" Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó - Naguib Mahfouz full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó - Naguib Mahfouz full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] Ebooks Nhóm Zalo TÊN KẺ CẮP VÀ NHỮNG CON CHÓ Naguib Mahfouz Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: TÊN KẺ CẮP VÀ NHỮNG CON CHÓ Tác giả: Naguib Mahfouz Nguyên tác: The Thief and the Dogs Dịch giả: Nguyễn Trung Đức, Mạnh Tứ Nhà xuất bản: Văn Hóa Dân Tộc Năm xuất bản: 1990 Số trang: 158 Khổ sách: 13 x 19 cm Thiết kế bìa: Hồng Đức Đánh máy: Thùy Ty, Thảo Đoàn, Lan Anh Soát lỗi: Thúy Phượng Chế bản ebook: Hồng Sơn Ngày thực hiện: 08/10/2012 Making Ebook Project #279 – www. BookaholicClub. com Bạn đang đọc ebook TÊN KẺ CẮP VÀ NHỮNG CON CHÓ của tác giả Naguib Mahfouz do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc – người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM LỜI NHÀ XUẤT BẢN CHƯƠNG I CHƯƠNG II CHƯƠNG III CHƯƠNG IV CHƯƠNG V CHƯƠNG VI CHƯƠNG VII CHƯƠNG VIII CHƯƠNG IX CHƯƠNG X CHƯƠNG XI CHƯƠNG XII CHƯƠNG XIII CHƯƠNG XIV CHƯƠNG XV CHƯƠNG XVI CHƯƠNG XVII CHƯƠNG XVIII GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Nhà văn Ai Cập Naguib Mahfouz sinh trong một gia đình viên chức nhỏ, năm 1934 xuất bản tập truyện Tiếng thì thầm cuồng dại và các tiểu thuyết lịch sử Radobis và Cuộc đấu tranh của Phib. Sau thế chiến II, ông chuyển sang đề tài hiện đại, về đời sống của tầng lớp của tầng lớp dân chúng thủ đô Cairo. Từ năm 1947 – 1956, ông viết tiểu thuyết ba tập Bộ ba Cairo, trong đó hai tập đầu được tặng giải thưởng quốc gia Ai Cập năm 1957. Năm 1959, tiểu thuyết ám chỉ bóng gió đến Muhammad và Jesus của ông được coi là phạm thượng và cấm xuất bản. Từ đầu những năm 60, ông thay đổi bút pháp: viết ngắn, phát triển nhanh, đề tài gay cấn, ngôn ngữ cô đọng gần với tiểu thuyết hiện đại Châu Âu. Ông còn hoạt động điện ảnh, làm chủ tịch Hội phê bình văn học nghệ thuật, và cố vấn Bộ văn hóa cho đến năm 1971 về hưu. Năm 1972, ông xuất bản tiểu thuyết Tấm gương, gồm 55 chương cũng là 55 bộ mặt đại diện cho các tầng lớp người khác nhau của Ai Cập được nhìn qua lăng kính nhà văn. Năm 1988, ông là nhà văn đầu tiên của Ai Cập nhận giải Nobel. Quá trình sáng tạo và ý thức công dân của ông trải qua những hoàn cảnh phức tạp và nhiều thay đổi chính trị của đât nước, các sáng tác của ông tỏ ra lo lắng cho số phận của đồng bào, thức tỉnh nhận thức đại chúng, giúp họ nhận biết vị trí của mình trong xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc. Với khối lượng tác phẩmđồsộ,ÔngđượccoilànhàvănhiệnđạilớnnhấtcủaAiCậpthếkỷ XX. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM Saít Maran ra khỏi nhà tù với hy vọng làm lại cuộc đời để bình yên sống với đứa con yêu quý của mình. Nhưng Saít phát hiện ra một xã hội khác trước, đã thay đổi đến mức anh không còn chỗ đứng. Bị lừa dối và bị từ chối khắp nơi, kể cả những người thân nhất của mình là vợ con anh. Thất vọng và bị lừa phản bởi chính người thầy tôn kính, Saít đã nổi loạn chống lại xã hội ấy trong đoạn đường sôi nổi trong thành phố Cairô mà cuốn truyện dẫn người đọc chúng ta đi theo từng bước chân, từng suy tư, từng nỗi băn khoăn và hy vọng trong nhiều cuộc tiếp xúc và gặp gỡ: với Nua, cô gái làm tiền xinh đẹp vốn là bè bạn với anh từ nhỏ, với Giáo trưởng Ghêniđi, với Tácgiăng, tên chủ quán rượu kiêm trộm cướp… Tác giả Mahfouz viết cuốn sách này từ 1961 bằng tiếng Ả rập tại Cairô, đến 1985 được dịch ra tiếng Pháp và được nhiều nước in lại và phát hành rộng rãi, được dựng thành phim. Năm 1988, cuốn sách được giải thưởng Văn học Nô-ben một cách xứng đáng. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nhà văn Naguib Mahfouz năm nay đã gần 80 tuổi. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và chuyển thành phim. Nhà xuất bản Sindbad – Pari đã xuất bản ba cuốn của ông: Cái ngõ lắm điều kỳ lạ, Câu chuyện phố tôi và Tên kẻ cắp và những con chó. Ông được tặng thưởng giải thưởng Nôben về văn học năm 1988. Ba cuốn truyện với nội dung và phong cách khác nhau có thể coi là một bức tranh toàn cảnh về xã hội Ai Cập đương đại với nhiều chân dung phong phú, sinh động từ thầy tu, bác sĩ, giáo sư, đến các chủ hiệu, gái điếm, kẻ ăn mày, người thất nghiệp… Kỳ lạ nhất là câu chuyện về một bác sĩ chuyên làm cái “dịch vụ” biến người lành thành tàn tật theo yêu cầu của khách. Khỏe mạnh, lành lặn không có việc làm kiếm sống. Đành phải nhờ bác sĩ biến thành mù lòa hoặc què quặt để đi ăn xin thì người ta mới cho! Một câu chuyện tưởng như không thể có lại là sự thật. Tên kẻ cắp và những con chó được xuất bản năm 1961 ở Cai Rô, đã phản ánh xã hội Ai Cập trước và sau chiến tranh Ai Cập – Israel. Nhân vật chính là Said Mahbrane. Từ chỗ rất tin ở Thượng đế, ở nhà thờ, ở công lý và lương tâm – sau khi ra tù, anh đâm nghi ngờ và căm thù tất cả vì anh khám phá ra rằng xã hội đã từ bỏ anh, người ta đã phản bội anh. Chính Aliebe, người bạn nghèo mà anh giúp đỡ đã âm mưu tố cáo với cảnh sát, đẩy anh vào tù và cướp vợ anh. Raouf Sluane là một giáo sư đại học mà đã có thời anh rất kính phục (nay là giám đốc một tờ báo lớn) đến bây giờ cũng chỉ là một tên đạo đức giả đáng khinh bỉ. Niềm tin nơi anh bị đổ sụp khiến anh sinh tuyệt vọng và quyết định phải trả thù những kẻ phản bội. Nhưng không có nỗi đau và tuyệt vọng nào bằng việc chính con gái anh, nó không nhận anh. Như vậy đời anh còn ý nghĩa gì nữa? Nếu bọn phản bội không bị trừng phạt! Cuốn truyện hấp dẫn không chỉ bằng những vụ án ban đêm, sự săn lùng của cảnh sát như một tiểu thuyết trinh thám. Cái hay và chiều sâu của truyện là ở những đoạn hồi tưởng, tường thuật xen kẽ những ý nghĩ, động cơ, tâm lý của nhân vật, mỗi người một vẻ rất sâu sắc. Mối tình của Noar cô gái điếm đối với Said trong ngôi nhà giữa những nấm mồ cũng thật là đẹp và kỳ lạ! Ai là kẻ cắp! – Said hay chính là những tên phản bội kia? Bọn chúng chó má hơn cả những con chó mà chúng đã dùng để ngửi hơi và lùng bắt anh. oOo Nếu không kể “Nghìn lẻ một đêm”, công chúng Việt Nam chưa tiếp xúc bao nhiêu với nền văn học Ả-rập. Sự hiểu biết của chúng ta đối với lịch sử, tôn giáo và văn học Ả-rập còn rất hạn chế! Đây là cuốn sách đầu tiên của một nhà văn nổi tiếng Ai-cập mà chúng tôi dịch để giới thiệu với bạn đọc, chắc không tránh được thiếu sót. Mong bạn đọc thông cảm. Hà Nội, ngày 15 tháng Giêng năm 1990 CHƯƠNG I Vậy là anh lại được hít thở không khí của tự do, nhưng làn không khí đã chất chứa bụi bặm và sức nóng không chịu nổi. Anh lại được trả lại bộ đồ com-lê xanh nước biển và đôi giày bằng cao su, nhưng chẳng có ai đón chờ anh cả. Và bây giờ cuộc sống trở lại bình thường còn cánh cổng im lìm của nhà tù lại khép kín như cũ những niềm bí mật vô vọng. Và đây là những phố xá đầy ánh nắng và ô tô chạy điên cuồng, các khách qua đường và những người ngồi ăn uống, những mái nhà và những cửa hiệu, và không có lấy một cặp môi nào toát ra một nụ cười nhỏ nhoi. Và anh ta chỉ đơn độc một mình, anh đã mất mát nhiều, đã lãng phí bao nhiêu năm trường quý giá, bốn năm trường bị tước đoạt một cách độc địa, nhưng chẳng bao lau nữa thôi anh ta sẽ mặt giáp mặt với họ và dám thách thức chúng. Bây giờ đã đến lúc sự giận dữ bùng nổ và tiêu tan, thời điểm đã tới để bọn phản bội mất hết hy vọng đến lúc chết và để cho tội phản bộ lộ rõ khuôn mặt tội lỗi méo mó của nó. Nabavigia Alixơ[1], hai từ này làm sao lại có thể thành một được? Chắc chắn là chúng tự đoán cái ngày này trong đầu đến ngàn lần, chúng mày tưởng rằng cánh cửa nhà tù sẽ không mở ra nữa, cũng có thể là chúng mày đã sẵn sàng đề phòng nhưng mà ta sẽ không sa vào bẫy và ta sẽ hạ xuống đúng lúc như định mệnh vậy. Khi hình ảnh Sana hiện ra trong ý nghĩ thì tức khắc làm tiêu tan đi sức nóng, bụi bặm, sự căm thù và bão tố. Và sự êm ấm ngự trị trong tâm trí cũng như sự tinh khiết trắng trong sau cơn mưa rào. Không biết cô bé có biết gì về bố nó không? Không có gì hết, cả đến con đường, những khách qua đường đến không khí nồng cháy. Bốn năm dài đằng đẳng hình ảnh cô con gái không rời khỏi ký ức của người cha và cô bé đã lớn lên thành một hình ảnh bí hiểm trong óc người bố. Liệu số phận có dành cho một góc yên bình thuận lợi cho việc trao đổi tình cảm thương yêu giữa hai cha con, nơi đó sẽ chỉ có niềm phấn chấn thắng lợi, nơi đó sự phản bội sẽ có thể chỉ còn là một kỷ niệm đáng căm ghét và quá khứ chăng? Bây giờ mình hãy trông vào tất cả sự tinh tế mà mình có thể có, và những đòn đánh trả phải mãnh liệt như lòng kiên trì mà mình đã rèn được sau bức tường của nhà tù. Giờ đây các ngài phải đứng trước một kẻ có thể bơi lội như cá dưới nước, tung cánh trên không như một cánh chim ưng, xuyên qua tường như một chú chuột và cũng có thể xuyên qua cửa như một viên đạn đấy. Các vị sẽ đón tiếp hắn ta như thế nào? Những đôi mắt gặp nhau sẽ ra sao nhỉ? Ôi Alixơ, mi có còn nhớ rằng mi đã chạy quẩn bên chân ta như con chó con như thể nào không? Có phải chính ta đã dạy cho mi đứng vững trên đôi chân mình không? Và ai đã biến kẻ lang thang nhặt nhạnh mẩu thuốc lá trên đường thành con người? Chính mi Alixơ không phải người duy nhất đã quên, chính cô ta cũng quên mình, chính cô ta đã tự đẩy mình vào vũng bùn phản bội. Trong tăm tối mịt mùng ấy của suy tư chỉ có khuôn mặt tươi cười của con gái ta Sana ạ, và sắp tới đây ta sẽ được biết vận may có dành cho ta cuộc gặp gỡ với con. Và ngay sau khi ta đã vượt qua đường phố có những khuông cửa tò vò buồn tẻ! Đi về hướng hội chợ cũ, nơi con dốc dẫn lên những bậc cao – không phải như bậc thang xã hội đâu – ta căm thù chúng mày thực sự. Những cửa hàng bán rượu vang đã đóng cửa và chỉ còn lối ngõ nhỏ nơi thường diễn ra những âm mưu tội lỗi. Thỉnh thoảng phải vượt qua một khe nước ngang đường như một chướng ngại, rồi tiếng ồn ĩ của xe điện vang tới như một tràng tiếng chửi rủa bất tận, tiếng rao hàng thoảng đến của những người bán rau đã héo, tao căm thù chúng mày! Cửa sổ các ngôi nhà vẫn rất cuốn hút, dù cho hoang vắng, những tường nhà tróc lở và gớm ghiếc và cái quãng đường này, quãng đường Secphi là một kỷ niệm đau thương, nơi mà tên kẻ cắp đã hành động trước khi biến mất trong nháy mắt. Những tên phản bội thật đáng nguyền rủa. Cũng chính tại quãng đường này gọng kìm đã khép lại một cách hiểm hóc trước khi kẹp chặt lấy con người bị bất ngờ. Tuy vậy cũng chính nơi này một năm trước đó đã từng chứng kiến niềm đại phúc của đôi ta, mình vác bao bột vào ngày lễ thánh AID EL FETR kết thúc tuần chay của tháng Ramađan, còn nàng đi sau bế Sana bọc trong tã lót. Chao ôi! Những ngày đẹp đẽ tuyệt vời không thể đo lường hết được trong thực tế bởi vì những ấn tượng về ngày lễ trọng, về tình yêu thương, về tình cha con và cả về tội ác đã lẫn lộn trong đầu ta. Những ngọn tháp đền Hồi giáo sừng sững trên bầu trời, và cái chóp ngôi thành cổ như treo lên trời xanh trong, cái ngõ nhỏ dẫn tới quảng trường, màu xanh lục của khu vườn rực sáng dưới ánh nắng chói chang, một cơn gió khô ào đến phả khí mát dịu mặc dù trời nóng bức, đấy chính là quảng trường Thành cổ với những kỷ niệm đã nhạt phai. Phải làm sao cho bộ mặt ta bị mặt trời thiêu đốt dịu đi và thân thể ta đang bốc cháy giảm bớt nhiệt để có thể thoải mái và cam chịu thì mới có thể đóng được vai trò mà ta dự định. Anh ta đi qua quảng trường để vào phố Imam, để tới ngôi nhà ba tầng ở đầu bên kia, nơi con đường tách ra làm hai nhánh nhỏ hẹp. Qua cuộc viếng thăm vô hại này mà kẻ thù sẽ bộc lộ cung cách đón tiếp mà nó dành cho anh ta, vì thế hãy nghiên cứu kỹ khu vực và ghi nhận lấy các dấu hiệu, hãy quan sát các cửa hiệu kia có những cái đầu đang thập thò như lũ chuột. Anh ta bỗng nghe thấy một giọng nói phía sau: - Saít Maran! Một ngày phúc lành làm sao… Anh ta dừng lại để người kia theo kịp và họ bắt tay nhau trong khi che giấu những tình cảm thực sự sau nụ cười lợt lạt. A, tên gian trá ấy luôn có những kẻ hầu hạ. Rồi anh ta sẽ thấy cuộc đón tiếp đó che đậy cái gì. Cũng có thể là Alixơ đang đứng sau cửa sổ để quan sát như bọn đàn bà vẫn thường làm. - Tôi xin cảm ơn, thầy Bagiađa… Khá đông người rời khỏi các cửa hiệu hai bên phố đã chạy tới xúm quanh, những lời chúc tụng thêm nồng nhiệt, chẳng mấy chốc anh ta bị các bạn bè của kẻ thù vây kín – chắc chắn là như vậy không thể nhầm được. Tiếng nhiều người nhao nhao: - Chúc mừng anh trở về tốt đẹp! - Chúa phù hộ cho tình yêu và tình bạn. - Từ đáy lòng, chúng tôi mong muốn người ta trả tự do cho anh ta nhân ngày kỷ niệm Cách mạng thành công. Anh ta quan sát họ bằng đôi mắt tròn như hạt dẻ, màu mật ong và lẩm bẩm: - Sáng danh Chúa trên trời và xin cảm ơn các bạn. Bagiađa vỗ mạnh vào vai anh ta: - Này, hãy uống một cốc nước quả sác-ba ở tiệm kia để chúc mừng đi! Saít Maran đáp lại một cách từ tốn: - Xin để chốc nữa, lúc trở lại. - Lúc trở lại ư? Một người trong bọn gọi to về phía nhà ba tầng: - Thầy Alixơ ơi! Thầy Alixơ này, hãy đến chúc mừng Saít Maran đi! Không cần phải báo động cho nó đâu, tên khốn kiếp kia. Ta đến đây giữa ban ngày ban mặt… và ta biết chắc rằng bọn mi canh gác… Lão Bagiađa lại hỏi tiếp: - Trở lại từ đâu? - Tôi có việc phải thanh toán. Lão kia hỏi tiếp, nét mặt không vui: - Thanh toán với ai? - Thế anh quên rằng tôi là một người bố ư?