" Thần Thoại Bắc Âu - Neil Gaiman & Lê Minh Đức (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thần Thoại Bắc Âu - Neil Gaiman & Lê Minh Đức (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup NEIL GAIMAN tên thật là Neil Richard Gaiman, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1960 ở Porchester, Anh. Ông là một tác giả đa tài, được mệnh danh là “ngôi sao nhạc rock” của văn học thiếu nhi thế giới. Không chỉ sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết, ông còn viết kịch bản điện ảnh. Trong sự nghiệp của mình, ông đã giành được vô số giải thưởng danh giá, từ giải Hugo, Nebula, Bram Stoker, đến huân chương Newbery và Carnegie. Ông là nhà văn đầu tiên giành được đồng thời cả huân chương Newbery và Carnegie cho cùng một tác phẩm Câu chuyện nghĩa địa (2008). Hiện ông sống tại Mỹ, viết truyện tranh, tiểu thuyết, kịch bản phim và sản xuất một số mini-series trên truyền hình. Một số tác phẩm của mà Nhã Nam đã xuất bản: . Câu chuyện nghĩa địa . Coraline . Bụi sao . Đại dương cuối đường làng . Còn sữa là còn hy vọng . Thần thoại Bắc Âu Tặng Everett, những câu chuyện cũ cho một cậu bé mới. LỜI GIỚI THIỆU Chọn được một dòng thần thoại yêu thích cũng khó như chọn được một kiểu nấu ăn yêu thích (có tối bạn thích đồ ăn Thái, có tối khác bạn thích sushi, có tối bạn lại chỉ muốn những món ăn giản dị nhà nấu mà bạn vẫn ăn hồi bé). Nhưng nếu phải chọn thì có lẽ tôi sẽ chọn . Lần đầu tiên tôi làm quen với Asgard và các cư dân của nó là hồi tôi còn bé, có lẽ chưa đến bảy tuổi, khi tôi đọc về những cuộc phiêu lưu của Thor Hùng Mạnh được vẽ bởi họa sĩ truyện tranh người Mỹ Jack Kirby, trong những câu chuyện được sáng tác bởi Kirby và Stan Lee, với lời thoại do em trai của Stan Lee là Larry Lieber viết. Thor dưới ngòi bút của Kirby rất mạnh mẽ và đẹp trai, Asgard của ông là một thành phố khoa học viễn tưởng cao vút với những tòa tháp hùng vĩ và những dinh thự đầy hiểm trở, Odin của ông đầy khôn ngoan và cao quý, Loki của ông là một kẻ đội mũ có sừng luôn mỉa mai và tinh quái. Tôi thích mê chàng Thor tóc vàng cầm búa của Kirby, và tôi muốn tìm hiểu thêm về chàng. Tôi mượn cuốn Thần thoại của người Bắc Âu của tác giả Roger Lancelyn Green và đọc đi đọc lại một cách say sưa và bối rối: trong câu chuyện này, Asgard không còn là một Thành Phố Tương Lai kiểu Kirby nữa mà là một đại sảnh của người Viking và những tòa nhà trên vùng lãnh nguyên băng giá; Odin cha các thần không còn dịu dàng, khôn ngoan và hay cáu kỉnh nữa, thay vào đó đã trở nên tài ba, không dò thấu nổi và nguy hiểm; Thor thì vẫn khỏe như Thor Hùng Mạnh trong truyện tranh và cái búa của chàng vẫn mạnh mẽ như vậy, nhưng… phải nói thật là chàng không được thông minh cho lắm; còn Loki thì không xấu xa nhưng cũng chắc chắn không phải là người tốt. Loki rất… phức tạp. Thêm vào đó, tôi còn học được rằng các thần Bắc Âu có một tận thế của riêng họ: Ragnarok, hoàng hôn của các thần, khi tất cả kết thúc. Các thần sẽ chiến đấu với người khổng lồ băng, và tất cả bọn họ sẽ chết. Ragnarok đã xảy ra chưa? Hay là nó vẫn chưa xảy ra? Khi đó tôi không biết. Bây giờ tôi vẫn không dám chắc. Chính vì thế giới và câu chuyện của họ có một điểm kết thúc, chính vì cái cách nó kết thúc và được tái sinh, mà các thần và người khổng lồ băng cùng tất cả bọn họ đã trở thành những anh hùng bi kịch, những kẻ phản diện bi kịch. Ragnarok khiến tôi lưu luyến với thế giới Bắc Âu, khiến nó trở nên thực và hiện tại một cách kỳ lạ, trong khi những hệ thống tín ngưỡng khác, được ghi chép cẩn thận hơn, lại có vẻ thuộc về quá khứ, như những thứ cổ xưa. Là thần thoại về một nơi lạnh giá, với những đêm đông dài thật dài và những ngày hè vô tận, thần thoại của một dân tộc không hoàn toàn tin tưởng hay thậm chí là yêu quý các thần, tuy vẫn kính trọng và e sợ họ. Theo như những gì chúng ta biết thì các thần của Asgard có nguồn gốc từ Đức, họ tủa ra khắp Bắc Âu, rồi đến những vùng khác do người Viking thống trị - đến Orkney và Scotland, Ireland và miền Bắc nước Anh - nơi những kẻ xâm lăng để lại những địa danh đặt theo tên Thor hoặc Odin. Trong tiếng Anh, các thần đã để lại tên mình qua các ngày trong tuần. Các bạn có thể tìm thấy Tyr một tay (con trai của Odin), Odin, Thor và Frigg, hoàng hậu của các thần, trong các ngày Tuesday (thứ Ba), Wednesday (thứ Tư), Thursday (thứ Năm) và Friday (thứ Sáu). Chúng ta có thể thấy dấu vết của những thần thoại và những tôn giáo lâu đời hơn trong cuộc chiến và câu chuyện về việc giảng hòa giữa các thần tộc Vanir và tộc Aesir. Tộc Vanir có vẻ là các thần thiên nhiên, gồm các anh chị em, ít hiếu chiến hơn, nhưng có lẽ cũng nguy hiểm không kém gì tộc Aesir. Rất có thể, hay ít ra cũng là một giả thuyết khả thi, rằng có những tộc người thờ các thần Vanir và những tộc người khác thờ các thần Aesir, và những người thờ các thần Aesir đã xâm chiếm đất của người thờ các thần Vanir, và họ đã cùng thỏa hiệp và thích nghi. Gác thần tộc Vanir, như em gái và anh trai Freya và Frey, sống ở Asgard cùng tộc Aesir. Lịch sử, tôn giáo và thần thoại kết hợp với nhau, khiến chúng ta tò mò, tưởng tượng và phỏng đoán, như những thám tử sắp xếp lại chi tiết của một vụ án đã bị quên lãng từ lâu. Còn rất nhiều câu chuyện mà chúng ta không có, còn nhiều điều chúng ta không biết. Những gì chúng ta có chỉ là một vài câu chuyện được truyền lại theo dạng truyện cổ, truyện kể, qua thơ hay văn xuôi. Chúng chỉ được chép lại khi Thiên Chúa giáo đã thế chỗ cho việc thờ các thần Bắc Âu, và một số câu chuyện chúng ta có đã được truyền lại vì mọi người lo rằng nếu chúng không được giữ gìn thì những điển tích ẩn dụ - cách các thi sĩ nhắc đến những sự việc trong các câu chuyện thần thoại cụ thể - sẽ trở nên vô nghĩa; ví dụ, nước mắt của Freya là một cụm từ thi vị để chỉ “vàng”. Trong một số câu chuyện, các thần Bắc Âu được miêu tả là người thường, hoặc vua chúa hay anh hùng thời xưa, để những câu chuyện đó có thể được kể trong thế giới Thiên Chúa. Một số câu chuyện và bài thơ nhắc đến hoặc nói bóng gió đến nhiều câu chuyện khác mà chúng ta không có. Có lẽ điều này cũng giống như thể các câu chuyện về những vị thần và á thần của Hy Lạp và La Mã chỉ còn lại chuyện về các chiến công của Theseus và Hercules. Chúng ta đã mất quá nhiều. Có rất nhiều nữ thần Bắc Âu. Chúng ta biết tên của họ và một vài thuộc tính cũng như quyền năng của họ, nhưng những câu chuyện, thần thoại và lễ nghi của họ đã không được truyền lại. Tôi ước gì mình có thể kể lại chuyện về Eir, vì nàng là bác sĩ của các thần, hay chuyện về Lofn, người an ủi, nữ thần hôn nhân của Bắc Âu, hay chuyện về Sjofn, nữ thần tình yêu. Đó là còn chưa kể đến Vor, nữ thần thông thái. Tôi có thể tưởng tượng ra các câu chuyện, nhưng tôi không thể kể lại chuyện của họ. Những câu chuyện đó đã mất, bị chôn vùi hay quên lãng. Tôi đã cố gắng hết sức để kể lại những thần thoại và những câu chuyện này chính xác hết mức có thể, và thú vị hết mức có thể. Đôi khi trong các câu chuyện có những chi tiết mâu thuẫn lẫn nhau. Nhưng tôi mong rằng chúng có thể vẽ nên một bức tranh về một thế giới và một thời kỳ. Khi tôi kể lại những câu chuyện này, tôi cố tưởng tượng ra mình đang ở một thời cách đây đã lâu lắm, ở xứ sở nơi những câu chuyện này được kể ra lần đầu tiên, có lẽ là trong những đêm đông dài, dưới ánh sáng của bắc cực quang, hay ngồi ngoài trời giữa đêm khuya, dưới ánh nắng không bao giờ tắt của ngày hạ chí, với những khán giả nóng lòng muốn biết Thor đã làm gì nữa, và cầu vồng là gì, và họ phải sống như thế nào, và những bài thơ dở từ đâu ra. Khi hoàn thành những câu chuyện này và đọc lại chúng theo thứ tự, tôi ngạc nhiên khi thấy chúng như một hành trình, từ băng giá và lửa cháy của buổi đầu vũ trụ cho tới lửa cháy và băng giá kết thúc thế giới. Trên hành trình đó chúng ta sẽ gặp những người mà chúng ta có thể nhận ra, như Loki, Thor và Odin, và những người chúng ta muốn biết thêm (tôi thích nhất trong số này là Angrboda, người vợ thuộc tộc khổng lồ của Loki, bà ta đã sinh cho y những đứa con quái vật và hồn ma của bà ta đã xuất hiện sau khi Balder bị sát hại). Tôi không dám quay trở lại với những người đã kể chuyện mà tôi yêu thích, những người như Roger Lancelyn Green và Kevin Crossley-Holland, không dám đọc lại những câu chuyện của họ. Thay vào đó tôi dành thời gian với những bản dịch khác nhau của Edda văn xuôi của Snorri Sturluson, và với những khổ thơ của Edda Thơ, những từ ngữ đã có từ chín trăm năm trước và cổ hơn thế nữa, lựa chọn những câu chuyện tôi muốn kể lại và cách tôi muốn kể chúng, kết hợp các phiên bản khác nhau từ văn xuôi và thơ. (Ví dụ, chuyến du hành của Thor tới Hymir mà tôi kể là một phiên bản kết hợp: nó bắt đầu từ Edda Thơ, rồi có thêm các chi tiết từ chuyến phiêu lưu câu cá của Thor trong bản của Snorri.) Cuốn Từ điển Thần thoại phương Bắc đã cũ nát của tôi, tác giả Rudolf Simek, Angela Hall dịch, là một cuốn sách đầy giá trị mà tôi liên tục tra cứu, giúp tôi mở mang tầm mắt và học được rất nhiều điều. Tôi rất cảm ơn người bạn lâu năm của tôi là Alisa Kwitney vì đã giúp tôi biên tập. Chị là một người phản biện tuyệt vời, đầy chính kiến và thẳng thắn, nhiệt tình, nhạy bén và thông minh. Chị đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này, chủ yếu vì chị muốn đọc tác phẩm tiếp theo, và chị giúp tôi có thời gian để viết nó. Tôi rất biết ơn chị. Tôi cũng cảm ơn cả Stephanie Monteith, với cặp mắt tinh tường và sự hiểu biết về Bắc Âu, đã phát hiện ra nhiều lỗi mà tôi có thể đã bỏ sót. Đồng thời cảm ơn Amy Cherry ở Norton, người đã gợi ý tôi nên kể lại những câu chuyện thần thoại trong một bữa trưa vào dịp sinh nhật tôi cách đây tám năm, và xét trên mọi mặt thì là nhà biên tập kiên trì nhất thế giới. Mọi lỗi sai, mọi kết luận vội vàng và mọi ý kiến kỳ cục trong cuốn sách này là của tôi và của riêng tôi, và tôi không muốn ai khác bị đổ lỗi vì chúng. Tôi mong tôi đã kể lại những câu chuyện này một cách chân thực, nhưng trong việc kể lại đó vẫn có niềm vui và sự sáng tạo. Đó chính là niềm vui của thần thoại. Niềm vui đến từ việc được tự mình kể lại chúng - một điều mà tôi hết lòng khuyến khích các bạn cũng làm, các bạn đang đọc cuốn sách này. Hãy đọc những câu chuyện trong sách, rồi biến chúng thành của mình, và vào một đêm đông tối tăm giá buốt, hay một đêm hè mà mặt trời không chịu lặn, hãy kể cho các bạn mình nghe chuyện xảy ra khi búa của Thor bị đánh cắp, hay Odin đã làm cách nào để lấy rượu thi ca về cho các thần… Neil Gaiman Lisson Grove, London, Tháng Năm năm 2016 CÁC NHÂN VẬT Trong có rất nhiều vị nam thần và nữ thần. Các bạn sẽ gặp khá nhiều người trong số họ giữa những trang giấy này. Tuy nhiên, phần lớn những câu chuyện này xoay quanh hai vị thần, Odin và con trai người là Thor, và anh em kết nghĩa với Odin, con trai người khổng lồ tên là Loki, sống cùng các thần Aesir ở Asgard. Odin Người đứng đầu và nhiều tuổi nhất trong số các thần là Odin. Odin biết rất nhiều điều bí mật. Ngài đã hy sinh một con mắt của mình để đổi lấy sự thông thái. Hơn thế nữa, để nắm được các cổ ngữ và có được quyền năng, ngài đã tự hiến tế bản thân cho chính mình. Ngài treo mình lên cây thế giới, Yggdrasil, treo suốt chín ngày chín đêm. Sườn ngài bị một ngọn giáo đâm, khiến ngài bị thương nặng. Gió cào cấu ngài, xô đẩy thân thể ngài trong khi ngài treo trên cây. Ngài không ăn và cũng không uống gì suốt chín ngày chín đêm đó. Ngài ở đó đơn độc, chịu đau đớn, trong lúc sự sống tắt dần trong ngài. Ngài lạnh cóng, đau đớn tột cùng, và đúng lúc cái chết cận kề thì sự hy sinh của ngài đã đơm một thứ trái tăm tối: giữa lúc xuất thần vì đớn đau, ngài nhìn xuống, và các cổ ngữ đã hiển hiện trước mắt ngài. Ngài đọc được chúng, hiểu được chúng và quyền năng của chúng. Sợi dây đứt, và ngài thét lên một tiếng rồi rơi từ trên cây xuống. Giờ thì ngài đã hiểu được phép thuật. Giờ thì cả thế giới nằm trong quyền điều khiển của ngài. Odin có rất nhiều tên. Ngài là Cha tối cao, chúa của những kẻ bị sát hại, thần của giá treo cổ. Ngài là thần của hàng hóa và của phạm nhân. Ngài có tên là Grimnir và Người Thứ Ba. Ở mỗi đất nước ngài đều có một cái tên khác nhau (vì ngài được thờ cúng dưới nhiều dạng thức và bằng nhiều thứ tiếng, nhưng vị thần được thờ cúng luôn luôn là Odin). Ngài thường giả dạng để du hành tới các nơi, để ngắm nhìn thế giới bằng con mắt của người thường. Khi ngài xuống trần, ngài thường có hình dạng của một người đàn ông cao lớn, mặc áo choàng và đội mũ. Ngài có hai con quạ, mà ngài đặt tên là Huginn và Muninn, có nghĩa là “ý nghĩ” và “ký ức”. Hai con chim này bay đi khắp thế giới, tìm kiếm tin tức và đem kiến thức về cho Odin. Chúng đậu trên vai ngài và thì thầm vào tai ngài. Khi ngài ngồi trên ngai vàng ở Hlidskjalf, ngài quan sát được vạn vật, dù chúng ở đâu. Không gì có thể giấu nổi con mắt của ngài. Ngài đem chiến