"
Thám Tử Kỳ Phát 5: Kỳ Phát Giết Người PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thám Tử Kỳ Phát 5: Kỳ Phát Giết Người PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
P H Ạ M C A O C Ủ N G KỲ PHÁT
GIẾT NGƯỜI
CHƯƠNG 1
TÌNH CŨ NGHĨA XƯA
Chúng tôi ngồi im lặng đã lâu.
Kỳ Phát thì ngả dài trên chiếc ghế dựa, nhìn lên trần nhà, theo làn khói thuốc lá thơm trắng nhạt. Tôi thì chăm chú nhìn Phát, cố ý đoán xem trong trí anh chàng trinh thám có kỳ tài ấy, hiện giờ đang nghĩ ngợi gì. Bên cạnh nhà, tiếng cãi cọ của đôi vợ chồng trẻ cũng im dần, có lẽ đã thấy khuya, cả hai đều đồng ý nên đình cuộc khẩu chiến cho hàng xóm được yên ngủ vì lúc bấy giờ đã quá 11 giờ khuya rồi.
Tôi bỗng hỏi Kỳ Phát:
- Thế nào, anh vẫn nhất định không lấy vợ à?
Kỳ Phát giật mình, quay nhìn tôi rồi mỉm cười:
- Lấy ai, mà ai lấy?
Tôi cũng cười:
- Thiếu gì người cơ chứ! Cứ theo ý tôi nghĩ thì cứ cái tài anh, biết bao nhiêu là cô con gái kính phục, mà từ cái kính phục đến cái mến yêu rất gần…
Kỳ Phát ung dung gạt tàn thuốc lá rồi chậm rãi bảo tôi rằng: - Anh tưởng tượng như vậy chứ trong đời tôi chưa hề thấy thế, một chứng cớ là… từ trước đến nay, nào đã có ai thèm lấy tôi đâu? Tôi cãi:
- Tôi lại có chứng cớ, trái lại như Tuyết Khanh* chẳng hạn đã chẳng muốn lấy anh là gì?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Thế nhưng cuộc hôn nhân ấy có thành đâu?
- Không thành là tại vì anh không muốn.
Kỳ Phát lặng im một lát, hút luôn mấy hơi thuốc lá dài, lâu lâu mới gật đầu mà bảo tôi rằng:
- Kể ra thì không khéo mà là tại cái số tôi vậy, anh ạ! Việc Tuyết Khanh, tôi tưởng chừng như mười phần đã chắc chắn chín vậy mà kết cục cũng vẫn chẳng đâu vào đâu cả…
Tôi cười:
- Đó là tại ý anh, chứ số mệnh nào?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Không, tôi không nói đùa đâu. Mà anh nghĩ lầm như vậy là vì tưởng tôi yêu Tuyết Khanh thực?
Tôi ngạc nhiên:
- Lại còn thế nào mới thực nữa?
- Không, anh ạ, Tuyết Khanh tôi chỉ mến thôi chứ không yêu, vậy mà tôi có ý muốn lấy Khanh làm vợ là vì tôi muốn cho trí não tôi khỏi phải bận nghĩ nữa.
Tôi nhìn thẳng vào Kỳ Phát, lâu lâu mới hỏi:
- Cứ như lời anh nói thì tôi có thể ngờ được rằng anh đã thất vọng vì tình… Nhưng đã mấy năm nay biết anh, tôi có hề thấy anh để ý đến người con gái nào đâu?
Kỳ Phát nhìn thẳng vào mắt tôi, chống tay ngồi lại rồi hỏi:
- Vậy ra anh đã quên Cúc?
Tôi chợt nhớ nhưng cũng vờ hỏi lại:
- Cúc nào nhỉ? À, có phải Cúc là cô con gái dịu dàng xinh đẹp ở gần Tân Đệ mà anh đã gặp trong khi tra xét ra cái kho tàng nhà họ Đặng* hay không?
Kỳ Phát cau mặt như tức tối, rồi bảo tôi rằng:
- Còn Cúc nào nữa cơ chứ? Ở đời tôi, chỉ có một Cúc: Cúc của tôi mà thôi!
Tôi hỏi:
- Vậy ra anh đã yêu Cúc ngay từ khi ấy nhưng tại sao mà anh lại không lấy Cúc? Tôi thiết tưởng khi ấy anh là ân nhân của nhà họ Đặng, tất nhiên chỉ một lời anh nói là Cúc sẽ thành vợ anh ngay! Kỳ Phát thở dài:
- Sự thực, thì anh không ngờ rằng chính vì điều ấy mà tôi không lấy Cúc. Tôi nghĩ nếu mình hỏi Cúc lúc bấy giờ thì chẳng khác gì mình đòi họ đền công mình, điều ấy tôi không bao giờ muốn. Hơn nữa, sau khi tìm thấy cái kho tàng nhà họ Đặng, Cúc thành một cô con gái nhà giầu, tôi cầu hôn chẳng hóa ra có ý muốn đào mỏ hay sao? Đó là hai điều tôi muốn tránh…
Ngừng lại một lúc lâu, Kỳ Phát mới lại thở dài nói tiếp: - Ấy, cái tuổi trẻ cương cường đã làm cho tôi phải băn khoăn ngày nay. Vì lòng tự ái, sau khi tìm giúp cái kho tàng nhà họ Đặng, tôi nhất quyết bỏ ra đi, không cần lấy một lời cảm ơn nào hết. Mặc dầu, cái mối tình thầm kín đầu tiên kia, tôi vẫn ấp ủ trong lòng chẳng khác nào một hòn than hồng vùi trong đống tro vẫn cháy ngấm
ngầm chứ không chịu tắt đi… Muốn quên hẳn mối tình ấy, tôi sinh ra ý nghĩ muốn cưới Tuyết Khanh làm vợ, nhưng sau cái phút ngông cuồng, tôi đã nghĩ lại vì tôi biết tôi chẳng có quyền lừa dối một người con gái như Tuyết Khanh rồi làm hại cả một đời tình của họ…
Tôi nhìn Kỳ Phát rồi hỏi:
- Tôi cứ theo cách tâm lý luận đoán thì khi đã nhất quyết xa lìa Tuyết Khanh anh phải có một ý định nào chắc chắn? Kỳ Phát gật đầu:
- Tôi chỉ có một ý định là cố sức quên Cúc!
Tôi tiếp lời:
- Nhưng anh không quên được?
Kỳ Phát mân mê điếu thuốc lá trên tay, nhìn chấm lửa gần tàn tắt hẳn, rồi nói rằng:
- Có lẽ tôi đã quên được hẳn Cúc, nếu không có số mệnh éo le… Anh thử nghĩ mà coi, nếu tôi không gặp Cúc thì không chừng nhờ có chí cương quyết và tính ham làm việc mà tôi bây giờ đã không còn nghĩ gì đến mối tình đầu tiên ấy nữa!
Tôi giật mình, hỏi:
- Anh gặp Cúc bao giờ? Sao anh không kể chuyện cho tôi biết? Kỳ Phát trả lời:
- Tôi gặp Cúc đã sáu tháng nay… nhưng tôi chẳng kể chuyện lại với anh vì có vui gì những mối tình xưa, nghĩa cũ ấy. Buổi sáng hôm đó, tôi đương đứng trong Gôđa tìm mấy thứ hàng cần dùng thì thoáng thấy một người đàn bà quen quen mà hai phút sau tôi đã nhận ngay ra Cúc, mặc dầu, Cúc bây giờ có đẫy hơn ngày trước và
cũng nghiêm trang hơn chứ không có nhí nhảnh như xưa. Buổi ấy, Cúc đi với một người đàn ông mà tôi đoán là chồng và một đứa bé con chừng 12 tuổi…
Tôi gật đầu:
- Có, tôi có biết Cúc đã lấy chồng và lấy một ông Huyện mới trước đã từng du học bên Pháp về…
Kỳ Phát như không để ý đến câu tôi vừa nói, tiếp:
- Cúc thấy tôi, chỉ cúi đầu chào mà không nói một lời nào, có lẽ là vì ngại có chồng đi cạnh hoặc là vì chính Cúc cũng nghĩ… thà rằng chẳng nói cho xong…
Tôi nói:
- Nhưng bây giờ ông Huyện Vinh, chồng Cúc, chết rồi… Như bị điện giật, Kỳ Phát choàng đứng dậy, hỏi:
- Chồng Cúc chết rồi, ai bảo anh thế?
Tôi gật đầu:
- Tôi biết đích là vì Huyện Vinh trước đây có cùng học với anh tôi. Tình cờ một hôm tôi có xem tờ giấy báo tang, hỏi thì anh tôi bảo: ông Vinh mất là vì bị đau gan!
Càng nghe tôi nói, Kỳ Phát càng có vẻ nghĩ ngợi, nhưng sau cùng thì ngồi phịch xuống ghế chán nản mà bảo tôi rằng:
- Cái tin buồn đó cũng chẳng ích hơn gì cho tôi, anh ạ, vì Cúc đã có con, bổn phận Cúc là phải thờ chồng mà gây dựng cho đứa con ấy nên người… Còn tôi, tôi cũng không hy vọng gì nữa, chỉ cầu trời sao cho Cúc khỏi đau khổ và sau đây được hưởng hạnh phúc lâu dài…
Mấy câu nói sau cùng này của Kỳ Phát nhỏ dần, và giọng nói thành thực trong bầu không khí tĩnh mịch của trời khuya làm cho tôi tưởng như đó là một bài kinh cầu nguyện.
CHƯƠNG 2
MỘT BỨC THƯ CỦA
NGƯỜI YÊU KỲ PHÁT NHƯNG
CHẲNG PHẢI LÀ BỨC THƯ TÌNH
Buổi sáng hôm sau, chúng tôi đều dậy muộn, chỉ là vì đêm trước thức khuya, chúng tôi đều thấy mệt vô cùng. Khi chúng tôi bước xuống giường thì mặt trời đã lên cao, chiếu một vệt nắng dài qua cửa sổ vào trong nhà, đến gần sát chân bàn, chỗ thằng nhỏ đương đứng sửa soạn pha cà phê.
Tôi vươn vai hỏi:
- Mấy giờ rồi nhỉ?
- Thưa cậu 8 giờ rưỡi hơn rồi!
- Thế sao mày không gọi chúng tao dậy?
- Thưa cậu, con định đợi cho nước sôi trong phích xuống gần hết thì mới đánh thức các cậu dậy xơi cà phê cho kịp!
Kỳ Phát cũng ngáp dài mà bảo tôi rằng:
- Gớm, chưa bao giờ tôi ngủ say như đêm qua, nếu không có ánh nắng chiếu vào làm chói mắt thì có lẽ không biết chừng tôi ngủ luôn một mạch cho đến lúc còi nhà hát!
Tôi cười bảo:
- Thức khuya thì ngủ mệt, có gì là lạ!
Kỳ Phát lắc đầu:
- Không phải, sao mọi khi tôi vẫn thức trắng đêm để rình mò, dò xét không thấy mệt mỏi bao giờ cơ mà…
Ngừng một lát, Kỳ Phát lại mỉm cười, nói tiếp:
- Tội chỉ ở cô Cúc… Cho hay không có gì làm mệt thần trí bằng những ý nghĩ buồn rầu.
Tôi sợ rằng buổi sáng ngày hôm nay lại bị câu chuyện không vui kia làm thành u ám nên vội vàng hỏi sang chuyện khác: - Anh uống cà phê không, hay cho sữa thì bảo nó pha luôn ngay đi!
Kỳ Phát lắc đầu:
- Không, tôi uống không thôi mà uống đặc để cho tỉnh. Và liếc nhìn trên bàn, Kỳ Phát bảo thằng nhỏ:
- À, có báo và thư rồi kia à, mày đưa đây cho tao!
Thằng nhỏ đưa tập thư và hai tờ báo cho Kỳ Phát. Nhìn qua những dòng chữ đề trên bì ba bức thư, Kỳ Phát bảo: - Ba cái thư của tôi cả! Đây, báo đây, anh đọc.
Và sau khi đưa báo cho tôi, Kỳ Phát bóc dần từng phong bì thư ra. Có lẽ hai bức thư đầu tiên không có gì quan trọng nên sau khi liếc nhanh qua, Kỳ Phát chép miệng chán nản rồi bỏ thư xuống cạnh giường. Nhưng đến bức thư thứ ba thì vừa mới đọc mấy dòng đầu, tôi đã thấy Kỳ Phát vội vàng lật xem mặt sau để tìm tên ký rồi kêu to bảo tôi:
- Cúc, Cúc anh ạ!
Tôi cũng ngạc nhiên:
- Cái gì? Thư của Cúc à?
Kỳ Phát không trả lời câu hỏi của tôi, chăm chú đọc thư, rồi sau khi xem hết, đọc lại một lần nữa, sau cùng thì rút vội chiếc khăn, lau qua mặt, vớ lấy đôi giầy, vừa xỏ vào chân vừa bảo tôi rằng: - Anh sửa soạn mặc quần áo ngay đi thôi!
Tôi hỏi lại:
- Nhưng đi đâu cơ chứ?
Kỳ Phát gắt:
- Thì cứ hãy mặc quần áo đã nào!
Tôi vừa vươn vai, vừa nói:
- Thì việc gì cũng hãy rửa mặt mũi, uống cà phê xong xuôi đã, rồi muốn đi đâu hãy hay!
Kỳ Phát nghe tôi nói, lườm một cái dài mà tôi thấy chứa chấp không biết bao nhiêu là tức giận, rồi chẳng nói thêm nửa lời, lẳng lặng mặc quần áo trong hai phút, chải đầu trong 30 giây, rồi một phút sau đã khoác áo, mở cửa bước ra khỏi nhà.
Trông thái độ Kỳ Phát, tôi biết gọi chàng lại lúc bấy giờ cũng là vô ích. Nhưng tôi chợt trông thấy lá thư, lá thư mà Kỳ Phát bảo là của Cúc, nên cầm lên đọc.
Đó là lá thư viết vào giấy mầu xanh nhạt, kiểu sang, nhưng nét chữ thì xấu xí tỏ rõ là một người chưa từng theo học được bao lâu:
“Ông Kỳ Phát,
Tôi chắc ông không nhận được ra chữ viết lá thư này là của ai, mặc dầu kẻ ký tên dưới đây với ông vốn là chỗ quen biết cũ. Và tôi biết ngay bây giờ ông cũng vẫn nhớ đến tôi vì cứ như
buổi gặp ở Gôđa dạo trước thì thoáng trông, ông đã nhận được ra tôi ngay.
Mà chắc ông cũng không ngờ rằng sau đó một tháng, nhà tôi bị bệnh đau gan mà từ trần, tôi và thằng cháu Hoàn phải về Hà Đông ở. Xin ông hãy khoan đừng tỏ lời chia buồn cùng tôi vội. Tôi hiện thời còn có việc đau khổ lo lắng hơn nhiều. Đầu đuôi, kể ra đây hết thì nhiều quá, mà không rõ nữa, vậy tốt hơn hết là xin mời ông vào cho tôi được gặp, để tôi thuật rõ ông nghe…”
Đọc đến đoạn này, tôi ngừng lại mà ngẫm nghĩ:
- Lạ quá nhỉ, hay là Cúc trong lúc bơ vơ chiếc bóng, chợt cảm thấy tâm hồn trơ trọi, nghĩ đến mối tình xưa…
Nhưng tôi đã đọc tiếp đến đoạn cuối, Cúc viết:
“Dù bận việc gì, ông cũng vào ngay, vì ngoài ông là một người có tài trinh thám bực nhất nước Nam thì vị tất không có ai giúp tôi được. Nếu ông chậm vào thì không khéo tôi buồn rầu, lo sợ đến chết mất thôi…”
Tôi hối hận ngay vì đã nghi ngờ tấm lòng trong sạch của Cúc. Thực vậy, cứ đọc đoạn cuối trong bức thư này, ai mà không biết ngay rằng ở nhà Cúc vừa xẩy ra một sự kinh khủng gì, ghê gớm lắm vì nếu Kỳ Phát chậm vào thì Cúc có thể lo lắng sợ hãi đến chết được. Lúc này Cúc đương cần đến cái tài trinh thám của Kỳ Phát, chứ chẳng phải cần đến mối tình của chàng ta như trước tôi đoán vội.