… và con gái tôi hiện ở nhà Alixơ sao? - Không, nhưng đã có luật pháp để xử những chuyện xích mích. Một người khác chen vào: - Tốt hơn hết là hãy tranh luận đã. Một người thứ ba thêm, với giọng nhẫn chịu: - Anh vừa ở nhà tù ra và sự khôn ngoan là tiếng nói của chân lý đấy, Saít ạ. Saít nuốt cơn giận đáp lại; - Ai nói rằng tôi đến đây không phải là để tranh luận? Từ cửa sổ tầng ba Alixơ ngó đầu ra, nhiều người ngẩng lên lo ngại. Chưa có ai kịp thốt ra điều gì thì một gã to lớn đã bước ra khỏi ngôi nhà, khoác áo trùng dài kẻ sọc chân đi giày đinh cao cổ. Saít nhận ra ngay cảnh sát viên Hatsababanla. Làm bộ ngạc nhiên, Saít thốt ra giọng giận dữ; - Vì sao anh lại đến đây làm gì, tôi chỉ đến đây để tranh luận? Tên cảnh sát tiến nhanh đến bên anh và bắt đầu khám xét, lục soát các túi quần áo với thói quen nghề nghiệp thành thạo và tỉnh táo. Hắn ra lệnh: - Im mồm đi, đồ con quỷ, mày muốn gì? - Tôi chỉ đến để thảo luận về tương lai của đứa con gái tôi. - Bây giờ mày biết thảo luận cơ à! - Đúng vậy, vì lợi ích của con gái tôi. - Việc đó đã có tòa án. - Khi nào không còn hy vọng gì thì sẽ đến tòa án. Từ trên cao. Alixơ nói với xuống: - Hãy để cho anh ta vào, các bạn vào đi, xin hoan nghênh mọi người. Được, mày hãy tập hợp họ quanh mày, thằng hèn. Ta chỉ đến đây để biết quan niệm của mày ra sao thôi. Khi nào thời điểm đến thì cảnh sát và những bức tường kia cũng chẳng cứu giúp được mày đâu. Họ kéo nhau vào trong phòng khác và tản ra trên các ghế bành và trường kỷ. Người ta mở toang các cửa sổ để ánh sáng và cả ruồi nữa lọt vào. Tấm thảm xanh da trời dưới chân rải rác những vết đen do tàn thuốc lá gây ra. Còn trên tường một bức chân dung của Alixơ đứng nhìn họ chăm chú, tay chống trên một chiếc gậy to. Người cảnh sát ngồi ngay bên cạnh Saít và đưa tay lần tràng hạt. Lúc này Alixơ Xêđơra mới xuất hiện với bộ áo choàng dài rộng phình, khuôn mặt tròn phì phị với chiếc cằm chảy xệ và cái mũi tẹt to sù. Hắn làm ra vẻ can đảm cúi chào Saít: - Tôi xin chúc mừng bạn! Trong phòng trở nên im lặng và nhiều ánh mắt lo âu trao đổi với nhau cho đến khi chính Alixơ đưa ra một câu như muốn mở ra một trang mới; - Thôi, chuyện quá khứ là của quá khứ, cái gì đã xảy ra thì đã xảy ra hàng ngày. Có những sự cố đáng tiếc xảy ra đã phá hủy những tình cảm bạn bè xa xưa, nhưng chỉ có người gây tội phải hổ thẹn thôi. Saít lúc đó trông như một con hổ thu nanh vuốt trước con voi, mắt sáng rực, thân hình cao lớn dũng mãnh; anh cố gắng lắm cũng chỉ nhắc lại lời của Alixơ: - Chỉ có người gây tội phải hổ thẹn thôi. Anh chưa nói hết lời thì từ mọi phía họ đều quay lại nhìn anh. Viên cảnh sát ngưng tay lần tràng hạt, Saít chộp lấy cái ý vừa phát ra, tiếp tục: - Tôi hoàn toàn đồng ý với anh về điều anh vừa nói. Viên cảnh sát uể oải: - Ta nên nói thẳng vào đề, tránh vòng vèo. Saít hỏi lại, giấu một vẻ giễu cợt: - Vậy thì theo đường nào? - Chỉ có một con đường duy nhất để thảo luận, đó là về con gái anh! A, đồ chó ghẻ! Thế còn vợ ta và các tài sản của ta thì thế nào! Chà, lời nói gở, lời nói gở! Ta muốn nhìn thẳng vào mắt mày. Như vậy ta không ngại xấu nến phải tôn trọng con gián hôi, con bọ cạp hoặc con giun đất. Khốn nạn thay cho những kẻ để cho đàn bà chinh phục. Dù sao bất chấp, Saít cũng ngẩng đầu tỏ dấu tán thành. Một trong những tên liếm gót giày nói: - Con gái anh vẫn ở nơi an toàn với mẹ nó, đúng như luật pháp quy định cho đứa trẻ sáu tuổi. Nếu anh muốn tôi sẽ đưa cháu đến thăm anh mỗi tuần một lần. Saít bỗng gào lên như muốn cho ở ngoài cũng nghe được: - Con gái tôi thuộc về tôi, dù trong hoàn cảnh nào. Alixơ vẻ khó chịu hỏi: - Ý anh muốn nói thế nào? Nhưng viên cảnh sát không để cho Saít trả lời: - Tất cả những chuyện ấy chỉ làm chúng ta đau đầu. Ngay lúc đó Alixơ tuyên bố một cách tự tin rằng: - Tôi không phạm một tội lỗi nào, đấy là số mệnh và cả nghĩa vụ nữa, tôi chỉ làm cái việc đó vì sự cao cả của tâm hồn và cũng vì lợi ích của con bé thôi. Sự cao cả của tâm hồn ư, đứa con của rắn độc! Thật là sự lừa bịp và sự phản bội liên kết lại. Đúng là vừa đủ cả cái gậy với lưỡi rìu và giá treo cổ. Mà con bé Sana hiện nay ra thế nào nhỉ? Saít đập lại hết sức bình tĩnh: - Tôi chẳng để nó trong cảnh thiếu thốn, nó đã được thừa hưởng tài sản của tôi, một gia tài đáng kể. Viên cảnh sát chen vào: - Mày muốn nói là những của đã cướp đoạt được của mày à? Những thứ mà mày đã chối cãi trước tòa án đó sao? - Tùy anh giải thích thế nào cũng được, nhưng tất cả các thứ đó đâu rồi? Alixơ vội gào lên: - Không có một xu nào hết! Các bạn ạ, hãy tin tôi, không có ai muốn có một số phận như vậy, ngay cả cho kẻ thù tệ hại nhất của mình, thực tình là tế.Tôi chỉ làm nghĩa vụ của mình. Saít bèn đưa ra một câu hỏi thách thức: - Vậy anh hãy giải thích cho tôi làm sao anh có thể sống một cách phong lưu và bao cho những người khác nữa? Alixơ giọng châm biếm: - Liệu anh có là Thượng đế để xét hỏi tôi về những tài khoản chăng? Một kẻ trong đám tay chân của Alixơ khuyến cáo: - Hãy coi chừng quỷ dữ, Saít ạ. Viên cảnh sát lên mặt phán rằng: - Tao thì tao biết mày quá và hiểu mày, không ai có thể đọc được những ý nghĩ trong đầu mày bằng tao. Mày sẽ mệt nhoài ra vì chuyện này. Thôi hãy chỉ nói về chuyện cô bé con điều đó có lợi cho mày hơn. Saít lùi lại một bước vừa mỉm cười, vừa cúi mặt xuống vẻ nhẫn nhịn. Anh nói nhỏ nhẹ: - Sự thật là từ miệng ông ra, ông cảnh sát ạ. - Nghe đây, tao hiểu mày quá rõ rồi nhưng tao sẽ thỏa thuận với mày vì lòng kính trọng đối với các ông bạn ngồi đây lúc này là: hãy đưa cô bé ra đây, trước tiên hãy xem ý kiến cô bé ấy ra sao là hơn cả chứ? - Tại sao lại như thế, ông cảnh sát? - Tao hiểu mày Saít, thực ra mày không muốn gặp con gái. Mày chẳng có chỗ nào cho nó ở và chính mày cũng phải nhiều khó khăn lắm mới kiếm được chỗ dung thân chứ gì. Nhưng nhân danh pháp luật và tình thương, mày có quyền gặp con. Nào hãy đi tìm đứa bé ra đây. Sao không dẫn mẹ nó ra nhỉ! Ta muốn diện đối diện và nhìn thẳng vào cặp mắt ấy, để ta có thể chọc thủng được một trong muôn vàn bí mật dưới Địa ngục. Thực là đủ cả cây gậy, chiếc rìu và giá treo cổ.Alixơ đã đứng lên đi kiếm đứa bé gái. oOo Khi có tiếng chân bước vang lên, trái tim của Saít bắt đầu quặn đau. Anh ta hướng đôi mắt về phía cửa ra vào, môi mím chặt. Nỗi căng thẳng chờ đợi và niềm dịu hiền đang trỗi dậy xâm chiếm trong lòng đã xóa tan trong chốc lát những dòng thác thù hận. Cô bé hiện ra giữa đám người lớn đôi mắt mở to vì ngạc nhiên. Cô bé hiện ra sau một thời gian chờ đợi dài như hàng ngàn năm, trong bộ áo váy trắng toát, đôi dép cũng mày trắng làm nổi bật đôi bàn chân có móng nhuộm hồng. Cô bé đứng đó nhìn quanh dò xét với khuôn mặt ngộ nghĩnh rám nâu, bộ tóc đen rủ trên trán. Đôi mắt sợ hãi ngắm nhìn từng khuôn mặt trong phòng, trước khi dừng lại ngắm nhìn Saít với vẻ cực kỳ thông cảm, vừa sợ hãi trước ánh mắt nóng bỏng của anh ta vừa cảm thấy có sức đẩy không cưỡng lại được về phía người đó. Anh cảm thấy cô bé kìm mình lại hết mức, đôi chân lê trên thảm và cong người về phía sau. Còn anh thì không rời mắt khỏi đứa bé nhưng trái tim tan nát, tan nát đến mức anh có cảm giác bị lạc hướng, lúng túng và thất bại. Giống như không phải là con gái anh nữa! Mặc dù cũng đôi mắt hạt dẻ, khuôn mặt trái xoan và chiếc mũi dọc dừa.Vậy thì tiếng gọi huyết thống và linh tính đâu nhỉ? Hay là có ai đó đã lừa dối và phản bội? Làm thế nào để vượt qua những cái đó và nỗi thèm khát ôm chầm lấy con gái trong vòng ngực mình? Viên cảnh sát ném ra một giọng mệt mỏi: - Người này là cha cháu đấy. Và Alixơ nhắc lại, khuôn mặt lì lợm: - Con chào cha con đi. Nhưng đứa bé vẫn nhút nhát như con chuột nhắt, không biết nó sợ cái gì? Nó không biết rằng cha nó rất yêu nó sao? Người cha giơ đôi tay về phía cô bé, nhưng miệng lại đầy ức nước bọt và nghẹn ngào; bất lực không thể thốt ra một lời nào. Anh ta mỉm cười duyên để làm cô bé bớt căng thẳng. Nhưng Sana lại không muốn thế. Cô bé lùi lại, khiếp sợ và nếu không vướng người ngồi sau thì có lẽ đã chạy biến ra ngoài. Cô bé kêu: Mẹ ơi! Nhưng người ngồi sau đã nhẹ nhàng đẩy cô ta về phía người cha và nhắc lại: - Cháu hãy chào cha đi. Những ánh mắt ngời lên và phô bày một sự thích thú ngấm ngầm. Sau lúc này hiểu ra rằng nỗi thống khổ phải chịu đựng trong nhà tù chưa tàn nhẫn như anh tưởng bằng hiện tại. Anh cầu khẩn: - Lại đây con, Sana. Rồi không còn đủ sức chịu đựng được lâu hơn sự khước từ của đứa con, anh đứng dậy, nghiêng về phía đứa bé và cô bé bỗng gào lên: - Không! - Ta là cha con đây. Cô bé ngước mắt nhìn Alixơ. - Cha đây, cha con đây, đây con. Nhưng cô bé lùi lại, co dúm về phía sau. Saít kéo mạnh con gái về mình. Nó càng gào lên. Anh ghì lấy con nhưng đứa con gái lại đẩy anh ra và khóc tức tưởi. Saít cúi xuống hôn con - mặc dù thất vọng và thất bại – nhưng cô bé dẫy dụa lung tung nên anh chỉ hôn được vào cánh tay nó. Anh an ủi cô bé: - Cha con đây mà, đừng sợ. Tóc cô bé thoảng mùi thơm gợi lên hình ảnh của người mẹ làm cho Saít thoáng buồn. Sana lại càng khóc tức tưởi và cứ khăng khăng từ chối thành ra viên cảnh sát cuối cùng đã can thiệp: - Từ từ thôi, cô bé không nhận mày. Mất hy vọng, Saít ngồi phệt xuống, thả tay con gái ra và trở nên giận dữ: - Tôi sẽ mang nó đi. Gian phòng lắng đi một lúc rồi Bagiađa đưa ra lí lẽ: - Trước hết theo tôi là cậu hãy bình tĩnh đã. Saít bướng bỉnh nhắc lại: - Thế nào tôi cũng phải đưa nó đi. Viên cảnh sát phản đối nghiêm khắc: - Hãy để cho tòa án quyết định việc đó. Rồi y quay về phía Alixơ tiếp: - Có phải thế không nào? - Điều này không liên quan gì đến tôi cả, nhưng theo ý tôi thì mẹ cháu bé này chỉ chấp nhận cho con gái ở với cha trong trường hợp luật pháp bắt như vậy. Viên cảnh sát lại nêu quan điểm của mình: - Đấy chính là điều tôi đã nói từ đâu, chẳng cần phải tranh cãi gì nữa, việc này đã có tòa án. Saít ngồi đó, cảm thấy rằng nếu tiếp tục cơn giận thì sẽ nổi cơn khùng làm hỏng việc. Bằng sự cố gắng tột cùng, anh vượt lên được. Nhanh chóng nhớ lại mọi việc mà anh suýt quên đi, anh bình tĩnh đáp: - Cũng được, hãy chờ tòa án xét xử. Bagiađa tiếp thêm: - Anh thấy đó, cô bé sống trong tình thương và sự bảo trợ. Viên cảnh sát lại vênh vang nhắc lại, giọng giễu cợt: - Trước tiên mày hãy tính đến việc kiếm ăn lương thiện để nuôi thân đã. Trước tất cả những lời nói đầy dụng ý ấy, Saít hình như vẫn bình tĩnh làm chủ được mình. Anh quyết định: - Đúng, các ông có lý, những tiếc nuối không được việc gì cho tôi cả. Tôi sẽ suy nghĩ lại về việc này, chắc chắn và tốt hơn hết là nên quên chuyện quá khứ và tìm kiếm việc làm để có thể chuẩn bị cho cháu gái một chỗ dung thân thuận tiện khi cần đến. Im lặng một lúc tiếp theo lời anh, tất cả đều ngạc nhiên. Họ nhìn nhau, có người thì gật gù, có người hoài nghi. Viên cảnh sát thu tràng hạt trong tay và hỏi: - Liệu xong công việc chưa nhỉ? Saít đáp ngay: - Xong rồi đấy, nhưng tôi muốn lấy những cuốn sách của tôi. - Sách của mày ư? - Vâng. Alixơ phản ứng ngay vẻ hăng hái: - Đại đa số sách bị mất vì Sana nghịch chơi, nhưng tôi sẽ đưa anh những sách còn lại. Anh ta biến đi ngay và lúc sau trở lại với chồng sách vở và đặt xuống giữa phòng. Saít sụp xuống đống sách, lần giở từng cuốn sách và lẩm bẩm một cách buồn bã: - Quả vậy, phần lớn đã mất. Viên cảnh sát, giọng xỏ xiên: - Mày moi những cuốn sách này ở đâu ra thế? Rồi hắn đứng dậy, muốn tỏ ra rằng câu chuyện đã chấm dứt: - Này, mày ăn cắp cả những cuốn sách à? Tất cả mọi người đều cười, trong khi Saít lúi húi thu xếp chồng sách để mang đi, anh không cười… CHƯƠNG II Vừa đi vừa ngắm nhìn cái cửa mở rộng, mở từ lâu lắm rồi không ai nhớ, Saít càng tiến lên theo con đường leo qua các ngọn đồi thì càng thấy rằng đường còn xa hơn là anh nghĩ. Nơi này là mảnh đất của nhớ thương và của lòng nhân từ nằm ở giữa khu phố Đaratxa với hai dãy đồi Múccatam vươn ra ôm lấy chung quanh. Trẻ con thường đến đây đùa nghịch trên cát bụi cùng những gia súc và Saít thì thở dốc vì mệt mỏi và xúc động. Đôi mắt anh dõi theo những đứa bé gái không rời. Rất đông những kẻ lười biếng nằm dài trên những tường thành ven đồi, tránh ánh nắng chiếu xiên khoai. Anh dừng lại trước một khuôn cửa mở, ngắm nhìn và hồi tưởng lại xem lần cuối cùng bước qua ngưỡng cửa này là bao giờ? Đây là