"
Thám Tử Kỳ Phát 1: Đám Cưới Kỳ Phát PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thám Tử Kỳ Phát 1: Đám Cưới Kỳ Phát PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
P H Ạ M C A O C Ủ N G ĐÁM CƯỚI KỲ PHÁT
CHƯƠNG 1
NÀNG THIẾU NỮ MẮT HUYỀN
Lúc ấy mới 4 giờ sáng.
Trên sân ga Hà Nội, ngoài mấy người bán hàng bánh tây và cà phê, chỉ mới có lác đác dăm ba hành khách. Họ phần nhiều đều có đồ đạc kềnh càng cho nên mới phải ra tầu sớm, hòng kiếm một chỗ rộng rãi.
Trong phòng đợi hạng ba chưa có một người nào cả. Có lẽ vì quá 5 giờ rưỡi, chuyến tầu Bắc mới chạy và những bọn khách sang này ít khi bị chen chúc nên không cần ra ga sớm.
Trời lại lất phất mưa. Những ánh đèn thắp theo lối phòng thủ không đủ soi sáng suốt sân ga nên qua từng khoảng tối, người ta mới lại trông thấy rõ những hạt mưa nhỏ, lấp loáng, trắng bóng, như những hạt bụi bay trong một vệt ánh nắng vậy.
Đằng xa, thỉnh thoảng một tiếng còi tầu rúc ngắn làm cho mấy hành khách đứng đợi nghển cổ nhìn… Nhưng không, đó chỉ là những chiếc đầu tầu người ta dồn đường hoặc đến lấy than, nước.
Trời rạng dần. Những hành khách ra đợi tầu cũng mỗi lúc một đông thêm. Sau một tiếng còi rúc dài, một nhân viên Sở hỏa xa từ trong phòng giấy bước ra, tay xách chiếc đèn bão. Đứng cạnh đường tầu, người ấy cầm đèn đưa qua đưa lại để ra hiệu cho đoàn tầu Bắc từ phía xa dồn lại. Các hành khách đã nháo nhào sửa soạn lên tầu. Và khi đoàn tầu vừa dừng bánh họ đã tíu tít chen nhau lên
và chỉ thong thả dọn dẹp chỗ ngồi khi thấy số hành khách ra sớm ấy ngồi chưa chật hết được một bên dãy ghế trong hai toa… Họ vội vàng hấp tấp như vậy cũng không có gì là lạ cả, vì họ đã từng gặp nhiều chuyến tầu chật chội quá, người đứng nêm nhau không còn có một chỗ nào mà lách chân trong khi ở dưới sân ga hãy còn bao nhiêu là hành khách nữa đương ngong ngóng chen lên. Họ đâu có được như chúng tôi là những kẻ “vô công rồi nghề” lấy vé ke ra ngoài sân ga chỉ là một công việc làm khi không còn biết làm công việc gì khác nữa.
Sáng sớm hôm ấy, tôi đương ngủ, bỗng có tiếng động, mở mắt ra đã thấy Kỳ Phát dậy từ bao giờ, đương lúi húi đun đèn cồn. Tôi ngáp dài, hỏi:
- Hôm nay anh làm gì mà dậy sớm thế?
Kỳ Phát cười:
- Tôi chẳng định làm gì cả nhưng vì chợt tỉnh giấc, sực nhớ có ông bạn biếu gói chè tầu bảo rằng ngon lắm nên trở dậy, đun nước uống chơi!
Rồi Kỳ Phát lại tiếp:
- Nước đã sôi rồi đây, anh nằm ngủ lại hay dậy uống nước với tôi, tùy thích!
Tôi tung chiếc chăn đơn, ngồi dậy, cười mà bảo Kỳ Phát rằng: - Ngủ lại cũng chẳng được nữa, dậy uống nước còn hơn. Tôi lại sực nhớ đến thuở nhỏ ở Nam Định, bao giờ mở mắt thì đã thấy thầy tôi uống tàn ấm nước sáng rồi!
Kỳ Phát gật đầu:
- Uống trà vào những lúc ấy mới hưởng được hết cái hương vị của ấm trà ngon, chứ đến chơi nhà ai, thì nước cũng pha một cách cẩu thả, uống bằng một cách vội vàng, chẳng qua là cái lối “ngưu ẩm” mà thôi!
Ngừng lại một lát để tráng cẩn thận chiếc ấm và đôi chén, rồi Kỳ Phát mới tiếp:
- Cổ nhân xưa chỉ thường uống trà vào hai buổi: sáng sớm tính sương và buổi trưa. Theo như chỗ tôi nhận thấy thì uống trà buổi trưa dễ thấy trà ngon nhất, vì lúc đó, sau những giờ làm việc buổi sáng, người mình thấy hơi nhọc mệt nhưng tâm thần thư sướng. Thong thả nhấp chén trà, ta tự nhiên cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, người khỏi mệt, cổ khỏi ráo. Uống trà vào buổi sớm thì tinh thần mình vẫn còn bị hôn quyện do giấc ngủ vừa qua. Nhưng trà là một món giải khát “thanh tâm, minh mục”, nhờ đó mà người ta thành tỉnh táo một cách dễ dàng, mặc dầu hương vị của trà, ta không thể thưởng thức hết được.
Pha nước sôi cho đều vào ấm, Kỳ Phát thở dài mà tiếp: - Nhưng cái thú uống trà của cổ nhân, bây giờ còn mấy người biết thưởng thức nữa đâu, họa là một vài người phong lưu tao nhã! Tôi cười, bảo:
- Nói thế tức là anh giới thiệu gián tiếp cho tôi biết anh là một người trong bọn khách hào hoa.
Kỳ Phát cười, gật đầu:
- Và anh cũng biết trở dậy thưởng trà thì cũng không phải là người tục tử. Nào, chúng ta hãy nâng chén trà thơm cung kính tưởng nhớ đến các bậc tiền bối đã dạy cho ta cách uống trà!
Nhưng vừa mới nhấp một ngụm nhỏ chè nóng Kỳ Phát đã lập tức nhổ đi, cau mặt mà nói rằng:
- Chè gì mà vừa ngái vừa đắng, không có hương vị gì hết! Thực phí cả công chúng mình trân trọng đun pha…
Tôi cũng nếm thử rồi bảo Kỳ Phát:
- Đây là người ta ủ theo vị chè Mӻ, nhưng dù cho ai bảo rằng thứ chè này quý, uống rất sang, thì tôi vẫn nhất quyết không thể ngon bằng chè tầu được. Đó chỉ là một bọn người học làm sang, nhắm mắt khen liều đó thôi.
Kỳ Phát cũng gật đầu bảo:
- Phải rồi, đúng là vị chè Hồng Kông… Thôi, đã trót pha đành cho đường vào uống vậy!
Loay hoay pha đường vào chè một lúc, Kỳ Phát bỗng bật cười mà bảo:
- Thế là cái hứng thú thưởng chè của tôi bị tan vỡ. Chỉ ân hận cho anh bị tôi đánh thức dậy, mất một giấc ngủ ngon!
Nhìn đồng hồ, Kỳ Phát lại bảo tôi:
- Bây giờ mới 4 giờ hơn, ngủ cũng tội mà thức thì chẳng có việc gì làm… Nếu thực ấm chè ngon, có phải rằng bây giờ chúng ta đương ngồi uống nước, bàn chuyện cổ kim, thú biết bao nhiêu không?
Tôi cười bảo:
- Không có việc gì làm thì chúng ta đi chơi chứ có làm sao? Kỳ Phát đồng tình ngay:
- Anh thực là người thông minh, tháo vát. Phải, chơi Hà Nội trong
lúc sáng tinh sương này thực thú vị vô cùng. Nhưng chúng ta chỉ ăn vận thường chứ “lễ phục” vào thì ngại chết!
Thế là một lát sau, chúng tôi đã khoác tay nhau đi chơi ngoài phố vắng. Những ngọn đèn điện đã bắt đầu như mờ dần dưới ánh sáng mặt trời sắp mọc. Lúc này, thành phố Hà Nội hầu như thuộc về một hạng người riêng biệt: bọn thợ thuyền đi làm xa và bọn buôn bán ở ngoài chợ. Những phu xe lúc này chưa đi đón khách, còn gác xe ăn bữa sớm tại các hàng cơm. Chốc chốc mới có một chiếc xe tay kéo khách chơi đêm về sau cuộc vui đen đỏ hay mê mệt ở xóm chị em.
Nhưng chúng tôi đương vơ vẩn đi đến phố Hàng Lọng thì trời bắt đầu lất phất mưa. Sực có một ý nghĩ, Kỳ Phát bảo tôi: - Trời mưa mà đi ăn sớm thì chưa hiệu nào mở cửa. Hay là chúng ta ra ga chơi?
Tôi gật đầu:
- Phải, chúng ta làm như người đi tiễn bạn ra ga…
Kỳ Phát như nghĩ ngợi, nhắc lại:
- Tiễn những người bạn xa xôi, không quen biết!
Thấy Kỳ Phát như có vẻ buồn, tôi không nói thêm gì nữa. Lấy hai chiếc vé ke, chúng tôi ra ngoài sân ga, lặng lẽ, không chủ định. Thấy mình thản nhiên bình tĩnh quá với những bọn hành khách hấp tấp vội vàng, chúng tôi tự thấy buồn cười. Nhưng bỗng Kỳ Phát huých cánh tay tôi, bảo:
- Chà, đôi mắt huyền đẹp quá!
Tôi nhìn lại mới biết “đôi mắt huyền” mà Kỳ Phát nói đó là một thiếu nữ tuổi chừng mười tám, người nhỏ nhắn nhưng cân đối, nước da trắng hồng, hai tay xách hai chiếc va ly, đi rất nhanh, bước lên toa hạng ba. Tuy chỉ thoáng chốc, tôi đã nhận thấy thiếu nữ có đôi mắt rất đẹp, đen huyền và trong sáng thông minh, lanh lẹ vô cùng…
Tôi lẩm bẩm:
- Mà nàng đi có một mình!
Không thấy Kỳ Phát nói gì cả, tôi ngoảnh nhìn chàng, thấy Kỳ Phát lúc này như đương suy nghĩ ngẩn ngơ, lơ đãng nhìn về phía toa tầu thiếu nữ vừa lên… Tôi mỉm cười, vỗ vai Kỳ Phát, bảo:
- Anh này làm gì mà than người ra thế? Anh không nghe thấy tôi nói gì à?
Kỳ Phát giật mình, hỏi lại:
- Anh vừa nói gì?
- Tôi nói: Nàng đi có một mình!
- Thế nghĩa là gì?
Tôi cười ngất:
- Nghĩa là mình có thể cũng tạm đoán nàng chưa có chồng, hay ít nhất cũng chưa có người yêu vì nếu có chồng hay người bạn lòng thì chết sống người ấy cũng phải đưa tiễn “đôi mắt huyền” lên tầu! Nhìn thẳng Kỳ Phát, tôi tiếp:
- Thường nhật, bất cứ trông thấy cái gì anh cũng quan sát kӻ lưỡng và luận lý ngay kia mà. Ý chừng hôm nay anh đã bị thu mất hồn nên không nghĩ đến điều nàng đi có một mình!
Kỳ Phát lắc đầu:
- Tôi không nghĩ đến điều ấy thực nhưng tôi nghĩ: Nàng cầm hai chiếc va ly! Mà hai chiếc va ly không vì trông nhẹ nhàng quá! Tôi ngạc nhiên, hỏi:
- Thế nghĩa là gì?
Nhưng Kỳ Phát không trả lời tôi, vẫn chăm chú nhìn về phía toa xe hạng ba, mồm lẩm bẩm:
- Đôi mắt huyền!
Ngay lúc này, tiếng còi của nhân viên hỏa xa thổi mạnh, tiếp theo câu thường lệ bằng tiếng Pháp: “Xin các ngài lên xe cho!” Một tiếng còi của toa máy đáp lại như xé làn không khí. Và tầu cũng bắt đầu chuyển bánh… Nhưng cánh cửa toa hạng ba bỗng bỏ xuống và… “đôi mắt huyền” bỗng nhìn sâu xa về phía chúng tôi.
Kỳ Phát bỗng hỏi tôi:
- Anh có mang theo tiền không?
Tôi ngạc nhiên:
- Anh mua gì bây giờ?
Kỳ Phát gắt:
- Tôi hỏi anh có tiền không? Và có bao nhiêu?
- Tôi tưởng không cần dùng việc gì nên chỉ mang theo chỗ tiền lẻ, chừng 8,9 đồng…
Kỳ Phát nói nhanh:
- Thế thì đủ rồi, anh đưa ngay cho tôi 5 đồng!
Và tôi vừa mới rút tiền trong túi ra thì Kỳ Phát đã vồ ngay lấy, không nói thêm nửa lời, cắm đầu chạy một mạch theo đoàn tầu
trong lúc toa máy mới bắt đầu rẽ qua đường “ghi”.
Nửa phút sau, tôi đã trông thấy Kỳ Phát nhanh nhẹn nhẩy bám lên toa cuối cùng, rồi một tay vuốt lại làn tóc, một tay chàng rút mùi soa ra vẫy tôi từ biệt!
CHƯƠNG 2
ANH CHÀNG NỊNH ĐẦM
Chuyến tầu không đông lắm nên Kỳ Phát từ toa cuối hạng tư lên toa hạng ba không có gì là khó khăn cả. Thiếu nữ ngồi đó có một mình, đương chăm chú đọc một cuốn truyện. Kỳ Phát cũng kiếm một chỗ gần đối diện định sẽ đợi dịp gợi chuyện làm quen, nhưng tầu chạy đã lâu mà thiếu nữ không hề ngẩng lên một phút nào cả.
Không chừng, nàng cũng không biết có một người bạn đồng hành vì đôi mắt huyền mà lên Phủ Lạng cùng chuyến tầu này! Tầu đến Thị Cầu, Kỳ Phát đứng dậy, nhòm ra ngoài cửa sổ rồi nói:
- Tầu đến Thị Cầu rồi, chóng quá!
Thiếu nữ bỏ cuốn truyện xuống, liếc thoáng Kỳ Phát, nhìn xuống sân ga rồi lại toan nhìn vào trang sách, nhưng Kỳ Phát đã kịp hỏi: - Tôi cứ yên trí rằng cô xuống Thị Cầu, mải xem truyện nên không biết? Vậy cô đi Bắc?
Thiếu nữ không trả lời câu hỏi, chỉ lễ phép mỉm cười: - Vâng, truyện viết hay quá! Xin cám ơn ông!
Và nàng lại cắm cúi xem không hề nhìn qua đến Kỳ Phát nữa. Anh chàng trinh thám trẻ tuổi của chúng ta gật gù, lẩm bẩm: - Khôn khéo lắm, nhưng dù tài giỏi thế nào cũng không thể giấu giếm nổi ta!
Lúc này, người soát vé đến, Kỳ Phát khôn ngoan vờ ngủ để chờ cho thiếu nữ đưa vé ra bấm, chàng mới đứng dậy, liếc nhìn. Biết vé thiếu nữ lấy đi Phủ Lạng rồi, Kỳ Phát mới nói với người soát vé làm cho mình một chiếc vé cũng đi Phủ Lạng vì… lúc ra ga muộn quá mà đông người lấy, chàng phải lấy vé ke, lên tầu chịu phạt vậy!
Nhìn đồng hồ, Kỳ Phát vui mừng thấy chỉ còn ít phút nữa thì đến Bắc Giang. Chàng đã sắp đặt đủ cả mọi cách hành động để theo thiếu nữ cho biết tung tích dù nàng có ý giữ hành tung bí mật. Nhưng tầu vừa tới Phủ Lạng, thiếu nữ đã xách va ly bước xuống, không để ý đến Kỳ Phát. Chàng thong thả bước theo, bỗng thấy thiếu nữ vẫy người phu xe lại hỏi rằng:
- Mợ tôi có nhà không, bác?
Thấy người phu tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu thì nàng đã tiếp ngay:
- Mợ tôi, bà xếp ga ấy mà!
Người phu nghe ra, gật đầu, chỉ tay nói:
- À, vâng, bà xếp có nhà đấy ạ, tôi vừa thấy bà ấy khảo gạo! Thiếu nữ cảm ơn rồi đi về phía nhà riêng của viên xếp ga. Đứng dừng lại, thấy nàng vào rồi, Kỳ Phát mới tần ngần suy nghĩ, sau cùng chạy theo người phu lúc nẫy, hỏi:
- Này bác cho tôi hỏi thăm một tí! Cô ấy là cháu bà xếp ga ở đây phải không bác?
Người phu nhìn Kỳ Phát rồi mỉm cười, chép miệng bảo: - Tôi cũng không rõ nữa, nhưng thấy gọi bằng mợ thì chắc hẳn là cháu!
Kỳ Phát lại hỏi:
- Thế cô ấy có hay xuống đây chơi với bà xếp ga không? Người phu lắc đầu:
- Không, nếu xuống luôn thì tôi đã quen mặt!
Nghe câu này, Kỳ Phát bỗng kêu to lên, làm cho bác phu giật mình ngơ ngác:
- Ừ nhỉ! Rõ mình thực… cóc khô!
