"Tây Vực Liệt Vương Ký - Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tây Vực Liệt Vương Ký - Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo 81 ÁN TÂY DU - TẬP 02 TÂY VỰC LIỆT VƯƠNG KÝ –★– Tác giả: Trần Tiệm Người dịch: Lucia Nanami Phát hành: Tsuki Trinh Thám Nhà xuất bản Thế Giới 2019 ebook©vctvegroup 19-01-2021 Lời dẫn 1 Công Nguyên năm 628, Đại Đường năm Trinh Quán thứ hai. Mùa xuân tháng Hai. Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II). Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng. Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc. Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9] (Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường. Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra. Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này. Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng. Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ! Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (⼤). Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi. Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14] (Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu. “Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”. Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”. “Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.” Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV). “Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại. “Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”. Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệ đã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”. “Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”. “Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư. “Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”. “Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”. Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt. Lời dẫn 2 Năm Trinh Quán thứ ba, mùa thu tháng Tám. Một năm nay, Trường An chìm trong sương giá, vụ mùa thất bát, bao trùm lấy Đại Đường ở trước thời thịnh thế của triều Trinh Quán khi ấy là một màn trời âm u, mù mịt. Đầu tháng, triều đình chiếu lệnh, nạn dân có thể tự do di chuyển, tìm đến nơi được mùa để kiếm ăn. Huyền Trang khi ấy đã ba mươi tuổi, lưng đeo rương gỗ và bọc hành lý, ngài trà trộn vào đám nạn dân, đi lại trong thành Trường An. “Đại sư, ngài phải đi xa sao?” Đi qua trước sạp bói của họ Hà kia, thầy bói Hà Hoằng Đạt mỉm cười hỏi thăm ngài. Huyền Trang nhận ra người này, vị thầy bói tiếng tăm lẫy lừng trong thành Trường An, danh tiếng sánh ngang với sĩ lang Lý Thuần Phong[18] và quan huyện lệnh của huyện Hỏa Tỉnh[19] là Viên Thiên Cang[20], bói toán dự đoán không gì không trúng. Trong lòng Huyền Trang chợt xao động, bèn chắp tay thi lễ: “Bần tăng đang muốn đi về phía tây, đường đi xa xôi trắc trở khôn cùng, không biết có đi được hay không?” Hà Hoằng Đạt trầm mặc nhìn ngài, bàn tay khuất dưới lần vải ống tay áo nhanh chóng bấm đốt tính quẻ, đột nhiên thở dài nói: “Lần này đại sư đi, xa xôi vạn dặm, lộ trình tuy có hiểm trở, nhưng cũng có thể vượt qua được. Khi đi, ngài sẽ ngồi trên một con hồng mã vừa già vừa gầy. Trước yên ngựa có sắt!”. Huyền Trang vô cùng vui sướng, chắp tay cảm tạ Hà Hoằng Đạt, từ thành tây ra khỏi cổng Kim Quang, chen lấn trong dòng người chạy nạn đi về phía tây bắc. Nửa tháng sau, Huyền Trang tới Lương Châu. Lương Châu được xưng là “Tứ Lương cổ đô, Hà Tây đô hội”[21] (xưa là cổ đô bốn nhà Tiền - Hậu - Nam - Bắc Lương, sau là đô thành chấn thủ Hà Tây), một đường thông thẳng tới sa mạc rộng lớn, là vị trí hiểm yếu khống chế năm quận. Trên Con đường Tơ lụa lúc nào cũng có các thương lữ Hồ Hán qua lại giao thương, Huyền Trang lúc này đã nổi danh thiên hạ, các tăng nhân và dân chúng Lương Châu nghe nói đại sư Huyền Trang Tây du cầu pháp ngang