tranh đến cõi thế: các trận chiến được bắt đầu bằng cách ném một ngọn giáo vào quân địch, để dâng trận chiến và những kẻ ngã xuống cho Odin. Nếu ta sống sót qua trận chiến thì đó là nhờ hồng phúc của Odin, còn nếu bị giết thì đó là vì Odin đã phản bội ta. Nếu ta ngã xuống một cách anh dũng trong chiến trận thì các Valkyrie, những nữ binh xinh đẹp chuyên đi thu thập linh hồn các anh hùng đã hy sinh, sẽ đưa ta đi và dẫn ta đến một đại sảnh có tên là Valhalla. Ngài sẽ đợi ta ở Valhalla, và ở đó ta sẽ được uống rượu, đánh đấm, tiệc tùng và chiến đấu, dưới sự dẫn dắt của Odin. Thor Thor, con trai của Odin, là thần sấm. Cha chàng là Odin xảo quyệt bao nhiêu thì chàng thẳng thắn bấy nhiêu, ngài ranh ma bao nhiêu thì chàng tốt tính bấy nhiêu. Chàng rất to con, có bộ râu đỏ, và rất khỏe, khỏe nhất trong số các thần. Sức lực của chàng được nhân lên nhờ chiếc thắt lưng sức mạnh, Megingjord: khi chàng đeo nó vào, sức mạnh của chàng sẽ tăng gấp đôi. Vũ khí của Thor là Mjollnir, một chiếc búa kỳ diệu, được những người lùn rèn cho chàng. Rồi các bạn sẽ được biết câu chuyện của nó. Quỷ đá, người khổng lồ băng và người khổng lồ núi đều run sợ khi nhìn thấy Mjollnir, vì nó đã giết rất nhiều anh em và bạn bè họ. Thor mang găng sắt, để giúp chàng nắm chặt cán búa. Mẹ của Thor là Jord, nữ thần đất. Con trai của Thor là Modi giận dữ và Magni hùng mạnh. Con gái của Thor là Thrud quyền năng. Vợ chàng là Sif, nữ thần tóc vàng. Nàng có một người con trai, Ullr, trước khi lấy Thor, nên Thor là cha dượng của Ullr. Ullr là vị thần săn bắn với cung và tên, và còn là vị thần đi ván trượt tuyết. Thor là người bảo vệ Asgard và Midgard. Có rất nhiều câu chuyện về Thor và những chuyến phiêu lưu của chàng. Các bạn sẽ được đọc một số những câu chuyện đó ở đây. Loki Loki rất đẹp trai. Y dẻo miệng, đầy sức thuyết phục, được tất cả mọi người quý mến, và chắc chắn là kẻ ranh mãnh, tinh vi và xảo trá nhất trong số các cư dân của Asgard. Vì vậy thật đáng tiếc là trong y có quá nhiều bóng tối: quá nhiều giận dữ, quá nhiều ghen tị, quá nhiều tham lam. Loki là con trai của Laufey, còn được biết đến với cái tên là Nal, hay là cái kim, vì bà ta rất mảnh dẻ, xinh đẹp, và sắc sảo. Cha y được cho là Farbauti, một người khổng lồ; tên ông ta có nghĩa là “kẻ giáng những đòn nguy hiểm”, và Farbauti cũng nguy hiểm như cái tên mình vậy. Loki đi lại trên trời bằng đôi giày có cánh, và y có thể biến hình thành người khác, hoặc thành thú vật, nhưng vũ khí thực sự của y là trí óc. Y tinh ranh, khôn ngoan và xảo quyệt hơn bất kỳ vị thần hay người khổng lồ nào. Đến cả Odin cũng không ranh mãnh bằng Loki. Loki là anh em kết nghĩa của Odin. Các thần khác không biết Loki đến Asgard từ khi nào hay bằng cách nào. Y là bạn của Thor và là kẻ phản bội Thor. Các thần chịu đựng y, có lẽ vì những mưu mô và kế hoạch của y đã cứu họ cũng nhiều không kém những rắc rối chúng gây ra cho họ. Loki khiến thế giới thú vị hơn nhưng kém an toàn hơn. Y là cha của quái vật, tác giả của nỗi phiền muộn, vị thần tinh quái. Loki thường uống rượu rất nhiều, và y không kiểm soát được lời nói, ý nghĩ hay việc làm của mình mỗi khi uống rượu. Loki và các con mình sẽ có mặt khi diễn ra Ragnarok, tận thế, và họ sẽ không chiến đấu cùng phe với các thần Asgard. TRƯỚC THUỞ SƠ KHAI, VÀ SAU ĐÓ I Trước thuở sơ khai không có gì tồn tại cả - không đất, không trời, không sao, không trăng: chỉ có thế giới sương mù, không hình, không dạng, và thế giới lửa, luôn luôn bùng cháy. Ở phía Bắc là Niflheim, thế giới bóng tối. Ở đây mười một dòng sông độc chảy qua màn sương, tất cả đều bắt nguồn từ cùng một chiếc giếng ở trung tâm thế giới, một vũng xoáy gào rú có tên là Hvergelmir. Niflheim lạnh hơn cả băng giá, và màn sương mù đục trĩu nặng trùm lên tất cả. Bầu trời bị mây mù che kín và mặt đất cũng bị màn sương lạnh lẽo bao phủ. Ở phía Nam là Muspell. Muspell là lửa. Tất cả mọi thứ ở đây đều sáng rực và bốc cháy. Muspell đầy ánh sáng trong khi Niflheim chỉ toàn một màu xám, một nơi đầy dung nham nóng chảy còn nơi kia là thế giới sương mù lạnh cứng. Toàn bộ vùng đất này rừng rực lửa như trong bễ thợ rèn; không có mặt đất rắn, cũng không có bầu trời. Chẳng có gì ngoài những tia lửa và hơi nóng bốc lên, đá tan chảy và than hồng. Ở Muspell, bên rìa ngọn lửa, nơi màn sương cháy thành ánh sáng, nơi mặt đất kết thúc, sừng sững Surtr, người khổng lồ tồn tại trước các thần. Bây giờ ông ta vẫn đứng đó. Ông ta cầm trong tay một thanh gươm rực lửa, và lớp dung nham nóng sôi lẫn màn sương lạnh cóng kia với ông ta chỉ là một. Người ta nói rằng khi Ragnarok xảy ra, tức là lúc tận thế, và chỉ đến khi đó, Surtr mới rời vị trí của mình. Ông ta sẽ rời khỏi Muspell với thanh gươm rực lửa của mình và đốt cháy thế giới, và lần lượt từng vị thần sẽ gục ngã trước ông ta. II Giữa Muspell và Nitlheim là một khoảng không, một không gian trống rỗng không có gì, không hình dạng. Những dòng sông ở thế giới sương mù chảy xuống khoảng không này, và nó được gọi là Ginnungagap, có nghĩa là “vực thẳm há hoác”. Suốt một thời gian dài đến không thể tính nổi, những dòng sông độc này, giữa lửa và sương, đã từ từ đông cứng thành những dòng sông băng khổng lồ. Lớp băng ở phía Bắc khoảng không bị bao phủ bởi sương mù lạnh buốt và những hạt mưa tuyết, nhưng ở phía Nam, khi những dòng sông băng trôi tới vùng đất lửa, thì những hòn than hồng và những đốm lửa của Muspell sẽ gặp băng, và hơi gió ấm từ vùng đất lửa sẽ khiến không khí trên mặt băng dịu nhẹ và dễ chịu như một ngày xuân. Ở nơi băng và lửa gặp nhau, băng sẽ tan, và trong làn nước băng tan đó sự sống hình thành: hình dạng của một con người to lớn hơn các thế giới, khổng lồ hơn bất kỳ người khổng lồ nào sẽ hay đã được sinh ra đời. Người này không phải là nam hay nữ, mà là cả hai. Sinh vật này là tổ tiên của mọi người khổng lồ, và nó tự gọi mình là Ymir. Ymir không phải là sinh vật sống duy nhất hình thành từ băng tan: còn có một con bò không có sừng, to lớn hơn cả sức tưởng tượng của chúng ta. Con bò liếm những khối băng mặn làm thức ăn và nước uống, và sữa từ bốn bầu vú của nó chảy tràn như sông suối. Chính dòng sữa này đã nuôi dưỡng Ymir. Người khổng lồ uống sữa, và lớn lên. Ymir đặt tên cho con bò là Audhumla. Cái lưỡi hồng của con bò liếm các khối băng thành hình người: hôm đầu tiên chỉ thấy chỏm tóc một người đàn ông, ngày thứ hai đã thấy cái đầu, và đến ngày thứ ba thì cả hình dạng một con người hiện ra. Đây là Buri, tổ tiên của các thần. Ymir ngủ, và trong lúc ngủ nó sinh con: một con trai và một con gái khổng lồ được sinh ra từ dưới cánh tay trái của Ymir, và một người khổng lồ sáu đầu được sinh ra từ chân nó. Mọi người khổng lồ đều là hậu duệ của những người con của Ymir này. Buri chọn một người phụ nữ khổng lồ làm vợ, và họ sinh được một người con trai, đặt tên là Bor. Bor lấy Bestla, con gái một người khổng lồ, và họ sinh được ba người con trai: Odin, Vili và Ve. Odin và Vili và Ve, ba người con trai của Bor, lớn lên. Trong khi lớn lên, họ đã thấy ngọn lửa của Muspell và bóng tối của NiAheim ở đằng xa, nhưng biết cả hai nơi đó sẽ đem cái chết đến cho họ. Ba anh em vĩnh viễn bị mắc kẹt ở Ginnungagap, vực thẳm mênh mông giữa lửa và sương. Cứ như thể họ đang ở một nơi hư vô. Không có biển và không có cát, không có cỏ hay đá, không có đất, không có cây, không có trời, không có sao. Không có thế giới, không có thiên đường và không có trần thế. Vực thẳm chẳng là nơi nào cả: chỉ là một nơi trống rỗng chờ đợi để được tràn đầy sự sống và sự tồn tại. Đã đến lúc sáng tạo ra vạn vật. Ve và Vili và Odin nhìn nhau và bàn xem cần làm gì, ở vực thẳm Ginnungagap đó. Họ nói về vũ trụ, về sự sống và về tương lai. Odin và Vili và Ve giết người khổng lồ Ymir. Họ buộc phải làm vậy. Không có cách nào khác để tạo ra các thế giới. Đây là sự khỏi đầu của vạn vật, cái chết để mọi sự sống chào đời. Họ đâm người khổng lồ vĩ đại. Máu trào ra khỏi xác Ymir nhiều không kể xiết; những cột máu mặn mòi như nước biển và xám xịt như đại dương phun ra thành một con lũ đột ngột, mạnh mẽ và sâu thẳm đến nỗi nó cuốn phăng mọi người khổng lồ, khiến họ chết đuối. (Chỉ có một người khổng lồ, Bergelmir, cháu trai của Ymir, và vợ ông ta, là sống sót, bằng cách trèo vào một cái hộp gỗ để nó đưa họ trôi đi như thuyền. Những người khổng lồ chúng ta nhìn thấy và e sợ ngày nay đều là con cháu của họ.) Odin và các em trai biến da thịt Ymir thành đất. Xương của Ymir họ xếp đống thành núi đồi. Những đá tảng, đá cuội, cát và sỏi mà chúng ta thấy: đó là răng của Ymir, cả những mảnh xương bị gãy và đập vụn bởi Odin và Vili và Ve khi họ chiến đấu với Ymir. Những biển khơi bao quanh các thế giới: đấy chính là máu và mồ hôi của Ymir. Hãy nhìn lên bầu trời: bạn đang nhìn thấy bên trong hộp sọ của Ymir. Những ngôi sao chúng ta thấy ban đêm, các hành tinh, các sao chổi và sao băng, đó là những đốm lửa bay lên từ ngọn lửa của Muspell. Và còn những đám mây ta thấy vào ban ngày ư? Chúng trước kia là não của Ymir, và ai biết chúng đang nghĩ gì, ngay cả trong lúc này đây. III Thế giới là một cái đĩa phẳng, với biển bao quanh. Người khổng lồ sống bên rìa thế giới, bên cạnh những vùng biển sâu nhất. Để ngăn người khổng lồ tới, Odin và Vili và Ve làm một bức tường bằng lông mi của Ymir và dựng nó quanh trung tâm thế giới. Họ gọi vùng đất bên trong bức tường là Midgard. Midgard trống rỗng. Đất đai ở đó rất đẹp, nhưng không có ai đi lại trên những thảo nguyên hay câu cá trong những dòng nước trong vắt, không ai thám hiểm những rặng núi đá hay ngước nhìn lên mây trời. Odin và Vili và Ve biết rằng thế giới sẽ không được coi là một thế giới thực sự nếu không có người ở. Họ chu du rất xa, tìm kiếm con người, nhưng chẳng tìm thấy gì. Cuối cùng, trên bờ đá cuội bên biển, họ tìm thấy hai khúc gỗ bị sóng đánh, trôi nổi theo thủy triều và đã giạt vào bờ. Khúc gỗ thứ nhất là một khúc gỗ tần bì. Cây tần bì rất khỏe, tán đẹp và có bộ rễ đâm sâu. Gỗ của nó có thể chạm khắc mà không bị nứt hoặc rạn. Gỗ tần bì nếu dùng làm tay cầm cho các dụng cụ hoặc cán giáo thì rất tốt. Khúc gỗ thứ hai họ tìm thấy bên cạnh, nằm sát khúc gỗ thứ nhất đến nỗi chúng gần như chạm vào nhau, là một khúc gỗ cây đu. Cây đu rất duyên dáng, nhưng gỗ của nó đủ cứng để có thể làm thành những phiến gỗ và những thanh rầm chắc chắn nhất; ta có thể xây cả một ngôi nhà hoặc một đại sảnh tuyệt vời từ gỗ cây đu. Các thần nhặt hai khúc gỗ lên. Họ đặt hai khúc gỗ đứng thẳng trên nền cát, cao ngang đầu người. Odin giữ chặt chúng và lần lượt thổi sinh khí vào chúng. Chúng không còn là hai khúc gỗ vô tri trên bờ biển nữa: giờ chúng đã có sự sống. Vili cho chúng ý thức; ngài cho chứng trí thông minh và lòng quyết tâm. Giờ chúng đã có thể cử động và biết ham muốn. Ve đẽo gọt hai khúc gỗ. Ngài cho chúng có hình dạng của con người. Ngài chạm khắc tai cho chúng, để chúng nghe được, và chạm mắt, để chúng nhìn được, và chạm miệng, để chúng nói được. Hai khúc gỗ đứng trên bờ biển, biến thành hai người trần truồng. Ve đã chạm cho một khúc gỗ hình đàn ông, khúc kia hình đàn bà. Ba anh em làm ra quần áo cho người đàn ông và người đàn bà, để họ che thân và giữ ấm, dưới làn hơi biển lạnh giá trên bãi biển bên rìa thế giới. Cuối cùng, họ đặt tên cho hai con người họ đã tạo ra: người đàn ông họ gọi là Ask, tức là Cây Tần Bì; còn người đàn bà họ gọi là Embla, tức là Cây Đu. Ask và Embla là cha mẹ của tất cả chúng ta; con người nào sinh ra đời cũng nhờ có cha mẹ, ông bà và tổ tiên trước đó. Nếu ta lùi về đủ xa trong quá khứ thì tổ tiên của mỗi người trong chúng ta đều là Ask và Embla. Ask và Embla ở lại Midgard, an toàn sau bức tường mà các thần đã làm bằng lông mi của Ymir. Ở Midgard họ sẽ xây tổ ấm, được bảo vệ khỏi người khổng lồ, những con quái vật và nhiều mối hiểm nguy khác đang rình rập ngoài vùng hoang vu. Ở Midgard con cái họ có thể lớn lên trong yên bình. Chính vì vậy mà Odin mới được gọi là Cha tối cao. Bởi vì ngài là cha của các thần, và vì ngài đã thổi sinh khí vào tổ tiên của chúng ta. Dù ta là thần hay người trần thì Odin cũng là cha của tất cả chúng ta. YGGDRASIL VÀ CỬU GIỚI Cây tần bì Yggdrasil là một cây tần bì hùng vỹ hoàn hảo và đẹp nhất trong tất thảy cây cối: đồng thời nó còn là cái cây to nhất. Nó mọc giữa cửu giới và nối liền các thế giới này với nhau. Nó là cái cây khổng lồ nhất trên đời, cái cây đường bệ nhất. Cành cao nhất của nó vươn cao hơn cả bầu trời. Nó lớn tới nỗi bộ rễ của nó xuyên qua ba thế giới, và nó được nuôi dưỡng bằng ba cái giếng. Cái rễ thứ nhất, đâm sâu nhất, xuyên vào âm gian, tức là Niflheim, nơi đã tồn tại trước tất cả các thế giới khác. Ở trung tâm thế giới bóng tối đó là một dòng suối luôn cuồn cuộn chảy, Hvergelmir, với tiếng nước ầm ĩ như một cái ấm đang sôi. Con rồng Nidhogg sống ở đó, và nó lúc nào cũng gặm cái rễ từ bên dưới. Cái rễ thứ hai đi qua vương quốc của