trong một nơi chật chội, những tia sáng lọt qua chấn song rọi lên mặt cô giống như những cái răng của một cây nĩa bằng vàng và trong khi dòng máu gia tăng nhịp độ xuyên qua những thớ thịt bị gò bó, cô nằm im, nhìn trân trối lên trần nhà. Tường là những miếng ván xù xì được ghép sơ sài, mỗi tấm ván tách rời với tấm kề bên bởi một rãnh mỏng tối đen; trong cái góc, một ô vuông mở ra phía trên một cái thang dẫn vào cái gác xép, tất cả tạo thành bức tranh tối tăm ảm đạm cùng ánh mặt trời mong manh như những nét vẽ bút chì. Trên cây đinh, chỗ bức tường rạn nứt có treo một cái yên ngựa bụi bặm ẩm mốc, cô gái cảm thấy bứt rứt không yên trên cái đống mà cô đang nằm. Cô vơ một nắm đầy thứ đó và nhấc đầu lên, cô nhìn thấy bên trong áo khoác trễ nải của mình, những mảng da thịt đang lộ ra ở khoảng giữa áo nịt ngực và quần lót chẽn gối, quần lót và chiếc tất dài. Rồi cô nhớ đến con chuột, cô bật dậy, nhảy đến chỗ cánh cửa, bấu vào nó, trong tay vẫn còn giữ chặt một nắm đầy vỏ hạt bông, cô thở hổn hển, trên gương mặt tuổi mười bảy vẫn còn vương lại vẻ khó chịu vì ngái ngủ. Ban đầu, cô gái cho rằng cánh cửa bị khóa và không thể kéo nó ra được, hai bàn tay tê dại cào vào mấy tấm ván trần trụi cho đến khi nghe được tiếng móng tay mình. Cánh cửa lung lay về phía sau và cô nhảy ra. Tức thì, cô nhảy trở lại căn nhà và đóng sập cánh cửa. Ông già mù đang tập tễnh lê những bước ngắn hướng xuống con dốc, một tay gõ nhẹ cây gậy xuống đường, tay kia bấu vào chỗ thắt lưng, giữ chặt cái quần. Ông già đi qua căn nhà nhỏ với cái dây đeo quần lủng lẳng hai bên hông, đôi giày thể thao giẫm trên đám vỏ khô phơi ngoài hành lang, bóng ông ta khuất khỏi tầm nhìn, tiếng cây gậy kêu lọc cọc nhẹ nhàng dọc theo mấy ngăn gia súc trống không hôi hám. Temple núp bên trong cánh cửa, quấn chặt cái áo khoác quanh người. Cô có thể nghe thấy tiếng ông già ở đâu đó phía sau, tại một trong những ngăn gia súc. Cô gái mở cánh cửa và quan sát, căn nhà chìm trong ánh nắng ấm áp của mặt trời tháng Năm, một ngày Chủ nhật thanh bình, cô nghĩ tới những cô gái và chàng trai rời khu nội trú trong những bộ quần áo mới, tản bộ dọc theo con đường rợp bóng mát hướng về âm thanh trầm lắng, khoan thai của những chiếc chuông đồng. Cô gái nhấc bàn chân lên, thấy chiếc tất dài đang lấm cát ở lòng bàn chân, cô phủi nó bằng tay, rồi cũng làm tương tự với bàn chân kia. Cây gậy của ông già mù lại khua lọc cọc. Cô gái thụt đầu vào trong, khép cánh cửa lại, phát ra một tiếng rắc. Cô quan sát ông già đi qua, bây giờ ông đã đi chậm hơn, hai cái dây đeo quần vắt trên vai. Ông già leo lên con dốc và đi vào căn nhà. Sau đó, cô gái mở cánh cửa và rón rén bước xuống bậc tam cấp. Cô đi thật nhanh đến căn nhà, hai bàn chân mang tất bước lúng túng và rụt rè trên mặt đất gồ ghề, cô ngắm nhìn căn nhà. Cô gái bước lên cái hiên, đi vào trong nhà bếp và dừng lại, lắng nghe, xung quanh yên tĩnh. Bếp lò lạnh tanh. Trên đó đặt một bình cà phê đen đặc, một cái chảo bằng đất nung; trên mặt bàn, những cái đĩa bằng đất nung được chất đống tùy tiện. Mình đã không ăn uống gì kể từ... kể từ... Hôm qua là một ngày, cô nghĩ, nhưng mình đã không ăn gì sau đó. Mình đã