Và lúc này, tôi lại hối hận ngay rằng lúc nẫy đã hỏi lôi thôi mãi làm cho Kỳ Phát tức giận không thèm đợi tôi đi cùng nữa. Nhưng nhìn
dưới lá thư, tôi thấy có đề địa chỉ rõ ràng, tôi mừng thầm rằng mình đi ngay bây giờ cũng còn kịp chán, nếu có chậm chăng nữa thì cũng vào sau Kỳ Phát chừng nửa giờ thôi.
Đã quyết định, tôi lập tức đứng dậy, mặc quần áo rồi thuê xe ra Bờ Hồ định gặp tầu điện thì đi tầu, không có thì đi ô tô cũng được. Mấy phút sau, xe tôi đã đỗ ở trước ga xe điện, tôi thoáng trông thấy chuyến tầu Hà Đông sắp chạy nên vội vàng trả tiền xe rồi đợi cho tầu qua ga thì nhẩy lên. Người đầu tiên tôi trông thấy ngồi trên tầu là Kỳ Phát. Anh chàng loay hoay hết nhìn qua cửa sổ xuống đường, lại nhìn vào phía trong tầu hình như đương nóng nẩy lắm mà không làm sao hơn được. Tôi lặng lẽ vào ngồi bên Kỳ Phát rồi hỏi:
- Kìa, tôi tưởng anh đã vào Hà Đông rồi?
Kỳ Phát cau mặt bảo:
- Tôi cần phải nói để anh biết rằng lúc này chẳng phải là lúc nên trêu ghẹo tôi!
Biết Kỳ Phát vẫn tức, tôi đành giảng hòa bảo:
- Sao mọi khi anh không nóng nẩy thế này cơ mà?
Kỳ Phát nhìn thẳng vào mặt tôi, bảo:
- Nhưng anh quên rằng bây giờ Cúc của tôi đương trong cơn nguy hiểm à?
Tôi giảng giải:
- Tôi đã đọc bức thư của Cúc viết, tôi thấy rằng Cúc vẫn bình yên ở nhà, có nguy hiểm gì đâu, họa chăng là có sự gì nguy hiểm đã xẩy ra ở ngay cạnh Cúc.
Kỳ Phát gật đầu, nói:
- Anh đoán có lý, nhưng anh không nhớ tới chỗ cứ xem lời thư kia, tôi có thể biết được, Cúc hiện đương bối rối lắm. Anh thử hỏi lại xem, Cúc viết lá thư ấy, chỉ có ý định gọi tôi vào, như vậy thì việc gì phải viết lôi thôi dài dòng thế, cứ viết mấy chữ nói cần đến tôi vì đương trong cơn nguy hiểm đã đủ rồi có phải không? Đằng này Cúc nói loanh quanh mãi, mà rút cục cũng không cho tôi được biết hơn gì cả. Điều này tôi lấy làm ngạc nhiên vì tôi biết tính Cúc ngay hồi trước vốn đã minh mẫn và gan dạ lắm.
Liếc nhìn xuống đường, rồi lại nhìn về phía người bẻ máy, Kỳ Phát chép miệng nói:
- Gớm sao tầu chạy chậm thế này, bây giờ tôi chỉ muốn có cánh để bay đến ngay với Cúc… Tôi muốn còn bao nhiêu sinh lực tài cán đem ra để che chở cho Cúc…
Tôi nghe Phát nói mà phải cố nhịn cười, vì tôi thực lần đầu mới thấy Kỳ Phát không định được thần trí như vậy. Và tôi lại nghĩ, đến một người như Kỳ Phát, xưa nay xử sự cương quyết và sáng láng như thế nào mà bây giờ cũng thành ra luống cuống chẳng hơn gì một kẻ si tình tầm thường như chúng ta thường gặp.
Nhưng khi tầu đến gần Hà Đông thì tôi chợt thấy Phát đứng dậy. Người chàng lúc này như đã hoàn toàn thay đổi.
Kỳ Phát đã trở lại bình tĩnh như thường, sửa lại chiếc ca vát, rồi bảo tôi:
- Chúng ta cần phải bình tĩnh mới được!
Kỳ Phát nói câu này, có lẽ cốt để tự kỷ ám thị thì đúng hơn là nói với tôi.
Một lát sau, Phát và tôi đã đứng trước một ngôi nhà hai tầng, rộng lớn, lối nhà Tây đồ sộ ở tỉnh nhỏ.
Kỳ Phát vừa mới bấm chuông thì đã có một vú già chạy ở một chiếc ngõ bên cạnh ra, ngơ ngác nhìn quanh, khi thấy chúng tôi thì hỏi rằng:
- Các ông hỏi gì đấy ạ?
Kỳ Phát hỏi:
- Bà Huyện có nhà không?
Nhưng vú già không trả lời mà hỏi lại:
- Ông hỏi bà Huyện nào ạ?
Tôi đỡ lời Kỳ Phát:
- Tôi muốn hỏi bà Huyện Vinh. Bà có thư gửi ra tìm chúng tôi vào…
Vú già nghe tôi nói, sắc mặt không có vẻ ngơ ngác như trước nữa nhưng bảo chúng tôi rằng:
- Vậy xin hai ông hãy đứng chờ một lát để tôi vào thưa với bà lớn đã.
Kỳ Phát hơi cau mặt, không hiểu rằng chàng tức tối vì thấy vú già quay vào đã cẩn thận khóa chiếc cổng lại, hay là vì chữ bà lớn kia. Nhưng chỉ một lát thôi, vì Kỳ Phát đã thoáng nghe thấy phía trong có người gắt:
- Thế sao vú không mời các ông ấy vào ngay đây?
Nghe tiếng quen quen, có lẽ đã mười mấy năm qua mà không thay đổi mấy, Kỳ Phát nắm lấy tay tôi, rồi nói nhỏ nhỏ: - Anh ạ, tôi chỉ lo đến trước mặt Cúc thì không còn đủ ý chí giữ vẻ
bình tĩnh nữa.
Tôi nghe Kỳ Phát nói giọng gần như van xin năn nỉ mà thương hại anh chàng đã chôn sâu một mối tình thầm kín và hiểu ra rằng tại sao sáng nay, Kỳ Phát nhận được thư lại muốn có tôi cùng vào nhà Cúc. Chắc hẳn Phát muốn có tôi nữa thì cuộc gặp gỡ đỡ hồi hộp chăng?
Tôi chỉ kịp nói:
- Kỳ Phát, anh cần phải yên trí vì lần này anh vào đây là để cứu giúp Cúc ra khỏi cơn nguy hiểm. Nếu chính anh cũng cuống quýt thì còn làm nên việc gì nữa?
Tới đây, tôi đã thấy một người đàn bà vận toàn đồ lụa ở phía trong bước ra. Mặc dầu chẳng còn phải là một thiếu nữ ngây thơ nữa, nhưng nhìn Cúc - bà Huyện Vinh - tôi cũng vẫn thấy cái vẻ đẹp mơ hồ khi xưa còn thoảng lại.
Bà Huyện quấn tóc trần, có lẽ vội vàng ra đón khách nên đầu vẫn còn nhiều chỗ rối, hớn hở nói:
- Ông Kỳ Phát thực không phụ lòng tin cậy của tôi chút nào, tôi tưởng ít nhất thì cũng phải mai ông mới vào, không ngờ sáng nay ông đã đến rồi…
Rồi vừa mở khóa cổng, bà Huyện vừa vui vẻ nói:
- Gớm bà vú thực không biết gì, ai lại khách đứng ngoài mà đem khóa cổng như thế này?
Kỳ Phát nói:
- Thưa, không sao ạ, chắc hẳn từ khi xẩy ra việc nguy hiểm thì bọn người nhà sinh ra lo sợ nên chúng đề phòng cẩn thận! Bà Huyện liếc nhìn Kỳ Phát mà không nói gì. Có lẽ trong óc bà
cũng đương so sánh giọng nói ấy với những lời nhỏ nhẻ của chàng thiếu niên đêm Ba mươi Tết năm nào vào nhà mình ngủ trọ xem có đổi khác nhiều không…
Mấy phút sau, chúng tôi đã vào trong phòng khách, một gian phòng bầy biện toàn những đồ quý giá, tỏ rõ địa vị quan cách của chủ nhân… Kỳ Phát để ý nhìn chung quanh như cái thói quen chàng xưa nay, nhưng Phát cắn môi… Tôi đã hiểu cái cử chỉ của Phát, anh chàng si tình vừa mới thoáng trông thấy bức chân dung của ông Huyện Vinh treo trên tường, chẳng khỏi thấy động lòng ghen ghét cái người đã hưởng phúc hơn mình. Bà Huyện đã bấm chuông bảo người nhà pha nước. Nhưng Kỳ Phát gạt đi:
- Thưa, xin bà hãy nói rõ cho tôi biết ngay những việc đã xẩy ra… Bà Huyện vội nói:
- Vâng, xin hai ông hãy thư thả uống nước đã. Trước tôi lo sợ lắm, nhưng bây giờ thấy hai ông vào đây thì tôi không còn lo ngại gì nữa rồi… để rồi tôi xin thưa chuyện hai ông rõ.
Kỳ Phát dùng mấy ngón tay gõ nhịp trên đùi. Tôi biết cử chỉ đó chứng tỏ anh chàng nóng nẩy lắm. Bỗng Phát nhìn thẳng vào bà Huyện mà đột ngột nói:
- Thưa bà, xin bà tha lỗi cho tôi… Chúng tôi vào đây hôm nay là vì nhận được bức thư của bà gửi, nhưng khi nẫy, chúng tôi thấy bà vui vẻ hớn hở như chẳng có chuyện gì xẩy ra, và bây giờ bà lịch thiệp giữ chúng tôi lại uống nước thì chúng tôi tự nhiên có ý nghĩ muốn ra khỏi nhà này ngay vì chúng tôi không có lý gì mà lại đây làm khuấy rối bà cả.
Tôi biết Kỳ Phát có tức giận lắm mới nói câu này. Tôi tưởng
chừng như bà Huyện sau câu nói thẳng của Kỳ Phát sẽ phật lòng, không ngờ bà vẫn tươi cười mà hỏi lại Kỳ Phát rằng: - Thế tại sao đến bây giờ ông vẫn còn ngồi đây?
Kỳ Phát gật gù có vẻ bằng lòng lắm, rồi nói rằng:
- Phải, câu nói ấy mới thực là câu nói tự nhiên giống hệt cô Cúc xưa kia!
Và tiếp đó, Kỳ Phát lại nghiêm luôn sắc mặt mà bảo: - Bà hỏi tại sao chúng tôi vẫn còn ngồi ở đây ư? Đó chỉ là vì mặc dầu bề ngoài bà hớn hở chào mời như thế, cứ trông cái cười gượng gạo, và nhất là đôi mắt sâu hoắm vì thức nhiều và lo nghĩ kia, chúng tôi không lạ gì rằng bà quả nhiên đương ở trong thời kỳ nguy hiểm. Chính vì thế mà chúng tôi hãy còn ngồi lại đợi.
Kỳ Phát nói câu này mà không hề rời mắt khỏi bà Huyện, hình như muốn những lời nói của mình đi thẳng tới tim óc của người ngồi đối diện.
Quả nhiên, bà Huyện đã bị luồng nhỡn tuyến ấy khuất phục. Bà thở dài mạnh một cái, rồi như trút bỏ bộ mặt giả dối vui vẻ kia, bà nho nhỏ nói với chúng tôi rằng:
- Xin các ông tha thứ cho tôi. Mười mấy năm sống trong bầu không khí đài các câu nệ, tôi hầu như đã bị nhiễm thói quen rồi. Nhưng có lời nói của ông Kỳ Phát - vẫn cái giọng nghiêm nghị nửa như kiêu ngạo, vẫn cái nhìn thẳng thắn nửa như khiêu khích - làm cho tôi như sống trở lại cái đời tự nhiên của tôi khi xưa, khi còn ở cùng cha tôi ở vùng Tân Đệ.
Thì ra nhờ có cách xử trí thẳng thắn của Kỳ Phát, tôi đã lại thấy
người thiếu phụ ngồi trước mặt chẳng phải là vợ góa ông Huyện Vinh nữa mà chỉ là cô Cúc, cô Cúc của Kỳ Phát.
CHƯƠNG 3
MỘT VỤ BẮT CÓC
Kỳ Phát có vẻ bằng lòng lắm.
Chàng vui vẻ gật gù rồi nói:
- Phải đó, có như thế thì tôi mới có thể ngồi ở đây lâu được nữa…
Tôi cũng tìm lời để giảng giải:
- Tôi tuy gặp bà lần đầu, nhưng anh Kỳ Phát đã có kể chuyện cho tôi biết nhiều lần. Như vậy hai người đã quen biết từ lâu, vậy thực không có cớ gì mà hai người lại cứ khách sáo coi như lạ lùng lắm vậy…
Rồi không đợi ai nói câu gì, tôi quay lại hỏi luôn Kỳ Phát: - Sao tôi vẫn thấy anh nói với tôi rằng ngay từ xưa anh vẫn coi cô Cúc - xin lỗi bà - như là em gái anh cơ mà?
Và tôi lập tức quay lại hỏi Cúc - bà Huyện:
- Có phải thế không, thưa bà?
Chẳng hiểu Cúc nhớ nhầm, hay hiểu ý tôi muốn gây giữa hai người không khí thân mật, Cúc gật đầu cười, mà trả lời: - Vâng, quả có như thế, tôi cũng coi ông Kỳ Phát như anh tôi vậy. Tôi cười xòa rồi bảo cả hai người:
- Thế thì ông bà chẳng nên khách khí nữa, cứ xưng hô như anh em cho tiện, có thế thì chúng ta mới tiện tiến hành công việc được.
Thế nào, việc xẩy ra thế nào, xin “chị” hãy kể cho chúng tôi nghe từ đầu…
Kỳ Phát liếc nhìn tôi, rồi cười, nói:
- Gớm anh cũng khéo dàn xếp lắm!
Và quay lại phía Cúc, Kỳ Phát tiếp:
- Vậy thế nào, “chị” có bằng lòng không?
Cúc như đương nghĩ đến chuyện xa xôi, nghe thấy câu hỏi của Phát, vội quay lại nói:
- Kể ra anh cứ gọi tôi là em như ngày xưa hoặc trống không là Cúc thì hơn!
Tôi ở giữa vui vẻ nói:
- Thôi thế là cuộc “đàm phán” xong rồi, chị hãy bắt đầu kể lại việc đã xẩy ra cho chúng tôi nghe đi!
Cúc gật đầu:
- Vâng, câu chuyện cũng không có gì, nhưng đối với tôi thì quan hệ lắm vì đời tôi bây giờ, hiện chỉ còn có cháu Hoàn là làm cho tôi còn thấy đời vui vui…
Tôi giật mình hỏi:
- Hoàn làm sao hở chị? Chúng tôi thực vô ý quá, suốt từ lúc vào không thấy cháu mà cũng không nghĩ tới!
Cúc rớm nước mắt, nói:
- Cháu nó bị bắt cóc đi rồi!
Tôi vội hỏi:
- Chết chửa, bị bắt tự bao giờ?
Nhưng Kỳ Phát đã điềm tĩnh bảo tôi rằng:
- Chúng ta phải để Cúc thong thả kể lại từ đầu câu chuyện thì mới được, chứ nếu cứ hỏi luôn thì rồi không còn hiểu mạch lạc ra sao nữa đâu.
Và quay lại phía Cúc, Kỳ Phát mở đầu:
- Trước hết Cúc hãy cho chúng tôi biết Cúc về ở Hà Đông tự bao giờ? Và Hoàn cũng theo về đây đi học chứ?