người khổng lồ băng, đến cái giếng thuộc về Mimir. Trên cành cao nhất của cây thế giới có đậu một con đại bàng biết rất nhiều điều, và một con diều hâu đậu giữa hai mắt con đại bàng ấy. Một con sóc, tên là Ratatosk, sống giữa các cành của cây thế giới. Nó đem chuyện gẫu và tin nhắn từ Nidhogg, kẻ ăn xác đáng sợ, đến cho con đại bàng rồi lại quay trở về. Con sóc dối trá với cả hai bên, và lấy làm thích thú với việc khơi lên con giận của chúng. Có bốn con hươu đực gặm những cành khổng lồ của cây thế giới, ăn lá và vỏ cây. Dưới gốc cây là vô vàn rắn đang cắn rễ. Cây thế giới là nơi ta có thể trèo lên được. Chính trên cái cây này Odin đã treo mình tự hiến tế, biến cây thế giới thành giá treo cổ và biến chính mình thành vị thần của giá treo cổ. Các thần không trèo lên cây thế giới. Họ di chuyển giữa các thế giới bằng Bifrost, cây cầu cầu vồng. Chỉ các thần mới đi lại trên cầu vồng được; nó sẽ đốt cháy bàn chân của bất kỳ người khổng lồ băng hay quỷ đá nào định trèo qua nó để đến Asgard. Cửu giới bao gồm: Asgard, nhà của tộc thần Aesir. Đây là nơi ở của Odin. Altheim, nơi sinh sống của tiên ánh sáng. Các tiên ánh sáng đẹp đẽ không kém gì mặt trời hoặc các vì sao. Nidavellir, còn gọi là Svartalfheim, nơi người lùn (hay còn gọi là tiên bóng tối) sống bên dưới các ngọn núi và tạo ra những vật phẩm kỳ diệu của họ. Midgard, thế giới của con người, nơi chúng ta sinh sống. Jotunheim, nơi người khổng lồ băng và người khổng lồ núi chu du, sinh sống, và xây dựng các đại sảnh của họ. Vanaheim, nơi ở của tộc Vanir. Tộc Aesir và tộc Vanir đều là thần, gắn kết bởi những giao ước hòa bình, và rất nhiều thần Vanir cũng sống ở Asgard cùng các thần Aesir. Niflheim, thế giới của bóng tối và sương mù. Muspell, thế giới của lửa, nơi Surtr đang chờ đợi. Và còn một nơi được đặt theo tên người trị vì nó: Hel, nơi những người không chết một cách anh dũng trong chiến trận sẽ phải tới. Cái rễ cuối cùng của cây thế giới đâm xuống một dòng suối ở nhà của các thần, ở Asgard, nơi các thần tộc Aesir sinh sống. Hằng ngày các thần đều hội họp ở đây, và cũng ở đây họ sẽ họp mặt vào những ngày tận cùng của thế giới, trước khi họ bước vào trận chiến cuối cùng của Ragnarok. Dòng nước này được gọi là giếng của Urd. Có ba chị em, các nữ thần Norn, thần số mệnh, là ba thiếu nữ hết sức thông thái. Họ chăm sóc cái giếng và đảm bảo rễ của Yggdrasil luôn được bón tưới và phủ kín bùn. Giếng này thuộc về Urd; nàng là số phận và vận mệnh. Nàng là quá khứ của chúng ta. Ngồi bên nàng là Verdandi - tên nàng có nghĩa là “đang trở thành” - và nàng là hiện tại, và Skuld, tên nàng có nghĩa là “điều được định đoạt”, và nàng trông coi tương lai. Các nữ thần số mệnh quyết định cuộc đời con người. Còn nhiều thần số mệnh khác, không chỉ có ba người đó. Có thần số mệnh của người khổng lồ, thần số mệnh của tiên, thần số mệnh của người lùn và thần số mệnh của tộc Vanir, thần số mệnh tốt và xấu, và họ sẽ quyết định số phận con người. Một số thần số mệnh cho con người cuộc sống tốt, một số khác lại cho ta những cuộc sống khó khăn, hay ngắn ngủi, hay trắc trở. Họ sẽ định đoạt số phận của ta, bên chiếc giếng của Urd. ĐẦU CỦA MIMIR VÀ CON MẮT CỦA ODIN Ở Jotunheim, nhà của người khổng lồ, có chiếc giếng của Mimir. Nước giếng sủi bọt trào lên từ sâu thẳm trong lòng đất, để tưới cho Yggdrasil, cây thế giới. Mimir thông thái là người bảo hộ ký ức và hiểu biết rất nhiều điều. Nước giếng của Mimir là tri thức, và thuở thế giới mới sơ khai, sáng sáng ông đều uống nước giếng bằng cách vục chiếc tù và tên là Gjallerhorn xuống nước rồi uống cạn. Cách đây đã lâu, lâu lắm rồi, từ khi các thế giới còn non trẻ, Odin đã khoác áo choàng dài rồi đội mũ lên, và dưới bộ dạng của một người lữ hành, ngài đã chu du qua vùng đất của người khổng lồ, mạo hiểm cả tính mạng để đến chỗ Mimir, để tìm kiếm tri thức. “Một ngụm nước giếng của cậu, thưa cậu Mimir,” Odin nói. “Cháu chỉ xin có vậy.” Mimir lắc đầu. Không ai được uống nước giếng ngoại trừ chính Mimir. Mimir không nói gì: những người im lặng thường ít phạm sai lầm. “Cháu là cháu của cậu,” Odin nói. “Mẹ cháu, Bestla, là chị của cậu.” “Như vậy chưa đủ,” Mimir đáp. “Một ngụm thôi. Chỉ với một ngụm từ cái giếng của cậu, Mimir, cháu sẽ trở nên thông thái. Cậu hãy ra giá đi.” “Giá của ta là một con mắt của ngươi,” Mimir nói. “Một con mắt của ngươi trong giếng.” Odin không hỏi xem Mimir có đùa không. Cuộc hành trình qua vùng đất của người khổng lồ để đến cái giếng của Mimir là một hành trình dài dằng dặc và đầy nguy hiểm. Odin đã sẵn sàng mạo hiểm cả tính mạng mình để đến được đây. Ngài sẵn sàng làm hơn thế để có được tri thức. Mặt Odin đanh lại. “Đưa cho cháu con dao,” ngài chỉ nói có vậy. Sau khi đã làm xong việc cần thiết, ngài cẩn thận đặt con mắt mình xuống lòng giếng. Nó nhìn lên ngài qua làn nước. Odin múc đầy nước từ giếng của Mimir bằng chiếc tù và Gjallerhom rồi đưa nó lên môi. Nước lạnh buốt. Ngài uống cạn. Tri thức tràn vào cơ thể ngài. Bằng một mắt, ngài nhìn được xa và rõ ràng hơn bằng cả hai mắt trước kia. Từ đó về sau Odin còn được gọi bằng nhiều cái tên khác: Blindr, vị thần mù, hoặc Hoarr, thần một mắt, và Baleyg, vị thần có con mắt rực lửa. Con mắt của Odin nằm lại trong giếng của Mimir, được bảo quản bởi dòng nước đã tưới tắm cho cây tần bì thế giới, không nhìn thấy gì mà lại thấy tất cả. Thời gian trôi qua. Khi chiến tranh giữa tộc Aesir và tộc Vanir sắp kết thúc và hai bên trao đổi chiến binh và tộc trưởng cho nhau, Odin đã cử Mimir đến tộc Vanir làm cố vấn cho Hoenir, một vị thần Aesir sẽ trở thành tộc trưởng mới của tộc Vanir. Hoenir rất cao và đẹp trai, với dáng dấp của một vị vua. Khi có Mimir cố vấn cho ngài, Hoenir cũng ăn nói như một vị vua và đưa ra các quyết định sáng suốt. Nhưng khi không có Mimir ở bên, dường như Hoenir không thể quyết định được điều gì, và các thần tộc Vanir nhanh chóng trở nên bực bội vì điều này. Họ liền trả thù, không phải với Hoenir mà là với Mimir: họ chặt đầu Mimir và gửi nó đến cho Odin. Odin không giận dữ. Ngài xoa các thứ thảo mộc lên đầu Mimir để nó không bị thối rữa, và ngài phù phép cho nó bằng những lời thần chú, bởi vì ngài không muốn tri thức của Mimir bị mất. Chẳng mấy chốc Mimir đã mở mắt và nói chuyện với ngài. Những lời khuyên của Mimir vẫn thông thái như trước kia. Odin đem cái đầu của Mimir trở về cái giếng bên dưới cây thế giới, và ngài đặt nó ở đó, bên cạnh con mắt của mình, trong làn nước chứa đầy tri thức của tương lai và quá khứ. Odin trao chiếc tù và Gjallerhorn cho Heimdall, người canh gác của các thần. Vào ngày mà Gjallerhorn được thổi, nó sẽ đánh thức mọi vị thần, dù họ đang ở đâu hay đang ngủ say đến mức nào. Heimdall sẽ chỉ thổi tù và Gjallerhom một lần duy nhất, vào tận thế Ragnarok. BÁU VẬT CỦA CÁC THẦN I Vợ của Thor là nữ thần Sif xinh đẹp. Nàng thuộc tộc Aesir. Thor yêu nàng vì bản thân nàng, vì cặp mắt xanh và làn da trắng của nàng, vì đôi môi đỏ và nụ cười của nàng, và chàng yêu cả mái tóc dài óng ả của nàng, mái tóc có màu như một cánh đồng lúa mạch vào cuối hạ. Thor thức giấc và nhìn chằm chằm nàng Sif đang ngủ. Chàng gãi chòm râu. Rồi chàng đưa một bàn tay to tướng ra khẽ lay vợ mình. “Chuyện gì đã xảy ra với nàng vậy?” chàng hỏi. Nàng mở cặp mắt xanh thẳm như bầu trời mùa hạ ra. “Chàng nói gì thế?” nàng hỏi, rồi nàng quay đầu và tỏ vẻ bối rối. Tay nàng đưa lên cái đầu trọc nhẵn hồng hồng của nàng, khẽ chạm vào nó, rụt rè cảm nhận nó. Nàng kinh hoàng nhìn Thor. “Tóc của em,” nàng chỉ nói được có vậy. Thor gật đầu. “Tóc của nàng đã biến mất,” chàng nói. “Hắn đã cạo trọc đầu nàng.” “Hắn ư?” Sif hỏi. Thor không nói gì. Chàng đeo chiếc thắt lưng sức mạnh Megingjord vào, nó sẽ làm sức lực khổng lồ của chàng tăng gấp đôi. “Loki,” chàng nói. “Loki đã gây ra chuyện này.” “Sao chàng lại nói vậy?” Sif nói, tay vẫn cuống cuồng sờ mó cái đầu trọc của mình, tựa hồ những ngón tay run rẩy của nàng có thể làm tóc mọc trở lại. “Bởi vì,” Thor đáp, “mỗi khi có chuyện gì không ổn thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là, đó là lỗi của Loki. Như thế đỡ tốn thời gian hơn.” Thor thấy cửa của Loki đã khóa, nên chàng đẩy tới, khiến cánh cửa vỡ vụn. Chàng xách Loki lên và chỉ hỏi một câu, “Tại sao?” “Tại sao cái gì cơ?” Mặt Loki có cái vẻ ngây thơ không chê vào đâu được. “Tóc của Sif. Mái tóc vàng của vợ ta. Mái tóc đẹp đến thế. Tại sao ngươi lại cạo nó đi?” Hàng trăm biểu cảm khác nhau đuổi nhau hiện lên trên mặt Loki: ranh mãnh và xảo quyệt, hung hăng và bối rối. Thor lắc mạnh Loki. Loki nhìn xuống và cố hết sức để tỏ ra hổ thẹn. “Vì tôi nghĩ như thế sẽ buồn cười. Tôi say mà.” Trán Thor nhăn lại. “Mái tóc của Sif là sự huy hoàng của nàng. Người ta sẽ nghĩ rằng đầu nàng đã bị cạo để trừng phạt nàng. Rằng nàng đã làm điều gì đó không phải hoặc làm gì đó với một kẻ không xứng đáng.” “À ừ. Đúng thế thật,” Loki nói. “Rất có thể họ sẽ nghĩ như vậy đấy. Và thật không may, vì tôi đã cạo sạch tóc nàng đến tận chân, nên nàng sẽ phải mang cái đầu trọc cho đến hết đời…” “Không đâu.” Thor ngước lên nhìn Loki, kẻ mà chàng đang giơ cao quá đầu, với vẻ mặt như dông bão. “Tôi e là vậy đấy. Nhưng có thể dùng mũ hoặc khăn che đi mà…” “Nàng sẽ không phải chịu cái đầu trọc đến hết đời,” Thor nói. “Bởi vì, Loki con trai của Laufey, nếu ngươi không trả lại tóc cho nàng ngay lập tức, ta sẽ bẻ gãy từng cái xương trong cơ thể ngươi. Từng cái một. Và nếu tóc nàng không mọc lại như cũ, ta sẽ quay lại và bẻ từng cái xương trong cơ thể ngươi một lần nữa. Và lần nữa. Nếu ngày nào ta cũng làm như vậy, chẳng mấy chốc ta sẽ rất thạo việc đó đấy,” chàng nói một hồi, giọng nghe vui vẻ hơn một chút. “Không!” Loki nói. “Tôi không thể trả lại tóc cho nàng được. Điều đó là không thể.” “Hôm nay,” Thor ngâm ngợi, “ta có thể sẽ mất khoảng một tiếng đồng hồ để bẻ hết mọi cái xương trong cơ thể ngươi. Nhưng ta cá là nếu được luyện tập, ta có thể bẻ xong trong vòng mười lăm phút. Thử tìm hiểu xem sao, chắc cũng thú vị đấy.” Chàng bắt đầu bẻ cái xương đầu tiên. “Người lùn!” Loki thét lên. “Gì cơ?” “Người lùn! Họ có thể làm được mọi thứ. Họ có thể làm một bộ tóc vàng cho Sif, một bộ tóc sẽ nối liền với da đầu nàng và mọc bình thường, một bộ tóc vàng hoàn hảo. Họ làm được đấy. Tôi thề là họ làm được.” “Vậy thì,” Thor nói, “tốt hơn hết là ngươi hãy đến nói chuyện với họ đi.” Và chàng thả Loki từ trên cao xuống sàn. Loki lồm cồm bò dậy và chạy vội đi trước khi Thor kịp bẻ thêm cái xương nào nữa. Y đi đôi giày có thể giúp y chu du trên trời, và y đến Svartalfheim, nơi có xưởng của các người lùn. Y xác định những người thợ khéo tay nhất trong đám người lùn chính là ba người con trai của Ivaldi. Loki đến lò rèn dưới lòng đất của họ. “Xin chào các con trai của Ivaldi. Ta đã hỏi thăm quanh đây, và mọi người ở đây đã nói với ta rằng hai anh em Brokk và Eitri là những thợ thủ công người lùn vĩ đại nhất mọi thời đại,” Loki nói. “Không đúng,” một người con trai của Ivaldi nói. “Là chúng tôi mới phải. Chúng tôi mới là những người thợ vĩ đại nhất.” “Người ta đảm bảo với ta rằng Brokk và Eitri có thể làm ra những báu vật không kém gì của các vị.” “Dối trá!” người cao nhất trong số các con trai của Ivaldi nói. “Tôi còn chẳng tin nổi mấy tên bất tài vụng về đó trong việc đóng móng ngựa.” Người nhỏ con nhất và thông thái nhất trong số các con trai của Ivaldi chỉ nhún vai. “Họ làm được gì thì chúng tôi cũng có thể làm tốt hơn.” “Ta nghe nói họ đã thách thức các vị,” Loki nói. “Ba báu vật. Các thần tộc Aesir sẽ đánh giá xem ai làm ra báu vật kỳ diệu nhất. À mà nhân tiện, một trong số ba báu vật mà các vị làm ra phải là một bộ tóc. Một bộ tóc vàng hoàn hảo có thể mọc được.” “Chúng tôi sẽ làm được.” một người con trai của Ivaldi nói. Ngay cả Loki cũng khó mà phân biệt họ với nhau. Loki đi sang bên kia núi, đến gặp người lùn có tên là Brokk, ở xưởng rèn nơi ông ta làm việc với người em trai là Eitri. “Các con trai của Ivaldi đang làm ba báu vật để dâng tặng các thần ở Asgard,” Loki nói. “Các thần sẽ đánh giá những báu vật đó. Các con trai của Ivaldi muốn ta nói với ông rằng họ dám chắc ông và em trai Eitri của ông sẽ không thể làm được những thứ kỳ diệu như của họ. Họ gọi hai anh em ông là ‘mấy tên bất tài vụng về’.” Brokk không ngốc chút nào. “Chuyện này nghe có vẻ mờ ám quá, Loki,” ông ta nói. “Ngài dám chắc đây không phải là mánh khóe của ngài đấy chứ? Gây chuyện giữa tôi và Eitri với các con trai của Ivaldi thì đúng là kiểu của ngài rồi.” Loki tỏ vẻ hết sức chân thật, và nhìn y quả là chân thật đến đáng kinh ngạc. “Chuyện này chẳng liên quan gì đến ta,” y nói vẻ ngây thơ. “Ta chỉ muốn báo cho các vị biết thôi.” “Và ngài không được gì trong chuyện này chứ?” Brokk hỏi. “Chẳng được gì cả.” Brokk gật đầu và ngước lên nhìn Loki. Em trai của Brokk, Eitri, là một người thợ vô cùng khéo tay, nhưng trong hai anh em thì Brokk