qua nơi này, hết thảy đều ngưỡng mộ danh tiếng mà nhiệt thành tiếp đón, thế nên Huyền Trang đã nán lại nơi đây một tháng, khai đàn giảng kinh. Những thương nhân người Hồ Tây Vực nghe nói Huyền Trang muốn Tây du đến Thiên Trúc, đường đi hẳn phải ngang qua nước mình, bèn nhân cơ hội về nước mà bẩm báo với quốc vương. Huyền Trang còn chưa xuất quan thì danh tiếng của ngài đã nhanh chóng lan xa tới các quốc gia ở Tây Vực rồi. Các quốc vương liên tục ra lệnh cho đám thương khách dọc đường thăm dò hành tung của đại sư Huyền Trang. Nhưng lúc này Huyền Trang lại đang phải đối mặt với rắc rối lớn, Đại Đường lập quốc chưa lâu, biên giới còn loạn, vì vậy hoàng đế ban bố “lệnh cấm biên”, bó buộc bách tính, không cho xuất quan. Đô đốc Lương Châu là Lý Đại Lượng biết được Huyền Trang định Tây du Thiên Trúc, lập tức phái người truy xét, nhờ có các thế lực của Phật môn dang tay che chở Huyền Trang mới trốn được khỏi Lương Châu, chạy tới Qua Châu[22]. Công văn điều tra của Lý Đại Lượng cũng được gửi đến ngay sau đó, yêu cầu bắt giữ Huyền Trang. Tiểu lại ở thành Qua Châu là Lý Xương khi nhận được công văn thì cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Ông ta vốn là môn đệ Phật giáo thành tín, nên vội vàng chạy tới tìm gặp Huyền Trang, xé rách công văn ngay trước mặt ngài và nói: “Đại sư cần phải lên đường Tây du sớm thôi, bằng không công văn lại tiếp tục chuyển xuống các châu huyện dưới”. Huyền Trang cảm kích tột độ, nhưng trong lòng vẫn chồng chất sầu muộn. Thành Qua Châu đã là tận cùng tây bắc của biên giới Đại Đường, đi tiếp lên phía bắc chính là năm phong hỏa đài[23]- tức tháp canh đốt lửa làm hiệu báo động tạo thành biên quan, mỗi tháp cách nhau chừng trăm dặm, ở giữa là sa mạc hoang vu, không nước, không cây cỏ, chỉ có ở gần tháp canh mới có thể lấy nước. Nhưng trên tháp canh có tướng sĩ canh gác biên quan, giương cung lắp tên, ngày đêm trấn thủ, hễ phát hiện thấy người là bắn chết. Dẫu có qua được tháp canh thứ năm thì chắn ở phía tây cũng là bức bình phong tự nhiên giữa Đại Đường và nước Y Ngô[24] (Ara Turuk) của Tây Vực - sa mạc Mạc Hạ Diên[25] (Gobi) trải dài suốt tám trăm dặm. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, giữa không có nước và cây cỏ, từng có vô số thương khách bị mất phương hướng ở nơi đây, hài cốt cũng chẳng còn. Huyền Trang ngày đêm buồn phiền, tìm một con đường âm thầm vượt biên, nhưng dừng chân lại hơn một tháng rồi, cũng không có kế sách nào khả thi. Hôm đó ngài đang tham Phật ở chùa A Dục Vương[26] (Ashoka), bỗng thấy có một người Hồ tráng kiện bước vào lễ Phật. Lễ Phật xong, người này không bỏ đi ngay, mà lại đi vòng quanh Huyền Trang ba vòng. Đây được xem là lễ nghi tôn quý, rất phổ biến ở Thiên Trúc và Tây Vực. Huyền Trang vô cùng kinh ngạc: “Thí chủ sao lại hành đại lễ như vậy?”. “Đại sư”, người Hồ kia khom người xuống nói, “tiểu nhân là người Túc Đặc của Thạch Quốc[27] (Tashkent), họ Thạch, tên Bàn Đà. Nhận thấy phật quang tỏa ra từ trên người đại sư thật an nhiên, trầm tĩnh, nên muốn xin đại sư thụ giới cho tiểu nhân”. Huyền Trang lập tức thụ ngũ giới cho hắn, thụ giới xong, Thạch Bàn Đà dâng cúng dường trái cây và bánh Hồ[28]. Huyền Trang mới nghĩ đến chuyện phiền não trong lòng mình, bèn hỏi: “Bần tăng muốn Tây du Thiên Trúc cầu pháp, nhưng biên quan canh phòng nghiêm ngặt, không có cách nào âm thầm vượt biên được, không biết gần Qua Châu này có con đường nào vừa nhanh vừa tiện hơn không?”. Thạch Bàn Đà suy nghĩ một chút rồi nói: “Đại sư, tiểu nhân đã từng giao thương giữa Qua Châu và Y Ngô vài lần, nếu đại sư không chê thì tiểu nhân nguyện đưa đại sư vượt qua năm tòa hỏa phong đài kia”. Huyền Trang vô cùng vui mừng, hai người hẹn rằng hoàng hôn ngày hôm sau gặp nhau trước cổng chùa. Huyền Trang hào hứng mua một con ngựa, nước uống và lương khô, rồi dắt ngựa tới trước cổng chùa đợi Thạch Bàn Đà. Lúc hoàng hôn, Thạch Bàn Đà xuất hiện đúng như lời hẹn, nhưng cùng đi với hắn còn có một vị trưởng lão người Hồ, ông ta đang dắt theo một con ngựa già. Huyền Trang ngây người: “Lẽ nào vị trưởng lão này cũng muốn đi cùng chúng tôi sao?”