Cúc gật đầu:
- Tôi và cháu về đây ở từ tháng sáu, nhà tôi mất đi, ở nhà ngoài Hà Nội thấy lạnh lẽo lắm nên hai mẹ con mới về đây ở. Về được mấy hôm, muốn cho cháu khỏi dở dang sự học, tôi xin cho cháu vào một trường tư ngay gần đây. Hàng ngày cháu vẫn đi học, không hề có xẩy ra một sự gì cả, vì tuy nó còn non tuổi nhưng đã biết nghĩ, ngoan ngoãn, vâng lời…
Ngừng lại một lát, Cúc lại tiếp:
- Nhưng bỗng trưa ngày hôm kia, giờ học đã tan. Tôi hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ nào cháu vốn chăm chỉ mà lại vì không thuộc bài bị phạt ở lại. Dẫu vậy, tôi cũng cho người nhà lại hỏi thì ông giáo nói cháu đã về cùng với các bạn khi tan giờ rồi. Trước tôi còn phỏng đoán rằng có lẽ cháu đi lại nhà một người bạn nào để mượn sách vở gì chăng, song như mọi khi, lúc cần phải đi đâu, cháu vẫn thường dặn tôi trước; sau đợi mãi, không thấy cháu về, cả đến lúc vào học chiều, lại trường hỏi cũng không thấy, tôi mới cuống cuồng cho người đi lùng tìm các nơi…
Ngừng lại như muốn gượng cho dòng nước mắt khỏi trào ra, lát sau, Cúc mới lại tiếp:
- Như vậy chắc là có kẻ nào lừa bắt cóc cháu đi đâu rồi, khốn nạn, không biết đến bao giờ mẹ con mới được gặp nhau, hay là người ta đã mang nó đi tận đâu rồi? Tôi chỉ có một mình nó, bây giờ mà nó mệnh hệ nào thì thực tôi không sao sống được!
Kỳ Phát hỏi:
- Nhưng Cúc có biết liệu có một kẻ thù nào xưa nay vẫn rắp tâm hại Cúc không?
Cúc lắc đầu:
- Anh nghĩ xem, hiền lành như tôi thì còn làm gì có kẻ thù nữa. Tôi nhắc:
- Nhưng còn ông Huyện?
Cúc gật đầu:
- Vinh tuy làm quan nhưng người vốn tính nhân từ chắc không gây ra những mối hiềm thù gì sâu độc. Đó là tôi đoán như vậy thôi, chứ còn trong khi làm việc quan dù chân chính công liêm đến bực nào cũng khó mà giữ cho mọi người cùng bằng lòng hết thẩy. Tuy nhiên tôi không hề thấy Vinh kể chuyện gì thù hằn cho tôi biết cả.
Tôi nói:
- Chúng ta cũng nên nghĩ đến chỗ có kẻ biết nhà này nhiều tiền của nên bắt cóc cháu Hoàn đi, cốt để làm một món tiền. Kỳ Phát lắc đầu:
- Điều ấy, tôi đã nghĩ đến rồi, nhưng không có lẽ, vì nếu Hoàn bị quân gian bắt cóc để đòi tiền chuộc thì chỉ độ hai ngày đã có thư đến nói rõ phải chuộc bao nhiêu…
Tôi cãi:
- Cần gì chúng phải vội như vậy, để dằng dai thì mình lại càng thêm lo sợ chứ sao?
Kỳ Phát bĩu môi, bảo tôi rằng:
- Anh nói thực không suy nghĩ gì cả. Nên hiểu rằng bọn bắt cóc cần phải báo tin cho người nhà biết ngay, sau khi đã giấu được đứa trẻ vào chỗ kín đáo rồi, cốt để cho người nhà không cuống quýt đi báo sở mật thám, tức là một điều trở ngại lớn cho chúng. Anh không thường thấy trong lá thư đầu của kẻ bắt cóc bao giờ cũng nói đến việc: đứa nhỏ hiện đã yên ổn ở một nơi và khỏe mạnh, nhưng nếu không đưa chúng một số tiền bao nhiêu đó và trình báo thì lập tức đứa nhỏ bị giết ngay…
Cúc lo lắng hỏi:
- Vậy anh tin Hoàn bị kẻ thù của chúng tôi bắt đi?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Tôi không biết chắc nhưng hiện nay thì chỉ dự đoán được thế! Cúc ngẫm nghĩ một lát rồi mới nói:
- Nếu vậy thì nguy hiểm lắm, vì nếu bị bắt cóc cốt để đòi tiền chuộc thì khi mình bằng lòng, mọi việc sẽ xong xuôi, nhưng đằng này lại bị kẻ thù bắt đi, tất nhiên thế nào chúng cũng hại con tôi mất…
Rút khăn ra lau nước mắt, Cúc sếu mếu tiếp:
- Trời ơi, nào tôi có làm gì nên tội để đến nỗi con tôi phải thiệt mạng một cách đau đớn như thế này!
Phát xem chừng cũng cảm động lắm. Chàng lúng túng vì biết rằng mình đã nói một câu khờ dại làm cho Cúc lo lắng, mãi mãi mới
bảo Cúc rằng:
- Cúc không nên hốt hoảng vội. Đó chỉ là những điều tôi phỏng đoán, biết đâu sự thực chẳng khác xa. Vả lại, dù chúng ta ngờ rằng, Hoàn bị kẻ thù bắt, chúng ta cũng vẫn chưa nghĩ được ra kẻ thù là ai cơ mà… Hơn nữa, theo như chỗ chúng ta biết chắc thì Cúc lại không biết có ai là kẻ thù hết.
Cúc chắp hai tay lại mà năn nỉ:
- Tôi bây giờ ruột gan rối bời bời thực không còn biết xử trí làm sao nữa, vậy trăm việc xin cứ trông cậy ở anh…
Kỳ Phát gật đầu:
- Nếu thế thì được rồi, ngay bây giờ tôi lập tức đi tìm hỏi mấy nơi mà tôi có ý ngờ, khi được tin tức gì tôi sẽ trở lại báo cho Cúc biết ngay để Cúc yên lòng.
Nói tới đây, Kỳ Phát đứng dậy, sau khi hỏi han qua loa về cách ăn vận của Hoàn hôm mất tích để ghi chép vào một cuốn sổ và giữ lấy một chiếc ảnh.
Cúc nửa như hy vọng, nửa như lo lắng, tiễn chúng tôi ra cửa còn hỏi Kỳ Phát rằng:
- Thế nào, cứ như việc này thì anh có hy vọng gì tìm thấy thằng cháu không?
Kỳ Phát chỉ trả lời một cách mơ hồ:
- Vâng tôi đã nói rằng sẽ hết sức tra xét việc này, vậy Cúc cứ yên lòng…
Tôi cũng nói:
- Chị hẳn cũng chẳng lạ gì tài của anh Phát, một khi anh đã nói
thế nghĩa là gần như chắc chắn thành công rồi còn gì nữa! Bỗng Kỳ Phát sực nhớ, hỏi Cúc:
- Suýt nữa quên không hỏi Cúc, trước hôm Hoàn mất tích, Cúc có biết có ai là người lạ mặt đến chơi đây, hoặc hỏi han gì Hoàn không?
Cúc vội vàng nói:
- Nếu anh không hỏi đến thì tôi cũng không nhớ nữa… A, bây giờ tôi mới nhận ra có một sự, không chừng mà có liên can tới việc Hoàn bị mất tích thực… Trước hai hôm xẩy ra việc bắt cóc, Hoàn có về kể chuyện với tôi rằng khi vừa tan học ra Hoàn có gặp một ông già đeo kính đen, gọi Hoàn lại hỏi có phải tên là Hoàn không, sau đó lại hỏi bao nhiêu tuổi…
Cúc ngừng lại một lát rồi nói tiếp:
- Mà cái ông già ấy mới thực là quái lạ, hỏi tuổi xong lại hỏi cả ngày sinh tháng đẻ nữa.
Kỳ Phát hai mắt quắc sáng khi nghe lời Cúc nói. Tôi biết ngay rằng tất nhiên việc xẩy ra này phải có liên can mật thiết với vụ Hoàn bị bắt cóc mà không biết chừng nhờ đó Kỳ Phát sẽ tìm ra manh mối.
Ngẫm nghĩ một lúc lâu, Kỳ Phát lẩm bẩm gật gù, rồi bỗng hỏi lại Cúc:
- Thế Hoàn có nói rõ rằng ông già ấy hỏi đi hỏi lại nhiều lần về cái ngày sinh tháng đẻ của Hoàn không?
Cúc gật đầu:
- Hình như Hoàn nói rằng ông cụ ấy có hỏi cẩn thận rằng có chắc ngày sinh kia khai thực đúng không. Lẽ tất nhiên là Hoàn trả lời
không biết, lúc ấy ông già kia mới chịu đi.
Kỳ Phát xoa tay mà nói rằng:
- Thế Hoàn không tả hình dạng ông già cho Cúc nghe à? Cúc lắc đầu:
- Không, cháu nó chỉ nói ông già ấy đi gù gù như còng lưng và đeo kính đen thôi…
Và Cúc tiếp:
- Vả lại tôi cũng không để ý gì, chỉ cẩn thận dặn cháu từ nay có ai người lạ hỏi thì chỉ được nói qua loa rồi đi ngay chứ không được đứng lâu. Thế anh nhận ra rằng thủ phạm chính là ông già ấy à? Kỳ Phát lắc đầu:
- Có đâu mà chóng được thế, có điều ông già kỳ lạ này tất nhiên cũng phải có liên lạc đến vụ việc. Nhưng ngay bây giờ tôi có thể cam đoan với Cúc rằng chắc chắn hiện thời Hoàn chưa nguy hiểm gì đến tính mệnh đâu, và may ra thì chỉ vài ba hôm, tôi sẽ có thể đưa Hoàn về đây trả Cúc được!
Cúc sung sướng quá, nhưng lại nghi ngờ hỏi rằng:
- Anh có nói thực không, tôi sợ anh thấy tôi cuống quýt thì nói vậy cho tôi yên lòng thôi, vì lúc nẫy anh chẳng nói rằng chưa hiểu rõ việc này đấy ư?
Kỳ Phát gật đầu, rồi nghiêm giọng bảo:
- Vâng lúc nẫy thì tôi nói với Cúc như vậy, nhưng bây giờ, bây giờ thì khác hẳn rồi, bây giờ tôi đã có ông cụ già và… những ngày sinh tháng đẻ!
CHƯƠNG 4
MỘT ÔNG GIÀ THÓC MÁCH
Ra khỏi nhà Cúc, tôi hỏi Kỳ Phát:
- Anh có nói đùa không đấy!
Kỳ Phát lắc đầu nghiêm giọng bảo:
- Với Cúc của tôi thì tôi không bao giờ đùa hết!
Rồi Phát nhìn thẳng vào tôi, hỏi:
- Vậy anh không thấy ông già đó có can hệ mật thiết với việc Hoàn bị mất tích hay sao?
Tôi lúng túng nói:
- Kể ra thì cũng khả nghi lắm nhưng đã chắc đâu chính ông già ấy đã gây nên vụ bắt cóc này. Riêng tôi thì đoán đó chỉ là một ông già tò mò thôi…
Kỳ Phát cười mỉm, vỗ vai tôi mà bảo rằng:
- Ấy chính vì có những ý nghĩ chất phác ấy nên anh không có tài trinh thám. Anh nên nhớ rằng trong những vụ xẩy ra mà người ta không hề có một manh mối nào để tra xét thì chỉ dù một sợi tóc, một hạt bụi, mình cũng phải để ý mở cuộc điều tra. Huống chi là một ông già kỳ lạ.
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát lại thong thả bảo tôi:
- Mà rồi anh xem, ông già ấy còn thóc mách hơn lời anh bình phẩm lúc nẫy nhiều…
Tôi lại hỏi:
- Thế bây giờ chúng ta đi đâu?
Kỳ Phát cười ngất:
- Chúng ta đi theo vết ông già ấy chứ còn đi đâu nữa.
Một lát sau chúng tôi đã vào một trường tư, cái trường của Hoàn học. Gọi là nhà trường cho nó oai vệ, chứ sự thực đó cũng chỉ là một gian nhà thường thôi, lại không rộng rãi nữa là đằng khác.
Ngay ngoài cửa vào, chúng tôi thấy ngay những dãy ghế, bàn dài, để học trò dùng, tuy để mộc nhưng đầy vết mực cùng những nét vẽ bằng chì, bằng phấn của bọn học trò tinh nghịch. Cùng trong gian ấy, ở một góc nhà có kê một chiếc bàn vuông, trên để khay chén, cùng chiếc bát điếu, chung quanh để ba chiếc ghế. Chúng tôi biết ngay đó là chỗ ông đốc hoặc ông giáo tiếp những bậc phụ huynh các học trò. Phía trong còn một gian nữa tuy chúng tôi không trông thấy bàn ghế nhưng nhìn qua cửa, thấy cạnh tường có một chiếc bảng đen và hai bức địa đồ, chúng tôi cũng đoán được đó cũng lại là một lớp học nữa, có lẽ cho các học trò lớp trên ngồi.
Lúc ấy đã gần 11 giờ, nên quang cảnh nhà trường vắng tanh, trông ngổn ngang bàn ghế chẳng khác gì một khu chợ xong phiên họp vậy.
Một người tuổi trạc hăm lăm, hăm sáu ra tiếp chúng tôi. Kỳ Phát hỏi:
- Chúng tôi muốn thưa chuyện với ông đốc?
Người kia mời chúng tôi ngồi ở chỗ bàn vuông rồi nói:
- Chính tôi trông coi cái trường này, chẳng hay các ông là ai và đến hỏi việc gì?
Kỳ Phát xưng tên họ, rồi nói rõ cho ông đốc biết rằng chính bà Huyện Vinh đã nhờ chàng đến mở cuộc điều tra về việc Hoàn bị mất tích. Ông đốc thấy nói là Kỳ Phát có vẻ kính trọng lắm - danh tiếng Kỳ Phát còn ai mà không biết nữa - vui vẻ nói rằng:
- Tôi nghe tiếng ông từ lâu, bây giờ mới được gặp mặt. Chẳng hay ông cần dùng tôi việc gì, xin ông cứ nói.
Kỳ Phát nhìn quanh rồi bỗng chỉ tay vào gian trong mà nói ngay rằng:
- Hoàn, con bà Huyện Vinh học ở lớp bên trong này phải không ông?
Ông đốc gật đầu, ngạc nhiên, hỏi lại:
- Vâng, nhưng tại sao ông lại biết?
Kỳ Phát cười, chỉ tay lên chiếc bảng đen:
- Cứ trong những bài học viết trên bảng này, thì có khó gì mà không hiểu gian ngoài ông vẫn để dạy các học trò từ lớp ba trở xuống, Hoàn đã mười ba tuổi, học lớp nhì tất phải ở trong kia.
Không để cho ông đốc tỏ lời kính phục cái tài nhận xét và luận lý tỉ mỉ của mình, Kỳ Phát hỏi tiếp ngay:
- Chẳng hay ông giáo dạy lớp Hoàn là ai?
Ông đốc như thẹn thùng, trả lời:
- Chẳng dám giấu gì hai ông, ở một tỉnh nhỏ mà mở một trường tư, lại cứ theo cách mỗi lớp một ông giáo thì không đủ sống. Ở đây tất cả có năm lớp, song chỉ có hai ông giáo thôi, tôi dạy hai lớp trên
còn một ông nữa thì dạy ba lớp dưới…
Kỳ Phát lại hỏi:
- Ông có để ý rằng thường nhật Hoàn có tính nết gì khác thường không?
Ông đốc kiêm ông giáo có vẻ ngẫm nghĩ, một lát mới đứng dậy mở tủ, lấy quyển học bạ của Hoàn ra, đưa cho Kỳ Phát xem mà nói rằng:
- Hoàn vốn là một đứa trẻ thông minh và ngoan ngoãn. Chẳng cứ ở đây, ngay khi còn học ở Hà Nội, các ông giáo đều cho nết tốt và khen cả.
Kỳ Phát hỏi lại:
- Ông có nhận thấy rằng Hoàn có đôi khi bướng bỉnh và thích phiêu lưu không?
