"Thằng Thuộc Con Nhà Nông PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thằng Thuộc Con Nhà Nông PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tiểu sử Hồ Hữu Tường Sanh ngày 8-5-1910 tại làng Thường Thạnh, quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ (Nam Việt) trong một gia đình tá điền nghèo. - Nhờ may mắn, được sang Pháp học lúc nhỏ tuổi. Kết bạn với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, vào đảng Đệ Tứ Quốc Tế. - 1930, dự bị thi thạc sĩ toán học, song lại bỏ về nước để hoạt động chánh trị. - Từ năm 1931 đến 1939, làm lý thuyết gia cho phái Đệ Tứ ở Việt Nam. Dạy tư, viết báo và hoạt động chánh trị. - Điều khiển báo bí mật (như Tháng Mười: 1931-1932, Thường Trực Cách Mạng: 1934-1937, Quần Chúng: 1937- 1938) và công khai (như Le Militant: 1936, Tháng Mười: 1938, Tia Sáng: 1939) của nhóm, viết nhiều sách mỏng để phụng sự cho chủ nghĩa như “Vấn đề phòng thủ Đông Dương”,“Vụ án Moscou”... - Giữa năm 1939, rời hàng ngũ Đệ Tứ và đoạn tuyệt chủ nghĩa Mác Lê. Sau đó, bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày đi Côn Đảo với một số chánh trị gia chống thực dân, như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu...; đến cuối 1944, được trả tự do. - 1945, Nhật lật Pháp, ra Hà Nội để sang Tàu, bị kẹt ở đây với Tạ Thu Thâu. Có đề nghị với Hồ Chí Minh nên để Việt Nam Trung Lập. Nhưng không được chấp nhận. - 1946, được mời vào phái đoàn đi dự hội nghị Đà Lạt, song chẳng góp ý kiến gì. Giúp bộ giáo dục trong việc lập chương trình, soạn và in sách tiếng Việt cho bậc Trung học. - 1947, bị quân đội Pháp bắt trong lúc tản cư Kẻ Sặt, về Sàigòn, viết báo. - 1949, sang Pháp, 1951, chủ trương tạp chí Pacific, thử vạch “đường lối thứ ba” cho các nước Á-Phi vừa trỗi dậy. - 1953, về nước chủ trương tạp chí Phương Đông, đưa ra biện pháp “Trung Lập Chế” và sang Geneva vận động... Tựa Tập này là tập đầu của một bộ có nhan đề chung là một kinh nghiệm sống. Đến ngày nay, tác giả quan niệm bộ này có: 1. Thằng Thuộc con nhà nông, nói về giai đoạn 1910-1921. 2. Căm hờn, nói về giai đoạn 1921-1930. 3. Mê ly đồ, nói về giai đoạn 1930-1939. 4. Dò lần về nguồn, nói về giai đoạn 1939-1963. Xét bề ngoài, bộ này dường như là tự thuật. Việc lấy mình làm trung tâm cốt chuyện, lối văn kể những điều mắt thấy tai nghe, theo tuần tự của thời gian và với giọng của đệ nhứt nhân, mấy điều đó dễ làm cho độc giả tưởng rằng mình đang đọc tiểu sử của tác giả, do tác giả viết lấy. Nhưng, nếu độc giả có sự ngộ nhận đó, thật ra ấy bởi do văn tài của tác giả kém cỏi, muốn một điều, mà sức tài không đủ làm cho bật nổi điều đó mà thôi. Điều mà tác giả muốn làm cho bật nổi lên, là nói rằng một con nhà nông, đáng lẽ phải tự nhiên đi thẳng vào đường lối dân tộc, chẳng dè do một sự căm hờn mà sự thông minh thổi phồng lên trong chín năm, làm cho tác giả lệch đường, lạc lối vào cái mê ly đồ của chủ nghĩa Mác Lê trong chín năm. Đến chừng hồi tỉnh, thì đã đến ngưỡng cửa của cái giai đoạn “tam thập nhi lập”. Đáng lẽ tác giả phải noi gương của Moise, của Thích Ca, của Nhan Hồi, của Jésus mà “lập ngôn” vào lúc ấy. Song bởi vì lạc lối đã quá xa, mà phải dò lần về nguồn, nên phí cả thảy hai mươi bảy năm. Tính sổ lại, về mặt khách quan, nếu chẳng có sự căm hờn dẫn đi lạc lối trong chín năm, chưa ắt phải có hai mươi bảy năm để trở về đến nguồn. Cộng chung tất cả là ba mươi sáu năm gian lao, khổ hạnh, vào sanh, ra tử, vào tử, ra sanh, hứng lên đầu bao nhiêu tủi nhục, chưa được một phút vinh, dằng dặc từ năm này sang năm kia, chỉ nuốt có đắng cay, mà chưa được nếm một phen bùi ngọt. Một đời người như thế, có hay ho gì đâu mà đem ra kể lể để khoe? Đáng lẽ thẹn thùng mà giấu đi, mới phải hơn. Nhưng mà... Từ thuở bé, do giáo dục của gia đình có, do tấm lòng có, tác giả đã lập tâm phụng sự cho kẻ khác. Nay tính sổ lại chưa làm được gì lợi ích cho nhân quần, xã hội. Âu là rút một kinh nghiệm sống mà mách cho đoàn hậu tấn rằng, chẳng phải đợi tới tuổi già, một bác sĩ Faust mới bị Méphistophélès cám dỗ mà bán linh hồn, để đổi chác đôi mắt xinh của nàng Marguerite. Một thanh niên hai mươi tuổi càng bị dễ cám dỗ hơn, cám dỗ không phải bằng đôi mắt xinh của một mỹ nhân nào, mà bởi bộ mặt ghê tởm của một ác quỉ có tên là Căm Hờn. Nói trắng ra, dụng ý của tác giả là bảo thanh niên rằng: “Anh đừng làm cái gì mà tôi đã làm”. Xưa, tôi có một anh bạn, bạn tranh đấu trong giai đoạn “mê li đồ”, có tật uống rượu như hũ chìm. Thế mà anh lại có chân trong “Liên minh tranh đấu chống nạn nghiện rượu”, và trong khi tranh đấu hăng hái như thế, vẫn say túy lúy cả ngày. Hỏi anh sao có việc mâu thuẫn trong hành động ấy, thì anh đáp: “Không có mâu thuẫn chút nào cả! Bởi tôi quá nghiện rượu nên thực chứng được sự tai hại của bịnh nghiện, mà khuyên kẻ khác mau tránh trước cái đại nạn này, một cái đại nạn quá bi đát cho nạn nhân, là ý thức được sự tai hại của bịnh nghiện, mà không làm sao cai rượu được”. Kể ra trong thế giới đếm không biết bao nhiêu người, bởi do nhiều lý do khác nhau, mà lọt vào mê ly đồ của chủ nghĩa Mác Lê. Rất hiếm người ý thức được tai hại của chủ nghĩa Mác Lê, mà cất tiếng bảo đàn hậu tấn rằng hãy đề phòng Cám Dỗ, đem việc của mình ra mà mổ xẻ để cắt nghĩa sự tai hại của bức “đổ tường thứ năm”, sau tửu, sắc, tài, khí. Có mấy ai mắc bệnh dương mai, thiên pháo mà vạch lưng, giở bụng để chỉ cho ai hễ thấy, thì đừng lấp lửng với những ả bán phấn buôn hương. Bạn tôi vừa nghiện rượu vừa nghiện chủ nghĩa Mác Lê, đã chết tại, và vì chủ nghĩa này, chớ chẳng phải vì nghiện rượu. Người đã vào “Liên minh tranh đấu chống nạn nghiện rượu”. Nhưng lúc người còn sống, ai mà lập một “hội nghiên cứu những tội phản khoa học của chủ nghĩa Mác Lê”, ắt người sẽ xem đó là kẻ tử thù. Cho hay,“bức đổ tường thứ năm” nguy hiểm hơn bốn bức đổ tường kia gộp chung lại. Trong thế giới, không biết bao nhiêu sách vở đã viết ra, gọi là để chống chủ nghĩa Mác Lê. Tối đại đa số tác giả của những quyển sách ấy là những người chưa bước chân vào chủ nghĩa này, nhìn khắp, xem kỹ, rồi bước ra bởi thấy mình cố ráng sống ở trong đó, mà không được. Số người bước vô, rồi tháo ra kể cũng có, nhưng có mấy ai cắt nghĩa vì sao mình bước ra? Tác giả cũng ở vào hạng có vô, rồi lại ra. Vậy bộ sách này nói về sự ly dị, chớ chẳng phải là một áng văn đả kích, như các áng văn khác. Mà phàm những cuộc ly dị, đều có lý do tâm tình, không thể lấy lý mà giải được. Những ai muốn đả kích chủ nghĩa Mác Lê bằng lý trí, hãy tìm sách khác mà đọc. Còn ai muốn thấy sự phi lý của một sự ly dị tâm tình, thì xin nghe ở đây một tiếng chuông. Tháng tư năm Bính Ngọ Hồ Hữu Tường 1 Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh dứt được nhà Tây Sơn và lên ngôi Hoàng đế. Vào tháng mười một, trên một chiếc ghe bầu từ Qui Nhơn vào, có một thanh niên tuổi mới mười bốn, tên là Hồ Văn Phi. Tỉnh Qui Nhơn xưa vừa đổi tên là tỉnh Bình Định. Sự đổi tên tỉnh này, đối với người họ Hồ trong tỉnh, có nghĩa là một sự trả thù, một sự đàn áp. Bởi họ Hồ khi xưa ở Nghệ An, nhơn bị xua vào đây mà sanh con đẻ cháu; rồi trong họ xuất hiện ba anh em Nhạc, Lử, Huệ, nổi lên cầm đầu cho phong trào nông dân dấy loạn, tục gọi là phong trào Tây Sơn, dẹp Chúa Nguyễn, diệt Chúa Trịnh, dứt nhà Lê. Nên khi Tây Sơn bị bại, họ Nguyễn lên ngôi, thì tất cả người họ Hồ, có bà con gần xa với ba anh em Tây Sơn đều chia ít nhiều những hậu quả của sự bại vong. Và để tránh những sự trả thù, những sự đàn áp, Hồ Văn Phi trốn vào Nam. Ban đầu, Hồ Văn Phi ở bạn cho những điền chủ giàu có ở vùng Vĩnh Long. Trong tám năm, học rành nghề làm ruộng trong nầy và dành dụm chút ít tiền, ông cưới vợ và mướn ruộng ở Cái Vồn để làm lấy. Hai vợ chồng tá điền nghèo này sống một đời bình thản, sanh được hai người con gái rồi ngưng rất lâu. Muốn có con trai để nối dòng, hai ông bà thường đi chùa mà cầu tự, song không kết quả. Năm Lê Văn Khôi khởi nghĩa, có hai mẹ con của một gia đình nọ từ Chợ Lớn đến Vĩnh Long mà lánh nạn. Mẹ tuổi hơn sáu mươi, còn giọng Bắc. Con gái gần ba mươi, chưa có chồng. Ở ngụ ít lâu, hai mẹ con thấy vợ chồng ông Phi hằng van vái để cầu có con trai, thì bói cho một quẻ, bảo rằng nên nuôi một đứa con nuôi trai, ngày sau mới có thể sanh con trai được. Nghe vậy, hay vậy, song vợ chồng ông Phi chưa chọn được đứa trẻ nào. Ba năm sau, thì người con gái ở đậu nọ trở lại, có ẵm một đứa con trai độ năm tháng, giao cho vợ chồng ông Phi và nói: - Đứa nhỏ này là con của tôi. Cha nó họ Hồ, thì nó cũng họ Hồ. Tôi cho nó cho ông bà để cho nó giữ được họ của nó. Khi nó lớn lên, ông bà dặn nó nên nêu lên hai chữ Kế Thế mà thờ giữa hai chữ Hồ Phủ và truyền lại mãi mãi cho con cháu nó nên làm như vậy. Tôi để lại cho ông bà một số tiền để mướn vú nuôi nó. Tôi không nuôi nó được, vì tôi phải đi tu trên núi. Giao con xong, nàng ra đi, không trở lại. Đứa nhỏ đặt tên là Điểu. Vài năm sau, bà Phi sanh thêm một gái, một trai. Rồi ông Phi mãn phần, để mấy đứa con lại trong cảnh nghèo nàn. Kế rồi quân Pháp vây thành Vĩnh Long. Mẹ con hoảng sợ, tom góp đồ đạc xuống một chiếc ghe, chèo đi tị nạn, sang tuốt qua Hậu Giang vào rạch Cần Thơ, rạch Cái Răng, đến khoảng giữa Ông Cửu và rạch Cái Chanh mà ở. Vợ con ông Điểu cũng theo đoàn tị nạn ấy. Chỉ có ông Điểu nhập vào đoàn nghĩa quân do người họ Phan cầm đầu mà chống lại lực lượng xâm lăng của Pháp. Người họ Phan nầy nghe đâu là con cháu của tướng Phan Văn Lân của Quang Trung Hoàng đế, không chịu ra làm quan mà phò nhà Nguyễn, nên di cư vào Nam, rồi chiêu mộ nghĩa quân mà chống Pháp. Cuộc kháng chiến không kết quả, nghĩa quân giải tán, họ Phan qua Rạch Giá mà khẩn đất, phá rừng làm ruộng ở Cái Sâu. Ông Điểu cho đứa con trai lớn theo họ Phan mà ở luôn bên ấy. Còn ông qua Cái Chanh mà rước vợ cùng những đứa con khác trở về Cái Vồn mà mướn đất làm ruộng. Bà vợ, tên là Lê Thị Thơm, giỏi làm ăn, hết mùa ruộng thì nuôi tằm dệt lụa. Thế mà gia đình luôn luôn chật vật vì đông con. Và nhất là ông chồng từ ngày kháng chiến thất bại hóa ra lừng khừng rồi phát điên trong ít lâu. Có người đạo sĩ bảo cho rằng có âm binh theo đông lắm, họ hành nên phát điên. Phải đi làm thầy, đi chữa bịnh cho bá tánh, hầu âm binh được cúng mà no ấm, thì họa may mới khỏi bịnh. Lối xóm nghe nói, đem con bịnh đến. Ông Điểu dốt, không biết vẽ bùa chẳng biết bắt quyết, chẳng thuộc thần chú, chỉ vái âm binh lầm thầm mà trừ được bịnh. Danh tiếng đồn khắp nơi, con bịnh rước mỗi ngày, công việc làm ăn của ông Điểu bị bỏ dở, mà ông làm phước, không nhận tiền chữa bịnh, nên gia đình càng ngày càng nghèo thêm. Đã nghèo, thêm bị chúng ghét. Những phù thủy trong làng ghét, những ông lang trong vùng ghét vì làm mất mối làm ăn của họ. Mà những người có học, những người giàu cũng ghét, vì tấm biển bằng giấy hồng đào treo trên cao, ngay bàn thờ ông bà. Hai chữ HỒ PHỦ viết trong hai khuôn hai bên làm cho họ bàn tán. Họ nói: “Phủ là cái dinh thự to lớn của một đại thần, mà Hồ Văn Điểu này là một cùng đinh, sao cả gan cho cái nhà tồi tàn của mình là Phủ được?” Có người bàn: “Phủ cũng có nghĩa là nơi chứa sách hay của báu, mà trong nhà này không có một cái chén kiểu, một cuốn sách, thì làm sao mà dám xưng như vậy?”