Rồi chẳng kịp cảm ơn người phu nữa, Kỳ Phát cắm đầu chạy về phía nhà ông xếp ga. Đúng như lời người phu vừa nói, Kỳ Phát thấy một thiếu phụ ở trong nhà đương khảo gạo nhưng ngoài người ấy ra chỉ còn mấy đứa trẻ con nữa thôi. Nàng thiếu nữ mắt huyền thì không thấy hình bóng đâu nữa! Dầu vậy, Kỳ Phát cũng vào, chào thiếu phụ rồi lễ phép thưa:
- Thưa bà, tôi hỏi thế này khí không phải, vừa rồi, hình như có một cô gái vào đây… Tôi hỏi, bác phu xe bảo thế!
Thiếu phụ lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn kӻ Kỳ Phát từ đầu đến chân rồi hỏi:
- Ông hỏi cô ấy làm gì?
Kỳ Phát không hề lúng túng, móc trong túi ra một tờ giấy bạc rồi nói:
- Thưa, lúc nẫy ở trên tầu xuống, cô ấy móc túi có lẽ đánh rơi một đồng bạc, trên toa hạng ba chỉ có tôi và cô ấy… Cô ấy xuống trước, tình cờ tôi trông thấy ở sàn tầu đồng bạc rơi, đoán là của cô ấy nên đi theo gọi trả.
Thiếu phụ lắc đầu:
- Nếu thế thì ông ra ngay ngoài cửa ga may ra cô ấy còn ở đấy, cô ấy vào đây hỏi nhầm nhà!
Kỳ Phát theo tay thiếu phụ chỉ, bước ra ngoài cửa, nhưng trước khi đi còn nói thêm:
- Xin lỗi bà, tại lúc nẫy tôi thấy bác phu bảo cô ấy là cháu bà… Thiếu phụ cười, lắc đầu:
- Vâng, nhưng cô ấy nhầm, lúc nẫy cô ấy vào đây chào tôi bằng mợ ngay, nhưng khi thấy tôi ngạc nhiên, cô ấy hỏi lại có phải là nhà ông xếp Bách không. Lúc biết không phải cô ấy mới gửi tôi chiếc vé rồi ra lối cửa này!
Liếc nhìn chiếc vé trong tay thiếu phụ, Kỳ Phát thấy đó là một nửa chiếc vé khứ hồi thì lộ vẻ vui mừng, chào thiếu phụ mà bước ra. Nhìn quanh suốt cửa ga, Kỳ Phát không hề thấy bóng “đôi mắt huyền” đâu cả. Chàng chỉ hơi nhún vai, rồi tự nhủ: “Không bằng một người con gái nhé, khoe tài khoe giỏi nữa đi!” Nhưng chàng lại gật gù mà tiếp: “Nhưng không sao, nàng có tài trời cũng không thoát khỏi tay ta! Gọi là có trốn xuống đất ta cũng lôi lên được!”
Nhìn lại đồng hồ, vào trong ga ghi những giờ tầu chạy xuôi, ngược, rồi Kỳ Phát bắt đầu ra hỏi thăm mấy người phu xe còn lảng vảng ở đó. Chàng tả hình dáng thiếu nữ, rồi hứa sẽ thưởng một đồng bạc cho người nào tìm được người phu xe đã kéo nàng lúc nẫy và biết rõ số nhà nàng đã về đâu. Chàng lại dặn họ bây giờ chàng đi ăn cơm ở một hàng trong phố, có được tin gì thì lập tức chạy đến bảo cho chàng biết!
Sau đó, không lo ngại gì nữa, Kỳ Phát yên tâm thuê xe đi vào phố. Muốn cẩn thận hơn, trước khi đi, chàng còn cho thằng bé con
bán dầu nước ở cửa ga hai hào, dặn nó hễ thấy hình dáng người con gái nào giống như chàng tả ra ga thì lập tức về báo tin cho chàng biết, chàng sẽ cho thêm mấy hào nữa!
Biết trước rằng với một tỉnh nhỏ như tỉnh Bắc, tất cả chỉ có chừng vài ba chiếc xe kéo thì việc tìm tung tích người nào cũng chẳng khó khăn gì, Kỳ Phát yên tâm vào một hiệu ăn ngồi đợi.
Trong khi chờ nhà bếp làm các món, Kỳ Phát ngoảnh lại nhìn bộ quần áo đã nhàu nát mà buổi sáng chàng đã khoác tạm, chiếc sơ mi đã có vài vết bẩn ở cổ. Kỳ Phát bỗng bật cười, tự hỏi có phải mình điên hay không mà tự nhiên lại đâm bổ đi Bắc Giang một cách vô ý thức như vậy. Nhưng chàng lại bỗng lắc đầu mà lẩm bẩm:
- Nhưng không, nàng có đôi mắt huyền lạ lùng, sâu xa và trong sáng quá! Mà vì cớ gì nàng lại liếc nhìn ta như cợt trêu, như khiêu khích?
Chợt nhớ đến người bạn mình đã “bỏ rơi” trên ga Hàng cỏ, Kỳ Phát mỉm cười:
- Chắc anh chàng cho ta là si tình, vừa bị đánh trúng “tiếng sét” của ông thần mù mắt giương cung đây!
Một lát sau nhà bếp mang món ăn lên, đương lúc đói ngấu, tuy các thức làm chẳng được khéo léo cho lắm Kỳ Phát cũng thấy ngon miệng. Khi chàng ăn xong, vừa gọi cà phê thì ngoài cửa đã thấy lấp ló tên phu xe đương ra ý tìm tòi. Gọi vào, Kỳ Phát thấy hắn nói:
- Thưa ông, con tìm thấy nhà rồi, mời ông uống nước xong rồi con kéo lại!
Kỳ Phát gật đầu, vừa cầm lấy cốc cà phê thì lại đã thấy thằng bé bán dầu nước hốt hoảng chạy đến, vừa thở vừa nói:
- Ông ra ga ngay mới kịp! Tầu sắp chạy rồi, cô ấy đương bấm vé! Không kịp hỏi thêm gì, Kỳ Phát đứng dậy, mặc áo, ra trả tiền ăn rồi cho luôn thằng bé năm hào. Thưởng cho người phu xe đồng bạc, Kỳ Phát giục:
- Bác kéo hết sức nhanh ra ga kịp được tầu thì tôi cho thêm tiền nữa!
May mắn làm sao, lúc Kỳ Phát đến ga tầu vẫn chưa chạy. Chàng lấy vé, nhẩy vội lên tầu, ngơ ngác tìm suốt mấy toa hạng ba mà không hề thấy bóng nàng thiếu nữ mắt huyền đâu cả. Kỳ Phát lo lắng lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ ta lại bị lừa lần nữa!
Sau mấy phút nghĩ ngợi, chàng chuyền tầu xuống toa hạng tư. Lúc này tầu đã chạy, Kỳ Phát nghĩ bụng: “Ta tìm hết các toa mà không thấy thì ga đầu tiên tầu đỗ ta sẽ xuống, trở về Bắc chứ không đời nào chịu!”
Nhưng Kỳ Phát đã quá lo xa. Lúc chàng xuống đến gần toa cuối thì thấy ngay thiếu nữ đương đứng, tay vịn vào mấy bồ hàng xếp ngổn ngang, dưới chân vẫn có hai chiếc va ly mang đi buổi sáng. Chuyến tầu này đông quá, trên ghế người ta đã ngồi thích cánh và vẫn còn nhiều người phải đứng.
Thấy người mình đương lùng tìm, Kỳ Phát mừng quá, nhất định sẽ không rời ra nửa bước, thử xem nàng thiếu nữ bí mật này còn lẩn trốn được đi đâu! Nhưng ngay lúc này, thiếu nữ ngoảnh nhìn lại. Tia sáng của đôi mắt huyền đã gặp cặp nhỡn tuyến của chàng trinh
thám trẻ tuổi. Nàng lộ vẻ nửa ngạc nhiên nửa tức tối còn chàng thì như thầm bảo: “Trêu vào tay Kỳ Phát thì trêu sao nổi!” Kỳ Phát không ngờ rằng có một người đương để ý đến mình. Đó là một chàng thanh niên tuổi trạc hai lăm, vận bộ quần áo tây mầu xám, mắt đeo kính đen, ngồi ở chỗ gần đầu toa. Chàng ta bỗng mỉm cười, hỏi thiếu nữ rằng:
- Thưa, cô đi Hà Nội?
Thiếu nữ trong chớp mắt quan sát người vừa hỏi mình suốt từ đầu đến chân rồi cũng lễ phép trả lời:
- Thưa ông, vâng, chúng tôi về Hà Nội!
Chàng thanh niên vui vẻ đứng dậy, nói:
- Nếu thế thì xin mời cô ngồi chỗ này, kẻo đứng lâu chồn chân, cô chịu sao nổi!
Thiếu nữ cảm ơn rồi không hề ngại ngần ngồi ngay xuống chỗ của anh chàng vừa nhường. Nhưng nàng còn lúng túng chưa biết xếp hai chiếc va ly của mình vào đâu thì anh chàng kia đã đỡ lấy, để một chiếc lên trên giá cao, một chiếc để gọn vào dưới chân thiếu nữ, sau khi bỏ chiếc va ly của chàng trước để ở trên giá xuống!
Vừa xếp lại gọn gàng, anh chàng lịch thiệp này vừa vui vẻ nói: - Thôi, va ly của tôi để ở dưới này cũng được vì tôi cũng sắp xuống rồi. Còn chiếc va ly lớn của cô thì để lên trên giá kia cho rộng chỗ.
Chỉ chiếc va ly nhỏ để ở dưới chân thiếu nữ chàng ta vừa cười vừa tiếp:
- Chiếc va ly này, cô phải coi chừng mới được, kẻo mà kẻ cắp nó
lấy đi thì xong, con đường này bây giờ cũng nhộn lắm! Một bà già thấy anh chàng cẩn thận thế thì cười mà nói: - Ông lo xa thế chứ ban ngày ban mặt, ngồi đông đúc thế này, có tài trời thì cũng không nhấc đi được!
Kỳ Phát suốt từ nẫy đến giờ vẫn chăm chăm nhìn chàng trẻ tuổi. Cau mặt, tức giận, Kỳ Phát nghĩ thầm: “Thằng cha nịnh đầm đáng ghét quá, nhe mãi chiếc răng vàng ra tưởng là sang trọng lắm đấy!”
Một hồi còi tầu thét rức tai… Đoàn tầu chạy chậm lại, rẽ vào ghi rồi đỗ lại trước một ga xép. Sau mấy phút ồn ào, kẻ lên người xuống, tầu lại bắt đầu chạy, chầm chậm rồi nhanh dần. Bỗng chàng thanh niên kêu thét, chỉ tay về phía trước:
- Chết rồi, có người chẹt tầu kìa!
Mọi người cùng nhao nhao đứng dậy, kẻ thì cố ghé đầu ra ngoài cửa sổ, xôn xao hỏi nhau tíu tít: “Cái gì? Đâu đâu? Có chết không?” Thừa lúc không ai chú ý, chàng thanh niên đã vụt cúi xuống, rồi nhanh như cắt, toan giật lấy chiếc va ly của thiếu nữ để trước mặt! Nhưng chàng đã tính nhâm từ trước, thiếu nữ khôn ngoan đã dùng chân chặn lấy chỗ sợi dây da buộc va ly còn thừa ra trên mặt sàn, nên bị vướng anh chàng không giật được. Thiếu nữ đã vụt đứng dậy. Không dám chậm một phút, anh chàng ăn cắp hụt đã với tay xách chiếc va ly của mình, chạy vọt ra phía ngoài cửa tầu… Cũng chẳng vừa, thiếu nữ đuổi sấn theo, rồi với kịp tay, kéo lấy chiếc va ly của chàng kia. Chẳng dám vì tiếc của mà bị bắt, anh chàng đành bỏ ra, nhẩy lao mình xuống đường sắt trong lúc tầu đương chạy nhanh!
Việc xẩy ra nhanh quá làm cho mọi người trong tầu không ai kịp nghĩ đến việc giúp đỡ thiếu nữ ngăn cản hoặc bắt kẻ gian. Lúc nó đã
nhẩy thoát xuống đường rồi, ai nấy mới nhao nhao lên bàn tán: - Người ăn mặc sang trọng thế mà là quân cướp giật thì ai mà ngờ được!
- Nó đã khôn nhưng không ngoan thành ra chính mình bị thiệt! - Tôi không ngờ trông cô ấy nhỏ bé mà nhanh nhẹn đến thế đấy! Phải người khác thì bây giờ đã ngồi trơ ra tiếc của!
Có người lại tò mò hỏi thiếu nữ:
- Chắc nó theo cô từ lâu, biết trong va ly có nhiều tiền bạc nên mới lập mẹo ăn cắp. Cô cũng đã để ý đề phòng từ trước phải không?
Thiếu nữ lắc đầu:
- Thoạt tiên thì tôi cũng không ngờ, nhưng về sau thấy nó săn đón quá, tôi mới sinh nghi, nhất là từ lúc nó cứ nhìn trước nhìn sau rồi kéo dần mãi chiếc va ly của nó ra phía gần cửa toa thì tôi không còn sợ đoán sai nữa!
Một bà cụ hỏi lẩn thẩn:
- Nhưng nghĩ cũng buồn cười, nó đã chủ tâm đi cướp giật, sao lại còn mang đèo một chiếc va ly cho bận rộn khó chạy. Thiếu nữ cười, cắt nghĩa:
- Đó cũng là mánh khóe của bọn chạy dọc. Chúng cần phải mang theo một chiếc va ly như vậy thì mình mới không ngờ vực gì cả, tin chắc chúng cũng là hành khách lương thiện như mình! Rồi thiếu nữ lại liếc Kỳ Phát mà nói tiếp:
- Nhưng chúng lừa thế nào nổi được tôi… Những kẻ nào dám trêu vào tay tôi thì chỉ có thiệt hại!
CHƯƠNG 3
NHỮNG VIÊN KHÁN HỘ…
BẤT ĐẮC DĨ
Kỳ Phát cũng thừa biết thiếu nữ ám chỉ mình nhưng chàng không hề nói năng gì cả. Chàng cũng không lấy làm tức tối cho lắm, có phần lại vui vẻ là đằng khác vì có xẩy ra việc này, chàng mới lại càng biết chắc chắn rằng nàng thiếu nữ có đôi mắt huyền chẳng phải là một cô con gái tầm thường. Cuộc theo dõi của chàng có lẽ không đến nỗi phí công là không đem lại một kết quả gì tốt đẹp.
Cẩn thận, chàng suy tính trước những mánh khóe mà nàng có thể đem ra dùng khi tầu đến Hà Nội để lẩn trốn. Chàng đã bầy đặt sẵn sàng mọi cách đối phó quyết chẳng để cho con trạch này lọt thoát ra khỏi kẽ tay.
Đoàn tầu lần lượt đỗ ga này, qua ga khác. Rồi sau khi đỗ ga Gia Lâm, đoàn tầu chầm chậm vượt qua cầu sông Cái. Kỳ Phát để ý thấy một điều là từ lúc nẫy đến giờ, bất cứ tầu đỗ một ga nào, thiếu nữ cũng ló đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn trước nhìn sau hoặc đứng dậy, nhìn suốt về phía các toa khác, hình như có ý tìm kiếm một ai vậy.
Kỳ Phát cau mày nghĩ thầm: “Cô ả hẳn lại có người nào hẹn đón đợi!”
Và chẳng hiểu vì sao chàng lại bỗng đã thấy khó chịu vì cái người “thứ ba” ấy! Nhưng đoàn tầu đã qua chiếc cầu, rồi khu phố Hàng Giầy, rẽ về đường Ngõ Trạm. Mấy tiếng còi thét báo cho ga biết tầu
Bắc đã về. Những tiếng kèn thổi dài dài của những người phu gác hàng rào chắn đường tiếp nhau nghe như tiếng tù và của bọn tuần ở thôn quê lúc thu không vậy!
Thiếu nữ đã đứng dậy. Hai mắt nàng như thêm sáng, gương mặt lộ vẻ quả quyết vô cùng. Tuy đứng đấy, nhưng nàng không hề sót một hành động nào của những hành khách ở các toa liền cạnh.
Một lúc sau, ga Hàng Cỏ đã sừng sững ngay trước mặt. Thiếu nữ cúi hẳn cổ ra phía ngoài và lúc nàng quay vào thì Kỳ Phát để ý thấy mặt nàng hơi biến sắc.
Qua một phút lưỡng lự, thiếu nữ bỗng như quả quyết hẳn, đến sát cạnh Kỳ Phát hỏi nhỏ rất nhanh:
- Ông là Kỳ Phát?
Ngạc nhiên, chàng trinh thám trẻ tuổi của chúng ta khẽ gật đầu. Cũng bằng một giọng nhỏ, chàng hỏi lại:
- Tôi có thể giúp cô được việc gì chăng?
Nhưng nàng thiếu nữ mắt huyền không trả lời, chỉ nói: - Tôi xin tin cậy ở ông!