. Thạch Bàn Đà vội vã giải thích: “Đại sư, vị trưởng lão này đã tới Y Ngô hơn ba mươi lần rồi, rất rành đường đi về phía tây, tiểu nhân mời ông ấy đến là muốn giới thiệu rõ ràng với ngài”. Lúc này Huyền Trang mới thấy thoải mái. Trong tròng mắt sâu thẳm của vị trưởng lão người Hồ thoáng hiện ý cười: “Đại sư, đường về phía tây nguy hiểm trùng trùng, Sa Hà xa xôi cách trở, gió nóng quỷ mị, không mấy ai đến được đích. Cho dù vật tư dồi dào, kết bạn cùng đi, vẫn có thể bị lạc trong vùng cát chảy Tây Hải này, huống chi đại sư lại đi có một mình? Vẫn mong đại sư suy nghĩ kỹ lại, chớ lấy thân để thử hiểm nguy!”. Huyền Trang trầm mặc giây lát, rồi quả quyết nói: “Bần tăng cầu pháp, phát nguyện Tây du, không tới được đất Bà La Môn, thề không trở về. Cho dù phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, cũng quyết không hối tiếc”. Vị trưởng lão người Hồ lắc đầu, vừa có vẻ thương tiếc, lại như pha lẫn ý khâm phục: “Đại sư nếu đã quyết muốn đi, xin hãy đổi sang cưỡi con ngựa này của tôi. Con ngựa này từng tới Y Ngô mười lăm lần rồi, vững vàng khỏe mạnh lại quen đường quen lối, nhất định có thể đưa đại sư tới được Y Ngô.” Huyền Trang lúc này mới chú ý tới con ngựa già mà vị trưởng lão đang dắt, vừa nhìn thấy liền không khỏi ngây ngẩn cả người - Đây là một con hồng mã vừa già vừa gầy, trên yên của nó còn quấn một khối sắt. Cảm giác rùng mình ớn lạnh thoáng hiện, chạy dọc theo sống lưng của ngài. Huyền Trang chăm chú nhìn vị trưởng lão người Hồ, nhưng ông lão này lại không cảm nhận được điều đó mà chỉ cười ngây ngô. Rốt cuộc là tài bói toán của Hà Hoằng Đạt nhìn thấu được thiên cơ, như yêu như quỷ, hay có một thế lực thần bí nào đó đang âm thầm điều khiển con đường Tây du của ngài? Chương 1 Tây Vực có quỷ, Phật tử từ phương đông tới Năm Trinh Quán thứ ba, mùa đông tháng Mười một. Huyền Trang một mình chạy trốn đến sa mạc Mạc Hạ Diên trải dài tám trăm dặm, chỉ dắt theo một con ngựa gầy. Vùng “cát chảy Tây Hải” này đã được lưu lại trong sử sách Tiền Tần. Dưới ngòi bút của hậu thế Ngô Thừa Ân, Lưu Sa Hà[29] quả thật xứng danh là “Bát bách Lưu Sa giới, tam thiên nhược thủy thâm. Nga mao phiêu bật khởi, lô hoa định để trầm.”[30] (Tạm dịch: Sông Lưu Sa trải dài tám trăm dặm, nước sâu ba ngàn trượng, lông ngỗng không nổi được, hoa lau cũng phải chìm.) Nhưng không giống với sự tưởng tượng lãng mạn của văn nhân, đây là ranh giới mong manh giữa sống và chết, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy sa mạc Qua Bích trải rộng mênh mông, cát vàng nối liền với trời xanh, quanh năm gió lớn gào thét, bão cát bào mòn đài đất cao nguyên, hình thành nên những gò đất hình thù quỷ quái. Ban ngày mặt đất nóng bỏng, trước mắt dường như luôn có một lớp không khí như sương mù bao phủ, bước một bước, cảnh vật xung quanh đều giống như đang chuyển động. Ban đêm thì lạnh thấu xương, có không ít những bóng ma chập chờn ẩn hiện. Càng tuyệt vọng hơn là, ngày thứ hai bước vào sa mạc Mạc Hạ Diên, Huyền Trang lỡ tay đánh đổ túi nước của mình, một túi nước sạch nhanh chóng thấm vào trong cát. Cho đến hiện tại, đã năm ngày bốn đêm rồi ngài vẫn chưa được uống giọt nước nào, một người một ngựa chỉ dựa vào bản năng mà di chuyển từng bước từng bước một trong gió cát khô nóng. Dưới chân không có đường, dẫn đường cho ngài chỉ là những hài cốt của la, ngựa và lạc đà nằm rải rác trước mặt, thỉnh thoảng còn thấy cả sọ người bị vùi một nửa trong cát vàng, hốc mắt trống rỗng nhìn chăm chú vào người đến sau. Huyền Trang cảm thấy xung quanh mờ mịt, ma trơi từ những hài cốt đến ban đêm lại lập lòe ma mị, lấp