. Người thông kinh sách thì chỉ trích sai chữ “KẾ THẾ” viết trong khuôn giữa của tấm biển. Họ nói: “Kế thế vi đức, dĩ hữu thiên hạn” là hàm súc cái mộng làm Đế Vương. Cũng may cho tụi này là miền Nam không còn trong tay của triều đình Huế. Bằng không sẽ bị diệt tộc vì nuôi một tinh thần phản loạn”. Mặc kệ người dèm pha, vợ chồng ông Điểu sống trong cảnh nghèo nàn, lo nuôi bầy con đông và chữa bịnh không ăn tiền cho mọi người. Năm 1880, nhơn lúc sửa cái nhà lại, người thợ gác sườn nhà làm lăn một cây đòn tay rớt xuống trúng ngay đầu ông Điểu. Ông chết tốt. Lối xóm lo chôn cất xong thì cái gia đình mẹ góa con côi không nhà ở, chẳng có tiền, bắt buộc phải dời qua Cái Chanh mà nương tựa với họ hàng. Ông Hồ Văn Điểu là ông nội của tôi, đến nay lạc mồ mã. Ông sanh được bốn trai. Bác ba tôi là Hồ Văn Đồ, sống bên Rạch Giá theo gia đình của họ Phan. Bác chín tôi là Hồ Văn Nhu. Tía tôi là Hồ Văn Sây, thứ mười một. Chú út là Hồ Văn Chánh, thứ mười ba. Còn bao nhiêu là gái. Các cô đều chết lúc chưa chồng, trừ cô Tư, cô Mười và cô Mười hai là ba cô chết già. 2 Dời qua Cái Chanh, bà nội tôi, Lê Thị Thơm, đùm bọc một bầy con đông mà mấy đứa lớn thảy đều là gái, nên không mướn đất làm ruộng. Mẹ con sống bằng nghề xay lúa giã gạo mướn. Cũng may, trong vùng có nhiều nhà, vốn là con cháu của công thần Tây Sơn, không đầu Chúa Nguyễn, di cư vào Nam sanh sống. Đối với họ Hồ, họ sẵn có cảm tình, nên chia nhau đùm bọc. Một mẹ góa, tám con côi, tuy nghèo, song không đến nỗi đói rách. Cô lớn thứ tư lại được làm dâu cho một nhà khá giả họ Võ. Họ này nghe đâu cũng là con cháu của một công thần Tây Sơn, nên quí mến họ Hồ chúng tôi lắm. Tía tôi, Hồ Văn Sây, lớn lên trong cảnh nghèo nàn và thất học. Từ nhỏ, ông được cả làng chú ý vì tánh tình ngay thẳng, cương trực, hiền lành và chẳng đam mê một tật xấu nào cả. Nhờ đó mà ông được chủ đất mướn coi quản gia, điều khiển một tốp bè bạn mấy chục người. Từ mười lăm tuổi, ông đã học chỉ huy những người lớn hơn mình và trở nên một người làm ruộng giỏi. Tuy là ở đợ, song ông không đến nỗi vất vả. Nhờ làm quản gia cho một nhà giàu có, ông thường thay mặt chủ mà giao thiệp rộng rãi và tỏ ra xuất sắc hơn những người đồng trang lứa. Bà chủ, người họ Võ có chồng Minh Hương, có nuôi một đứa cháu gái gọi bằng cô, mồ côi cha từ mười hai tuổi, mẹ đã tái giá. Bà thấy gả cháu mình cho người tánh tình tốt và có tài, mặc dầu nghèo, ắt cháu có hạnh phúc hơn là cho làm dâu nhà giàu mà phải chồng hư hỏng. Huống chi tía tôi là họ Hồ, có dính dấp bà con với Tây Sơn. Thế là má tôi, Võ Thị Nữ, con gái nhà giàu, mặc dầu là con nuôi, vào làm dâu cho họ Hồ, rời nhà cửa dọc ngang và ở nhà lá đơn sơ. Tía tôi thôi làm quản gia cho bà cô vợ, đứng ra mướn trăm công ruộng mà làm, trở nên một tá điền, mãi cho đến chết. Hai ông bà sanh hai đứa con đầu lòng đều chết non. Đi chùa cầu tự mãi, má tôi mới sanh được hai anh tôi là Hồ Hữu Phú, kế đến hai chị gái là Thọ và Lễ. Rồi bà nội tôi qua đời. Năm ấy phong trào Duy Tân phát triển mạnh ở vùng tôi, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cũng thạnh hành và đám con cháu của công thần Tây Sơn cũng hăng hái hoạt động. Bác chín tôi, Hồ Văn Nhu, lao mình vào phong trào trở nên một thủ lãnh của Thiên Địa hội. Chú út tôi, Hồ Văn Chánh, cũng hưởng ứng theo. Tía tôi trầm tĩnh hơn, tánh ưa phán đoán hơn mặc đầu vừa giúp cho phong trào ái quốc, song dè dặt. Tuy vậy, tía tôi được mọi người chú ý và tin cậy... Những năm ấy, trong gia đình, sự hanh thông bắt đầu đến. Làm ruộng được trúng mùa liên tiếp. Phải cất thêm cái nhà dưới để chứa mới hết thóc, ghe bầu miền Trung vào đậu ngay dưới bến, đem thúng rổ cùng các sản phẩm đàng ngoài vào mà đổi thóc lúa; cũng thường đem những ông đồ ông lang theo tìm công ăn việc làm. Những ông này thích giao thiệp với tía tôi và ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng ông. Vốn không ưa dị đoan, bây giờ ông có thêm một lý thuyết để bác việc gõ mõ tụng kinh, việc vẽ bùa niệm chú. Và ông rất chuộng sự học. Anh Phú do đó mà được cho đi học chữ Nho nơi ông chủ ở làng, nhà cách nhà tôi cả hơn hai cây số, trong lúc cả xóm không ai đi học. Tía tôi cưng con lắm, và cũng săn sóc con. Nên đêm nào ông cũng ngồi quạt muỗi cho anh Phú, học tất cả bài vở của con, lâu ngày chầy tháng hóa ra biết chữ và đọc sách đọc truyện. Ông cũng được cử ra làm hương chức ấp được ít khóa. Về sau, ông chỉ lãnh một vai trò hương văn mà tham gia vào việc lễ thần mà thôi... Về mặt tôn giáo, ông giữ kỹ đạo thờ ông bà. Ông tin có thánh thần song không chịu việc cúng tế, lấy cớ rằng bực thánh thần không lẽ dung tha sự hối lộ mà ăn của lo lót. Vì vậy mà ông kịch liệt chống đối thầy phù thủy và đồng bóng, mặc dầu ông nội tôi xưa kia làm thầy có tiếng. Đối với đạo Phật, ông kính Phật mà không ưa thầy chùa, cho rằng thầy chùa đáng lẽ làm cho nhiều để bố thí cho chúng sanh, thì trái lại thọ hưởng cúng dường của chúng sanh mà chịu sự bố thí. Riêng đối với đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, ông có chút cảm tình, vì đạo nầy không chấp việc cúng kiến và tụng kinh. Song ông vẫn không theo, cho đến ông gần chết mới thượng trần điều. Lúc chưa sanh ra tôi, vào ngày mùng một Tết, ông nằm chiêm bao thấy một ông già khuyên ông nên tu. Từ ấy mỗi mồng một Tết ông ăn chay một lần, cho rằng tu như vậy là đủ rồi. Ông thường giao thiệp với những người có học thức trong làng và được người cùng xóm kính nể. Ai có điều gì thắc mắc thường đến hỏi ý kiến nơi ông. Những việc tranh chấp lặt vặt, người ta hay nhờ ông giải quyết giùm, vì ông cư xử rất công bằng. Có điều là ông rất nghiêm đối với con, cháu. Đứa nào làm lỗi thì ông trị thẳng tay. Cách ông trị con rất đặc biệt. Khi mình lầm lỗi, ông ít khi kêu cúi xuống mà đánh liền. Ông chỉ nói vạch cho mình thấy rằng mình lỗi. Rồi sau đó, đợi mọi việc nguôi ngoai, ông mới kêu nhắc lại, rồi sau lời buộc tội, ông bắt mình đánh giá coi tội ấy phải xử cách nào mới xứng đáng. Thành ra cuộc trừng phạt hóa ra một cuộc đấu lý kéo dài cả giờ đồng hồ. Kẻ bị tội ít sợ mấy roi đánh vào mông hơn là cuộc đấu lý ấy. Ông làm ruộng rất hay. Ruộng ông bao giờ cũng trúng mùa hơn tất cả những đám ruộng chung quanh. Năng suất có khi lên cao bằng rưỡi. Người ta cho rằng ông có thời, được ông bà giúp. Nhưng ông cắt nghĩa cái bí quyết cho con rằng ông cho phát cỏ sớm, cỏ thúi phủ lên mặt đất làm cho không mọc cỏ khác lên được, đồng thời hóa thành phân mà bón đất, nên lúa cấy được tốt. Một mặt khác, vào mùa khô, ông không để cho ruộng ở không, mà lại thường làm rẫy, thường gieo đậu, tỉa bắp; ông cắt nghĩa rằng các giống ấy mọc trên ruộng thường làm cho ruộng trúng hơn. Khác với đa số nông dân, ông không chơi một môn cờ bạc nào cả. Mỗi bữa cơm ông uống một ly nhỏ rượu thuốc, vừa đủ hừng hừng gò má để ăn cơm cho ngon. Sau bữa cơm ông hút một điếu thuốc Gò Vấp cho khỏi tanh miệng, chớ không hề hút thuốc vào giờ khác. Đến khi vãn niên, lúc bị nạn bể xương mông nằm chịu đau suốt tám tháng trước khi chết, ông lại sanh tật đánh đề ba mươi sáu con. Đánh nho nhỏ, để tập trung tinh thần mà bàn đề, hầu quên nỗi đau đớn của xác thịt và cái chết bò lần từ chơn lên trên. 3 Má tôi, Võ thị Nữ, sanh trong một gia đình khá giả. Năm bà mười hai tuổi, ông ngoại tôi qua đời. Bà ngoại tôi còn trẻ, tái giá, giao má tôi cho người cô nuôi. Sống trong một gia đình giàu có, nhưng má tôi không được học chữ, cũng như tất cả con gái của bà cô. Mà về nữ công, nữ hạnh, thì má tôi được dạy dỗ rành rẽ lắm. Chị của má tôi, cũng do bà cô nuôi, được gả vào một gia đình giàu có. Còn má tôi lại có chồng nhà nghèo, đó không phải là sự ngẫu nhiên. Cả bao nhiêu sợi dây chằng chịt cột níu hai họ Hồ và Võ. Trước hết là bà cô, vốn có ít nhiều kỷ niệm về Tây Sơn, nên muốn cháu gái có chồng họ Hồ là họ của ba vua. Má tôi thường nói lại rằng nếu bác chín tôi và chú út tôi thuở nhỏ đàng hoàng, thì ắt có vợ con gái nhà giàu, vì không thiếu gì người muốn gả con cho. Tía tôi cũng ở vào tình trạng ấy. Kế đó là cô Tư tôi làm dâu cho nhà họ Võ và dượng Tư tôi với má tôi là bà con chú bác. Cô Tư tôi muốn cột mối cho em chồng lấy em ruột mình. Mà chắc chắn hơn hết mối tình cảm nung đúc trong năm năm, lúc tía tôi làm quản gia cho bà cô làm cho hai ông bà hiểu rõ tánh nết nhau. Má tôi lam lũ làm ăn lắm. Ngoài mấy tháng làm ruộng, má tôi không chịu ở không, chở hàng bông từ trên vùng tôi xuống Ba Xuyên, Bãi Xàu mà đổi lúa, đem về Cái Răng mà cân. Buôn bán như vậy không lời bao nhiêu, song bà vẫn làm để có dịp giúp hai ba người chèo chống có tiền xài và khỏi rêu rỗng cờ bạc. Bà lại có dịp giao thiệp đó đây để làm quen. Bà thích kết giao lắm. Tuổi càng lớn, bà càng ưa làm mai dong. Những nơi quen lớn có con đúng lứa, bà biết tên biết tuổi cả và hễ có dịp thì bà nói để tác thành. Mà thiên hạ lại tin rằng bà có phúc đức, cặp nào do bà làm mai thì ăn ở với nhau vuông tròn, sanh con sởn sơ, nên họ lại cậy bà làm mai. Quanh năm, bà chỉ lo đi đám hỏi đám cưới hay đi buôn bán, ít khi về nhà. Nhờ vậy mà má tôi dạn dĩ lắm. Giao thiệp với ai, bà không biết sụt sè, đi tới đâu bà cũng dám. Có lẽ tôi thừa hưởng tánh nết nầy nơi má tôi. Và lúc nhỏ, lo cho tôi học, xin giấy tờ, trù liệu mọi việc, thảy do một tay bà. Về sau, cả làng đều nói rằng tôi mà nên thân phận được là nhờ đức của mẹ, lời ấy rất đúng. 4 Tết năm 1910, lúc ấy tôi còn ở trong bụng mẹ, tía tôi đã giao thiệp được một người không ai biết tên họ gì, mà thiên hạ sau này đều gọi là thầy Quảng, vì có giọng nói Quảng Nam đặc biệt. Không ai thấy ông này làm nghề gì; nhưng người ta đồn ông làm thợ mộc, rồi bởi ông giỏi bùa Lỗ Ban nên thiên hạ sợ ông ếm mà không ai mướn cả. Ông say rượu cả ngày, ngồi trên một chiếc xuồng mà bơi đi hoài, ít ghé đâu cả. Mấy năm nầy, ông thường lui tới nơi vùng nầy và được tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương kính nể lắm. Mồng một Tết, ông ghé nhà tôi, thấy tía tôi ăn chay. Trong mâm chỉ có một dĩa dưa leo, một dĩa dưa cải và một dĩa chao. Ông hỏi tía tôi tu theo pháp môn nào. Tía tôi thật tình nói hết quan niệm của ông về tôn giáo và thêm rằng ăn chay chỉ ngày mồng một Tết, ấy là giữ lời khuyên của người trong mộng, chứ không theo đạo nào cả. Thầy Quảng khuyên tía tôi nên theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và bày cho tía tôi rõ phần thâm viễn của đạo nầy là cái lý thuyết về hội Long Hoa, Di Lặc sẽ giáng trần chỉnh lại pháp cũ, làm cho Minh Đạo sẽ tái sanh. Thầy đọc cho tía tôi nghe cả tràng sấm ký của đạo và bàn về các lời sấm. Nghe thì nghe vậy, tía má tôi bàn luận nhiều với nhau về sự này. Nhưng rốt rồi không theo. Ngày lại qua. Đêm 28 sáng 29 tháng 3 âm lịch, tía tôi nằm mộng. Ông thấy mình đang ngồi trong nhà, có một ông già đến, gọi ra ngoài sân. Ngoài trời đen tối, sao đầy giăng. Ông già ngoắt một cái, một ngôi sao rớt xuống rồi hóa ra một cái cánh sen. Ngoắt một cái, một ngôi sao nữa rớt xuống hóa ra cánh sen thứ hai. Và như vậy, có đủ ba mươi sáu cánh sen, ông già gắn nhau lại thành một cái hoa sen mà chưa có nhụy và cái gương non ở giữa. Sau rốt, ông già mốc đất mà nắn nhụy và cái gương mà trám vào. Rồi cho tía tôi cầm. Tía tôi giựt mình thức dậy, vì nghe tiếng má tôi kêu. Bởi má tôi đau bụng gắt và tính ra cũng vừa đúng ngày sanh đẻ. Tía tôi đẩy xuồng đi rước bà mụ, ở cách sông, xéo xéo nhà tôi. Rồi ông lo nấu nước sôi, chuẩn bị mọi thứ để đón tôi ra chào đời. Mà ông không ngớt suy nghĩ. Bởi vì suốt mấy tháng nay ông thầm van vái tổ tiên để bói một quẻ. Ông thấy dòng tôi, ngót ba đời, đời ông Hồ văn Phi, đời ông Hồ văn Điểu và đời tía tôi, thảy đều sống hẩm hiu trong thân phận tá điền, tựa hồ ngóc đầu lên không nổi, nên ông tự hỏi: “Dòng họ Hồ này có một tương lai nào?” Rồi ông ra một ước lệ để bói. Hễ chuyến nầy mà sanh con gái thì tá điền còn mãi là tá điền. Còn sanh ra con trai, thì thằng nhỏ nầy thoát được số phận của ông cha. Vì vậy mà trong mấy giờ chờ đợi tôi ra đời, tía tôi hồi hộp như người đánh me sắp giở chén. Trai hay gái? Gần sáng. Gà đã gáy. Tiếng bà mụ vọng ra: “Con trai!”