Và không nói thêm gì nữa, nàng xách chiếc va ly nhỏ để ở dưới chân mà lúc nẫy tên chạy dọc đã cướp giật không xong rồi nhanh nhẹn nhẩy xuống sân ga trong khi tầu vẫn còn đà, từ từ chạy…
Kỳ Phát để ý tìm tòi, thấy trước cửa ga có tới bốn, năm nhân viên nha Thương chính đương đứng vẩn vơ chờ chuyến tầu đến. Lúc này, Kỳ Phát không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng biết chắc thiếu nữ là một tay cừ khôi chuyên môn buôn thứ “vàng đen” về Hà Nội, quãng đường mà tay mang thuốc phiện lậu nào cũng phải nhận rằng
khó khăn nguy hiểm nhất! Chắc thiếu nữ có tật phải lo, khi đến gần ga chính cũng như khi qua các ga xép, vẫn luôn luôn để ý đến bóng dáng những lính đoan vì nàng chẳng lạ gì, trong nghề nghiệp này thường vẫn chính những người bán hàng lại đi báo để mình bị bắt. Nhưng đã có gan buôn, nàng hẳn cũng có thừa đủ mánh lới, quyền biến để tránh những cạm bẫy, mùng lưới của nhà đoan…
Kỳ Phát lẩm bẩm nhắc lại câu thiếu nữ vừa nói lúc xuống tầu: “Tôi xin tin cậy ở ông!” Chàng có vẻ lưỡng lự đắn đo, nhưng sau cùng khẽ nhún vai, điềm tĩnh kiễng chân, nhấc chiếc va ly lớn của thiếu nữ còn để lại trên giá xuống. Chàng cẩn thận buộc lại chiếc đai da một cách tự nhiên, như chính va ly này là của mình, nay đã đến ga thì sửa soạn để xuống.
Trong khi ấy, thiếu nữ sau khi đã nhẩy xuống sân, đứng lại nhìn trước nhìn sau một chốc, rồi bỗng xách va ly mà chạy vụt rất nhanh ra phía cửa ga hạng tư… Các nhân viên nha Thương chính đã để ý từ lúc nẫy, nay đột nhiên thấy nàng chạy thì nhìn nhau đắc ý rồi một người gọi:
- Này, cô kia, chạy đi đâu đấy, hãy đứng lại đã!
Tuy gọi thế nhưng họ cũng chẳng buồn đuổi theo, có lẽ vì đã biết chắc rằng ngoài cửa ra, chỗ hạng tư đã có một người đồng bạn của họ sẵn sàng đứng đón rồi. Người này, quả nhiên lúc “thấy động” đã khép chặt cánh cửa song sắt lại, tiến về phía trong mấy bước như đón đợi bắt con thú cùng đường!
Nhưng thiếu nữ lúc này đã đột nhiên đứng dừng lại. Nàng buông
mạnh chiếc va ly xuống dưới đất đổ lăn nghiêng, rồi giơ một tay lên bóp trán. Hai giây sau, nàng đã loạng choạng toan bước lên một bước, nhưng đứng không vững và ngã quay xuống sân ga. Người lính đoan đứng chờ ở cửa ra vào lúc này đã chạy đến bên nàng… Tiếng người đội đoan ở phía xa chạy lại thét lớn:
- Coi chừng nó vờ đấy! Cẩn thận không nó “thoát” mất đấy! Nhưng viên đội đã cẩn thận vô ích. Cho đến lúc tất cả bọn nhân viên nha Thương chính chạy tới, vây xung quanh, nàng vẫn nằm nguyên thiêm thiếp, hai mắt nhắm nghiền. Bọn hành khách xuống tầu, bây giờ cũng tò mò đứng xúm lại, bàn tán:
- Có lẽ cô ấy ngộ cảm!
Người khác cãi:
- Không phải, trời này làm gì có gió độc, chắc hẳn cô ấy có chứng động kinh!
Mấy viên cảnh sát phải lại để dẹp bớt người xem trong khi mấy nhân viên nha Thương chính cũng bàn nhau nho nhỏ: - Không biết có phải thực là “nó” không?
Một người ra dáng sành sỏi, quả quyết:
- Đích nó chứ còn ai vào đây nữa. Chính tôi hồi còn ở Lao Cai đã bị nó ăn vận giả làm gái Mán đẩy xuống suối… Bây giờ nó lớn tuổi hơn, nhưng cặp mắt ấy thì có gọi là chôn cũng không lẫn.
Viên đội cúi xuống xem chiếc va ly, toan mở ra, nhưng va ly lại khóa chặt. Một người lính đoan bàn góp:
- Thiết tưởng ngài đội cũng chẳng cần phải khám va ly vội, dù giả vờ hay ngất đi thực, ta cũng hãy đợi nó tỉnh lại đã!
Lúc này, Kỳ Phát đã xách chiếc va ly lớn của thiếu nữ ung dung bước xuống. Chàng cũng như nhiều người khác tò mò dừng bước lại chỗ bọn nhân viên nha Thương chính đương cứu chữa thiếu nữ trước khi ra khỏi ga. Kỳ Phát cũng chẳng còn lạ gì thiếu nữ đã khôn ngoan giả vờ như thế để cho các nhân viên nhà đoan chú ý hết cả vào nàng và như vậy thì Kỳ Phát tất có thể mang chiếc va ly “quan hệ” kia ra khỏi ga được dễ dàng.
Bỗng có người đặt tay vào vai Kỳ Phát. Dù là người xưa nay vốn bình tình đến bực nào, lúc này chàng cũng phải giật mình, hoảng hốt nhìn lại. Nhưng đó chỉ là viên thanh tra liêm phóng Ch. mặc thường phục, có lẽ ra ga để đón hỏi giấy má những dân Hoa kiều ở mạn trên xuống. Ch. dùng tiếng Việt Nam rất sõi, cười mà hỏi Kỳ Phát rằng:
- Nào, tôi với ông đánh cuộc nào? Ông ước trong va ly có chừng bao nhiêu ki lô nhựa?
Kỳ Phát cười, lắc đầu:
- Điều ấy thì tôi chịu, nhưng nếu giá ông bảo tôi đánh cuộc ước tuổi thiếu nữ thì tôi xin nhận ngay!
Ch. gật đầu, nói:
- Kể ra đời bây giờ cũng không biết thế nào mà xét đoán bề ngoài được, nàng thiếu nữ xinh tươi thơ ngây như thế kia, ai ngờ được nàng là một tay buôn lậu đại tài mà các ông nhân viên nhà đoan đây vẫn phải chú ý đề phòng!
Viên quản Thương chính cũng nói góp vào:
- Ông Ch. nói đúng đó, mà không biết lần này, con quӹ cái lại đem giở những trò gì ra huyễn hoặc chúng tôi đây!
Kỳ Phát không bỏ cơ hội hỏi dò về lai lịch thiếu nữ:
- Quái, nàng tên là gì, ở đâu, có mánh khóe ghê gớm như vậy mà tôi không được biết đấy!
Viên quản Thương chính nói:
- Ông chưa biết ư? Nàng tên là Ngọc, chẳng biết là Thanh Ngọc hay Bích Ngọc gì đó, chính quê ở mạn Trũ, mới về lưu trú ở Hà Nội ít tháng nay. Hiện giờ, Ngọc ở phố…
Nhưng viên thanh tra Ch. đã không để cho viên quản nói hết lời. Ông nheo cặp mắt lại, ra dấu về phía Kỳ Phát rồi ngắt lời: - Ấy, chớ, ông ạ! Chớ cho chàng hay biết địa chỉ của cô ả! Ngoài cái tài tra xét những vụ án bí mật, chàng lại còn là một người rất phong tình kia đấy!
Ngừng lại một lát, Ch. lại vỗ vai Kỳ Phát mà bảo:
- Có phải không ông? Ông mà biết địa chỉ của nàng, ông cảm cái sắc đẹp và cái can trường ấy, đứng lên mà chỉ dẫn mọi phương pháp kỳ diệu cho nàng thì chúng tôi đây còn hòng đón bắt nàng làm sao nổi!
Ch. vừa nói tới đây thì bỗng có tiếng reo:
- A, cô ả tính lại rồi!
Kỳ Phát liếc nhìn thấy thiếu nữ đã mở mắt, ngơ ngác nhìn quanh, rồi chống tay ngồi dậy… Rụt rè, nàng hỏi:
- Cái gì thế, các ông? Tôi làm sao?
Nhưng viên quản Thương chính đã bằng một giọng nghiêm nghị,
bảo nàng:
- Rồi chúng tôi sẽ nói. Bây giờ thi xin cô hãy làm ơn đưa chìa khóa cho chúng tôi khám va ly xem có thuốc phiện không đã! Không để giục hai lần, thiếu nữ ngoan ngoãn móc túi đưa chìa khóa cho viên quản. Thế là không một ai để ý đến thiếu nữ nữa, họ cùng đổ xô lại phía chiếc va ly. Trong khi ấy, thiếu nữ đưa cặp mắt huyền nhìn thẳng vào Kỳ Phát. Luồng nhõn tuyến không còn cái gì là cứng cỏi, khiêu khích nữa, trái lại, chỉ đầy những ý van nài… Phía các nhân viên nha Thương chính có xôn xao tiếng nói: - Không có gì à? Không có lẽ!
- Hay là “hàng” đã thoát được ra ngoài rồi!
- Vô lý, vì trong khi bọn ta ở đây, ngoài cửa cũng vẫn còn người đứng phòng đón bắt người khả nghi kia mà!
Ch. nhìn Kỳ Phát rồi mỉm cười:
- Thôi, các cụ lại bắt hụt một phen nữa rồi! Thấp cơ thua trí đàn bà nhé!
Hạ thấp giọng, Ch. bảo Kỳ Phát:
- Thôi, chúng ta đi ra ngoài kia, kẻo có mặt ở đây, “họ” chỉ thêm ngượng!
Vừa nói Ch. vừa kéo Kỳ Phát đi về lối cửa ga hạng ba. Mấy nhân viên nha Thương chính và Sở Liêm phóng thấy Kỳ Phát đi với Ch. thì còn nghi ngờ gì nữa, vì thế cho nên chàng trinh thám của chúng tôi chẳng phải khó nhọc một chút nào mà cũng đưa được chiếc va ly nguy hiểm ra khỏi cửa ga. Bắt tay Ch. chàng thuê xe về nhà, trong bụng chẳng khỏi buồn cười vì dù anh chàng Ch. xưa nay vẫn tự phụ
là có tài “sáng suốt” và “thính việc” đến đâu cũng không thể nào ngờ rằng chính mình đã vô tình “hộ tống” chiếc va ly kia như vậy.
CHƯƠNG 4
CHIẾC VA LY DUYÊN NỢ
Kỳ Phát ngồi yên lặng thở khói thuốc lên trần nhà, không nói gì thêm nữa. Đợi một lát, tôi hỏi:
- Bây giờ, chúng ta làm gì?
Kỳ Phát đưa cặp mắt lờ đờ nhìn tôi, rồi hỏi lại:
- Làm gì?
Tôi gật đầu, chỉ chiếc va ly:
- Phải, chúng ta sẽ làm gì chiếc va ly kia?
Kỳ Phát vẫn không trả lời, chỉ nói:
- Có lẽ anh muốn biết trong đó có đựng gì phải không? Muốn thế thì anh chỉ việc tìm xem trong chùm chìa khóa “bách môn”, thế nào cũng phải có một chiếc mở được.
Tôi lắc đầu:
- Tôi không quá ngây thơ như anh tưởng. Ai còn lạ gì trong va ly đó có thuốc phiện lậu. Nhưng tôi muốn hỏi anh rằng chúng ta sẽ xử trí chiếc va ly ấy cách nào?
Kỳ Phát cười ngất:
- Có lẽ anh sợ nhân viên nha Thương chính đến thăm gian phòng này của chúng ta chăng? Điều ấy anh đừng ngại, vì các nhân viên nha này chỉ nghi ngờ dò xét những kẻ chuyên nghề gian lậu, mà chúng ta thì đâu có phải sống về cách buôn bán đó. Chiếc va ly này,
nàng đã nhờ tôi mang giúp trong lúc tôi cũng không còn đủ thời gian để kiếm cách từ chối nữa thì tôi đã làm đầy đủ lời hứa rồi. Nay chúng ta chỉ có việc vất nó đấy, bao giờ nàng đến lấy thì lấy! Tôi nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Anh có ngại chỗ nàng không biết địa chỉ này không? Kỳ Phát mỉm cười:
- Hỏi câu ấy nếu anh không ngây thơ cũng ngớ ngẩn. Anh thử nghĩ mà xem, một người con gái sắc sảo, gan dạ như nàng, đủ tài trí làm cái việc nguy hiểm kia, biết tên biết mặt ta từ lâu thì làm gì chẳng biết địa chỉ. Và dù nàng chưa biết chăng nữa, bây giờ biết chắc nàng chỉ cần để ý một chút hẳn cũng phải ra.
Tôi ngắt lời Kỳ Phát
- Vậy xin anh cắt nghĩa cho tôi biết tại sao cách tối hôm qua, cách cả ngày hôm nay và bây giờ đã gần 8 giờ tối rồi, chúng ta vẫn chưa thấy nàng lại lấy chiếc va ly quý hóa. Theo ý tôi thì đáng lý nàng phải đến đây lấy sớm giờ nào hay giờ ấy chứ?
Kỳ Phát gật đầu:
- Anh nói có lý! Điều ấy thì quả tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ nàng đã gặp một sự cản trở gì!
Chúng tôi ngồi yên lặng giây lát, bỗng Kỳ Phát thở dài. Tôi nhìn Kỳ Phát rồi tinh quái, hỏi:
- Có lẽ lòng anh đang chứa chan thương hại khi nghĩ đến “đôi mắt huyền” của anh đương phải trải qua những cơn sóng gió bất kỳ…
Kỳ Phát cau mặt:
- Anh nói thế là đủ rồi, cái giọng văn chương ấy, tôi khuyên anh hãy nên để dành mà viết những trang tiểu thuyết!
Tôi nói sang chuyện khác:
- À, mà hôm qua anh nói, tên nàng là gì nhỉ?
Kỳ Phát lơ đãng trả lời:
- Viên thanh tra Ch. bảo rằng, nàng tên là Bích Ngọc hay Thanh Ngọc gì đó…
Tôi gật đầu:
- Mà ác hại, nếu hắn cho chúng ta biết chỗ ở của Ngọc thì bây giờ anh em mình chẳng phải ngồi bàn suông như thế này không? Tôi vừa nói đến đây thì có tiếng gõ cửa se sẽ. Chúng tôi cùng ngẩng nhìn nhau. Rồi nhanh nhẹn, tôi đứng dậy, mở cửa. Tuy chỉ mới thoáng gặp nàng một lần buổi sáng mới rồi ở ga, tôi cũng nhận được ra ngay đó là nàng thiếu nữ mắt huyền đã làm cho Kỳ Phát phải một phen xúc động. Nàng cúi đầu lễ phép chào tôi, rồi liếc mắt nhìn vào trong nhà, thấy có Kỳ Phát thì lộ vẻ vui mừng hết sức. Tôi đứng lánh mời nàng vào và khép cửa lại. Thiếu nữ vui vẻ nói: - Tôi chỉ sợ ông Kỳ Phát đi vắng!
Kỳ Phát kéo ghế mời nàng ngồi rồi cũng tươi cười nói: - Điều ấy thì cô lo xa quá, trái lại, chúng tôi vẫn có ý đợi cô! Liếc nhìn tôi, Kỳ Phát khẽ bảo:
- Anh hãy thử mở cửa ra xem đã!
Tôi hiểu ý Kỳ Phát vừa toan làm theo lời thì thiếu nữ đã lắc đầu, bảo chúng tôi rằng:
- Các ông không ngại, không có ai theo gót tôi đến đây đâu!
Và mỉm cười, nàng tiếp:
- Kể họ cũng chu đáo, lúc nào cũng sẵn sàng theo dò tôi, nhưng đâu có phải là dễ dàng! Ngay lúc nẫy, cũng có hai người chỉ điểm của nha Thương chính đi theo tôi, nhưng tôi đã bỏ rơi họ từ lâu, chắc bây giờ hai anh chàng đương ngơ ngác tìm quanh, mà kết quả cũng đến tìm thấy nhau là hết!
Kỳ Phát rót nước ra chén, rồi gật đầu nói:
- Cô nói có lý lắm, vì chính tôi đây cũng đã từng được biết cái tài “bỏ rơi” của cô rồi!
Thiếu nữ mỉm cười:
- Thôi, việc đã qua, ông đừng nhắc đến làm chi nữa, tôi cũng chỉ đến biết xin lỗi ông mà thôi.
Ngừng lại một lát, nàng lại tiếp:
- Mà kể ông thực cũng đáng trách, cái lúc tôi vờ ngất đi, tưởng để ông thừa dịp đó mang giúp tôi chiếc va ly ra ngoài ga, không ngờ ông lại điềm nhiên đứng lại xem người ta cứu chữa tôi thế nào, làm cho lúc tôi mở mắt ra thấy ông vẫn đứng cạnh, tay xách chiếc va ly “của nợ” thì tôi sợ hãi quá, tưởng chừng có thể ngất đi được, mà lần này thì ngất thực chứ không vờ nữa!
Tôi cười, nói giỡn:
- Cái va ly kia, cô gọi là “của nợ”, tôi tưởng không được đúng lắm, cứ như chúng tôi gọi nó là “chiếc va ly duyên nợ” thì mới thực trúng nghĩa, vì có nó Kỳ Phát mới được biết cô…
Kỳ Phát cũng tiếp luôn:
- Cô Thanh Ngọc hay Bích Ngọc nhỉ?