Ông đốc lắc đầu:
- Không, Hoàn rất chăm chỉ và biết nghe lời, tôi đã để ý nhiều lần dù có chúng bạn rủ đi chơi bời nghịch ngợm cái gì, Hoàn cũng không theo và chỉ biết học ở đây xong là về nhà ngay thôi… Tôi cũng hỏi Kỳ Phát:
- Anh vẫn còn nghi rằng chính Hoàn tự ý bỏ đi chơi xa một mình, do ở cái tính thích mạo hiểm dại dột ư? Tôi tưởng rằng chúng ta biết có ông già kia thì đã chắc chắn Hoàn bị người bắt đi rồi, còn gì nữa? Kỳ Phát gật đầu:
- Tôi hỏi chỉ là muốn cho thực hoàn toàn chắc chắn đó thôi… Ông đốc ngắt lời Kỳ Phát, hỏi:
- Các ông vừa nói đến ông già nào thì phải?
Kỳ Phát gật đầu nói:
- Vâng chúng tôi đương nghi ngờ một ông già có liên can đến vụ Hoàn bị mất tích.
Ông đốc vui vẻ nói:
- Nếu vậy thì tôi có thể báo cho các ông biết một tin này có lẽ quan hệ lắm. Chính mấy hôm trước khi Hoàn bị mất tích, cũng có một ông già đeo kính đen đến đây hỏi về Hoàn…
Kỳ Phát tiếp lời:
- Ông ấy đến hỏi về ngày sinh tháng đẻ của Hoàn?
Ông đốc giật mình hỏi:
- Tại sao ông lại biết?
Kỳ Phát điềm nhiên bảo:
- Xin ông cứ kể lại cho chúng tôi nghe từ đầu.
Ông đốc nói:
- Tôi còn nhớ từng ly, từng tý. Lúc ấy cũng vào khoảng bây giờ, nghĩa là vừa tan học xong được một lát thì tôi thấy một ông già đeo kính đen vào hỏi tôi. Trước hết, ông ấy cũng hỏi tính nết và sự học hành của Hoàn, mà tôi cũng trả lời đại để như đã nói với các ông vừa rồi…
Tôi ngắt lời:
- Tôi tưởng ông phải lấy làm lạ tại sao ông già ấy lại hỏi kỹ lưỡng về Hoàn chứ?
Ông đốc lắc đầu:
- Vâng, nhưng tôi hỏi thì ông bảo rằng ông là một người bác họ của mẹ Hoàn. Bà Huyện Vinh vì là đàn bà nên không hiểu sự học
hành thế nào, có nhờ ông cụ đến hỏi. Chính vì thế mà khi ông ấy hỏi đến học bạ thì tôi đưa ngay. Tôi chắc ông ấy để ý đến tuổi của Hoàn lắm nên có ghi những ngày sinh tháng đẻ vào một quyển sổ nhỏ…
Suốt từ lúc nẫy đến giờ Kỳ Phát như để ý tới lời ông đốc trường tư nói lắm. Rồi bỗng đột nhiên Kỳ Phát hỏi:
- Ông có để ý thấy trên mi mắt ông già ấy có chiếc sẹo không? Ông đốc ngạc nhiên lắc đầu:
- Không, tôi không để ý điều đó, vả lại ông già lúc nào cũng đeo kính đen khó mà trông thấy được.
Bỗng Kỳ Phát lại hỏi:
- Ông già ấy có hỏi gì đến những trẻ khác cùng một tuổi đó không?
Ông đốc như nghĩ ngợi một lát, lắc đầu bảo:
- Ông ấy chỉ hỏi trong lớp còn ai tên là Hoàn mà đẻ cùng năm tháng ấy, khi ấy tôi bảo không thì ông ấy cảm ơn và cáo từ. Kỳ Phát hỏi đến đây, cũng đứng dậy mà nói rằng:
- Chúng tôi đã làm mất thời giờ của ông quá nhiều, vậy xin phép ông cho chúng tôi cáo từ.
Nhưng sực nhớ Kỳ Phát lại hỏi:
- Ông có thấy học trò nói gì về ông già ấy không?
Ông đốc lắc đầu:
- Tôi cũng không rõ nữa, nhưng không thấy chúng nói gì với tôi cả. Nếu ông muốn biết chắc hơn thì chốc nữa vào học, xin hai ông lại qua đây, để tôi sẽ hỏi lại chúng.
Kỳ Phát cảm ơn hẹn chiều trở lại rồi cùng tôi ra khỏi trường.
CHƯƠNG 5
ÔNG GIÀ MỖI LÚC
MỘT THÊM KỲ DỊ
Sau khi ở nhà trường ra, chúng tôi đi tìm chỗ ăn, sau đó nghỉ ngơi một lúc rồi quay lại. Ông đốc thấy chúng tôi vào vui vẻ tiếp đón, và bảo rằng:
- Học trò vào học bây giờ, vậy hai ông cứ ngồi đây, để tôi gọi chúng hỏi.
Một hồi trống vang lên, bọn học trò xếp hàng vào. Lũ trẻ nhỏ thấy trong lớp có khách lạ thì lấm lét nhìn nhau, nhưng ông đốc đã hỏi: - Trước hôm Hoàn đi mất, có trò nào trông thấy một ông già đeo kính hỏi han gì Hoàn ở ngoài đường không?
Mấy trò nhao nhao cùng nói, nhưng ông đốc đã chỉ một trò bảo đứng lên trả lời.
Trò ấy nói:
- Thưa thầy, hôm ấy, lúc tan học buổi sáng, con có thấy anh Hoàn ra khỏi đây mấy bước thì gặp ông già ấy giữ lại hỏi han gì chúng con không được biết.
Kỳ Phát ôn tồn hỏi thêm:
- Nhưng em có còn nhớ mặt ông già ấy không?
Trò nhỏ thưa:
- Thưa ông lúc ấy chúng con cũng vội về nhà ăn cơm vì buổi
chiều có nhiều bài đọc. Chúng con chỉ biết ông già ấy đeo kính, ăn vận có vẻ sang trọng, lúc đi thì hơi gù gù…
Nhưng trò này vừa nói tới đây đã có bạn nhao nhao cãi: - Ông ấy đi gù gù bao giờ nào?
Ông đốc giơ tay bảo hãy yên rồi gọi hỏi một trò vừa mới nói câu ấy:
- Dần, trò cũng có gặp ông già ấy à?
- Thưa thầy vâng, con và mấy anh Lưu, Thịnh và Sửu ra về sau cùng có gặp ông già ấy đi trở lại phía trường này, nhưng ông ấy đi thẳng chứ không gù.
Lưu, Thịnh, Sửu cũng đứng lên nói:
- Vâng, ông già ấy đeo kính đen chứ không bị gù ạ!
Trò trước đứng dậy cãi:
- Tôi không trông nhầm, chính ông già ấy đi còng hẳn xuống? Kỳ Phát mỉm cười, vẫy tay bảo:
- Thôi, điều ấy không can hệ gì, ta biết thế là đủ rồi.
Và quay lại phía ông đốc, Kỳ Phát tiếp:
- Chúng tôi làm phiền ông quá, xin ông tha lỗi cho… Ông đốc khiêm tốn từ tạ. Chúng tôi đứng dậy ra về.
Kỳ Phát xoa tay có vẻ bằng lòng lắm. Tôi đợi xem Kỳ Phát có nói gì không, khi thấy chàng chỉ gật gù hút thuốc lá thì tôi kiếm lời gợi chuyện:
- Anh nghĩ thế nào, ông già ấy gù hay không gù?
Kỳ Phát nhìn tôi, rồi làm ra bộ ngớ ngẩn nói:
- Ừ, lạ thực nhỉ, có một ông già mà mấy người trông bảo gù, mấy người lại trông bảo không gù, vậy thì nghĩa lý làm sao nhỉ? Tôi thực thà cũng nhắc lại:
- Ừ, thế là nghĩa làm sao?
Nhưng Kỳ Phát đã cười, vỗ vai tôi mà bảo:
- Thế nghĩa là anh ngu lắm hiểu không?
Tôi không nói gì, lẳng lặng để… hiểu cái ngu của tôi thì Phát đã tiếp:
- Anh nghĩ mà xem, một người mà khi gù, khi không gù, tất nhiên phải không gù.
Tôi cười:
- Anh lại nói cái lối câu đố: mồm bò chẳng phải mồm bò, lại là mồm bò chứ gì?
Kỳ Phát cũng cười bảo:
- Nghĩa là người không gù, giả vờ làm gù thì được, chứ người gù thực, liệu giả vờ làm… không gù, có được hay không? Rồi Kỳ Phát lại bỗng hỏi tôi:
- Về việc này, anh có ý kiến gì không?
Tôi ngẫm nghĩ một lát nói:
- Tôi đoán việc Hoàn bị bắt chẳng phải là một vụ thù hằn! - Tại làm sao?
- Tại rằng nếu kẻ thù định bắt Hoàn đi thì chỉ cần dò hỏi Hoàn có phải là con ông Huyện Vinh không thôi, chứ việc gì phải hỏi dò ngày sinh tháng đẻ?
Kỳ Phát gật đầu, khen:
- Khá lắm, độ này anh đã hơi biết luận lý rồi đấy, nhưng đó chỉ là anh mới phá cái thuyết thù hằn, còn thuyết chính của anh là gì? Tôi nói:
- Cứ như ý tôi, thì đây có lẽ là một cuộc có liên can đến việc chia gia tài.
Phát ngắt lời tôi:
- Chia gia tài thì cũng chỉ cần biết Hoàn là con Cúc, chứ không cần biết ngày sinh tháng đẻ.
Tôi lắc đầu:
- Không, ý tôi muốn nói, đây biết đâu chẳng có kẻ biết rõ ẩn tình trong đời Cúc, biết đâu, Hoàn chẳng là con riêng của Cúc, chứ chẳng phải là chính con Huyện Vinh…
Kỳ Phát quắc mắt hầm hầm nhìn tôi làm cho tôi không dám nói thêm gì nữa. Lâu lâu một lúc, Kỳ Phát mới thở mạnh mà nói rằng: - Thực may cho anh là bạn thân của tôi, chứ nếu một kẻ khác nói câu ấy thì tôi chắc nó đã phải chết với tôi rồi…
Và nhìn thẳng vào mặt tôi, dằn từng tiếng, Phát tiếp: - Một lần cuối cùng, tôi nói để cho biết rằng Cúc của tôi hoàn toàn trong sạch, tôi chắc Cúc của tôi dù một ý nghĩ quàng xiên cũng không hề bao giờ có trong trí óc, nữa là… Nhưng thôi, nói sang chuyện khác, kẻo nhắc mãi tới thì có lẽ tôi đến tuyệt giao với anh mất!
Tôi đành hỏi lại:
- Thế anh nghĩ việc này căn nguyên làm sao?
Kỳ Phát gật gù:
- Tôi đã có một vài giả thuyết, song còn phải tra xét đã… Tôi nghi ngờ:
- Tôi nghi anh đã tìm ra manh mối rồi mà vẫn còn giấu tôi như mọi bận khác chứ gì?
Kỳ Phát buồn rầu, lắc đầu:
- Không, lần này khác, anh ạ! Anh nên hiểu rằng nếu tôi đã thấy rõ ràng manh mối thì không chậm một phút nào, tôi đã đi tìm ngay được Hoàn về, đưa Hoàn đến trước mặt Cúc mà nói rằng: “Cúc ơi, tôi không có phúc là người đã sinh ra Hoàn, nhưng nay tôi cũng được yên ủi vì đã cứu được Hoàn thoát từ chỗ chết về đây! Đời Cúc được sung sướng là tôi cũng đủ lấy làm sung sướng lắm rồi!”
Từ đây trở đi, Kỳ Phát như kẻ đương mơ mộng ở đâu đâu. Chàng đăm đăm con mắt, như nhìn chăm chú mà không có một đích nào cả, hồn phách như lạc đến đâu đâu đến nỗi tôi hỏi luôn mấy câu mà Phát cũng không hề nghe tiếng, lặng thinh chẳng trả lời.
Cho tới lúc chúng tôi về đến Hà Nội.
Không buồn cởi bỏ quần áo nữa, Phát lăn ra giường ngủ. Tôi biết Kỳ Phát nghĩ nhiều thành mệt nên để cho chàng nằm, dặn thằng nhỏ đun sẵn nước, đợi lúc Phát dậy thì pha cho chàng cốc cà phê sữa, một thứ mà Phát thường dùng cho lại sức và tỉnh người.
Còn tôi thì lại nhà in trông nom cho báo lên khuôn.
Mãi đến nhá nhem tối, tôi mới trở về, định rủ Phát cùng đi ăn thì
đã thấy giường bỏ không. Hỏi thì thằng nhỏ thưa rằng: - Khoảng 5 giờ cậu ấy dậy, có vẻ vội vàng lắm, chỉ kịp uống xong cốc cà phê là đi ngay và dặn con rằng không chắc mấy giờ cậu ấy về. Vậy cậu cứ ăn cơm trước?
Tôi nghĩ mà thương hại Kỳ Phát quá. Khốn nạn, anh chàng si tình ấy, lần đầu đem tài trí làm việc cho người yêu độc nhất trong đời mình, nếu không thành công, Hoàn có mệnh hệ nào, Cúc bị đau khổ, thì có lẽ chàng sẽ thề suốt đời không dùng đến tài trinh thám nữa!
Khoảng 8 giờ tối Kỳ Phát về.
Chàng vất mũ lên trên mặt bàn, rồi thở dài, cúi xuống tháo giầy. Cứ trông nét mặt chán nản của Kỳ Phát tôi đã đoán ra ngay anh chàng đã đi dò xét theo một giả thuyết nào mà không có kết quả như ý muốn.
Tôi biết lúc này chẳng nên hỏi han gì lôi thôi hết, nên để yên cho Kỳ Phát nhẩy lên giường nằm khoanh tay nhắm mắt. Một lúc lâu, tôi liếc mắt nhìn xem, thấy Kỳ Phát đã ngáy đều, có lẽ trước đây mấy giờ, chàng đã đi nhiều, hoặc làm gì nhọc mệt lắm nên bây giờ vừa nằm xuống đã ngủ ngay được.
Bên ngoài, gió lạnh lùa vào khe cửa nghe buồn quá. Tôi nhẹ nhàng kéo chăn đắp cho Kỳ Phát, vì trong những giờ phút này, lòng tôi cũng thấy lành lạnh, cái lạnh của những trai trẻ sống một mình phóng lãng đã quen như bất thình lình nhận thấy đời mình trống trải.
Sáng hôm sau… Chúng tôi còn đương ngủ mê mệt đã thấy tiếng đập cửa thình thình. Tôi và Kỳ Phát cùng choàng dậy. Đã tập quen được cái tính hễ sực thức là tỉnh táo ngay, nên trong lúc tôi còn đương ngái ngủ, bàng hoàng, Kỳ Phát đã nhẩy ba bước đến cửa, mở ra, rồi vội hỏi:
- Người nhà bà Huyện Vinh phải không?
Một ông già lễ phép cúi chào, rồi nói:
- Bẩm ông, bà Huyện con bảo ra mời ông vào ngay! Kỳ Phát hỏi:
- Có tin gì về cậu Hoàn không?
Người lão bộc thưa:
- Bẩm, không ạ, nhưng nhà hôm qua vừa mất trộm!
Kỳ Phát thở mạnh một cái, rồi ngồi phịch xuống ghế. Chàng sung sướng quay lại bảo tôi rằng:
- Thôi, thế là tôi yên tâm, có người đập cửa gấp, tôi sợ quá, tưởng Cúc đã làm sao, khi thấy ông già nói bà Huyện mời vào, thì tôi đã hơi vững dạ, đến khi hỏi có được tin tức gì về Hoàn thấy trả lời không thì tôi không còn e ngại nữa.
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát lại tiếp:
- Còn như vụ trộm - một vụ trộm thôi - thì dù mất bao nhiêu nữa cũng không đáng làm cho tôi kinh hoảng…
Quay ra phía người lão bộc, Kỳ Phát bảo:
- Thôi, được rồi, ông già cứ về!
Có lẽ vì thấy Kỳ Phát tỏ ý không quan tâm gì đến vụ trộm, người lão bộc nói thêm:
- Bẩm ông, bà Huyện con bảo mời ông vào ngay, vì vụ trộm này kỳ lạ lắm!