. Tía tôi mừng khấp khởi. Con trai! Thằng này sẽ thoát thân phận nông dân. Nhưng nó sẽ làm gì? Tía tôi nhớ lại điềm chiêm bao đã thấy mấy giờ trước đó, và tìm ý nghĩa nó ra sao. Song óc quê mùa thiếu học của ông không đủ cho ông thấy được năm sáu mươi năm về sau... Rồi vài chục phút trôi qua. Chim đậu trên các cây chung quanh nhà đua nhau kêu. Rồi tiếng các đoàn ghe đám cưới rầm rộ qua lại dưới sông, đếm cũng mười mấy đám. Má tôi nghe tiếng ghe đám cưới mừng lắm nói: “Thằng nầy lựa ngày tốt quá mà ra đời!” Trong bầu không khí vui mừng nầy, tía tôi đưa bà mụ về nhà. 5 Khi trở về, vừa cắm xuồng, thì có một chiếc xuồng bán tôm cá bơi qua. Tía tôi kêu lại mua một rổ lớn, để làm một tiệc ăn mừng cho thằng con trai vừa sanh. Thì ông thầy Quảng bơi xuồng vừa tới. Tía tôi mời ông ghé lại nhậu chơi và để nhờ ông bàn giùm điềm mộng. Khởi đầu, ông thầy Quảng bấm cho tôi một quẻ tử vi. Tính toán xong, ông nói: - Năm canh tuất, tháng ba, ngày 20 chín, giờ dần, thì tốt lắm mà cũng xấu lắm. Không có “Tuần” và “Triệt”, thì số này là số Đế Vương. Bị hai sao nầy hãm, thì là làm vua mà không ngai, thêm luôn luôn gặp trở lực và hoạn nạn. Đi tu thì thoát khỏi nạn mà có thể làm đến giáo chủ, ứng vào cái cảnh làm Vua mà không ngai. Tía tôi mới thuật việc bói quẻ của ông trong mấy tháng qua và nói tỉ mỉ về điềm mộng đã thấy hồi khuya. Thầy Quảng bàn: - Theo sự cầu nguyện, sanh ra con trai là được điềm lành. Mà theo chiêm bao, thấy có người cho hoa sen, ấy cũng điềm lành. Cái hoa sen góp màu sắc từ khắp nơi, mà tinh túy của nó, là nhụy và gương non, thảy do nơi đất là chỗ chôn nhau cắt rún. Thằng nhỏ này sẽ kỳ lạ lắm. Ráng mà nuôi nó. Để tôi đặt tên cho xứng với cái điềm đã thấy. Tía tôi hỏi: - Thầy đặt tên cho nó là chi? Thầy Quảng suy nghĩ một chặp, đáp: - Chú bói xem họ Hồ sẽ có tương lai gì không, mà được con trai, ấy là họ Hồ được điềm lành. Vậy đặt tên cho nó là Hồ Hữu Tường, nghĩa là họ Hồ có điềm lành. Nó có “văn xương”,“văn khúc”, thì ắt không phải là nông dân như ông cha. Ít nữa cũng là một văn sĩ. Thì phải đặt cho nó một cái tự nữa. - Tự là gì? - Tự là cái tên riêng để nhắc cái tên chánh. Tên chánh của nó là Hồ Hữu Tường, do một sự bói xin mà được. Vậy tôi đặt cho nó cái tự là Khổng Cưu, ứng vào câu “Khổng cưu đắc hữu tường”. KHỔNG là to, CƯU là bói, KHỔNG CƯU ĐẮC HỮU TƯỜNG là bói một cái bói to mà được điềm lành. Hễ nhắc tới Khổng Cưu thì người ta nhớ ngay là Hữu Tường. Và còn phải thêm cho nó một cái hiệu nữa. - Hiệu là gì? - Hiệu là cái tên thứ hai. Bởi nằm chiêm bao thấy có người tặng cho một hoa sen quí, nên tôi đặt tên cho nó cái hiệu là Bửu Liên. Ông thầy Quảng và tía tôi bữa ấy say mèm. Tía tôi hi vọng cho thằng con trai mình sẽ thoát thân phận nông dân bằng cách đặt tên tốt cho tôi với tự, với hiệu cũng như trong các gia đình quyền quí và túc nho. Thế là vài ngày sau, ông ra làng khai sanh cho tôi với tên Hữu Tường. Và sau tôi lớn lên, nhớ nhắc tôi cái tự và cái hiệu. Hiệu là Bửu Liên, tôi đã dùng mà ký mấy bài báo khi mới vào nghề và cộng tác với Nguyễn văn Bá. Còn tự Khổng Cưu, tôi đã dùng mà ký tên vài quyển sách xuất bản ở Hà Nội và hiện nay thất lạc cả. Ngày tôi được khai sanh là ngày 10 tháng 5 đương lịch 1910, sai biệt vài ngày với bữa 29 tháng 3 âm lịch*. 6 Biết việc tôi tên Tường, lúc ấy chỉ có thầy Quảng, tía tôi và ông biện làng ghi vào bộ đời. Thuở ấy, ít khi ai lấy cái “bài rời” của lời khai hộ tịch làm chi. Khi tía tôi đi khai sanh ở làng về, thì gặp bà ngoại tôi tới thăm. Ông ngoại tôi qua đời lúc má tôi mới mười hai tuổi. Bà ngoại tôi là vợ lẽ, nên còn trẻ lắm. Vì vậy mà bên ngoại tôi khuyên bà giao má tôi cho bà con nuôi, rồi tái giá, ở một nơi cách nhà tôi hơn mười lăm cây số. Thỉnh thoảng bà mới tới thăm con một lần, và nay nghe má tôi ở cữ, đến hỏi sức khỏe và xem cháu ngoại trai hay gái. Má tôi không biết tía tôi đặt cho tôi tên gì. Đến khi bà ngoại tôi hỏi, tía tôi nói, thì bà rầy: - Tường là tên của dượng ghẻ bây. Nhè lấy tên dượng ghẻ mà đặt cho con, ấy là làm một việc phạm thượng. Ổng biết được, ông sẽ giận bây lắm và tao ăn nói làm sao với ổng cho được? Tía tôi thú thật rằng không biết tên của ông ngoại ghẻ của tôi. Và việc đã dĩ lỡ rồi, bây giờ phải đặt tên lại. Ông bèn đặt cho một tên rất nôm na là Thuộc, không có chữ lót đẹp, mà chỉ dùng chữ Văn như phần đông người trong nhà quê. Rồi ông dạy nấu một nồi chè, một nồi cơm nếp mà cúng ông bà để tạ lỗi, hầu cải tên tôi lại là Hồ Văn Thuộc. Không có tự là gì, hiệu là gì nữa cả. Tía tôi tưởng làm như vậy là đủ rồi, không cần ra làng mà cải lại trong bộ đời. Trong đời của ông, có lúc nào ông cần sao lục khai sanh mà nạp cho ai đâu? Và có lẽ, lúc sanh ra ông, ở xứ mình chưa có cái lệ lập khai sanh kìa! Trong mười mấy năm, tôi trưởng thành với tên Thuộc. Tía tôi làm ăn quanh năm, quên phức cái tên đẹp, có chữ lót, quên tên tự, tên hiệu. Má tôi, anh tôi, hai chị tôi cũng không biết nốt, nói gì là lối xóm. Tại sao tía tôi đặt tên cho tôi là Thuộc? Ông cắt nghĩa: - Anh Hai mầy tên Phú, là tao hi vọng cho nó giàu. Chị Ba mầy tên Thọ, ấy là tao cầu cho nó được sống lâu. Chị Tư mày tên Lễ ấy là tao mong cho nó giữ được lễ với thiên hạ. Còn mày tên là Thuộc là tao mong sau này, ai dạy mày cái gì, mày cũng thuộc cả. Cái hi vọng này, ông nhờ phong trào Duy tân nung đúc cho. Ông thấy người ta rần rộ lo gởi người xuất dương du học, ông cũng muốn cho con trở nên người có học thức, cái gì cũng biết, cái gì cũng “thuộc”. Và điều này, lúc nhỏ tôi thường nghe ông nhắc nhở. 7 Tôi có thể mất họ Hồ lúc còn trong nôi. Má tôi lúc trước là người con nuôi của cô ruột có chồng Minh Hương họ Lý. Bà cô này có người con trai, mà tôi gọi là cậu, làm chức hội đồng và làm chủ đất của tía má tôi. Cậu có một người vợ thứ sanh con trai mấy lần đều mắc chứng chết lúc còn trong nôi, theo lối con ranh con lộn. Tôi không rõ về phương diện y học, con ranh con lộn là cái gì. Theo tục người mình truyền, thì đứa nhỏ chết với một chứng gì... sẽ đầu thai lại mà chết đúng với cái chứng của đứa con trước. Người ta lại tin rằng đứa trước khi chết bị làm dấu cách nào, thì đứa sau sanh ra với y cái dấu đó. Mợ ấy muốn có con trai để cho chồng yêu hơn. Và có người chỉ cho rằng muốn nuôi con được, thì khi vừa sanh ra phải đem đứa nhỏ mà đổi với đứa trẻ khác, để khi vong hồn của ma ranh ma lộn đến bắt, nhìn không ra cái xác mà bắt. Vì vậy mà mợ nói với cậu đem đổi anh mới sanh với tôi. Thế là tôi về làm con nhà họ Lý với cái tên Lý Khánh Hồng; còn anh kia về làm con nhà họ Hồ. Chúng tôi sởn sơ. Qua khỏi tháng mà theo lệ đứa con lộn phải chết, được đâu ba bốn tháng, mợ chủ đất bèn bàn với chồng rằng con ruột mình bây giờ làm con nhà nghèo, lớn lên làm ruộng cực khổ; còn con của tá điền mình lớn lên sẽ chia của, hưởng gia tài và sung sướng. Như vậy tội nghiệp cho con. Bây giờ đã qua cái hạn con lộn bắt rồi, thì đổi con lại mà con ai nấy nuôi. Lịnh của chủ đất dạy, một lần nữa, tía má tôi chỉ biết có vâng theo. Thế là tôi bỏ họ Lý mà trở về họ Hồ, khỏi làm con cho nhà giàu mà trở về làm con nhà nông. Lúc ấy, tôi được chín tháng. Đổi tôi được không đầy tháng, mợ địa chủ phải khóc con một lần nữa; tính già hóa ra non... Lắm khi, tôi suy nghĩ lại. Nếu không đổi trở lại, mà tôi làm con của một vị hội đồng họ Lý luôn, thì lớn lên, đội cái tên là Lý Khánh Hồng, đời tôi sẽ ra sao? Có làm cách mạng chăng? Có chịu án tử hình chăng? Có làm nhà văn chăng? Hay là làm địa chủ rồi bị nông dân truất hữu mà trốn lên đô thị, kéo lê đời tàn như trăm ngàn địa chủ phá sản bây giờ? 8 Anh Lý Khánh Hồng chết, thằng Thuộc hoàn lại cho tía má tôi, nên hai ông bà mừng lắm. Tuy không dám nói ra, sợ mất lòng của cậu hội đồng, song tía má tôi cho rằng họ Hồ có phước. Nên lễ thôi nôi của tôi làm rất rình rang, đối với gia đình của một tá điền. Tía tôi thường nhắc cho tôi nghe những tiểu tiết của lễ ấy. Lúc đó tôi vừa biết đi, chập chững được ba bốn bước. Giữa bộ ván có bày ra nhang đèn để cúng và trong một cái mâm thau, có bày biện đủ các món, nào sách, nào gươm, nào xôi, nào gương... tượng trưng cho những nghề. Bà con đứng chung quanh bộ ván. Tía tôi thắp đèn nhang cúng vái, má tôi đặt tôi ngồi nơi đầu ván, và chắp hai tay tôi lại mà lạy bốn lạy, rồi dắt tôi đi chập chững lại mâm thau để bói xem tôi chọn món nào. Mọi người đều chăm chăm nhìn chờ. Đến trước mâm, tôi ngồi xuống, nhìn mọi vật, rồi nhìn mọi người, cười. Rồi tôi thò tay bốc cục xôi lá cẩm có dáng ngon lành. Ai nấy tưởng đâu thằng nhỏ sắp đút xôi vào miệng để ăn, không dè nó ném đi một bên. Cả thảy cả cười, nói: “Thằng này lớn lên không chịu làm ruộng!” Ném cục xôi xong, tôi kéo cả mâm lại gần, món nào cũng rờ tới, nhưng không lấy hẳn món nào. Tía tôi về sau bàn: “Mày nữa sẽ không làm nghề nào nên cả. Trọn đời, hết mó việc này là bỏ sang việc khác, không làm được việc gì. Cái lộc trước mắt lại bỏ đi mà không ăn, ấy là làm nhiều mà không có hưởng”. Có lẽ lời bàn của tía tôi là đúng. Lớn lên, chuẩn bị thi thạc sĩ toán học, tôi lại bỏ cái đời phú quí mà đi làm cách mạng. Từ ấy biết bao cơ hội làm giàu, tôi không ham, có lắm nhà giàu muốn gả con cho, tôi không chịu. Cái lộc trước mắt, tôi thường chê, mà đâm đầu rượt theo bánh vẽ. Nếu chuyện bói nghề trong lễ thôi nôi của tôi ứng được phần nào, có lẽ đó là việc không chịu ăn xôi. Năm 1945, khi trốn Việt Minh mà nằm trong phòng, tôi nhớ mãi đến chuyện ấy. Lúc đó, tôi chỉ có “hàng đầu” họ, thì họ chắc chắn ưu đãi tôi. Tôi sẽ có địa vị, hét ra lửa cũng như bao nhiêu người khác. Song tôi “không chịu ăn xôi”, nên tôi lánh. Rồi trong bài tựa của quyển muốn làm chính trị, tôi nói chuyện con chó què không chịu gặm mấy cục xương có dính thịt, trong bữa tiệc linh đình... 9 Hôm ăn lễ thôi nôi, tôi đã bập bẹ được năm ba tiếng. Bây giờ tôi hãy còn nhớ, lúc ấy tôi nghe được khá nhiều, thấy việc thường hiểu rõ, nhưng nói chưa được mà thôi. Từ ngày ấy, tôi nói càng ngày càng rành, mà tánh cũng hay nói lắm. Bắt đầu là tôi hát véo von mấy câu hát ru em mà chị tôi thường hát. Tôi thuộc câu hát rất nhiều. Ai nấy cũng khen rằng tôi rất xứng với tên là “Thuộc”. Hết học câu hát của chị tôi, tôi lại học những câu do người bơi xuồng, chèo ghe qua lại dưới rạch hát. Đất Cần Thơ, hồi trước, có cái tục hát đối đáp của những người bơi chèo. Những câu hát rất văn chương, rất nhiều tình tứ và có câu cũng có nghĩa sâu xa. Họ hát qua một lượt, tôi không thuộc hết được, song khúc nào ngộ nghĩnh, thì tôi nhớ mà lặp đi lặp lại mãi. Tôi mến văn chương có lẽ nhờ những ấn tượng đầu tiên của loại văn chương bình dân này. Ở khít nhà tôi là nhà của hia ba Ngọ. Tôi gọi là hia, là vì là cháu nội của bà chín tôi và gốc Minh Hương. Hia ba Ngọ thường đặt những bài vè ngắn ngắn để chế giễu những ai có tật nết xấu trong xóm. Và đặt xong thì hia dạy cho con nít ở chung quanh đó học để mượn miệng của chúng nó mà truyền bá. Lúc nhỏ, tôi thuộc cũng khá nhiều những bài vè ngắn ngắn này. Ngoài ra, đêm nào tôi cũng học vài câu chữ Hán. Anh hai tôi lúc đó đã đi học. Và đêm nào, anh cũng bị tía tôi bắt đem bài học trong ngày mà đọc lớn lên. Tôi nghe, tuy không hiểu nghĩa lý gì, song cũng thuộc làu những câu “nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”. Nhờ đó mà danh tiếng thằng Thuộc đồn khắp xóm. Má tôi đông bà con, nên hay được mời ăn giỗ, ăn cưới. Đám nào, người ta cũng dặn má tôi dắt tôi đến khoe cho bà con thằng nhỏ có tài thuộc lòng lắm cái mà từng tuổi nó, con nít khác ít khi được biết. Má tôi cũng hãnh diện có đứa con được nhiều người khen như vậy, nên cũng thích dắt tôi theo mà khoe. Tôi nhớ tôi cũng thích học cho thuộc nhiều câu hát bài vè để đọc hầu được thưởng bánh ngon. 10 Tôi