Thiếu nữ cười:
- Tôi vẫn có hai tên, muốn gọi Thanh hay Bích cũng được, ngoài ra lại còn nhiều tên nữa… Nhưng tốt hơn hết các ông cứ gọi tôi là Ngọc…
Sực nhớ, nàng lại cười mà bảo Kỳ Phát:
- Tôi chắc hiện thời ông đã có đủ cả “bản lý lịch” về đời tôi rồi đấy nhỉ?
Kỳ Phát mỉm cười lắc đầu:
- Tôi xin thú thực với cô rằng quả thực tôi chữa tìm biết gì hết ngoài một vài điều mà mấy nhân viên nha Thương chính đã nói chuyện với tôi.
Nhìn thẳng vào mặt Kỳ Phát như muốn thâm dò ý tứ, Ngọc hỏi: - Chắc họ đã nói cho ông biết rằng tôi là một người con gái ghê gớm, xảo trá lắm? Và nhiều khi lại nguy hiểm nữa!
Đổi giọng buồn rầu, Ngọc tiếp:
- Nhưng biết làm sao được, không thế thì theo đuổi sao được cái nghề của tôi hiện giờ? Có lẽ trong thâm tâm ông khinh tôi lắm! Hai cặp mắt của Ngọc và Phát giao nhau. Một lát, chàng trinh thám trẻ tuổi của chúng ta thở dài, lắc đầu:
- Không, bây giờ cũng như lúc mới gặp cô lần đầu tiên ở ngoài ga, về cô, tôi chỉ chú ý có hai con mắt…
Tôi gật đầu, nói:
- Anh Kỳ Phát nói thực đó, anh đi Bắc sáng hôm ấy chỉ là đi theo đôi mắt huyền!
Tinh quái hết nhìn tôi lại nhìn Kỳ Phát, Ngọc hỏi:
- Các ông có thể cho tôi biết đôi mắt ấy có gì lạ đến nỗi các ông phải chú ý? Hay là nó cũng lộ ra hết thẩy mọi cái xảo trá, gan dạ, nguy hiểm của một người chuyên nghề buôn lậu?
Kỳ Phát chầm chậm lắc đầu:
- Không, tôi không để ý đến những chỗ nhỏ mọn ấy, tôi chỉ nhận thấy trong đôi mắt huyền có một vẻ buồn thấm thìa âm u… vẻ buồn ấy ít nhất cũng phải thấm nhuần vào trong tim óc từ lúc còn thơ…
Không để cho Kỳ Phát nói hết, Ngọc đã đứng dậy, đổi giọng cố làm ra vui vẻ mà bảo chúng tôi rằng:
- Chết chửa, tôi đến đây mục đích chỉ để cảm ơn các ông, sau để xin chiếc va ly của nợ hay… duyên nợ thì cũng thế, vậy mà tôi đã ngồi ở đây lâu quá, làm cho các ông phí mất thì giờ…
Chỉ tay vào chiếc va ly vẫn để ở góc phòng, Ngọc hỏi Kỳ Phát: - Thưa ông, bây giờ tôi có thể lấy chiếc va ly kia về được chứ? Kỳ Phát gật đầu:
- Vâng, xin cô cứ tùy tiện. Nhưng xin cô làm ơn cho biết chừng bao giờ chúng ta lại sẽ có dịp được gặp nhau?
Ngọc như nghĩ ngợi, rồi gượng cười, nói:
- Ông vốn là một nhà trinh thám, nay đây mai đó thất thường, mà tôi thì là một người buôn lậu, thường phải lẩn lút trốn tránh, cuộc hẹn hò gặp gỡ giữa chúng ta có lẽ ít khi có được. Vậy tốt hơn hết chúng ta đừng có định kỳ tái ngộ, để tránh sự bẽ bàng cho cả hai.
Ngọc nói câu này bằng một giọng buồn rầu quá, làm cho tôi vẫn định chêm vào một câu gắn bó mà không biết mở miệng nói gì. Cả Kỳ Phát cũng vậy, chàng chỉ nhìn Ngọc bằng đôi mắt đăm đăm.
Ngọc đã xách chiếc va ly, để một tay vào quả nắm cửa. Kỳ Phát vẫn nhìn theo không nói.
Nhưng bỗng Phát tiến nhanh, đến cạnh Ngọc. Chàng ghé sát vào mặt nàng, nhìn chăm chú vào cặp mắt, rồi bông hỏi: - Quái, hôm nay Ngọc có đánh quầng thâm mắt hay sao? Ngọc ngạc nhiên, lắc đầu:
- Không, tôi không dùng chì đánh quầng mắt bao giờ! Kỳ Phát hơi cau mày, lẩm bẩm:
- Nếu thế thì lạ thực! Tại sao hôm trước tôi không thấy quầng mắt cô thâm nhiều như thế này?
Nhưng Ngọc đã liếc nhìn đồng hồ rồi vui vẻ nói:
- Chắc là vì hôm nay trời tối nên ông trông ra thế! Hôm nào có dịp gặp nhau, ông để ý nhìn kӻ lại. Hôm nay thì tôi phải về ngay vì đến giờ hẹn rồi, chậm mấy phút nữa sợ nhỡ công việc mất!
Nói tới câu cuối cùng, Ngọc đã đẩy hé được cánh cửa, cúi nhìn ra phía ngoài rồi bước đi rất nhanh.
Tôi ngồi xuống ghế, lấy thuốc lá ra châm hút. Kỳ Phát vẫn đứng yên cạnh chiếc cửa đóng, ra chiều lưỡng lự. Tôi mỉm cười: - Anh chàng mất hồn rồi hay sao thế?
Kỳ Phát cau mặt nhìn tôi, nhưng không nói gì, chỉ đến bên tường lấy chiếc xe đạp, cúi thử lại đèn, rồi dắt xe mở cửa đi ra không buồn khép cửa lại nữa.
CHƯƠNG 5
MỘT ÔNG CHÚ KỲ DỊ
Tôi đương chập chờn nửa thức nửa ngủ thì thấy động cửa, Kỳ Phát dắt xe đạp ở ngoài bước vào. Thấy tôi, chàng vui vẻ hỏi: - Anh chưa ngủ kia à?
Tôi trả lời:
- Tôi cũng vừa mới chợp mắt, không thức đợi anh vì không biết là anh đi theo người trong mộng có trở về đây nữa hay không? Kỳ Phát cười, ngồi xuống ghế:
- Anh giận tôi, chắc chỉ ước muốn cho tôi chết.
Tôi cười:
- Với những kẻ si tình như anh, cái chết chỉ là sự thường! Rồi tôi lại hỏi:
- Trông điệu bộ anh vui vẻ như thế kia, hẳn anh đã tìm được nhà của người yêu anh và không chừng đã vớ vẩn vào được, uống mấy chén nước rồi mới dẫn xác về đây chứ gì?
Kỳ Phát cười lắc đầu:
- Thôi đi ông, người yêu với người quý gì? Đó chỉ là vì tò mò mà tôi muốn biết chỗ ở của nàng. Vả lại cũng vì lòng tự ái nữa. Ngọc đã tự phụ không để cho ai theo dõi được, thì tôi quyết theo cho bằng được,
Rót nước, uống hết một cốc đầy, Kỳ Phát mới tiếp:
- Chị chàng cũng tinh quái lắm, ở đây ra, đi bộ một quãng, làm cho mình cứ phải cẩn thận dắt xe đạp đi cách xa, không muốn cho nàng biết tôi theo. Thế mà sau khi qua hai phố, đến một chỗ rẽ, nàng đã nhẩy lên một chiếc xe xích lô ở đó từ bao giờ làm cho tôi đi theo ở phía sau vẫn cứ thong thả bước một mà đi cầm chừng… Nếu phải người khác đến đầu phố không thấy bóng nàng đâu, đã phải ngẩn ngơ quay về, nhưng tôi đoán rõ chuyện, tìm dấu vết xe trên đường một lúc rồi nhẩy xe đạp đuổi theo. Sau khi đã bắt gặp rồi, may một điều là nàng có lẽ đã yên trí không còn ai theo nữa nên chỉ thấy ngồi xe kéo một lần nữa là về thẳng nhà.
Tôi ngắt lời hỏi:
- Thế nhà Ngọc ở đâu?
Kỳ Phát trả lời:
- Ở mãi trên Thụy. Ngọc cũng đã khéo tìm được cái trại ấy, trông khang trang lắm, lại kín đáo nữa…
Tôi cười hỏi tiếp:
- Biết chỗ nàng ở rồi sao anh không dựa xe đạp vào gốc cây, ngồi trên bãi cỏ, nhìn ngóng lên phía cửa sổ phòng nàng, dưới bóng trăng suông trong làn sương đêm, cạnh tiếng dế rì rào và… đợi cho đến sáng, đúng như những cử chỉ của mấy anh chàng đại si tình trong truyện cổ.
Kỳ Phát cười, vỗ mạnh vào vai tôi:
- Anh khéo đặt điều chế giễu tôi lắm. Tôi đâu có phải là si ngốc! Tôi đã chẳng nói cho anh biết rằng tôi theo đuổi nàng chỉ là vì tò mò! Tôi cười ngất:
- Phải, cũng vì tò mò mà anh mới nhận thấy được quầng mắt Ngọc thâm hơn trước!
Kỳ Phát nhìn tôi rồi hỏi:
- Anh nói thế là thế nào?
Tôi mỉm cười, trả lời:
- Tôi nói thế là có ý khen anh cũng khéo bịa ra chuyện để giữ nàng ở lại đây lâu thêm ít nữa. Nhưng “kẻ cắp bà già gặp nhau”, anh không vừa thì ả cũng không vừa, biết ngay cái ngón của anh chàng, nàng gạt phắt ngay đi và ra về!
Kỳ Phát nắm chặt lấy vai tôi, hỏi:
- Anh quả tin như thế thực à?
Tôi gật đầu:
- Tôi tin như thế mà Ngọc cũng tin như thế!
Kỳ Phát thở dài, ngồi xuống:
- Cứ xét một việc nhỏ như việc này, mới biết dư luận người đời làm khổ cho bao kẻ oan uổng. Khi người ta đã yên trí cái gì thì ngay cũng bẻ thành cong là thế!
Đến lượt tôi ngạc nhiên, hỏi lại:
- Vậy ra anh quả nhận thấy quầng mắt Ngọc có sự lạ chăng? Kỳ Phát nghiêm giọng, bảo tôi rằng:
- Nếu anh biết rõ được hết những điều tôi lo lắng nghĩ ngợi bấy giờ thì anh hẳn chẳng còn vui vẻ chế giễu tôi nữa. Anh có còn nhớ một hồi trước đây tôi đóng cửa “tạ khách” luôn mấy tháng để khảo cứu về các thứ thuốc độc ở xứ ta không?
Tôi gật đầu:
- Có, khi ấy thấy anh mê mải vừa pha phách thí nghiệm vừa đi tìm tòi đến cả các thứ lá và rễ độc hiếm thấy tại các miền thượng du, hiểm hóc, tôi có hỏi thì anh bảo rằng: làm cái nghề trinh thám, thường vẫn gặp những vụ án mạng dùng thuốc độc. Vậy mình cần phải biết rõ các thứ này, nhận xét hình thể và tính chất của mỗi thứ để đến khi cần đến có thể gọi được tên nó ra ngay. Nhờ đó mà chúng ta dễ tìm ra được manh mối vụ án.
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát tiếp:
- Và đề phòng cả những kẻ thù của mình đầu độc, tôi đã cẩn thận nếm dần cả mọi thứ thuốc độc, khởi đầu bằng một số phân lạng rất ít, để cho không hại cơ thể, sau dần tăng mãi lên. Theo thuyết của nhiều nhà chuyên môn về các chất độc thì cứ tập như thế trong một thời kỳ, về sau có nhỡ ăn phải thứ độc, cũng vẫn còn có thể cứu chữa được. Tôi còn nhớ trong khi dùng thử một thứ cỏ độc trong vùng Yên Bái, gọi là cỏ “mang hoa”, tôi có nhận thấy rằng quầng mắt mình tự nhiên thâm sẫm hẳn lại, nghĩa là giống hệt như quầng mắt của Ngọc…
Nghe Kỳ Phát nói mà tôi tự nhiên thấy lo sợ, hỏi lại rằng: - Anh nói thế tức là chúng ta có thể ngờ rằng Ngọc bị người đầu độc?
Kỳ Phát gật đầu:
- Phải, nàng bị đầu độc hoặc bằng chính thứ cỏ “mang hoa” hoặc bằng một thứ nào khác, tính chất cũng giông giống như thế! Nghĩ ngợi một lát, tôi hỏi Kỳ Phát:
- Bây giờ chúng ta làm thế nào?
Kỳ Phát thở dài:
- Còn biết làm thế nào nữa, khi người ta vẫn yên trí rằng tôi là một kẻ si tình, chỉ vờ làm ra chuyện để lưu giữ đôi mắt huyền! Tôi quả quyết nắm lấy tay Kỳ Phát bảo:
- Không, không thể thế được, khi chúng ta đã biết thì không thể để Ngọc bị đầu độc một cách điềm nhiên như thế được! Biết đâu, ngay đêm nay, nàng chẳng bị uống thêm một liều độc dược nữa và sáng mai…
Không để tôi nói hết câu, như một người bị điện giật, Kỳ Phát đứng phắt dậy:
- Anh nói rất có lý, chúng ta không thể ngồi yên được! Tôi bàn:
- Hay là chúng ta thử đi vòng lên chỗ nàng ở một lượt xem sao? Kỳ Phát nghĩ ngợi giây lâu rồi nói:
- Thì cũng chỉ có một cách ấy, mặc dầu sau đó, chúng ta sẽ làm gì, tôi cũng không biết nữa. Nhưng có đi thế thì rồi may ra chúng ta mới có thể ngủ yên được đêm nay!
Một lát sau, chúng tôi đã đến khu chợ Bưởi. Bảo xe đỗ xuống, chúng tôi trả tiền rồi thong thả đi bộ lên một quãng. Liếc nhìn những dãy nhà hai bên đường thấy đều cửa đóng kín mít, Kỳ Phát bảo tôi rằng:
- Lang thang đi chơi trong một khu vắng vẻ, giữa lúc đêm khuya như thế này, tôi chắc chỉ có hai ta mà thôi!
Tôi cười:
- Và có khách đi chơi đêm nào về hẳn cũng phải đoán chúng ta tất phải là những nhà thi sĩ đi tìm vần thơ…
Kỳ Phát cũng cười, tiếp:
- Hay là những kẻ si tình đi theo đuổi một cái bóng yêu đương thì cũng thế!
Tôi vỗ vai Kỳ Phát:
- Anh hôm nay nói giọng văn chương quá, tôi nghi rằng những lời nói đó quả thực thốt tự trái tim…
Nhưng Kỳ Phát bỗng kéo tay tôi dừng lại. Rồi chàng chỉ về phía trước, bảo tôi:
- Anh có thấy bụi cây râm bụt kia không? Cách đó một gian nhà lá là đến cổng trại nhà Ngọc. Nhưng từ chỗ đầu cổng, còn phải đi một quãng, rẽ ngoặt hai lượt rồi mới tới được cửa vườn trong… Tôi nói:
- Nếu thế thì chúng ta cũng cứ đi đến cổng đã, chứ đứng đây làm gì!
Kỳ Phát vẫn nắm chặt tay tôi, bảo:
- Đến thế nào được, thế anh không thấy chỗ tối kia có bóng hai người đương đứng như rình mò cái gì ư?
Nhìn theo chỗ Kỳ Phát nói, tôi mới thấy quả thực có hai người, một người mặc quần áo ta cộc, một người mặc quần áo tây. Họ đứng sát vào nhau, hình như đương bàn bạc chuyện trò gì, nhưng luôn luôn để ý nhìn vào phía trong trại nhà Ngọc.
Tôi hỏi nhỏ Kỳ Phát:
- Anh có biết họ là ai không?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Tôi làm gì mà biết được, nhưng xem chừng họ đối với nhà Ngọc hẳn cũng không có ý tốt chỉ đâu!
Tôi lại hỏi:
- Vậy bây giờ chúng ta nên làm gì?
Kỳ Phát vẫn không bỏ qua một cử động nào của hai người kia, lắc đầu bảo:
- Chúng ta không làm gì hết, hãy cứ đứng đây đợi xem cách họ hành động thế nào đã. Nhưng cứ xem chừng thì hình như họ đương chờ cho mọi người trong nhà thực ngủ say để vào hành động.
Kỳ Phát nói tới đây thì ở đằng xa, hai bóng người đã tạt qua đường, lẩn vào trong ngõ trại nhà Ngọc. Không chậm một phút, tôi và Kỳ Phát cũng tiến lên và một lát sau đã tới chỗ hai bóng người bí mật vừa đứng. Chúng tôi đều cẩn thận đi sát hẳn vào cạnh những bụi cây bên đường để cho dù hai người kia có để ý quay lại phía sau dò xét cũng không thể trông thấy chúng tôi được!
Lúc này, bốn phía đều yên lặng. Trên đường cái, không một người nào qua lại. Trong những ngõ hẻm hoặc những đường gạch vào làng, một vài con chó nhà nào gầm gừ chứ không hề cắn lên tiếng. Tôi hỏi Kỳ Phát:
- Chúng ta cũng vào trong trại chứ?