một ngôi nhà giản dị như thời xa xưa. Một khoảng sân rộng rãi trống trơn. Tại góc trái, một cây cọ cao lớn, thân cong cong, phía phải của hành lang là cửa dẫn vào gian phòng duy nhất. Trong gian nhà kỳ lạ này, không có cửa nào bị khép lại. Trái tim Saít đập rộn lên và dẫn anh lui lại những ngày xa xưa của thời thiếu niên, vô tư lự, mơ màng, tình thương yêu của cha và ảo mộng về Thượng đế. Những người đàn ông tràn vào đầy sân, lòng rung động trong tiết tấu của các bài thánh ca và tên thánh Ala được xưng tụng từ đáy lòng mọi người. Hãy nhìn, nghe cho tỏ, học tập và mở rộng trái tim của ngươi. Cha của Saít đã từng nói như thế. Và niềm vui ấy giống như chất men say sưa do trí tưởng tượng, niềm tin, bài thánh ca và nước chè xanh mang lại. Giáo trưởng Ali Ghêniđi, bây giờ người đã như thế nào, người là thầy của những người đang sống? Từ phía trong gian phòng vẳng đến tiếng của ai đó vừa chấm dứt cầu kinh. Saít mỉm cười và đi vào phòng mang theo chồng sách vở. Giáo trưởng ngồi đó, xếp chân bằng tròn trên thảm cầu nguyện hoàn toàn bị cuốn hút vào việc làm lễ nguyện. Và kia là cái phòng xưa cũ, không có thay đổi chút nào. Những chiếc chiếu đã cũ mòn được các tín đồ thay đi và chiếc giường giản dị vẫn nằm sát vào tường phía Tây, còn những phía tường khác, chân tường đều bị những chồng sách che kín. Và mùi hương vẫn phảng phất thơm tho như chưa bao giờ tản hết cả… Saít bỏ chồng sách của mình xuống và tiến gần về phía Giao trưởng. - Con kính chào Chúa và Đấng tôn sư! Người Giáo trưởng dừng cầu nguyện rồi ngẩng đầu lên để lộ bộ mặt mỏng mảnh đầy sức sống, có bộ râu viền quanh như vòng nguyệt quế. Đầu Giáo trưởng đội một chiếc mũ vải mềm trắng chụp lấy bộ tóc dày đã ngả màu sương tuyết. Giáo trưởng nhìn anh chằm chằm bằng đôi mắt mà trong suốt tám mươi năm vẫn chăm chú nhìn cuộc sống dưới mặt đất và ở ngoài trái đất nữa, nhưng không hề mất đi sức quyến rũ, vẻ hấp dẫn và cả nét duyên dáng của đôi mắt ấy. Saít không kìm được mình, lao vào hôn lên bàn tay Giáo trưởng, lòng tràn ngập nhớ thương… người cha, hy vọng, Thượng đế và tất cả quá khứ làm anh mủi lòng rơi nước mắt. - Cầu Chúa ban cho con phước lành và sự an bình. Đúng tiếng nói của ngày xưa! Thế còn giọng nói của cha mình thế nào? Mọi điều xảy ra từ cái vẻ mấp máy của đôi môi đến khuôn mặt đều hợp lại thành một hình ảnh gợn lên về người cha của Saít. Mà những tín đồ đâu, cả những người hát lễ Dich-kơ đâu rồi? Hỡi đấng tiên tri Môhamết, con cúi lạy Người. Saít ngồi sụp xuống chiếu trước mặt Giáo trưởng: - Con ngồi mà không xin phép Người, con nhớ rằng đức ông muốn như thế. Anh có cảm giác rằng Giáo trưởng mỉm cười dù không có nét cười trên đôi môi trắng bệch như làn da của Người.Liệu Người có còn nhớ đến mình không? - Đừng có giận con thưa đức ông, ngôi nhà của Người là chỗ trú ngụ cuối cùng của con trên đời này. Giáo trưởng ngả đầu trên ngực mình và thì thào: - Con nói nơi trú ngụ sau tường, không phải nơi trú ngụ của trái tim… Saít thở dài, trong phút thoáng qua anh không hiểu gì hết. Đột nhiên anh thốt ra: - Trình đức ông, con vừa ra khỏi nhà tù hôm nay. Giáo trưởng khép đôi mắt lại và buôn ra lời nói: - Từ nhà tù? - Trình đức ông, vâng. Người đã không nhìn thấy mặt con từ mười năm nay. Trong thời gian đó, đã có nhiều điều xảy ra rất kỳ lạ, có thể là một vài tín đồ nào của Người đã trình lại với đức ông rồi. - Ta nghe nhiều quá về biết bao điều, nên ta chẳng còn nghe thấy gì hết… - Dù thế nào con cũng thích đến với đức ông và không giấu giếm điều gì nên con đã thú thực với Người rằng con vừa ra tù ngày hôm nay. Giáo trưởng từ từ ngẩng đầu lên và mở đôi mắt nhìn anh thở dài: - Từ nhà tù ra, anh chưa thoát nợ. Saít mỉm cười. Những lời nói tốt đẹp thời xưa đã trở lại. Mỗi từ thốt ra chứa đựng một ý nghĩa thầm kín khác hẳn với nghĩa đen của từ… - Thưa tôn sư, bất cứ nhà tù nào cũng còn tốt hơn là ngục tù của Nhà nước. Giáo trưởng ngắm nhìn Saít với cặp mắt trong suốt và thì thào khe khẽ: - Chúa nói rằng bất cứ nhà tù nào cũng tốt hơn là ngục tù của Nhà nước! Saít lại mỉm cười.Anh gần như thất vọng về cuộc gặp gỡ này. Rồi anh lại hỏi tiếp một cách nồng nhiệt: - Thưa Giáo trưởng, vậy Người còn nhớ đến con chăng? Giáo trưởng lại thì thào một cách uể oải: - Con hãy bằng lòng với hiện tại con ạ. Mặc dù anh không còn nghi ngờ gì nữa về người Giáo trưởng nhớ đến mình hay không, Saít vẫn cứ hỏi lại cho chắc chắn. - Và cha tôi là lão già Mara mà Chúa đã mở lượng nhân từ, Người có còn nhớ chứ? - Xin Chúa hãy mở lượng nhân từ cho mọi người chúng ta. - Chao ơi! Thời ấy sao mà đẹp thế! - Bây giờ, con hãy nói chuyện hiện nay đi. - Thưa, nhưng mà… - Xin Chúa hãy ban phước lành cho mọi người. - Thưa, con đã trình với Giáo trưởng là con mới ra khỏi nhà tù hôm nay. Giáo trưởng lắc lư đầu với một niềm vui bất chợt rồi cất lời thánh ca: “Bị đóng đinh trên cọc “Người vẫn mỉm cười hát ca “Thượng đế đã an bài “Ta gặp Người theo cách ấy…” - Thưa Giáo trưởng, cha tôi, mới hiểu được Người… Người đã nhiều lần ruồng bỏ ta, cuối cùng ta tin rằng chính Người quyết định đuổi ta ra ngoài. Bây giờ chính ta, thằng bé Saít này lại tự mình quay lại nơi này trong không khí nhiễm mùi hương khói và lo ngại. Đó là số phận của kẻ vô gia cư có lòng thành nguyện gặp lại Người. - Thưa tôn sư, con đến thăm Người vào lúc con gái con đã chối từ con. Giáo trưởng thở dài thốt lên: - Chúa đặt những huyền bí của Người vào trong các sinh vật nhỏ nhất của Người. - Con vẫn thường tự nhủ rằng: Nếu Chúa đã ban cho con cuộc sống đến lúc này, thì con sẽ thấy cửa của Chúa mở rộng. Giáo trưởng đáp lại bình tĩnh: - Thế còn cửa thiên đường thì con thấy thế nào? - Thưa, ngay dưới trái đất này cũng không có chỗ cho con nữa và con gái con đã từ chối. - Con của con thực rất giống bố. - Thưa đức ông, sao lại thế ạ? - Con đang muốn hỏi ta một chỗ trú ngụ, không phải con muốn ta trả lời về đứa bé. Saít gục cái đầu có mái tóc hoa râm của mình vào đôi bàn tay nổi đầy những mạch máu màu nâu. - Thưa, cha con dạy rằng khi nào gặp khó khăn thì đến cầu xin Người. Con đã làm như vậy… Giáo trưởng với vẻ bình tĩnh bất biến ngắt lời anh: - Đúng là con muốn xin ta một chỗ trú ngụ, không có gì khác. Người Giáo trưởng tỏ ra thêm thân thiện với anh ta, tuy nhiên Saít cảm thấy có một cái gì đó lo ngại tăng lên trong tâm trí, mà không có nguyên nhân gì rõ rệt. - Thưa, con không phải chỉ mong có một mái nhà che thân, con còn muốn cầu xin Chúa ban cho con phước lành của Người. Giáo trưởng đáp lại, giọng như hát ca: - Vậy thì các Bà Thánh trên trời nói rằng: “Vậy con không hổ thẹn khi cầu xin Chúa ban phước lành mà con lại chẳng làm gì để xứng đáng lời cầu xin ấy sao?” Không gian tĩnh lặng bên ngoài giáo đường bỗng bị tiếng con lừa hí lên phá vỡ và kết thúc bằng một tiếng ré khàn khàn đứt quãng tựa như tiếng nứt nở. Có một giọng hát của ai đó ê a răng: “Ơi hỡi vận may và số phận, biết tìm nơi đâu”. Nhớ lại ngày trước có lần cha anh bắt gặp Saít hát véo von: “Đố người đoán được ta là ai, hãy thè lưỡi ra cho chú mèo…” nên đã quở mắng nhẹ nhàng rằng không phải là lúc hát như vậy, khi chúng ta đang trên đường đến với Đức giáo trưởng thánh thiện. Cha anh đã tham gia vào đàn hát thánh ca, mắt nhắm nghiền, giọng kéo dài, mồ hôi nhễ nhại.Còn anh ngồi nghỉ dưới gốc cây cọ ngắm nhìn hai dòng tín đồ dưới anh đèn dâu, miệng nhấm quả chà là khô. Anh cảm thấy sung sướng lạ lùng. Đó là thời kỳ trước khi bén hơi men tình yêu. Bây giờ thì người Giáo trưởng đã nhắm mắt như ngủ.Còn Saít thì đã quen thuộc với khung cảnh này đến mức anh không còn cảm giác gì với mùi hương khói.Anh nhận thức ra rằng thói quen là nguồn gốc của bệnh lười biếng, sự chán ngán và chết chóc.Chính thói quen là nguyên nhân gây ra những bất hạnh cho anh, phản bội, vô ơn bạc nghĩa.Tóm lại mọi cố gắng của một đời người đã bị vung phí. Anh cất tiếng hỏi để đánh thức Giáo trưởng: - Thưa, Người vẫn khuyến khích các buổi hát thánh ca đấy chứ? Người Giáo trưởng không đáp. Điều đó làm cho anh lo lắng và anh lại tiếp tục: - Thưa, Người không bằng lòng cho con tới gặp Ngươi ư? Giáo trưởng mở mắt đáp: - Người đi cầu xin cũng như người được thỉnh cầu đều yếu đuối cả. (Kinh thánh đạo Hồi) - Nhưng thưa đức ông, người là chủ nhân ở đây. - Chủ nhân nơi này chúc mừng con giống như mọi người khác, - Giáo trưởng đáp với giọng hào hứng. Saít mỉm cười, phấn chấn trong lòng, nhưng giáo trưởng tiếp ngay: - Riêng tôi, thì tôi chẳng phải là chủ nhân của cái gì hết. Vệt nắng của mặt trời lọt vào chiếu trên tường đã dịch lên cao. - Thưa Đấng bề trên, dù sao con cũng được ở đây như ở nhà con vậy, giống như mọi người đã đến thỉnh cầu. Và trình với đức ông, Người xứng đáng với mọi lời cảm ơn. - Lạy Chúa, Người biết con không có đủ sức để cảm tạ Người, vậy xin Người hãy thay lời con. Đấy chính là lời của những người biết ơn vậy. Saít van nài: - Thưa Giáo trưởng, con rất cần vài lời an ủi. - Đừng có nói dối thế.Giáo trưởng nhẹ nhàng quở trách. Giáo trưởng cúi đầu, bộ râu trải lên ngực và lại đắm mình trong tư thế suy ngẫm. Saít ngồi chờ kiên nhẫn, lúc sau anh lui lại ngồi tựa vào một chồng sách ngắm nghía người Giáo trưởng tôn kính. Khi thấy ngồi chờ đã quá lâu, Saít lại hỏi: - Thưa, có việc gì cho con làm không ạ? Giáo trưởng không để ý đến những lời nói của anh. Và yên lặng trở lại như cũ. Saít phát hiện ra một bầy kiến xếp thành hàng đang tìm cách kiếm lấy một lối đi qua những nếp chiếu bị gấp. Đột nhiên Giáo trưởng phá tan sự im lặng: - Con hãy cầm lấy quyển kinh (Đạo Hồi) Coran và đọc đi. - Thưa, con mới ra khỏi nhà tù hôm này và con chưa làm lễ rửa tội. - Vậy thì hãy làm lễ đi rồi đọc kinh. Saít than phiền: - Con giá con đã chối từ con, nó đã sợ con, coi con như một quỷ dữ và trước đó thì mẹ nó đã lừa dối con. Giáo trưởng nhẹ nhàng nhắc lại: - Con hãy làm lễ rửa tội đi và đọc kinh sau. - Vợ con đã lừa dối con để lấy một kẻ khốn nạn trong đám đàn em của con, nó là một thằng vô tích sự, như một con chó đần độn. Sau đó cô ta lại dựa vào việc con bị giam giữ trong tù mà xin ly hôn để lấy nó. - Con hãy làm lễ rửa tôi đi và đọc kinh. - Thưa, tài sản, tiền bạc và các đồ châu báu của con bị nó chiếm lấy hết. Nó đã trở thành đầu đảng và tất cả bọn trộm cắp trong khu phố đều là tay chân nó cả. - Con hãy làm lễ rửa tội đi và đọc kinh. Giáo trưởng nhăn mặt và các mạch máu hằn rõ trên trán. - Con không phải bị bắt vì cảnh sát tìm ra. Không, con tin chắc rằng sẽ thoát như thường, nhưng thằng chó chết đó đã báo cảnh sát với sự đồng tình của vợ con. Sau đó là các tai vạ liên tiếp ập đến và con gái con đã chối từ con. Giáo trưởng nhắc lại với giọng khiển trách: - Con hãy đọc lời rửa tội rồi đọc kinh đi. Hãy nói: “Hãy theo ta, nếu ngươi yêu Chúa, “Chúa sẽ yêu quý ngươi.” Con hãy đọc cầu kinh: “Tôi đã chọn Người cho chính tôi” và nhắc lại những câu kinh: “Yêu quý Chúa trên trời tức là chấp thuận, tuân theo lời phán bảo của NGƯỜI, từ bỏ những điều NGƯỜI đã ngăn cấm và chịu theo như NGƯỜI đã an bài,” Đấy đúng là điều cha tôi vẫn thường nghe và lắc lư đầu nhịp nhàng. Cha thường nhìn tôi chăm chú và mỉm cười như có ý bảo hãy nghe kỹ và học đi. Tôi rất thích và tôi muốn mọi người quên tôi đi để tôi có thể trèo lên cây cọ. Hoặc ném một viên sỏi trúng làm rơi một quả chà là. Hoặc có khi cùng hát với các tín đồ mà họ không hay biết. Một hôm Saít khi trở về khu nhà sinh viên ở Ghidếch, trông thấy cô ta cầm giỏ đi tới. Cô ta xinh đẹp và dễ thương và tấm thân cô ta đã hội đủ tất cả các niềm vui thú dành cho ta trên thiên đường và những nỗi thống khổ dưới địa ngục. Điều gì làm ta bị quyến rũ đến thế trong tiếng hát của các tín đồ? Nhìn thấy khuôn mặt của Giáo trưởng, ta trông thấy đường sống và đã thấy lấp ló ánh trăng và khuôn mặt người thương yêu. Tuy nhiên mặt trời chưa tắt bóng. Tia nắng cuối cùng vẫn còn rọi qua khung cửa tò vò. Đêm dài đang đợi ta. Đây là đêm tự do đầu tiên. Trước đêm tối ra vẫn đơn lẻ. Hay nói cho đúng ra là đơn lẻ cùng Giáo trưởng đang lưu lạc trên thiên cung, người lại đang nhắc lại những lời nói khó hiểu cho một người đã bị kết án dưới lửa của Âm cung. Liệu có một chỗ nào khác để trú thân không? CHƯƠNG III Saít lục tìm trong tờ báo Al Giara và tìm thấy bài viết của Raúp Êluan. Còn vài bước chân nữa là tới miếu đường của giáo trưởng Ali Ghêniđi, nơi anh trú ngụ qua đêm trước, mà anh vẫn say sưa đọc bài báo của Raúp. Anh thắc mắc không biết Raúp lấy nguồn tin này ở đâu?