không biết mặt cô mười hai tôi, vì cô có chồng người Tàu và theo chồng về Tàu khi chúng tôi chưa sanh. Nghe nói thì cô đẹp lắm và chồng cô là một nhà trí thức lăn lộn theo đám cách mạng Tàu nên có sang qua bên này mà quen với gia đình tôi. Lúc tôi gần hai mươi tháng, bên Tàu có xảy ra cuộc Cách mạng Tân Hợi. Lúc đó tôi chẳng biết gì cả. Cậu sáu tôi là người Minh Hương nên được mời ra chợ Cái Răng mà dự lễ ăn mừng Cách mạng do người Tàu tổ chức. Tía tôi cũng được mời tham dự vì dượng tôi hình như có một địa vị nào đó bên Tàu. Tôi cũng được dắt ra chợ chơi. Hôm ấy, tôi được xem các ông Tàu cắt cái bính lòng thòng sau đầu, góp tiền gởi về Tàu mà ủng hộ Cách mạng và ăn tiệc linh đình. Và tôi cũng được đem ra khoe về cái tài học thuộc lòng của tôi. Có nhiều người Tàu, trước có quen biết với dượng tôi, bàn với tía tôi nên viết thơ qua Tàu cho dượng tôi để dượng tôi đem tôi về Tàu mà ăn học. Vì theo họ, tôi là một “thần đồng”, mà nhờ dượng tôi đỡ đầu, ở Tàu đã được có hoàn cảnh tốt, ắt tôi sẽ trở nên một nhân vật đáng kể. Họ hứa sẽ viết thơ qua Tàu cho dượng tôi về vấn đề ấy. Về sau, tôi không nghe nhắc đến chuyện đem tôi sang Tàu nữa. Sau này, nhớ lại chuyện ấy, lắm khi tôi tự hỏi: phỏng việc ấy đem ra mà thi hành, thì bây giờ đời tôi sẽ ra sao? Bây giờ đời tôi sẽ hóa ra một trong mấy trăm triệu nông dân Tàu đương khổ não trong công xã nào đó chăng? Hay tôi đã biến thành một cán bộ hét ra lửa của Mao Trạch Đông và đương làm mưa làm gió ở Bắc Việt? Hay tôi đã chạy theo Tưởng Giới Thạch mà sống đời tàn ở Đài Loan? 11 Gần Tết, có chiếc ghe bầu từ Bình Định vào đậu ngay trước nhà tôi. Những người đi ghe, chúng tôi gọi là người “Huế” cả. Họ chở vào mê thúng, đồ thờ bằng gỗ và chài lưới mà bán. Đồ thờ và chài lưới thì họ đem bán ngay. Còn mê thúng thì họ khoét lỗ dưới đất mà lận rồi cặp vành mà nức. Bữa nào cũng có năm bảy người nức thúng dưới bến nhà tôi. Tôi thích lân la với họ mà nghe họ nói chuyện với nhau trong lúc làm việc. Khi họ ngưng nói, thì tôi hỏi; nhiều câu hỏi ngớ ngẩn hoặc oái oăm của tôi làm cho họ cười rộ. Rồi óc tò mò của tôi được họ làm cho thỏa mãn. Họ biết ông cố tôi là người Bình Định, di cư vào trong này hơn một trăm năm nay, nên rủ tôi chừng nào lớn, trở về xứ của ông bà cho biết. Cái mộng này, tôi nuôi từ thuở bé, mà mấy chục năm nay chưa thực hiện được. Năm 1945, nhơn chuyến đi ra Bắc, tôi có ngồi xe lửa chạy một mạch từ Tuy Hòa đến Quảng Ngãi, ngang qua ga Qui Nhơn chỉ có mười lăm phút mà thôi, mà lại lúc ban đêm. Thành ra tôi không biết đất đai, nhà cửa núi non ở vùng này, vùng của những người bạn đầu tiên của tôi. Họ thật là những người bạn. Chiều nào, khi làm việc xong, trước khi nhảy xuống sông tắm, họ cũng múa võ với nhau cho tôi coi. Tôi cũng bắt chước họ mà thủ vài miếng, làm cho mọi người cười rộ. Khi tắm xong, thì mỗi người đều cầm một cái cần câu mà câu cá lòng tong, cá he rất nhiều trong rạch. Họ cũng làm cho tôi một cái cần câu nhỏ, rồi móc mồi cho tôi câu cá chơi. Nhờ những người bạn này chơi với tôi cả ngày mà chị tôi khỏi phải giữ tôi. Chị tôi giao tôi cho họ, rồi tha hồ chơi giỡn với bạn khác, bày những trò cất nhà chòi, làm đám cưới đám giỗ chơi với lũ trẻ. Tôi tuy còn nhỏ, song không thích chơi những trò của trẻ con, mà lại mê chơi với người lớn. Tánh này vẫn giữ cho đến lúc thành niên. 12 Ăn Tết xong, đến rằm tháng giêng, lúa ở vùng tôi bắt đầu chín. Tía tôi làm ruộng ở tận ngọn rạch Ông Cửu Nhỏ, cách nhà tôi cả ba ngàn thước. Mùa khô tía tôi cất một cái chòi ruộng, dọn một cái sân thóc rộng trước chòi để gom thóc về đó trước khi chở về nhà. Anh Hai tôi đi học. Hai chị tôi giữ nhà. Má tôi ban ngày đến sở ruộng mà tiếp cho tía tôi. Còn tía tôi mãn mùa ở chòi ruộng với tôi. Chưa đầy hai mươi bốn tháng, tôi đã sống những vui thú của những người làm ruộng. Tía tôi làm một trăm công ruộng. Ngày nào cũng có năm sáu công cắt và năm sáu công đập. Tía tôi, má tôi và hai người bạn “Huế” đội thóc vừa đập xong về trước chòi mà đổ vào đống lúa càng ngày càng cao nghệu. Tôi tuy nhỏ, song đã có công việc là giữ chòi. Nói là giữ chòi, song cả ngày tôi chơi với con diều giấy to tướng mà mấy công đập làm cho tôi rồi cột dây vào cột chòi, đến tối mới cuốn dây đem xuống. Diều có một cây cung, gió mạnh kêu lớn lên làm cho tôi rất khoái trá. Tía tôi cắt cho tôi một công việc là mỗi ngày, hễ người bán kẹo đi qua thì lấy lúa mà đổi kẹo để trưa đãi công cắt, công đập. Trưa bữa nào, sau bữa cơm và ăn kẹo xong, họ cắt phiên nhau, một tốp đi đuổi chim, một tốp nghỉ. Tốp nghỉ tụ họp trong chòi mà nói chuyện. Người thì nói chuyện đời xưa, người thì nói chuyện tiếu lâm, người nói chuyện ma. Tôi nhảy vào giữa đám, ngồi xếp bằng mà nghe tuy không hiểu và nhớ hết, song cũng hùn cười và tỏ ra khoái lắm. Nói chuyện nghe chơi một chặp thì mấy người đuổi chim về, có bữa có cả trăm con ốc cao, chàng nghịch vỏ vẻ. Bữa nào họ cũng bắt một con, nắn vào cục đất sét ướt mà thảy vào đống lửa rơm, đợi lửa tàn rồi thì gỡ đất lấy chim ra mà đãi tôi. Tôi thấy đời làm ruộng đến với tôi bằng cạnh khía tươi đẹp: chơi diều, ăn kẹo, ăn chim nướng và nhất là nghe chuyện. Mãn mùa khô, thóc chở về nhà, những thú vui này dứt. Mà chiếc ghe bầu đậu dưới bến đã mua thóc đầy ghe rồi mở đõi đi mất. Tôi không còn những người bạn kể chuyện xa xăm, chiều chiều múa võ cho tôi xem. Tôi chỉ còn có nước tham gia vào những trò chơi chán phèo của lũ trẻ chơi chòi, bày tiệc gả cưới... 13 Khi tôi gần được ba mươi tháng, tôi lại suýt mất họ Hồ một lần nữa. Má tôi có một người cháu gái, gọi má tôi bằng cô, và là cháu nội của bà chín tôi. Người ấy họ Lý, chúng tôi gọi là “chế ba Hến” vì là gốc Minh Hương và tên là Hạnh. Chế ấy có chồng họ Bùi, nghe đâu cũng con cháu của công thần Tây Sơn, nhà giàu có lớn, ruộng cả ngàn mẫu. Vợ chồng ở với nhau cả mười năm mà không có con, thấy tôi tròn trĩnh nói năng bặt thiệp thì xin tía tôi để bắt tôi về làm con nuôi. Tía má tôi, thấy cái gia tài ngàn mẫu ruộng, đã có lòng ham, mà chỗ bà con lại rất gần thì cũng dễ. Lại thấy rằng tôi về làm con họ Bùi thì chắc chắn sau này làm một đại điền chủ, thoát được cái thân phận nông dân, khỏi lo đi phát cỏ, cào ruộng, đập lúa, đội thóc, ứng với việc mà trong buổi lễ thôi nôi, tôi đã ném cục xôi, nên tía tôi bằng lòng. Tôi theo vợ chồng chế Ba, xuống ghe hầu mà vào nhà ruộng ở vùng Phụng Hiệp. Nhà ruộng cất một mình xa xóm, lại chung quanh có đào hào sâu và rộng. Có một cái cầu quay bắc từ nhà ra ruộng, ban đêm rút đi, để cho trộm cướp không xâm nhập vào nhà được. Thành ra trong nhà tôi không có bè bạn để chơi hoặc chuyện vãn. Đã buồn, lại bị muỗi đốt cả ngày, bởi vùng này muỗi nhiều có tiếng. Ban ngày phải đập muỗi liền tay, mà trời sẩm tối là phải chun vô mùng, chớ không tài nào ở ngoài nổi. Thêm vào những nỗi đó, tôi còn nhớ tía má, nhớ anh chị. Nên tôi khóc lu bù. Hai vợ chồng chế Ba chịu không nổi, phải chở ra mà trả tôi lại cho tía má tôi. Về sau, hai vợ chồng vẫn không có con. Và khi mãn phần thì để gia tài lại cho cháu hưởng. Lúc ấy, nhiều người cho rằng tôi không có số sung sướng mà hưởng cả ngàn mẫu ruộng. Điều ấy hẳn như vậy. Song lắm khi tôi nghĩ, bao nhiêu đại điền chủ khác, trong thời hỗn độn này, chắc đã hơn tôi bây giờ chăng? Trong rạch tôi, có mấy người, xưa góp lúa cả trăm ngàn giạ, bây giờ ở một cái chòi nhỏ, kéo đời tàn trong đói rách. Bây giờ mỗi khi nghe dân làng nhắc tới tôi, họ đều cho rằng tôi có phước. Phỏng hồi nhỏ tôi không khóc lu bù, thì từ ngày có loạn lạc đến nay, tôi có hối tiếc cái đời con nhà nông chăng? 14 Cậu sáu tôi, vị hội đồng chủ đất của chúng tôi, gốc là Minh Hương, nên thỉnh thoảng có người Minh Hương từ xa đến viếng. Tôi lúc nhỏ, lại thường đến nhà cậu mà chơi; vì là con hụt của cậu, nên cậu cưng. Vườn cậu lớn minh mông, trồng đủ loại cây ăn trái rất nhiều để bán, nên ngày nào cũng có trái chín để đãi tôi. Cậu lại nuôi quạ mà cậu đã dạy nói được, két cũng biết nói, nhồng, nhan sen, trích và một con khỉ. Những con thú ấy là bạn của tôi, để cho tôi đùa với chúng, khi nào tôi không có gì lạ để nghe mà học lóm. Một hôm, có một ông thầy Minh Hương đến và biết xem tướng. Cậu nhờ xem tướng cho đứa cháu nội nhỏ hơn tôi một tuổi. Xem xong, thấy tôi cà rà quanh đó, thầy coi luôn cho tôi mà lần này kỹ hơn. Thầy bắt tôi giăng thẳng tay, đứng thẳng, chàng hảng mà đo rồi đi tới đi lui, đi qua đi lại cho thầy nhìn. Lúc ấy tôi cạo trọc đầu, thầy bảo tôi đưa cái sọ cho thầy rờ bóp. Rồi thầy không nói gì khác hơn là câu: “Tốt lắm! Hầu tướng”. Thầy tướng đi. Tôi hỏi cậu tôi ông thầy nói gì. Cậu tôi cắt nghĩa rằng ông thầy nói tôi có tướng con khỉ. Nghe như vậy tôi buồn lắm, vì tôi lúc ấy thấy con khỉ xấu lắm, răng nhô ra, mắt chớp, nhăn nhăn cả ngày, tay chơn lòng thòng, mà chẳng biết nói và chỉ cà khọt. Tôi có cảm tình với con quạ, con két, con nhồng nói chuyện rất khôn kìa! Tôi giấu chuyện ấy, không khoe với tía má tôi rằng tôi có “hầu tướng”. Hai mươi mấy năm sau, tôi bị tù, đày ra Côn Đảo, nhốt chung với hơn trăm người, toàn là những mác xít duy vật. Lúc ấy chúng tôi cạo đầu trọc lóc cả, vì không nước để giặt đồ, nên hạn chế sự ăn mặc, có người hạn chế đến toàn diện và sống như con nhộng. Tôi để ý có một người thuộc phái Đệ Tam, làm thầy thuốc bắc, cứ theo nhìn tôi mãi. Cả mấy tháng như vậy, hắn mới kéo tôi mà nói riêng nho nhỏ: - Tôi nói cái này biết rằng anh không tin. Song tôi nói để anh thí nghiệm. Và anh đừng nói cho người nào nghe cả, vì người ta sẽ phê bình rằng tôi duy vật mà còn mê tín duy tâm. Tôi hứa sẽ không nói lại cho anh em khác trong phòng. Vững bụng, anh tiếp: - Hồi trước tôi học nho khá lắm, rồi mới học thuốc bắc. Lúc theo nho học, tôi có học đủ các khoa tử vi, bói quẻ diệc và ma y thần tướng. Mấy năm theo cách mạng, tôi bỏ hết các khoa ấy. Nhưng thấy tướng anh, tôi không khỏi ngạc nhiên, mà theo nhìn hoài. Anh có hầu tướng. Hai chơn cong, cách đi giống của khỉ đột. Hai tay dài, ngón dài như ngón khỉ. Răng không phải hô, mà hàm nhô ra. Tôi không tin rằng tướng có thể nói được tương lai, song có thể nói được tánh tình. Tánh tình anh là tánh tình của con khỉ đột. Nhập vào đàn, anh thích làm chúa đàn, mà cũng được đàn cử lên cầm đầu. Trong đàn, con khỉ đột được các con khỉ cái trọng, thì anh cũng vậy: tướng anh là tướng có số đào hoa, mặc dầu anh xấu trai. Phe nữ mến tài anh và mê anh lắm... Tôi cười hỏi vặn lại: - Đi làm cách mạng mà lôi thôi về phụ nữ, quần chúng đâu còn tin mà theo mình? Anh mác xít duy vật đáp: - Cái đó tùy anh. Song họ mê là một chuyện, còn từ đó đến ái tình, duyên nợ, hãy còn xa lắm. Họ mê anh, rồi mơ tưởng suông thôi, cũng là mê rồi, lựa là tâm tình với nhau... Để tôi nói nốt về tướng anh. Nhờ anh cạo đầu trọc, mà tôi xem rõ sọ anh. Sọ anh, phía sau, có cái ẩn tướng, trong sách gọi là sọ của Châu Du. Anh không chịu thua ai hết. Anh muốn hơn người ta luôn luôn. Châu Du có cái sọ như vậy, nên mặc dầu kém tài hơn Khổng Minh vẫn chẳng chịu phục Khổng Minh. Nếu anh không có hầu tướng, thì cái sọ ấy đủ khiến anh giống Châu Du, mà tiểu nhơn, tìm kế hãm hại Khổng Minh. Cũng may, nhờ anh có hầu tướng, nên mỗi lượt anh thấy thua kẻ khác, anh rút lui có trật tự để nghiền ngẫm, tìm phương sách, để khi xuất hiện lại, anh hơn người ta... Cũng là một cách không chịu thua. Bốn năm sau, 1945, tôi đi Hà Nội. Tại Huế, tôi bị một nhà mác xít duy vật khác xem tướng lén. Bạn tôi, ông Đào Duy Anh, mấy tháng sau, thuật cái giai thoại ấy như vầy. Lúc anh Thâu và tôi đến chỗ hẹn mà lên chiếc xe cam nhông chở đường để đi Hà Nội, thì Đào Duy Anh có cho một vị lãnh tụ cộng sản hay trước, đến ở đó mà xem chúng tôi lên xe. Và