thông minh và quyết tâm hơn. “Nếu vậy thì hai anh em tôi rất vui lòng thi tài với các con trai của Ivaldi, để các thần làm giám khảo. Bởi vì tôi tin chắc Eitri có thể rèn ra những vật tốt hơn và tinh xảo hơn mấy người con của Ivaldi. Nhưng hãy biến chuyện này thành chuyện cá nhân, Loki ạ. Được chứ?” “Ông có ý định gì?” Loki hỏi. “Cái đầu của ngài,” Brokk nói. “Nếu chúng tôi thắng cuộc, chúng tôi sẽ được cái đầu của ngài, Loki ạ. Trong đầu ngài có rất nhiều thứ diễn ra, và tôi dám chắc Eitri có thể biến nó thành một công cụ tuyệt vời. Một cái máy suy nghĩ chẳng hạn. Hoặc một cái nghiên mực.” Loki vẫn mỉm cười, nhưng trong thâm tâm thì cau có. Ngày hôm nay đã bắt đầu suôn sẻ đến thế kia mà. Nhưng thôi, y chỉ việc đảm bảo Brokk và Eitri thua cuộc; các thần sẽ vẫn nhận được sáu báu vật kỳ diệu từ những người lùn, và Sif sẽ có một bộ tóc vàng như trước. Y có thể làm được. Y là Loki kia mà. “Tất nhiên rồi,” y nói. “Cái đầu của ta không thành vấn đề.” Phía bên kia ngọn núi, các con trai của Ivaldi đang bắt tay vào làm các báu vật của họ. Loki không lo lắng gì về họ. Nhưng y cần đảm bảo Brook và Eitri không thể, không đời nào, thắng được. Brokk và Eitri đi vào lò rèn. Ở đó tối om, chỉ được thắp sáng bởi ánh lửa vàng rực của những cục than cháy bỏng. Eitri lấy một tấm da lợn từ trên giá xuống và đặt nó vào lò rèn. “Em đã để dành tấm da cho một dịp như thế này,” ông ta nói. Brokk chỉ gật đầu. “Được rồi,” Eitri nói. “Anh hãy kéo bễ đi, Brokk. Kéo liên tục vào. Em cần lò thật nóng, và em cần nó nóng liên tục, nếu không sẽ không có tác dụng. Kéo đi. Kéo đi.” Brokk bắt đầu kéo bễ, đưa một luồng khí đẫm ôxy vào trong lòng lò rèn, đốt cho tất cả nóng lên. Ông ta đã làm việc này rất nhiều lần rồi. Eitri quan sát cho tới khi đã hài lòng rằng tất cả sẽ theo đúng ý mình. Eitri ra ngoài lò rèn để bắt đầu tạo ra các báu vật. Khi ông ta mở cửa, một con bọ lớn màu đen bay vào. Nó không phải là ruồi trâu cũng không phải là ruồi hươu; nó to hơn cả hai loại đó. Nó bay vào và lượn một vòng quanh phòng vẻ hiểm ác. Brokk có thể nghe thấy tiếng búa của Eitri từ bên ngoài xưởng rèn vọng vào, cùng với tiếng giũa và tiếng vặn, tiếng uốn và tiếng gõ. Con ruồi đen to kia - nó là con ruồi to nhất, đen nhất các bạn từng thấy trên đời - đậu lên mu bàn tay Brokk. Cả hai tay Brokk đang đặt lên ống bễ. Ông ta không dừng tay lấy một chút để xua con ruồi đi. Con ruồi đốt cho Brokk một vết thật đau lên mu bàn tay. Brokk vẫn tiếp tục kéo bễ. Cửa mở ra và Eitri bước vào rồi cẩn thận lấy vật vừa làm ra khỏi lò rèn. Nó có hình dạng của một con lợn rừng khổng lồ, với những cọng lông vàng lấp lánh. “Tốt lắm,” Eitri nói. “Chỉ cần lửa nóng hơn hoặc lạnh hơn một phần nhỏ của một độ thôi thì tất cả sẽ thành công cốc hết.” “Em cũng làm tốt lắm,” Brokk nói. Con ruồi đen đang đậu trên một góc trần sồi máu lên vì tức tối và oán giận. Eitri lấy một cục vàng đặt vào lò rèn. “Được rồi,” ông ta nói. “Vật tiếp theo sẽ gây ấn tượng với các thần đây. Khi nào em gọi thì hãy bắt đầu kéo bễ, và cho dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa cũng đừng kéo chậm hơn, nhanh hơn hay dừng lại. Công việc này tỉ mỉ lắm.” “Hiểu rồi,” Brokk nói. Eitri ra ngoài và bắt đầu làm việc. Brokk đợi đến khi nghe thấy tiếng gọi của Eitri, và ông ta bắt đầu kéo bễ. Con ruồi đen bay vòng vòng quanh phòng vẻ băn khoăn, rồi đậu lên cổ Brokk. Nó yểu điệu bước sang bên để tránh một dòng mồ hôi đang chảy xuống, vì không khí trong lò rèn rất nóng và ngột ngạt. Nó lấy hết sức bình sinh đốt thật mạnh vào cổ Brokk. Một dòng máu đỏ thắm hòa vào lớp mồ hôi trên cổ Brokk, nhưng người lùn vẫn không ngừng kéo bễ. Eitri quay lại. Ông ta lấy một chiếc vòng tay nóng trắng từ trong lò ra. Ông ta thả nó vào cái bể làm nguội bằng đá ở bên lò để nó tắt lửa. Một luồng khói bốc lên khi chiếc vòng rơi xuống nước. Cái vòng nguội đi, nhanh chóng chuyển từ màu cam sang màu đỏ, rồi màu vàng, khi nó nguội hẳn. “Nó có tên là Draupnir,” Eitri nói. “Nhỏ giọt ấy à? Vòng tay mà có cái tên lạ quá,” Brokk nói. “Với cái này thì không,” Eitri nói và giải thích cho Brokk nghe tại sao chiếc vòng này lại đặc biệt. “Bây giờ,” Eitri nói, “có một thứ em đã có ý định làm từ rất lâu rồi. Tuyệt tác của em. Nhưng nó còn khó làm hơn cả hai thứ kia. Vì vậy anh cần phải…” “Kéo bễ liên tục và không được dừng lại?” Brokk hỏi. “Đúng thế,” Eitri nói. “Còn hơn cả lúc trước nữa. Không được thay đổi tốc độ, nếu không tất cả sẽ hỏng mất.” Eitri nhấc lên một thỏi gang, lớn hơn bất kỳ thỏi kim loại nào mà con ruồi đen (chính là Loki) từng thấy, và ông ta vần nó vào lò. Ông ta ra khỏi phòng và cất tiếng gọi ra hiệu cho Brokk bắt đầu kéo bễ. Brokk bắt đầu kéo bễ, và tiếng búa của Eitri vang lên trong khi Eitri kéo và gõ và hàn và nối. Loki, trong hình dáng của con ruồi, quyết định không còn thời gian để làm người tinh tế nữa. Tuyệt tác của Eitri chắc hẳn sẽ gây ấn tượng với các thần, và nếu các thần thích chúng thì y sẽ mất đầu. Loki đậu vào giữa hai mắt Brokk và đốt lên mí mắt ông ta. Ông ta vẫn tiếp tục kéo bễ, mặc cho hai mắt nhức nhối. Loki đốt sâu hơn, mạnh hơn, tuyệt vọng hơn. Máu tràn ra từ mí mắt người lùn, chảy vào mắt ông ta và chảy xuống mặt, khiến ông ta không nhìn thấy gì. Brokk nheo mắt và lắc đầu, cố xua con ruồi đi. Ông ta hất đầu sang bên. Ông ta chu miệng cố thổi bay con ruồi đi. Chẳng ích gì. Con ruồi tiếp tục đốt, và ông ta chẳng nhìn thấy gì ngoài máu. Đầu ông ta đau điếng. Brokk đếm, và đúng lúc ống bễ được kéo xuống, ông ta liền bỏ một tay ra khỏi ống bễ và đập con ruồi, nhanh và mạnh đến nỗi Loki suýt nữa đã không kịp thoát thân. Brokk lại chộp lấy ống bễ và tiếp tục kéo. “Đủ rồi!” Eitri gọi. Con ruồi lảo đảo bay quanh phòng. Eitri mở cửa ra, tạo cơ hội cho con ruồi bay thoát. Eitri nhìn anh trai mình vẻ thất vọng. Mặt Brokk bê bết máu và mồ hôi. “Em không biết ban nãy anh đang chơi trò gì nữa,” Eitri nói. “Nhưng suýt nữa thì anh đã làm hỏng hết cả. Nhiệt độ trong lò loạn cả lên vào lúc cuối. Vì vậy tác phẩm không được tuyệt diệu như em mong đợi. Chúng ta phải đợi xem sao thôi.” Loki, trong hình dạng thật của mình, thong dong tiến vào qua cánh cửa để mở. “Sẵn sàng cho cuộc thi rồi chứ?” y hỏi. “Brokk sẽ đến Asgard và dâng các món quà của tôi cho các thần rồi cắt đầu ngài,” Eitri nói. “Tôi thích ở lại lò rèn và làm việc hơn.” Brokk nhìn Loki qua hai mí mắt sưng vù. “Tôi rất nóng lòng được cắt đầu ngài,” Brokk nói. “Bây giờ thì là chuyện cá nhân rồi đấy.” II Ở Asgard, ba vị thần ngồi trên ngai: vị Cha tối cao Odin một mắt, thần sấm Thor râu đỏ, và thần Frey đẹp trai cai quản mùa vụ. Họ sẽ làm giám khảo. Loki đứng trước mặt họ, bên cạnh ba người con trai của Ivaldi nhìn gần giống hệt nhau. Brokk, với chòm râu đen và vẻ mặt lầm lì, đứng một mình ở bên cạnh, những vật ông ta đem tới được che kín dưới một tấm khăn. “Vậy,” Odin hỏi, “chúng ta sẽ đánh giá những gì đây?” “Các báu vật,” Loki đáp. “Các con trai của Ivaldi đã làm ra các món quà để dâng lên ngài, hỡi Odin vĩ đại, cùng Thor và Frey, và Brokk với Eitri cũng vậy. Các ngài hãy quyết định vật nào trong số sáu vật này là báu vật tuyệt vời nhất. Đích thân thần sẽ giới thiệu các báu vật do các con trai của Ivaldi làm.” Y dâng lên Odin ngọn giáo có tên là Gungnir. Đó là một ngọn giáo tuyệt đẹp, được chạm khắc những cổ tự phức tạp. “Nó có thể xuyên thủng mọi thứ, và khi ngài ném nó đi, nó sẽ luôn tìm được mục tiêu,” Loki nói. Dù sao thì Odin cũng chỉ có một mắt, và đôi khi tầm ngắm của ngài không chuẩn lắm. “Và, cũng quan trọng không kém, nếu ta lập lời thề trên ngọn giáo này thì lời thề sẽ không bao giờ có thể bị phá vỡ.” Odin nhấc ngọn giáo lên. “Nó rất đẹp,” ngài chỉ nói có vậy. “Còn đây,” Loki kiêu hãnh nói, “là một bộ tóc dài vàng óng. Được làm bằng vàng thật. Nó sẽ tự bám vào da đầu người cần nó và mọc như tóc thật. Một trăm ngàn sợi vàng.” “Ta sẽ thử xem sao,” Thor nói. “Sif, hãy lại đây.” Sif đứng lên và bước tới trước, đầu quấn khăn. Nàng bỏ tấm khăn ra. Các thần kêu lên khi thấy cái đầu của Sif, trọc nhẵn và đỏ hồng, rồi nàng cẩn thận đặt bộ tóc vàng của những người lùn lên đầu và lắc lắc mái tóc. Các thần trông thấy bộ tóc tự bám vào da đầu nàng, và Sif đứng thẳng trước mặt họ, còn rạng rỡ và xinh đẹp hơn trước. “Ấn tượng đấy,” Thor nói. “Tốt lắm!” Sif hất mái tóc vàng và bước ra khỏi đại sảnh, ra ngoài ánh nắng, để khoe bộ tóc mới với các bạn của mình. Món quà kỳ diệu cuối cùng do các con trai của Ivaldi làm rất nhỏ và gấp lại như một tấm vải. Loki đặt tấm vải này trước mặt Frey. “Cái gì thế? Nhìn như một cái khăn quàng bằng lụa ấy,” Frey hỏi vẻ khinh thường. “Đúng thế,” Loki đáp. “Nhưng khi giở nó ra, ngài sẽ thấy nó là một con thuyền, có tên là Skidbladnir. Nó sẽ luôn nhận được làn gió thuận, dù nó đi đâu chăng nữa. Và mặc dù nó rất lớn, con thuyền lớn nhất mà ngài tưởng tượng ra được, nó lại có thể gấp vào, như ngài thấy đây, thành một tấm vải, để ngài cho vào túi.” Frey rất thích thú, và Loki nhẹ nhõm cả người. Đó quả là ba món quà tuyệt hảo. Giờ thì đến lượt Brokk. Mí mắt ông ta đỏ bầm và sưng húp, còn bên cổ ông ta là một vết côn trùng đốt to tướng. Loki nghĩ Brokk có vẻ vênh váo quá mức, nhất là sau khi xem những vật kỳ diệu mà các con trai của Ivaldi đã làm. Brokk lấy ra chiếc vòng tay bằng vàng và đặt nó trước mặt Odin đang ngồi ở ngai vàng trên cao. “Chiếc vòng này có tên là Draupnir,” Brokk nói. “Bởi vì cứ mỗi đêm thứ chín, tám chiếc vòng đẹp không kém sẽ nhỏ ra từ nó. Ngài có thể dùng chúng để tặng thưởng cho các thần, hoặc cất chúng đi để tăng của cải cho mình.” Odin ngắm nghía chiếc vòng rồi đeo nó vào, cao trên bắp tay. Chiếc vòng tỏa ánh lấp lánh. “Nó rất đẹp,” ngài nói. Loki nhớ là Odin cũng đã nói hệt như vậy về ngọn giáo. Brokk đến trước mặt Frey. Ông ta giở một tấm khăn ra, để lộ ra một con lợn rừng khổng lồ có bộ lông làm bằng vàng. “Đây là con lợn rừng mà em trai tôi đã làm cho ngài, để kéo cỗ xe của ngài,” Brokk nói. “Nó có thể lao qua bầu trời và băng qua biển, nhanh hơn cả con ngựa nhanh nhất. Không có đêm đen tối tăm nào mà bộ lông vàng của nó không thể soi sáng và giúp ngài nhìn rõ đường đi. Nó sẽ không bao giờ mệt, và không bao giờ làm ngài thất vọng. Nó có tên là Gullenbursti, con vật lông vàng.” Frey có vẻ rất ấn tượng. Nhưng, Loki thầm nghĩ, con thuyền thần kỳ có thể gập lại được như một tấm vải cũng tuyệt diệu không kém gì một con lợn rừng bất khả chiến bại có thể tỏa sáng trong bóng tối. Cái đầu của Loki vẫn còn an toàn. Và món quà cuối cùng Brokk sắp dâng lên chính là vật mà Loki biết đã bị mình làm hỏng. Từ bên dưới tấm vải Brokk lấy ra một cái búa và đặt nó trước mặt Thor. Thor nhìn nó và khịt mũi. “Cán búa ngắn quá,” chàng nói. Brokk gật đầu. “Đúng vậy,” ông ta nói. “Đó là lỗi của tôi. Tôi là người kéo bễ. Nhưng trước khi ngài chê bai nó, xin cho phép tôi được kể ra những điểm đặc biệt của chiếc búa này. Nó có tên là Mjollnir, tức là lưỡi tầm sét. Trước hết, nó không thể bị phá hủy - dù ngài có đập nó mạnh đến đâu, chiếc búa sẽ vẫn nguyên vẹn.” Thor tỏ vẻ quan tâm hơn. Chàng đã làm hỏng rất nhiều vũ khí trong nhiều năm qua, chủ yếu là trong khi dùng chúng đập vào các thứ. “Nếu ngài ném cái búa đi, nó sẽ không bao giờ bay trật mục tiêu.” Thor tỏ ra chăm chú hơn nữa. Chàng đã đánh mất nhiều vũ khí tuyệt hảo vì ném chúng vào những thứ khiến chàng ngứa mắt và ném trượt, và chàng đã phải nhìn nhiều món vũ khí mình ném biến mất ở đằng xa, không bao giờ quay lại nữa. “Dù ngài có ném nó mạnh đến đâu hay xa đến đâu, nó sẽ luôn quay trở về với tay ngài.” Bây giờ Thor thậm chí còn mỉm cười. Và vị thần sấm này thì chẳng mấy khi mỉm cười. “Ngài có thể thay đổi kích cỡ của chiếc búa. Nó có thể lớn lên, và nó cũng có thể thu nhỏ lại đến mức nếu muốn ngài cất vào trong áo cũng được.” Thor vỗ tay thích thú, và tiếng sấm ầm ầm vang vọng khắp Asgard. “Nhưng đúng là như ngài đã nhận thấy,” Brokk buồn bã nói tiếp, “cán của chiếc búa quả là ngắn quá. Đó là lỗi của tôi. Tôi đã không giữ ống bễ thổi đủ nóng trong lúc em trai tôi, Eitri, đang rèn búa.” “Cái cán ngắn chỉ là một vấn đề thẩm mỹ nhỏ nhặt thôi,” Thor nói. “Chiếc búa này sẽ bảo vệ chúng ta khỏi bọn khổng lồ băng. Đây quả là món quà tuyệt vời nhất ta từng thấy.” “Nó sẽ bảo vệ Asgard. Nó sẽ bảo vệ tất cả chúng ta,” Odin nói vẻ tán thưởng. “Nếu tôi là người khổng lồ, tôi sẽ rất sợ Thor khi anh ấy có chiếc búa này,” Frey nói. “Vâng. Chiếc búa quả là tuyệt hảo. Nhưng Thor, còn mái tóc thì sao? Mái tóc mới vàng óng tuyệt đẹp của Sif!” Loki hỏi, thoáng vẻ tuyệt vọng. “Gì cơ? À phải. Vợ ta có mái tóc rất đẹp,” Thor nói. “Giờ thì chỉ cho ta cách làm chiếc búa to lên và nhỏ lại như thế nào đi, Brokk.” “Chiếc búa của Thor còn hay hơn cả ngọn giáo kỳ diệu và chiếc vòng tay tuyệt vời của ta,” Odin gật gù nói. “Chiếc búa này vĩ đại hơn và thần kỳ hơn cả con tàu và con lợn rừng của ta,” Frey