lánh tựa sao trời, ban ngày thì gió mạnh mang theo cát cuốn bụi mù, tán loạn như mưa. Thể lực của Huyền Trang đã kiệt quệ, cả người nóng bừng bừng, đầu óc choáng váng, trước mắt xuất hiện ảo giác, trong thoáng chốc ngài nhìn thấy một đội quân mấy trăm người đang cưỡi lạc đà, tất cả bọn họ đều ăn mặc theo kiểu người Hồ, lúc đi lúc dừng, cát bụi đầy người, biến ảo khôn cùng. Nhìn từ xa có thể thấy rõ ràng, đến gần lại biến mất không thấy dấu vết. Ngài biết bản thân như vậy là đã tận sức, chạm đến điểm tận cùng của sự sống, để mặc cho yêu ma quấy phá, xâm nhập vào cơ thể. Cả người lẫn ngựa ngã gục xuống cồn cát, đợi chờ cái chết đang tới gần. Huyền Trang thầm niệm lời thỉnh nguyện tới Quan Thế Âm Bồ Tát: “Đệ tử phát nguyện đi Thiên Trúc lấy kinh, chẳng vì ham tài phú, cũng không phải vì muốn thăm thú nơi đất Phật, mà chỉ một lòng thỉnh cầu được chánh pháp vô thượng hòng làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình. Thỉnh cầu Bồ Tát đại từ đại bi, tìm theo tiếng đệ tử cầu khẩn mà ra tay cứu khổ, loại trừ tai ách!”. Sau đó, ngài dần rơi vào trạng thái hôn mê, trong cơn mê lại có một vị thần thân mang giáp vàng, tay cầm trường kích, miệng quát to: “Còn không mau đứng dậy đi tiếp!”. Huyền Trang thoáng rùng mình, ngài bỗng thấy tỉnh táo trở lại, đúng lúc này một trận gió thổi tới, mát lạnh như tắm mình trong nước đá. Một người một ngựa tinh thần lập tức phấn chấn hơn hẳn, Huyền Trang gắng gượng bò dậy, nằm sấp trên lưng ngựa, tiếp tục tiến về phía trước. Đi được thêm mười mấy dặm, con ngựa gầy kia đột nhiên hí dài một tiếng, rồi tựa như phát điên mà chạy một mạch mấy mươi dặm, đến bên một đồi cát, Huyền Trang bị bất ngờ không tránh khỏi kinh hãi. Dưới ánh mặt trời, ánh sáng lóe lên từ một lưỡi đao lọt vào tầm mắt của ngài. Thanh loan đao cắm sâu vào nền cát vàng, bên cạnh là một cỗ thi thể. Nơi này tựa như vừa phát sinh một trận chiến, thi thể nằm ngổn ngang, chừng sáu bảy mươi người, la và lạc đà đều bị tên nhọn bắn chết, phần đầu và tứ chi người bị đao kiếm chặt đứt, cát vàng thấm đẫm máu tươi, bãi cát trải mình dưới ánh mặt trời lóa lên ánh sáng kinh người. Huyền Trang nhìn xuống nền đất ấy đến ngây người, rồi trở mình xuống ngựa, loạng choạng chạy tới đó, lật thi thể của từng người một lên xem xét, không còn ai sống sót, xác đã cứng từ lâu rồi, máu cũng đã đông lại. Hiện trường chỉ còn là một bãi tan hoang, từng bọc lông cừu chất trên lưng những con la đều bị xé rách, lông cừu bay lả tả khắp mặt đất; những tấm da dê dính đầy máu tươi trộn lẫn với cát bẩn. Trong cát vàng còn vương vãi đủ loại hương liệu trân quý và những mảnh đường thốt nốt, Huyền Trang thậm chí còn tìm được hai miếng ngọc mắt mèo màu xanh lục nằm lẫn trong cát. Dựa vào vóc dáng đến cách ăn mặc của những xác chết này mà suy xét thì có thể thấy họ hẳn phải là một đoàn thương lữ đang di chuyển trên Con đường Tơ lụa. Đa số những người này có tướng mạo gần giống với người Hồ ở vùng biên cương, phỏng chừng là đến từ các nước Tây Vực. Một số khác thì mắt sâu, mũi cao, râu và tóc đều xoăn, có lẽ là đến từ thế giới phương tây xa xôi hơn. Trên thực tế, chuyện này cũng chẳng lấy gì làm lạ, lộ trình vượt Con đường Tơ lụa nguy hiểm trùng trùng, các thương lữ thường xuyên kết thành đoàn lớn để di chuyển. Nhìn qua hiện trường, dường như đoàn thương lữ này đã bị lũ thổ phỉ chặn đánh. Nhưng, Huyền Trang nhanh chóng phát hiện ra điểm bất thường, rất nhiều cuộn da dê và những bọc lông cừu vẫn còn nguyên vẹn, không chút tổn hại, thậm chí còn có vài sọt hương liệu vẫn đang được buộc chặt trên lưng lạc đà, đám thổ phỉ không hề vơ vét những kiện hàng quý giá ấy đi. Lẽ đương nhiên, đám thương lữ từ Ba Tư, Thổ Hỏa La[31] (Tochari) và người Hồ đến từ các tiểu quốc Chiêu Vũ[32], bởi vì quan ngại đường xá xa xôi, nên đa số đều chỉ chọn những mặt hàng dễ vận chuyển