Kỳ Phát gật đầu:
- Được rồi, tôi vào ngay bây giờ, bác cứ về trước thưa với bà Huyện thế!
Người lão bộc ra rồi, Kỳ Phát ngoảnh lại phía tôi, hỏi: - Ăn qua quýt quà sáng, rồi đi chứ?
Tôi gật đầu, không nói gì, chỉ ngoan ngoãn đứng dậy ra rửa mặt và mặc quần áo. Nửa giờ sau, chúng tôi đã ngồi trên tầu, vào Hà Đông.
Lần này, tôi không thấy Kỳ Phát lo nghĩ gì nên hỏi:
- Anh không băn khoăn về vụ trộm mới xẩy ra này ư? Hay là đã đoán biết trước là việc gì rồi?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Không, tôi chưa đoán được, nhưng tôi rất bằng lòng vì có việc này xẩy ra…
Thấy tôi ngạc nhiên chưa hiểu, Kỳ Phát tiếp:
- Bằng lòng, vì trong vụ Hoàn bị bắt cóc, tôi chưa đủ manh mối để tra xét, như hôm qua, lùng tìm mấy nơi đều thất bại chính là vì thế. Nếu mà mọi chuyện đến đây là hết, không xẩy ra thêm việc gì nữa thì thực khó khăn cho tôi, nhưng may thay, đã mới xẩy ra vụ trộm… Và tôi tin chắc rằng nhờ có vụ trộm này, thế nào tôi cũng tìm được thêm vài đầu mối nữa và lúc ấy thì, biết đâu, tôi sẽ khám phá ra
được mọi điều bí mật!
CHƯƠNG 6
MỘT BÁ CÁO VIỆC RIÊNG
Bốn mươi lăm phút sau, chúng tôi đã bấm chuông nhà Cúc. Lập tức chúng tôi thấy người ra mời vào phòng khách và chẳng đợi chúng tôi hỏi, tên người nhà đã nói:
- Bẩm hai ông, bà Huyện con đợi lâu quá, đã toan bắt con ra mời lần nữa!
Kỳ Phát không nói gì, chỉ cười, nhưng khi chàng vừa vào phòng khách đã bị Cúc trách ngay:
- Gớm sao hai ông chậm chạp thế, làm cho tôi trông đợi đến mỏi cả con mắt!
Kỳ Phát cười:
- Thì Cúc cũng còn phải để cho chúng tôi đi chứ, nhanh nhất là ô tô, tầu điện, chứ làm gì có cánh mà bay được!
Cúc như nũng nịu:
- Nhưng tôi sợ quá cơ…
Kỳ Phát châm điếu thuốc lá hút, rồi hỏi:
- Nào, vụ trộm ra làm sao, Cúc hãy thuật lại rõ ràng cho chúng tôi biết?
Cúc ngần ngại một lúc rồi nói:
- Kể ra thì là một vụ trộm, nhưng cũng không hẳn là một vụ trộm…
Kỳ Phát ngạc nhiên hỏi:
- Cúc nói như vậy, nghĩa là thế nào, tôi không được hiểu? Tôi cũng hỏi:
- Thế Cúc đã bị trộm lấy mất những gì?
Cúc lắc đầu:
- Tôi bị trộm vào nhà nhưng chưa mất gì cả…
Tôi nóng nẩy hỏi:
- Chắc chúng đã vào được mà chưa kịp lấy, thấy động thì vội ra ngay cho thoát thân…
Cúc lắc đầu:
- Cũng không phải thế, vì trộm đã vào được nhà rồi, mở cửa ra mà có ai biết đâu, mãi đến sáng hôm sau, tôi dậy sớm ra vườn thì mới biết.
Kỳ Phát lắc đầu:
- Như vậy thì thực là vô lý. Không có bao giờ kẻ trộm vào nhà được rồi, người nhà không biết mà chúng lại không lấy gì cả. Chắc lấy được gì mà Cúc không lục soát thấy chăng?
Cúc chỉ tay mà nói rằng:
- Không có lẽ thế được. Tất cả những đồ đạc quý giá to lớn một tí như đồ sứ, chậu đồng đều để cả ở trong buồng này. Còn quần áo và vàng bạc thì lại để trong phòng ngủ của tôi. Tra xét đã kỹ lưỡng, tôi không hề thấy một vật gì thiếu mất cả.
Kỳ Phát đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, rồi bỗng đột nhiên hỏi: - Quái lạ thực, trộm đã vào được nhà, mở được mấy lần cửa như thế này, tất cũng mất khá lâu thời giờ, cớ sao mà không một ai ở
trong nhà nghe thấy tiếng động gì cả?
Cúc cũng gật đầu nói:
- Mà chẳng cứ người, đến hai con chó lớn ở nhà cũng vậy. Kỳ Phát giật mình, đứng lại, hỏi:
- Nhà có nuôi chó, thế sao mấy lần vào đây, tôi không hề thấy? Cúc nói:
- Hai anh không thấy là vì chó vẫn xích ở vườn sau, cứ đến tối mới thả.
Kỳ Phát vẫy tôi, bảo:
- Thế thì tốt hơn là chúng ta hãy đi xem tất cả các nơi trong nhà một lượt đã!
Tôi cũng cho thế là phải nên cùng Cúc ra phía sân sau, qua mấy gian nhà đầu, rồi đến bếp… Ở chỗ nào Kỳ Phát cũng dừng lại xem xét kỹ lưỡng, nhất là mấy chỗ đất ẩm ở ngoài sân. Khi ra tới vườn, chúng tôi bỗng dừng lại vì cổng vườn có xích hai con chó lai rất lớn, hai mắt sáng quắc, nhe nanh mà sủa về phía chúng tôi… Cúc vừa quát mắng chúng, vừa lẩm bẩm:
- Những con chó này thực ăn hại, khách vào thì làm rầm rĩ lên, thế mà trộm đến thì lại nín im thin thít.
Kỳ Phát ngồi xuống, ngắm nghía đôi chó, rồi lẩm bẩm: - Chó này vẫn khỏe mạnh như thường, không phải là ăn phải thuốc, vậy thì cớ làm sao?
Rồi sau khi xem xét khắp vườn, chàng trở vào trong nhà, cùng chúng tôi lên trên gác. Lúc vào buồng ngủ của Cúc, Kỳ Phát chẳng khỏi ngần ngại nhưng sau cùng, chàng phải vào, song tôi để ý thấy
lúc nào Kỳ Phát cũng như cố ý muốn tránh không nhìn đến chiếc giường, nệm gối trắng tinh, như một kỷ niệm của cuộc tình duyên lỡ dở khi xưa…
Ở phòng ngủ ra, Kỳ Phát lại xem xét kỹ lưỡng phòng khách một lượt nữa, cuối cùng mới bảo tôi rằng:
- Thôi, chúng ta về chứ?
Cúc luống cuống hỏi:
- Thế anh không hiểu vụ trộm ra sao ư?
Kỳ Phát cố làm ra bộ vui vẻ, cười mà nói:
- Nhưng có trộm đâu mà hiểu cơ chứ?
Mặc dầu, Cúc cũng tỏ vẻ lo lắng, nói rằng:
- Không, anh ạ. Thà rằng trộm vào nhà lấy nhiều vàng bạc và đồ quý giá, tôi lại không lo sợ, đằng này…
Kỳ Phát cười:
- Đằng này, trộm vào nhà không dám lấy gì, tỏ ra rằng thằng trộm ấy hết sức nhút nhát không làm nên trò trống gì được! Cúc lắc đầu:
- Không, như vậy tỏ ra rằng chung quanh nhà tôi, hiện có nhiều việc bí mật quanh quất chẳng khác gì có một lưới nhện dầy đặc bao phủ mà tôi chỉ là một con ruồi nhỏ bé bị sa bẫy mà thôi! Việc thằng cháu Hoàn bị bắt đã cho chúng ta một chứng cớ rõ ràng.
Kỳ Phát nghiêm giọng nói:
- Nhưng đó chỉ là một chiếc mạng nhện thôi, nghĩa là tôi mà cho một nhát chổi thì mạng nhện tan ngay, có khó gì… Bây giờ chưa đến lúc đó thôi.
Ngay lúc này, người đày tớ già ở ngoài đi vào, đưa một bức thư cho Kỳ Phát mà nói:
- Thưa ông, có người bảo đưa bức thư này hầu ông. Kỳ Phát cầm lấy phong thư không hề nhìn qua, đã hỏi ngay: - Người đưa thư đâu rồi? Còn đấy không?
- Thưa ông, thằng bé đến rồi lại chạy đi ngay rồi ạ!
Kỳ Phát đã tiến ra phía cửa mấy bước nhưng dừng lại lẩm bẩm: - Vô ích!
Cúc ngạc nhiên hỏi:
- Thư của ai đấy anh?
Kỳ Phát vừa giở phong bì ra lấy thư đọc, vừa trả lời: - Tôi cũng không rõ nữa, nhưng để xem thì biết!
Đọc mấy hàng chữ trong thư xong, Kỳ Phát đưa thư cho Cúc và tôi, rồi nói:
- Tôi đoán không sai mà!
Chúng tôi đọc trong thư chỉ có mấy dòng, lời lẽ vẫn thường giống như những lá thư dọa nạt hạng này: “Ông Kỳ Phát, ông có việc của ông, tôi có việc của tôi, vậy tốt hơn hết, tôi khuyên ông hãy về ngay Hà Nội, đừng có bén mảng đến đất Hà Đông này mà nguy hiểm đến tính mệnh. Giang sơn đâu anh hùng đấy, ông không biết hay sao?”
Kỳ Phát chỉ lá thư:
- Anh trông những dòng chữ viết ngả này có ý nghĩa gì không? - Tôi đoán là chữ của một ông già.
Kỳ Phát phá lên cười:
- Thì đúng rồi mà, đúng ông già kỳ dị của chúng ta.
Và nghiêm ngay sắc mặt, Kỳ Phát tiếp:
- Bây giờ thì không lo lắng gì nữa rồi, tôi cứ tưởng ông già đó nếu chẳng là một vị thần tiên như Thái Bạch thì cũng là con ác quỷ như Lão Trùng, có thể biến thành ra mây khói được, nhưng không, ông ấy rõ ràng là người bằng xương, bằng thịt hẳn hoi, như vậy thì ông già ấy dù quỷ quyệt đến thế nào cũng không thoát khỏi tay tôi.
Nhưng Cúc lộ vẻ lo lắng:
- Lời lẽ trong thư này hoàn toàn dọa nạt, anh Kỳ Phát cũng nên đề phòng mới được!
Kỳ Phát khẽ nhún vai, nói rằng:
- Người ta chỉ phải đề phòng khi nào người ta sợ. Lão già ấy đã phải viết thư này chẳng qua vì hắn đã phải sợ tôi lột được mặt nạ hắn… Cúc nghĩ mà xem, có đời thuở nhà ai lại cần đề phòng một kẻ sợ mình bao giờ đâu?
Cúc lắc đầu:
- Không, tôi lại nghĩ khác hẳn. Người ta chẳng thường nói: quân tử phòng thân, mình cần phải đề phòng cẩn thận mới được. Như sực nghĩ ra, Cúc nói:
- À, suýt nữa tôi quên, nhà tôi trước có mua khẩu súng lục, đến nay bận công việc cũng chưa kịp đem nộp nhà nước, vậy anh nên giữ lấy dùng tạm mấy hôm, thiết nghĩ cũng không phải là thừa. Kỳ Phát cười, âu yếm nhìn Cúc:
- Cúc lo cho tôi, tôi rất cảm ơn, song sự thực, việc này chưa lấy gì làm nguy hiểm cả, chứ nếu không thì tự khắc tôi phải liệu rồi.
Kỳ Phát vừa nói đến đây thì đã thấy thằng trẻ bán báo gọi người ra lấy báo. Thấy người nhà đưa vào, Kỳ Phát cười bảo tôi rằng: - Chúng mình vội quá thành ra báo sáng nay cũng chưa kịp đọc! Cúc đưa báo cho Kỳ Phát mà cười:
- Các ông là đàn ông nên để ý đến những tin tức thế giới nọ kia, chúng tôi đàn bà thì cũng chẳng thiết đọc lắm, nhiều khi báo có từ sớm mà mãi đến trưa, tôi mới đọc để cho dễ ngủ…
Kỳ Phát giở báo ra xem. Theo lệ thường, chàng đọc những dòng đầu đề chữ lớn về xem tin tức thế giới, những “việc Âu châu, Á Đông…” rồi giở qua trang sau, xem sơ lược tin tức Hà Nội, bỏ qua những trang phụ trương mà chàng cho là vô ích, rồi đọc đến tin tức các tỉnh… Tôi biết sau đó thì tờ báo đối với chàng không còn giá trị gì nữa vậy.
Kỳ Phát hôm nay, có lẽ không thấy có tin tức gì quan trọng, đáng chú ý nên lơ đãng toan gấp báo lại, nhưng chàng bỗng giật mình bảo:
- Lạ chưa này!
Chúng tôi cùng nhìn vào chỗ tay chàng chỉ, thì đó là mục bá cáo việc riêng, dưới có dòng chữ đen: Mất con.
Tôi lẩm nhẩm đọc:
“Tôi có đứa con giai tên là Nguyễn Ngọc Hoàn, 13 tuổi, cháu học lớp nhì trường Hàng Than, hôm kia, cháu đi học về nhưng chẳng biết lạc đâu, không thấy về nhà. Cháu mặc áo lương, tay áo có chỗ vá. Ảnh như in bên cạnh đây. Nếu ông bà nào thấy cháu đâu xin làm ơn dẫn về nhà hộ, hoặc giữ lại mà báo tin cho chúng tôi biết thì
chúng tôi xin hậu tạ. Cháu ở nhà không hề bị mắng mỏ gì mà đi cũng không hề mang theo tiền bạc.
Nguyễn Văn Thắng
Số nhà 105 phố Tiền Quân Thành, Hà Nội.”
Tôi lẩm bẩm:
- Ừ nhỉ, tại sao bây giờ mất nhiều trẻ thế, hay là có bọn mẹ mìn. Kỳ Phát lườm tôi, rồi lẩm bẩm:
- Trí khôn anh chỉ có đến thế thôi ư?
Và không nói thêm gì nữa, chàng kéo tay tôi bước ra ngoài, chỉ kịp vội bảo Cúc:
- Cúc không sợ hãi việc gì cả. Bây giờ thì tôi hy vọng sẽ ra manh mối rồi.
Cúc ngần ngại nói:
- Tôi chắc không sao hết lo được khi Hoàn vẫn chưa tìm được về đây!
Kỳ Phát nói:
- Mọi lần thì tôi có thể hứa chắc được hôm nào thành công, nhưng lần này, tôi chỉ có thể nói với Cúc rằng sớm muộn, tôi cũng tìm được Hoàn và tính mệnh Hoàn không hề gì cả.
Cúc như yên lòng được ít nhiều, gật đầu:
- Vâng, thế thì tôi tin cậy ở anh… Anh hãy đi ngay cho được việc. Tôi nhắc Kỳ Phát:
- À, nhưng còn khẩu súng lục…
Chẳng để cho tôi nói hết câu, Kỳ Phát thúc cho tôi một khuỷu tay
vào cạnh sườn làm cho tôi đau nhói, không còn nói hết được nữa.
CHƯƠNG 7
ÔNG GIÀ XEM TƯỚNG SỐ
Đứng đợi chuyến ô tô ra Hà Nội, Kỳ Phát chỉ luôn mồm nhắc đi, nhắc lại:
- Thậm ngu, thậm ngu!
Để cho Kỳ Phát nhắc đã chán miệng, tôi mới hỏi:
- Tôi đã nghĩ kỹ nhưng vẫn chưa hiểu rằng anh bảo tôi ngu về cái gì đấy?
Kỳ Phát như nồi nước sôi mở nắp, vùng đứng lại, nắm chặt lấy hai vai tôi, xoay lại mà nói một hơi:
- Thì để tôi nói rõ cho anh biết chứ gì! Anh ngu là vì can cớ gì anh nhắc lại cho Cúc nhớ đến khẩu súng lục?