Để viết những suy tư về thời trang của phụ nữ, về kỹ thuật vô tuyết tăng âm rồi cả về những vấn đề của một người phụ nữa bị ruồng bỏ nữa chứ.Chắc chắn đó là những vấn đề đang là thời sự, nhưng con người Raúp Êluan ở đâu trong các vấn đề này? Còn đầu là mái nhà sinh viên và những chuyện phiêu lưu của thời kỳ tốt đẹp xưa? Đâu là nét say sưa hăng hái của anh chàng sinh viên gốc tỉnh lẻ trong bộ quần áo sờn mép tàng tàng với trái tim nồng cháy mênh mông? Đâu còn ngòi bút đầy hứng thú và không khoan nhượng? Hay là thế giới này đã trở nên điên loạn? Có cái gì đó che giấu trong các mối bí hiểm này?Mà chính cái nơi này có lẽ cũng đã từng chứng kiến những sự kiện giống như sự kiện đường Secphi chăng? Giống như Nabavigia, Alixơ và con gái ta đã không thừa nhận cha nó chăng? Saít quyết định phải gặp lại Raúp Êluan. Anh tiếp tục giọng suy tư trong khi đi đến nhà Raúp. Giáo trưởng đã cho ta một góc chiếu để ngủ nhưng ta cũng cần tiền. Ta cần bắt đầu một cuộc sống mới, giáo sư Raúp Êluan à. Tầm vóc của anh không kém gì giáo trưởng Ali, nói tóm lại anh là tất cả những gì mà ta có được trong cuộc đời này. Anh đứng bất động trước trụ sở tòa báo Al Giara trên quảng trường Maarép. Một ngôi nhà hùng vĩ… Moi móc hết đồ vật trong đó chẳng có khó khăn gì! Và hàng dãy xe ô tô vây quanh ngôi nhà giống như một hàng rào lính gác tuần tra đằng trước một bức tường đáng sợ. Rồi đến cả tiếng vo vo của máy in hoạt động sau những cửa thông hơi dưới hầm nhà. Saít bước vào nhà cùng với nhóm nhân viên và dừng lại trước bàn thường trực, anh lên tiếng với giọng trầm trầm vốn có: - Giáo sư Raúp Êluan có đây không? Người thường trực giương mắt lên nhìn Saít, rõ ràng khó chịu trước ánh mắt ngang tàng đến xấc láo trong đối mắt màu hạnh nhân của anh trước khi đáp lại một cách khô khan: - Gác tư. Saít lập tức đi về phía cầu thang máy và kiên nhẫn đứng trong đám người cùng đi và anh bị lạc lõng với bộ quần áo com-lê xanh, đôi giày cao su, vẻ nhìn gầy gổ và cái mũi dài dọc dừa.Trông thấy một cô gái đang đứng đợi gần đó, anh chạnh nhớ ngay đến Nabavigia và Alixơ và anh nguyền rủa họ. Chưa đi đến hết đoạn đầu hành lang của tầng bốn thì Saít đã bị cuốn vào phòng người thư ký trước khi người công vụ kịp ngăn anh lại. Đây là một cái phòng chữ nhật rất rộng với khuôn cửa kính rộng trông xuống phố. Chẳng còn lấy một chiếc ghế nào trống. Anh nghe thấy viên thư ký nhắc lại trong ống điện thoại với một người nào đó ở đầu giây bên kia rằng giáo sư hiện đang bận họp với ông tổng biên tập và giáo sư sẽ không trở lại trước hai giờ. Saít cảm thấy thất vọng, nhưng anh vẫn ở lại đó để trâng tráo ngắm nhìn bọn người có mặt trong phòng như muốn thách thức họ. Ngày trước, anh nhìn đồng loại của mình với ánh mắt tội phạm, nhưng bây giờ với những con người này thì anh nghĩ gì về họ? Còn Raúp Êluan, chắc chắn là ông ta không thể tiếp anh ở đây được rồi. Đây không phải là nơi dành cho những bạn cũ gặp nhau. Có vẻ như Raúp đã trở nên nhân vật quan trọng, giống như gian phòng có dáng quan trọng này. Ngày xưa anh ta chỉ mới là biên tập viên của tạp chí An Nađia có trụ sở tại một ngõ nhỏ trên đường Môhamết Ali. Nhưng lúc bây giờ Raúp thực sự là tiếng nói vang dội bênh vực cho nền tự do. Bây giờ, không biết Raúp giống như ai được nhỉ? Anh ta liệu có thay đổi như Nabavigia không? Hay anh lại cũng chối bỏ tôi như con bé Sana? Thôi chẳng cần phải nghĩ đến những điều đen tối nữa. Anh ta là bạn mình và người thầy của mình, đã vung cao lưỡi kiếm đấu tranh cho tự do và chắc chắn anh ta sẽ vẫn như cũ thôi, mặc dù có vẻ ngoài đáng lo ngại, mặc dù những bài viết đáng ngạc nhiên và phòng thư ký oai vệ. Và nếu tờ báo này cản trở cuộc nói chuyện hàn huyên của chúng ta thì ta có thể tìm thấy địa chỉ nhà riêng trong sổ bộ niên giám điện thoại… Saít nằm dài trên bãi cỏ ẩm ướt ngoài bãi Cócnitxơ, ven sông Nil và chờ đợi. Dưới tàn cây rậm rạp che lấp ánh sáng đèn đường, dưới bầu trời đêm đầy sao và trăng lu, một làn gió mát nhẹ nhàng lướt trong đêm sau một ngày nắng đỏ của mùa hè. Giờ đây anh ngồi xổm, quay lưng về phía sông Nil, hai tay ôm đầu gối và không rời mắt khỏi ngôi nhà số 18. Ngôi nhà đơn độc trong một khu vườn rộng thênh thang và rậm cây cối choáng gần nửa mặt trước nhà, bóng cây ôm trùm lấy mầu trắng của ngôi nhà tạo nên vẻ kỳ dị. Có lẽ là ảo ảnh của một cuộc sống giàu có, cùng một lúc lại chứng minh một quá khứ vinh quang. Nhưng có điều gì xảy ra thế? Làm sao lại như vậy? Và trong một thời gian ngắn? Cả đến một kẻ ăn trộm cũng không thể mơ được một số phận như vậy. Ngày trước khi mình nhìn một biệt thự theo cách đó thì chỉ là để nghiên cứu khu vực, trước khi tiến hành một vụ đạo chích thế mà ngày nay, ngày hôm nay ta ngắm nhìn một biệt thự và chờ mong một lời mời ư? Anh thực là một câu đố khó giải, anh Raúp, nhưng nhất định phải giải. Không lấy gì làm kỳ lạ cái tên Êluan cùng vần điệu với Maran? Và cái thằng Alixơ đã đạt được mưu mô nham hiển của nó là tước đoạt thành quả của cả một đời vất vả của ta sao? Saít đứng phắt dậy khi thấy một chiếc ô tô dừng lại trước cổng ngôi nhà. Trong lúc người gác mở cánh cổng thì Saít băng qua đường rất nhanh và đứng trước mũi xe; anh hơi cúi người xuống để người láu đủ trông thấy anh. Nhưng người đó không trông thấy anh trong bóng tôi và Saít đã gọi to bằng cái giọng trầm của mình: - Giáo sư Raúp… Tôi là Saít Maran đây! Người kia ghé mặt vào gần cửa xe đã hạ kính xuống và bật ra với một giọng trong trẻo rành mạch: - Saít… trời, bất ngờ thật. Dù rằng không thể nhìn rõ được vẻ mặt của Raúp lúc đó nhưng bằng giọng nói, Saít có phần yên tâm và sau một lúc yên lặng gần như mọi vật đều ngưng đọng, cánh cổng mở rộng ra và tiếng nói lại cất lên tiếp: - Lên xe đi, cậu. Bước đầu tiên tỏ ra tốt đẹp. Raúp Êluan vẫn là Raúp, dẫu rằng có cái phòng thư ký sang trọng và ngôi biệt thự kỳ dị. Chiếc xe đi vào con đường hẹp như sợi chỉ dẫn đến bậc thềm đá của ngôi nhà. - Nào Saít, cậu có khỏe không, bạn già. Cậu được ra bao giờ thế? - Ra hôm qua. - Hôm qua ư? - Phải, đáng lẽ tôi phải đến gặp anh nhưng còn vướng một vài việc cần phải giải quyết, sau đó cần phải nghỉ ngơi nên tôi đã ngủ qua đêm tại lễ đường của Giáo trưởng Ali Ghêniđi. Anh còn nhớ đến Giáo trưởng không? Họ xuống xe và đi thẳng về phòng khách. - Có, mình có nhớ, Giáo trưởng nổi tiếng của cha cậu, chúng mình chẳng đã hơn một lần dự các buổi lễ của người đó sao. - Thực rất thú vị lúc đó! - Còn mình thì rất mê các bài hát thánh ca. Người đầy tớ bật chiếc đèn trùm làm cho Saít lóa mắt vì ánh đèn được xếp theo hình nhị hoa và những chùm pha lê hình ngôi sao và trăng lưỡi liềm. Những dòng ánh sáng lại được hồi quang lại nhờ những tấm gương đặt ở bốn góc tường, soi sáng chói lọi các đồ vật trang trí trong phòng: tác phẩm nghệ thuật trên bệ, trang trí trên trần, hoa văn trên các tấm thảm, ghế bành thật êm và gối đệm rải rác trên sàn nhà. Cuối cùng tia mắt của Saít dừng lại trên khuôn mặt tròn trịa và béo tốt của giáo sư, khuôn mặt mà anh rất kính trọng từ lâu do đó anh đã quen thuộc đến từng chi tiết vì đã nghe giáo sư giảng nhiều lần. Trong khi người đầy tớ mở cửa trông ra vườn và kéo các bức rèm, Saít tiếp tục ngắm nhìn Raúp, cùng một lúc anh ngắm trộm những đồ vật trưng bầy tuyệt đẹp. Từ ngoài vườn, một luồng gió mát thoảng vào thơm nồng mùi hương pha tạp. Saít ngây ngất vì chùm ánh sáng lóa mắt và mùi hương pha tạp này. Khuôn mặt của người giáo sư phình ra to như con bò cái. Một nét bí hiểm đã nhập vào khuôn mặt và làm cho nó trở nên lạnh lùng, xa cách, mặc dù vẻ chất phác của khuôn mặt, mặc dù ông vẫn tỏ ra vồ vập và tươi cười. Từ người giáo sư toát lên cái mùi quý tộc phảng phất trên cái mũi tẹt và cái cằm bạnh ra. Sự lo ngại của Saít về điều có thể xảy ra nếu lời thỉnh cầu cuối cùng của anh không được đáp ứng đã làm tim anh đập thình thịch. Raúp ngồi trên ghế sôpha, gần ngay cửa ra hành lang và ra hiệu cho anh ngồi xuống ghế bành êm ái sắp xếp theo hình ô vuông xung quanh chiếc cột nhà có đèn thắp sáng trưng, có trang trí những tranh vẽ thần thoại. Saít không chờ phải mời lâu. Giáo sư duỗi chân dài trước khi hỏi: - Cậu đến tìm mình ở tòa báo đấy à? - Vâng, nhưng tôi đã nhận ra rằng đấy không phải là nơi cho chúng ta gặp nhau. Giáo sư cười to để lộ những chiếc răng ám đen gần các răng nanh. - Tòa báo là nơi thường có những cơn lốc bất tận. Cậu có chờ lâu không? - Gớm chờ dài như cả đời người. Raúp lại cười to và nói với vẻ tinh quái: - Mình cam đoan rằng cậu đã từng biết cái đường phố này, đúng không nào? Saít cũng bật cười to: - Chắc chắn thế, tôi đã từng biết tại nơi này có những nhà hảo tâm mà tôi không bao giờ quên được những ân huệ. Thí dụ như chuyến tôi viếng thăm biệt thự của ngài pháp quan Pha đen Hatsanen đã đem lại cho tôi một ngàn đồng bảng và tại nhà của diễn viên Kavakép đã được một cái vòng cổ bằng kim cương rất hiếm có… Người đầy tớ trở lại, tay đẩy một cái xe, trên để một chai rượu và hai chiếc cốc, cùng một cái sô màu nâu đựng đá lạnh và một khay đầy ắp táo. Còn cả những đĩa đặt đầy đồ nhắm rượu và một bình nước bằng bạc. Giáo sư ra hiệu cho người đầy tớ lui ra và tự mình rót rượu đầy hai cốc. Ông đưa cho Saít một cốc và nâng chiếc cốc còn lại lên chúc: - Chúc mừng sự tự do. Saít uống cạn một hơi trước khi hỏi anh, trong khi Raúp chỉ nhấp một ngụm nhỏ: - Thế còn con gái anh, nó ra sao rồi? Thực ra tôi quên không hỏi cậu tại sao lại đến ngủ đêm ở chỗ Giáo trưởng Ali? Anh chàng này chẳng biết tin tức gì cả, nhưng còn nhớ là mình có đứa con gái. Thế là Saít kể lại chuyện thương tâm của mình, có cắt bớt đi rồi tiếp: - Hôm qua tôi có đến ngõ Secphi, và như tôi dự kiến trước, đúng là đã có một tên cảnh sát chờ tôi ở đó. Rồi con gái tôi đã chối bỏ tôi và nó còn hét vào mặt tôi nữa chứ. Saít tự rót cho mình thêm một cốc rượu không chờ ai mời mọc, Raúp an ủi anh: - Đây là chuyện đáng buồn nhưng con gái anh chẳng có tội tình gì ở đây. Nó không còn nhớ đến anh thôi. Ngày mai đây lớn lên nó sẽ hiểu ra và yêu anh. - Bây giờ thì tôi nghi ngờ tất cả phụ nữ trên đời. - Giờ đây thì anh nói thế, nhưng mai đây ai biết được rồi sẽ khác đi? Chính anh sẽ thay đổi cách suy nghĩ của mình, chuyện đời thường mà. Tiếng chuông điện thoại reo vang và Raúp đứng lên trả lời. Ông nhấc máy nghe và khi nhận ra người đối thoại với mình là ai thì khuôn mặt ông nở một nụ cười rạng rỡ. Ông nhấc chiếc máy điện thoại và xách nó ra hiên, dưới con mắt chăm chú của Saít. Một người phụ nữ chăng? Nụ cười kia và việc đem máy ra chỗ khác riêng biệt chỉ có thể là cuộc nói chuyện với một người đàn bà. Không biết ông ta còn sống độc thân nữa không? Vừa xong cả hai cùng ngồi đấy, gần gũi nhau cùng uống rượu và tranh luận, nhưng Saít cảm nhận một linh tính ấy nhưng điều đó làm cho anh vẫn tin tưởng, vì con người anh đã quen với việc nghi ngờ mọi thứ và nhạy cảm. Hôm nay giáo sư không có gì khác với mọi người khác cư trú trong đường phố lớn này mà anh vẫn từng đến thăm một cách không thân thiện. Rất có thể là mọi sự vồ vập thân mật kia chỉ là giả nhân giả nghĩa thôi. Biết đâu rằng giáo sư đã thực sự thay đổi và chỉ còn lại cái bóng của quá khứ một nhân vật thuở xưa? Một tiếng cười vang lên từ ngoài hiên càng làm anh thêm buồn bã. Saít từ tốn nhặt lấy một quả táo rồi vừa suy tư vừa gặm. Cả cuộc đời chỉ là sự tiếp nối tính cách của con người vừa cười trước giây nói, không có gì hơn. Vậy mà nay, nếu ông ấy lừa dối ta thì quỷ bắt ông ấy đi! Cuối cùng Raúp Êluan quay trở lại và đặt trả máy vào chiếc kỷ, ông ngồi xuống, khuôn mặt hoàn toàn thoải mái: - Mình hết lòng chúc mừng cậu được trả tự do. Tự do là một tài sản quý giá đáng để cho cậu quên hết mọi chuyện khác mà cậu đang thiếu thốn, bất kể giá trị thế nào. Saít nhún vai, miệng vẫn nhai một miếng xúc xích bò ướp tỏi, không thực sự lắng nghe. - Thực thế, cậu vừa mới ra khỏi nhà tù và một cuộc sống mới đang chờ cậu. Raúp rót đầy hai cốc rượu nữa trong khi Saít tiếp tục ngấu nghiến các món nhắm với vẻ đói khát. Thình lình ngẩng đầu lên nhìn bạn, Saít bắt gặp ánh mắt giận dữ của người bạn tuy rằng được che đậy bằng một nụ cười gượng gạo. Saít chợt nhận ra rằng chỉ có điên mới tin rằng người bạn thật tâm khi chúc mừng anh trở lại. Chỉ là thói lịch sự xã giao đời thường. Cử chỉ xã giao thì chẳng chóng thì chầy sẽ tan biến thôi. Mình bất chấp mọi kiểu phản bội, nhưng đừng có giả dối thế này. Lạy Chúa, sự tồn tại với mình trở nên trống rỗng lúc này. Raúp với tay về phía một cái ngăn ẩn trong cây cột được chiếu sáng, lấy một chiếc hộp có chạm hoa văn kiểu Tàu ra. Ông rút lấy một điếu thuốc lá từ hộp đó và tuyên bố: - Saít thân mến à, chẳng còn chút gì của những điều đã góp phần đầu độc chúng ta tồn tại nữa đâu. Saít miệng còn đang nhai thức ăn, đáp: - Chúng tôi khi còn trong tù đã xôn xao vì những tin tức thời sự hàng ngày nhận được, ai có thể tưởng tượng ra một việc như thế? Rồi anh nhìn thẳng vào người bạn, mỉm cười: - Dù sao, chiến tranh đã chấm dứt! - Nên nói là một cuộc ngưng chiến. Mỗi cuộc chiến có chiến trường của nó. Saít liếc nhìn quanh phòng một lượt, tiếp lời: - Gian phòng khách sang trọng này cũng là một chiến trường. Anh hối tiếc đã nói câu đó ngay sau khi thoáng thấy trong mắt bạn một nét lạnh lùng.Có lẽ mình không có lễ độ chăng? - Cái phòng khách này có liên quan gì đến chiến trường hở cậu? Saít vội đánh bài lảng: - Tôi muốn nói đây là một kiểu mẫu về thẩm mỹ và sự tinh tế. Lần này Raúp thực sự nổi giận, đôi lông mày cau lại vì khó chịu: - Thôi đi, cậu đứng loanh quanh làm gì, cậu nói thẳng cái điều trong tâm khảm cậu. Mình hiểu cậu và cậu còn hiểu chính cậu hơn. Saít cười vang để giành lại cảm tình của người giáo sư: - Tôi không có ý nói gì xấu đâu. - Cậu nên nhớ kỹ rằng mọi thứ tôi có được là nhờ tôi tự kiếm lấy. - Nhưng nào tôi có nghi ngờ gì đâu. Tôi van anh, đừng có giận dữ như vậy. Giáo sư rít mạnh nhiều hơi thuốc lá với vẻ khó chịu, không nói lời nào thành ra Saít tự thấy buộc phải ngừng ăn uống thì thào xin lỗi: - Tôi thực sự chưa thoát ra khỏi tâm trạng ngồi tù và chắc phải có thời gian để phục hồi lại thói quen tiếp xúc, chuyện trò và cuộc sống giữa mọi người. Anh cũng không nên quên rằng tôi hãy còn bị xúc động vì cuộc tiếp xúc không thể tưởng tượng nổi với con gái tôi và nó đã chối bỏ tôi. Điều giải trình này có vẻ làm dịu Raúp thôi cáu kỉnh và hình như đã bình tĩnh hơn. Ngắm nhìn Saít thèm thuồng đưa mắt nhìn những món nhắm trên khay rồi lại nhìn bạn như muốn xin phép được ăn tiếp, giáo sư dịu dàng trở lại: - Cậu ăn đi. Saít được lời, lại tiếp tục chén nốt những gì còn lại, chẳng do dự chi - coi như không có chuyện gì hết – và chỉ thôi khi trong đĩa đã sạch trơn. Raúp lúc đó lên tiếng như muốn chấm dứt cuộc tiếp kiến: - Cậu cần thay đổi hoàn toàn, cậu đã nghĩ gì đến tương lai chưa? Saít châm một điếu thuốc lá và đáp: - Quá khứ đã làm cho tôi chưa có thì giờ để nghĩ đến tương lai. - Mình cho rằng đàn bà nhiều hơn đàn ông rất nhiều, cho nên cậu cũng không nên vì một người trong số đàn bà ấy bội ước mà lu mờ đi. Còn con gái cậu một ngày nào đó nó sẽ hiểu ra và thương yêu cậu, cái chính lúc này là tìm ra công việc làm ăn… Saít lúc đó không rời mắt khỏi một bức tượng thần của Trung Hoa trong tư thế uy nghi: - Lúc ở trong tù tôi học được nghề may. - Thế cậu định mở một cửa hiệu may mặc ư? Saít bình tĩnh đáp: - Chắc là không. - Sao thế? Anh phóng ra một cái nhìn xấc xược: - Trời đời tôi, tôi chỉ học có một nghề. Người bạn hoảng lên: - Cậu muốn trở lại với nghề đạo chích à? - Đấy là một nghề rất nhiều lời, một đêm ăn trộm bằng ba năm làm, anh biết đấy! Giáo sư tức giận: - Anh biết đấy, anh biết đấy! Làm sao mà tôi có thể biết được nào? Cậu nói đi? Saít nhìn giáo sư vẻ ngạc nhiên: - Nhưng vì sao mà anh giận dữ vậy? Tôi chỉ muốn nói là như anh biết vì anh hiểu quá khứ của tôi, và đúng như thế. Có điều gì xấu xa ở đó nhỉ? Raúp im lặng nhìn xuống như vẻ ông tìm cách khẳng định Saít đã nói thật bụng, nhưng lần này rõ ràng nét mặt ông giáo sư không trở lại bình thường được. Một lần nữa, ông lại cất giọng nói như sẵn sàng chấm dứt cuộc đối thoại: - Saít này, thời thế đã đổi thay. Cậu là một tên ăn trộm nhưng cậu cũng là bạn mình vì những lí do như cậu biết, nhưng ngày nay đã khác rồi nếu cậu trở thành tên ăn trộm thì cậu chẳng còn là gì nữa hết. Saít đứng bật ngay dậy, niềm thất vọng bị thử thách trong cơn đau khổ hoạn nạn nghiệt ngã này, nhưng anh đã ghìm được xúc động của mình bằng một ý chí sắt đá. Anh ngồi trở lại và bình tĩnh nói: - Anh giúp tôi một việc làm phù hợp với tôi nhé! - Loại công việc gì nào, cậu nói cho mình nghe… Saít tinh quái đáp: - Tôi sẽ rất sung sướng nếu được làm chân phóng viên tờ báo của anh. Tôi có trình độ văn hóa, lại là tông đồ của anh trước đây, tôi đã đọc hàng núi sách mà anh đã chỉ dẫn cho tôi và anh đã từng nhắc nhiều lần là tôi khá thông minh trước mọi người. Ánh sáng trao đảo trên làn tóc đen dày của Raúp khi ông lắc lư cái đầu vẻ tức tối trước khi trả lời: - Chúng mình chẳng có thì giờ đùa cợt đâu, cậu chưa bao giờ sử dụng cái bút. Cậu lại vừa ở nhà tù ra và cậu làm mất cả thì giờ của mình thôi. Saít phản ứng: - Tóm lại là tôi chỉ còn cách duy nhất là kiếm lấy bất cứ một công việc bẩn thỉu nào chứ gì? - Không có công việc nào là bẩn thỉu, nếu nó trung thực. Sau phút thất vọng, bây giờ lại đến sự đắng cay tràn ngập trong đầu Saít, vậy là chẳng kể gì nữa, anh liếc nhanh gian phòng khách sang trọng: - Tôi thật thú vị khi những người giàu sang chỉ định cho chúng tôi chấp nhận sự nghèo khổ. Thay vì trả lời giáo sư liếc nhìn đồng hồ, Saít tỏ ra tế nhị: - Tôi e rằng đã quá lạm dụng thời gian của anh… - Thực tình đúng vậy, tôi rất bận công việc bù đầu. Raúp đáp lại một cách thẳng thắn, như nắng tháng bảy. Saít đứng lên: - Xin cảm ơn anh về lòng hiếu khách và cảm ơn vì bữa ăn tối và lòng tốt của anh. Raúp rút chiếc ví tiền và lấy hai tờ giấy năm bảng chìa ra cho Saít: - Cậu cầm tạm trong khi chờ đợi mọi sự ổn thỏa, đừng giận mình nếu mình nói là bận bù đầu vì công việc. Thật hiếm khi cậu thấy mình rảnh như chiều tối nay. Anh cầm lấy tiền và mỉm cười. Sau khi đã xiết chặt tay bạn, Saít nói với giọng đầy biết ơn: - Cầu Chúa ban cho anh đầy đủ phước lành. CHƯƠNG IV Vậy là sự thật đã được lột trần. Raúp Êluan chả còn là cái thây thối rữa, cũng chẳng có tí chút bụi nào che đậy nữa. Còn một Raúp Êluan khác thì nó đã thuộc về quá khứ xa xưa giống như mối tình của Nabavigia và tính trung thực của Alixơ. Đừng có quá tin vào cái vẻ ngoài, những lời nói thanh lịch chỉ là đạo đức giả thôi. Mình đã tưởng là nhìn thấy một nụ cười nhưng thực ra chỉ là cái nhếch mép, hay một sự hào hiệp thì sự thực lại là động tác không kiểm soát của bàn tay. Cũng chẳng phải là lịch sự, thằng cha đó đâu có để mình vượt qua ngưỡng cửa của nó. Rồi mi lại quay lui ngay sau khi đã bịa ra đủ chuyện với ta, mi chỉ thay đổi ý niệm của mi sau khi ta đã tiếp nhận chúng và bây giờ thì ta lạc đường, bị mất gốc rễ, phù phiếm và thất vọng. Chao ôi! Sự phản bội ngấm ngầm, dù cho bị chôn vùi dưới ngọn đồi Mukattam vẫn còn tiếp tục bám riết lấy ta. Liệu mi có tự thú về tội phản bội không – dù chỉ nói với riêng ta – hay mi lại tự lừa dối mình như đã lừa dối người khác? Dù là trong bóng tối? Ta rất muốn tìm tòi tâm hồn mi, giống như đã thăm dò nơi ở của mi đầy rẫy những tác phẩm nghệ thuật và các tấm gương, nhưng ta chỉ tìm thấy sự bội phản… Ta đã tìm thấy Nabavigia và Alixơ Xêđơra biến hóa lần lượt thành cả hai chúng mày. Vậy là sự phản trắc đã thú nhận với ta rằng nó chính là ta ương ghê tởm nhất trên trái đất này. Sau lưng ta, chúng trao đổi với nhau những ánh mắt ám muội, lo ngại giống như mọi tham vọng chúng muốn. Tham vọng này giống như con thú dữ bò rạp xuống săn mồi, sẵn sàng vồ một con chim đã gãy cánh. Sự thèm thuồng và tính dâm dục cuối cùng đã thắng, vượt quá liêm sỉ và đạo lý. Và một ngày đẹp trời nào đó, tại một góc phố hẹp, có thể là ngay trong nhà ta, Alixơ đã đưa ra một gợi ý độc ác với Nabavigia rằng: “Tôi sẽ báo cho cảnh sát bắt anh ấy để chúng ta có thể sống yên thân” và mẹ của đứa con gái ta đã im lặng. Đúng thế, cô ấy đã im lặng, chính cô ấy đã tỏ ra luôn luôn sẵn lời tán tụng và những là “anh là người đàn ông tốt đẹp nhất, rằng em yêu anh lắm!”Và chính vì thế mà ta đã bị bao vây trong ngõ hẻm khu Secphi mà ta thì đến quỷ dữ cũng chẳng thể vây hãm được.Rồi người ta đã chửi rủa ta và đánh đập không thương tiếc. Anh cũng thế Raúp ạ, anh đã phản tôi nhưng theo tôi biết thì tội của anh sẽ nặng thêm lên vì anh là người hiểu biết và thông thái. Anh muốn ném tôi vào nhà tù để quay về ngự trị trong lâu đài của anh đầy ánh sáng và gương kính, vậy anh đã quên những diễn văn đẹp đẽ về những lâu đài và những mái lều nát rồi ư? Tôi, tôi không quên được! Khi đi đến cầu Ab-bát, Saít ngồi xuống một chiếc ghế đá và lần đầu tiên anh thức tỉnh về mọi vật chung quanh anh. Bằng một giọng mạnh mẽ và mạch lạc anh tuyên bố, như nói với bóng đêm rằng: “Lòng nhân từ không đợi phải thỉnh cầu, vậy thì hãy đừng để mất thì giờ và hãy lợi dụng ngay hiệu quả của bất ngờ!” Không việc gì phải do dự cả, nghề của anh vẫn là nghề của anh, đó là một nghề cao quý và chính đáng, đặc biệt là khi nó nhằm vào mục tiêu kẻ tự xưng là người cha tinh thần. Sau khi đã giáng đòn trừng phạt vào những bọn sâu bọ ấy ta có cả trái đất để biến đi. Làm sao ta có thể xóa bỏ quá khứ và quên được Nabavigia, Alixơ và Raúp? Nếu có thể quên được thì ta đã cảm thấy nhẹ người và yên ổn hơn, không bị đe dọa đứng dưới giá treo cổ.Nhưng mà khi chưa thanh toán được những món nợ này thì không thể ngồi yên được. Ta sẽ không quên được quá khứ vì lí do rất đơn giản là cái mà mi gọi là quá khứ thì đối với ta là hiện tại. Đòn đánh tối nay sẽ chỉ là mở màn cho sự nghiệp mới của ta và chiến lợi phẩm thu được sẽ ngang tầm cỡ với sự kiện. Con sông Nil chảy lượn lờ, những làn sóng đẫm bóng đêm lấp lánh từ ánh đèn trên bờ. Yên tĩnh ngự trị hoàn toàn và làm dịu lòng người, trong khi các ngôi sao tụt xuống chân trời khi ban mai dần đến. Một lúc sau, anh đứng dậy và vươn vai rồi đi dọc theo bờ sông về nơi anh đã rời bỏ. Saít đi chậm chạp, tránh những vùng ánh sáng do các ngọn đèn đường chiếu xuống lúc gần sáng, và càng tiến chậm hơn khi ngôi nhà lẻ loi hiện ra ở đầu mảnh vườn. Anh chăm chú nhìn đường như một người đi săn rinh mồi: mặt đất, các cánh cửa, bờ sông rồi sau đó mắt anh dừng lại ngôi nhà im lìm được những hàng cây bảo vệ giống như những bóng ma. Sự phản trắc đang thích thú nghỉ ngơi mà nó không có quyền hưởng. Chơi cho cú nảy lửa này để đáp lại sự phản trắc một đời người. Bước đi nhẹ nhàng và tin tưởng, Saít vượt qua đường, mắt quan sát phía trước rồi đi theo dọc tường rào sắt, trong đường hẻm kề liền, căng thẳng và cảnh giác. Sau khi xác định là lối đi không có trở ngại, anh áp sát lẹ làng vào rào sắt rồi đứng im bất động gần những bụi cây hoa tím và hoa nhài. Nếu có một con chó – một con khác với chủ nhà – thì chắc nó đã sủa oăng oẳng rồi, nhưng không có tiếng động nào phá tan sự yên lặng. Raúp, hãy nghe đây… tên học trò của anh đã đến để xóa đi một phần vui thú của anh đây. Anh vượt qua dãy hàng rào sắt nhanh nhẹn như khỉ, không gây ra một tiếng động nhẹ nào trong đám cành khô của những bụi hoa. Bằng sức mạnh của cánh tay, Saít đu người qua các mũi giáo thép của hàng rào rồi trườn xuống phía trong cho đến khi chân chạm vào một cành cây làm anh co người lại, nín thở quan sát động tĩnh phía vườn rậm rạp chìm trong bóng đêm. Bây giờ anh còn phải trèo lên sân trời để tụt xuống bên trong nhà mới có thể định hướng được mà anh thì lại không có đèn bấm, không có đồ tùy thân và cũng chẳng có hiểu biết chút nào về hình thể ngôi nhà. Lần này thì Nabavigia không đi điều tra trước được cho anh với lí do là đến quét dọn hay giặt giũ trong nhà, vì cô nàng lúc này còn đang bận bịu với Alixơ… Saít đấu tranh mãnh liệt để gạt bỏ những ý nghĩ đen tối trong đầu, rồi anh im lặng nằm rạp xuống đất và bỏ về phía biệt thự. Anh đi vòng qua mặt tiền ngôi nhà, lần theo bức tường và phát hiện ra cái ống máng và leo lên như một tay diễn viên xiếc lành nghề. Mục tiêu của anh là sân trời, nhưng khi đến gần một cửa sổ bỏ ngỏ thì anh quyết định tranh thủ thời cơ ngay. Với chân rộng ra anh đặt được lên mép cửa sổ rồi dùng hết lực của đôi cánh tay anh nhích dần ít một và đu mình vào trong cửa sổ. Luồn được vào trong một nơi mà anh đoán là nhà bếp. Bóng tối đen ngòm ngăn cản anh tìm đến một khuôn cửa lớn. Anh lo sợ khoảng đen tối dày đặc trước mặt, nhưng hình ảnh ví tiền của Raúp và những đồ vật quí giá kích thích anh vượt qua. Vượt qua cửa lớn, tay luôn tựa vào bức tương, anh đã lần đi được một quãng khá dài trong bóng tối đen như mực, anh có cảm giác như vượt qua một chướng ngại. Đột nhiên anh cảm thấy có một luồng gió thoáng qua mặt.Từ đâu đến nhỉ? Anh tiếp tục tiến theo sát bức tường nhẵn, cánh tay giơ ra phía trước, bỗng các ngón tay anh chạm phải một chùm dây cò treo những viên bi thủy tinh, gây nên tiếng đọng lách cách làm anh rùng mình. Có lẽ đây là bức rèm, như vậy không còn xa nữa.Anh nghĩ đến bao diêm trong túi, tuy nhiên anh không lấy ra.Anh nhẹ nhàng vén các chùm dây để lách qua rồi lại cẩn thận đặt vào chỗ cũ để tránh gây nên tiếng động của các viên bi. Bước được vài bước về phía trước thì Saít vấp phải đồ vật gì đó giống như chiếc ghế bành nhưng không biết chắc chắn lắm. Bước vòng qua đồ vật đó anh định tìm một ánh sáng, dù nhỏ nhất, để định được hướng đi qua bóng tối mịt mùng. Anh định đánh một que để soi trong một giây… thì đột nhiên anh bị lóa mắt vì làn ánh sáng chói chang vụt ra từ các phía, chùm ánh sáng ấy chụp lấy anh như một quả chùy giáng xuống. Mí mắt anh nhắm nghiền lại vì chói lài và khi mở ra thì Saít thấy Raúp Êluan đứng sừng sững cách anh hai bước. Đúng hai bước thôi, Raúp có dáng như