mà giá trị cao như đá quý, sợi vàng bạc, hương liệu, đồng tự nhiên. Bọn họ phải di chuyển tới Tây Đột Quyết mới có thể mua được da dê và lông cừu, rồi vận chuyển đến Đại Đường bán để kiếm lời. Nhưng ở Y Ngô thì giá của những miếng da dê và lông cừu này vẫn khá đắt đỏ, đặc biệt là hương liệu, giá của chúng lại càng cao hơn, vì sao đám thổ phỉ này lại không buồn cướp đi chứ? “Cốc… cốc… cốc…” Trong sa mạc yên tĩnh, đột nhiên truyền tới âm thanh rất khẽ, hình như là tiếng va chạm nhỏ. Huyền Trang vừa sợ hãi vừa kinh ngạc, ngài men theo âm thanh đó mà lật tìm trong đống thi thể. Ngài sớm đã quên hết mọi mệt mỏi, liên tục kiểm tra hơn hai mươi thi thể, lúc này mới phát hiện ra, có một ông lão người Hồ đầu đội mũ dạ chóp nhọn sừng dê đang bị đè dưới xác một con lạc đà. Phần ngực của ông lão dường như bị cắt phanh ra, xương sườn gẫy gập, đang trong tình trạng thoi thóp chờ chết, nhưng ngón tay vẫn cố chấp gõ lên cái giá gỗ trên xác con lạc đà, phát lên những tiếng cốc cốc. “Thí chủ, thí chủ!” Huyền Trang vội vàng ôm lấy ông lão, nhẹ nhàng vỗ lên mặt ông ta. Một lúc lâu sau mắt của ông lão mới hé mở, khi nhìn thấy trước mặt mình là Huyền Trang - một vị hòa thượng, mới thấy an tâm hơn một chút, rồi mở miệng thì thào nói gì đó, là tiếng ngoại quốc, Huyền Trang nghe không hiểu dù chỉ một từ. Ông lão thở dốc một hơi, trong mắt lộ rõ sự sợ hãi, nắm chặt lấy bàn tay ngài, thì thào bằng tiếng Hán: “Trong… trong bình… có quỷ!”. “Cái gì cơ?” Huyền Trang kinh ngạc, áp sát tai bên miệng ông lão. Ông lão kia dùng hết sức gào to đến lạc cả giọng: “Trong bình… có quỷ!”. Lời còn chưa dứt, thân người ông lão xuội lơ, cánh tay cũng rũ xuống. Hai mắt hãy còn mở to, lộ rõ sự sợ hãi tột độ, nhìn chằm chằm vào Huyền Trang. “Trong bình có quỷ? Là ý gì vậy?” Huyền Trang nhíu mày suy nghĩ, sau đó ngài đặt xác ông lão nằm xuống nền cát, rồi đứng dậy, thất thần quan sát vùng đất chết chóc này. Lúc này, bên kia cồn cát truyền đến tiếng hí của con ngựa gầy. Huyền Trang lảo đảo bước trên cồn cát, sóng mắt chớp động, ngài dường như không dám tin vào mắt mình nữa, trước mắt ngài là làn nước biếc, cây cỏ xanh tốt, một hồ nước trong, một vùng thảo nguyên tươi đẹp hiện ra như một viên ngọc xanh khảm trên nền cát vàng của sa mạc. Huyền Trang cho rằng đó là ảo giác, không dám vươn tay chạm tới, nhưng con ngựa gầy kia lại chạy như bay xuống cồn cát, vục đầu uống nước trong hồ. Huyền Trang tỉnh ra, mới chạy bổ xuống đó. Đến bên hồ, ngài lại không vội uống nước ngay, mà từ tốn lấy phiên lọc từ trong bọc hành lý trên lưng ngựa ra. Dựa theo giới luật nhà Phật, loại nước này được gọi là “thời thủy”, bắt buộc phải lọc xong mới có thể uống[33]. Nước hồ mát rượi chảy vào trong cơ thể, Huyền Trang lúc này mới cảm nhận được sự sống đang dần trở lại với cơ thể mình. Ngài quay lại bên đống thi thể, lật tìm trên người những nạn nhân xấu số ấy được mấy miếng bánh nang để lấp đầy cái bụng. Sau đó ngồi xếp bằng trên sa mạc, niệm “Chú Vãng Sanh”, xong xuôi thì bắt đầu đào hố trên nền cát, chôn cất từng thi thể một. Đây quả là công việc tiêu tốn rất nhiều sức lực, tổng cộng có hơn sáu mươi thi thể, còn có hơn hai trăm xác la và lạc đà, Huyền Trang thở hồng hộc, đào xới hơn ba tiếng đồng hồ mới chôn được có hơn hai mươi thi thể. Sa mạc khô hanh, nóng như thiêu như đốt, ngài mệt đến mức mồ hôi đầm đìa, sau đó thực sự không chịu đựng nổi nữa, bèn ngồi bệt xuống đất. Chính vào lúc này, ngài nhìn thấy có bóng người thoáng hiện trên đỉnh cồn cát, nhưng thoắt cái lại không thấy đâu. Huyền Trang vô cùng kinh hãi, dụi dụi mắt, cho rằng là mình hoa mắt, ngay sau đó ngài lại nghe thấy một loạt tiếng bước chân vội vàng chạy đi xa. Ngài nhổm dậy, chạy lên cồn cát, nhất thời kinh ngạc không thôi, ngài chỉ nhìn thấy một đứa trẻ thân thể trần truồng đang sợ hãi, cắm đầu chạy như điên trên sa