Tôi luống cuống:
- Tôi sợ anh…
Kỳ Phát lườm một cái dài, ngắt lời tôi:
- Xin lỗi anh, chứ sự thực, tôi không “khiến” anh sợ cho tôi việc gì hết, mà tôi chỉ lạy van anh đừng có làm gì cho Cúc phải sợ hãi thêm mà thôi! Anh nghĩ kỹ xem, một người mẹ mất con, trong trí óc đủ tưởng tượng ra bao nhiêu điều ghê gớm kinh sợ rồi, vậy mà còn chưa đủ sao, anh lại muốn gieo thêm vào óc họ nhiều nỗi nghi ngờ nữa?
Tôi cãi:
- Nhưng tôi nhắc thế là để anh đề phòng mọi sự nguy hiểm sẽ xẩy ra…
Kỳ Phát quắc mắt, cười nhạt:
- Thế cho nên tôi mới bảo anh ngu mà lại. Này nhé, như anh với tôi, chúng ta là người lớn, hiện còn đi đứng tự do, đường hoàng thế này, anh còn lo xẩy ra nguy hiểm thì hãy hỏi Hoàn là một đứa trẻ con yếu ớt, lại bị lọt vào tay chúng rồi, sẽ còn có thể nguy hiểm đến đâu! Cúc tuy là người đàn bà, song tôi chắc đã nghĩ đến điều ấy ngay trước anh… vì anh mãi đến bây giờ có tôi nói thì mới hiểu ra.
Và ngừng lại một lát, Kỳ Phát tiếp:
- Bây giờ, anh hẳn đã hiểu rõ cái ngu của anh ở chỗ nào rồi chứ! Tôi im lặng, không nói gì. Nhưng ở đây, tôi muốn trả lời người bạn nóng nẩy ấy! Kỳ Phát, Kỳ Phát, anh bảo tôi ngu vì đã làm cho Cúc của anh phải lo sợ, nhưng anh đã quên rằng chính tôi đương lo sợ vì anh… Trong bao lần đi dò xét cùng anh, tôi đã từng vững tâm trước nhiều cuộc hiểm nguy nhưng lần này, màn đêm mờ tối dầy đặc làm sao vì chính anh cũng đã chẳng dám hẹn ngày thành công với Cúc. Vậy thì dù chịu tiếng ngu chăng nữa tôi cũng cam lòng, khi mà tôi không dám chối rằng tôi quý mến anh và có nhiều khi thương nữa, coi anh như một người ruột thịt của tôi!
Chúng tôi bảo xe đỗ xuống khi chưa tới dốc Hàng Than, Kỳ Phát im lặng từ lúc bắt đầu lên xe ô tô ra Hà Nội cho tới đây, bây giờ mới bảo tôi:
- Chúng ta bảo xe đỗ đây, chứ không tự nhiên hai người ghé xe
vào nhà ông Thắng thì chỉ làm cho ông ấy luống cuống thôi… Với những người đương có việc bối rối thì dù một cái gì cỏn con cũng có thể làm cho họ thành nao lòng được!
Thấy tôi không trả lời, Kỳ Phát ghé sát mặt tôi, nhìn rồi cười mà bảo:
- Anh giận tôi vì những câu nói “không đâu” của tôi lúc nẫy phải không?
Tôi cũng bật cười:
- Thế mới biết chính anh ngu hơn tôi thì có, vì mười mấy năm chơi với nhau, anh có thấy tôi giận anh bao giờ đâu! Kỳ Phát cười gật đầu:
- Thôi thế là hòa nhé, song có điều, vào nhà ông Thắng, anh phải liệu giữ mồm, giữ miệng, đừng có nói lỡ ra điều gì nhé! Mà quên tôi chưa dặn anh không có nói năng gì đến chuyện Cúc cũng bị mất con nhé!
Tôi gật đầu, hiểu ý. Một lát sau, chúng tôi đã rẽ xuống phố Tiền Quân Thành, đi qua mấy dãy nhà nhỏ rồi mới tới số nhà mình định tìm. Đó là một gian nhà hai tầng trong ngoài cũng không lấy gì làm sang trọng lắm nhưng cũng có vẻ sung túc.
Kỳ Phát gõ cửa nhưng mãi không thấy ai ra, nên thử đẩy cửa vào xem thì cửa chỉ khép. Một đứa con gái nhỏ chừng 6, 7 tuổi ngồi trên tấm phản, ngơ ngác nhìn chúng tôi. Kỳ Phát hỏi:
- Ông Thắng có nhà không em?
Con bé chỉ gật đầu, rồi chạy vào nhà trong, trong khi ấy Kỳ Phát nhìn quanh quẩn mà bảo khẽ tôi rằng:
- Nhà này thì chỉ đủ ăn, chứ không giầu, vậy chắc chắn không phải là tụi bắt người để đòi tiền chuộc!
Ngay lúc này, trong nhà có một người đàn bà tuổi trạc 35, ra chào chúng tôi, rồi hỏi:
- Hai ông hỏi gì ạ?
- Thưa, chúng tôi muốn gặp ông Thắng!
- Nhà tôi vừa đi vắng rồi ạ, có lẽ lát nữa mới về!
Kỳ Phát ngoảnh nhìn tôi, rồi bảo:
- Hay là chúng ta đi quanh, lát nữa hãy trở lại!
Nhưng người đàn bà lưỡng lự một lát, sau đánh bạo hỏi: - Tôi hỏi thế này khí không phải, chẳng hay hai ông tìm nhà tôi có việc gì, hay là…
Khốn nạn, có lẽ người đàn bà này trong khi đau khổ không còn có thể ngờ rằng một bài đăng báo kia lại có hiệu quả nhanh chóng đến thế được. Kỳ Phát cũng biết thế nên nói ngay, cốt để tránh một sự mừng hụt chẳng hay gì:
- Thưa bà, vâng, chúng tôi lại là vì việc cậu Hoàn. Chúng tôi hiện cũng chưa biết ở đâu nữa, song cần phải hỏi han lại kỹ người nhà một lượt thì mới có thể đi tìm giúp bà được!
Thấy nói thế, người đàn bà kia thở dài rồi mời Phát và tôi ngồi, sau đó gọi đứa ở đun nước… Kỳ Phát lưỡng lự, sau nói: - Hay là xin phép bà để chốc nữa, chúng tôi lại?
Người đàn bà giữ chúng tôi lại:
- Hai ông đợi chỉ một chốc là nhà tôi về ngay… Nghe lời bà con khuyên hãy làm sớ lại kêu ở đền Quan Thánh, nhà tôi cũng chiều tôi
mà sắm sửa vàng hương đi lễ, chắc về ngay bây giờ! Thấy Kỳ Phát mỉm cười, người đàn bà vội nói:
- Đáng lẽ việc lễ bái kêu cầu là của đàn bà nhưng tôi bây giờ như không còn có thần trí nữa, lắm lúc đương đi mà quên khuấy ngay không hiểu mình đương định đi đâu nữa!
Tôi hỏi:
- Vậy cậu Hoàn là con trai cả bà?
- Vâng, thưa ông, chúng tôi hiếm hoi lắm, chỉ được mỗi một mình nó…
Và chỉ con bé lúc nẫy ngồi trên ghế nhựa, người đàn bà tiếp: - Kia là con bé cháu gọi bằng cô.
Rồi nóng nẩy muốn biết tin tức của con, người đàn bà lại hỏi luôn: - Chúng tôi đoán chắc ít nhất hai ông cũng đã biết ít nhiều tin tức về thằng cháu?
Kỳ Phát lắc đầu trả lời:
- Những điều chúng tôi biết, sẽ xin nói để bà hiểu ngay bây giờ, nhưng chúng tôi muốn hỏi thêm bà vài điều nữa đã! Cậu cả nhà ta ngoài tên Hoàn, còn có tên gì khác nữa không?
Người đàn bà ngạc nhiên lắc đầu:
- Không ạ, cháu chỉ có mỗi tên là Hoàn, Nguyễn Ngọc Hoàn! Thấy Kỳ Phát rút cuốn sổ tay ra ghi chép, người đàn bà như ngờ vực, sau cùng đánh bạo hỏi:
- Tôi hỏi thế này khí không phải, chắc hai ông là người của Sở Mật thám?
Kỳ Phát cười:
- Thưa không ạ!
Người đàn bà như chợt nghĩ ra, reo to:
- Thôi, tôi hiểu rồi, hai ông là người nhà báo, hôm qua cũng đã có hai ông nữa lại đây hỏi rồi.
Kỳ Phát lắc đầu nhưng lúng túng, không biết nói làm sao cho thiếu phụ hiểu được mình là ai thì may sao, một chiếc xe xịch đỗ, ngoài cửa bước vào một người đàn ông to béo, tuổi chừng bốn mươi trở lại.
Người đàn bà vui vẻ bảo chúng tôi:
- May quá nhà tôi đã về!
Rồi lại giới thiệu luôn:
- Hai ông này là nhà báo, đến nói chuyện về việc tìm giúp thằng Hoàn!
Người đàn ông vui vẻ chào chúng tôi rồi nói:
- Thế thì thực may mắn quá, dạ, thưa hai ông làm ở nhà báo nào ạ?
Kỳ Phát vội lắc đầu:
- Thưa không phải ạ. Chúng tôi lại đây muốn hỏi ông về việc cậu Hoàn bị lạc để tiện việc tìm tòi tra xét của chúng tôi.
Sợ người đàn ông mà tôi biết là ông Nguyễn Văn Thắng lầm tưởng Kỳ Phát là nhân viên ở Sở Liêm phóng chăng nên tôi vội vàng giới thiệu:
- Chúng tôi quên chưa giới thiệu đây là ông Kỳ Phát, trước đã tra xét ra vụ…
Ông Thắng không để cho tôi nói hết lời, rối rít mừng rỡ bảo vợ:
- Trời ơi, may quá, vậy ra là ông Kỳ Phát mà tôi vẫn luôn mồm bảo bà nó rằng tiếc không biết nhà, chứ cầu cứu đến ông Kỳ Phát thì thế nào cũng tìm ra được thằng Hoàn!
Và quay lại phía chúng tôi, ông Thắng nói tiếp:
- Ông không cần phải nói thêm gì nữa, vì ông Kỳ Phát thì tôi biết lắm, nghĩa là đã thường nghe danh ở trên các báo… Nhưng chẳng hay tại sao ông lại biết mà đến tận đây giúp chúng tôi? Kỳ Phát cười:
- Thì cũng chỉ nhờ xem báo mà tôi biết được tin cậu Hoàn bị lạc… Ông Thắng nhìn chúng tôi bằng con mắt nghi ngờ, rồi có lẽ nghĩ thầm rằng: những người này thường đọc báo tìm những việc mà tra
xét, hẳn không bao giờ giúp không cho ai, nên vội nói: - Thưa hai ông, xin hai ông cứ cố giúp tìm cho chúng tôi được thấy mặt thằng cháu thì sau này dù chúng tôi thanh bạch thực, xong cũng không dám vô ơn…
Kỳ Phát cười, lắc đầu:
- Xin ông đừng ngại chi điều ấy, chúng tôi xin nói ngay để ông biết rằng chúng tôi mỗi người đều có nghề nghiệp riêng cả, mà việc đi tìm tòi, tra xét này chỉ là việc chơi, giải trí, không dám lấy của ai một đồng xu nào bao giờ cả.
Rồi Kỳ Phát lại tiếp luôn:
- Lúc nẫy, chúng tôi vừa hỏi bà rằng cậu ấy có phải là Nguyễn Ngọc Hoàn không, và chỉ có nguyên cậu là con trai thôi, không còn một người con nào khác nữa không?
Vừa nói, Kỳ Phát vừa chăm chú nhìn ông Thắng, xong ông này
thực thà gật đầu nói rằng:
- Vâng, đúng thế. Nhưng tại sao ông lại hỏi câu ấy, hay là ông đã biết tin tức thằng cháu hiện ở đâu?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Thưa ông, không, nhưng tôi mong rằng rồi đây, chúng tôi sẽ tìm ra được ít nhiều manh mối. Hiện giờ, chỉ mong ông cho biết thêm một vài điều nữa để tiện cho việc tra xét của chúng tôi. Xin ông trước hết hãy làm ơn kể lại rõ ràng những việc đã xẩy ra trong hôm cậu Hoàn bị lạc.
Ông Thắng gật đầu nói rằng:
- Cái đó thì dễ dàng lắm, vì câu chuyện không có gì lạ cả, thằng cháu buổi tối đi xem chiếu bóng, sáng hôm sau dậy muộn cho nên đi học phải vội vàng. Đến lúc tan học, mà mãi vẫn chưa thấy cháu về, tôi đoán là bị thầy giáo phạt ở lại vì đến trễ nên yên trí cứ ăn cơm… Nhưng mãi đến chiều cũng không thấy cháu về, tôi mới hoảng hốt đi trình cẩm và rồi sau ra Hà Nội thuê đăng báo…
Kỳ Phát có vẻ nghĩ ngợi, lâu lâu mới hỏi:
- Thế trước hôm Hoàn bị lạc, có sự gì lạ, hoặc hơi khác thường thôi, xẩy ra ở nhà này không?
Ông Thắng ngạc nhiên nhìn hết Kỳ Phát rồi lại nhìn vợ, cuối cùng thì lắc đầu mà nói rằng:
- Thưa không, chẳng dám giấu gì các ông, nhà chúng tôi thanh bạch lắm, vả lại bị mấy hồi xúi ông bà tôi mất đi rồi, thì tôi cũng chán nản chẳng muốn làm ăn hoạt động gì cả. May mà ở nhà quê cũng còn được ít vườn cho thuê và cho cấy rẽ, nên nguyên những hoa
mầu cũng đủ việc chi dùng trong nhà…
Kỳ Phát hỏi:
- Có lẽ ông cũng ít giao thiệp? Ít bạn bè?
Bà Thắng đỡ lời chồng, bảo chúng tôi:
- Nhà tôi không hay đi đâu cả, vả bạn bè cũng ít, có dăm ba người thân nhưng đường phố Hà Nội xa lắm, chúng tôi lại ở chỗ khuất nẻo nên người ta cũng ngại mà rất ít khi đến chơi… Nhà tôi thì không biết chơi bời gì, nên ngoài những người thân và bạn cũ thì không có bạn chơi nào cả.
Kỳ Phát lặng lẽ giây lát rồi bỗng đột nhiên hỏi rằng:
- Cậu Hoàn tuổi Tỵ phải không nhỉ?
Hai vợ chồng ông Thắng cùng ngạc nhiên hỏi lại:
- Vâng cháu tuổi Tỵ, nhưng tại sao mà ông lại biết?
Kỳ Phát cười:
- Ông bà đăng báo nói cậu ấy 13 tuổi thì năm nay chẳng phải là tuổi Tỵ là gì?
Nhưng bà Thắng đã thở dài mà nói rằng:
- Ông nhắc đến tuổi Annam, tôi mới sực nhớ thực là không thể tin tướng số được. Nửa tháng trước đây, có một ông thầy đi qua đây vào chào xem tướng số, tôi nhân ngồi buồn, mới bảo ngồi hỏi chơi, rồi nhờ tính hộ lá số tử vi cho ông cháu, kể ra thì cũng có nhiều câu đúng!
Nóng nẩy, Kỳ Phát hỏi:
- Rồi bà cũng có nhờ đoán số cho cả cậu Hoàn nữa chứ? - Vâng, cứ như lời ông thầy nói thì cháu nó về sau này khá lắm,
làm nên thế nọ, thế kia, vậy mà bây giờ lạc đi rồi, chúng tôi chỉ mong cha mẹ được gặp con cũng đã là khó rồi!
Kỳ Phát như suy tính điều gì, một lát mới hỏi rằng:
- Bà vừa nói, đó là ông thầy xem số tử vi, chứ không phải xem tướng có phải không ạ?
Bà Thắng lắc đầu:
- Cả số tử vi mà cả tướng nữa, vì ông thầy hỏi thăm cháu đi đâu không có nhà, khi thấy nói sắp học về rồi thì ngồi nán lại, bảo để xem tướng cho cẩn thận hơn…
- Thế ông thầy sau khi xem tướng cũng nhận rằng số tử vi đúng thế chứ?