đây là cảm giác của vị lãnh tụ cộng sản, mà theo lời Đào Duy Anh, tuy là tín đồ của chủ nghĩa Mác Lê, song vẫn còn tin nơi phép xem tướng của Tàu: “Hai đứa nó là kỳ tài là phải lắm. Tạ Thu Thâu tướng con vượn. Hồ Hữu Tường tướng con khỉ đột. Con vượn yểu tướng, e Tạ Thu Thâu chết sớm. Con khỉ đột sống dai hơn”. Đào Duy Anh thuật lời ấy rồi, thì vài tháng sau, tôi nghe Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi. Người lãnh tụ cộng sản xem tướng ấy là Tôn Quang Phiệt, hiện nay là một trong những ông kẹ ở miền Bắc. Tôi viết lại giai thoại này lên đây, thành thật mà khen tài xem tướng của người. Còn nếu những dòng này lọt dưới mắt của Đảng, làm cho Đảng phê bình người gắt gao, rằng sao đã là mác xít duy vật mà còn tin vào mê tín, thì việc ấy không can chi đến lòng thành thật khen tài, do tôi nói tự đáy lòng. Từ ấy, tôi hết ghét thầy tướng nào nói tôi có tướng con khỉ đột. Vì Tôn Quang Phiệt chúc tôi sống lâu cả! Tôi lại có cảm tình với con khỉ đột, và đem hình ảnh con khỉ đột mà đặt tên cho cái chính lược mà tôi sáng tạo. Các bạn thân tôi thường hay nghe tôi nói câu “hầu tử xuất động”, ấy là do duyên cớ đó. 15 Cũng ở nơi nhà cậu sáu tôi mà tôi thuộc được những bài sấm của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, nghe những lời bàn và những huyền thoại về đạo này. Cậu sáu tôi làm ăn lớn, nuôi năm sáu người bạn trong nhà. Có công việc gì gấp rút, còn kêu thêm tá điền đến làm công phụ. Trong khi nghỉ trưa, họ hay ngồi dưới bóng mát mà nói chuyện về đủ các đề tài. Có thể cho những cái bóng mát ấy là nhà trường đầu tiên của tôi, sau khi tôi qua lớp “mẫu giáo ” ngoài chòi ruộng. Họ hay đem những tiên tri của Phật Thầy mà nhắc lại. Thuở ấy, ở xứ ta chưa có máy bay và trong nhà quê, không ai nghe nói thứ ấy là gì. Song cả thảy đều tin, bởi Phật Thầy đã tiên tri như vậy, rằng sẽ có thứ tàu bay trên trời. Nhưng với đầu óc của thời đó, ai cũng tưởng rằng bấy giờ nhiều người thành tiên rồi, mà không chịu về Bồng Lai, ở lại trần và đi tàu bay trên mây. Tôi sanh trưởng trong một gia đình thờ đạo ông bà, từ nhỏ xíu đã thấm nhuần sự cúng lạy ông bà trong dịp Tết và lúc kỵ cơm. Đến lúc ấy, mùa nước năm 1912, tôi chưa gặp một thầy chùa; thỉnh thoảng, ban đêm, có nghe văng vẳng tiếng trống, tiếng còi mà không ai cắt nghĩa đó là tiếng gì. Bửu Sơn Kỳ Hương là tôn giáo đầu tiên mà tôi được biết, ngoài cái đạo ông bà. Không phải trong sự thờ cúng, nghi lễ, trước bàn thờ cũng phải không do nơi những tông đồ truyền bá. Tôi biết nhờ những mảnh múng lượm lặt trong buổi nghỉ trưa của những bè bạn, tá điền của cậu Sáu. Vài tháng sau, cũng tại nhà cậu sáu tôi, tôi lại gặp một cái đạo khác. Vợ bé của cậu sáu tôi, sau khi mất anh Lý Khánh Hồng, có thai lại. Lần này bà sợ mắc con ranh con lộn nữa, nên nói với cậu sáu tôi rước thầy pháp đến ếm. Thầy pháp đến cả đàn, đông gần bằng gánh hát. Liên tiếp trong ba đêm, họ bày đủ các trò. Trẻ em bây giờ không có dịp thấy những cái trò ấy. Tôi tưởng cũng nên thuật cho chúng nghe qua. Có cái trò đọc thần chú, bắt ấn quyết, vẽ bùa trên không trung. Nơi giữa sân, có đặt một cái bàn lót một tấm vải đỏ, trên bàn có hai chén đựng gạo muối, mẩy khúc chuối ngắn để cắm nhang, cắm mấy lá bùa bằng giấy vàng, chữ son. Thêm một nhạo rượu, ba cái ly và một xấp giấy vàng bạc, Thầy pháp, đầu chít khăn nhiểu xanh, lưng quấn vải đỏ, tay cầm ba cây nhang và khởi đầu bằng: “Thần kim phục vọng” rồi đọc thần chú mà tôi nghe không hiểu gì ráo, thỉnh thoảng cầm nhang mà vẽ lên không trung, tay trái bắt ấn quyết. Rồi lại cầm cây đuốc mà múa, thỉnh thoảng hớp một ngụm dầu lửa mà phà lên ngọn đuốc làm cho lửa phựt sáng lòa. Có cái trò lập trận. Trận làm bằng mấy cây chuối, trồng theo một cách thức nhứt định, có mấy cửa ra vào, mỗi cửa có dán một lá bùa, có treo một “ông tướng” như con búp bê mà trẻ con chơi bây giờ. Thầy pháp cầm gươm, đeo cung dâu, giắt tên tre, xông vào trận, nhảy ra ngoài, hò hét inh ỏi. Trong lúc một vài thầy pháp bày đàn lập trận, thì một số khác dẫn nhau bày cái trò ngồi nghinh. Một thầy vẽ mặt, đóng khố, một cây sắt nhọn xỏ qua hai má, hai đầu gắn hai ngọn đèn cầy, ngồi trên một cái giàn, đít để lên mũi dao nhọn mài sáng giới, lưng dựa vào hai lưỡi phản bén ngót, để cho bốn người khiêng đi khắp. Rồi trở về đặt trước trận. Kế đó một người cầm một “ông tướng” nơi tay, ngồi chìa ra, mắt lim dim, còn một thầy pháp khác vẽ bùa niệm chú mà gọi “ông tướng” về. Một lát, tay rung, rồi chuyển, rồi quay vụt vụt. Thầy pháp đặt câu hỏi, người cầm tướng kê tướng vào tai, làm như nghe, rồi trả lời. Thầy pháp ra lịnh cho tướng đi bắt vong đem về nhốt vào hũ vẽ bùa bịt miệng hũ mà chồng cả chồng... Ngày thứ ba, thêm hai cái trò nữa là lên đồng và ngồi kiến. Người đồng ngồi xếp bằng, khăn đỏ phủ lên đầu. Thầy pháp đứng một bên, vẽ bùa, đọc chú. Một chập, đồng ngáp, rồi đầu lắc lư, kế nhảy dựng lên cười hả hả. Thầy pháp và đồng đối đáp, đại khái để biết bắt hết thảy các vong đương khuấy nhiễu gia chủ chưa. Người kiến thì có một cái lồng lớn chụp lên kín mít. Một lát, khi người ngồi cho hay rằng đã “sáng” rồi thì cuộc đối thoại bắt đầu... Khi cả hai, đồng và kiến, đều cho rằng vong đã bị bắt nhốt vào hũ hết rồi, thì có một cái trò chót là các thầy điệu các hũ xuống một chiếc thuyền làm bằng chuối cây phất giấy mà tống đi. Suốt ba đêm, bữa nào cũng khởi từ đầu hôm cho đến thật khuya mới dứt. Tôi buồn ngủ lắm, mà bị tía tôi bắt buộc phải coi cho đủ. Để rồi suốt cả tháng sau tía tôi đem ra mà kích bát, cho tôi đừng tin những trò ấy. Về sau, và điều này rất buồn cho cậu mợ tôi, đứa nhỏ sanh ra cũng theo đứa trước mà chết! 16 Tết năm 1913, tôi được mặc bộ đồ hàng đầu tiên. Từ trước tôi chỉ mặc toàn đồ vải. Ngày thường mặc đồ đen, đi ăn giỗ theo má tôi, tôi được mặc vải bông. Bây giờ, tôi có một bộ đồ lụa, màu sặc sỡ. Tôi có cảm giác tôi thành một đứa lớn rồi, vì trong bụng má tôi, đã có một đứa em đang to lớn, để ngày sau kêu tôi bằng anh. Tôi cũng được quyền chơi pháo lần đầu. Quyền ấy cho phép tôi, khi dãy pháo của cậu sáu tôi hay của hia ba Ngọ đốt xong, thì tôi được xông lại, khỏa lớp xác pháo, mà lượm những cây pháo chưa nổ. Pháo còn ngòi thì tôi đốt cho nó nổ từng cây. Pháo hết ngòi, thì anh tôi dạy tôi bẻ hai ra, cho bày thuốc pháo, mà châm cho nó xì. Mấy năm trước, tôi còn nhỏ quá, vừa tối là đã đi ngủ như gà. Năm nay tôi được xem pháo thăng thiên xẹt đứng lên trời, nổ một cái, những trái châu xanh, đỏ, vàng túa ra từ từ rơi xuống. Tôi cũng được dắt lại nhà cậu Sáu tôi vào lúc khá khuya để xem đốt pháo bông. Cái thú xem đốt pháo bông, tôi còn giữ mãi đến bây giờ. Sang Pháp, mỗi năm vào lễ kỷ niệm Cách Mạng, tôi bao giờ cũng xem đốt pháo bông. Thích xem pháo bông, tôi muốn làm được pháo bông. Tôi tò mà xem cây pháo và nhờ người lớn cắt nghĩa. Tôi hiểu rằng làm pháo bông cũng lấy một thứ thuốc pháo chung, còn hột châu là phải chế riêng và là cái bí mật của mỗi thợ pháo. Có một “lý thuyết” về pháo, tôi nghĩ ngay đến việc “thực hành” để mình cũng làm một thợ pháo còn măng. Thuốc pháo, tôi lượm và chứa thật nhiều, để khi dùng, thì bẻ ra mà dồn lại. Cái vỏ, tôi làm bằng giấy không nổi, tôi tính lấy một ống trúc, tiện chừa một mắt để khoét một lỗ nhỏ mà cho cái ngòi, còn đầu kia không mắt thì để cho vô thuốc pháo. Ngày Tết, mà tôi xách dao, đi chặt trúc để thi hành công tác, chẳng dè chơi dao đứt tay, máu chảy dầm dề. Tôi lì, không khóc, bắt chước người lớn nhai lá mà đắp để cầm máu. Đến bây giờ, cái thẹo hãy còn trên bàn tay mặt. Lớn lên, nhập vào chủ nghĩa Mác Lê, tôi mới biết cái kết hợp lý thuyết và hành động gọi là cái praxis. Năm tôi ở tù ở Côn Đảo, hồi tưởng lại cái thí nghiệm đầu tiên của tôi về praxis, mà phải đứt tay, rồi bây giờ thí nghiệm rộng lớn hơn, mà phải ở tù, tôi không dằn được mà cười dài. Âu cũng là một cái nghiệp. Mới ba mươi ba tháng, tôi đã ham hành động. Và trót đời tôi đam mê hành động. Khi nhỏ đứt tay, lớn lên lao tù cộng cả thảy đến 15 năm, gồm một cái án tử hình. Mà vẫn còn đam mê. Nếu không tin theo nhà Phật, mà gọi là nghiệp, thì xin gọi là cái nết. Bởi theo tục ngữ ta,“cái nết đánh chết không chừa”. 17 Mùa khô năm nay, tôi cũng vào trại ruộng mà coi chòi. Song năm nay, trò chơi của tôi có phần phong phú hơn. Năm ngoái, để đổi kẹo, tôi chỉ xúc vào đống lúa của tía tôi. Năm nay, tôi nuôi cái mộng “tự trị” là đãi công gặt và đập, tôi không bám vào đồng lúa ấy nữa, mà phải do tôi làm ra. Dạo trong ruộng, tôi thấy thợ đập thường bỏ sót nơi mỗi đống một vài bông lúa. Tôi bèn xách thúng đi lượm mót. Tôi mót được rất nhiều, mỗi ngày phải chuyển về ba bốn lần, vì thúng lúa mót quá nặng đối với sức tôi, nếu tôi để cho đầy. Bông lúa mót về tôi đổ một đống riêng. Vài hôm, thợ đập đạp giùm cho tôi. Tôi lấy lúa đó mà đổi kẹo. Tôi lại thích mò cá. Năm ba hôm, nhơn có người lớn đi bắt cá, tôi được phép theo một lần. Giữa ruộng, có một chỗ hơi sâu. Tía tôi đào một cái đìa nơi sâu nhất, nên mùa khô, cá từ từ dồn lại đìa. Nước chưa sắc lại, hãy còn nhiều nên đìa chưa tát. Tuy vậy cá rất nhiều, cần ăn thì tới mò. Tôi tuột quần áo, lại mấy chỗ cạn mà mò, đụng gai cá rô đau điếng mà không sợ. Lâu lâu sau khi bắt hụt hàng chục con mới nắm được một con cá nhỏ, thì tôi mừng húm... Câu cá, bắt cá là một thú vui mà tôi đã có từ thuở bé và giữ mãi đến bây giờ. Tôi thỉnh thoảng cũng được theo đoàn đuổi chim mà la ó cho chim sợ mà chạy lọt vào đó. Khi giở đó, người lớn cho tôi thò tay vào mò mà bắt một con bỏ vào cái giỏ nhỏ mà tôi xách theo. Để đem về khoe rằng tôi cũng biết đuổi chim và cũng bắt được chim. Và cũng mùa khô năm ấy, tôi bắt đầu thưởng thức cái vui thú nhứt của đời tôi là toán. Những thợ gặt, thợ đập, khi nghỉ trưa, sau khi tán gẫu, thường chơi với tôi bằng cách đố tôi những bài tính nhỏ nhỏ, thuộc về bốn phép tính cộng trừ nhơn chia, với con số nhỏ nhỏ, mà tôi phải “tính rợ” để trả lời. Họ mới thấy chớm nở cái thiên tư tính rợ của tôi, họ khen và bắt đầu cho tôi một vài bài toán đố. Bài toán đầu tiên mà đến nay tôi còn nhớ là: “Một bầy chim mỏi cánh, đáp lên một cụm rừng. Một con chim đậu lên một cây, còn dư một con chim không chỗ đậu. Chúng thấy không công bình, chia nhau hai con đậu trên một cây, thì còn thừa ra một cây không chim đậu. Đố vậy chớ bầy chim đếm mấy con và cụm rừng có mấy cây?” Tôi tính rợ không lâu và đáp trúng. Ai nấy cười rộ. Danh tiếng tôi đoán về toán nổi lên từ ấy. Thằng nhỏ cái gì cũng thuộc, tỉnh rợ hay, từ ấy được luôn luôn đi ăn đám tiệc để cho mọi người thử tài. 18 Năm ấy xảy ra việc khoái trá nhứt trong đời thơ ấu của tôi, là tôi có một đứa em trai. Bữa đó, má tôi đi chợ để bán nếp, về nhà sớm, cho người đi rước mụ và lo đâm tiêu, đun nước. Để không cho tôi quanh quẩn trong nhà, chị ba tôi biểu tôi lại nhà cậu sáu tôi chơi tới chiều sẽ về. Tôi vâng lời, lại chơi giỡn với những con quạ, con két, con nhồng cho đến trưa thì nghe nói: “Cô năm đẻ rồi! Con trai!” Trong nhà cậu sáu tôi, có người đi lại thăm. Tôi lật đật chạy theo về. Vào nhà, nghe tiếng khóc oa oa, tôi biết tôi có em, song không hiểu đẻ làm sao, cứ theo hỏi hai chị. Chị ba tôi cắt nghĩa: “Má đi chợ về đau bụng, ra cầu tiêu ngồi ỉa, rớt em ra, lượm vô rửa ráy. Chớ có gì đâu!” Trong mấy năm tôi tin cái huyền thoại của chị tôi đặt, và tưởng ai đau bụng cũng có thể ỉa ra con được, miễn là sẵn có con trong bụng. Tôi hãnh diện mà có đứa em, và biết rằng khi nó biết nói, người ta dạy nó gọi tôi bằng anh. Dường như tôi đã trèo lên được một nấc thang, tôi thường lẽo đẽo lại giường cử để nhìn đứa nhỏ sau này phải kêu tôi bằng anh. Tôi bị đuổi ra ngoài hoài, mà cứ lẽo đẽo vào. Trong dịp má tôi ở cử, tôi