Thấy Kỳ Phát vẫn yên lặng, tôi lại bàn:
- Hay là chúng ta cứ đứng đây, lên tiếng gọi, hai tên kia tất sợ trong nhà thức dậy, chạy bổ ra là chúng ta bắt!
Kỳ Phát lắc đầu, không trả lời, chỉ ra hiệu cho tôi đừng nói gì nữa. Và mắt chàng cứ chăm chú nhìn vào phía trong trại. Hai phút sau, Kỳ Phát khẽ nắm lấy tay tôi bảo nhỏ:
- Trong trại có người thức dậy rồi!
Quả nhiên, tiếp lời Kỳ Phát có một tiếng cửa sổ mở mạnh. Rồi có tiếng kêu gọi tíu tít và tiếng người chạy rồn rập. Kỳ Phát bảo tôi: - Chúng ta phải bắt cho kỳ được hai người kia đấy!
Tôi gật đầu và khi thấy thoáng có bóng một người chạy vọt ra ngoài thì tôi xông đến đón đường ngay. Trong khi ấy, Kỳ Phát cũng nhẩy ra chẹn bắt một người thứ hai vừa chạy ra. Người tôi đuổi bắt nhanh nhẹn lắm. Thấy có người chẹn, hắn chạy quay trở lại, ngược lên phía trên, nhưng tôi nhất quyết không bỏ, rảo cẳng theo gấp. Khi thấy hắn như có ý lẩn vào một bụi rậm, tôi lại càng cố dấn bước, không ngờ rằng đợi cho tôi tới gần bụi, hắn mới lùi ngược ngay lại làm cho tôi vô tình, quá đà, đâm chúi vào trong bụi. Tôi vướng cành lá bị ngã một cái rất mạnh, đến khi lớp ngóp trở dậy được thì kẻ tôi đuổi bắt đã lẩn trốn đi đâu mất rồi.
Dầu vậy tôi cũng cố gượng đau, sung sướng chạy lại phía Kỳ Phát. Lúc này anh chàng đã ôm được kẻ gian, đương vật lộn với hắn. Nhờ có tài nhanh nhẹn, tuy tôi chưa lại giúp sức kịp, Kỳ Phát cũng đã vật ngã được kẻ gian, trong trại có nhiều tiếng người kêu gọi nhau và ánh đèn soi khắp chỗ này chỗ khác.
Một lát sau chúng tôi đã thấy Thanh Ngọc đi đầu, tay cầm đèn điện bấm, theo sau có hai tên người nhà cũng mang đèn, lại thêm mỗi người một chiếc gậy.
Tôi vui mừng gọi:
- Cô soi đèn lại đằng này, anh Phát đã bắt được một tên rồi! Nhận ra chúng tôi, Ngọc đến ngay, nhưng nàng vừa mới soi đèn rõ mặt kẻ gian đã vội kêu to:
- Kìa, chú Hai Lịch!
Và Ngọc mỉm cười, quay lại phía Kỳ Phát, bảo:
- Thôi ông bắt lầm rồi, đây là ông chú tôi!
Tôi và Kỳ Phát đương vừa ngượng ngùng, vừa buồn cười, không biết nói năng làm sao, thì cái “ông chú” kỳ dị ấy đã lồm cồm đứng dậy, ngơ ngác nhìn quanh rồi toét mồm cười, nghêu ngao hát: “Chết thời chẳng chết cho yên,
Hết đời cũng được ba vuông bẩy tròn!”
CHƯƠNG 6
GIA ĐÌNH HỌ TẠ
Như ngượng với chúng tôi, Ngọc đập tay vào vai con người kỳ dị ấy, rồi dịu dàng trách:
- Kìa, chú Hai, sao lại thế!
Nhưng không hề để ý đến lời Ngọc nói và cũng chẳng thèm nhìn đến chúng tôi nữa, Hai Lịch chỉ nhe răng cười và luôn miệng nhắc đi nhắc lại hai câu lục bát có niêm mà không có vần kia.
Ngọc còn đương luống cuống chưa biết xử trí ra sao thì đã thấy trong trại đi ra hai người. Đi trước là một người đàn bà già, tuổi chừng năm mươi, dáng điệu trông còn cứng cáp lắm, nhưng gương mặt lộ ra một đời đã lo âu nhiều quá. Người đi sau là một con sen, tay cầm một chiếc đèn bão soi đường. Chưa biết đích bà già đó là ai thì Kỳ Phát đã thấy Thanh Ngọc nho nhỏ nói:
- Mẹ tôi!
Bà già sau một giây nhìn thoáng chúng tôi, quay lại phía con gái như muốn hỏi là ai. Thanh Ngọc biết ý, vội nói:
- Hai ông đây là bạn của con. Lúc nẫy có hai kẻ gian vào nhà ta, hai ông tình cờ đi qua nghe tiếng kêu, xông vào bắt hộ, không ngờ lại bắt nhầm phải chú Hai.
Nghe có người nhắc đến tên mình, Hai Lịch ngẩng lên cười, rồi lại nghêu ngao hát:
Chết thời chẳng chết cho yên,
Hết đời cũng được ba vuông bẩy tròn!
Chúng tôi chắp tay cung kính chào bà cụ. Kỳ Phát thưa: - Bẩm cụ chúng cháu vì trong lúc đêm tối bất ngờ, bắt nhầm phải ông Hai, thực là có lỗi…
Bà cụ cũng đáp lễ rồi gạt đi:
- Hai ông chủ tâm định giúp chúng tôi, đêm tối bắt lầm là sự thường, có hề gì đâu…
Thanh Ngọc như không muốn cho mẹ nói thêm gì nhiều, vội vàng ngắt lời bảo:
- Thưa mẹ, hai tên gian bỏ chạy cả rồi… Chúng không lấy được gì hết, vậy xin mẹ cứ yên tâm vào nghỉ kẻo đứng đây sương xuống mẹ lại cảm thôi!
Bà cụ gật đầu, chào chúng tôi, rồi kéo Hai Lịch mà bảo: - Thôi đi chứ, có vào nhà mà đi ngủ không, hay định hát nhảm suốt sáng đấy!
Miệng nói thế, hai mắt bà cụ nhìn chằm chặp vào đôi mắt Hai Lịch làm cho hắn lộ vẻ sợ hãi cúi đầu, rồi không dám nói năng gì nữa, ngoan ngoãn theo bà cụ đi vào trong nhà!
Thanh Ngọc nhìn theo hai người rồi như muốn đỡ ngượng, nàng cười mà bảo chúng tôi rằng:
- Ông ấy chính là chú ruột tôi, trước vốn là một người rất thông minh hoạt bát, chẳng hiểu duyên cớ vì đâu mà đã sáu năm nay bỗng nhiên sinh ra dở điên, dở cuồng như vậy!
Rồi Ngọc lại tiếp:
- Chắc hai ông tình cờ có việc gì đi qua đây hẳn, chứ không thì khu hoang vắng này, ai phải vạ mà đi chơi ở đây!
Kỳ Phát biết Ngọc có ý trách mình tò mò dò xét những hành động của nàng, nhưng lúc này dù có muốn chối cãi cũng không được nữa. Kỳ Phát phải thú thực rằng:
- Kể ra thì chúng tôi rất có lỗi với cô nhưng cô hẳn cũng chẳng lạ gì những người quen dò xét điều tra, thấy bất cứ việc gì hơi là lạ cũng nẩy ý tò mò ngay… Riêng đối với cô, khi nghe thấy cô bảo không ai có thể theo biết chỗ ở của cô được nên chạm lòng tự ái, đã nhất quyết tìm ra…
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát mỉm cười mà nói tiếp:
- Nhưng chúng tôi thực cũng phải khó nhọc lắm mới đạt được ý muốn. Hai anh em lần mò mãi, cuối cùng tìm được đến đây thì trời đã khuya.
Biết ý Kỳ Phát, tôi tiếp:
- Chúng tôi tìm được đến nhà, vừa toan trở về thì bỗng thấy có bóng hai người lảng vảng hình như muốn vào trong trại ăn cắp ăn trộm cái gì…
Kỳ Phát cũng nói:
- Lúc ấy, chúng tôi thật khó xử, vì thấy kẻ gian đã vào rồi, trong nhà có tiếng người sực thức, nếu chúng tôi làm ngơ thì thực chẳng đành tâm, mà xông bắt thì nhỡ không bắt được có phải là không khéo lại bị chính cô nghi oan cho chúng tôi…
Thanh Ngọc cười, lắc đầu:
- Điều đó thì ông không ngại, vì lúc đó không hiểu tại sao, chú Hai
Lịch tôi biết có kẻ gian vào nhà, vừa kêu thét lên thì tôi choàng thức dậy ngay. Với tay lấy chiếc đèn bấm, tôi khoác vội chiếc áo ngoài chiếu đèn xuống vườn, còn trông thấy rõ ràng có hai bóng người chạy, một vận áo tây mầu xám và một vận quần áo ta, cộc trắng…
Kỳ Phát cười:
- Nếu thế thì thực chúng tôi không còn sợ bị nghi ngờ oan nữa. Chúng tôi đều mặc quần áo tây trắng.
Thanh Ngọc như có ý nghĩ ngợi, giây lát bảo chúng tôi: - Nhân thể các ông đã qua đây, xin mời vào trong nhà xơi chén nước đã!
Tôi vội vàng từ chối:
- Thôi, xin cô tha phép cho chúng tôi, vì bây giờ cũng khuya rồi, có dịp, ngày mai chúng tôi lại sẽ xin lên, nhân tiện để xin lỗi cụ bà… Nhưng Ngọc đã nhìn thẳng vào Kỳ Phát mà nói:
- Các ông vẫn thường quen đi dò tìm, tra xét, hẳn không sợ gì trời khuya mất, vậy xin các ông hãy vào chơi trong nhà chốc lát, nhân thể để tôi bảo người nhà lau giầy và chải áo giúp các ông, chứ không quần áo lấm láp bụi bậm thế kia, đi về các phố đèn sáng trông sao tiện…
Kỳ Phát đã nhận thấy Thanh Ngọc nhìn mình bằng một con mắt khác thường, lộ vẻ van nài kín đáo nên đành ưng lời cùng Thanh Ngọc đi vào trong trại.
Có vào, chúng tôi mới càng thấy trại của nhà Thanh Ngọc thực là khang trang, ngăn nắp, có nhà để xe hơi, có sân gạch rộng, chỗ trồng hoa, chỗ trồng rau, lại có một khu vườn rộng trồng toàn cây có quả.
Tên người nhà đã bật đèn phòng khách, rót nước mời chúng tôi, rồi lĩnh giầy, áo xuống nhà ngang lau chải. Cánh cửa phòng đã khép lại rồi, Thanh Ngọc mới nhìn chúng tôi mà nói:
- Tôi muốn mời hai ông vào đây, nhân thể để nói với hai ông một việc mà hiện thời lòng tôi đương nghi hoặc vô cùng… Buổi tối ông Kỳ Phát có nói rằng không hiểu vì sao quầng mắt tôi hình như thâm hơn trước. Tôi xin thú thực rằng ngay lúc đó, tôi cứ yên trí ông Kỳ Phát nói vậy chẳng qua có ý muốn giữ tôi lại nói chuyện thêm giây lát mà thôi, nhưng không ngờ đến lúc về nhà tình cờ tôi soi gương, quả nhiên có thấy quầng mắt thâm hơn thực…
Ngừng một lát, Thanh Ngọc tiếp:
- Tôi rất hối lúc trước đã gạt câu chuyện đi, không nghe ông nói hết. Nhưng may sao, đêm nay lại được gặp các ông lần nữa. Kỳ Phát ngắt lời, hỏi:
- Tôi đoán chắc cô còn thấy có điều gì lạ khác nữa? Thanh Ngọc gật đầu:
- Vâng quả có thế! Tôi nghi hoặc, cố nhớ lại những việc đã xẩy ra thì thấy hai ngày hôm nay, tôi luôn luôn mấy lần thấy đầu choáng mắt hoa, mà ngày thường tôi không hề bị thế. Tôi nghĩ có lẽ vì mấy hôm đi xe, đi tầu, bị cảm liễn nắng gió sinh ra như thế, nhưng khi
thấy ông để ý đến quầng mắt, tôi mới ngõ rằng hai việc này có liên can đến nhau.
Thấy Kỳ Phát vẫn lặng yên nghe mình nói, Thanh Ngọc lại tiếp: - Mà ngay vừa rồi lại sinh ra việc có kẻ gian nhòm ngó, tôi sợ rằng cũng là một việc có dính líu đến hai việc trên đây! Kỳ Phát gật đầu, nói:
- Cô đoán như vậy thực hợp lý, tôi cũng nghĩ như vậy. Thanh Ngọc lại nói:
- Trước đây, tôi có xem mấy cuốn sách về y học, tôi có thấy nói rằng xây xẩm mặt mày, quầng mắt thâm đen, có thể là triệu chứng của sự ngộ độc, chẳng hay có phải là trường hợp của tôi không? Kỳ Phát gật đầu, trả lời:
- Tôi cũng đã để ý đến chỗ ấy, nhưng cũng chưa lấy gì làm chắc lắm. Có một điều cô nên thử nhớ lại xem trong mấy bữa ăn uống vừa rồi, hoặc ở nhà, hoặc ở các tiệm, cô có dùng phải thứ gì độc hay không?
Thanh Ngọc cau mày suy nghĩ một lát rồi lắc đầu nói: - Tôi vốn tính rất giản dị, trong việc ăn uống cũng vậy, nhất là khi đi ra ngoài, thường chỉ dùng một chiếc bánh mỳ, mấy xu giò chả hoặc quả trứng luộc cũng là xong bữa, nhiều khi ít thì giờ thì nhịn đói qua một vài bữa cũng không sao… Tôi còn nhớ rõ ràng, trong mấy ngày trước đây tôi không hề ăn qua một thứ gì có thể ngờ là độc được!
Nhưng Ngọc bỗng đập tay xuống bàn mà nói rằng:
- Thôi, có lẽ phải rồi!
Nhưng trước khi nói, Ngọc còn cẩn thận ra mở hé cửa, thử nhìn xem có ai nghe ngóng gì không, rồi mới hạ thấp giọng mà nói: - Bây giờ tôi nhớ ra, buổi sáng sớm hôm nay theo lệ thường tôi trở dậy súc miệng đánh răng xong thì uống tách cà phê người nhà đã quen lệ pha sẵn. Nhưng tách cà phê sáng nay hơi đắng hơn mọi ngày. Bây giờ tôi càng cố nhớ lại càng thấy hình như có mùi vị hăng hắc thì phải!
Quay nhìn Kỳ Phát, Ngọc hỏi tiếp:
- Như vậy, có lẽ tôi đã bị người đầu độc rồi chăng?
Tôi gật đầu:
- Có lẽ thế thực, nhưng cô không hề gì, chỉ là vì hung phạm cho chất độc không đủ mạnh!
Kỳ Phát hỏi lại:
- Đó chỉ là những giả thuyết, chưa có gì là bằng cứ cả. Theo ý tôi thì trước hết, cô cần phải nghĩ xem có kẻ nào thù muốn hại tính mệnh cô không đã?
Thanh Ngọc ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Theo đuổi một nghề nguy hiểm như tôi, rất có thể gây ra nhiều kẻ thù oán. Nhưng riêng về phần tôi thì thực không biết rõ ai là kẻ tử thù!
Tôi bàn:
- Bây giờ trước hết hãy tìm một chỗ làm đầu mối. Như ý tôi thì ta hãy để ý ngay đến kẻ nào pha tách cà phê hôm qua cho cô Ngọc đã! Ngọc nói:
- Người vẫn chuyên pha cà phê cho tôi là vú già. Vú này nuôi tôi
từ lúc mẹ tôi cai sữa cho tôi thuở bé. Đã nhiều lần vú ấy tỏ ra rằng lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh cho tôi. Vả lại, vú ấy chồng đã chết, lại không có con nên trong thâm tâm, tôi tưởng chừng như vú ấy cũng thương và yêu tôi như con vú ấy đẻ ra vậy.
Kỳ Phát gật đầu:
- Những vú già trung thành như vậy, tôi đã từng biết. Như thế ta có thể liệt vú vào hạng người không nghi ngờ trong nhà này. Tôi quay hỏi Kỳ Phát:
- Tôi chắc ý anh lại muốn dùng cái phương pháp loại trừ để tìm dần ra thủ phạm đã bỏ chất độc vào tách cà phê của cô Ngọc chứ gì?
Kỳ Phát gật đầu:
- Tôi quả thật có ý ấy. Bây giờ xin cô cho chúng tôi biết tất cả những người ở trong nhà này.
Thạnh Ngọc nói:
- Riêng về gia đình tôi thì hiện chỉ có ba người. Mẹ tôi, chú tôi và tôi. Còn gia nhân thì tất cả có năm: hai người đàn bà là vú già và con sen, cùng ba người đàn ông thì hai người đi cùng tôi lúc nẫy, một làm vườn và một kéo xe ở cả luôn đây. Còn một người nữa làm bếp, nhưng cứ bẩy giờ tối thì hắn về nhà riêng của hắn.