không được ăn gì kể từ... đêm hôm đó là buổi khiêu vũ và mình cũng không ăn tối. Mình đã không ăn uống gì từ bữa tối ngày thứ Sáu. Và bây giờ là Chủ nhật, cô nhớ tới những âm thanh từ tháp chuông yên ả dưới nền trời xanh và những con chim bồ câu đang kêu gù gù xung quanh những tháp chuông như tiếng bass vang vọng của cây đàn organ. Cô gái quay trở lại cánh cửa và nhìn săm soi bên ngoài. Rồi cô bước ra, quấn chặt cái áo khoác xung quanh người. Cô gái vào căn nhà và đi nhanh lên hành lang. Mặt trời chiếu vào hiên trước và cô chạy, cổ vươn về phía trước, nhìn cái vệt nắng chỗ cánh cửa. Thật là trống vắng. Cô đi tới cánh cửa phía bên phải của lối vào, mở cửa và nhảy vào bên trong. Rồi cô đóng cửa và dựa lưng mình vào đó. Cái giường trống không. Cái chăn nằm ngang trên đó. Bi đông nước và một chiếc giày ở trên giường. Sàn nhà lăn lóc quần áo và mũ của cô. Cô gái nhặt quần áo và mũ lên, cố phủi chúng bằng tay và một góc áo khoác của mình. Sau đó, cô tìm chiếc giày kia, cô lật giở cái chăn, khom lưng cúi xuống nhìn dưới gầm giường. Cuối cùng, cô tìm thấy nó trong lò sưởi, trong một đống tro bừa bộn, giữa một cái vỉ bằng sắt và một đống gạch đổ vỡ, nằm nghiêng trên một cạnh của nó, bên trong đầy những bụi tro, có vẻ như nó đã bị ném hay đá vào đấy. Cô đổ hết tro ra khỏi chiếc giày, chùi nó vào áo khoác và đặt nó lên giường. Cô lấy cái bi đông nước và treo nó lên cây đinh trên vách tường. Trên đó khắc hai mẫu tự U S và những con số không rõ nét màu đen. Sau đó, cô gái cởi áo khoác ra và mặc quần áo. Đôi chân thon dài, cánh tay gầy gầy, chiếc mông nhỏ, cao... thân hình không hoàn toàn là của một đứa trẻ, cũng chưa hẳn là một phụ nữ... những cử chỉ nhanh nhẹn, cô đứng thẳng hai chân và cố gắng xỏ vào cái váy bó. Bây giờ mình có thể đương đầu với bất cứ chuyện gì, cô im lặng nghĩ, chắc chắn mình có thể đương đầu với mọi tình huống. Cô lấy ra một cái đồng hồ giấu trong chiếc tất dài. Chín giờ. Cô chải những lọn tóc quăn của mình bằng tay, ba hay bốn vỏ hạt bông rơi ra. Cô nhặt áo khoác và mũ lên rồi đứng ở chỗ cánh cửa, tập trung lắng nghe một lần nữa... Cô quay trở lại hiên sau. Trong cái chậu còn lại một chút nước bẩn. Cô rửa nó qua loa, đổ nước vào đấy và rửa mặt. Một cái khăn lau bẩn thỉu treo trên đinh. Cô e ngại nhưng vẫn dùng nó, sau đó cô lấy ra một hộp phấn từ áo khoác và khi đang ngắm mình, cô nhận ra người phụ nữ đang nhìn cô từ cửa nhà bếp. “Chào chị”, Temple nói. Người phụ nữ cắp đứa bé bên hông. Nó đang ngủ. “Chào cưng”. Temple nói, khom người xuống, “cưng muốn ngủ cả ngày hả? Nhìn Temple đi”. Họ đi vào nhà bếp. Người phụ nữ đổ cà phê vào một cái tách. “Tôi nghĩ là nó nguội rồi”, người phụ nữ nói, “Cô có muốn đun lại không?”. Từ chỗ bếp lò, cô ta lấy một cái chảo đựng bánh mì. “Không”, Temple nói, nhấm nháp từng ngụm cà phê âm ấm, cảm giác trong cơ thể cơ hồ đang chảy những giọt nhỏ tí tách. “Tôi không đói. Tôi không ăn gì trong hai ngày, nhưng không thấy đói. Chuyện đó có buồn cười không? Tôi đã không ăn gì trong...” Cô gái nhìn vào lưng người phụ nữ, vẻ làm hòa, “Ở đây không có nhà vệ sinh à?”