thừa nhận. “Nó sẽ bảo vệ được các thần ở Asgard.” Các thần vỗ lưng Brokk và nói rằng ông ta và Eitri đã làm ra món quà tuyệt hảo nhất họ từng được tặng. “Thật tốt khi được biết điều đó,” Brokk nói. Ông ta quay sang Loki. “Vậy đấy,” Brokk nói. “Tôi sẽ được cắt đầu ngài và đem nó về, con trai của Lautey ạ. Eitri sẽ rất vui. Chúng tôi sẽ biến nó thành một vật hữu dụng.” “Ta… sẽ chuộc lại cái đầu của ta,” Loki nói. “Ta có nhiều vật báu có thể đổi cho ông.” “Eitri và tôi đã có đủ các báu vật chúng tôi cần rồi,” Brokk nói. “Chúng tôi làm ra báu vật kia mà. Không, Loki. Tôi muốn cái đầu của ngài.” Loki ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, “Vậy thì ông cứ việc cắt đầu ta. Nếu ông bắt được ta.” Nói rồi Loki nhảy vọt lên không trung và chạy biến đi, cao tít trên đầu tất cả. Chỉ trong thoáng chốc y đã biến mất. Brokk nhìn Thor. “Ngài có bắt được ngài ấy không?” Thor nhún vai. “Thật ra ta không nên,” chàng nói. “Nhưng ta cũng rất muốn thử chiếc búa xem sao.” Chỉ lát sau Thor đã trở lại, tay túm chặt Loki. Loki trừng mắt trong cơn giận dữ bất lực. Người lùn Brokk lấy con dao ra. “Lại đây, Loki,” ông ta nói. “Tôi sẽ cắt đầu ngài.” “Tất nhiên rồi,” Loki nói. “Tất nhiên là ông có thể cắt đầu ta. Nhưng - và ta xin cầu với thần Odin vĩ đại đang ngồi đây - nếu ông cắt mất một chút xíu nào của cổ ta thì ông sẽ vi phạm điều khoản trong thỏa thuận của chúng ta, vì ta hứa cho ông cái đầu và chỉ mình cái đầu của ta mà thôi.” Odin nghiêng đầu. “Loki nói đúng,” ngài nói. “Ngươi không có quyền cắt cổ hắn.” Brokk rất bực bội. “Nhưng tôi không thể cắt đầu ngài ấy mà không cắt cả cổ,” ông ta nói. Loki tỏ vẻ hết sức tự đắc. “Ông thấy đấy,” y nói, “nếu người ta chịu nghĩ cho kỹ độ chính xác của từng lời họ nói, thì họ sẽ không dám đối đầu với Loki, người thông thái nhất, ranh mãnh nhất, xảo quyệt nhất, khôn ngoan nhất, đẹp trai nhất…” Brokk thì thầm hỏi Odin điều gì đó. “Như vậy cũng công bằng” Odin đồng ý. Brokk lấy ra một miếng da và một con dao. Ông ta quấn miếng da quanh miệng Loki. Brokk cố dùng mũi dao đục lỗ trên miếng da. “Không có tác dụng,” Brokk nói. “Con dao của tôi không cắt được vào ngài.” “Có thể ta đã khôn khéo sửa soạn trước để được bảo vệ khỏi các lưỡi dao,” Loki khiêm tốn nói. “Phòng khi cái trò không-được-cắt-cổ-ta không có tác dụng. Ta e là không có lưỡi dao nào chạm được vào ta cả!” Brokk gầm ghè rồi lấy ra một cái dùi, một vật nhọn dùng trong chế tác đồ da, và ông ta đâm nó qua miếng da, đục lỗ quanh môi Loki. Rồi ông ta lấy một sợi chỉ chắc và khâu môi Loki lại với nhau. Brokk bỏ đi, để lại Loki với cái miệng bị khâu kín mít,, không kêu ca gì được. Với Loki, nỗi đau của việc không nói được còn lớn hơn cả nỗi đau khi bị khâu miệng vào tấm da. Vậy là giờ các bạn đã biết rồi đấy: các thần đã nhận được các báu vật kỳ diệu nhất như vậy. Đó là lỗi của Loki. Ngay cả chiếc búa của Thor cũng là lỗi của Loki. Loki là vậy. Ta oán ghét y ngay cả khi ta biết ơn y nhất, và ta vẫn biết ơn y ngay cả khi ta ghét y nhất. NGƯỜI THỢ XÂY TÀI BA Thor đã đi về phía Đông để đánh nhau với quỷ đá. Asgard yên bình hơn khi không có chàng, nhưng đồng thời lại không được an toàn. Đây là những ngày đầu, sau hòa ước giữa tộc Aesir và tộc Vanir, khi các thần vẫn còn đang xây dựng mái nhà cho mình và Asgard vẫn chưa được bảo vệ. “Chúng ta không thể lúc nào cũng dựa vào Thor được,” Odin nói. “Chúng ta cần được bảo vệ. Bọn khổng lồ sẽ tới. Bọn quỷ đá sẽ tới.” “Ngài có ý kiến gì?” Heimdall, người canh gác của các thần, hỏi. “Một bức tường,” Odin nói. “Đủ cao để ngăn bọn khổng lồ băng. Đủ dày để cả tên quỷ đá khỏe nhất cũng không thể xuyên qua nổi.” “Xây một bức tường như vậy,” Loki nói, “cao và dày như vậy, sẽ mất rất nhiều năm.” Odin gật đầu đồng tình. “Nhưng dù thế,” ngài nói, “chúng ta vẫn cần một bức tường.” Ngày hôm sau một người lạ xuất hiện ở Asgard. Hắn rất to cao, ăn mặc như một thợ rèn, và theo sau hắn là một con ngựa - một con tuấn mã khổng lồ lông xám, có cái lưng rộng. “Tôi nghe nói các vị cần xây một bức tường,” người lạ mặt nói. “Nói tiếp đi,” Odin nói. “Tôi có thể xây tường cho các vị,” người lạ mặt nói. “Xây cao đến nỗi tên khổng lồ cao nhất cũng không thể trèo qua, và dày đến nỗi tên quỷ đá khỏe nhất cũng không thể xuyên qua. Tôi có thể xây một bức tường chắc chắn bằng cách đặt các viên đá chồng lên nhau, đến nỗi một con kiến cũng không bò qua nổi. Tôi sẽ xây cho các vị một bức tường có thể tồn tại đến hàng ngàn ngàn năm.” “Xây một bức tường như vậy sẽ mất nhiều thời gian lắm,” Loki nói. “Không hề,” người lạ mặt đáp. “Tôi sẽ xây xong trong vòng ba mùa. Ngày mai là ngày đầu tiên của mùa đông. Tôi sẽ chỉ mất một mùa đông, một mùa hè rồi một mùa đông nữa để xây xong nó.” “Và nếu ngươi làm được việc này,” Odin nói, “đổi lại thì ngươi sẽ đòi điều gì?” “Những gì các vị bỏ ra để trả công cho tôi rất vặt vãnh so với điều tôi đem lại cho các vị,” người kia nói. “Chỉ ba điều thôi. Trước hết, tôi muốn được cưới nữ thần Freya xinh đẹp.” “Điều đó đâu có vặt vãnh,” Odin nói. “Và ta sẽ không ngạc nhiên nếu Freya có ý kiến riêng về việc này. Hai điều kia là gì?” Người lạ mặt nở một nụ cười kiêu ngạo. “Nếu tôi xây được bức tường cho các vị” hắn nói, “tôi muốn cưới Freya, và tôi còn muốn có mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng chiếu sáng ban đêm. Đây là ba thứ mà các thần sẽ trao cho tôi nếu tôi xây tường cho các vị.” Các thần nhìn Freya. Nàng không nói gì, nhưng môi nàng mím chặt và mặt nàng tái mét vì giận dữ. Quanh cổ nàng là chiếc vòng của tộc Brising, tỏa sáng như bắc cực quang khi nó cọ vào da nàng, còn tóc nàng được quấn bằng những dải vàng cũng sáng óng gần bằng chính mái tóc của nàng. “Hãy ra ngoài đợi,” Odin ra lệnh cho người lạ mặt. Hắn đi ra, nhưng còn hỏi xin thức ăn và nước uống cho con ngựa của mình, nó có tên là Svadilfari, có nghĩa là “kẻ lữ hành xui xẻo”. Odin day day trán. Rồi ngài quay sang nhìn các thần. “Thế nào?” Odin hỏi. Các thần lập tức xôn xao. “Trật tự!” Odin quát. “Từng người một!” Vị nam thần và nữ thần nào cũng có ý kiến, và tất cả ý kiến của họ đều như nhau: Freya, mặt trời và mặt trăng đều quá quan trọng và quá giá trị để có thể trao cho một kẻ lạ mặt, cho dù hắn có thể xây cho họ bức tường họ cần trong vòng ba mùa. Freya còn có một ý kiến bổ sung nữa. Nàng nghĩ rằng người kia đáng bị đánh đòn vì tội hỗn láo rồi đem tống khứ khỏi Asgard. “Vậy là,” Odin vị Cha tối cao nói, “chúng ta đã quyết định. Chúng ta sẽ từ chối.” Có một tiếng ho khan vang lên từ góc đại sảnh. Đó là tiếng ho hòng làm người khác chú ý, và các thần quay lại xem ai vừa ho. Đó chính là Loki, đang mỉm cười nhìn lại các thần với một ngón tay giơ lên, như thể y có điều rất quan trọng muốn tiết lộ. “Tôi thấy cần phải chỉ ra rằng,” y nói, “các vị đang bỏ qua một điều rất lớn.” “Ta không nghĩ rằng chúng ta đã bỏ qua bất kỳ điều gì đâu, thần hay gây chuyện kia,” Freya đanh đá nói. “Các vị đã quên mất rằng,” y nói, “điều mà người lạ mặt này nói có thể làm được, phải xin nói thẳng, là hoàn toàn không thể. Không ai trên đời có thể xây một bức tường cao và dày như hắn miêu tả chỉ trong vòng mười tám tháng. Không người khổng lồ hay vị thần nào có thể làm được điều đó, chứ đừng nói gì đến người trần tục. Tôi sẵn sàng đem tính mạng mình ra cược đấy.” Nghe vậy các thần đều gật gù và ậm ừ với vẻ chú ý. Tất cả ngoại trừ Freya, nàng tỏ vẻ hết sức tức tối. “Các vị là lũ ngốc,” nàng nói. “Nhất là ngươi, Loki, vì ngươi nghĩ mình thông minh.” “Việc hắn nói hắn có thể làm,” Loki nói, “là một việc bất khả. Vì vậy tôi đề nghị điều này: chúng ta đồng ý với yêu cầu và cái giá hắn đưa ra, nhưng chúng ta phải đưa ra những điều kiện thật ngặt nghèo - hắn không được trợ giúp gì khi xây tường, và thay vì ba mùa thì hắn chỉ được xây trong vòng một mùa thôi. Nếu trong ngày đầu tiên của mùa hè mà bức tường vẫn chưa xong - và chắc chắn là nó không thể xong được - thì chúng ta sẽ không trả gì cho hắn hết.” “Việc gì hắn phải đồng ý với những điều kiện đó?” Heimdall hỏi. “Vậy chúng ta sẽ được lợi gì khi cuối cùng cũng không có được một bức tường?” Frey, anh trai của Freya, hỏi. Loki cố nén sự sốt ruột. Các thần là một lũ ngốc cả hay sao? Y bắt đầu giải thích, như giải thích cho một đứa trẻ. “Tên thợ sẽ bắt đầu xây tường. Hắn sẽ không hoàn thành. Hắn sẽ quần quật trong vòng sáu tháng, không được trả công, để làm việc của một kẻ ngốc. Đến hết sáu tháng đó chúng ta sẽ đuổi hắn đi - thậm chí chúng ta còn có thể cho hắn một trận vì tội ngạo mạn nữa - và rồi chúng ta có thể dùng những gì hắn đã làm để làm nền móng cho bức tường mà chúng ta sẽ tự hoàn thành trong những năm tới. Chúng ta sẽ không sợ bị mất Freya, chứ đừng nói gì đến mặt trời hay mặt trăng.” “Tại sao hắn lại đồng ý với việc xây xong tường chỉ trong một mùa?” Tyr, thần chiến tranh, hỏi. “Có thể hắn sẽ không đồng ý,” Loki nói. “Nhưng hắn có vẻ kiêu căng và tự đắc, không phải loại sẽ từ chối một thử thách đâu.” Các thần liền ậm ừ, và vỗ lưng Loki, nói rằng y quả là một kẻ láu cá và thật tốt là y láu cá nhưng lại cùng phe với họ, và giờ họ sẽ có móng tường mà không tốn gì, rồi họ tự chúc mừng nhau vì trí thông minh và tài mặc cả của mình. Freya không nói gì. Nàng mân mê chiếc vòng cổ ánh sáng của mình, món quà của tộc Brising. Cũng chính chiếc vòng này đã bị Loki, giả dạng một con hải cẩu, ăn cắp mất trong lúc nàng đang tắm, và Heimdall cũng đã phải biến thành hải cẩu để đánh nhau với Loki giành nó về cho nàng. Nàng không tin Loki. Nàng không thích kết quả của cuộc trò chuyện này chút nào. Các thần gọi người thợ xây vào đại sảnh. Hắn nhìn các thần. Họ đều rất vui vẻ, mỉm cười và khẽ huých nhau. Tuy nhiên, Freya thì lại không cười. “Thế nào?” người thợ xây hỏi. “Ngươi đòi thời hạn ba mùa,” Loki nói. “Chúng ta sẽ chỉ cho ngươi thời hạn một mùa, duy nhất một mùa mà thôi. Ngày mai là ngày đầu tiên của mùa đông. Nếu đến ngày đầu tiên của mùa hè mà ngươi chưa xây xong bức tường thì ngươi sẽ phải rời khỏi đây mà không được trả công. Nhưng nếu ngươi đã xây xong bức tường, cao, dày và chắc chắn đúng như chúng ta đã thỏa thuận, thì ngươi sẽ nhận được tất cả những thứ ngươi yêu cầu: mặt trăng, mặt trời và nàng Freya xinh đẹp. Ngươi sẽ không được nhờ ai giúp đỡ khi xây tường; ngươi phải xây nó một mình.” Người lạ mặt không nói gì hồi lâu. Hắn nhìn ra xa như đang cân nhắc những lời nói và điều kiện của Loki. Rồi hắn nhìn các thần và nhún vai. “Các vị nói tôi không được ai giúp đỡ. Tôi muốn con ngựa của tôi, Svadiltari, giúp tôi kéo đá về đây để xây tường. Tôi tin rằng đây không phải là một yêu cầu quá đáng.” “Đúng là không quá đáng,” Odin đồng tình, và các thần khác cũng gật đầu và nói với nhau rằng dùng ngựa để kéo đá nặng là rất chuẩn. Họ liền cùng thề nguyện, lời thề trang nghiêm nhất, giữa các thần và người lạ mặt, để hai bên không thể bội tín. Họ đem vũ khí của mình ra thề, và họ thề trên Draupnir, chiếc vòng tay bằng vàng của Odin, và họ thề trên Gungnir, ngọn giáo của Odin, một lời thề trên Gungnir sẽ không thể bị phá bỏ. Sáng hôm sau, khi mặt trời lên, các thần ra xem người thợ xây làm việc. Hắn nhổ lên lòng bàn tay và bắt đầu đào móng để đặt những viên đá đầu tiên. “Hắn đào sâu thật,” Heimdall nói. “Hắn đào nhanh thật,” Frey, anh trai của Freya, nói. “Ờ, phải rồi, tất nhiên là hắn đào móng đại tài,” Loki miễn cưỡng nói. “Nhưng thử tưởng tượng xem hắn sẽ phải kéo bao nhiêu tảng đá từ núi về đây. Đào móng là một chuyện. Kéo đá suốt bao nhiêu dặm đường mà không được ai giúp đỡ, rồi đặt chúng lên, từng viên một, chắc chắn đến nỗi một con kiến cũng không chui lọt, cao hơn cả tên khổng lồ cao nhất, để xây thành một bức tường, đó lại là chuyện khác hẳn.” Freya nhìn Loki vẻ phẫn nộ, nhưng nàng không nói gì. Khi mặt trời lặn, người thợ lên lưng ngựa và đi về phía rặng núi để kéo những tảng đá đầu tiên. Con ngựa kéo theo một cỗ xe rỗng không để chứa đá, một cỗ xe thấp mà nó kéo đi trên nền đất mềm. Các thần nhìn họ ra đi. Mặt trăng mọc cao và tỏa ánh sáng nhàn nhạt hên nền trời đầu đông. “Phải một tuần nữa hắn mới quay về,” Loki nói. “Tôi tò mò muốn biết con ngựa ấy kéo được bao nhiêu đá. Nhìn nó có vẻ khỏe đấy.” Các thần quay về đại sảnh dự tiệc và cười đùa hết sức vui vẻ, nhưng Freya không cười. Trước lúc bình minh trời đổ tuyết, một lớp tuyết mỏng nhẹ, báo trước những đợt tuyết dày sẽ đến sau trong mùa đông. Heimdall, người thấy được mọi thứ đang tới gần Asgard và không bao giờ bỏ sót điều gì, đánh thức các thần trong bóng tối. Họ họp mặt bên cái móng mà người lạ mặt đã đào ngày hôm trước. Trong ánh bình minh đang rạng họ thấy người thợ xây, đi bên cạnh con ngựa, đang tiến về phía họ. Con ngựa đang đều đặn kéo một đống đá hoa cương lớn, nặng đến nỗi cỗ xe để lại những vết lún sâu trên nền đất đen. Khi người kia nhìn thấy các thần, hắn đưa tay lên vẫy và vui vẻ cất lời chào buổi sáng. Hắn