mạc, đến bên hồ nước thì tung người nhảy xuống, bơi đến giữa hồ mới quay đầu lại nhìn ngài. Huyền Trang há hốc miệng, chậm rãi đi tới, đứng bên bờ hồ nhìn cậu bé. Đứa trẻ kia khoảng chừng tám chín tuổi, màu da trắng nhợt, mái tóc màu vàng xoăn tít, sống mũi cao thẳng, hốc mắt sâu, không ngờ cặp mắt của nó lại có màu xanh lam. Có chút giống người Túc Đặc hoặc người Nhã Lợi An[34] (Aryan) vùng Thổ Hỏa La. “A Di Đà Phật!”, Huyền Trang chắp tay trước ngực bái lạy cậu bé, “tiểu thí chủ, đừng sợ, bần tăng là hòa thượng đến từ Đại Đường, không có ác ý”. Đứa trẻ sợ sệt nhìn ngài, hai tay gạt nước, nghiêng đầu nghi ngờ. Huyền Trang mỉm cười, vươn tay về phía cậu bé, tỏ ý bảo cậu lên bờ. Đứa trẻ kia lại tỏ ra hoảng sợ, đột nhiên chúi đầu lặn sâu xuống nước. Huyền Trang vô cùng kinh ngạc, bọt nước nổi lên, đứa trẻ kia lại ngoi đầu lên, giơ tay ném một nắm bùn cát về phía ngài, nắm bùn ấy ập thẳng vào mặt của Huyền Trang. Huyền Trang giật mình. Bùn cát rơi từ trên mặt xuống, ngài cười khổ một tiếng, đưa tay lên vừa lau mặt vừa giải thích: “Bần tăng thật sự không có ác ý. Những thi thể kia là người thân của cháu sao? Cháu có thể lên bờ không, cùng bần tăng mai táng cho bọn họ? Nếu để họ phơi thây nơi hoang dã, sẽ không thể vào được tịnh thổ luân hồi.” “Ông… không thể… chạm vào thi thể…” Đứa trẻ nọ đột nhiên nói lớn. Cậu bé nói tiếng Hán, mặc dù khẩu âm nghe qua thì có phần kỳ quái, nhưng giọng đọc vẫn rõ ràng từng chữ, hẳn phải từng được dạy dỗ rất cẩn thận. “Là sao?” Huyền Trang không hiểu. “Ông không thể động vào thi thể!” đứa trẻ kia quát lớn: “Người sau khi chết, bị tà linh xâm nhập, thể xác trở nên dơ bẩn, bất cứ ai, bao gồm cả thân sinh phụ mẫu cũng đều không được chạm vào nó”. Huyền Trang dở khóc dở cười: “Vậy thì, ai có thể động vào những thi thể ấy đây?”. “Người vác xác, bọn họ chuyên xử lý thi thể.” Đứa trẻ nghiêm túc nói: “Hơn nữa không thể chôn xuống đất, thi thể quá dơ bẩn, hỏa táng thì ô nhiễm lửa, thủy táng thì ô nhiễm nước, thổ táng thì ô nhiễm đất. Thi thể bắt buộc phải được dìm vào nước tiểu của con bò đực màu trắng để tẩy rửa sạch sẽ, thay y phục chính đạo, cột đai lưng Thánh, mới có thể nối liền với Thánh tiên tri…”. Huyền Trang bất chợt hiểu ra, thấp giọng nói: “Hóa ra cháu là giáo đồ Bái Hỏa giáo!”. “Tỏa La Á Tư Đức giáo[35] (Zoroastrianism)!” Đứa trẻ kia tức giận sửa lại. Huyền Trang gật đầu, thân là tăng nhân uyên bác nhất cửa Phật, ngài không hề xa lạ gì với Tỏa La Á Tư Đức giáo. Tỏa La Á Tư Đức giáo là tôn giáo phổ biến ở vùng Ba Tư, Trung Quốc gọi là Hiên giáo, Hỏa Hiên giáo hoặc là Bái Hỏa giáo. Vì đa số người Túc Đặc thông thương buôn bán trên Con đường Tơ lụa đều tôn thờ tín ngưỡng Bái Hỏa giáo, nên ở Trường An có không ít chùa của Hỏa giáo, người Đại Đường gọi những ngôi chùa này là Hiên từ (tức nhà thờ Hiên giáo). Theo quy định của tôn giáo này, thi thể người chết quả thật không được phép mai táng. Bất luận là di chuyển hay là cố định thi thể, đều phải sử dụng dụng cụ bằng sắt hoặc bằng đá, không thể sử dụng dụng cụ bằng gỗ. Bái Hỏa Giáo cho rằng, khi gỗ tiếp xúc với thi thể sẽ bị ô nhiễm, ngược lại dụng cụ bằng đá hoặc sắt có khả năng kháng ô nhiễm. Vì vậy họ đặt thi thể vào trong quan tài đá không có nắp đậy, chuyển vào trong khu nghĩa địa quây tròn không có đỉnh được xây từ đá. Loại nghĩa địa này được gọi là “Tháp tĩnh lặng”. Kiểu thiết kế này có thể thuận tiện cho đám chim kền kền đến ăn xác người, đợi đến khi thịt trên xác người đều bị rỉa sạch, phần xương mới được đặt vào chính giữa tòa tháp, khi ánh nắng mặt trời chiếu xuống, xương bị phong hóa trở thành bột phấn. Khi mùa mưa đến, phấn xương sẽ trôi theo nước mưa và được vôi lọc qua, rồi thuận theo đường ống dẫn nước chôn dưới đất chảy ra biển lớn. Nghĩ thông suốt chuyện này, Huyền Trang lại thấy có đôi chút khó xử, ngài liền thương lượng với cậu bé kia: “Trong sa mạc này không có đá, làm sao có thể thu xếp ổn thỏa cho những thi thể tộc nhân của cháu đây?”