- Vâng, thế nghĩa là cả tử vi cùng tướng đều sai hết cả, không thể tin được!
Kỳ Phát gật đầu:
- Vâng, đối với chúng tôi thì đó là những môn khoa học huyền bí hiện đương trong thời kỳ chiêm nghiệm… Tôi có quen biết một ông già giỏi về mấy khoa ấy lắm, ông ấy vẫn thường đi đó đây xem để làm phúc thôi, chứ tiền nong thì không cần lắm!
Bà Thắng gật đầu:
- Vâng, cái ông thầy số xem hôm ấy cũng nói thế, mà có lẽ thực vì lúc tôi đặt quẻ một hào, nhờ xem cho ông nó sau hỏi lan ra đến số của thằng cháu, đợi cả xem tướng cho nó mà ông ấy cũng không đòi thêm đồng nào nữa!
Kỳ Phát vui vẻ nói:
- Hay là lại đúng ông bạn của tôi rồi? Có phải ông ấy đeo kính
đen không?
Bà Thắng quay lại hỏi chồng:
- Này ông nó, có phải ông ấy không đeo kính đen không nhỉ? Ông Thắng gật đầu:
- Không, ngay lúc đi đường cũng không đeo gì hết!
Kỳ Phát lưỡng lự nói:
- Hay là không phải hắn chăng? Ông bạn tôi thì già, không có râu, và lưng đi gù gù.
Bà Thắng cười:
- Nếu thế thì không phải rồi, ông thầy tướng này cũng già song có để râu lơ phơ, mà người đi thẳng, không gù chút nào hết! Kỳ Phát quay lại phía tôi mỉm cười nói rằng:
- Có thế chứ lại, ông bạn của chúng ta xem đúng lắm cơ, nguyên một cái nói sai thế tôi cũng đã ngờ rồi…
Ngừng lại một lát Kỳ Phát tiếp:
- Nhưng cũng chưa biết chừng mà ông thầy ấy đoán đúng, vì cậu Hoàn lạc đi, mà tôi hy vọng tìm thấy… may mắn tìm được thực thì biết đâu sau chẳng làm nên theo như lời thầy đoán!
Vợ chồng ông Thắng đều khẩn khoản nói:
- Trăm sự vợ chồng tôi đều trông cậy ở ông, chúng tôi mới được mỗi một mình nó, nếu ông tìm được về thực thì chẳng khác gì cho chúng tôi được sống lại vậy.
Kỳ Phát khiêm tốn thưa:
- Vâng, chúng tôi không có tài gì mà quyết đoán trước, xong xin cố hết sức mà làm việc, may ra không đến nỗi phải thất vọng
chăng?
Kỳ Phát và tôi đứng lên, toan cáo từ ra về, thì bỗng ông Thắng hỏi rằng:
- Hình như lúc nẫy, ông bảo trước khi xẩy ra việc lạc thằng cháu Hoàn có gì lạ thì kể cho ông biết?
- Vâng, thưa ông, thế còn việc gì lạ nữa xin ông hãy cho chúng tôi biết ngay, vì những điều ấy sẽ giúp cho chúng tôi đi tới kết quả. Ông Thắng lắc đầu:
- Không, không có gì lạ nữa ạ, nhưng…
- Thế sao ông còn hỏi lại chúng tôi điều ấy?
Ông Thắng liếc nhìn vợ, rồi nói:
- Nghĩa là sau khi lạc cháu, tôi thấy có một sự lạ…, hay nói cho đúng hơn chỉ là một vụ trộm thường theo như lời nhà tôi vẫn nói… Kỳ Phát không giữ được nỗi vui mừng:
- Có vụ trộm thực à?
Và tức giận ông Thắng đã chậm chạp suýt nữa quên không kể cho mình nghe câu chuyện vô cùng quan trọng ấy, Kỳ Phát buột mồm, mắng:
- Thế mà… Thực là đồ con bò!
Nhưng biết đã trót lỡ lời, Kỳ Phát vội vàng khéo chống chế: - Tôi thực giận… tôi quá, sao mà chậm nghĩ thế, đáng lẽ tôi phải hỏi ông xem có chuyện mất trộm không, ngay từ khi mới bước chân vào nhà này mới phải!
Ông Thắng ngạc nhiên:
- Sao ông lại biết trước rằng nhà tôi mất trộm?
Kỳ Phát gạt đi và giục:
- Cắt nghĩa ra thì dài dòng lắm, ông chỉ nên biết rằng vụ trộm đó đối với việc Hoàn lạc đi rất có quan hệ mà thôi. Ông hãy kể ngay cho chúng tôi nghe thực rành rọt đầu đuôi vụ trộm này ra làm sao?
Tuy biết Kỳ Phát nóng nghe chuyện, nhưng ông Thắng cũng chẳng quên quay lại phía vợ bảo rằng:
- Đấy nhé, bà nó cứ bảo vụ trộm ấy chẳng quan hệ gì, có nghe ông Kỳ Phát nói đấy, sự không may đến liền một lúc như vậy. Bà Thắng nguýt chồng, rồi bảo:
- Thì ai biết được, tôi đàn bà chỉ thấy không mất mát gì thì nói rằng vụ trộm này không đáng để ý! Ông nói giỏi sao không đi tìm con về đây từ trước!
Kỳ Phát thấy hai vợ chồng sắp cãi nhau, phải vui vẻ gạt đi: - Không, nghĩa là tôi cũng cứ nói thế, nguyên vì nghĩ rằng trong khi nhà xẩy ra việc không may thì dù việc nhỏ nào mình cũng nên để ý… Vừa rồi, bà nói rằng vụ trộm này không mất mát gì? Bà Thắng nói:
- Thưa ông kể ra thì cũng có mất, song mất những vật không đáng kể. Nguyên nhà tôi ở chỗ này cũng trống trải lắm, nên hễ khoảng 8 giờ rưỡi là tôi chèn đóng cửa nhà ngang lại… Nhà ngang ấy ở cạnh sân, thông vào bếp. Cái tường ở phía sau lại khá thấp nên trộm ở ngoài có thể vào được dễ dàng, song vì ở trong bếp chỉ có những bát đĩa thường, nên cũng chẳng nghi ngại gì lắm!
Ông Thắng ngắt lời vợ bảo:
- Chiếc đĩa cổ ấy mà gọi là bát đĩa thường à?
Bà vợ chỉ lườm chồng, rồi nói tiếp với chúng tôi:
- Hôm ấy, vì có khách ăn, thiếu đĩa, nên tôi có lấy thêm chiếc đĩa cổ ở nhà trên xuống, rồi lúc rửa bát, đứa ở lại nhãng quên không mang lên ngay, cũng úp vào chạn. Thì ngay đêm ấy xẩy ra vụ trộm. Mà chắc chúng rình mò đã lâu, tưởng có thể lấy được nhiều, không ngờ cửa nhà ngang lại chắc chắn quá, không cậy được, nên đành chỉ lấy có mấy đôi đũa và chiếc đĩa cổ thôi!
Ông Thắng cũng nói:
- Tôi chắc là trộm vặt vì không có gan lấy hết, chỉ vội vàng vớ được cái gì thì lấy cái ấy thôi!
Bà Thắng nói:
- Tôi thì đoán chắc lúc ấy nhà trên có ai ho hắng gì, trộm tưởng người nhà thức dậy nên vội vàng tháo ngay, chứ dù là trộm vặt cũng không có lẽ lấy mấy chiếc đũa!
Kỳ Phát hỏi lại:
- Trộm lấy đũa và gì nữa ạ?
Ông Thắng trả lời:
- Lục soát lại cẩn thận, thấy đúng chỉ mất có bốn đôi đũa của nhà thường vẫn ăn, với lại một chiếc đĩa cổ đáng chừng vài ba đồng bạc. Mà đũa thì là thứ đũa kền, ta làm, đúc bằng những nút chai rượu ty khi xưa… chứ có phải đũa ngà, đũa mun gì cho cam!
Kỳ Phát bảo ông Thắng đưa vào trong bếp xem xét kỹ lưỡng lại một lượt rồi bảo tôi rằng:
- Cửa nhà trên không bị nậy, thế mới lạ!
Tôi vừa toan hỏi lại thì Kỳ Phát đã liếc mắt bảo tôi im, rồi cáo từ
vợ chồng ông Thắng ra về, sau khi hứa nếu có tin tức gì, sẽ lập tức lại nói cho biết ngay. Bà Thắng lấy ra tờ giấy hai chục cố nài ép để Kỳ Phát cầm tiêu vặt trong công việc này, nhưng Phát nhất định chối từ, cuối cùng muốn cho vợ chồng ông Thắng khỏi băn khoăn, Phát đành phải hứa liều chừng nào xong việc sẽ hay.
CHƯƠNG 8
MỘT LẦN MỪNG… HỤT
Ở nhà vợ chồng ông Thắng ra, Kỳ Phát xoa tay bảo tôi rằng: - Tôi thực không ngờ rằng một bài bá cáo việc riêng lại giúp ích được nhiều đến như vậy. Tôi đã nhận thấy rõ ràng những đầu mối liên lạc giữa hai vụ… muốn gọi là bị lạc hay bị bắt cóc, tùy ý. Tôi cũng gật gù bảo:
- Tôi cũng nhận thấy một vài chỗ…
Kỳ Phát mỉm cười, nhìn tôi như có ý ngờ vực cái tài… trinh thám mới nẩy ra của tôi, rồi hỏi lại:
- Cũng có lẽ nào, anh hãy nói cho tôi biết anh nhận thấy những gì?
Như một thí sinh vào vấn đáp đắn đo trước khi trả lời quan trường, tôi nghĩ ngợi một lát rồi bảo:
- Trước hết, tôi nhận thấy rằng hai vụ trẻ con lạc này đều gần nhau không cách mấy ngày!
- Có lý!
- Mà lại cùng 13 tuổi, cùng tên Hoàn, chỉ khác có họ! - Đúng lắm!
- Mà lại có hai ông già, cũng kỳ dị, cũng thích hỏi tên tuổi như nhau, mà không biết chừng chỉ là một người!
- Tạm được!
Tôi quay lại, bảo Kỳ Phát:
- Phải phê là xin phue, chứ sao lại tạm được?
Kỳ Phát điềm tĩnh và không đùa cợt, bảo tôi:
- Khi nào tôi nói tạm được thì chỉ là mới tạm được mà thôi! Hết rồi chứ, còn gì nữa không?
Tôi nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp:
- Còn hai vụ trộm nữa, hai vụ trộm cùng xẩy ra tại hai nhà vừa mới bị mất con!
- Khá lắm, còn gì nữa không?
Tôi lắc đầu:
- Thế là hết!
Kỳ Phát hỏi:
- Nhưng anh kết luận làm sao chứ?
Thấy tôi lúng túng không trả lời thế nào, Kỳ Phát gật gù bảo tôi rằng:
- Ấy đó về óc trinh thám, anh còn thiếu mất điều ấy, mà tiếc thay lại là điều trọng yếu nhất để đưa người ta tới kết quả. Có thể nói được rằng trong công việc khám phá những sự bí mật có hai phần: một là tìm kiếm cho thực nhiều những điều lạ thường đáng chú ý nhất, giống như một mớ chỉ rối, ta tìm hết tất cả đầu mối để ra một bên. Một phần nữa là phải biết những điều lạ lùng ấy, những đầu mối ấy có liên lạc quanh co với nhau ra làm sao, khi đã biết rõ rồi thì chỉ trong thoáng chốc có thể gỡ xong mớ chỉ, và vụ án không còn gì là bí mật nữa.
Tôi chợt nhớ, bảo:
- À, tôi nghĩ ra rồi, trước đây tôi đã từng lập một giả thuyết mà bây giờ những điều mới nhận xét thấy cũng phù hợp với giả thuyết ấy…
Kỳ Phát cau mày hỏi:
- Trước anh nói thế nào nhỉ?
- Trước tôi đã bảo cần phải biết Hoàn có thực là con của ông Huyện Vinh không…
Chẳng để tôi nói hết lời, Kỳ Phát giậm chân bảo:
- Thôi, im ngay, tôi đã nói cấm anh không được nghĩ tới điều xằng bậy làm hại tới danh dự của Cúc cơ mà…
Thấy tôi toan cãi lại, Kỳ Phát chặn ngay:
- Không, anh bất tất phải nói thêm gì nữa, và chỉ càng làm nổi xung tôi thôi. Hiện giờ, anh chỉ nên biết rằng anh chưa đến độ có thể do những điều đã nhận xét mà luận lý ra được những điều gì! Tôi nói:
- Thì trong lúc tập sự anh cũng phải để cho tôi lập nhiều giả thuyết, may ra có cái trúng chứ?
Kỳ Phát liếc nhìn tôi, rồi sau cùng đành gật đầu bảo: - Ừ, thì anh muốn ức đoán thế nào thì đoán, có một điều tôi cấm, và không muốn nhắc lại nữa là anh không được nghĩ gì tới những điều phương hại đến Cúc của tôi.
Tôi nghĩ ngợi một lát, rồi muốn nhân dịp này, hỏi xem Kỳ Phát đã tra xét được đến đâu, nên bảo:
- Cứ như ý tôi thì hai vụ trộm này cùng khả nghi lắm! Vì một vụ thì chúng không lấy gì, mà một vụ thì chúng chỉ lấy những vật không
đáng kể!
Kỳ Phát gật gù, bảo:
- Nghĩa là kẻ trộm không phải là đứa thông thạo về nghề, vụ thứ nhất, ở nhà Cúc, chúng chưa lấy được gì cả, mà vụ sau, ở nhà ông Thắng, chúng chỉ mới kịp lấy có mấy thứ lặt vặt. Có điều chúng ta chưa được biết rõ là hai vụ trộm nhưng có phải là do một kẻ trộm hay không?
Tôi không nghĩ ngợi, bảo:
- Tất nhiên phải là cùng một thủ phạm, vì cùng xẩy ra ở hai nhà bị lạc con. Theo luận lý, ta có thể đoán rằng việc bắt cóc, với việc ăn trộm, bao giờ cũng đi đôi với nhau, việc nọ cần phải có việc kia… Kỳ Phát gật đầu:
- Tôi chỉ đồng ý với anh về chỗ hai việc có liên lạc với nhau thôi! Và một lát sau, Kỳ Phát bỗng bảo tôi:
- Tôi vẫn còn nghi không chừng mà nhà Cúc hôm bị trộm vào, đã bị mất gì rồi mà không biết. Chi bằng, ngay bây giờ, chúng ta hãy vào ngay Hà Đông, hỏi rõ lại một lượt nữa xem sao, nhân tiện để báo tin cho Cúc biết rằng trong công việc tra xét của chúng ta, tuy có thêm nhiều điều rắc rối, nhưng còn có hy vọng tìm ra manh mối hơn lúc đầu nhiều!
Non một giờ sau, chúng tôi đã vào tới Hà Đông.
Kỳ Phát bảo tôi:
- Tôi đoán chắc thủ phạm vẫn để ý đến nhà Cúc, vậy chúng ta
chẳng nên đi xe đến thẳng ngay nhà như mọi lần trước. Tôi gật đầu, đồng ý. Thế là chúng tôi đi bộ đến nhà Cúc, và trong lúc đi đường hết sức để ý xem có ai là người theo dõi mình không. Nhưng không, tôi không thấy có gì lạ cả, mặc dầu đã gần đến nhà Cúc. Tôi đã nghĩ Kỳ Phát thực cẩn thận quá, chỉ thêm mất thời giờ, thì chợt Phát kéo mạnh tay tôi, nép vào một bức tường hiên. Kỳ Phát bảo nhỏ tôi:
- Chết thực thôi, anh không trông thấy gì à?
Thành ra Kỳ Phát chẳng những nhìn ở chung quanh và đằng sau mình, còn nhìn cả về đằng trước nữa. Lúc ấy, chúng tôi chỉ còn cách nhà Cúc chừng khoảng năm mươi thước. Chúng tôi đều trông thấy rõ ràng có một ông già đeo kính đen, đi lom khom, vận bộ quần áo ta, nhưng lại đi giầy đế cao su, đương lảng vảng ở phía ngoài nhà Cúc, nhòm nhòm nghé nghé như muốn dò xét cái gì! Tôi thúc tay Kỳ Phát bảo:
- Bây giờ tốt hơn hết, chúng ta hãy xông ra nắm lấy lão già kia mà hỏi cho ra!