chỉ vào mặt trời đang mọc và nháy mắt với các thần. Rồi hắn tháo ngựa ra khỏi đống đá và cho nó gặm cỏ trong lúc hắn bắt đầu vác tảng đá đầu tiên tới chỗ cái móng hắn đã đào sẵn để đặt đá vào. “Con ngựa đó khỏe thật,” Balder, người đẹp nhất trong số các thần Aesir, nói. “Không con ngựa thường nào có thể kéo những tảng đá nặng như vậy.” “Nó khỏe hơn chúng ta tưởng tượng,” Kvasir thông thái nói. “À,” Loki đáp. “Con ngựa sẽ sớm kiệt sức thôi. Hôm nay mới là ngày làm việc đầu tiên của nó. Nó sẽ không thể kéo nhiều tảng đá như vậy hằng đêm được. Và mùa đông đang đến. Tuyết sẽ rơi rất dày và sâu, bão tuyết sẽ bao phủ tất cả, và đường lên núi sẽ rất khó. Không có gì phải lo cả. Tất cả vẫn đang diễn ra theo đúng kế hoạch.” “Ta ghét ngươi quá thể,” Freya nói, nàng đang đứng bên cạnh Loki, mặt lầm lầm. Nàng quay về Asgard và không ở lại để quan sát người lạ mặt xây móng cho bức tường. Mỗi đêm người thợ xây và con ngựa cùng cỗ xe trống không lại đi lên núi. Mỗi sáng họ lại quay về, con ngựa kéo theo hai mươi tảng đá hoa cương, mỗi tảng đều to hơn người cao lớn nhất. Mỗi ngày trôi qua bức tường lại cao lên thêm, và mỗi tối nó lại lớn hơn và bề thế hơn trước đó. Odin gọi các thần tới chầu. “Bức tường đang cao lên rất nhanh,” ngài nói. “Và chúng ta đã thề một lời thề không thể bị phá vỡ, lời thề trên chiếc vòng và trên vũ khí, rằng nếu hắn xây xong bức tường đúng thời hạn, chúng ta sẽ cho hắn mặt trời, mặt trăng, và cho Freya xinh đẹp làm vợ hắn.” Kvasir thông thái nói, “Không người thường nào có thể làm được điều mà người thợ xây tài tình này đang làm. Thần ngờ rằng hắn không phải người thường.” “Một tên khổng lồ,” Odin nói. “Có lẽ vậy.” “Giá mà Thor ở đây,” Balder thở dài. “Thor đang bận đập lũ quỷ đá ở phía Đông,” Odin nói. “Mà dù Thor có quay về thì lời thề của chúng ta vẫn hết sức trang nghiêm và không thể bị phản bội.” Loki cố trấn an họ. “Chúng ta đang như mấy bà già lo cuống lên chẳng vì cái gì cả. Tên thợ kia không thể xây xong bức tường vào ngày đầu mùa hè được, cho dù hắn có là tên khổng lồ hùng mạnh nhất thế gian đi chăng nữa. Điều đó là không thể.” “Tôi ước Thor đang ở đây,” Heimdall nói. “Anh ấy sẽ biết phải làm gì.” Tuyết rơi, nhưng lớp tuyết dày không ngăn được người thợ xây tường và cũng không làm chậm bước con ngựa Svadilfari của hắn. Con ngựa xám kéo chiếc xe chất đầy đá qua những đụn tuyết, qua các trận bão tuyết, lên những đỉnh đồi dốc rồi lại xuống những thung lũng băng giá. Ngày đang bắt đầu dài dần. Mỗi sáng bình minh lại hé rạng sớm hơn. Tuyết bắt đầu tan, và lớp bùn ướt lộ ra đặc quánh, thứ bùn thường dính chặt vào giày ta, làm ta không cất bước nổi. “Con ngựa sẽ không thể kéo đá đi qua lớp bùn này được,” Loki nói. “Đá sẽ trĩu xuống, và nó sẽ bị trượt chân.” Nhưng Svadiltari vẫn bước đều đặn, chắc chắn, dù là qua lớp bùn dày nhất, ướt nhất, và nó tiếp tục kéo đá về Asgard, mặc dù cỗ xe nặng đến nỗi nó để lại những cái rãnh sâu hoắm bên sườn đồi. Giờ người thợ xây đang kéo đá lên cao cả trăm mét rồi tự tay bê từng viên đá vào đúng chỗ. Bùn khô dần và hoa mùa xuân bắt đầu nở vô số hoa vi hoàng màu vàng và hoa cỏ chân ngỗng trắng - còn bức tường bao quanh Asgard đã trở thành một công trình vĩ đại, oai nghiêm. Khi được xây xong nó sẽ là một bức tường vô cùng vững chắc: không người khổng lồ, không quỷ đá, không người lùn, không người trần nào có thể xuyên thủng được bức tường ấy. Và người lạ mặt vẫn tiếp tục xây tường một cách vui vẻ không gì lay chuyển nổi. Dường như hắn không thèm bận tâm đến trời mưa hay tuyết, và con ngựa của hắn cũng vậy. Sáng sáng hai thầy trò kéo đá từ trên núi về, và ngày ngày người thợ xây lại đặt những tảng đá hoa cương lên lớp đá trước. Giờ đã là ngày cuối cùng của mùa đông, và bức tường đã gần hoàn thành. Các thần ngồi trên ngai báu ở Asgard, và họ bàn bạc. “Mặt trời,” Balder nói. “Chúng ta đã cho đi mặt trời.” “Chúng ta đặt mặt trăng trên bầu trời để đánh dấu từng ngày và từng tuần trong năm” Bragi, thần thơ ca, rầu rĩ nói. “Giờ sẽ không còn mặt trăng nữa.” “Và Freya, chúng ta sẽ làm gì khi thiếu Freya đây?” Tyr hỏi. “Nếu tên thợ xây này đúng là người khổng lồ,” Freya nói, giọng băng giá, “thì tôi sẽ cưới hắn và theo hắn về Jotunheim, để rồi xem tôi ghét ai hơn, ghét hắn vì đã đem tôi đi hay ghét các vị vì đã trao tôi cho hắn, sẽ thú vị lắm đấy.” “Kìa, đừng thế chứ,” Loki mở miệng, nhưng Freya ngắt lời y và nói, “Nếu tên khổng lồ này đưa tôi đi thật, cùng với mặt trời và mặt trăng, thì tôi chỉ xin các thần Asgard một điều mà thôi.” “Freya nói đi,” Odin Cha tối cao nói, từ nãy đến giờ ngài chưa hề lên tiếng. “Tôi muốn thấy kẻ gây ra tai họa này bị giết trước khi tôi ra đi,” Freya nói. “Tôi nghĩ như vậy mới là công bằng. Nếu tôi phải đến sống ở vùng đất của người khổng lồ băng, nếu mặt trăng và mặt trời bị ngắt xuống khỏi bầu trời và thế giới phải chìm trong bóng tối, thì mạng sống của kẻ đã dẫn chúng ta đến tình cảnh này phải bị tước đi.” “À,” Loki nói. “Việc chia tội lỗi quả là khó khăn. Ai mà nhớ được chính xác người nào đã gợi ý điều gì? Theo tôi nhớ thì các thần đều có lỗi như nhau trong sai lầm không may này. Chúng ta đều gợi ý như vậy, chúng ta đều đồng tình với nó…” “Chính ngươi đã gợi ý điều này,” Freya nói. “Ngươi đã thuyết phục lũ ngốc này nghe theo. Và ta sẽ chứng kiến cái chết của ngươi trước khi ta rời Asgard.” “Chúng ta đều…” Loki mở lời, nhưng y nhìn thấy vẻ mặt các thần trong đại sảnh, và y liền im bặt. “Loki con trai của Lautey,” Odin nói, “đây là kết quả từ lời khuyên sai trái của ngươi.” “Và nó cũng tồi tệ không kém gì các lời khuyên khác của ngươi,” Balder nói. Loki ném cho chàng một cái nhìn tức tối. “Chúng ta cần tên thợ xây này thua cuộc,” Odin nói. “Mà không phá bỏ lời thề. Hắn phải thất bại.” “Tôi không biết các vị muốn tôi làm gì,” Loki nói. “Ta không muốn ngươi làm gì hết,” Odin nói. “Nhưng nếu tên thợ xây này hoàn thành bức tường vào cuối ngày mai, thì cái chết của ngươi sẽ kéo dài, đau đớn, và hơn nữa, nó sẽ là một cái chết tồi tệ và đáng xấu hổ.” Loki nhìn từ vị thần này sang vị thần khác, và trên mỗi khuôn mặt y đều thấy cái chết của mình, đều thấy vẻ tức tối và oán giận. Y không thấy ai tỏ ra khoan dung hay lượng thứ cả. Đó thật sự sẽ là một cái chết tồi tệ. Nhưng y còn lựa chọn nào khác? Y có thể làm gì? Y không dám tấn công người thợ xây. Nhưng ngược lại… Loki gật đầu. “Để đó tôi lo.” Y ra khỏi đại sảnh, và không vị thần nào tìm cách ngăn y lại cả. Người thợ xây đã xếp xong đống đá lên bức tường. Ngày mai, ngày đầu tiên của mùa hè, khi mặt trời lặn, hắn sẽ hoàn thành bức tường và rời Asgard cùng với phần thưởng của mình. Chỉ còn hai mươi tảng đá hoa cương nữa thôi. Hắn trèo xuống từ giàn giáo bằng gỗ thô và huýt sáo gọi con ngựa. Svadilfari đang gặm cỏ như mọi khi ở bãi cỏ dày bên bìa rừng, cách bức tường gần nửa dặm, nhưng nó lúc nào cũng chạy đến khi nghe chủ huýt sáo. Người thợ xây cầm những sợi thừng buộc cỗ xe lên và bắt đầu buộc nó vào con ngựa lớn màu xám của mình. Mặt trời đã xuống thấp, nhưng còn vài tiếng đồng hồ nữa mới lặn, và vầng trăng còn nhạt màu, nhưng cũng đã xuất hiện, nằm cao trên bầu trời. Chẳng mấy chốc nữa cả mặt trăng và mặt trời sẽ thuộc về hắn, một ánh sáng chói rực và một ánh sáng dịu nhẹ hơn, cùng với nữ thần Freya, người đẹp hơn cả mặt trăng hay mặt trời. Nhưng người thợ xây không muốn đếm gà trong trứng. Hắn đã làm việc rất vất vả, suốt cả mùa đông… Hắn huýt sáo gọi con ngựa lần nữa. Lạ thật - hắn chưa bao giờ phải huýt sáo hai lần cả. Hắn có thể thấy Svadilfari, nó đang lúc lắc đầu và gần như nhảy cỡn lên giữa đám hoa dại trên cánh đồng mùa xuân. Con ngựa cứ đi tới trước một bước rồi lại lùi một bước, như thể nó ngửi thấy một mùi hấp dẫn trong bầu không khí ấm áp của đêm xuân mà không biết đó là mùi gì. “Svadiltari!” người thợ xây gọi, và con ngựa dỏng tai lên rồi chuyển sang phi nước kiệu nhanh nhẹn băng qua đồng, tiến về phía chủ. Người thợ xây thấy con ngựa đang chạy về phía mình, và hắn thấy hài lòng. Tiếng vó ngựa nện vang khắp cánh đồng, tăng lên nhờ tiếng vọng lại từ bức tường đá hoa cương cao vút, đến mức trong một thoáng người thợ xây tưởng có cả một đàn ngựa đang tiến về phía mình. Không, người thợ xây thầm nghĩ, chỉ có một con ngựa thôi. Hắn lắc đầu và nhận ra mình đã nhầm. Không phải chỉ có một con ngựa. Không phải chỉ có một tiếng vó ngựa. Có hai… Con ngựa kia là một con ngựa cái màu hạt dẻ. Người thợ xây biết ngay nó là ngựa cái - hắn không cần phải xem giữa hai chân nó. Mọi đường nét trên người nó; từng phân trên người nó; mọi thứ ở con ngựa màu hạt dẻ đều đầy nữ tính. Svadilfari đang chạy ngang qua cánh đồng liền quay ngoắt lại, rồi chạy chậm dần, chồm lên, và hí vang. Con ngựa cái màu hạt dẻ không để ý đến Svadilfari. Nó dừng bước, tựa hồ con tuấn mã không có đó, và cúi đầu xuống như để gặm cỏ trong lúc Svadilfari tiến lại gần, nhưng khi con tuấn mã còn cách chừng chục bước thì con ngựa cái lại vùng chạy đi, trước tiên chạy nước kiệu rồi chuyển sang phi nước đại, trong lúc con tuấn mã xám chạy theo sau nó, cố bắt lấy nó, nhưng vẫn luôn thua nó một hai sải chân, răng chìa ra cố đớp lấy mông và đuôi nó, nhưng luôn đớp trượt. Hai con ngựa chạy ngang qua cánh đồng dưới ánh chiều tà vàng óng, con ngựa xám và con ngựa nâu, mồ hôi bóng nhẫy trên sườn chúng. Nhìn chúng như đang khiêu vũ. Người thợ xây vỗ tay thật to, rồi huýt sáo, rồi gọi tên Svadilfari, nhưng con tuấn mã lờ hắn đi. Người thợ xây chạy ra, định bắt con ngựa và làm nó bình tĩnh lại, nhưng con ngựa cái màu hạt dẻ như đã đoán được ý hắn, vì nó chậm lại và cọ tai cùng bờm vào bên đầu con tuấn mã, rồi lại chạy như bị sói đuổi, về phía bìa rừng. Svadilfari chạy theo nó, và trong thoáng chốc cả hai con ngựa đã biến mất vào bóng tối của khu rừng. Người thợ xây chửi thề và khạc nhổ, rồi đợi con ngựa của mình trở ra. Những cái bóng dài ra, nhưng Svadilfari vẫn không xuất hiện. Người thợ xây quay lại bên cỗ xe chở đá. Hắn nhìn vào rừng. Rồi hắn nhổ vào lòng bàn tay, cầm những sợi thừng lên, và bắt đầu tự mình kéo cỗ xe qua cánh đồng cỏ và hoa dại, về phía mỏ đá trên núi. Đến lúc bình minh hắn vẫn chưa quay lại. Mặt trời đã nằm cao trên đỉnh đầu khi người thợ xây quay về Asgard, kéo theo cỗ xe chở đá sau lưng. Hắn chỉ có mười tảng đá trên cỗ xe, hắn chỉ kéo được có vậy, và hắn vừa kéo vừa chửi rủa những tảng đá, nhưng với mỗi cú dấn bước, hắn lại tới gần bức tường hơn. Freya xinh đẹp đứng bên cổng, theo dõi hắn. “Ngươi chỉ đem về mười tảng đá,” nàng nói. “Ngươi cần gấp đôi số đó để hoàn thành bức tường cho chúng ta.” Người thợ xây không nói gì. Hắn tiếp tục kéo đống đá về phía bức tường dang dở, mặt cứng đờ như mặt nạ. Hắn không cười, không nháy mắt - không gì nữa. “Thor sắp trở về từ phía Đông rồi,” Freya nói với hắn. “Anh ấy sẽ sớm về với chúng ta.” Các thần Asgard ra quan sát người thợ xây trong lúc hắn kéo đá về phía bức tường. Họ đến bên Freya, đứng quanh nàng vẻ che chở. Mới đầu họ còn im lặng quan sát, rồi họ bắt đầu cười mỉm và khúc khích, rồi bàn tán. “Này!” Balder nói to. “Ngươi sẽ chỉ nhận được mặt trời nếu ngươi hoàn thành bức tường đó. Ngươi có nghĩ mình sẽ được đem mặt trời về nhà không?” “Và mặt trăng nữa,” Bragi nói. “Thật tiếc là ngươi không còn con ngựa nữa. Nó đáng ra đã có thể kéo tất cả số đá ngươi cần.” Và các thần cười phá lên. Người thợ xây liền buông cỗ xe ra. Hắn quay lại đối mặt với các thần. “Các vị ăn gian!” hắn nói, và mặt hắn đỏ bừng lên vì mệt nhọc và giận dữ. “Chúng ta không hề ăn gian,” Odin nói. “Không ăn gian hơn ngươi. Nếu biết ngươi là người khổng lồ, ngươi nghĩ chúng ta sẽ cho phép ngươi xây tường cho chúng ta ư?” Người thợ xây nhấc một tảng đá lên bằng một tay và đập nó vào một tảng đá khác, làm tảng đá hoa cương vỡ ra làm đôi. Hắn quay lại đối mặt với các thần, mỗi tay cầm một nửa tảng đá, và giờ hắn bỗng cao lên đến năm, mười, mười lăm mét. Mặt hắn vặn vẹo đi; trông hắn không còn giống người lạ mặt hiền lành và điềm tĩnh đã xuất hiện ở Asgard một mùa trước nữa. Giờ mặt hắn nhìn như một vách núi đá, rúm ró và méo mó đi bởi nỗi giận dữ và căm ghét. “Ta là người khổng lồ núi,” hắn nói. “Và lũ thần các ngươi chẳng là gì ngoài một lũ ăn gian và bội ước ghê tởm. Nếu ta vẫn còn con ngựa thì giờ ta đã xây xong bức tường rồi. Ta đã có thể chiếm được Freya xinh đẹp cùng mặt trăng và mặt trời. Và ta sẽ bỏ lại các ngươi ở đây trong bóng tối và cái lạnh, mà không có cả vẻ đẹp để giúp các ngươi vui lên.” “Chúng ta không phản bội lời thề nào hết,” Odin nói. “Nhưng giờ thì không lời thề nào có thể bảo vệ ngươi khỏi chúng ta được nữa.” Tên khổng lồ núi gầm lên tức tối và lao về phía các thần, mỗi tay vung lên một tảng đá hoa cương khổng lồ như một cái chùy. Các thần đứng sang bên, và giờ tên khổng lồ mới thấy người đang đứng sau lưng họ. Một vị thần to lớn, râu đỏ, cuồn cuộn cơ bắp, tay đeo găng