suýt chết hụt. Lúc ấy, nước lớn đầy rạch, chảy như cắt. Hai chị tôi và tôi tắm, đứng trên cây cầu dừa. Tôi nhảy nhót làm sao không biết, mà bị nước cuốn, chơn không đạp lên cầu dừa, lại trôi đi, chìm lỉm. Hai chị tôi không biết lội, không làm sao níu tôi được. Tôi trồi lên hụp xuống mấy lượt, uống nước một bụng, cũng may, tôi tấp vào đám cỏ lác mọc dựa mé, cách bến tôi độ bốn thước. Bản năng khiến tôi níu vào mấy cọng lác, rồi nước đạp xô luôn tôi vào chỗ cạn. Tôi bò lên mé, nước trong bụng ọc ra miệng, ra mũi. Thế mà tôi không khóc, nghỉ mệt một chút, đứng dậy đi về bến cho chị tôi kỳ rửa. Từ đó, tôi lập tâm học lội. Gần bến tôi, có một cái ụ cạn để làm ụ ghe, nhưng thường bỏ trống. Tôi nói với anh hai tôi cắm nhiều cây trong ụ, cách nhau một vài thước, để tập lội. Tôi đeo cây này, nắm cây kia mà phóng, bơi tay, đập cẳng ít cái, thì đã chụp được cây ấy. Ban đầu những cây đóng gần nhau. Lần lần cắm cách xa nhau hơn. Trong ít lâu, tôi lội, được cả bề dài của ụ được năm thước, song không dám lội ra ngoài rạch. 19 Má tôi vừa sanh, không dám ở lâu trong nước, mà ngày cấy không mướn ai bỏ mạ được, thành ra hai chị tôi và tôi phải ra ruộng, để má tôi ở nhà. Chúng tôi theo công cấy, từ khuya đã thức dậy, trong tăm tối dò đường mà xuống ruộng. Tới nơi thì trời vừa sáng. Công cấy mười mấy người, đứng giăng ngang thửa ruộng, mỗi người cấy bốn cây thành hàng. Chúng tôi bỏ mạ cho họ cấy vừa đủ, không dư, không thiếu. Họ tổ chức hò đối đáp để cho đám cấy vui lên. Tôi lội, kéo những bụi mạ mà phân phát đó đây, nước lên tới ngực. Khi trở về tìm mạ mới, tôi không đi trên đất, mà bơi lội, ngụp lặn. Chị tôi rầy, bảo làm vậy sẽ lạnh chết. Nhưng tôi không biết lạnh, vì tôi lội xa được mà không sợ hụt chơn như ở trong rạch. Tía tôi gánh mạ, đem phân trên ruộng từng đống, cho chúng tôi phân phát cho công cấy. Đến lúc mặt trời quá sào, má tôi đội một thúng xôi đến. Tất cả quây quần chung quanh mà ăn xôi với muối mè. Ăn xong, tía tôi lấy mấy gắp câu mà dạy tôi giăng trên ruộng, dạy tôi móc mồi và dặn tôi, khi nào thấy đường câu có động, thì đi lại thăm coi có cá không, rồi kêu người lớn bắt cá mà bỏ vào giỏ. Gần trưa, tía tôi phân mạ đã xong, cho phép tôi nghỉ và thay tôi mà bỏ mạ cho công cấy. Tôi rảnh, noi theo mấy giồng cỏ mà đi vào chỗ có trồng mấy bụi điên điển theo giồng. Điên điển trồng để khi lớn lên đốn về làm củi, và vào mùa cấy, nó trổ bông vàng tươi cả cây. Tôi hái bông, đựng cả nón, để lát nữa đem về ăn với mắm kho. Thấy bóng má tôi trở xuống, đội thúng cơm, tôi bưng nón bông điên điển về. Mấy công cấy đều khen thằng nhỏ chịu khó hái món ngon đem về ăn mắm. Cơm nước xong xuôi, tôi được phép về nhà. Giỏ cá được mười mấy con. Tôi xách tòn teng theo má tôi, có đáng tự đắc rằng chính mình đã câu được bao nhiêu cá ấy. Về nhà, tắm rửa, công việc đầu tiên của tôi là lội trong rạch. Tuy không dám bong ra ngoài xa, mà chỉ lội dọc theo mé, song tôi thử sức tôi xem sau khi tập luyện cả nửa ngày trong ruộng tôi đã lội được xa bao nhiêu. Tôi khởi từ cây cầu mà lội dài, đến thấy đuối mới vào bờ, leo lên nghỉ một hồi, rồi bẻ cây đo theo sải tôi mà đo trên đất được bao nhiêu sải. Cái sải nhỏ của tôi có lẽ non non một thước. Lúc ấy tôi đếm được mười lăm sải. Lòng mừng, cho rằng nhờ đi bỏ mạ hôm nay mà lội giỏi mau như vầy. Liên tiếp bảy tám ngày, ngày nào cũng có công cấy đến ruộng tôi. Và ngày nào tôi cũng được đi bỏ mạ, từ khuya cho tới trưa. Chuyến kéo mạ, thì tôi đạp đất mà đi. Chuyến trở về, thì tôi bơi lội. Đường càng xa, tôi càng thú, vì lội được nhiều. Cấy xong, tôi đã lội giỏi rồi, ước dư sức lội ngang rạch ở trước nhà, nhưng chưa dám vì e giữa rạch mà đuối sức thì không ai cứu kịp. 20 Xong mùa cấy, có xảy ra một việc làm cho tôi ghi mãi vào lòng. Một bữa trưa, tía tôi soạn tủ lấy ra một ống tre có nắp bằng một khúc ống tre. Ông trút ống lấy ra một cuộn giấy cứng cứng mà xem lại từng tờ, soạn ra độ vài chục tờ giao cho tôi và nói: - Đây là những tờ giấy nợ của người ta thiếu mình. Có người vay đã năm bảy năm, lời góp đã bằng hoặc hơn vốn. Có người mới vay, song tía liệu họ nghèo quá, trả không nổi. Tía đưa cho con đốt đi mà hủy nợ cho họ. Tôi vâng lời, chạy lấy quẹt mà nổi lửa đốt. Xong rồi, tía tôi dạy: - Bổn phận mình, làm chủ nợ là xem xét mà hủy nợ cho những người không có thể trả nổi cho mình, hoặc đã trả đủ vốn rồi. Nhưng nếu mình thiếu người ta, thì mình phải lo trả. Nếu không trả, kiếp sau họ cũng đòi mình cho được. Rồi tía tôi thuật chuyện. Hồi xưa, có ông nọ vay tiền của ba người mà làm ăn, rồi giựt nợ trốn sang xứ khác, làm giàu với số vốn ấy. Kế rồi ông sanh ra ba đứa con trai, lớn lên vừa khôn ngoan, vừa thông minh, nên ông cưng lắm, hao tốn bao nhiêu chẳng nài, miễn cho chúng nó ăn học cho nên. Không dè một ngày kia, ba đứa rủ nhau chết một lượt. Ông quàn lại đó mà chưa chôn, buồn thảm cho mình là xấu số, bao nhiều tiền của đã vơ vét cho con ăn học, mong sau già yếu nhờ con, không dè chúng chết hết, hóa ra mình vô phước. Nghe nói có ông đạo sĩ có tài cho người đi thiếp, ông đến cầu cho gặp ba con mà hỏi tại sao rủ nhau chết một lượt. Đạo sĩ cho ông toại nguyện. Khi gặp ba con, ông hỏi, thì chúng nó cùng đáp: “Chúng tôi không có số kiếp là con của ông để báo hiếu cho ông lúc tuổi già. Chúng tôi là ba chủ nợ cũ của ông, bị ông quịt nợ, phải đầu thai lên mà đòi lại. Đòi đủ số tiền, thì chúng tôi đi. Chớ giữa ông và chúng tôi có tình nghĩa gì mà ở lại lo nuôi ông? Nhưng bây giờ tính sổ lại, ông còn thiếu chúng tôi hai trăm quan tiền”. Tỉnh giấc thiếp, ông ấy giận lắm. Về nhà không thèm chôn ba cái quan tài, lại chất lửa mà đốt. Không dè lửa cháy lan qua đám mía của người lân cận, chửa không tắt, ông bị bắt buộc đền hai trăm quan tiền, mà tiêu hết sạch sự nghiệp. Tía tôi thuật xong câu chuyện, thì có một cả ở trong Xẻo Môn ghé nhà. Ông nói rằng có người kêu ông mà bán một miếng đất, lúa ruộng góp mỗi năm ba trăm giạ, mà ông không đủ tiền mua, hãy còn thiếu một ngàn đồng bạc. Ông đề nghị với tía tôi ra số tiền một ngàn đồng ấy cho ông mua đất, ông sẽ nhượng cho tía tôi góp lúa ruộng trong năm năm. Trong mấy năm làm ruộng trúng mùa, tía tôi dành dụm vừa hơn ngàn đồng, liền ưng chịu. Ông cả làm giấy trao cho tía tôi mà lãnh tiền mua đất. Do đó mà trong năm năm tuy không phải là địa chủ, song gia đình tôi cũng đi góp lúa ruộng như địa chủ. Năm ấy, gần Tết tôi theo ghe vào Xẻo Môn, cách nhà tôi có đến hai chục cây số, mà thăm coi ruộng thất trúng thế nào, đồng thời mà tôi mua vài cái đìa, tát bắt cá mà làm mắm để trữ trong nhà ăn quanh năm. Ruộng ở gần ruộng của người con cô tư tôi. Cô đã chết không biết từ bao giờ. Dượng cũng đã chết. Người con trai, Võ Văn Tuổi, lớn gần bằng tía tôi, thì tôi gọi là anh ba, có hai đứa con trai thảy đều lớn hơn tôi. Nhưng chúng nó gọi tôi bằng chú và tỏ vẻ cung kính lắm. Anh ba Tuổi võ giỏi lắm, nổi tiếng cả vùng nên được cử làm hương quản trong làng. Trộm cướp sợ oai, không dám hó hé. Những “tá điền” tạm thời của tía tôi, thấy chúng tôi bà con ruột với hương quản, không dám sai chạy một giạ lúa. 21 Từ mấy năm nay, anh hai tôi học chữ Nho với ông chủ trong làng, tên là Long. Bây giờ ông già lắm, mỏi mệt, dạy không nổi. Vả lại, ông đã dạy hết chương trình của ông biết, mà số học trò thưa lần, ở lớp anh tôi chỉ có còn anh mà thôi. Vì vậy mà ông cho hay rằng sau Tết, học trò nên tìm trường khác mà học. Nhờ làng xóm mách chỉ, tía tôi ra chợ Cái Răng mà thương lượng cho anh tôi ăn ở ngay nơi nhà thầy mà học. Mùng ba Tết được chọn ngày nhập học. Sau khi cúng ra nghề xong, anh hai tôi làm lễ khai bút, rồi má tôi đưa anh ra chợ. Mấy hôm sau đó, nhằm ngày chúa nhựt, anh lội bộ về thăm nhà, ôm về một gói bánh mà đãi em. Nhà tôi cách xa chợ hơn năm cây số, ít khi có ai đem bánh mà bán. Thỉnh thoảng trong nhà mới có làm bánh mà ăn. Nay được đãi bánh ngon, tôi hỏi anh tôi bánh đâu mà có. Đáp rằng anh ra chợ học, má cho tiền mua bánh. Nghe vậy tôi lấy làm khoái lắm. Mặc dầu mấy năm nay tôi chưa từng nghe trong nhà nói tiếng học là gì. Nay nghe nói tiếng ấy, tôi tưởng tượng một cái gì lạ lắm, mà mình làm được, thì được thưởng tiền mua bánh ăn. Nên tôi đeo theo má tôi mà đòi đi học. Thuở ấy, người ta quê mùa lắm, vùng tôi có lẽ là một vùng quê mùa nhứt nhì. Con nít từng tuổi ấy không được đi học, mà cũng không biết đòi đi học. Tía tôi thấy tôi đòi, hỏi tôi, nghe tôi nói tức cười, bảo má tôi cho tôi đi chợ ăn bánh một lần rồi dắt về. Khuya bữa sau, xuồng đẩy xuống. Má tôi bơi sau, anh hai và chị ba tôi bơi trước. Tôi ngồi giữa xuồng, nghiêm nghị lắm và lòng lâng lâng, vì đi làm một việc trọng đại lắm. Hừng sáng, xuồng ghé chợ. Má tôi lên chợ mua nhiều thứ bánh đem xuống cùng ăn. Rồi hỏi tôi: “Học rồi đó con chịu chưa?” Tôi lấy làm lạ sao đi học mà chỉ có chừng ấy. Rồi má tôi dắt anh hai tôi mà giao cho ông thầy. Tôi lửng cửng chạy theo cho biết. Bà thầy thấy tôi tròn trĩnh hỏi tôi mấy câu. Tôi dạn dĩ trả lời. Bà hỏi tôi đi đâu đây. Tôi đáp rằng đi học. Má tôi cười thuật chuyện đòi đi học của tôi. Bà thầy tức cười nói với má tôi để tôi ở lại thử ít ngày, coi có khóc đòi về không. Má tôi nói để về hỏi tía tôi, nếu được thì trở ra đem quần áo cho tôi thay đổi. Đây không phải là một nhà trường. Nó vốn là một tiệm thuốc bắc, ở một căn phố lầu ngang nhà dây thép Cái Răng. Ông thầy là người Đàng Ngoài. Có bịnh đến thì ông coi mạch cho toa, hốt thuốc. Vắng khách, thì ông lên lầu mà dạy học chữ Nho. Trong lớp này, anh nào cũng lớn như anh hai tôi và ở vào lớp “nghe sách”, để nghe thầy giảng những sách khó. Ở từng dưới, bà thầy dạy năm sáu học trò, anh nào cũng mười hai mười ba tuổi và vì vậy mà không vào trường nhà nước được. Bà dạy đọc và viết chữ quốc ngữ, cứ sáu tháng thì mở một lớp mới. Học trò lớp này chỉ có học buổi sáng thôi. Còn buổi chiều thì mấy anh lớn nghe sách chữ Nho lại học chữ quốc ngữ. Mang tiếng là đi học, song tôi không có sách vở chi, mà cũng không có chỗ ngồi đặc biệt. Tôi tự do, hoặc nhảy vào lòng bà thầy, hoặc đứng xớ rớ đầu mà xem mấy anh chỉ chữ viết trên bảng đen mà đọc, hoặc khi nào chán thì chạy ra ngoài trước mà chơi. Thế mà trong lớp học thuộc bài nào, tôi cũng thuộc bài nấy. Trưa, bà thầy nằm võng, bỏ tôi nằm giữa hai chân mà đưa như đưa em. Tôi đọc những bài thơ trong “Minh tâm bửu giám” mà tôi đã nghe anh tôi đọc, nên thuộc lòng, cho bà êm tai mà ngủ. Và tôi cũng đánh một giấc. Khi thức dậy, bà phải tắm rửa cho tôi, thay quần áo sạch sẽ. Bà còn mướn thợ may thêm quần áo trắng hoặc vải bông mà cho tôi mặc, chớ không để tôi mặc quần áo đen luốc phèn. Và bữa nào cũng được đãi mì, đãi bánh. Thật là đời đi học của tôi đầy thơ mộng. Đến chúa nhựt, anh tôi dắt tôi lội bộ về thăm nhà. Tôi không chịu ở nhà, đến chiều, theo anh chạy lửng cửng ra chợ mà đi học. Từ ấy, tuần nào cũng vậy. Rồi đến mùa mưa, đường sinh lầy trơn trợt, tôi tuột quần áo đưa cho anh tôi ôm, rồi trần truồng để cho tha hồ trợt té và dính bùn, đợi khi tới nơi rồi thì xuống sông tắm mà mặc đồ vào. Dài cả năm cây số, ai cũng nhắc chuyện ấy. Thời này, con nít học lớp mẫu giáo là sự rất thường. Năm mươi năm về trước, một đứa nhỏ đi học là một chuyện lạ. Có một lần, có hát bóng đến chợ Cái Răng. Người ta căng bố chung quanh nhà chợ mà làm rạp. Đến tối, máy điện chạy xạch xạch. Thiên hạ đến xem ra sao. Mấy anh lớn ở lớp nghe sách đến rủ anh tôi, lại xin phép bà thầy mà cõng tôi theo. Tuồng hát thế nào, tôi không hiểu chi ráo, chỉ thấy hiện lên những người không giống mình, những phong cảnh xa lạ, những hàng chữ đọc không trôi. Chỉ có đoạn mấy người vật lộn, đánh đập nhau là coi được mà thôi. Chủng tôi học xong