. Đứa trẻ suy nghĩ một lúc, đôi mắt màu xanh lam ánh lên nỗi bi thương: “Vậy cứ để bọn họ phân tán theo gió cát của đại mạc đi! Có lẽ sẽ có chim kền kền bay đến, đem thịt của họ lên thiên đường”. Đã nói đến nước này, Huyền Trang cũng không thể làm gì được: “Sống tựa sương buổi sớm, chết như hoa mùa hạ[36]. Có lẽ giữa trời đất này cũng là chốn quay về tốt nhất của chúng sinh!”. Thông qua lần đối đáp này, đứa trẻ không còn thấy sợ ngài nữa, từ trong hồ nước bơi lên bờ, cứ trần truồng như vậy đứng dưới ánh mặt trời. Huyền Trang thấy vậy mới hỏi: “Quần áo của cháu đâu?”. Đứa trẻ kia rùng mình một cái, thoạt trông có vẻ sợ hãi. Không còn cách nào, Huyền Trang chỉ có thể tìm một bộ quần áo từ trong bọc hành lý của đám thương lữ, cắt ngắn đi rồi cho cậu bé mặc. Đứa trẻ này rất quật cường, kiên quyết không mặc vì cho rằng quần áo của người chết không sạch sẽ. Huyền Trang phải tận tình khuyên bảo, nói đây là quần áo mới, lấy từ trong bọc hành lý ra, chưa có ai mặc, bằng không cậu chỉ có thể mặc tăng bào của ta thôi. Đối mặt với chuyện mặc quần áo không mấy “sạch sẽ” và tăng bào của giáo đồ dị giáo, đứa trẻ này chỉ đành miễn cưỡng lựa chọn vế trước. Nhưng không tìm được đôi giày nào nhỏ như vậy, thế là Huyền Trang liền tìm một tấm da dê, bọc chân của cậu ta lại, dùng dây thừng gân bò cột hàng hóa buộc lại cẩn thận. “Cháu tên là gì?” Huyền Trang hỏi cậu bé. “A Thuật!” Đứa trẻ nọ dùng ánh mắt phức tạp nhìn Huyền Trang đang vùi đầu bọc chân cho mình, nói: “Cháu là người Túc Đặc, đến từ thành Tát Mã Nhĩ Hãn(Samarkand) - Khang Quốc[37], đi theo thúc thúc đến Đại Đường buôn bán, kết bạn đồng hành với các thương nhân Yên Kỳ[38]. Sau khi đi qua Y Ngô, tối qua khi dựng trại bên hồ này lại gặp phải thổ phỉ, chúng giết chết toàn bộ người trong thương đoàn. Lúc đó cháu đang lén bơi dưới hồ, mới may mắn thoát nạn”. Cậu bé nghẹn ngào, khẽ đưa tay khoác lên vai Huyền Trang, tỏ ra chút thành ý thân thiện. Huyền Trang thở dài không thôi. A Thuật nói tiếp: “Cháu trốn trong bụi cỏ bên hồ cả một đêm nhưng không dám ra, chỉ sợ bọn cướp còn chưa đi. Mãi cho đến khi nhìn thấy con ngựa của ngài, mới hiểu được lại có thương khách đi ngang qua đây, nhưng không ngờ đó lại là một hòa thượng.” Trên gương mặt cậu bé lộ ra nụ cười, chỉ vào con ngựa gầy, “Con ngựa này thực sự không giống loại ngựa mà bọn cướp sẽ cưỡi”. Huyền Trang mỉm cười, hỏi: “Thúc thúc của cháu là ai? Cũng gặp nạn rồi sao?”. A Thuật chỉ vào ông lão người Hồ lúc trước bị con lạc đà đè lên, nói: “Đây chính là thúc thúc của cháu, A Lí Bố Gia Tư Đinh (Alibu Jezdin).” Huyền Trang im lặng, ngài nhớ đến những lời cuối cùng trước khi chết của Gia Tư Đinh, trong bình có quỷ? Ngài không thể nào hiểu nổi, bèn hỏi A Thuật: “Trước khi thúc thúc của cháu chết có nói với bần tăng một câu: Trong bình có quỷ. Cháu có biết đó là ý gì không?”. “Trong bình có quỷ?” Mắt A Thuật sáng lên, nhưng rồi cậu bé lại lắc đầu. Huyền Trang buộc thật kỹ miếng da dê trên chân A Thuật, lại đi dọn hết từng thi thể, nhặt hết những phần xương sọ và tứ chi bị chặt đứt về, xếp gọn bên cạnh cơ thể, cố gắng hết sức để thi thể của họ được hoàn chỉnh. Sau đó, ngài ngồi xếp bằng niệm hai mươi mốt lần “Chú Vãng Sanh”, siêu độ vong linh. A Thuật ngồi xổm bên cạnh, âm thầm nhìn vị hòa thượng đến từ Đại Đường này, cậu cảm thấy ở ngài toát lên một loại khí chất làm rung động lòng người, ấy chính là năng lực của lòng từ bi nơi ngài, nụ cười như dòng suối trong lành chảy trên núi, như mặt trời mọc nơi đại mạc, khiến người tiếp xúc qua với ngài đều tự nảy sinh cảm giác gần gũi, thân thiện. Trên thực tế, cậu bé đã lén lút quan sát Huyền Trang rất lâu rồi, tận mắt chứng kiến vị hòa thượng này rõ ràng là mệt đến độ muốn gục ngã rồi mà vẫn cố mai táng cho từng thi hài của những người trong thương đoàn, những người mà ngài không hề quen biết, vì thế cậu mới quyết định ra mặt. “Sư phụ, ngài vào Mạc Hạ Diên này là định đi tới đâu vậy?” A Thuật hỏi. Huyền Trang mở mắt ra, ngắm nhìn vùng đại mạc phía tây: “Bần tăng lập chí muốn Tây du Thiên Trúc, cầu lấy Như Lai đại pháp. A Thuật, còn con thì sao? Con chỉ có một thân một mình, định làm thế nào đây?”