một người khổng lồ với bộ áo ngủ khoác trên người, hai tay thọc trong túi như đang nắm lấy vũ khí, ít ra Saít có cảm giác như thế. Anh thừa nhận thất bại và càng lúng túng trước cái nhìn lạnh lùng và đôi môi mím chặt vì thù hằn và khinh miệt. Và sự im lặng chết người này lại gian khó hơn nhiều so với các bức tường nhà tù, và còn hơn cả tên chúa ngục Áp Rápbô và cái thằng luôn luôn chửi mắng anh. Từ sau lưng, anh nghe thấy tiếng nói lạnh như thép phát ra: - Bây giờ phải gọi cảnh sát chứ ạ? Saít quay đầu lại và nhận ra ba người đầy tớ đứng sắp hàng chờ lệnh. Raúp lên tiếng phá tan sự im lặng để ra lệnh: - Hãy ra ngoài đợi đã. Cánh cửa mở ra và đóng lại sau lưng họ - anh nhận ra chiếc cửa đó bằng gỗ được chạm những hình nổi Ả-rập và có khảm trai một dòng chữ (có lẽ là câu châm ngôn hay một đoạn thánh kinh Coran gì đó). Trở lại với thực tế, anh đối diện với anh mắt nghiêm khắc của Raúp, ông ta trách mắng bằng một giọng khàn khàn: - Giở cái trò này với tôi thật là ngớ ngẩn, tôi biết cậu quá đến thuộc lòng rồi. Saít đứng chết cứng, vẫn chưa hết bàng hoàng. Anh đã chấp nhận sự cam chịu gần như thất vọng, mặc dù anh vẫn cảm thấy lần này còn có thể thoát được như đã thoát ra được bữa trước. - Tôi đợi cậu ở đây, tôi đã dự kiến trước và tôi có thể nói rằng tôi dẫn lối cho cậu vào. Tôi đã từng hy vọng là tôi nhầm, nhưng với cậu thì sự nghi ngờ đã trở thành sự thực. Ông ta quay mặt đi chỗ khác nhìn đâu đó trên sàn, rồi lại ngẩng đầu lên vẻ không vội vàng phá bỏ sự im lặng. - Thật là thất vọng, cậu chẳng bao giờ chịu từ bỏ việc thối tha, cậu sẽ chết trong cảnh thối nát của chính cậu và bây giờ, điều tốt nhất là tôi giao cậu cho cảnh sát. Mi mắt của Saít rung động và đôi môi run rẩy căng thẳng thần kinh. Raúp hỏi anh với giọng cay nghiệt: - Cậu định đến đây là gì? Saít không chịu nổi ánh mắt đó và anh cúi mặt xuống đất. - Cậu làm thế chỉ để thỏa mãn lòng hận thù, cậu quên mất những cái tôi đã làm cho cậu và cậu thu mình trong sự hờn giận cà ghen ghét. Nhưng tôi hiểu những ý nghĩ của cậu cũng như những hành vi của cậu. Vẫn cúi mặt xuống, Saít thì thầm gần như không nghe thấy được: - Đầu óc tôi quay cuồng, chẳng còn sáng suốt gì nữa từ lúc ra khỏi nhà tù. - Cậu nói dối, đừng có tìm cách giễu cợt tôi. Cậu nghĩ rằng tôi đã trở thành một tên tư sản mà trước đây tôi lên án và muốn xử lí tôi như đối với bọn tư sản chứ gì. - Không, không phải thế. - Vậy thì tại sao cậu lại vào nhà tôi? Tại sao cậu lại đột nhập vào để ăn trộm nhà tôi? Saít do dự một lúc lâu trước khi đáp: - Tôi cũng không biết nữa. Tôi ở trong trạng thái không bình thường, nhưng chắc anh chẳng tin đâu. - Chắc chắn rằng cậu biết là cậu nói dối. Tôi đã tìm cách trình bày với cậu nhưng cậu chẳng chịu nghe. Cậu đã thả mình theo tà tâm và lòng kiêu ngạo nên cậu đã một lần nữa lao vào như con thiêu thân, như người mất trí. Đấy lúc này, cậu đã có điều mà cậu muốn, cậu sẽ lại vào tù thôi. Saít thì thào với vẻ nhẫn nhục: - Tôi xin lỗi anh, tôi hãy còn đang sống với tâm trạng còn ở trong tù và trước khi vào tù. - Cậu chẳng xin lỗi đâu, tôi đọc được ý nghĩ của cậu. Tôi đọc được từng câu lướt qua óc cậu không trừ điều gì. Tôi biết hình ảnh thực sự cậu nghĩ về tôi và bây giờ thì đã đến lúc tôi giao cậu cho cảnh sát đấy… Saít chìa tay ra, van xin: - Ấy xin anh, đừng làm thế. - Sao, đừng làm thế? Cậu không xứng đáng thế chăng? - Đúng vậy, nhưng xin đừng làm thế. Raúp, thở dài khó chịu: - Nếu tôi còn gặp cậu lần nữa trên đường của tôi, tôi sẽ nghiền nát cậu như con gián nhé. Saít đã sắp đi, muốn nhanh chóng thoát khỏi sự tệ hại hơn thế, nhưng Raúp đã ngăn lại: - Hãy trả lại tôi số tiền đây! Ánh mắt của Saít khựng lại, rồi anh thò tay vào túi lôi số tiền ra. Raúp giật lấy và ném ra lời cuối cùng: - Này cậu, đừng để tôi trông thấy cậu bao giờ nữa. oOo Saít trở lại khu Cócnisơ bên sông, hãy còn sững sờ vì đã ra thoát hiểm nguy dễ dàng như vậy, nhưng bên trong sự nhẹ nhõm có lẫn cả sự chua xót vì thất bại. Trong lúc hít thở không khí ẩm ướt của bình minh thì anh ngạc nhiên nhận ra rằng anh không thể biết được cái gian phòng anh gặp bất ngờ Raúp là gian nào, anh chỉ còn nhớ là có cái cửa chạm nổi hình vẽ Ả-rập và sàn nhà đánh xi thế thôi. Anh buông thả mình trong sương sớm và tự an ủi mình về sự may mắn vừa qua, kể cả việc mất hai tờ giấy năm bảng. Hướng mắt lên trời anh choáng mắt vì những ánh sáng sao muộn còn sót lại trong buổi sớm tinh mơ. CHƯƠNG V Một vài người khách ngồi ăn nhìn anh chằm chằm không tin vào mắt mình rồi đồng thanh đứng dậy: - Ôi lạy trời, cầu trời phù hộ cho con trên đất này. - Nhờ Đức thánh tiên tri, hôm nay thật là tốt lành và phúc đức! Họ vây bọc lấy anh, người bán cà phê và người hầu bàn đầu tiên chen nhau mà ôm lấy anh và hôn anh. Saít bắt tay họ lần lượt và tỏ lời biết ơn họ: - Ông chủ Tácgiăng ạ, xin cảm ơn, và cảm ơn các bạn. - Nhưng ra bao giờ vậy? - Ngày hôm kia. - Vậy thì chúng tôi có lí do để lạc quan tin vào Đấng Cứu thế. - Lạy Chúa lòng lành. - Thế còn những người khác thế nào? - Họ đều khỏe mạnh cả. Hãy kiên nhẫn, việc đâu có đó. Họ trao đổi với nhau về những tin tức mới nhất, cho đến khi chủ quán kéo Saít ra một góc bàn riêng biệt sau khi yêu cầu mọi người trở lại chỗ cũ của mình thì yên tĩnh mới trở lại trong quán. Không có gì thay đổi khác trước, như là anh mới xa cái quán này hôm qua vậy: gian phòng tròn, các bình rượu bằng đồng, những cái ghế mây, những khách ăn quen thuộc vẫn ngồi đây đó với những chén trà và trao đổi giá cả các món hàng. Qua cửa sổ, người ta cảm thấy sa mạc trải mênh mông trong bóng đêm dày, không có một tia sáng. Im lặng nặng nề trong quán. Một luồng gió khô mát thổi vào trong phòng mang theo cả sức mạnh và sự tinh khiết của sa mạc. Saít cầm lấy chén trà người hầu bàn vừa đưa tới và nâng lên uống một hơi không kịp chờ nguội nước. Anh nghiêng người về phía chủ quán và hỏi: - Bây giờ công việc ra sao, anh? Tácgiăng hơi trên môi dưới: - Bây giờ người ta chẳng còn thể tin ai được nữa, bất cứ ai. - Vậy, tại sao thế, lạy Chúa. - Toàn những bọn ăn hại, người ta tưởng chúng là viên chức làm việc nhà nước cả. Anh buông một tiếng thở dài đầy vẻ giễu cợt: - Bất kể thế nào, một tên ăn hại còn hơn là một tên phản bội. Chính vì một kẻ phản bội mà tôi bị tống vào tù, ông chủ quán ạ. - Xin Chúa hãy bảo vệ chúng ta. Saít nhìn lão chủ quán với đôi mắt dò xét: - Anh không có tin tức gì ư? Người chủ quan lắc đầu vẻ tiếc rẻ và im bặt một cách bướng bỉnh. Saít ghé sát vào thì thầm: - Mình cần một khẩu súng lục, loại tốt ấy. Lão chủ quán Tácgiăng đáp ứng ngay không do dự: - Sẵn sàng ngay thôi. Anh cảm ơn lão bằng một cái vỗ vai mạnh và lúng túng nói: - Nghĩa là tôi không có… Lão chủ quán giơ ngón tay mập mạp lên môi và ngắt lời anh bằng một giọng phiền trách: - Ai lại đi bắt anh phải xin lỗi! Saít uống hết chén nước, lòng thanh thản, rồi anh đứng dậy bước đến bên cửa sổ. Anh đứng đó, dáng thon thả, đương đầu với ngọn gió đang thổi phồng các vạt áo của anh như một cánh buồm. Phóng tầm mắt về phía mênh mông trong đêm tối, anh phát hiện ra những ngôi sao treo trên bầu trời trong veo hệt như một giải cát, làm cho quán cà phê hình như một hòn đảo cô đơn giữa biển khơi hoặc một chiếc máy bay bị treo trên bầu trời… Quán cà phê xây dựng trên một cồn đất, dưới chân cồn chập chờn các chấm lửa thuốc lá của khách đã rời khỏi phòng trà ra ngồi ngoài trời trong bóng đêm để hóng mát và yên tĩnh, trông như các ngôi sao lập lòe. Xa xa, về phía tây, hiện lên những điểm sáng của khu Aphasiết, gợi lên vị trí khác sâu trong sa mạc. Ngả người ra ngoài, Saít nghe rõ tiếng nói của những khách khứa ngồi ở dưới chân cồn đất. Người hầu bàn tiến về phía họ, tay mang cái điếu hút thuốc có than cháy rực sáng bắn các tia lửa ra lách tách. Buổi họp dưới ánh lửa trở nên ồn ào, cười nói và chẳng bao lâu một giọng trai trẻ vẻ đùa cợt cất lên trong đám người: - Ở đây có người nào có thể chỉ cho tôi biết một nơi nào yên tĩnh ngự trị không? Có tiếng một người khác cất lên, thách thức: - Nào, xem kỹ đi, chính nơi này mà lại không yên tĩnh sao? - Đáng buồn là anh lại đưa ra câu hỏi với chính anh… - Tại sao lại cố tình tố cáo những nỗi lo ngại và băn khoăn của chúng ta? Người ta lại không thể quên đi tương lai được ư? - Nhưng tại sao phải thế mới được chứ? Liệu có thể giả định cậu là người đối lập với hòa bình và ổn định không chứ? - Cái đó ấy à, đấy là chuyện riêng tư giữa cậu và tên đao phủ của cậu. - Anh bạn à, nếu anh nói chuyện nhảm nhí với vẻ vô tư đến như vậy chính là vì đang núp trong bóng tối và sa mạc. Nhưng anh sẽ không chậm trễ vào ngay thành phố đâu vậy thì chuyện tào lao như thế có ích gì. - Bi kịch là ở chỗ này cơ, tức là kẻ thù của cậu có thể cùng một lúc là bạn cậu. - Đây phải như vậy, cái bi kịch thực sự là người bạn của cậu đồng thời lại là kẻ thù của cậu. - Nhưng tất cả chúng ta là những thằng hèn nhát, tại sao không thừa nhận như vậy? - Có thể lắm, nhưng trong thời đại chúng ta thì tìm đâu ra sự dũng cảm? - À! Lòng dũng cảm là lòng dũng cảm! - Và cái chết là cái chết! - Bóng tối và sa mạc, là tất cả cùng một lúc! Chuyện trò vớ vẩn thật. Họ muốn nói gì? Tuy nhiên mình có cảm tưởng rằng trong chừng mực nào đó họ nói đúng suy nghĩ của mình. Phải rồi, một cách bí ẩn giống như bí ẩn của đêm tối. Cả chính mình nữa, mình cũng từng có một thời thanh niên sôi nổi. Trái tim say sưa, phấn chấn. Mình đi lùng kiếm vũ khí, không phải để ám sát mà để bảo vệ một lý tưởng. Đằng sau cái cồn cát này, những chàng trai ăn mặc rách rưới bàn về nghệ thuật chiến đấu. Chỉ huy họ là chủ nhân cái ngôi nhà số 18. Ông ta chỉ huy họ, huấn luyện họ và truyền dạy kiến thức cho họ. Với Saít Maran, lúc đó khẩu súng lục quan trọng hơn là bánh mì. Khẩu súng lục còn đáng giá cao hơn cả lễ múa thánh ca mà anh đã từng chạy theo cha đi dự. Có một buổi chiều, cha anh đã hỏi: “Bây giờ thanh niên xứ này cần gì hở Saít?” và trước khi anh kịp trả lời, cha đã tự trả lời rằng: thanh niên cần vũ khí và sách, vậy thì con hãy luyện tập và đọc sách đi. Một lần khác trong khu nhà sinh viên, cha đã nhìn anh và cười chế diễu “Vậy ra con đã ăn trộm à? Con đã thực sự bước qua ngưỡng cửa rồi sao? Hoan nghênh, con đã làm giảm nhẹ tội cho bọn bóc lột đi đấy. Đấy là một hành động hợp pháp, Saít à, đừng có nghi ngờ gì về chuyện đó cả. Từ lúc đó, cả không gian rộng lớn này đã là nhân chứng về tài nghệ của anh. Người ta đã nói rằng anh là Thần Chết hiện thân và tay súng của anh rất chính xác. Anh nhắm mắt thưởng thức không khí trong lành, thốt nhiên có một bàn tay đặt lên vai anh. Quay lại anh nhận ra lão chủ quán chìa ra cho anh khẩu súng lục: - Chúa hãy phù hộ cho khẩu súng này bắn trúng kẻ thù. Saít cầm lấy khẩu súng, xem xét nó và hỏi: - Tôi phải trả anh bao nhiêu, ông chủ quán? - Tôi biếu anh! - Không đâu, tôi chỉ xin anh một điều là cho tôi một thời hạn. - Anh cần bao nhiêu viên đạn? Họ trở lại chiếc ghế băng. Vào lúc họ đi qua chiếc cửa mở, một chuỗi cười của phụ nữ vẳng đến từ ngoài và lão Tácgiăng vui mừng: - Con bé Nua đấy, cậu còn nhớ đến nó không? Saít chăm chú nhìn vào đêm tối nhưng không trông thấy ai. - Cô ta vẫn đến đây ư? - Thỉnh thoảng thôi. Cô ta sẽ vui lắm khi gặp cậu. - Cô ta có đi với ai không? - Chắc rồi… đi với con trai chủ tiệm làm bánh kẹo. Họ cùng ngồi xuống chiếc ghế băng và lão chủ quán gọi người hầu bàn: - Cậu hãy đi tìm cô Nua và bảo cô ấy tới đây, nhưng phải nói cho khôn khéo nhé. Đúng, để cô ta đến để mình có thể nhìn thấy năm tháng đã làm cô ấy thay đổi thế nào, cái cô gái đã từng tìm cách chiếm lấy trái tim mình. Lúc đó trái tim mình lại ở chỗ khác rồi, thuộc về cái con mẹ phản bội mình. Thật không có gì đau khổ bằng trái tim yêu thương lại bị đáp lại bằng thái độ dửng dưng lạnh nhạt của người mình yêu. Không có gì đau đớn ê chề bằng tiếng kêu than của con chim họa mi vấp phải bức tường đá. Không có nỗi đau thương nào khốc liệt bằng một ngọn gió mát vuốt lên một lưỡi cưa sắt cả. Thậm chí những tặng vật cô ta cho mình hồi đó mình lại đem cho Nabavigia Alixơ hết. Anh mân mê khẩu súng trong túi và nghiến chặt răng. Nua hiện ra trước ngưỡng cửa, thật không có gì bất ngờ hơn. Khi nhận ra anh, nàng đứng sững lại kinh ngạc tột độ. Anh đứng nhìn nàng và mỉm cười. Nua trông có vẻ thon mảnh hơn xưa và mặt thì đánh bự phấn. Một chiếc áo váy trắng dán chặt vào thân hình, khiêu khích không cần che giấu để lộ cánh tay và bộ đùi, tóc bay tung trong gió. Bất chợt nàng lao vào anh và đôi tay họ ghì mạnh lấy nhau. - Sáng danh Chúa, anh đã trở về! Rồi nàng cười để giấu niềm xúc động, đứng chen vào giữa lão Tácgiăng và Saít. - Em có khỏe không, Nua? Tácgiăng trả lời vui vẻ thay cô: - Anh trông đấy, Nua lúc nào cũng sáng lạn vì cô ấy tên là ánh sáng mà. Đến lượt