. “Cái gì?”, người phụ nữ hỏi. Cô ta nhìn Temple qua vai trong khi Temple nhìn chằm chằm vào cô với vẻ quỵ lụy, nịnh nọt. Từ một cái ngăn, người phụ nữ lấy ra một cuốn danh mục đặt hàng bằng thư, xé ra một vài tờ và đưa chúng cho Temple. “Cô phải tới chỗ chuồng gia súc, như chúng tôi vậy.” “Tôi phải làm vậy à?”, Temple vừa hỏi vừa cầm mấy tờ giấy. “Chuồng gia súc.” “Bọn họ đi hết rồi”, người phụ nữ nói, “Bọn họ sẽ không quay lại trong buổi sáng đâu”. “Vâng”, Temple nói, “Chuồng gia súc”. “Ừ, chuồng gia súc”, người phụ nữ nói, “Trừ phi cô quá thanh khiết tới mức không làm được chuyện đó”. “Vâng”. Temple nói. Cô nhìn ra ngoài cửa, ngang qua bãi cỏ thưa thớt ảm đạm. Ở giữa khoảng rừng tuyết tùng, vườn cây ăn quả hiện ra rực rỡ trong ánh sáng mặt trời. Cô gái cởi áo khoác và đi về hướng chuồng gia súc, trong tay cô là những tờ giấy, trên đó là hình ảnh của những cái kẹp phơi quần áo, máy vắt quần áo, bột giặt. Cô đi vào hành lang, dừng lại, gấp những tờ giấy, rồi cô đi tiếp, nhanh nhẹn, mắt nhìn lấm lét vào những ngăn gia súc trống không. Cô bước vào. Nó mở cửa ở phía sau, bên trên những cây cà độc và những cây hoa oải hương trắng. Cô lại bước tiếp dưới ánh nắng, vào trong bãi cỏ. Rồi cô bắt đầu chạy rất nhanh, những bông hoa dại ẩm ướt, hôi hám quất vào chân cô. Cô khom người, lách qua cái hàng rào sắt gỉ sét đã võng xuống và chạy xuống ngọn đồi bạt ngàn cây. Tại chân đồi, một rãnh cát hẹp cắt giữa hai con dốc của một thung lũng nhỏ, quanh co uốn khúc với những mảng sáng chói mắt là chỗ mà ánh mặt trời rọi tới được. Temple đứng trong cát, lắng nghe tiếng những con chim đang giấu mình giữa những vòm lá lốm đốm nắng và quan sát cảnh vật xung quanh. Cô đi theo dòng suối nhỏ khô cạn đến chỗ nó nhô ra, một nơi yên tĩnh với những cây thạch nam. Giữa những chiếc lá mới xanh non là những chiếc lá đã khô từ năm ngoái bám trên nhánh cây, chưa kịp rụng xuống mặt đất. Cô gái ngồi đó một lúc, gấp đi gấp lại những tờ giấy trong một tâm trạng tuyệt vọng. Khi ngước lên, cô đã thấy, bên trên đống lá cây sáng lấp lánh dọc ở đầu một cái rãnh, bóng một người đàn ông đang ngồi. Ngay lập tức, cô đứng bật dậy và bỏ chạy thục mạng, làm rớt lại một chiếc giày. Cô nhìn hai chân mình lướt nhanh trên mặt cát, xuyên qua những đốm nắng, được khoảng dăm ba mét, cô xoay người, chạy ngược lại chộp lấy chiếc giày, lại xoay và chạy tiếp. Khi nhìn lướt thấy căn nhà thì cô đã đối diện với cái hiên trước. Ông già mù ngồi trên một cái ghế, khuôn mặt ngẩng lên, tắm trong nắng. Ở bìa rừng, cô dừng lại và đi giày vào. Cô băng qua bãi cỏ hoang phế, nhảy lên cái hiên và chạy xuống hành lang. Khi đến hiên sau, cô nhìn thấy một người đàn ông ở chỗ cánh cửa của chuồng gia súc, đang nhìn về phía căn nhà. Cô băng qua cái hiên chỉ bằng hai sải chân và đi vào nhà bếp, nơi người phụ nữ đang ngồi cạnh cái bàn, hút thuốc và bế đứa bé trên lòng. “Hắn ta đang theo dõi tôi!”, Temple nói, “Hắn ta theo dõi tôi mọi lúc!”