Kỳ Phát hỏi:
- Trong số năm tên gia nhân, vú già trừ đi không kể rồi, cô có ý nghi ngờ kẻ nào có manh tâm không?
Thanh Ngọc lắc đầu:
- Bọn này tuy tôi không dám tin chắc hẳn nhưng họ cũng thẩy đều
ở nhà tôi khá lâu, kẻ ít nhất cũng đã gần được hai năm. Xem chừng không có lý gì mà họ lại muốn hại tôi…
Tôi nói:
- Cô nên nhớ rằng kẻ thù cô có thể dùng tiền mà sai khiến họ dễ dàng…
Kỳ Phát gật đầu:
- Anh nói điều ấy không hẳn là vô lý nhưng ta sẽ xét đến sau… Vậy sáng mai đây, tôi muốn phiền cô Thanh Ngọc hãy để ý dò hỏi người vú già xem lúc vú ấy pha cà phê thì có bỏ đi đâu không, nếu có thì liệu trong khi ấy có kẻ nào có thể lén bỏ chất độc vào trong tách. Một điều cô nên để ý là khi hỏi phải cẩn thận, đừng cho vú già biết rằng trong nhà này đã xẩy ra một việc đầu độc!
Ngừng một lát Kỳ Phát hỏi Thanh Ngọc:
- Trước khi chúng tôi ra về, nếu cô không trách chúng tôi quá tò mò thì xin cô làm ơn cho biết thêm đôi điều về gia đình của cô… Thanh Ngọc cười, bảo:
- Ông muốn biết điều gì, cứ hỏi, tôi xin trả lời không giấu giếm, có đời nào con bệnh giấu bệnh tình của mình mà ông lang lại có thể chữa khỏi được. Ông đã giúp tôi tra xét, sau này lẽ tất nhiên có quyền được tò mò. Nhưng gia đình tôi vẻn vẹn có ba người, sống một cách bình thường, cũng không có gì đáng kể.
Thấy Kỳ Phát như ngần ngại muốn nói lại thôi, Ngọc tiếp: - Tốt hơn hết có lẽ là ông cứ hỏi tôi từng câu, tôi sẽ trả lời và xin hứa rằng trả lời rất thực để công việc tra xét của ông được dễ dàng! Kỳ Phát gật đầu, rút cuốn sổ tay trong túi ra, rồi nói:
- Nếu thế thì còn gì hay hơn nữa. Trước hết, xin cô cho biết nhà ta, ngoài số tiền cô kiếm ra từ nghề buôn lậu, cô còn những món tiền nào khác nữa không?
Thanh Ngọc nói:
- Không, vì ông hẳn cũng rõ, mẹ tôi đã già yếu mà chú Hai Lịch tôi thì lại dở người, mọi sự chỉ tiêu trong nhà đều phải trông vào việc buôn bán của tôi cả. Nhà tôi cũng không có gì gọi là giầu có, trước đây, khi cha tôi vừa mới nằm xuống thì còn lại kha khá tiền dành dụm, nhưng càng về sau, số tiền ấy càng tiêu hụt đi, hiện nay thì chỉ có thể gọi là đủ chỉ dùng mà thôi!
Kỳ Phát hỏi:
- Ông thân sinh ra cô mất vào lúc cô bao nhiêu tuổi? Ngọc trả lời:
- Cha tôi mất lúc tôi mười hai tuổi, nghĩa là cách đây đúng sáu năm. Tôi còn nhớ hôm ấy là ngày rằm tháng năm, tôi đương cùng mấy người bạn chơi trăng trên bãi bể Sầm Sơn, vì thường lệ mùa hè, cha tôi vẫn gửi tôi ở nhà một người bạn quen ngoài đó, thì nhận được dây thép của nhà bảo về ngay.
Kỳ Phát ngắt lời hỏi:
- Tôi đoán chắc trước đó, cô không hề thấy nói cha cô ốm yếu gì? Thanh Ngọc gật đầu:
- Vâng, khi tôi từ Hà Nội ra Sầm Sơn, cha tôi vẫn khỏe mạnh như thường.
Ngừng một lát, nàng tiếp:
- Kể nói như thế cũng không đúng hẳn vì đã lâu, cha tôi bị mắc
chứng dở người, cũng gần giống chú Hai Lịch tôi hiện giờ! Kỳ Phát như chú ý đến đoạn này lắm, chàng ghi chép nhiều dòng vào trong cuốn sổ tay, rồi lại hỏi:
- Cái bệnh… dở người ấy, lúc nào cũng đều đều như bệnh ông Hai bây giờ hay có khi thăng, khi giảm?
Thanh Ngọc nói:
- Đã năm, sáu năm, bệnh cha tôi không thay đổi, nghĩa là vẫn khỏe, ăn ngủ điều hòa nhưng người ngẩn ngơ mất trí sáng suốt, nói năng không ra đâu vào đâu, có khi lại ngồi hàng ba, bốn ngày không hề mở miệng! Nhưng hình như độ tôi sắp đi Sầm Sơn thì bệnh cha tôi có tăng lên chút ít, có mấy đêm gầm thét như sợ hãi cái gì và chừng vài ba lần xé quần áo và đập phá đồ đạc!
Ngừng lại một lát, Thanh Ngọc nói:
- Tôi khi ấy còn bé, không biết, sau này nghe vú già kể lại mới biết rằng trước đó, cha tôi và chú Hai đều đi buôn nghề này, kiếm được khá nhiều tiền, nhưng từ khi cha tôi mang bệnh thì chỉ còn chú tôi buôn thôi, số tiền kiếm được vì thế mà không được như trước. Cha tôi mất đi được ba, bốn tháng thì chú tôi cũng bắt đầu thấy dở chứng bệnh gần giống như cha tôi trước, khởi đầu chỉ buồn bã, ít nói, sau sinh ra mê sảng ban đêm và chừng một năm thì hoàn toàn là người mất trí! Số tiền chỉ dùng trong nhà từ đó đành phải trông cậy vào mẹ tôi, cũng bắt đầu đi làm cái nghề nguy hiểm kia.
Kỳ Phát ngắt lời, hỏi:
- Cô vào nghề đã bao lâu rồi?
Thanh Ngọc trả lời:
- Mới được hai năm nay thôi, vì mẹ tôi mỗi tuổi một già, nghề buôn lậu thì lại rất là vất vả và nguy hiểm. Nghĩ thương mẹ, vả tôi cũng đã lớn, nên tôi nhất định đi tập buôn mấy chuyến, mặc dầu mẹ tôi hết sức ngăn cản. Nhờ trời có được mấy kẻ gia nhân trung thành thạo việc, tôi đi và can đảm lên, mẹ tôi mới yên dạ mà cho tôi đi những chuyến hàng lớn.
Kỳ Phát liếc nhìn đồng hồ rồi nói:
- Thôi, khuya lắm rồi, xin cô cho phép chúng tôi về. Rồi mai hay ngày kia, tôi có dịp hãy lên thăm. Xin cô chuyển giúp lời chào cụ và ông Hai.
Thanh Ngọc cùng một tên người nhà cầm đèn theo tiễn chúng tôi ra tận ngoài đường cái. Trước khi chia tay, Kỳ Phát còn bảo riêng Thanh Ngọc rằng:
- Tôi sẽ xin hết sức chú ý đến việc này, riêng về phần cô từ nay cũng nên đề phòng cẩn thận mọi sự xẩy ra mới được. Điều quan hệ nhất là việc người mưu hại đầu độc, cô chớ có kể ra cho một ai biết cả, dù người thân nhất như bà cụ cũng không. Có thế thì công cuộc tra xét của tôi mới có thể dễ dàng được!
CHƯƠNG 7
BÀN TAY ĐEO GĂNG ĐEN
Kỳ Phát đi đâu đã hai ngày hôm nay rồi, tôi chắc chàng đi dò theo một vài manh mối đã tìm ra trong vụ đầu độc kể trên đây. Tôi lại đoán có lẽ chàng đi tỉnh xa, hoặc đến những nơi rừng thiêng nước độc nào vì khi xếp hành lý, tôi thấy Kỳ Phát cẩn thận mang theo cả chiếc màn gọng và ống thuốc ký ninh.
Trước khi đi, anh có dặn lại tôi rằng:
- Tôi đi ít nhất cũng phải vài ba ngày mới về. Cứ theo chỗ tôi đoán thì chắc từ nay đến đó, Thanh Ngọc chưa hề xẩy ra việc gì nguy hiểm…
Tôi nói:
- Nhưng muốn cẩn thận, anh nên để địa chỉ của anh lại đây để phòng khi xẩy ra sự gì bất trắc thì tôi sẽ đánh dây thép cho anh! Nhưng Kỳ Phát lắc đầu bảo tôi rằng:
- Nếu có những địa chỉ nhất định thì lẽ tất nhiên phải làm theo cách anh nói, nhưng lần này đi tôi không có chỗ ở nhất định nào. Nhưng anh cứ yên lòng, tôi đoán chắc không xẩy ra sự gì nguy cấp đâu!
Ngừng lại một lát, Kỳ Phát có vẻ suy nghĩ lâu lâu rồi nói: - Tôi dặn phòng xa anh rằng nếu Thanh Ngọc thấy xẩy ra sự gì lạ xét ra có thể nguy hiểm đến nàng thì anh khuyên nàng hãy vờ lấy lý
do đi đâu đó, rồi đến biệt hẳn một nơi, đừng cho ai biết cả. Nếu không ngại tị hiềm Ngọc có thể ở lại đây vài ngày càng tốt, vì chỗ này hẳn kẻ thù của nàng chưa biết đến, lại thêm có anh nữa khả dĩ có thể bảo vệ được nàng khi cần đến!
Tôi gật đầu:
- Điều ấy thì tôi không dám từ chối, nhưng anh đi đâu cũng nên liệu về ngay vì tôi e sức tôi không đủ che chở cho Thanh Ngọc được. Thà rằng chúng ta biết rõ ngay kẻ thù của nàng là ai, đằng này kẻ thù lúc nào cũng lẩn lút ở trong bóng tối, như vậy chúng ta thực khó mà đề phòng vậy.
Hai ngày đã qua. Mặc dầu chàng đã dặn trước ít nhất vài ba ngày chàng mới về, thì ngày hôm nay tôi đã thấy sốt ruột lắm rồi! Tuy cố ngồi làm việc cho quên hết những mối lo lắng không đâu, nhưng luôn luôn hình ảnh đôi mắt huyền, người chú rồ dại vẫn hiện ra trước mắt trong khi câu hát nửa như vô nghĩa, nửa như bí hiểm kia vẫn văng vẳng bên tai tôi!
Năm giờ chiều, tôi đi ăn rồi lững thững ra ga. Cũng chẳng biết giờ này có những chuyến tầu ở đâu về nhưng tôi cứ đón thử, chẳng qua để cho hết thời giờ và làm yên những mối lo lắng không đâu. Chuyến tầu Nam đã lên, chuyến tầu Phòng đã tới, hai lần tôi đều ngong ngóng đợi, đợi thấy mặt Kỳ Phát hay đợi cái may mắn tự nhiên thì cũng thể!
Nhưng cuối cùng tôi cũng đành trở về lủi thủi một mình. Vừa mở rộng cánh cửa phòng, tôi đã giật mình vì ngay dưới đất có một mảnh
giấy gập, ai đã lùa vào từ bao giờ! Nhặt giấy mở ra đọc, tôi chỉ thấy có ba dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng bút chì: “Ông Kỳ Phát, những điều ông đoán quả thực không sai. Tôi đã thấy chứng cớ hiển nhiên định lại báo tin ngay để ông biết nhưng không gặp. Vậy tối hôm nay, đúng 7 giờ, tôi sẽ đến, ông đợi tôi!”
Dưới không ký tên gì cả, nhưng không phải Thanh Ngọc viết thì còn ai vào đây nữa. Tôi cầm tờ giấy đọc đi đọc lại mấy lần và càng đọc thì trong lòng càng thấy hoang mang quá! Thực vậy, Kỳ Phát bỏ đi, không cho tôi biết chỗ tìm chàng, lại giao phó cho tôi việc bảo vệ Thanh Ngọc, nay việc lạ đã xẩy ra, tôi thực lúng túng chẳng còn biết dùng cách nào mà đối phó cả. Tôi lại oán hận cả Kỳ Phát nữa vì chàng chắc hẳn đã biết ít nhiều manh mối về vụ này, vậy mà chàng cũng không hề nói cho tôi biết, như vậy thì có khác nào đưa kẻ mù đến một con đường lạ, dặn cứ việc đi nhưng không đưa cho gậy!
Nhưng may quá, mới sáu giờ rưỡi, tôi đã thấy Kỳ Phát đẩy cửa bước vào. Lộ vẻ hân hoan, chàng xoa tay bảo:
- Tôi đi không phí công một chút nào hết, vụ này, tôi tuy chưa khám phá ra được hẳn nhưng đã tìm được mấy đầu mối có thể gọi là chắc chắn!
Thấy tôi vẫn không nói gì, Kỳ Phát vùng cười ngất:
- Anh giận tôi hay sao mà phụng phịu thế! Nhưng tôi không quên quà của anh đâu, tôi đã mua được một con dao quai thổ, chuôi sừng rất đẹp!
Tôi thở mạnh, bảo Kỳ Phát:
- Anh thực quái ác, làm cho tôi ăn không ngon, ngủ không yên đã mấy hôm nay!
Kỳ Phát cười:
- Tôi mới đi chưa được ba ngày, vậy mà anh làm như tôi đã vắng nhà hàng tháng. Nhưng nào có làm sao đâu, không hề xẩy ra việc gì nguy hiểm cả, đôi mắt huyền của chúng ta vẫn đen vẫn sáng vẫn buồn một cách man mác xa xôi.
Chẳng muốn để Kỳ Phát nói thêm nhiều nữa, tôi lặng lẽ đưa chàng xem tờ giấy của Thanh Ngọc viết. Kỳ Phát đọc qua một lượt, rồi đưa trả, trách:
- Gớm, anh làm cho tôi giật mình. Ngọc viết như vậy chẳng qua là một tin mừng cho ta…
Tôi tức tối:
- Thế mà anh bảo là một tin mừng, tôi thực không hiểu ra làm sao đấy!
Kỳ Phát điềm nhiên gật đâu:
- Tôi nói đó là một tin mừng, vì khi có vụ án bí mật xẩy ra, điều cần nhất là chúng ta cần phải có nhiều đầu mối: đó là những cái mốc đặt cho ta biết đường mà lần tới đích. Chốc nữa Ngọc đến đây thuật cho ta biết rõ sự việc, tức là biết thêm được một đầu mối để đi dò xét vậy.
Kỳ Phát vừa nói hết câu thì có tiếng gõ cửa. Kỳ Phát dặn nhanh tôi:
- Anh đừng có nói gì đến việc tôi đi đâu nhé!
Tôi gật đầu ra mở cửa. Thanh Ngọc thấy có chúng tôi ở nhà, lộ vẻ mừng rỡ nói rằng:
- Tôi lại đây hơi sớm, chỉ sợ các ông không có nhà!
Kỳ Phát kéo ghế mời Ngọc ngồi, rồi nói:
- Lúc nẫy chúng tôi chạy nhanh ra phố. Khi về, thấy giấy của cô để lại, chúng tôi sốt ruột quá, vì chỉ e ngại rằng cô bị ngăn trở điều gì không đến được chăng?
Thanh Ngọc mỉm cười, nói:
- Có lẽ ông lo rằng tôi đã nằm liệt giường rồi, không lại đây được chăng? Kể ra nếu mình vô tình thì có thể thế được lắm nhưng đằng này, nhờ có ông, tôi đã biết mà đề phòng!
Tôi nóng nẩy hỏi:
- Chắc cô đã thấy chứng cớ rõ ràng rằng có người định đầu độc? Thanh Ngọc gật đầu:
- Và hơn thế nữa, nghĩa là tôi đã trông thấy rõ ràng có tay người bỏ chất độc vào cốc cà phê của tôi!
Kỳ Phát rất chú ý đến câu chuyện Thanh Ngọc kể. Chàng ngồi thẳng thắn lại, khoanh hai tay lên mặt bàn, rồi thong thả nói: - Xin cô kể rõ ràng việc này lại cho tôi nghe!
Thanh Ngọc như thấy thái độ nghiêm trang của Kỳ Phát thành ra sợ hãi. Nàng lo lắng nói:
- Có lẽ chuyện này quan trọng hơn là tôi tưởng chăng? Kỳ Phát gật đầu:
- Vâng, rất là quan trọng, vì có thể làm nguy cho tính mệnh của cô!
Thanh Ngọc thở mạnh như trút được một gánh nặng, rồi nở nụ cười:
- Xin lỗi ông, nếu chỉ có thế thì tôi cũng không lo ngại lắm, vì trong
đời tôi đã từng kề sát bên cái chết là thường!
Kỳ Phát nhìn thẳng vào đôi mắt của Ngọc. Rồi chậm rãi, chàng nói:
- Nhưng nếu cô chết thì nào có chết được yên? Và nếu ngoài cô ra còn có nhiều người phải thiệt mạng nữa?