sắt và cầm một chiếc búa sắt mà chàng vung lên một cái. Chàng ném chiếc búa đi khi đã nhắm thẳng nó vào tên khổng lồ. Trên bầu trời trong xanh bỗng lóe một tia chớp, kèm theo là một tiếng sấm trầm đục khi chiếc búa bay khỏi tay Thor. Tên khổng lồ núi thấy chiếc búa lớn lên vùn vụt trong lúc nó lao vào hắn, và rồi hắn không nhìn thấy gì, không bao giờ nhìn thấy gì nữa. Các thần tự mình hoàn thành bức tường, mặc dù họ mất rất nhiều tuần để đẽo và kéo mười tảng đá cuối cùng từ mỏ đá cao tít trên núi rồi đưa chúng về Asgard và đặt chúng vào đúng chỗ trên đỉnh cánh cổng. Chúng không được vuông vức hay vững chãi bằng những tảng đá mà người thợ xây tài tình đã tự đẽo gọt và xếp lên. Có một số vị thần nghĩ rằng lẽ ra họ nên để tên khổng lồ xây gần xong bức tường rồi mới để cho Thor giết hắn. Thor nói chàng rất cảm kích vì các thần đã có sẵn trò tiêu khiển cho chàng khi chàng từ phía Đông trở về. Thật kỳ lạ và không giống y chút nào, vì Loki lại không có mặt để được khen ngợi vì đã dụ được con ngựa Svadilfari đi. Không ai biết y ở đâu, mặc dù có người nói đã thấy một con ngựa cái màu hạt dẻ tuyệt đẹp trên cánh đồng dưới chân Asgard. Loki biến mất gần một năm, và khi quay về thì theo sau y là một con ngựa non màu xám. Đó là một con ngựa non rất đẹp, mặc dù nó có tám chân thay vì bốn, và Loki đi đâu nó đều theo đó, rồi dụi đầu vào y và đối xử với Loki như thể y là mẹ nó. Mà, tất nhiên, đó chính là sự thật. Con ngựa non lớn lên thành một con tuấn mã xám khổng lồ có tên là Sleipnir, con ngựa nhanh nhất và khỏe nhất trên đời, con ngựa có thể chạy nhanh hơn cả gió. Loki dâng Sleipnir cho Odin, con ngựa tốt nhất với các thần cũng như với người trần. Rất nhiều người ngưỡng mộ con ngựa của Odin, nhưng phải là một tay gan dạ thì mới dám nói đến nguồn gốc của nó trước mặt Loki, và không ai dám nhắc đến chuyện đó hai lần. Loki sẽ cố gắng hết sức để khiến cuộc đời bạn khốn đốn nếu y nghe bạn nói về chuyện y đã dụ Svadilfari chạy khỏi chủ nó và chuyện y đã cứu các thần khỏi ý tưởng sai lầm của chính y ra sao. Loki là kẻ thù dai. Và đó là câu chuyện về việc các thần đã có được bức tường của họ. CÁC CON CỦA LOKI Loki rất đẹp trai, và y biết vậy. Ai cũng muốn yêu mến và tin tưởng y, nhưng ngay cả lúc tốt đẹp nhất thì y cũng khó tin cậy và ích kỷ, còn vào lúc xấu xa nhất thì y xảo quyệt hoặc độc ác. Y lấy một người phụ nữ tên là Sigyn, nàng vốn rất tươi vui và xinh đẹp khi Loki tán tỉnh rồi cưới nàng làm vợ, nhưng giờ lúc nào nàng nhìn cũng như đang chờ đợi tin xấu. Nàng sinh cho y một người con trai, Narfi, ít lâu sau lại sinh một người con trai nữa, Vali. Đôi khi Loki biến mất một thời gian dài và không quay lại, và khi ấy nhìn như Sigyn đang chờ đợi tin tức xấu nhất, nhưng rồi Loki luôn trở về với nàng, vẻ gian giảo và tội lỗi nhưng vẫn tỏ ra hết sức tự đắc. Y bỏ đi ba lần, và ba lần y - rốt cuộc - vẫn trở về. Đến lần thứ ba Loki trở về Asgard, Odin gọi y đến chầu. “Ta đã mơ một giấc mơ,” vị thần già một mắt thông thái nói. “Ngươi đã có con.” “Thần có một đứa con trai, Narfi. Một thằng bé ngoan, mặc dù thần phải thừa nhận là không phải lúc nào nó cũng biết nghe lời cha, và một đứa con trai nữa, Vali, ngoan ngoãn và trầm tính hơn.” “Không phải chúng. Ngươi có ba đứa con khác, Loki. Ngươi đã lẻn đến sống ở vùng đất của người khổng lồ băng với người phụ nữ khổng lồ tên Angrboda. Và cô ta đã sinh hạ cho ngươi ba đứa con. Ta đã thấy chúng bằng tâm nhãn của ta trong lúc ta ngủ, và nó cho ta biết chúng sẽ là những kẻ thù đáng gờm nhất của các thần trong tương lai.” Loki không nói gì. Y cố tỏ ra hổ thẹn nhưng lại chỉ có thể tỏ vẻ hết sức hài lòng với bản thân mình. Odin gọi các thần tới, với Tyr và Thor dẫn đầu, và ngài ra lệnh cho họ du hành tới Jotunheim, tới Vương quốc Người Khổng lồ, để đem các con của Loki về Asgard. Các thần đi tới vùng đất của người khổng lồ, chiến đấu với vô vàn hiểm nguy, cho tới khi họ đến được pháo đài của Angrboda. Bà ta không biết họ sẽ đến, nên đã để các con chơi cùng nhau trong đại sảnh. Các thần sững sờ khi thấy các con của Loki và Angrboda, nhưng điều đó không làm họ chùn bước. Họ bắt ba đứa trẻ, trói chúng lại, và họ vác đứa lớn nhất, trói vào một thân cây thông đã bị chặt sạch cành, rồi họ bịt mõm đứa thứ hai bằng một cái rọ làm bằng cành liễu, và vòng một sợi thừng quanh cổ nó làm xích, trong khi đứa thứ ba thì đi bên cạnh họ, vẻ ủ ê ghê rợn. Những người đi bên phải đứa con thứ ba nhìn thấy một cô bé xinh xắn, còn những người đi bên trái cố không nhìn nó, vì họ thấy một đứa bé đã chết, da thịt thối rữa đen sạm, đi bên mình. “Anh có nhận ra điều gì không?” Thor hỏi Tyr vào ngày thứ ba trong hành trình qua vùng đất của người khổng lồ băng. Đêm đó họ dựng trại tại một khoảng rừng trống, và Tyr đang gãi cái cổ lông lá của đứa con thứ hai của Loki bằng bàn tay phải to lớn. “Gì cơ?” “Họ không bám theo chúng ta, đám người khổng lồ ấy. Thậm chí cả mẹ của ba sinh vật này cũng không. Cứ như thể họ muốn chúng ta đem các con của Loki đi khỏi Jotunheim vậy.” “Toàn là chuyện vớ vẩn,” Tyr nói, nhưng khi chàng nói vậy, chàng vẫn rùng mình, mặc dù đã ngồi bên đống lửa ấm. Sau hai ngày đi lại vất vả nữa, họ đã trở về đại sảnh của Odin. “Đây là các con của Loki,” Tyr nói ngắn gọn. Đứa con đầu tiên của Loki bị trói vào cây thông và giờ đã dài hơn cả cây thông nó bị trói vào. Nó tên là Jormungundr, và nó là một con mãng xà. “Nó đã dài ra rất nhiều trong những ngày chúng thần đem nó về,” Tyr nói. Thor nói, “Hãy cẩn thận. Nó có thể phun ra thứ nọc độc đen ngòm nóng rực. Nó đã phun nọc độc vào thần, nhưng trượt. Chính vì vậy chúng thần mới trói đầu nó vào cái cây như vậy.” “Nó là một đứa trẻ,” Odin nói. “Nó vẫn còn đang lớn. Chúng ta sẽ đưa nó tới một nơi nó không thể làm hại ai được.” Odin đem con mãng xà tới bờ biển nằm bên ngoài mọi xứ sở, vùng biển bao quanh Midgard, và trên bờ biển đó ngài đã trả tự do cho Jormungundr, và nhìn theo trong lúc nó trườn xuống bên dưới làn sóng rồi uốn lượn bơi đi. Odin nhìn theo nó bằng con mắt duy nhất cho tới khi nó biến mất ở đường chân trời, và ngài tự hỏi điều mình làm có đúng không. Ngài không biết. Ngài đã làm theo sự mách bảo trong giấc mơ của ngài, nhưng những giấc mơ thường chứa đựng nhiều bí mật hơn bề ngoài của chúng, dù là với vị thần thông thái nhất đi chăng nữa. Con mãng xà sẽ lớn lên dưới làn nước xám của đại dương thế giới, lớn lên cho tới khi nó có thể quấn mình bao quanh trái đất. Người ta gọi nó là Jormungundr con mãng xà Midgard. Odin trở về đại sảnh, và ngài ra lệnh cho con gái của Loki bước lên. Ngài nhìn cô bé chăm chú: ở nửa mặt bên phải, má cô bé trắng hồng, mắt cô xanh lục như mắt Loki, môi cô đầy đặn và đỏ thắm; còn ở nửa mặt trên trái, da cô trương lên, nhăn nhúm, sưng phồng với những vết bầm tím của cái chết, con mắt mù lòa đã rữa ra và tái nhợt, cái miệng không có môi rúm ró căng ra bên trên hàm răng màu nâu xương sọ. “Ngươi tên là gì, cô bé?” vị Cha tối cao hỏi. “Tên thần là Hel,” cô đáp, “thưa Cha tối cao.” “Ngươi là một đứa bé ngoan ngoãn đấy,” Odin nói. “Ta phải thừa nhận như vậy.” Hel không nói gì, chỉ nhìn ngài bằng con mắt xanh độc nhất, sắc lạnh như một mảnh băng, cùng con mắt trắng bệch, mờ đục, thối rữa, đờ đẫn, và ngài thấy cô bé không sợ chút nào. “Ngươi còn sống không?” ngài hỏi cô bé. “Hay ngươi là một cái xác?” “Thần chỉ là chính mình, Hel, con gái của Angrboda và Loki,” cô đáp. “Nhưng thần thích người chết hơn cả. Họ giản dị, và họ tôn trọng thần. Người sống chỉ nhìn thần một cách ghê sợ.” Odin săm soi cô bé, và ngài nhớ lại những giấc mơ của mình. Rồi Odin nói, “Đứa trẻ này sẽ cai trị đáy sâu thẳm tối nhất, và cai trị người chết trên toàn cửu giới. Nó sẽ là nữ hoàng của những sinh linh khốn khổ đã chết một cách không xứng đáng - vì bệnh tật hoặc tuổi già, vì tai nạn hoặc sinh đẻ. Những chiến binh chết trong chiến trận sẽ luôn tới đây với chúng ta ở Valhalla. Nhưng những người chết theo các cách khác sẽ là thần dân của đứa bé này, để hầu hạ nó trong bóng tối.” Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt khỏi mẹ mình, cô bé Hel mỉm cười bằng nửa cái miệng. Odin dẫn Hel xuống thế giới không ánh sáng, và ngài chỉ cho cô đại sảnh mênh mông nơi cô sẽ đón chào các thần dân của mình và theo dõi cô bé đặt tên cho từng vật dụng của mình. “Thần sẽ đặt tên cho cái bát này là Khát Khao,” Hel nói. Cô cầm lên một con dao. “Đây là Nạn Đói. Và cái giường của thần sẽ có tên là Giường Bệnh.” Vậy là đã xử lý xong hai đứa con của Loki với Angrboda. Một đứa đã xuống biển, đứa kia xuống bóng tối dưới lòng đất. Nhưng phải làm gì với đứa thứ ba đây? Khi họ đưa đứa con thứ ba và cũng là đứa nhỏ nhất trong các con của Loki về từ vùng đất của người khổng lồ, nó chỉ nhỏ bằng một chú cún con, Tyr đã gãi cổ, gãi đầu cho nó và chơi với nó sau khi đã tháo cái rọ mõm bằng cành liễu cho nó. Nó là một con sói non, màu xám và đen, với cặp mắt màu hổ phách sẫm. Con sói non ăn thịt sống, nhưng nó biết nói như người, nói bằng ngôn ngữ của con người và các thần, và nó rất kiêu hãnh. Con tiểu quái thú này có tên là Fenrir. Nó cũng đang lớn lên rất nhanh. Hôm nay nó to bằng con sói thường, hôm sau nó đã to rằng con gấu, rồi to bằng một con tuần lộc khổng lồ. Các thần đều e dè nó, tất cả trừ Tyr. Chàng vẫn chơi đùa và nô giỡn với nó, và chỉ mình chàng là cho nó ăn hằng ngày. Và mỗi ngày con sói lại ăn nhiều hơn hôm trước, và mỗi ngày nó lại lớn thêm lên, trở nên dữ dằn hơn và khỏe hơn. Odin nhìn con sói non lớn lên với cảm giác lo sợ, vì trong giấc mơ của ngài, con sói đã có mặt vào lúc tận thế, và điều cuối cùng Odin nhìn thấy trong những giấc mơ về tương lai của ngài luôn là cặp mắt màu hoàng ngọc và hàm răng trắng sắc nhọn của Sói Fenrir. Các thần họp bàn và quyết định họ sẽ trói Fenrir lại. Họ làm một sợi xích và cái cùm nặng trong lò rèn của các thần, rồi họ đem cái cùm đến chỗ Fenrir. “Đây!” các thần nói, như đang bày một trò chơi mới. “Ngươi đã lớn nhanh quá, Fenrir. Đã đến lúc thử sức ngươi rồi. Ở đây chúng ta có sợi xích và cái cùm nặng nhất. Ngươi nghĩ mình có phá vỡ được chúng không?” “Ta nghĩ là được,” Sói Fenrir nói. “Hãy trói ta vào xem.” Các thần quấn sợi xích khổng lồ quanh mình Fenrir và đóng cùm vào chân nó. Nó ngồi yên chờ đợi. Các thần mỉm cười với nhau trong lúc họ xích con sói khổng lồ lại. “Làm đi,” Thor hô lớn. Fenrir vươn người và căng các bắp cơ ở chân, và sợi xích gãy gập như củi khô. Con sói khổng lồ hú với mặt trăng, một tiếng hú đầy đắc thắng và vui sướng. “Ta đã phá được sợi xích của các người,” nó nói. “Đừng quên điều này.” “Chúng ta sẽ không quên đâu,” các thần nói. Ngày hôm sau Tyr đem thịt đến cho con sói ăn. “Ta đã phá được sợi xích,” Fenrir nói. “Ta đã phá nó rất dễ dàng.” “Đúng thế,” Tyr nói. “Ngài có nghĩ là họ sẽ thử ta một lần nữa không? Ta đang lớn, và mỗi ngày ta lại càng khỏe hơn.” “Họ sẽ thử ngươi một lần nữa. Ta đem cả bàn tay phải ra cá cược đấy,” Tyr nói. Con sói vẫn đang lớn lên, còn các thần thì ở lò rèn, rèn một sợi xích mới. Mỗi mắt xích nặng đến mức người thường không thể nhấc nổi. Thứ kim loại làm xích là thứ kim loại khỏe nhất mà các thần tìm được: sắt từ lòng đất trộn lẫn với sắt từ trên trời rơi xuống. Họ đặt tên cho sợi xích là Dromi. Các thần kéo sợi xích tới chỗ Fenrir nằm ngủ. Con sói mở mắt ra. “Lại nữa sao?” nó hỏi. “Nếu ngươi cố thể thoát khỏi sợi xích này,” các thần nói, “thì tiếng tăm và sức mạnh của ngươi sẽ vang khắp mọi thế giới. Ngươi sẽ được vinh danh. Nếu sợi xích này không giữ được ngươi, thì sức mạnh của ngươi sẽ lớn hơn bất kỳ vị thần hay người khổng lồ nào.” Nghe vậy, Fenrir gật đầu, và nhìn sợi xích có tên là Dromi, lớn hơn bất kỳ sợi xích nào trên đời, chắc hơn cả những gông cùm chắc chắn nhất. “Không có nguy hiểm thì làm sao có vinh quang,” một lát sau con sói nói. “Ta tin là ta có thể phá vỡ nó. Hãy trói ta vào đi.” Họ trói nó lại. Con sói khổng lồ vươn người và gồng mình lên, nhưng sợi xích vẫn chắc nguyên. Các thần nhìn nhau, mắt thoáng ánh lên vẻ đắc thắng, nhưng rồi con sói khổng lồ bắt đầu vặn vẹo và uốn người, đá chân ra và căng mọi múi cơ, mọi đường gân. Mắt nó lóe lên, răng nó nhe ra, hàm nó ngầu bọt. Nó vừa vặn người vừa gầm gừ. Nó vặn hết sức để đấu lại với sợi xích. Các thần tự động lùi lại một bước, và thật may là họ đã làm vậy, vì đúng lúc đó sợi xích nứt ra rồi đứt tung mạnh đến nỗi các mắt xích bắn vọt lên không trung, và nhiều năm sau các thần vẫn còn tìm thấy những mẩu xích cắm vào các thân cây khổng lồ trên triền núi. “Phải rồi!” Fenrir gầm lên và cất tiếng hú đắc thắng vừa giống sói lại vừa giống người. Con sói nhận thấy các thần đang quan sát không có vẻ thích thú với chiến thắng của nó. Kể cả Tyr. Fenrir, con của Loki, nghiền ngẫm về điều này, và nhiều điều khác nữa. Và mỗi ngày qua, sói Fenrir lại càng trở nên to lớn và đói khát hơn. Odin suy nghĩ, ưu tư, trầm