Kỳ Phát lắc đầu, nhìn tôi, thương hại:
- Anh tưởng dễ dàng như thế thôi ư? Anh nên nhớ rằng kẻ địch của chúng ta cũng ghê gớm lắm, chẳng phải có thể dùng cách dọa nạt mà làm được hắn sờn lòng. Hơn nữa, hiện nay, hắn đương giữ lợi khí trong tay, Hoàn có ở trong tay hắn, như vậy thì thực khó khăn mà làm gì được hắn!
Tôi hỏi lại:
- Thế anh định làm gì bây giờ?
Kỳ Phát nghĩ ngợi một lát, rồi nói rằng:
- Tôi chợt có một ý nghĩ, may ra thì đúng. Bây giờ chúng ta không làm gì hết, chỉ đợi đây chừng nào lão già đi khỏi hãy hay! Chúng tôi bỗng yên lặng mà để ý nhìn. Trong nhà Cúc, người lão bộc vừa mở cửa đi ra, nhưng vì vội vàng nên không để ý đến lão già kỳ dị kia. Vả lại, lão già cũng đã khôn ngoan rẽ ra phía sau nhà, rồi khoảng mười phút sau, chúng tôi mới lại thấy hắn vòng ra phía trước. Kỳ Phát có vẻ vui mừng lắm, bảo tôi:
- Tôi đoán đúng rồi, anh có hiểu tại sao lão già lại ở phía sau nhà lâu thế không?
- Có lẽ hắn muốn đợi người lão bộc nhà Cúc đi khỏi đã! Kỳ Phát lắc đầu:
- Nếu thế thì chỉ phải để ba phút thôi!
- Vậy anh đoán thế nào?
- Tôi đoán chắc lão già đương xem xét đường lối để tối nay vào ăn trộm. Trộm vật gì thì tôi chưa hiểu, song tôi đoán lần trước vì một lẽ gì đó hắn chưa lấy được nên lại vào lấy lần nữa!
Tôi vội vàng nói:
- Nếu vậy thì ta phải rình bắt!
Kỳ Phát cười:
- Cái đó đã là lẽ cố nhiên, và chẳng những ta rình bắt lại luôn cả Hoàn nữa.
Tôi ngạc nhiên:
- Anh nói gì, tôi không hiểu?
- Tôi bảo không chừng đêm nay mà mẻ lưới của ta bắt được cả
hai con cá: Hoàn và lão già thủ phạm!
- Không có lẽ, vì lão già đã bắt được Hoàn đi rồi - chúng ta không cần biết là vì cớ gì - nay lại mang đến tận đây?
Kỳ Phát gật gù:
- Biết đâu đấy, biết đâu lại chẳng có những lẽ mà ta chưa biết. Hiện giờ có nhiều lý cho tôi đoán được thế, chẳng hạn mấy con chó lai nhà Cúc… thường nhật thì dữ tợn thế, vậy mà hôm bị mất trộm chẳng ăn phải thuốc, bả gì, mà chúng cũng hiền lành như những con miu con… Nghĩa là phải có Hoàn, chủ chúng đi theo, thì việc trộm ra vào mới yên thấm được như vậy.
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát tiếp:
- Còn một lẽ nữa mà tôi vẫn chưa tìm được ra nguyên nhân là không hiểu hắn đến để định lấy trộm gì, mà cần phải Hoàn đi chỉ dẫn mới được.
Thở mạnh, Kỳ Phát bảo:
- Thôi rồi đêm nay, chúng ta sẽ biết rõ. Có điều lát nữa tới nhà Cúc, anh chớ nói gì tới chuyện có Hoàn đi theo lão già nhé, vì Cúc mà biết thì rồi luống cuống làm nhiều chuyện lỡ việc của mình mất!
Tôi gật đầu, và cùng nhau đi thẳng lại nhà Cúc vì thấy lão già sau khi xem xét nhà Cúc lại một lượt, đã bỏ đi từ lâu rồi.
Cúc thấy chúng tôi đến mừng rỡ quá, hỏi:
- Thế nào? Các anh hẳn đã tìm ra nhiều manh mối chứ? Kỳ Phát gật đầu:
- Cũng đã tiến triển hơn trước nhiều. Nhưng còn vài chỗ chưa thấy rõ, chẳng hạn như việc ở đây mất trộm…
Cúc chữa lại:
- Nói là mất nhưng đã mất gì đâu, phải gọi là: bị trộm vào nhà mới đúng!
Kỳ Phát hỏi:
- Nhưng Cúc thực đã xem xét kỹ lưỡng rằng nhà không bị mất một vật gì chứ?
Cúc gật đầu:
- Tôi đã xem đi, xét lại nhiều lần, kể ra trong phòng khách này, những đồ vật quý giá để nhiều nhưng rất ngăn nắp, cho nên chỉ thoáng trông tôi đã có thể biết được chắc chắn rồi.
Ngừng lại một lát, Cúc lại bảo:
- Vả lại, nếu bây giờ muốn soạn lại một lần nữa cũng dễ dàng lắm vì khi tôi dọn vào ở trong này, muốn khi chuyên chở khỏi xẩy ra mất mát, tôi đã bảo người ghi biên mọi đồ vật cẩn thận lắm. Cuốn sổ ấy còn kia, để tôi lấy các anh xem, soát lại một lượt thì biết mất gì hay không ngay!
Vừa nói, Cúc vừa lấy chìa khóa mở tủ cầm đưa cho chúng tôi một cuốn sổ và Cúc lại nói luôn:
- Các anh muốn thực cẩn thận chắc chắn thì soát lại thôi, nhưng tôi tin chắc rằng sẽ phí công vô ích.
Mà Cúc nói đúng thực, tôi và Kỳ Phát kẻ đọc, người soát, mất đến nửa giờ mà từ vật nhỏ đến vật lớn, trong phòng khách không hề thấy mất một vật gì. Kỳ Phát trao trả Cúc quyển sổ, rồi nghĩ ngợi, lâu lâu mới bảo tôi rằng:
- Nếu thế thì lại càng chắc rằng đêm nay kẻ trộm sẽ tới đây!
Cúc ngạc nhiên:
- Trộm nào hử anh?
- Kẻ đã đến lần trước mà chưa kịp lấy vật gì, nay đến lần nữa! - Nhưng tại sao anh biết hôm nay hắn đến?
Kỳ Phát cười:
- Hiện bây giờ thì Cúc hãy biết thế. Có điều tôi nói để Cúc yên lòng, tôi hy vọng rằng hắn đến, và sẽ do tên trộm này, mà tôi dò ra tung tích hiện thời Hoàn ở đâu!
- Thế thằng cháu bị kẻ trộm bắt cóc à anh?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Cũng chưa biết rõ lắm, nhưng ít ra hai việc có liên lạc với nhau. Cúc bây giờ đừng hỏi tôi nhiều quá, vì lúc này, tôi cần phải cho trí óc thảnh thơi, để rồi đêm nay, tôi đối phó với kẻ trộm, nó cũng ghê gớm lắm chứ chẳng phải giống trộm thường…
Cúc sợ hãi, nói:
- Chết chửa, nếu thế thì con tôi…
Kỳ Phát vội nói:
- Không, điều ấy thì Cúc không việc gì phải sợ hãi, tôi xin đoán chắc rằng Hoàn vẫn bình yên vô sự không can ngại gì hết! Và muốn cho Cúc khỏi lo sợ, Kỳ Phát lại tiếp:
- Mà một khi Hoàn chưa hề gì thì sớm muộn, sao tôi cũng tìm về cho Cúc!
Cúc nghe giọng nói quyết thực của Kỳ Phát như cũng được yên lòng, nên bảo chúng tôi rằng:
- Đêm nay, các anh định ở lại đây rình bắt trộm, vậy để tôi bảo
người nhà sửa soạn căn buồng khách ở trên gác để các anh nghỉ ngơi tạm, kẻo mà đêm nay phải thức mà không ngủ trưa thì mệt lắm!
Kỳ Phát gật đầu:
- Như thế thì hay lắm, luôn thể, tôi nói luôn để Cúc biết rằng, buổi cơm chiều nay đừng bầy vẽ gì cả, vì không chừng mà tôi ngủ một mạch đến năm, sáu giờ mới dậy… Vả lại, cũng đừng làm gì cho người ngoài, cả bọn tôi tớ nữa, biết rằng có chúng tôi nghỉ lại đêm nay!
Cúc mỉm cười, gật đầu:
- Tôi đã được đãi cơm anh mấy bữa, biết tính anh rồi, ăn không cần nhiều món, nhưng phải thực vừa miệng anh mới được! Tôi nghe nói chợt nghĩ bụng: “Thế thì Cúc làm vợ Phát hẳn là Phát phải vừa lòng”. Nhưng tôi không dám nói ra, vì biết chỉ làm cho Phát buồn lòng.
Mà có lẽ Kỳ Phát cũng cùng một ý nghĩ như tôi, nên chỉ mỉm cười, rồi kéo tay tôi lên gác.
Chúng tôi không hẹn mà ngủ một giấc dài cho đến sáu giờ. Khi tôi chợt tỉnh dậy thì cũng thấy Phát cựa mình. Ngay lúc này thấp thoáng người lão bộc ngó vào trong cửa rồi đi ra. Kỳ Phát gọi lại, hỏi: - Có việc gì đấy, bác?
- Thưa không, bà con bảo lên xem các ông đã dậy chưa, để mời các ông xuống xơi cơm!
Tôi cười bảo Phát:
- Chúng mình không ngờ ngủ tận bây giờ mới dậy, hẳn là cơm canh đã nguội!
Kỳ Phát thúc khuỷu tay vào cạnh sườn tôi mà bảo rằng: - Anh làm như đến đây để ăn cơm khách chứ không có việc gì khác nữa!
Tôi cười:
- Ừ, thế thì tôi xuống ăn cơm, còn anh cứ nằm nguyên đây mà làm công việc của anh!
Kỳ Phát cười, không nói gì, ra bàn rửa mặt. Một lát sau, chúng tôi đã ngồi vào bàn ăn, chẳng nói thì cũng biết bữa cơm hôm nay ngon lành lắm, vì chính Cúc thân hành vào bếp. Kỳ Phát nhiều lúc dừng hẳn bát lại và nhìn Cúc, như quên ăn, làm cho Cúc phải cười, và giục:
- Kìa, anh Phát, ăn đi chứ? Tôi hôm nay cố làm mấy món ngon để anh ăn cho có sức mà bắt trộm!
Kỳ Phát nghiêm sắc mặt, chầm chậm bảo:
- Cứ như những lúc này thì tôi tưởng dù thủ phạm có ba đầu sáu tay đi nữa, tôi cũng quyết bắt cho kỳ được!
Cúc chợt nhớ, bảo:
- À, chốc nữa, ăn xong, tôi phải nhắc anh Phát cái này mới được! Kỳ Phát hỏi cái gì, nhưng Cúc nhất định không nói, tới khi ăn tráng miệng xong, Cúc mới rút ngăn kéo lấy ra một chiếc hộp, đẩy đến trước mặt Phát mà bảo:
- Đây, tôi nhắc anh chính là cái này!
Kỳ Phát chưa cầm lấy hộp vội, rồi sau một phút ngẫm nghĩ, cười mà bảo Cúc:
- Tôi đoán ra rồi, nhưng thứ đồ chơi nguy hiểm này, tôi không thích dùng một chút nào cả!
Tôi cầm lấy hộp mở xem, thì quả nhiên là khẩu súng lục, để cạnh mấy hộp đạn, Kỳ Phát đỡ lấy xem, rồi gật gù bảo:
- Thứ súng Saint-Etienne này tốt đây, dùng nhanh lắm, vì không cần tháo cran d’arrêt trước khi bắn, nên tiện hơn các kiểu khác! Tôi hỏi:
- Thế nhỡ nguy hiểm như lúc bỏ túi mà chạm làm cho cò nổ thì sao?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Không cần hãm mà vẫn chắc chắn thế mới tiện chứ. Họ làm khéo lắm, chạm thường không bao giờ nổ, chỉ trừ khi chính tay mình chú ý bấm cò thì mới đủ sức nổ đạn thôi!
Cúc cười:
- Trước tôi cũng thấy nói thế. Nghe anh Phát, đủ biết anh cũng đã từng chơi súng lục!
Kỳ Phát cười, lắc đầu:
- Chơi thì chưa chơi, song cũng đã từng tập bắn qua! Nguyên trước tôi có biết mấy vị sĩ quan người Pháp, họ hay tập bắn, nên tôi cũng được theo tập và biết qua loa.
Cúc gật gù:
- Tôi biết tính anh, cái gì mà anh nói không biết tức là hơi biết tí chút, cái gì mà anh nói đã biết qua loa nghĩa là thông thạo lắm!
Kỳ Phát cười:
- Nghĩa là bắt buộc phải biết, vì rằng một người muốn theo nghề trinh thám thì không được phép nói không biết một thứ gì hết! Cúc ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói tiếp:
- Thế thì tôi thực không hiểu tại sao nhất định anh không dùng súng trong những trường hợp nguy hiểm này!
Kỳ Phát cười:
- Đã chắc gì là nguy hiểm, vả lại cứ như thủ phạm vụ này thì tôi biết chẳng phải là những kẻ chuyên môn! Chúng tất chẳng mong hại tính mệnh mình làm gì mà cần sẵn sàng chống cự… Cúc lắc đầu:
- Nhưng lúc chúng cần thoát thân tất chúng phải liều hại mình! Phát cười:
- Thì chắc đâu chúng đã hại nổi!
Cúc nhìn thẳng vào mặt Kỳ Phát mà bảo:
- Tôi nói câu này thì Phát chớ cho là một lời nói đùa mới được. Nếu Phát không ưng dùng súng này để phòng khi nguy hiểm thì Cúc không dám nhờ Phát tra xét vụ này đâu!
Phát cũng nhìn Cúc mà hỏi lại:
- Tại sao thế nhỉ?
Cúc ngần ngại nhìn tôi, sau cùng quả quyết nói:
- Vì tôi không muốn cho Kỳ Phát chết!
Kỳ Phát gật gù:
- Phát có phải chết vì cứu con Cúc thì Phát cũng vui lòng!
Cúc nghẹn ngào không biết nói thế nào, chỉ rưng rưng nước mắt, mãi mới nói được một câu, đầy ý trách oán:
- Phát nhất định không muốn hiểu Cúc hay sao? Nếu thế thì thôi cũng được!
Kỳ Phát vội vàng nói:
- Cúc tha lỗi cho Phát nhé! Phát vờ đùa thế mà thôi, chứ hiểu Cúc lắm. Phát sẽ dùng khẩu súng lục này để phòng thân và giúp được việc cho Cúc!
Vừa nói, Kỳ Phát vừa rút lấy khẩu súng lục, bỏ vào túi quần, kèm theo cả một hộp đạn nữa.
Cúc chỉ nốt hộp đạn còn lại trên bàn, bảo:
- Phát cầm nốt cả chargeur kia, phòng khi dùng đến! Kỳ Phát cười:
- Bắt một vụ trộm nhỏ, có bẩy viên đạn chưa thừa đủ hay sao, Cúc bây giờ đã thực cẩn thận quá rồi!
Và Kỳ Phát đứng dậy nói tiếp:
- Thôi bây giờ thì mọi việc xong xuôi cả rồi, Cúc hãy đi nghỉ. Tất cả bọn người nhà cũng vậy, Cúc đừng nói gì cả, để cho chúng tôi tiện hành động.
Cúc ngần ngại:
- Nếu các anh cần người giúp việc kín đáo thì tôi có thể nhận được và tôi chắc cũng có can đảm…
Kỳ Phát lắc đầu:
- Hai chúng tôi là thừa đủ rồi, bây giờ Cúc cứ đi nghỉ, chừng nào mọi việc xong xuôi, chúng tôi sẽ gọi!
"""