Nua trả lời: - Em vẫn khỏe, còn anh? Về sức khỏe thì trông anh vẫn khỏe mạnh và vẫn có dáng đẹp như xưa, nhưng trong mắt anh có cái gì đó? Em biết anh. Khi nào anh giận dữ, em cũng nhận thấy ngay. Saít mỉm cười hỏi lại: - Sao lại như thế nhỉ? - Em chẳng biết nói ra sao cả, mắt anh đỏ ngầu lên và hình như có vẻ đe dọa ở đôi môi. Anh cười to và thì thầm vẻ tiếc rẻ với cô: - Bạn em sắp đến tìm em đó. Cô nàng lúc lắc đầu đáp lại hất mớ tóc vừa xõa xuống che mất mắt: - Anh ta ấy à, anh chàng không biết cái cóc khô gì cả! - Dù sao thì em đã cặp bồ với anh ta. Nua nhìn anh với ánh mắt tinh quái: - Anh có muốn em chôn sống ngay lập tức anh ta trong cát không nào? - Không, không phải trong đêm nay, chúng mình sẽ xem xét sau. Đột nhiên, anh tỏ ra quan tâm: - Này em, người ta nói rằng hắn ta là miếng mồi tốt đấy phải không em? - Vâng, anh ta thường đưa xe đón em đi chơi ở khu Nghĩa trang những người tử vì đạo, anh ta thích những nơi vắng vẻ mà. Trong mắt của Saít thoáng một tia bóng tối nhưng không thoát khỏi mắt cô nàng. Và anh lẩm bẩm như nói với riêng mình: - Anh ta thích nơi vắng vẻ ở khu Nghĩa trang những người tử vì đạo? Hàng mi mắt của Nua chớp chớp khi tia mắt của hai người gặp nhau. Nàng quở trách: - Đấy, anh thấy không lúc này anh chẳng còn nghĩ gì đến em nữa phải không? - Không phải thế đâu, sao cô em lại nói thế? Anh rất gắn với em! - Có thể như vậy, nhưng anh chú ý trước tiên đến “miếng mồi tốt” cơ mà. Anh lẩm bẩm và mỉm cười: - Đấy là một cách nghĩ đến em đó. Cô nàng đâm ra lo lắng: - Nếu anh ta biết rõ sự thực về vai trò của em thì em chết luôn, cha anh ta là người có thân thế và gia đình ấy thực sự đông như một thị tốc đấy. Anh có cần tiền không? - Anh cần một cái xe ôtô hơn là tiền. Rồi Saít đứng dậy vừa nói vừa lấy tay nhẹ nhàng véo má cô nàng: - Đừng giận anh. Sẽ không có gì xảy ra đâu mà em lo lắng và không bao giờ người ta có thể nghi ngờ em được. Anh có phải là tay mới vào nghề đâu, em biết rồi. Và sau đó, chúng ta lại càng có dịp gặp nhau luôn hơn là em tưởng. CHƯƠNG VI Saít né tránh con đường đi dọc theo các doanh trại lính và cắt chéo vùng sa mạc để đến thẳng khu Nghĩa trang những người tử vì đạo cho nhanh chóng. Người ta nói rằng anh có một la bàn ghép sẵn trong đầu vì anh quá thông thạo sa mạc Abatxiê như bàn tay mình. Chẳng mấy chốc anh đã nhìn thấy chỏm hình củ hành của tòa nhà được ánh sao chiếu hắt lên và anh dõi mắt quan sát tìm vị trí chiếc ôtô. Anh đi vòng tòa nhà mộ, đôi mắt sắc sảo vẫn chưa phát hiện ra chiếc xe. Chỉ đến khi đi đến khu phía nam anh mới thấy bóng dáng chiếc xe im lìm gần đó. Anh tiến gần lại, dứt khoát và khi tới gần sát anh ngồi xụp hẳn xuống để khỏi bị phát hiện. Trong khi tiếp cận chiếc xe anh nhận ra có tiếng thì thào rất nhỏ vọng đến. Một trái tim đang sung sướng sắp vỡ và sự hớn hở sắp bị phá tan nhưng không phải lỗi ở ta, anh nghĩ thế. Tình trạng mất trật tự đang dòm ngó chúng ta, treo đầu chúng ta như bầy trời cao. Ngày trước Raúp quen nói rằng ý định của chúng ta là tốt nhưng trật tự làm chúng ta thất bại. Anh đã tới sát chiếc xe và tiếp tục tiếp cận bằng lối bò sát trên đất cho đến khi tay anh với tới tay nắm mở cửa xe. Anh cảm thấy hơi thở của họ phả vào cổ. Bất ngờ anh mở mạnh cửa xe và quát lên: - Không được cử động! Sự kinh ngạc ập đến bất ngờ làm bật lên một tiếng kêu trong xe. Saít nhận ra hai cái đầu nhìn anh kinh hoàng. Anh vung vẩy khẩu súng lục và tàn nhẫn ra lệnh: - Nếu hành động chống lại, tao bắn ngay. Bây giờ ra khỏi xe ngay! Có tiếng của Nua nài nỉ vang lên: - Tôi van xin anh! Còn người trai trẻ bằng một giọng đục và khàn như thoát ra từ dưới cát sỏi lắp bắp: - Tôi… Tôi xin ông, ông muốn gì ạ? - Ra ngay. Nua nhẩy ra khỏi xe, tay vơ vội quần áo cuộn tròn. Người con trai theo sau cô nàng, cố gắng mặc nhanh chiếc quần dài. Saít không cho hắn kịp nghỉ ngơi, dí sát khẩu súng lục vào chàng trai làm hắn nức nở: - Ấy không… không, đừng bắn. Saít quát lên: - Tiền đâu? - Trong áo còn trong xe. Saít đẩy Nua vào trong xe: - Vào xe, lấy ra đây… Nua vào trong xe vừa rên rỉ nhắc lại: - Tôi xin anh, cho tôi đi. - Đưa đây… Saít giật lấy cái áo mà cô nàng đưa và nhanh chóng rút lấy chiếc ví rồi ném chiếc áo cho chàng trai: - Cho một phút để chạy biến đi khỏi mắt tao! Chàng trai biến mất vào trong bóng đêm như một thiên thể. Saít nhẩy vội vào tay lái, nổ máy và cho ôtô vọt đi. Nua cũng mặc xong quần áo và reo lên: - Anh làm em sợ quá, khiếp quá như bị bất ngờ thật sự. Vừa phóng xe thật nhanh Saít vừa bảo Nua: - Hãy uống một tợp rượu để lấy lại bình tĩnh. Cô nàng lấy chai rượu và đưa cho anh, anh nuốt một ngụm rồi trả lại chai rượu. Bắt chước anh, cô cũng uống một ngụm rồi thì thào: - Khốn khổ anh chàng, sợ chết khiếp. - Em có lòng tốt quá, còn anh thì không ưa những ông chủ nhà máy. Cô nàng ngồi thẳng người lại trên đệm và nói với anh vẻ rất điệu: - Thực ra thì anh chẳng yêu ai hết. Ngại rằng sẽ bị cuốn vào một câu chuyện tình, anh không trả lời gì cả. Cô nàng nhận ra rằng chiếc xe đang lao về phía khu Abatxiê và đâm hoảng: - Chết, họ sẽ nhìn thấy em đi với anh! Đó chính là điều Saít đang nghĩ đến và quyết định tạt sang phải để đi theo con đường hẻm dẫn đến Đaratxa. Anh giảm bớt tốc độ và bảo cô: - Em hãy nhớ rằng anh đã đến quán cà phê của Tácgiăng để kiếm một khẩu súng lục và định tìm một tay lái taxi trong đám anh em trong băng. Em thấy đấy, chiếc xe này đã vào tay anh như rơi từ trên trời xuống chứ. - A! Anh làm gì được nếu không có em? - Anh sẽ thất bại… em thật tuyệt vời. Sao em lại không làm diễn viên kịch nhỉ? - Nhưng anh biết không, ngay lúc này, em rất kinh sợ. - Và sau đó? - Em hy vọng rằng em đã đóng vai của em tốt đấy chứ, nếu không hắn ta sẽ nghi ngờ em. - Cậu ta chẳng còn đầu óc nào nghi ngờ bất cứ ai đâu. Nua quay đầu về phía anh: - Tại sao anh lại cần một khẩu súng và chiếc xe ôtô? - Vì lí do cá nhân thôi. - Lạy Chúa. Anh ra tù từ bao giờ vậy? - Hôm kia. - Và anh đã hành động trở lại ngay à? - Còn em, em có thể dễ dàng đổi thay nghề không? Cô nàng không nói gì cả và nhìn con đường tối om chỉ có ánh đèn pha chiếu sáng. Từ khúc ngoặt, ngọn núi đã gần kề con đường và có vẻ như vạch một mảng đêm đen như mực. Nua dịu dàng nói với anh: - Anh không thể nào biết em buồn như thế nào khi được tin anh bị đưa vào tù. - Như thế nào? Nàng phật lòng: - Khi nào thì anh thôi những trò chế diễu đi? - Nhưng anh rất nghiêm chỉnh đấy chứ, và anh tin chắc em nói thật từ đáy lòng. - Thế còn anh, anh thì chẳng có trái tim đâu. - Chúng đã tịch thu trái tim của anh từ trong tù, theo điều quy định như vậy. - Thực ra thì anh làm gì có đâu, khi vào tù? Tại sao lại sa đà vào chuyện trái tim. Ta phải hỏi con đàn bà không chung thủy, hãy hỏi bọn chó má, hay hỏi con gái mình đã chối bỏ ta. - Một ngày nào đó, chúng ta sẽ tìm thấy trái tim. - Thế tối nay anh sẽ ngủ ở đâu? Vợ anh có biết anh đang ở đâu không? - Làm gì biết được. - Anh sẽ về nhà em chứ? - Không đâu, dù sao cũng không phải tối nay. Cô nàng van xin anh: - Anh về nhà em đi. - Em ở một mình sao? - Em ở phố Nêmêtđin, sau nghĩa trang Báp El Nátx. - Số nhà bao nhiêu? - Cả phố chỉ có một cái nhà duy nhất đó thôi, anh sẽ thấy. Phía dưới có một cái chợ bán đay và phía sau là nghĩa trang. Saít bật cười to: - Quả thực đây là một cảnh địa độc đáo. Cô nàng cười hiền lành và thêm: - Không ai biết em ở đó và không ai đến thăm em cả. Anh sẽ là người đàn ông đầu tiên đến thăm nó. Nhà em ở tầng một. Cô nàng chờ đợi câu trả lời của anh nhưng chàng lại chú ý đến con đường đang thu hẹp lại, từ nhà của Giáo trưởng Ali Ghêniđi, giữa triền núi và khu cư dân. Đến gần ngoại vi khu Đarátxa, anh dừng xe lại và quay lại phía cô nàng: - Anh nghĩ là em nên xuống ở đây thôi. - Anh không đến với em ư? - Anh sẽ đến sau. - Anh định đi đâu lúc đêm khuya khoắt này. - Em, hãy đi đến sở cảnh sát ngay, nói cho họ biết việc vừa xẩy ra như thật, giống như em không biết gì cả. Em sẽ tả những dấu hiệu ngược hoàn toàn với nhận dạng của anh, nghĩa là một người có dáng béo lùn, da trắng, có một vết sẹo ở má phải. Nói với họ rằng anh đã bắt cóc em và anh đã trấn lột hết của nả của em trước khi hiếp em. - Hãm hiếp em? Anh vẫn tiếp tục, không thay đổi và thản nhiên: - Và mọi việc đã xảy ra ở sa mạc Danh-hôm và anh đã vứt em ra khỏi ôtô và sau đó phóng xe chạy mất. - Đúng là anh sẽ đến thăm em chứ? - Đúng thế, lời hứa chắc chắn của người đàn ông. Em tin rằng em có thể đóng vai của em tại sở cảnh sát cũng giỏi như trong xe ôtô chứ? - Hãy tin ở Chúa trời. - Tạm biệt em. Và anh phóng xe đi. CHƯƠNG VII Cú đánh bậc thầy sẽ là diệt cả hai đứa Nabavigia và Alixơ cùng một lúc. Sau đó, ta sẽ thanh toán với Raúp Êluan và rồi chỉ còn có việc đi trốn, chuồn thật xa, ra nước ngoài là hay nhất. Nhưng vậy thì có gì còn lại cho Sana con gái ta? Cũng là cái gai cắm vào tim ta nữa đấy. Mình đã lao vào không suy nghĩ và hành động không tính toán trước. Mình phải có thời gian, phải vạch một kế hoạch tỉ mỉ trước khi lao vào con mồi như một con chim ưng. Nhưng làm sao mà chờ đợi được. Mình đang bị truy lùng. Mình bị truy lùng từ khi họ biết mình đã được trả tự do. Và cuộc truy bắt người càng tăng thêm với lớp kịch cướp xe ô tô. Cái thằng con chủ nhà máy chỉ có vài tờ bạc còm trong ví thôi, thật không may cho mình. Nếu không giáng đòn xuống ngay thì e bị chậm trễ. Nhưng ai sẽ ở lại với Sana? Cái gai cắm trong trái tim ta đây. Mình vẫn yêu quý con mặc dù con gái đã chối bỏ ta. Có phải vì con mà ta đã tha thứ tội phản bội của mẹ con không? Mình cần có giải pháp ngay tức khắc. Saít vừa suy ngẫm vừa lượn quanh khu nhà hiện rõ trong đêm, nơi mà phố Inman chia thành hai nhánh hẹp. Anh đã để xe ở đầu phố đằng kia, phía quảng trường Thành cổ. Các cửa hiệu đã đóng cửa và đường phố hoàn toàn hoang vắng. Rõ ràng không ai dự kiến chuyến viếng thăm này của anh. Vào giờ này, những sinh vật của Chúa Trời đã ẩn náu trong hang ổ của mình, không hề lo lắng đến một kẻ thù nào mò đến thanh toán nợ nần cả. Có thể thằng cha kia đang còn đề phòng, nhưng mình quyết tâm không thay đổi, dù cho Sana có phải chịu phận côi cút. Bởi vì đó là sự phản bội ghê tởm, giáo sư Raúp ạ. Tay nắm chắc khẩu súng ngắn trong túi, anh đưa mắt theo dõi các cửa sổ. Sự phản bội thật đáng ghê tởm, mày biết không Alixơ. Và để cho những người đang sống có thể thưởng thức được sự yên bình thanh thản thì trước tiên phải nhổ hết cỏ dại trong vườn đời đi. Anh sáp lại gần cửa lớn men theo tường và bước vào nhà. Anh lên cầu thang rất thận trọng. Tầng một, tầng hai rồi cuối cùng tầng ba. Chiếc cửa đây, chiếc cửa khép kín những ý định xấu xa nhất và những ham muốn hèn hạ. Ai sẽ ra mở cửa nếu mình gõ cửa nhỉ? Có thể là Nabavigia chăng? Tên cảnh sát có còn ẩn rình đâu đó để sẵn sàng lao vào ta không? Thần chết thường chờ đợi những tên tội phạm. Nhưng dù có phải đột nhập vào nhà bằng vũ lực thì cũng phải vào ngay. Mình để cho Alixơ sống thêm một ngày trong khi Saít đã được trả tự do thì thật là một tội lỗi. Và chắc chắn mình sẽ trốn thoát, không suy suyển chút gì như mọi lần trước thôi. Giống như mình có thể đột nhập vào nhà trong vài giây, có thể nhảy từ gác ba xuống mà không hề xây xát hoặc mình có thể bay đi nếu mình muốn. Chẳng có việc gì hay hơn là gõ cửa nhưng chắc có thể gây sự hoài nghi, nhất là vào giờ này, và Nabavigia sẽ đánh thức cả khu phố này vì những tiếng tru tréo của cô ta, và bọn người dơ dáy sẽ kéo đến, tên cảnh sát sẽ chồm đến. Vậy thì phải phá cửa thôi. Ý nghĩ này đã phảng phất trong đầu anh từ lúc còn trong xe nhưng anh đã gạt đi lúc đó. Bây giờ anh rút súng ra khỏi túi và đập báng súng vào tấm kính cửa ra vào, tiếng kính vỡ loảng xoảng giống như một giọng khàn khàn trong đêm khuya yên tĩnh. Anh nép mình vào bên cửa, chĩa họng súng vào trong nhà chờ đợi, tim đập mạnh, mắt chăm chú nhìn vào bóng tối gian tiền sảnh. Đột nhiên, một giọng nói vang lên: Ai đó? Một giọng đàn ông, giọng của Alixơ, anh đã nhận ra mặc dù máu anh sục sôi, đập thình thịch nơi vành tai. Bên trong nhà hiện ra một bóng đàn ông tiến ra thận trọng trong ánh sáng mờ mờ. Saít kéo cò súng, tiếng nổ phát ra như tiếng quỷ dữ trong đêm. Người đàn ông kêu lên một tiếng và loạng choạng. Saít bắn tiếp phát thứ hai trước khi anh ta đổ sụp xuống đất. Ngay lúc ấy người ta nghe thấy tiếng hét sợ hãi, một tiếng kêu cứu vô vọng. Đó là Nabavigia. Anh quát lên: “Sẽ đến lượt mày, không thoát được tao đâu, tao là quỷ dữ”. Saít quay lưng lại chạy trốn, phóng nhanh qua cầu thang vài giây đã tới cửa. Dừng lại để xác định là không có ai, anh vọt ra ngoài và từ từ đi theo dọc các bức tường. Chẳng mấy chốc anh đã nghe thấy tiếng các cửa sổ mở, những câu hỏi trao đổi và tiếng gọi nhau bí hiểm. Đi đến chỗ để xe ở đầu phố anh mở cửa chui