ngâm. Mọi tri thức trong giếng của Mimir đều đã thuộc về ngài, cùng với mọi điều thông thái ngài đã thu thập được khi treo mình trên cây thế giới để tự hiến tế cho bản thân. Cuối cùng ngài cho gọi tiên ánh sáng Skirnir, sứ giả của Frey, đến bên mình, và ngài miêu tả một sợi xích có tên là Gleipnir. Skirnir cưỡi ngựa băng qua cây cầu cầu vồng đến Svartalfheim, chỉ dẫn tộc người lùn làm ra một sợi xích không giống với bất kỳ thứ gì từng được tạo nên từ trước tới giờ. Những người lùn lắng nghe Skirnir miêu tả nhiệm vụ này, rồi họ rùng mình và ra giá. Skirnir đồng ý vì đã được Odin ra lệnh như vậy, mặc dù giá của những người lùn là rất cao. Rồi những người lùn đi tìm nguyên liệu cần thiết để làm Gleipnir. Đây là sáu thứ mà những người lùn đã lấy về: Thứ nhất, bước chân của một con mèo. Thứ hai, bộ râu của một người phụ nữ. Thứ ba, gốc của một ngọn núi. Thứ tư, gân của một con gấu. Thứ năm, hơi thở của một con cá. Thứ sáu và cuối cùng, dãi của một con chim. Những thứ này được dùng để làm ra Gleipnir. (Các bạn nói là chưa bao giờ thấy những thứ này sao? Làm sao thấy được. Những người lùn đã dùng hết chúng rồi còn đâu.) Khi những người lùn làm xong, họ trao cho Skimir một chiếc hộp gỗ. Trong hộp là một thứ nhìn như một dải lụa dài, rất mềm và mịn màng. Nó nhẹ bỗng và gần như trong suốt. Skimir cưỡi ngựa trở về Asgard, đem theo cái hộp. Anh ta trở về vào buổi tối muộn, khi mặt trời đã lặn từ lâu. Anh ta cho các thần thấy vật mình đem về từ xưởng của những người lùn, và các thần hết sức kinh ngạc. Các thần cùng nhau đến bờ Hồ Đen, và họ gọi tên Fenrir. Nó chạy đến, như một con chó sẽ chạy ra khi được gọi tên, và các thần sững sờ khi thấy nó đã lớn và mạnh mẽ đến mức nào. “Có chuyện gì vậy?” con sói hỏi. “Chúng ta đã tìm được sợi dây trói khỏe nhất trên đời,” họ bảo nó. “Kể cả ngươi cũng không thể phá vỡ.” Con sói xù lông lên. “Ta có thể bứt đứt bất kỳ sợi xích nào,” nó kiêu hãnh nói. Odin xòe tay ra cho thấy Gleipnir. Nó long lanh dưới ánh trăng. “Thứ đó ư?” con sói nói. “Nó chẳng là gì cả.” Các thần kéo sợi xích để con sói thấy nó chắc đến mức nào. “Chúng ta không thể kéo đứt nó,” họ nói. Con sói nheo mắt nhìn dải lụa các thần đang cầm trong tay, lấp lánh như vệt nhớt của con sên hay ánh trăng trên sóng nước, rồi nó quay đi, không quan tâm. “Không,” nó nói. “Hãy đem đến cho ta những sợi xích thật, những cái cùm thật, những thứ nặng nề, to lớn, để ta có thể bộc lộ sức mạnh của mình.” “Đây là Gleipnir,” Odin nói. “Nó chắc hơn bất kỳ sợi xích hay cái cùm nào. Ngươi sợ ư, Fenrir?” “Sợ ư? Không hề. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta xé một dải băng mảnh như vậy? Các người nghĩ ta sẽ được vinh danh và tiếng tăm ư? Rằng người ta sẽ bàn tán nhau rằng, ‘Anh có biết Sói Fenrir khỏe và mạnh mẽ đến mức nào không? Nó khỏe đến mức nó bứt đứt một dải lụa!’ Sẽ chẳng có gì là vinh quang khi ta bứt đứt Gleipnir.” “Ngươi sợ rồi,” Odin nói. Con thú khổng lồ đánh hơi không khí. “Ta ngửi thấy mùi dối trá và thủ đoạn.” Con sói nói, cặp mắt màu hổ phách của nó lóe lên trong ánh trăng. “Và mặc dù ta nghĩ rằng Gleipnir của các người chỉ là một mảnh vải, ta vẫn không đồng ý để các người trói ta bằng nó.” “Ngươi? Kẻ đã bẻ gãy những sợi xích chắc nhất, to nhất trên đời? Ngươi sợ một mảnh vải vớ vẩn như thế này ư?” Thor nói. “Ta không sợ gì hết,” con sói gầm gừ. “Ta nghĩ lũ nhỏ con các người sợ ta thì đúng hơn.” Odin gãi gãi cái cằm râu của mình. “Ngươi không ngốc chút nào, Fenrir ạ. Ở đây không có gì dối trá cả. Nhưng ta hiểu sự ngần ngại của ngươi. Phải là một chiến binh hết sức can đảm thì mới chấp nhận bị trói bởi những xiềng xích mà anh ta không thể phá vỡ. Ta lấy tư cách là cha của các thần đảm bảo với ngươi rằng nếu ngươi không thể bứt đứt mảnh vải này - một dải lụa thực sự, như ngươi đã nói - thì các thần chúng ta sẽ không có lý do gì phải sợ ngươi cả, và chúng ta sẽ trả tự do cho ngươi và để ngươi đi đâu tùy thích.” Con sói cất lên một tiếng hú dài. “Ngài nói dối, Cha tối cao. Ngài nói dối như người khác thở vậy. Nếu các người định trói ta bằng thứ xiềng xích ta không thể trốn thoát, thì ta không tin là các người sẽ trả tự do cho ta. Ta nghĩ các người sẽ để ta lại đây. Ta nghĩ các người định bỏ mặc và phản bội ta. Ta không bằng lòng cho các người đặt mảnh vải đó lên mình ta.” “Ngươi nói những lời rất hay và dũng cảm,” Odin nói. “Nhưng đó chỉ là những lời để che đậy việc ngươi sợ bị phát giác là một kẻ hèn nhát thôi, sói Fenrir ạ. Ngươi sợ bị trói bởi dải lụa này. Không cần giải thích gì nữa.” Cái lưỡi của con sói thè lè ra khỏi miệng nó, rồi nó cười phá lên, để lộ ra những chiếc răng sắc nhọn, mỗi chiếc to bằng cánh tay người lớn. “Thay vì nghi ngờ lòng can đảm của ta, ta thách các người chứng tỏ là không có chuyện dối trá gì ở đây hết. Các người có thể trói ta lại nếu một trong số các người chịu đặt tay vào miệng ta. Ta sẽ nhẹ nhàng ngậm răng lại, nhưng sẽ không cắn. Nếu không có thủ đoạn gì, thì ta sẽ mở miệng sau khi ta đã bứt được ra khỏi mảnh vải, hoặc là sau khi các người đã thả ta, và bàn tay người đó sẽ không hề hấn gì. Đó. Ta thề, nếu có một bàn tay trong miệng ta, các người có thể dùng dải lụa đó trói ta lại. Vậy đấy. Ai sẽ đặt tay vào miệng ta đây?” Các thần nhìn nhau. Balder nhìn Thor, Heimdall nhìn Odin, Hoenir nhìn Frey, nhưng không ai trong số họ nhúc nhích. Rồi Tyr, con trai Odin, thở dài, bước tới, và giơ tay phải lên. “Ta sẽ đặt tay ta vào miệng ngươi, Fenrir,” Tyr nói. Fenrir nằm nghiêng xuống, và Tyr đặt bàn tay phải vào miệng Fenrir, giống như chàng đã làm khi Fenrir còn là con sói non và họ chơi đùa cùng nhau. Fenrir nhẹ nhàng khép răng lại cho tới khi chúng kẹp chặt lấy cổ tay Tyr mà không làm rách da chàng, rồi nó nhắm mắt. Các thần trói nó bằng Gleipnir. Một dải lụa lấp lánh như nhớt sên bao quanh con sói khổng lồ, trói chặt chân nó, khiến nó không cử động nổi. “Xong rồi,” Odin nói. “Giờ thì, sói Fenrir, hãy phá vỡ xiềng xích của mình đi. Cho chúng ta thấy ngươi mạnh mẽ đến mức nào.” Con sói vươn người, vùng vẫy; nó kéo và căng mọi đường gân lẫn búi cơ để bứt đứt dải băng đang trói mình. Nhưng càng vùng vẫy thì nó lại càng khó cử động hơn, và mỗi lần nó vươn người thì dải băng lấp lánh càng trở nên chắc chắn hơn. Mới đầu các thần cười khẩy. Rồi các thần cười khúc khích. Cuối cùng, khi chắc chắn là con thú đã bị trói chặt và họ không còn bị đe dọa nữa, các thần liền cười to. Chỉ có Tyr là im lặng. Chàng không cười. Chàng có thể cảm thấy hàm răng sắc nhọn của sói Fenrir trên cổ tay mình, cái lưỡi ấm và ẩm ướt của sói Fenrir trên lòng bàn tay và các ngón tay mình. Fenrir không vùng vẫy nữa. Nó nằm bất động. Nếu các thần định thả nó ra thật thì họ sẽ làm vậy ngay bây giờ. Nhưng các thần chỉ càng cười to hơn. Tiếng cười khùng khục trầm vang của Thor, to hơn cả tiếng sấm, hòa lẫn với tiếng cười khô khan của Odin, và tiếng cười sang sảng như chuông đồng của Balder… Fenrir nhìn Tyr. Tyr can đảm đáp lại cái nhìn của nó. Rồi Tyr nhắm mắt lại và gật đầu. “Làm đi,” chàng nói. Fenrir cắn mạnh cổ tay Tyr. Tyr không phát ra một âm thanh nào. Chàng chỉ đưa tay trái ôm lấy cánh tay phải bị cụt và bóp chặt hết mức có thể để ngăn cho dòng máu xối xả chỉ còn nhỏ giọt. Fenrir quan sát các thần cầm một đầu dải băng Gleipnir và luồn nó qua một tảng đá to bằng quả núi rồi buộc nó lại dưới đất. Rồi nó quan sát họ lấy một tảng đá khác đập tảng đá kia sâu xuống đất, sâu hơn cả đáy biển sâu nhất. “Odin dối trá!” con sói cất tiếng gọi. “Nếu các người không nói dối ta thì ta đã có thể là bạn của các thần. Nhưng nỗi sợ của các người đã phản lại các người. Ta sẽ giết ngươi, Cha của Các Thần. Ta sẽ đợi đến tận thế, rồi ta sẽ ăn mặt trời và ăn mặt trăng. Nhưng ta sẽ thích thú nhất khi được giết ngươi.” Các thần cẩn thận không lại gần bộ hàm của Fenrir, nhưng khi họ đang đập cho tảng đá xuống sâu hơn, Fenrir vặn người lại và đớp họ. Vị thần gần nó nhất nhanh trí đâm thanh gươm vào hàm ếch của sói Fenrir. Chuôi kiếm mắc kẹt vào hàm dưới của con sói, làm miệng nó mở ra và không bao giờ ngậm lại được nữa. Con sói gầm gừ không thành tiếng, dãi chảy tràn ra khỏi miệng thành một dòng sông. Nếu không biết đó là con sói, ta có thể tưởng nó là một ngọn núi nhỏ, với một dòng sông chảy ra từ miệng hang. Các thần rời khỏi nơi dòng sông dãi chảy xuống một cái hồ đen thẳm, và họ không nói gì, nhưng khi đã đi đủ xa, họ lại tiếp tục cười và vỗ lưng nhau, nở nụ cười rộng ngoác của những kẻ tin rằng mình vừa làm một việc hết sức khôn ngoan. Tyr không cười mỉm và cũng không cười to. Chàng buộc chặt cổ tay bị cụt bằng một tấm vải, và chàng đi bên cạnh các thần trở về Asgard, không để lộ những ý nghĩ của mình. Và đó là chuyện về các con của Loki. ĐÁM CƯỚI KHÁC THƯỜNG CỦA FREYA Thor, thần sấm, hùng mạnh nhất trong số các thần Aesir, người khỏe nhất, dũng cảm nhất, chiến đấu anh dũng nhất, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn, nhưng chàng có cảm giác có chuyện gì đó không ổn. Chàng với tay tìm chiếc búa mà chàng luôn để bên mình trong lúc ngủ. Chàng mò mẫm xung quanh trong lúc mắt vẫn nhắm nghiền. Chàng sờ soạng, tìm kiếm cán búa quen thuộc và chắc chắn. Không thấy chiếc búa đâu. Thor mở mắt ra. Chàng ngồi dậy. Chàng đứng lên. Chàng đi quanh phòng. Không thấy chiếc búa đâu hết. Chiếc búa của chàng đã biến mất. Chiếc búa của Thor có tên là Mjollnir. Nó được làm cho Thor bởi hai người lùn Brokk và Eitri. Nó là một trong các báu vật của các thần. Nếu Thor dùng nó đập vào vật gì, vật đó sẽ nát vụn. Nếu chàng ném chiếc búa vào vật gì, chiếc búa sẽ không bao giờ bay trật mục tiêu và sẽ luôn bay vụt qua không trung để trở về tay chàng. Chàng có thể thu nhỏ chiếc búa và giấu nó trong áo, và chàng có thể làm nó lớn lên. Nó là một chiếc búa hoàn hảo ngoại trừ một điểm: cán nó hơi ngắn, có nghĩa là Thor chỉ có thể dùng một tay để vung búa. Chiếc búa bảo vệ cho các thần Asgard khỏi những mối hiểm nguy đe dọa họ và thế giới. Người khổng lồ băng, yêu tinh, quỷ đá và đủ loại quái vật khác, tất cả đều sợ chiếc búa của Thor. Thor rất thích chiếc búa của mình. Vậy mà giờ chiếc búa đã biến mất. Có những điều Thor thường làm khi có chuyện gì đó không ổn. Điều đầu tiên chàng làm là tự hỏi xem đây có phải lỗi của Loki không. Thor ngẫm nghĩ. Chàng không tin là Loki lại to gan đến mức dám ăn trộm chiếc búa của chàng. Vì vậy chàng liền làm điều tiếp theo chàng thường làm mỗi khi có chuyện không ổn, đó là đến gặp Loki để xin lời khuyên. Loki rất ranh mãnh. Loki sẽ cho chàng biết phải làm gì. “Đừng cho ai biết cả,” Thor nói với Loki, “chiếc búa của các thần đã bị đánh cắp.” “Đó,” Loki nhăn mặt nói, “không phải là tin tốt. Để tôi đi tìm hiểu xem sao.” Loki đến đại sảnh của Freya. Freya là người xinh đẹp nhất trong số các thần. Mái tóc vàng óng của nàng xõa trên vai, lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng. Hai con mèo của Freya đi quanh phòng, nôn nóng được kéo cỗ xe của nàng. Quanh cổ nàng, cũng vàng óng và lấp lánh như mái tóc, là chiếc vòng cổ của tộc Brising, được làm cho Freya bởi những người lùn sống sâu dưới lòng đất. “Tôi muốn mượn chiếc áo choàng lông vũ của nàng” Loki nói. “Chiếc áo giúp nàng bay được ấy.” “Không đời nào,” Freya nói. “Chiếc áo đó là vật quý giá nhất của ta. Nó còn quý hơn vàng. Ta sẽ không cho ngươi mượn nó để đi gây chuyện đâu.” “Chiếc búa của Thor đã bị đánh cắp,” Loki nói. “Tôi cần đi tìm nó.” “Để ta đi lấy cho ngươi chiếc áo,” Freya nói. Loki khoác chiếc áo choàng lông vào và bay vút lên không trung dưới hình dạng một con chim ưng. Y bay xa khỏi Asgard. Y bay tít đến tận vùng đất của người khổng lồ, tìm kiếm một dấu hiệu bất thường nào đó. Bên dưới mình, Loki nhìn thấy một gò đất khổng lồ, và ngồi trên đó, đang tết một cái vòng cổ chó, là tên yêu tinh to lớn nhất, xấu xí nhất mà y từng thấy. Khi tên yêu tinh nhìn thấy Loki trong hình dạng chim ưng, hắn nhe hàm răng sắc nhọn ra cười và vẫy tay. “Các thần Aesir sao rồi, Loki? Các tiên có tin gì mới không? Và sao ngài lại một mình đến vùng đất của người khổng lồ?” Loki đậu xuống bên cạnh tên yêu tinh, “Ở Asgard chẳng có gì ngoài tin xấu, và các tiên cũng chẳng có gì ngoài tin xấu.” “Thế à?” tên yêu tinh nói rồi bật cười một mình, như thể hắn hết sức đắc ý vì một việc hắn đã làm và nghĩ là mình thông minh nhất hạng. Loki nhận ra tiếng cười đó. Đôi khi chính y cũng cười như vậy. “Chiếc búa của Thor đã biến mất,” Loki nói. “Ngươi có biết gì về chuyện đó không?” Tên yêu tinh gãi nách, rồi cười một tiếng nữa. “Có thể đấy,” hắn thừa nhận. Rồi hắn nói, “Freya thế nào? Có thật là nàng đẹp như người ta đồn không?” “Nếu ngươi thích kiểu như vậy,” Loki nói. “Ồ, ta thích đấy,” tên yêu tinh nói. “Ta rất thích.” Lại một quãng im lặng khó xử nữa trôi qua. Tên yêu tinh đặt cái vòng cổ chó xuống cạnh một đống vòng cổ chó khác và bắt đầu tết một cái nữa. """