Thanh Ngọc thất sắc, hỏi:
- Ông nói làm cho tôi sợ hãi quá, như thế nghĩa là thế nào? Nhưng Kỳ Phát không trả lời, chàng chỉ giục:
- Trước hết, cô hãy kể cho chúng tôi biết việc vừa xẩy ra đã! Nghe giọng nói quả quyết của Kỳ Phát, Ngọc đành phải theo lời. Nàng nói:
- Từ hôm xẩy ra việc có mấy kẻ gian chực vào nhà tôi, từ hôm ông dặn tôi phải coi chừng có kẻ đầu độc thì tôi không dám coi thường, nhất nhất từ mọi việc rất nhỏ mọn, tôi cũng chú ý xem xét cẩn thận. Nhưng tôi không thấy một sự lạ gì cả. Mẹ tôi vì đêm hôm ấy dậy bị sương, sốt nằm suốt ngày trong phòng, còn chú Hai Lịch tôi thì luôn luôn nổi cơn điên cuồng khiến cho tôi không biết làm cách nào đành phải bỏ thuốc ngủ vào nước cho chú tôi uống. Do đó, chú tôi ngủ yên được ít giờ, nhưng hễ lúc nào tỉnh dậy là y như nổi cơn ngay. Tôi phần lo săn sóc hai người ốm, phần lo nhận xét mọi việc xẩy ra quanh mình nên đầu óc lúc nào cũng thành ra vơ vẩn nghĩ ngợi. Tôi đã để ý dò xem mọi cách hành động của bọn gia nhân bộc phu thì thấy họ không hề có cử chỉ gì khác cả. Nhưng buổi sáng hôm nay…
Ngừng lại một lát để lau mồ hôi trán bắt đầu đọng giọt, Thanh
Ngọc kể tiếp:
- Buổi sáng hôm nay, vì đêm trước phải thức dậy mấy lần pha thuốc cho mẹ tôi uống, nên gần sáng tôi ngủ mệt lắm. Nhưng không hiểu vì có tiếng động gì hay tiếng kẹt cửa phòng mà tôi bỗng choàng sực tình. Tôi thấy cửa phòng hé mở, rồi… thực là một sự lạ, không lẽ tôi mê ngủ, tôi trông thấy rõ ràng có một bàn tay đeo găng đen thò vào phía trong. Ông nên để ý rằng cạnh cửa buồng tôi là chiếc bàn con thường vẫn để lọ hoa và ấm nước. Buổi sáng vú già pha cà phê, theo lệ vẫn cứ thò tay vào để chiếc cốc lên mặt bàn ấy. Nhưng bàn tay đeo găng đen này không cầm cốc để vào mà lại bỏ một thứ bột gì vào trong chiếc cốc cà phê để ở đó từ lâu!
Tôi ngắt lời, hỏi:
- Tôi chắc lúc ấy cô kêu lên?
Thanh Ngọc lắc đầu:
- Vì thường gặp nhiều sự nguy hiểm bất thường, tôi đã quen đi không còn dút dát như các cô con gái khác. Bởi vậy mà tôi không hề kêu lên, - đây cũng là một điều không may, vì nếu tôi kêu thì có lẽ không chừng thủ phạm bị bắt quả tang, - tôi không kêu, chỉ nhẹ nhàng bước xuống giường, toan rón rén ra đến tận nơi nắm chặt lấy bàn tay bí mật kia…
Kỳ Phát tặc lưỡi nói:
- Nếu thế thì cô thực gan hơn nhiều người đàn ông khác. Cô không sợ rằng hung phạm còn một tay nữa và nhỡ tay ấy cầm dao? Thanh Ngọc mỉm cười:
- Khi mình định bắt kẻ gian, tất mình phải đề phòng, tôi đã rắp
bụng khi đến gần cửa, lúc nắm được bàn tay bí mật kia, sẽ lập tức lấy chân hoặc cả người tì sát mạnh vào cánh cửa thì tay kia dù hung phạm có cầm gì cũng phải thúc thử mà thôi!
Ngừng lại một lát, Thanh Ngọc thở dài:
- Nhưng tôi lại không tính trước đến cái giường ác hại. Chiếc lò so nệm hơi chùng, lúc tôi vừa rón chân đứng lên đã két một cái mạnh, thế là nhanh như biến, bàn tay đeo găng đen bí mật kia đã rút vội ra. Cánh cửa cũng đóng sập ngay lại. Không chậm một phút, mà cũng không cần giữ gìn gì nữa, tôi nhẩy bổ ra phía cửa, giơ tay định mở nhưng tức thay, hung phạm đã vừa vặn xong một vòng khóa rồi.
Kỳ Phát từ lúc nẫy vẫn ghi chép vào cuốn sổ tay, lúc này mới ngừng bút ngẩng lên, hỏi:
- Chắc cô phải theo lối cửa sổ mà ra ngoài chứ?
Thanh Ngọc lắc đầu:
- Có lẽ tôi theo lời ông nói mà làm như thế thực, nhưng cửa sổ của tôi mở xuống vườn, không hề có bao lơn hay ống máng gì có thể theo đó mà leo đi đâu được. Vì thế tôi đành phải đập cửa mà gọi…
Thấy Kỳ Phát hơi cau mặt, Thanh Ngọc vội nói tiếp luôn: - Ngay lúc đó, vú già đến mở cửa cho tôi và lộ vẻ ngạc nhiên vì thấy sắc mặt tôi hoảng hốt, vả lại chắc tiếng tôi gọi cũng chẳng được bình tĩnh như ngày thường. Nhưng sực nhớ đến lời ông dặn không để cho ai biết có vụ đầu độc này, tôi lại trần tĩnh ngay được, chỉ hỏi vú già rằng sao lại khóa cửa phòng tôi như vậy.
Kỳ Phát ngắt lời hỏi:
- Tôi không hiểu tại sao mà cô chưa dậy, cửa phòng cô lại có chìa khóa để ở bên ngoài như vậy?
Thanh Ngọc trả lời:
- Điều ấy không có gì là lạ cả vì theo lệ thường tôi vẫn có một chiếc chìa khóa để ở đầu giường, nhưng rất ít khi dùng đến. Buổi tối, khi vú già đã pha nước và vào trong phòng tôi lần cuối cùng để hỏi xem tôi có cần gì không rồi vú ra, khóa trái cửa lại. Chìa khóa ấy, vú già giữ để đến sáng sớm hôm sau tiện mở cửa đưa cà phê vào cho tôi. Chiếc chìa khóa để ở đầu giường là chỉ để phòng bất thường trong đêm hôm tôi có trở dậy ra ngoài có việc gì không thôi, nhưng rất ít khi dùng đến vì sáng sớm, đúng giờ vú già đã đưa cà phê vào trong khi tôi còn ngủ… Chìa khóa ấy vú già cứ cắm nguyên ở phía ngoài, tình cờ đã giúp cho hung phạm trốn thoát!
Tôi hỏi:
- Chắc vú già cũng ngạc nhiên lắm khi thấy bỗng dưng cửa phòng lại khóa ở bên ngoài?
Thanh Ngọc gật đầu:
- Vâng, nhưng vì tôi không nói cho vú biết nên vú chỉ nghi hoặc rằng chính tay mình đã khóa cửa lại khi đưa cà phê vào rồi! Và sau cùng, vú yên trí rằng đã già nên lẫn cẫn!
CHƯƠNG 8
ĐẾN LÚC TÔI THÀNH
NGƯỜI VÔ DỤNG
Kỳ Phát hỏi:
- Chắc cô cũng để ý và dò hỏi xem có kẻ nào lạ mặt vừa vào trong nhà hoặc nếu hung phạm chính là ở trong số gia nhân thì cô cũng xét xem có kẻ nào đáng nghi ngờ không?
Thanh Ngọc gật đầu:
- Vâng, nhưng có lẽ vì tôi không có tài trinh thám như ông nên tôi không khám phá ra được. Người ngoài thì chắc chắn không có ai vào được vì lúc ấy tên làm vườn vẫn đương ngồi nhặt cỏ, mấy con chó cũng thả, thấy bóng người lạ hẳn chúng sủa rầm rĩ lên ngay. Nhưng còn người nhà cũng không thể nghi cho ai được hết vì chúng đều bận mỗi người một việc. Vú già thì đun nước tắm dưới bếp, con sen thì là quần áo ở nhà ngang, một tên người nhà thì mẹ tôi sai đi lấy thuốc vắng, còn thằng bếp thì đang làm gà ở phía cầu ao… Chú Hai Lịch có lẽ dậy từ sớm nhưng nằm xem báo thế nào mà thiu thiu ngủ trên chiếc ghế ở trong phòng mẹ tôi từ bao giờ. Bà cụ vẫn còn yên giấc, cho đến lúc tôi vào sờ đầu xem có sốt không thì mẹ tôi mới sực tỉnh dậy.
Kỳ Phát ghi chép vào cuốn sổ tay xong, lại hỏi tiếp:
- Việc xẩy ra chỉ có thế thôi phải không cô?
Thanh Ngọc gật đầu:
- Vâng, đầu đuôi chỉ có thế. Cốc cà phê về sau tôi có ngửi thử, quả nhiên có mùi khác thường. Tôi trút cả vào một chiếc lọ và mang theo đến đây đưa ông xem!
Vừa nói, Thanh Ngọc vừa rút trong túi ra một chiếc lọ nhỏ bọc giấy ở phía ngoài. Kỳ Phát mở nút, đưa lên mũi ngửi qua rồi lấy chiếc chén rót ra một ít mà nếm. Thanh Ngọc thấy thế lộ vẻ sợ hãi, toan ngăn cản nhưng thấy tôi vẫn điềm tĩnh ngồi nguyên thì cũng không dám nói gì, chỉ nhìn Kỳ Phát bằng con mắt vô cùng kính phục mà thôi. Chàng trinh thám trẻ tuổi của chúng ta lúc này chăm chú nếm những giọt thuốc độc một cách… ngon lành như một kẻ sành sỏi, thưởng thức hương vị của một thứ rượu ngon vậy.
Chàng hơi nhăn mặt rồi bỗng gật gù mà bảo tôi rằng: - Sáng sớm mai, anh nhớ đưa lọ này lại cho anh Hưng để anh ấy phân chất ra xem, nhưng có lẽ cũng bằng thừa mà thôi vì tôi đã thấy quả đúng như các vị độc tôi đã từng dùng qua…
Rồi không để cho Ngọc hỏi thêm gì, Kỳ Phát nói ngay: - Bây giờ thì cô cứ yên trí mà về, tôi có thể nói để cô biết rằng hiện thời tôi đã có đôi chút manh mối về vụ này rồi. Riêng còn một vài điều nữa, tôi cần phải dò xét và suy nghĩ thêm… Theo tôi đoán thì trong vài ba ngày nữa, hung phạm lo lắng cũng chưa dám hành động gì đâu, hắn còn phải nghe ngóng động tĩnh đã. Và từ nay đến đó, chắc tôi đã có thể chỉ mặt vạch tên được hung phạm! Nhưng Thanh Ngọc tuy đã đứng lên vẫn còn dùng dằng… Kỳ Phát nhận thấy ngay, hỏi:
- Cô còn điều gì muốn nói, xin chớ ngần ngại!
Thanh Ngọc không lưỡng lự nữa. Nàng cúi đầu thú thực: - Nguyên tôi đã hứa với ông rằng sẽ nói rõ hết mọi việc để cho ông biết, nên tuy ngần ngại định thôi tôi lại nghĩ không yên dạ. Trước đây hơn một năm, tôi có biết một thiếu niên và chỉ coi chàng là một người bạn tốt, hiền lành… Tôi không ngờ rằng chàng vẫn để ý đến tôi từ lâu, nên cách đây hai tháng, có nhờ người đến dạm hỏi. Mẹ tôi thì thuận ngay nhưng tôi còn lưỡng lự vì tôi biết chàng là một người hiền lành, đáng mến, chứ quả thực tôi không chắc sẽ yêu chàng không. Vì thế mà tôi tỏ lời xin để thong thả. Thấy vậy, mẹ tôi cũng không ép. Nhưng ngày hôm qua mẹ tôi có nhắc đến chuyện đó, viện lý ra để tôi thuận lấy chàng. Mẹ tôi khóc lóc làm cho tôi không thể nào cầm lòng cho được…
Kỳ Phát ngắt lời hỏi:
- Và cuối cùng, cô đã trả lời bà cụ thế nào?
Thanh Ngọc thở dài, ngước đôi mắt huyền lên nhìn thẳng vào Kỳ Phát:
- Ông còn bảo tôi biết trả lời làm sao nữa? Tôi rất thương mẹ tôi, vì mẹ tôi đã khổ nhiều rồi… Để mẹ tôi vui lòng, tôi thực chẳng dám từ nan một cái gì!
Ngùng lại một lát, Thanh Ngọc tiếp:
- Thấy tôi ưng thuận, mẹ tôi đã báo tin ngay cho bà mối biết, hình như lại có lời giục nhà trai cưới xin sơm sớm nữa, vì theo lời mẹ tôi nói, thì cụ thấy trong người yếu quá, chẳng biết sống chết thế nào!
Như một người cố nói cho xong để trút hết tất cả những cái nặng nề đương đè nén tâm trí mình, Thanh Ngọc nói tiếp, giọng nhanh hơn:
- Buổi trưa nay, người ta đã đưa trầu đến chạm ngõ, có lẽ trong lúc này mấy người nhà tôi còn đương đi biếu cau trầu những nhà quen biết đây!
Kỳ Phát lặng lẽ nhìn Thanh Ngọc. Mãi một lúc lâu, chàng mới mỉm cười, không biết đấy có phải là cười gượng không, mà bảo Ngọc rằng:
- Cô cứ yên tâm trở về! Và đừng lo ngại gì cả! Tôi hy vọng rằng sẽ không có việc gì đáng tiếc xẩy ra từ nay cho đến ngày vui mừng của cô! Lúc đó, lẽ tất nhiên chúng tôi mong rằng thế nào cô cũng nhớ cho gọi đến uống rượu mừng!
Thanh Ngọc ra khỏi phòng đã lâu. Cánh cửa khép chặt lại không một tiếng động nhỏ. Tôi nhìn Phát lúc này đương thờ thẫn mân mê cán bút đặt nằm cạnh cuốn sổ tay.
Đến bên Kỳ Phát, tôi nhẹ nhàng để tay lên vai chàng, rồi nho nhỏ hỏi:
- Anh nghĩ đến đôi mắt huyền đấy có phải không?
Kỳ Phát thở dài. Chàng gập mạnh cuốn sổ lại, bỏ tuột vào túi, như cố ý xa lìa rất nhanh một ám ảnh gì, rồi quắc mắt nhìn tôi hỏi đột ngột:
- Ai bảo anh rằng tôi yêu Thanh Ngọc?
Tôi lặng lẽ không còn biết trả lời làm sao nữa. May thay, chàng đã nói lảng sang chuyện khác:
- Lúc nẫy, tôi không dám nói cho Thanh Ngọc biết, nhưng cứ như chỗ tôi xét đoán thì việc cưới xin này chỉ càng làm nàng thêm nguy
mà thôi.
Tôi ngạc nhiên:
- Có lẽ anh cho rằng hung phạm chính là một kẻ tình địch chăng? Kỳ Phát lắc đầu:
- Không, vì nếu thế thì Thanh Ngọc phải thực lòng yêu cái người định lấy nàng. Đằng này thì trái lại, Thanh Ngọc lấy chồng chỉ là vì bổn phận.
Đánh diêm châm thuốc lá, Kỳ Phát suy nghĩ một lát rồi bỗng nói: - Mấy ngày sau đây anh có bận gì lắm không?
Tôi lắc đầu:
- Kể ra thì cũng có việc nhưng không cần thiết lắm. Anh muốn bảo gì tôi?
Kỳ Phát vui vẻ nói:
- Nếu thế thì hay lắm! Vậy sáng sớm mai đây anh hãy đến tìm Thanh Ngọc. Tôi sẽ viết riêng cho nàng một cái thư để nàng nhận anh là một người bạn xa mới về chơi ở tạm lại ít ngày… Tôi hỏi:
- Chắc ý anh muốn tôi ở đó để tiện việc dò xét chứ gì? Kỳ Phát gật đầu:
- Thế cũng có và một phần nữa cũng là vì muốn cho việc này chóng có kết quả. Tôi xin thú thực với anh rằng vụ án này phức tạp lắm, chẳng phải là một vụ đầu độc thường. Chính tôi tuy có một vài manh mối song vẫn còn có nhiều điều trái ngược, làm cho tôi không hiểu ra làm sao cả.
Tôi mỉm cười:
- Anh mà còn không hiểu thì tôi như xẩm, còn biết đằng nào mà mò nữa.
Kỳ Phát gật đầu:
- Ấy thế mà anh vẫn được việc như thường vì có anh đến đó, không chừng mà hung phạm hoặc những hung phạm, tưởng rằng anh đến để dò xét chỉ lo đề phòng anh thôi, trong khi ấy, tôi ở ngoài có thể hoạt động mà không sợ chúng lưu ý!
Tôi đến ở nhà Thanh Ngọc đã được hai hôm. Ngồi mãi bên cửa sổ, ngắm vườn hoa hoặc nằm hoài đọc sách cũng buồn, tôi chẳng muốn bỏ phí mất thì giờ vô ích ở đây nên nhất quyết đêm nay không ngủ, rình xem có kẻ gian nào lảng vảng hay không. Và trong bụng tôi đã khấp khởi mừng thầm nếu chính tay mình bắt được người nào trong bọn hung phạm thì tất Kỳ Phát phải phục lắm.