chương trình sáu tháng rồi, ông thầy và bà thầy không nhận học trò mới, dẹp tiệm thuốc bắc mà đi về Sài Gòn. Ngoài những sách chữ Hán đã được nghe giảng nghĩa, anh tôi đã đọc được chữ quốc ngữ, biết viết và làm được ba phép toán theo Tây. Với lối học tài tử của tôi, tôi chỉ biết đọc chậm chậm, chữ nào khó phải đánh vần, mà chưa hề cầm viết. Bà thầy mua cho tôi một bộ truyện “La Thông Tảo Bắc” để cho tôi đọc mà không quên những cái đã biết. 22 Trường dẹp, anh tôi và tôi về nhà nghỉ hè. Nói là nghỉ hè song chúng tôi phải tham gia ít nhiều vào việc đồng ruộng. Tía tôi có rèn cho anh tôi một cái phản nhỏ, để anh đi học phát cỏ. Vì anh đã được mười bốn tuổi. Khuya nào tía tôi cũng dậy sớm, kêu anh tôi dậy ăn cơm, rồi hai cha con vác phản xuống ruộng. Vào trưa trưa, thì tôi xách giỏ cơm nóng và đồ ăn xuống ruộng cho tía tôi và anh tôi ăn. Tôi cũng ăn cơm luôn ở đó. Tôi không về ngay, mà ở lại giăng câu, hái bông điên điển, đến mấy chỗ sâu nhổ bông súng, móc củ co, cho đến xế mới theo tía tôi và anh tôi mà về. Về nhà, tắm rửa, cơm nước xong, tôi có bổn phận lấy bộ “La Thông Tảo Bắc” mà đọc một khúc cho tía tôi nghe. Đáng lẽ để anh tôi đọc, thì mau hơn, khỏi chập chập ngừng lại đánh vần những chữ khó. Song tía tôi lại bắt tôi đọc, vì sợ để bỏ luống mà quên hết đi. Ban đầu, việc đọc truyện không có gì trở ngại khác hơn là những chữ khó. Nhưng đến chót, thì những rắc rối bất ngờ lại xảy ra. Đọc đến đoạn La Thông cứu giá, đánh với Bắc Phiên mệt mỏi và đói khát, đến cửa thành kêu mở cửa, thì Tô Định Phương gạt đi từ cửa này sang cửa khác, với dụng tâm mượn tay Tổ Xa Luân mà giết chết La Thông. Tôi vừa thương hại La Thông, vừa tức giận Tô Định Phương mà khóc òa, nước mắt đầm đìa, tức tửi, nói không được. Tía tôi rầy thế nào cũng không ngăn sự cảm động. Cuộc đọc truyện đành bỏ dở nơi đó. Qua ngày sau cũng vậy. Liên tiếp cả mấy ngày thành ra tía tôi bắt buộc để cho anh hai tôi đọc qua khúc ấy. Năm ấy, tôi bốn tuổi Tây (năm tuổi ta). Trong lương tâm tôi, tôi đã phân biệt trung và nịnh, biết yêu người trung, ghét kẻ nịnh. Khiếu thẩm mỹ đã phát, đọc truyện biết chỗ nào hay, chỗ nào dở, chỗ nào cảm động và cảm xúc nhạy vô cùng. Cái tật đọc truyện mà khóc nơi những chỗ cảm động đến lớn hãy còn giữ. Bây giờ đọc những tác phẩm thật hay, đến đoạn thật cảm động, tôi vẫn còn ứa nước mắt. Một hôm, chúng tôi ở trong ruộng, thì nghe tiếng mõ ở nhà việc tại vàm Ông Cửu gióng lên. Tía tôi lúc ấy làm cai tuần, lật đật vác phảng về hội. Thì có trát truyền cho ấp nạp cho làng hai người “tình nguyện”. Trong làng đồn ra cái tin bên Tây có giặc. Đức đánh Tây. Rồi nho nhỏ họ nói Tây thua, nên gởi giấy qua mộ lính An Nam đi đánh giặc mà cứu Tây. Ở xóm tôi, có người bà con xa bên má tôi, là anh tư Cao được làng chọn làm lính “tình nguyện” sang Tây. Thuở ấy, tôi không biết xứ Tây ở đâu, người Tây ra thế nào, mà anh tư Cao đi qua đánh giặc để cứu họ. Nhơn dịp đó, những ông già bà cả trong xóm mới nói chuyện giặc lúc họ còn nhỏ xíu. Vùng ấy còn rừng, ban đêm không dám ra ngoài vì sợ cọp bắt. Trong nhà luôn luôn có chứa sẵn cơm khô, có khí giới, phòng có động tịnh thì đàn bà con nít kẻo vô rừng trốn, đàn ông cầm khí giới mà cự với giặc. Và giặc lúc ấy là giặc đàng Thổ. Bọn trẻ trong xóm nghe nói, thôi cái trò cất nhà chòi bày đám cưới, mà sắp đặt nhau cái trò đánh giặc. Chúng lấy ống trúc làm súng, trái bố làm đạn mà thụt, nổ nghe bốp bốp. Con nít như vậy, mà người lớn cũng xôn xao. Bác chín tôi, là một tay quan trọng trong Thiên Địa Hội, đi hội cả ngày, quên công ăn việc làm, xầm xì cái gì với nhau không biết. Mấy bữa sau, nghe nói có trát xuống làng cấm dân làng tập nghề võ, tùng tam tụ ngũ, và treo trần điều trên bàn thờ. Từ ấy, ở xóm tôi, mất cái tục thờ trần điều và bàn sấm của Bửu Sơn Kỳ Hương. 23 Một buổi sớm, tía tôi chở anh hai tôi và tôi đến vàm Cái Muồn, ghé nơi bến trường ngang vàm. Trường là một cái nhà việc ấp cũ, chỉ có cột và nóc ngói mà không có vách, cất gần mé nước, cạnh một gốc dừa, chẳng có sân chơi. Trừ một đường đất đắp lên đường cái, thì chung quanh đầy cây mọc. Chỉ một thầy giáo, sau này tôi biết tên là thầy Nguơn, mà có đến hai lớp. Anh hai tôi biết đọc, biết viết, biết ba phép toán, được ghi ngay vào lớp nhứt của trường, gọi là lớp dự bị. Còn tôi, mặc đầu đã biết đọc, tía tôi phải năn nỉ thầy rất lâu, thầy mới cho vào lớp nhì. Mà bởi tôi chưa đủ tuổi, nên chỉ được học lậu mà không ghi tên vào sổ. Từ ấy, mỗi ngày hai buổi, chúng tôi đi học ở một trường công. Sáng sớm, chúng tôi ăn cơm lót lòng, ngồi xuồng qua rạch, lội bộ ba cây số mới tới trường. Học buổi sáng xong, lội về nhà ăn cơm, thì ôm cặp ra đi liền. Không phải vì hẹp thì giờ, mà vì anh tôi bắt đầu mê cờ bạc, và chơi với mấy anh lớn ở lớp anh những trò thảy lỗ, đánh đáo, có khi đánh bài nữa. Tôi không thích, rủ lũ trẻ tuột quần áo xuống sông mà lội giỡn, cút bắt, lặn hụp cho đã. Xong rồi tôi lãnh được một đồng xu, do anh tôi lo lót, để khi về nhà tôi không mét về cái tội cờ bạc. Tôi không biết anh làm sao mà có tiền để cờ bạc hoài. Rình cả năm, mới biết là anh ăn cắp tiền của má tôi. Má tôi hễ có xu lẻ, thì giở chiếc chiếu lót trên giường thờ ông bà mà để. Đống xu rất nhiều, anh hai tôi ăn cắp năm ba đồng xu, má tôi không hay. Nhưng anh cờ bạc thường hay ăn chớ ít khi thua, thành ra cũng ít khi ăn cắp. Trọn đời tôi, tôi chưa có dịp làm quan, nên không dám quả quyết rằng tôi có thanh liêm chăng. Song suốt năm, tôi đã ăn hối lộ mỗi tuần năm đồng xu của anh hai tôi, để giấu cái tội cờ bạc của anh... Chiều, hai giờ rưởi mới tựu học cho đến năm giờ. Chúng tôi lại lội ba cây số mà về, gọi chị tôi rước qua rạch, thì trời tối. Việc học lậu của tôi buồn cười lắm. Sáu tháng đầu, tôi không có học hành gì cả. Ngồi trong lớp, tôi chỉ đọc. Đọc đủ thứ hết: thơ tuồng, nhứt là truyện. Những học trò cùng lớp tôi đương ê a, thì tôi cắm đầu mà đọc. Khai trường được mấy hôm thì có “ông đốc” đến thanh tra trường. Theo lời thầy dặn trước, tôi phải thụt xuống bàn, lẻn ra ngoài, đứng dựa vào cột, làm như con nít đàng xóm đến xem chơi. Ông đốc xem xét sổ sách, hỏi học trò lớp nhứt ít câu, rồi cho học trò xuống ghe ôm sách lên mà nhờ thầy giáo “bán giùm”. Học trò lớp nhứt thì có cuốn “Quân tử cách ngôn”. Học trò lớp nhì thì có cuốn “sách tập đọc”. Ngoài ra còn có sách “Chuyện giải buồn”,“Chuyện đời xưa”,“Gia huấn ca”... Nhờ có ông đốc đến xét trường, mà tôi có được những cuốn sách đầu tiên. Ngày thứ năm và ngày chủ nhựt, tuy nghỉ học, mà tôi không ở nhà, lại đi khắp xóm, có khi xa bốn năm cây số để đọc sách. Tôi không mượn sách về sợ làm hư, làm rách, làm mất của người. Nên chọn chỗ nào thanh vắng tại nhà người mà đọc. Trưa, có khi không về nhà, lại ăn cơm chực nơi nhà có sách, rồi ở đọc tới chiều. Có lắm bộ, tôi đọc đi đọc lại mãi đến ba lượt, vì không có đủ sách mới để đọc. Năm sáu tháng sau, học trò lớp nhì bắt đầu biết đọc. Bấy giờ tôi mới khởi sự học viết, học làm toán. Bây giờ tôi mới lơi việc đọc sách, vì không thời giờ, vì hết sách đọc. Và chuyên lo học theo thầy chỉ dạy. Cùng lớp tôi, có một chị tuổi đã mười hai, cài tóc, đi học luôn luôn mặc đồ lụa và có đeo kiểng vàng. Chị học toán dở hơn tôi, thành ra bữa nào tôi cũng đưa tập cho chị cóp. Để đền ơn, bữa nào đi học, chị cũng bỏ đầy túi trái cây, tùy theo mùa, mà đãi tôi. Tôi lại không thanh liêm mà ăn hối lộ nữa. Một bữa thứ năm, chị rủ tôi qua nhà chơi, vì phải qua sông. Nhà chị giàu, hai ba cái, vách tường lợp ngói. Bên trong bàn ghế chạm trỗ và cẩn ốc xa cừ rất nhiều. Chị dẫn tôi ra sau vườn, cho tôi tha hồ leo lên cây hái trái mà ăn. Ngày ấy, trong nhà có ươm tơ. Tôi tò mò xem mấy người đàn bà thả kén trong nước sôi mà kéo chỉ, vào chỗ nuôi tằm coi tằm bò lúc nhúc mà ăn dâu, đến một phòng coi người dệt lụa. Bữa ấy, tôi được đãi ăn nhộng chiên, lấy làm lạ miệng. Từ ấy, tôi thường được chị học cùng lớp gói nhộng chiên đem qua trường mà đãi. Về nhà, tôi khoe việc đi xem nghề tơ tằm cho tía tôi nghe. Tía tôi mới cho biết rằng bà nội tôi hồi trước giỏi nghề tằm tơ lắm. Và cô mười tôi tên Suốt, tía tôi tên Sây, là do tên bà nội tôi đặt cho, vì Suốt và Sây là hai danh từ của nghề tơ tằm. 24 Niên học sau, anh hai tôi nghỉ học mà đi làm ruộng. Tôi được lên lớp nhứt, song cũng còn học lậu, vì chưa đủ tuổi để ghi sổ. Năm nay, tôi mất cái mối hối lộ mỗi ngày một xu của anh hai tôi lo lót, song tôi được cái mối khác, do chị bạn cùng lớp lo. Lần này, ngay thẳng hơn, vì việc làm của tôi không có gì tội lỗi cả. Chỉ có việc xem bài vở của chị chỗ nào sai mà cắt nghĩa cho chị sửa lại là được trái cây và bánh để ăn, khỏi bỏ tiền mua. Năm nay, tôi cũng bớt đọc truyện, vì không có cuốn nào mới để đọc, và bài vở khá nhiều. Ở dưới xóm, cách nhà tôi hơn một cây số, mới dựng lên một rạp hát nhà quê. Rạp lợp lá, vách lá. Giữa có sân khấu, chung quanh có giàn cho dân ngồi xem, đối với sân khấu vài hàng ghế cho mấy ông hương chức ngồi. Tôi được phép xem hát bội lần đầu, và thấy trên sân khấu đào kép linh động hơn trong truyện nhiều, nên tôi mê xem hát hơn mê truyện. Những tuồng rút ở truyện ra, tội thuộc nhừ. Mà khi đưa lên sân khấu, tôi thấy hấp dẫn lắm và lòng tôi hồi hộp vô cùng. Tôi học những giọng hát, chỉ có hát nam hát khách là học không được. Rồi tôi lấy mấy cuốn tuồng mà đọc lại, xướng lớn lên, thấy thêm phần thú vị. Lúc ấy tôi ước ao ngày sau tôi sẽ viết tuồng hay cho đào kép đưa lên sân khấu. Song đây chỉ là một cái mộng suông, chưa hề thực hiện bao giờ. Đầu năm sau, năm Thìn, má tôi sanh một đứa em gái. Thằng em trai tôi, thằng Hoài bắt đầu gây rối trong xóm. Tôi hiền lành bao nhiêu thì nó hung dữ bấy nhiều. Trò chơi của con nít khác, thì nó phá, hoặc xô ngã nhà chòi của chúng, hoặc chất nồi niêu bếp núc của chúng, khiêu khích đánh lộn. Hễ nghe la ó, trong nhà cứ kêu tên thằng Hoài là trúng. Ngày nào nó cũng bị mét, cũng bị đòn, mà không biết hối cải. Cũng trong năm ấy, thiên hạ đồn xầm xì với nhau rằng có vị hoàng đế ra đời, thường đi trên một chiếc ghe mà dạo khắp mọi nơi, và khi ngủ thì hào quang xông lên sáng cả nhà. Thiên hạ rạo rực. Thiên Địa Hội nao nức hoạt động. Bác chín tôi bỏ cả công ăn việc làm, chỉ lo đi hội. Rồi nghe đồn vụ Phan Xích Long khởi nghĩa thất bại. Bác chín tôi bỏ xứ trốn đi mất, chẳng ai biết trốn ở đâu. 25 Năm Thìn ấy, tôi học lại lớp nhứt. Lần này được bảy tuổi nên được ghi tên vào sổ, khỏi học lậu. Chị bạn gái đã mười bốn tuổi thôi học, không còn ai lo lót trái cây và bánh. Tôi học rất đều, luôn luôn dẫn đầu lớp và về môn toán, luôn luôn được 10 điểm. Tôi rất hãnh diện với số 10 điểm ấy, và sự hãnh diện này dẫn đến sự bi đát nhứt của đời tôi. Một hôm, thầy cho một bài toán. Tôi chép lên bảng đá, làm xong trên ấy rồi, chỉ chờ đưa cho thầy chấm là lãnh thêm mười điểm nữa. Không dè thằng Hoài lục đồ tôi, bôi hết tấm bảng. Chừng sửa soạn đi học, thấy sự thế, tôi khóc ròng, chắc chắn thế nào cũng lãnh một cái hột vịt. Được một cái hột vịt về toán, tôi cho là xấu hổ nhứt của đời tôi, nên không chịu đi học buổi sớm và đòi phải đánh đòn thằng em đã khuấy phá như vậy. Tía tôi không hiểu lý lẽ chủ quan của tôi, đã không đánh nó, lại còn buộc tội tôi là làm biếng, kiếm chuyện để trốn học, mà đánh đòn tôi để ép tôi phải đi học. Tôi chưa hề biết làm biếng, nay bị buộc như vậy, rất tức, và cho rằng kẻ có tội mà không bị đòn, còn kẻ vô tội lại bị hiếp. Tôi cho là một việc bất công lớn, không thể chịu nổi, mà nhứt định không chịu tùng phục. Tía tôi càng đánh dữ, tôi điên tiết lên, chạy lấy một con dao toan cắt cổ cho chết đi, chẳng muốn sống trong một bất công phi lý. Má tôi cướp dao. Tía tôi càng giận dữ, buộc tội tôi rằng