. Cô tựa vào cánh cửa, chăm chú quan sát bên ngoài, sau đó tới bên người phụ nữ, khuôn mặt nhỏ nhắn, xanh xao, đôi mắt giống như hai lỗ thủng được tạo thành bởi một điếu xì gà và cô đặt bàn tay lên cái bếp lò. “Ai?”, người phụ nữ hỏi. Temple nói: “Hắn ta ở trong bụi rậm, theo dõi tôi mọi lúc”. Cô gái nhìn về phía cánh cửa, rồi lại nhìn người phụ nữ và thấy bàn tay mình đang nằm trên bếp lò. Cô giật tay lại đồng thời cất một tiếng rên, nhưng rồi lại dùng tay chặn miệng. Cô xoay người và chạy về phía cửa. Người phụ nữ chộp lấy cánh tay cô gái, cánh tay kia vẫn ôm đứa bé. Temple nhảy ngược vào trong bếp. Goodwin đang đi về hướng căn nhà. Ông ta liếc nhìn bọn họ và tiếp tục đi vào hành lang. Temple bắt đầu vùng vẫy. “Thả tôi ra”, cô thầm thì, “Buông ra! Thả ra!”. Cô nhào lên và hụp xuống, xoay bàn tay người phụ nữ chống giữ trên thanh dọc cánh cửa đến khi được buông ra. Cô nhảy khỏi cái hiên, chạy về hướng chuồng gia súc, vào trong hành lang, leo lên cái thang, trườn qua cái cửa sập và lại đứng lên, chạy tiếp về đống cỏ khô đang mục rữa. Đột nhiên cô thấy mình đang chạy ngược xuống; hai chân vẫn đang chạy trong không trung, rồi lưng cô đập xuống một cách nhẹ nhàng và chắc chắn, cô vẫn nằm yên, nhìn chằm chằm lên một cái khe hình chữ nhật đã được đóng lại bằng những tấm ván nhưng chúng đang bị long và phát ra những tiếng lách cách. Bụi bẩn rơi xuống xuyên qua những luồng ánh nắng rọi vào từ các chấn song. Cả cơ thể cô đang nằm trên một thứ gì đó, bàn tay quờ quạng, sau đó cô chợt nhớ đến con chuột. Toàn thân cô dựng đứng, hai chân ngập trong đống vỏ xôm xốp, cô vung hai bàn tay ra và tự kéo mình đứng lên, mặt cô cách cái xà ngang mà con chuột đang trốn chưa tới ba mươi centimet. Trong khoảnh khắc, hai đôi mắt đối diện nhau, rồi đột ngột mắt của con vật rực cháy lên như hai bóng đèn nhỏ xíu và nó phóng vào đầu cô gái đúng lúc cô nhảy ngược về phía sau và giẫm lên một vật gì đó đang bò dưới bàn chân. Cô ngã về cái góc đối diện, úp mặt xuống đống vỏ và một vài lõi ngô bị gặm mòn. Một cái gì đó đập vào vách tường và hất đầu cô nẩy bật ra. Con chuột đang rúc trong cái góc đó. Một lần nữa, mặt của người và con vật cách nhau chưa tới ba mươi centimet, đôi mắt chuột lóe sáng và dần dần mờ đi. Rồi con vật dựng đứng lông, quay lưng lại cái góc, những móng chân trước của nó vươn về phía trước và bắt đầu cất những tiếng rít ai oán nhằm vào hướng cô gái. Cô gái bò lùi, nhìn con vật. Sau đó, cô đứng lên và nhảy tới chỗ cánh cửa, đập liên hồi vào nó, cô sợ hãi nhìn con chuột, cong người ép chặt vào cánh cửa, những tấm ván kêu kèn kẹt dưới sức nặng của cô. 12 Người phụ nữ đứng bên cánh cửa nhà bếp, bế đứa bé, cho đến khi Goodwin hiện ra từ căn nhà. Ông ta nói: “Chúa ơi! Em cũng say à?”. Ông đi dọc theo hiên. “Cô ta không có ở đây”, người phụ nữ nói, “Anh không tìm được cô ta đâu”. Ông lướt qua cô, mang theo mùi rượu whiskey nồng nặc. Cô quay lại, nhìn ông. Ông nhìn nhanh xung quanh nhà bếp, sau đó nhìn cô đang đứng chặn chỗ cửa. “Anh không tìm được cô ta đâu”, cô nói, “Cô ta đã đi rồi”. Ông ta đi về phía người phụ nữ, giơ tay lên. “Đừng chạm vào tôi”, cô nói. Ông chầm chậm nắm chặt cánh tay cô. Hai mắt ông hơi đỏ. “Bỏ tay ra khỏi người tôi”, cô nói, “Bỏ ra”. Ông chầm chậm lôi cô khỏi chỗ cánh cửa. Cô bắt đầu nguyền rủa. “Anh nghĩ anh có thể sao? Anh nghĩ tôi sẽ để anh làm điều đó? Giống như bất cứ đứa con gái bẩn thỉu hư hỏng nào khác?” Bất động, hai người mặt đối