Lần này tập sự làm trinh thám tôi cũng mang sẵn đèn điện bấm, thêm một chiếc can làm khí giới, một đoạn dây nhỏ nhưng chắc chắn phòng để… trói thủ phạm!
Mấy con chó trong nhà đã quen tôi nên không cắn. Các cửa sổ mấy phòng trên gác đều đã đóng kín, chắc ai nấy đã ngủ rồi. Tôi rón rén đi khắp chỗ, lắng tai nghe ngóng, mắt cố nhìn vào trong bóng tối xem có gì khác lạ không.
Nhưng vẫn chỉ có tiếng gió rì rào, tiếng giun dế rên rỉ trong những bụi cây đen kịt mà thôi…
Đi quanh quẩn mãi mỏi chân, sau cùng tôi chọn một chỗ kín đáo ngồi xuống, chiếc can vẫn cẩn thận để ở bên cạnh. Bỗng tôi thấy
tiếng con chó lớn gầm gừ ở góc vườn phía trước mặt nhưng chỉ vài tiếng thôi rồi im bặt.
Ngạc nhiên, tôi khe khẽ đứng dậy, cố nhìn về phía trước thì hình như có bóng người đương rẽ qua một bụi cây mà tiến về phía ga-ra. Chưa biết xử trí cách nào, tôi còn lưỡng lự thì lại đã thấy ở bên trái hiện ra một bóng đen nữa. Bóng này cũng tiến đi theo về lối ga-ra, nhưng cách bóng trước một quãng.
Tôi nghĩ bụng: “Có hai kẻ gian mà ta có một mình. Nếu bây giờ ta xông ra thì thế nào cũng bị chúng dồn đánh, ta thế cô không làm được việc gì mà biết đâu lại còn uổng mạng. Nhưng nếu cứ đứng đợi đây, nhỡ bọn gian lên được gác trên, thi hành thủ đoạn gì thì mình thực muôn đời phải hối hận.”
Sau cùng, tôi nghĩ ra một kế lưỡng toàn là lên tiếng, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ, làm kế… nghi binh. Như vậy tất hai tên gian phải hoảng sợ bỏ chạy. Lúc ấy, tôi sẽ đuổi theo và chỉ cần bắt một tên, phải, chỉ một tên thôi cũng đủ làm cho Kỳ Phát phải kính phục rồi. Suy tính hẳn hoi, tôi bỗng nhiên quát:
- Ai kia! Đứng lại! Bắt lấy nó!
Quả nhiên bọn gian trúng kế, tên đi trước vội quay chạy tắt về phía cửa vườn, nhưng tên đi sau thì trái lại, lại tiến thẳng về phía tôi rất là hùng hổ. Mặc dầu một chọi một, nhưng tôi có phải là kẻ nhát gan đâu!
Cầm chắc chiếc can trong tay, tôi đợi cho tên kia đến rồi nhanh như chớp vung lên, nhằm ngang người đánh tới. Khốn thay, chiếc can của tôi chưa tới được mình kẻ gian thì nhanh nhẹn hơn, hắn đã sấn đến được sát tôi và chẳng biết đã dùng cách gì, hắn vật tôi ngã
quay xuống đất, chiếc gậy cũng như chiếc đèn bấm đều văng mỗi thứ đi một nơi. Tôi vừa toan vùng trở dậy thì tên kia đã giữ hai tay cứng chắc, tì một gối vào cạnh sườn làm cho tôi chết điếng, rồi lạ chưa, hắn ghé vào tai tôi bảo nhỏ:
- Anh này dễ điên đấy chắc?
Trời ơi, tôi nghe quả là đúng tiếng Kỳ Phát. Tôi ngạc nhiên hỏi lại: - Kìa, anh Phát, nhưng anh buông tôi ra chứ!
Kỳ Phát bỏ hai tay tôi ra rồi chàng vừa phủi quần áo, vừa lẩm bẩm:
- Cóc khô! Cóc khô! Thực là đồ vô dụng!
Giữa lúc ấy, trên nhà có tiếng lục đục người dậy, người gọi nhau rối rít. Kỳ Phát hậm hực bảo nhanh tôi:
- Tôi đi đây, anh liệu nói thế nào thì nói, cần nhất chớ nhắc đến tên tôi!
Và trước khi có những ánh đèn của Thanh Ngọc và bọn người nhà đủ sáng để soi tỏ khắp khu vườn thì Kỳ Phát đã lẩn trốn về phía nào rồi, không hề còn hình tích đâu nữa!
CHƯƠNG 9
KỲ PHÁT, ÔNG HÃY CƯỚI TÔI
Trước hết, Kỳ Phát hỏi tôi:
- Thế nào, đêm qua rồi anh nói năng ra làm sao?
Tôi mỉm cười:
- Tôi đành phải nói thực một phần nửa, nghĩa là chỉ nói trông thấy có bóng người lẻn vào trong vườn nên xuống đuổi bắt, còn việc gặp anh thì giấu bặt hẳn đi!
Kỳ Phát gật đầu:
- Phải, anh giấu đi là phải, vì việc đó chỉ tỏ ra anh quả thực là một người… vô dụng mà thôi!
Tôi hỏi lại:
- Tại sao anh lại bảo tôi là vô dụng? Anh bảo tôi đến nhà Thanh Ngọc để cho bọn gian chú ý đến tôi, để anh dễ bề hành động, tôi đã làm theo đúng lời…
Kỳ Phát ngắt lời:
- Nhưng nào tôi có bảo anh giở cái tài… trinh thám của anh ra đâu. Anh có biết rằng anh hành động một cách không kín đáo như thế có hại những gì không? Trước hết, anh làm cho nhà Ngọc nôn nao, sau anh làm cho công phu tôi theo dò tên kia suốt một buổi tối vô ích…
Tôi ngạc nhiên:
- Sao anh không nhân dịp mà bắt ngay hung phạm có hơn không?
Kỳ Phát lắc đầu:
- Bây giờ tôi hãy tạm nói sơ để anh biết rằng những kẻ định đầu độc nhà Thanh Ngọc chẳng phải có một hay hai, ba người, đó là một đảng có tổ chức hẳn hoi. Chính vì thế mà đã tìm ra được manh mối, tôi vẫn không làm sao dò xét để biết thực rõ ràng mọi sự được! Bởi vậy, tôi phải cố gắng theo dõi lấy một tên để may ra có thể biết được cách thức hắn hành động thế nào…
Tôi nói:
- Cứ như tôi nghĩ thì cách giản tiện hơn hết vẫn là bắt lấy một tên gạn hỏi nó tất sẽ tìm ra được chính phạm hoặc đồng phạm. Kỳ Phát lắc đầu:
- Cách ấy tôi chắc không có kết quả vì luật lệnh của đảng này tôi nghe chừng như nghiêm lắm, kẻ bị bắt tất không dám nói hở gì ra đâu! Nếu không thì chẳng đợi đến bây giờ, tôi đã biết rõ được mọi việc từ mấy hôm nay rồi!
Kỳ Phát sực nhớ, lại hỏi:
- Anh ở luôn lại nhà Ngọc mấy ngày có biết thêm được gì lạ không?
Tôi lắc đầu:
- Trong nhà cũng vẫn chỉ có bằng ấy người. Vì bà cụ đẻ ra Ngọc mệt nên nàng cũng ít đi đâu. Còn ông Hai Lịch thì bệnh tình xem chừng tăng lên. Hắn kêu gào luôn miệng, có lúc nổi cơn lên, mấy tên người nhà phải sấn lại, trói nằm một chỗ, đến lúc nào tình tỉnh
mới lại cởi ra…
Kỳ Phát gật gù:
- Phải rồi, mà không chừng còn nổi cơn dữ dội hơn nữa, có khi nguy hiểm đến tính mệnh nữa!
Rồi như mải nghĩ ngợi đâu đâu, Kỳ Phát ngâm nho nhỏ: Chết thời chẳng chết cho yên,
Hết đời cũng được ba vuông bẩy tròn!
Đột nhiên quay về phía tôi, Kỳ Phát hỏi:
- Tại sao lại thế nhỉ, câu lục bát này nghe ngang lắm vì không ăn vần, hay là cái ông Hai Lịch điên cuồng kia đã nhớ chằng câu nọ vào câu kia chăng?
Nhưng nói đến đây, Kỳ Phát cũng không đợi tôi trả lời làm sao nữa, vụt đứng dậy, rồi như sực nghĩ ra điều gì, đẩy mạnh cửa, rảo bước ra khỏi nhà… Không nhớ khép cửa lại nữa, Kỳ Phát vẫy một cái xe, nhẩy lên, giục kéo nhanh, làm cho tôi nhìn theo hoảng hốt tưởng chừng như chính Phát cũng đã chẳng còn thần trí sáng suốt nữa!
Kỳ Phát đi được chừng hơn một giờ thì Thanh Ngọc đến. Nàng chỉ thấy có một mình tôi thì lộ vẻ lo lắng hỏi:
- Ông Kỳ Phát đi vắng ư? Ông có nói bao giờ về không? Tôi lắc đầu:
- Không, nhưng chắc cũng chỉ đi quanh đâu đấy thôi chứ không phải đi xa.
Thanh Ngọc ngồi xuống ghế, nói:
- Như vậy để tôi ngồi chờ chốc lát xem sao?
Tôi hỏi:
- Chắc ở nhà đã xẩy ra việc gì quan hệ phải không cô? Ngọc lưỡng lự giây lát rồi nói:
- Kể ra thì cũng không quan trọng lắm, nhưng vì có sự thay đổi nên tôi muốn bàn với ông Kỳ Phát!
Tôi không hỏi gì nữa, đưa mấy tờ báo cho Ngọc xem, còn tôi cũng ngồi sửa nốt tập bài nhà in mới đưa đến. Khoảng chừng hơn nửa giờ, Kỳ Phát ở ngoài đẩy mạnh cửa bước vào, vui vẻ bảo tôi:
- Trời đã giúp ta! Trời đã giúp ta! Tôi không ngờ rằng làng thơ lại được việc đến như thế đấy!
Nửa sau câu này, Kỳ Phát nói không được tự nhiên nữa, chỉ là vì chàng chợt trông thấy Thanh Ngọc. Muốn cho anh chàng đỡ ngượng, tôi nói:
- Cô Thanh Ngọc đến chờ anh đã lâu!
Kỳ Phát xin lỗi rồi hỏi:
- Có việc gì quan hệ không cô?
Thanh Ngọc lắc đầu:
- Không, nhưng hơi có sự thay đổi: Người định lấy tôi đã từ hôn rồi!
Kỳ Phát ngạc nhiên hỏi:
- Tại làm sao lại có sự lạ thế?
Thanh Ngọc mỉm cười:
- Cũng không có sự gì lạ, đó chỉ là vì chẳng biết anh chàng mong manh nghe ai thuật lại rằng mấy ngày gần đây nhà tôi có nhiều sự xẩy ra ban đêm, lại thêm chú Hai Lịch tôi gào thét suốt ngày nên anh chàng đâm hoảng sợ!
Kỳ Phát cau mặt lẩm bẩm:
- Con trai mà nhút nhát thế thì đáng nhục thực!
Thanh Ngọc điềm nhiên nói:
- Điều ấy chúng ta không cần bàn đến vì tôi với chàng ta có cảm tình gì đâu. Nhưng tôi chỉ khó nghĩ vì thấy thế, mẹ tôi tỏ ý buồn rầu lắm…
Ngừng một phút, Thanh Ngọc lại nói:
- Mà mẹ tôi hình như lại lo sợ nữa! Tôi có nói rằng: Con người hèn nhát tầm thường như thế có gì đáng tiếc, nhưng mẹ tôi không nói gì, chỉ ứa nước mắt khóc. Tôi cố căn vặn mãi, mẹ tôi chỉ nói rằng: “Con không thể hiểu được việc này. Ta chỉ nói một điều là thấy con lấy chồng được ngày nào, là ta yên dạ sớm ngày ấy. Mà cũng chẳng cứ là lấy ai! Miễn là con có chồng, nếu không thì không khéo ta đến chết mất.”
Mỉm cười, Kỳ Phát hỏi:
- Theo như tôi đoán thì chắc cô không đồng ý như vậy? Thanh Ngọc thở dài:
- Nhưng tôi còn làm sao được. Mẹ tôi chỉ có tôi, người đã từng bị đau khổ khó nhọc lắm rồi… Bây giờ, mỗi khi thấy mẹ tôi phải vì tôi mà khóc thì tôi cứ tưởng chừng như không còn có cách nào đền bù được tội lỗi nữa!
Kỳ Phát hỏi:
- Cô có thể cho biết ý cô hiện nay định như thế nào không? Thanh Ngọc lắc đầu:
- Tôi đương ở vào một trường hợp thực khó xử quá. Một đằng không theo lời mẹ thì tôi làm cho mẹ tôi đau khổ nhưng một đằng nếu nghe thì tôi thực đã tự hại một đời tôi…
Lưỡng lự trong mấy phút, Thanh Ngọc bỗng quả quyết đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt Kỳ Phát nói nhanh:
- Nghĩ kӻ, tôi thấy chỉ còn có một cách là… ông hãy lấy tôi! Nghe câu nói ngộ nghĩnh ấy, giá vào lúc khác thì có lẽ chúng tôi đã không thể nào nhịn cười cho được. Nhưng lúc này, chúng tôi chỉ ngạc nhiên, nhìn kӻ lại xem Thanh Ngọc có phải vì lo lắng quá mà rối trí không. Nhưng nàng đã điềm tình tiếp:
- Với một người như ông thì tôi mới dám đường đột nói như vậy. Ông chắc đã hiểu tôi… Tôi nghĩ mãi chỉ còn có một cách là nói thực việc này cho ông rõ, yêu cầu ông lấy tôi. Lẽ tất nhiên chỉ là có danh mà không có thực. Sau khi mọi việc yên ổn, ông và tôi, chúng ta sẽ lại ly dị nhau. Tôi dám phiền ông một cách quá đáng như vậy chỉ là vì ông đã hứa sẽ cứu tôi…
Kỳ Phát nghe Thanh Ngọc nói, điềm tĩnh như không, gật đầu: - Điều ấy không khó khăn gì cả, vì hiện giờ, tôi chỉ sống có một mình, cha mẹ không còn, mà người yêu cũng không có. Như vậy, tất không có gì trở ngại hết!
Có Thanh Ngọc thì Kỳ Phát trả lời điềm tình như vậy, song khi Ngọc về rồi, Kỳ Phát mới thở dài, lắc đầu, bảo tôi rằng: - Ông trời kể cũng trớ trêu thực!
Tôi phải gượng nói đùa:
- Anh đừng có chán nản gì hết. Riêng ý tôi nghĩ thì việc này rất hay cho anh, mà quả thực là ý trời. Từ trước đến nay, anh không hề nghĩ đến việc lấy vợ, thì bây giờ có người đến ép anh phải lấy. Kỳ Phát lắc đầu:
- Lấy để rồi ly dị!
Tôi gật đầu:
- Bây giờ thì hãy nói thế, về sau biết thế nào được. Riêng tôi nghĩ thì rất có thể Thanh Ngọc thực tâm muốn lấy anh lắm, nhưng chẳng lẽ chính mình nói, phải rào trước bằng câu: Sẽ ly dị!
Kỳ Phát gượng cười:
- Anh nói như thực ấy. Nhưng đời tôi làm gì có được những sự may mắn như thế!
CHƯƠNG 10
BA VUÔNG BẨY TRÒN
Tin Kỳ Phát lấy vợ do mấy bài đăng trên báo hàng ngày của tôi làm cho dư luận hết sức chú ý. Thực vậy, cái tên Kỳ Phát thì ai còn không biết. Không nhiều thì ít, người ta còn nhớ đến những vụ án mạng, trộm cướp mà chàng đã khám phá ra được bằng cái tài trinh thám có một không hai ở nước ta. Và tự nhiên, người ta đoán ngay rằng đám cưới Kỳ Phát thế nào cũng phải có nhiều sự lạ lùng và bí mật cả từ cách đón dâu, đãi tiệc, làm giá thú, v.v…
Trái hẳn với mọi lần khác, việc này, Kỳ Phát muốn tôi làm hết cách để “quảng cáo” cho đám cưới, vì theo ý anh thì như vậy, anh sệ có thể nhân cơ hội này mà tìm ra được thủ phạm hoặc những đồng phạm vụ đầu độc Ngọc.
Nhưng việc xẩy ra đột ngột quá làm cho chính Kỳ Phát cũng không ngờ tới được. Buổi trưa chúng tôi còn đương bàn nhau trù tính đặt một tiệc trà đãi các bạn quen biết trong cái “dịp vui mừng” này thì có thư của Thanh Ngọc cho người đưa đến. Cầm chiếc phong bì, Kỳ Phát lưỡng lự chưa muốn mở ra đọc, lộ vẻ băn khoăn lo lắng vô cùng. Tôi cũng sợ hãi hỏi:
- Anh đoán có việc chẳng lành xẩy ra chăng?
Kỳ Phát gật đầu:
- Không hiểu sao tôi như có linh tính sắp có nhiều việc quan hệ xẩy đến. Tôi lo rằng có việc án mạng…
"""