tôi bất hiếu, muốn tự tử để cho cha mang án mạng mà ở tù. Má tôi dạy chị tôi kéo xển tôi chạy trốn, còn má tôi thì ngăn không cho tía tôi rượt theo. Tới nhà cậu sáu tôi, chị tôi đâm muối xức những dấu roi rớm máu đến cả trăm roi. Tôi ở nhà cậu sáu tôi cả mười bữa, mới lành vết roi và đi học lại. Suốt hai ba tháng, học hành không ra gì, mất cả hứng thú. Có lúc muốn bỏ học, bỏ nhà mà đi hoang, kiếm một giàn câu đi câu cá bán mà sống một mình. Một sự tình cờ làm cho tôi vui sống và ham học lại. Bữa ấy hia ba Ngọ sang nhà tôi chơi, đố anh hai tôi về toán gọi là “Hàn Tín điểm binh”. Lính sắp hàng ba thừa bao nhiêu, sắp hàng năm thừa bao nhiêu, hàng bảy thừa bao nhiêu. Biết ba con số thừa ấy, hỏi vậy toán lính có mấy người. Anh hai tôi lò mò tính không ra. Tôi ngồi ở ngạch cửa nhìn trời, tính rợ được, ngứa miệng trả lời hớt. Hia ba Ngọ đố một hơi mấy bài như vậy, bài nào tôi cũng tính rợ được. Hai khen: “Thằng nhỏ này thần đồng mà!” Từ hôm đánh đòn tôi, tía tôi rất lợt lạt đối với tôi, bây giờ thấy tôi có tài, cho tôi hai đồng xu để mua kẹo. Hai cha con mới hòa nhau lại. 26 Qua năm 1917, tôi đã học lớp Dự bị trong hai năm và sắp sửa học năm thứ ba, cũng lớp ấy. May ra, gần nhà tôi, vừa mở ra một trường tư. Rể của cậu sáu tôi trước đó làm ký lục ở tòa bố Cần Thơ, lương tháng ba chục mà phải ở phố, trả tiền chợ, thêm cờ bạc, nên không đủ sống. Bà con bèn xúi về nhà cậu tôi mà ở, mở lớp dạy em cháu còn dễ sống hơn. Lớp mở ở trại ghe sau nhà, giữa một vườn quít xiêm, và từ sau nhà tôi đi lại, chỉ có nhảy ngang qua mấy cái mương nhỏ. Học trò chia làm ba hạng, bốn năm đứa ở hạng chót, học vỡ lòng. Năm sáu đứa theo chương trình của lớp Dự bị. Còn hạng trên, có bốn chị gái và tôi, thì học chữ Tây, theo chương trình lớp Sơ đẳng. Vào thời ấy, học trò lớp Dự bị đã quọt quẹt học ba chữ Tây rồi. Sang qua lớp Sơ đẳng, thì tiếng Tây là tiếng học thừa, còn tiếng Việt chỉ dạy hai giờ mỗi tuần, một giờ dạy Làm văn, một giờ dạy Chính tả. Bốn chị gái vốn không phải từ một trường công mà đến, lại do một lớp tổ chức riêng, nên học chữ Tây khá cứng. Một chị lớn hơn tôi bốn tuổi, ba chị kia lớn hơn hai, thành ra mấy lúc đầu, tôi phải ráng lắm. Song rồi theo kịp, kế dẫn đầu lớp, nhờ học gì thì “thuộc” nấy! Chừng đó, tan học về nhà, tôi không cần học lại bài vở, vì khi nghe cắt nghĩa tại lớp, thì đã thuộc rồi. Tôi bấy giờ có nhiều giờ đư, bởi khỏi phải đi lại xa xôi, tối lại đọc truyện nữa. Cậu sáu tôi có người con trai nhỏ, anh năm Cẩn, học ở Hà Nội về khoa Công chánh. Thỉnh thoảng, anh có gởi sách về, những sách mà anh mua ngoài Bắc và đọc xong. Trước đó, tôi chỉ đọc những sách xuất bản ở Nam, quen giọng. Bây giờ đọc sách từ Hà Nội gởi vào, giọng văn khác xa, tôi có nhiều ấn tượng mới lạ. Cuốn đầu tiên mà tôi đọc là BÍCH CÂU KỲ NGỘ, làm cho tôi thích thú vô cùng. Những chuyện thần tiên đấu phép, PHONG THẦN, TÂY DU, PHONG KIẾM, XUÂN THU... khi nhỏ tôi vừa đọc, tôi biết ngay là chuyện bịa đặt cho vui, mà không gợi trong trí tôi rằng có thể có thần tiên được. Vả lại, tía tôi bởi ghét thầy pháp, tuyên truyền mãi cho tôi chớ mê tín chuyện quái đản, nên xem chuyện thần tiên của Tàu, mà không tin có những thần tiên ấy. Nay đọc BÍCH CÂU KỲ NGỘ, tôi thấy chuyện kể một cách thật thà, hồn nhiên, dễ làm tôi tin. Hoặc giả người viết là một bực thiên tài, chuyện không có mà thừa nghệ thuật để làm cho người đọc tin được. Hoặc giả là chuyện có thiệt, thì là một điều đáng suy nghĩ lắm. Năm 1945, tôi ra Hà Nội, cùng vài người bạn trẻ, có đi ngang qua đền Tú Uyên. Trong bọn cùng đi, có cô ái nữ của nhà văn Hoàng Ngọc Phách chỉ cái đền mà giới thiệu, làm cho tôi suy nghĩ vô cùng. Trong văn chương ta, có hai chuyện thần tiên. Một là chuyện Từ Thức, thì chưa ai chỉ rõ chỗ Từ Thức gặp tiên là chỗ nào. Hai là chuyện Tú Uyên mà cái đền này, do lời cô sinh viên nói lại, là cất ngay nơi chỗ mà Tú Uyên và nàng tiên xây tổ uyên ương. Lấy óc scientiste mà bác những chuyện như chuyện Từ Thức, chuyện Tú Uyên bằng một lời tuyên án rằng dị đoan, chuyện ấy, bất cứ ai đã học qua loa chương trình Trung học, thảy có thể làm được. Nhưng điều cần là có những nhà khảo cứu, có một nền học thức vững chắc, có những phương pháp suy tầm và phê phán xác đáng, để “xét lại” những chuyện “dị đoan” như chuyện của Tú Uyên, chuyện vua Lê Thánh Tôn đi cùng xe với một bà tiên rồi bà thình lình biến đi mà nay hãy còn miếu thờ để kỷ niệm... Cái ấn tượng thứ hai là tôi thấy văn hay. Và lần đầu tôi có cái mỹ cảm về văn hay. Trước kia, lúc đọc, tôi chỉ biết ngốn câu chuyện. Trong chuyện có hành động nhiều, nhân vật nhiều, éo le nhiều, thì tôi bị hấp dẫn. Bây giờ trong BÍCH CÂU KỲ NGỘ câu chuyện đơn giản quá, nhân vật lơ thơ, tình tiết không éo le, nhưng tôi cảm nhiều hơn, không cố đọc mau mau để ngốn cho nhiều, lại đọc chậm chậm, gọi là nhâm nhi, để thưởng thức cái hay của mỗi câu, mỗi chữ, nhờ BÍCH CÂU KỲ NGỘ mở lối mà tôi học bài vỡ lòng về văn chương. Lần lượt, tôi đọc CUNG OÁN NGÂM KHÚC, CHINH PHỤ NGÂM, HOA TIÊN. Nhiều điển tích tôi chưa hiểu nổi làm cho tôi không được thích thú bằng. Nhưng đến tuổi già, so sánh lại, tôi vẫn cho rằng những quyển sau này thảy thua BÍCH CÂU. Giá trị của một áng văn không ở nơi chỗ có nhiều điển tích. Dẫn nhiều điển tích, ấy là mình suy tư và tư tưởng sẵn có của kẻ khác, mà không sáng tạo hình ảnh nào mới, ấy là sắp những sáo ngữ lại cho thành một câu chuyện mà thôi. Một đôi hình bóng không thể tả hơn được nữa, bắt buộc phải dẫn của tiền nhân, điều ấy không dung được. Nhưng hệ thống hóa sự dùng điển tích để làm văn thì không làm sao có tiến bộ. Dùng điển tích của Tàu nhiều, ấy là chứng tỏ một cách khách quan rằng mình hãy còn dưới ách “nô lệ văn hóa” của Tàu. Nhiều lượt, nghĩ đến trẻ em Việt, không có sách đẹp và hay để làm quà cho chúng. Trong trí tôi có thoáng qua cái ý muốn xuất bản một quyển BÍCH CÂU, khổ lớn như khổ các sách trẻ em của các nước Âu Mỹ, in nhiều màu, bìa cứng chắc, mỗi trang độ vài ba câu thơ, mà cái hình thật lớn, thật đẹp. Được sách như vậy, con nít vừa biết đọc sẽ đọc mê say bực nào. Đã nói đến sách cho trẻ em, cũng nên mở một cái dấu ngoặc mà nói đến một cuốn khác là TRUYỆN CON TẤM CON CÁM. Hồi nhỏ xíu lúc chưa biết đọc, tôi đã nghe kể truyện con Tấm con Cám và thuộc rành rồi. Lớn lên, thấy một cuốn thơ về chuyện này, tôi có mua đọc lại, nhưng không thấy có giá trị văn chương nào. Khi ra Hà Nội, mỗi tuần chúng tôi có tổ chức “một đêm không ngủ văn nghệ”, trong ấy có nhà thơ Tú Mỡ tham gia. Tôi có ý tiếc rằng một câu chuyện hay như chuyện con Tấm con Cám và rất phổ cập trong dân gian, lại không có một áng văn chương đánh dấu là một khuyết điểm lớn. Tú Mỡ đồng ý với tôi lắm và cho hay rằng đương cố gắng mà “kể chuyện” này bằng thơ rất bình dân ta là thơ lục bát. Hiện nay, tôi không rõ cái mộng của Tú Mỡ đã thực hiện được chưa. Nếu lời thơ của Tú Mỡ là hay, thì xuất bản theo loại sách trẻ em quả là một phần thưởng xứng đáng cho đám măng vừa mọc. Sẵn nói về chuyện con Tấm con Cám, cũng nên cởi lòng phứt một chuyện vặt vãnh, kẻo không có cơ hội nhắc lại. Trong những năm làm ở Thư viện Quốc gia Paris, tôi có thấy được một cuốn sách Tàu nói về tiểu thuyết, hay là gom nhiều tiểu thuyết gì đó. Đọc nhiều, nhớ không hết, lắm khi râu ông này cắm cằm bà kia. Mang máng tôi nhớ như là trong THÁI BÌNH QUẢNG KÝ thì phải. Sách này viết ra vào đầu đời nhà Tống, do một ông vua nhà Tống chủ trương và có đủ bá quan cộng tác, mỗi người kể một chuyện hay mà mình đã nghe hoặc thấy. Trong đó có thuật chuyện con Tấm con Cám và người kể chuyện nói rõ rằng xuất xứ của chuyện lại ở “Lĩnh Nam” tức là ở vùng đất Việt ta... Rồi tôi cũng đọc thấy đâu đó, rằng hai trăm năm sau Marco Polo viếng nước Tàu, đem chuyện hay bên Tàu về du nhập ở Âu châu, và chuyện con Tấm con Cám biến ra chuyện Cendrillon... Năm tôi ở Côn Sơn, nhơn một bài phỏng vấn của BÁCH KHOA, tôi có nói phác họa về cái “hành trình” của chuyện con Tấm con Cám, từ đất Việt (Lĩnh Nam) sang Tàu rồi sang Âu. BÁCH KHOA cự nự tôi về chỗ ấy. Ở trong tù, thiếu tự do, thiếu “sử liệu” để làm bằng, tôi chịu thua. Thua mà còn ức. Sau đó tôi đọc được quyển Famous Chinese Short Stories (Những truyện ngắn nổi danh của Tàu) của Lâm Ngữ Đường (Linyou Tang), về chuyện ấy, văn sĩ họ Lâm cũng nói xuất xứ của chuyện từ phương Nam... tôi đưa cái đề này cho các cậu sinh viên nào muốn viết luận án về hành trình của truyện con Tấm con Cám thì theo những cái mốc ấy mà dò. Nếu giả thuyết của tôi là đúng, thì cũng là một hãnh diện chung của dân tộc, có một áng văn chương bình dân chinh phục được lòng độc giả khắp hoàn cầu. 27 Từ mười một giờ đến mười hai giờ, bữa nào có học, tôi đều ở nhà cậu sáu tôi mà đọc. Cậu sáu tôi làm hội đồng, trong nhà có báo do nhà nước bắt buộc mua để ủng hộ tờ báo theo nhà nước, có sách tuyên truyền về trận giặc với Đức, có truyện, có tiểu thuyết ta. Tôi đọc sách tuyên truyền khá nhiều, có cuốn Đức Quốc chi tội ác là bây giờ tôi còn nhớ. Sách khô khan, kể những chuyện lính Đức xâm chiếm một vùng đất Pháp và hãm hiếp đàn bà, con gái, cướp của giết người. Tôi đem mấy chuyện ấy mà kể cho tía tôi nghe, tía tôi nói: “Bà nội mày kể lại, thì khi Tây mới sang qua đây mà chiếm nước Nam này, tụi nó cũng hiếp dâm đàn bà con gái, cướp của, giết người đốt nhà vậy. Giặc là giặc. Có dân nào hơn dân nào đâu!” Rồi tía tôi kể hồi tía tôi còn nhỏ xíu, mới dời qua vùng này, rừng còn nhiều, ở chen với các sóc đàng Thổ, thỉnh thoảng dân Thổ dậy “cáp duồn” thì cũng y như Pháp và Đức. Hình ảnh của chiến tranh ăn vào óc tôi trước nhứt là những cảnh do cuốn Đức Quốc chi tội ác in vào. Ở tại nhà việc ấp tại vàm Ông Cửu có dán một biểu ngữ to tướng vẽ một con rồng to phun những cái tròn tròn lên một anh lính nhào ngửa và buông cây súng rời tay y. Trên biểu ngữ có câu: “Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”. Mõ dóng lên, thường xuyên đi gọi tất cả những ai đứng bộ điền chủ phải đến nhà việc mà nghe lịnh. Trát dạy các điền chủ phải tùy theo số đất của mình mà mua vé quốc trái để giúp cho nước Pháp Lang Sa đánh giặc Đức, cho đúng với ý nghĩa của tờ biểu ngữ. Tía tôi là tá điền, đáng lẽ phải khỏi cái nạn: “phun bạc” này. Song oái oăm thay, chúng tôi lại phải “phun bạc” rất nhiều để “đánh đổ Đức tặc”. Số là cậu sáu tôi làm hội đồng; trong mấy năm gần đây phải xài nhiều để làm đám cưới cho ba đứa con lớn, để gởi anh năm Cẩn ra Hà Nội ăn học, và để mua thêm một thửa ruộng. Thành ra, tuy ở ngôi nhà đồ sộ, đứng bộ đất rất nhiều, làm hội đồng, song trong nhà không có bạc nổi để “phun” hầu “đánh đổ Đức tặc”. Lúc ấy, trong nhà tôi có trên một ngàn giạ lúa. Cậu sáu tôi nói với tía tôi cho mượn hết số lúa ấy bán đi, hầu làm phận sự của một vị hội đồng kiêm một đại điền chủ. Vừa là chủ đất, vừa là anh nuôi của vợ, cậu sáu tôi được tía tôi vâng lời. Vài hôm sau, một chiếc ghe chài đến cân lúa ở nhà cậu sáu tôi, rồi đến cột đỏi ở bến tôi. Lần thứ nhất, cái học tôi về toán được đem ra áp dụng một cách thực tiễn. Lúa trong bồ xúc vô từng bao, bao đặt lên cân coi được bao nhiêu kí, rồi mới có phu vác xuống ghe chài. Một anh tài phú Tàu ngồi coi cân, biên vào sổ bằng chữ Tàu, còn tôi thì cũng coi cân, biên vào sổ bằng chữ Tây. Bồ lúa cân sạch, chỉ chừa lối vài chục giạ để ăn cho đến mùa tới. Tôi cộng xem tất cả là bao nhiêu kí, chia ra làm bao nhiêu tạ, rồi tính giá bao nhiêu đồng. Anh tài phú Tàu bỏ bàn toán lóc cóc, ra số tiền hệt vậy. Ấy là nhà tôi đã “phun” ra một số khổng lồ tương đối, vì đã vét sạch, để “đánh đổ Đức tặc”. Bởi vì, việc cho mượn không giấy tờ gì cả, vài năm sau, cậu sáu tôi qua đời chưa kịp trả đồng nào. """