vào xe. Lúc đó anh mới nhận ra viên cảnh sát đang từ quảng trường chạy tới nơi có tiếng động ồn ào. Anh nằm rạp ngay xuống sàn xe, trong khi viên cảnh sát chạy lướt qua về phía có tiếng động. Saít chờ cho tiếng chân bước đã xa mới thật trọng ngồi dậy, luồn đến bên tay lái và cho xe lao đi. Anh lượn vòng qua quảng trường không vội vàng, tai hãy còn bị ám ảnh vì những tiếng la hét chửi rủa vang lên phía sau. Sự sợ hãi làm anh lái xe như một người máy. Tên giết người! Đừng có quen Raúp Êluan, kẻ phản trắc tinh vi hơn, quan trọng hơn là Alixơ Xêđơra và cũng nguy hiểm hơn. Tên giết người, bây giờ mình là tên giết người, một quốc tịch khác và một số phận mới. Mình đã chiếm đoạt những đồ vật quý giá nhất và bây giờ mình lại tiếm đoạt những linh hồn hèn hạ nhất. Sẽ đến lượt mày, không thoát được ta đâu, ta là quỷ dữ. Nhờ có Sana, mà mạng mày được thoát nhưng ta sẽ cho mày hưởng hình phạt độc ác hơn cái chết: nỗi lo sợ bị giết chết, sự lo lắng thường trực. Chừng nào ta còn sống thì mày sẽ không biết đến thú dịu dàng khi nghỉ ngơi. Chiếc xe đang xuôi xuống phố Môhamết Ali, còn anh vẫn tiếp tục lái như người máy, không biết mình sẽ đi đâu. Vào lúc này tên của kẻ giết người chắc chắn đang ở miệng lưỡi mọi người và vì vậy cần phải biến đi, lánh xa máy chém đang chờ tên giết người. Đừng cho tên đao phủ có hoàn cảnh để hỏi mình rằng mình còn mong muốn cuối cùng gì không. Chưa đến thời mà nhà chức trách có thể ân xá tội phạm về việc này. Nhanh chóng tỉnh trí lại, anh nhận ra rằng xe đang đi gần tới đại lộ QUÂN ĐỘI đổ thẳng đến khi Abátxiê, và anh cảm thấy một thoáng lúng túng giật mình về việc mình lại tự nhiên quay xe trở lại nơi nguy hiểm. Anh nhấn mạnh ga và chẳng mấy chốc đã vào khu vực Manchidét en Bácri. Anh dừng xe ngay đầu phố, bình tĩnh xuống xe chẳng nhìn ai, từ từ đi bộ như người đang đi dạo chơi. Lần đầu tiên anh cảm thấy mệt mỏi vô cùng, rồi tiếp đến là nỗi đau đớn có lẽ do thần kinh quá căng thẳng vừa qua. Bây giờ anh chẳng còn nơi ẩn náu nào. Không còn nơi nào nữa, không còn. À cô Nua? Nhưng nếu đến cô ta là không thận trọng, nhất là vào đêm nay là lúc người ta bắt đầu điều tra, xét hỏi và nghi vấn. Những bóng tối mịt mùng sinh ra để ngự trị, cho đến tận cùng thời gian. CHƯƠNG VIII Khi đến nhà của Giáo trưởng, ông đẩy cửa bước vào, cửa không đóng. Sau khi khép cửa lại, anh trở về với mảnh sân có cây cọ như bắt rễ vào không gian, đến tận các ngôi sao đang lấp lánh trên cao. Anh tự bảo đây chính là nơi ẩn náu giấu mình lý tưởng. Gian phòng của Giáo trưởng chìm trong bóng tối đêm khuya vẫn ngỏ cửa ngày đêm như thường lệ. Hình như nó vẫn chờ anh. Anh nhẹ nhàng bước tới và cảm thấy tiếng thì thào nho nhỏ mà anh chỉ thoáng đoán là tên thánh Ala. Dừng lại nơi ngưỡng cửa, anh ngắm nhìn Giáo trưởng đang tiếp tục cầu nguyện như không trông thấy gì - hay là người ta không muốn nhận ra anh có mặt. Saít đi vào góc bên trái, gần những tập sách của anh và buông mình xuống chiếu, bộ com-lê không cởi cùng với giày và súng ngắn, rồi duỗi thẳng chân và hoàn toàn rã rời. Anh nằm ngửa ra, tay đỡ lấy gáy. Cái đầu của anh réo lên như một bọng ong, nhưng là thế nào được? Hay là mình lại muốn nghe thấy tiếng súng nổ, tiếng la nức nở của Nabavigia và vui mừng vì không nghe thấy Sana kêu lên một tiếng nào. Thôi tốt hơn là vào chào Giáo trưởng nhưng cũng chẳng còn hơi sức nữa. Anh đã mất cả giọng một cách bất ngờ, giống như biển khơi đã nhận chìm nó vậy. Chính mình đã tưởng rằng sẽ ngủ thiếp đi khi vừa đặt lưng xuống đất! “Một cuốn sách làm sởn da những kẻ nào e sợ Chúa, rồi làn da cùng trái tim họ sẽ dịu đi mỗi khi nhắc đến tên Chúa.” (trích kinh Coran). Con người kỳ lạ này không bao giờ ngủ sao? Đúng lúc đó, con người kỳ lạ ấy cất tiếng hát với một giọng cao hơn thường lệ: “Lời cầu xin nóng bỏng và đam mê của con để gặp Đấng cao cả đã không đáng kể! Nếu lời cầu xin đã không được đáp ứng bằng những dấu hiệu về sự hiện hình của NGƯỜI!” Giáo trưởng lại tiếp tục, lần này mạnh mẽ vang động cả gian phòng: “Mắt và trái tim chúng con đã mở rộng, trong khi mí mắt chúng con đã khép lại rồi”. Saít cũng cố gắng nhếch được một nụ cười mặc dù đã rã rời: à ra vì thế mà Giáo trưởng không ý thức được sự có mặt của ta. Nhưng chính ta cũng chẳng có ý niệm về chính mình. Bỗng nhiên lời kêu gọi cầu nguyện lại vang lên trong không khí yên lặng và thanh bình của đêm khuya. Anh lập tức nhớ lại một đêm trước mất ngủ làm anh thức suốt cho đến khi có lời gọi nhắc nhở cầu nguyện, tâm trí bị kích thích về hạnh phúc sẽ đạt được ngày mai, niềm hạnh phúc mà anh đã quên ý nghĩa của nó. Anh bèn ngồi dậy, thoải mái vì đã chấm dứt giấc ngủ không yên và đau khổ - Anh ngắm nhìn qua cửa sổ ánh sáng xanh nhạt của ban mai và tia nắng mặt trời vừa ló dạng, anh xoa tay, lòng vui vui vì hạnh phúc mong muốn mà anh đã quên từ lâu ý nghĩa. Vì thế anh ưa thích buổi bình minh vì nét dịu dàng, vì ánh nắng xanh nhạt của nó, anh yêu nỗi vui và hạnh phúc đã quên lãng. Lại một lần nữa anh đứng trước bình minh của một ngày nhưng anh mỏi mệt quá, không thể cử động cũng như không thể ngồi yên. Giáo trưởng đứng lên để cầu kinh và châm đèn nến, không chú ý gì đến anh cả. Ông kéo dài chiếc thảm cầu kinh, đứng lên trên và cuối cùng hỏi Saít: - Con không cầu kinh buổi sáng ư? Anh chẳng còn đủ sức trả lời. Giáo trưởng bắt đầu đọc kinh và Saít cũng nhanh chóng thiếp đi. Trong giấc mơ, anh thấy mình trong tù và người ta quất roi lên người anh mặc dù anh xử sự đúng mực. Anh hét lên không cần giữ gìn và cũng chẳng chống cự. Anh mê thấy rằng sau khi đánh anh, họ cho anh uống sữa. Anh trông thấy Sana lao vào quất roi mạnh mẽ vào Raúp Êluan trong buồng cầu thang. Anh nghe thấy những câu kinh thánh Coran thánh thót, có lẽ có đám ma nào đó. Rồi anh lại thấy mình bị truy đuổi bằng xe ô tô rất gắt, trong khi vì xe anh hỏng máy phải đi chậm lại và buộc anh phải nổ súng về mọi hướng có những kẻ truy bắt anh. Bất ngờ Raúp hiện ra từ trong xe ô tô điện đài, chụp lấy cổ tay anh, khóa tay anh lại trong khi anh chưa kịp hạ Raúp và bị tước vũ khí. Lúc ấy, Saít kêu to lên: “Hãy giết tôi đi nếu muốn, còn Sana con gái tôi vô tội. Không phải nó quất roi vào anh đâu, mẹ nó đấy! Nabavigia đã quất roi vào anh theo lệnh của Alixơ Xêđơra.” Rồi anh mê thấy tham gia vào vòng múa hát thánh ca ZIKR do Giáo trưởng điều khiển để trốn tránh bọn truy lùng anh. Nhưng giáo trưởng Ali làm như không biết anh, hỏi anh là ai, tại sao lại vào chỗ này của chúng ta? Anh trả lời anh là Saít Maran, con trai lão Maran già, tông đồ của Giáo trưởng và nhắc nhở lại cây cọ dầu và những chuyện cũ xa xưa. Giáo trưởng lại hỏi anh thẻ căn cước, làm cho Saít rất ngạc nhiên, anh trả lời rằng tín đồ đi lễ không cần đến thẻ căn cước và tôn giáo không phân biệt kẻ phạm tội với kẻ không phạm tội. Giáo trưởng đã khẳng định với anh rằng nếu Người hỏi thẻ căn cước của anh là để xác minh có đúng anh là người phạm tội hay không, vì người khinh ghét những kẻ không phạm tội. Saít đã đưa cho Giáo trưởng khẩu súng lục và nói rằng mỗi viên đạn đã có một xác chết ở trong, nhưng Giáo trưởng vẫn kiên trì đòi xem giấy căn cước với lý do đó là luật lệ của chính phủ. Điều này càng làm cho Saít sững sờ vì chính phủ có dính gì đến tôn giáo. Vậy là Giáo trưởng nói rằng đó là để thực hiện đề nghị của giáo sư vĩ đại Raúp Êluan, người ứng cử viên vào chức Giáo trưởng tối cao. Điều này lại làm cho Saít sửng sốt lần thứ ba và phản ứng lại rằng Raúp chẳng phải là gì khác, chính là tên phản bội chứa chất âm mưu tội phạm. Nói đến đó thì Giáo trưởng lại trả lời rằng chính vì lý do đó mà người ta đã đề nghị Raúp vào ứng cử chức vị quan trọng ấy. Và Raúp đã hứa sẽ giải thích lại kinh thánh Coran thần thánh bao gồm cả việc sẽ in bán cho mọi người với giá hợp với túi tiền mỗi người. Tất nhiên là tiền thu được từ những cuốn Kinh thánh ấy sẽ dùng để lập ra những câu lạc bộ giải trí, nơi đó có thể sử dụng vũ khí, săn bắn và tự sát nữa. Saít tuyên bố là sẵn sàng nhận chân thủy quỹ của Ban lãnh đạo giải thích lại kinh thánh và anh tin rằng Raúp sẽ tin cậy bảo lãnh cho anh, một trong số những người học trò cũ có tài nhất. Đến đấy thì Giáo trưởng đọc đến đoạn kinh ca ngợi thắng lợi, mọi người treo đèn lồng lên thân cây cọ và người lĩnh xướng gào lên: “Sung sướng thay, dân tộc Ai Cập, vì vương quốc Al Hatxan đã thuộc về các người…”. Saít mở mắt ra, bừng tỉnh với thế giới thấm đậm tia sáng tím ngắt, trống rỗng và vô nghĩa. Rồi anh trông thấy Giáo trưởng ngồi xếp chân bằng tròn, sáng lóa trong mầu trắng như tuyết của bộ quần áo choàng rộng, mũ đội đầu và chòm râu bạc. Việc Saít giật mình thức giấc làm ông chú ý và chăm chú nhìn anh dịu dàng. Saít vội vàng ngồi dậy và nhìn Giáo trưởng như muốn xin lỗi Người, trong khi những kỷ niệm xa xưa tràn ngập trí nhớ của anh. - Đã trưa rồi và con chưa ăn uống gì cả… Saít nhìn qua cửa sổ, rồi lại nhìn Giáo trưởng và thầm thì vẻ còn ngây ngất: - Ôi, trưa rồi! - Đúng vậy, ta tự bảo hãy để cho con ngủ. Chúa Trời sẽ dẫn dắt các đứa con của Người theo cách Chúa cho là thích hợp. Anh đâm ra lo ngại. Nếu có một kẻ nào đó đã trông thấy anh đang ngủ giữa ban ngày thì sao? - Trong giấc ngủ của con, con có cảm giác rằng có rất nhiều bước chân đi lại. - Con chẳng cảm thấy gì đâu. Tuy nhiên ta có thể nói cho con biết rằng có người đã đến mang cơm lại cho con, một người khác đã đến tưới cho cây vả và cây cọ, quét dọn các nơi, rồi trải chiếu ngoài sân để chuẩn bị cho tín đồ đến làm lễ. Saít bất ngờ chú ý đến điều đó: - Thưa tôn sư, bao giờ thì họ sẽ đến? - Chiều tối họ sẽ đến. Này con, có điều gì xảy ra cho con thế? - Dạ, sáng nay lúc bình minh… Saít ngồi im lìm không nói. Giáo trưởng vuốt chòm râu và thì thầm: - Con thật đau khổ, con ta ạ. Anh vội hỏi lại vẻ lo lắng: - Dạ, làm sao tôn sư lại biết điều đó ạ? - Con đã ngủ dài vậy mà con không được nghỉ ngơi, như đứa trẻ bị bỏ rơi trong mùa nóng bức, và trái tim con nóng bỏng thèm khát sự dịu mát của bóng rợp nhưng lại bướng bỉnh cứ tiếp tục đi trong nắng lửa mặt trời, vậy con đã tập đi chưa? Saít dụi đôi mắt đỏ ngầu: - Dạ, con thấy ngượng vì khi ngủ bị người ta quan sát. Giáo trưởng vẫn thản nhiên đáp lại: - Nếu con tìm cách thoát khỏi chân lý thì chân lý sẽ thoát khỏi con đó. Anh nhẹ nhàng đưa tay sờ vào bao súng lục và tự hỏi không biết Giáo trưởng sẽ làm gì nếu anh chĩa súng vào Người. Ở trên đời này liệu có cái gì có thể làm rối sự yên bình đến khó chịu kia không? Giáo trưởng lại hỏi anh: - Con không đói ư? - Dạ không. Giáo trưởng mỉm cười đáp lại; - Nếu con cầu xin Chúa che chở trong những lúc khó khăn, hẳn là NGƯỜI sẽ đáp lời. - Có thể như thế! Rồi liền sau đó anh hỏi với vẻ tinh quái: - Thưa tôn sư, Người hãy nói cho con biết người sẽ làm gì nếu số phận dành cho Người một người đàn bà như vợ con và một đứa con gái để chối bỏ Người? Một ánh thương hại thoáng trên đôi mắt trong sáng của Giáo trưởng: - Các sinh vật thuộc về Chúa Trời và chỉ có thuộc về NGƯỜI định đoạt. Mình phải cắt lưỡi mình đi trước khi nó phản mình và xưng hết tội lỗi. Mình muốn cung xưng hết tội của mình với Giáo trưởng lắm rồi. Cũng có thể là người chẳng cần đến, có thể là Người đã trông thấy ta nổ súng, có thể Người còn nhìn thấy nhiều hơn thế. Dưới cửa sổ vọng đến tiếng rao của người bán báo về những tin mới nhất của tờ báo Abun Hôn. Anh chìa một đồng bạc qua cửa sổ và quay lại với tờ báo, hoàn toàn quên hẳn Giáo trưởng. Mắt anh bám lấy dòng chữ tít bằng chữ to đậm: “Vụ ám sát khủng khiếp ở khu Thành cổ” và đọc ngấu nghiến bài báo như điên. Anh không còn hiểu ra sao cả. Có phải là một vụ ám sát khác chăng? Nhưng không, đây chính là ảnh của anh, của Nabavigia và một ảnh nữa của Alixơ. Nhưng nạn nhân đâu? Sau đây là câu chuyện phơi bày trước mắt anh, đây là vụ bêu diếu lan tràn như bụi cát mà ngọn gió đưa từ sa mạc đến: “Một người đàn ông ra khỏi nhà tù phát hiện ra rằng vợ anh ta đã lấy một người vốn là trợ thủ của mình. Nhưng anh ta phải tìm xem ai là nạn nhân và viên đạn đã bán vào tim mình như thế nào. Nhưng nạn nhân lại là người anh ta không hề quen biết bao giờ…”. Mình phải đọc lại mới được. Alixơ và Nabavigia đã rời ngôi nhà ngay hôm mình đến thăm, với sự có mặt của viên cảnh sát và tay chân của Alixơ. Một gia đình khác đã đến ở tại đó. Hình như gia đình này đã phải trả cho họ một món tiền hoa hồng nữa. Tiếng nói mà mình đã nghe thấy té ra không phải là tiếng của Alixơ. Những tiếng nức nở hóa ra không phải của Nabavigia. Cái thân xác đổ sụp xuống không phải là Alixơ mà một người nào đó tên là Chaban Hátxanh, nhân viên của một hiệu bán đồ sắt tại đại lộ Môhamết Ali. Saít Maran đến đó vì ý định giết vợ và người bạn cũ, nhưng đã giết nhầm Chaban. Một người láng giềng của Alixơ tuyên bố đã trông """