mặt như trong tư thế chuẩn bị trước khiêu vũ, mọi cơ bắp như căng lên. Chỉ bằng một động tác, ông ta lăng cô qua một bên, người cô quay một vòng rồi đập vào cạnh bàn, cánh tay cô với ra sau để giữ thăng bằng, thân hình cong xuống và bàn tay sờ soạng phía sau, giữa những cái đĩa bẩn, cô nhìn ông ta. Ông ta bước về hướng người phụ nữ. “Lùi lại”, cô nói, giơ con dao thái thịt lên một cách yếu ớt, “Lùi lại”. Ông ta điềm tĩnh đi về phía cô, sau đó cô đâm con dao vào người ông ta. Ông ta túm lấy cổ tay cô. Cô bắt đầu vùng vẫy. Ông giật đứa bé trong tay cô và đặt nó lên bàn. Rồi ông túm lấy bàn tay kia của cô đúng lúc nó vụt vào mặt ông, cả hai cổ tay cô bị giữ chặt chỉ bằng một tay. Ông ta tát cô. Một tiếng “bốp” khô khốc vang lên. Ông ta lại tát cô, đầu tiên là một bên, sau đó là bên còn lại, ông ta làm người cô lắc từ bên này qua bên kia. “Đó là những gì tao làm với bọn chúng”, ông nói, rồi lại tát cô, “Thấy chưa?”. Cuối cùng, ông ta thả cô ra. Cô lùi về đằng sau, rồi trượt chân suýt ngã vào cái bàn. Cô chộp lấy đứa bé, thu người, núp mình giữa bàn và bức tường, nhìn ông ta xoay người và rời căn phòng. Cô khuỵu xuống, vẫn ôm đứa bé. Nó không động đậy. Cô đưa tay lên sờ một bên má, rồi bên còn lại. Cô đứng dậy, đặt đứa bé vào trong thùng, lấy một cái mũ treo trên đinh xuống và đội nó lên. Từ một cây đinh khác, cô lấy một cái áo khoác được trang trí bằng thứ gì đó từng là lông thú màu trắng, cô bế đứa bé lên và rời khỏi căn phòng. Tommy đang đứng trong chuồng gia súc, bên cạnh cái máng ăn và nhìn về hướng căn nhà. Ông già ngồi trên hiên trước, trong ánh nắng. Cô bước xuống những bậc thềm và đi theo con đường nhỏ dẫn ra đường cái rồi tiếp tục đi không hề quay nhìn lại. Khi đến chỗ cái cây và chiếc xe hỏng, cô quẹo từ đường cái vào một con đường nhỏ. Sau khoảng một trăm mét, cô đến chỗ con suối và ngồi xuống cạnh đó, đứa bé nằm trong lòng cô và cô lộn ngược viền của chiếc váy ra phủ lên mặt đứa bé đang ngủ. Popeye đi rón rén trên đôi giày lấm bùn của hắn, bước ra từ bụi cây, hắn đứng nhìn cô đang ở bên kia bờ suối. Tay của hắn vỗ nhẹ vào áo khoác, hắn rút thuốc, vê thành một điếu, nhét nó vào trong mồm và đánh một que diêm bằng ngón tay cái. “Lạy Chúa”, hắn nói, “Tôi đã nói với ông ta về chuyện đừng để tụi nó tụ tập suốt đêm, ngập ngụa trong cái thứ quỷ quái đó. Phải có luật lệ chứ”. Hắn nhìn ra xa, về hướng căn nhà. Rồi hắn nhìn người phụ nữ, vào chóp mũ của cô. “Đúng là một căn nhà ngu xuẩn”, hắn nói, “Chưa đầy bốn ngày trước, tôi tìm thấy một tên chó đẻ ở đây, gã hỏi tôi có đọc sách không. Giống như là gã sẽ nhảy vào tôi với một cuốn sách hoặc gì đó. Hay là tuyển dụng tôi để làm một cuốn niên giám điện thoại”. Một lần nữa hắn ta lại hướng mắt về phía căn nhà, giật mạnh cổ áo ra đằng trước cứ như là nó quá chật. Mắt hắn lại tập trung nhìn vào chóp mũ của người phụ nữ. “Tôi sẽ đến thị trấn, hiểu không?”, hắn nói, “Tôi sẽ biến khỏi đây. Tôi đã chịu đủ rồi”. Cô không nhìn lên. Cô sửa lại viền váy của mình đang phủ trên mặt đứa bé. Popeye đi tiếp, trong lùm cây những tiếng động nhỏ, mơ hồ vọng ra. Rồi lặng dần. Ở đâu đó, từ phía đầm lầy, một con chim cất tiếng hót. * * * """