. A Thuật dụi mắt, hơi nghẹn ngào: “Thúc thúc chết rồi, con muốn về Tát Mã Nhĩ Hãn, trở về bên cạnh phụ thân của con. Đường đến đây, bọn con đã đi hết hơn nửa năm… Sư phụ, Tát Mã Nhĩ Hãn nằm trên đường đi Thiên Trúc, ngài có thể đưa con về nhà được không?”. Huyền Trang im lặng rất lâu, rồi ngài nhẹ nhàng xoa đầu cậu bé: “Được, bần tăng đưa con về nhà”. A Thuật nhảy cẫng lên, nụ cười rạng rỡ hiện rõ trên gương mặt. Huyền Trang cũng mỉm cười: “A Thuật, đoàn con đã đi qua Y Ngô, từ nơi này đến Y Ngô còn bao xa? Con còn nhớ đường khi đến không?”. “Nhớ ạ, nhớ ạ!” A Thuật nói liến thoắng, “Đi về phía tây hơn trăm dặm, chỉ cần một ngày một đêm là tới được Y Ngô. Chẳng riêng gì Y Ngô, mà khi theo thúc thúc đến phương đông, dọc đường cả đoàn đã đi qua mấy chục quốc gia, con đều quen thuộc với địa lí, phong tục và ngôn ngữ của những nơi đó”. Huyền Trang không ngờ bản thân lại vô tình nhặt được một người dẫn đường, ngài cảm thấy vui mừng khôn xiết. Hai người không nán lại nữa mà lấy nước trong hồ rót đầy vào túi nước. A Thuật lại lấy bánh của người Hồ và thịt khô trong bọc hành lí của thương lữ, gói thành một gói lớn, chất lên lưng con ngựa gầy. Huyền Trang đỡ cậu bé lên ngựa, bản thân thì dắt ngựa, hai người cùng nhau đi về hướng tây. °°° Đi tiếp về phía tây, rời xa khu vực trung tâm của Mạc Hạ Diên, sa mạc ngày càng thu hẹp lại, chuyển hóa thành hoang mạc điêu tàn. Bị gió cát bào mòn, tại sa mạc Qua Bích này, đâu đâu cũng thấy những tảng đá có hình thù quái dị, trông giống như tòa thành hay cây nấm, khi gió lớn thổi qua, những khe đá lại phát ra âm thanh kinh hồn nghe như tiếng quỷ hú. Hai người cứ thẳng một đường mà tiến, bên tai lại truyền đến những tiếng vang cục cục, tựa như tiếng ma quỷ nhai nuốt xương người, khiến người nghe muốn sởn tóc gáy, những bóng đen dữ tợn hiện chiếu trên mặt đất, giống như bước chân của vô số loài yêu ma quỷ quái lưu lại nơi đây. Trông A Thuật có vẻ khá căng thẳng, ngồi trên ngựa còn đưa tay nắm chặt lấy cánh tay của Huyền Trang. Huyền Trang nói cho cậu biết đây gọi là tâm ma, ngài muốn dạy cho cậu niệm “Tâm Kinh”, nhưng A Thuật nhất quyết không chịu học. Huyền Trang lúc này mới nhớ ra cậu bé là giáo đồ Bái Hỏa giáo, nhất thời cảm thấy có chút xấu hổ. A Thuật thấy vậy lại cười ha hả. Hai người đang đùa giỡn với nhau, đột nhiên nghe thấy có tiếng vó ngựa dồn dập từ hướng tây bắc truyền đến. Sắc mặt A Thuật lập tức thay đổi: “Sư phụ, liệu có phải là bọn cướp lại tới nữa không?” Huyền Trang lắng nghe một lúc, lắc đầu: “Trước sau chỉ có ba con ngựa, chắc không phải là bọn cướp đâu.” Tuy nói như vậy, nhưng Huyền Trang vẫn đề cao cảnh giác, sa mạc Mạc Hạ Diên rộng tám trăm dặm, từ xưa đến nay được coi là cấm địa của sự sống, chỉ có thương nhân ham tiền trục lợi thành tính mới dám kết thành đoàn, mạo hiểm đi qua nơi này. Nếu chỉ có khoảng ba con ngựa thì chắc chắn không phải là thương lữ, mà chỗ này cách Y Ngô còn xa, tướng sĩ tuần tra cũng sẽ không tới đây, mấy người này dong ngựa tiến vào sa mạc Mạc Hạ Diên rốt cuộc là có ý đồ gì? Tiếng vó ngựa ngày càng gần, chỉ thấy ba con tuấn mã phi như bay trong gió cát, ba kỵ sĩ trên lưng ngựa đều mặc áo choàng, trên mặt thì đeo mặt nạ. Ba người này dường như có sẵn mục tiêu, cứ thế dong ngựa chạy thẳng tới, nhưng khi nhìn thấy Huyền Trang và A Thuật ở phía trước, ba người họ lại tỏ ra rất kinh ngạc. Ba người họ ghìm cương, hướng ngựa đi vòng quanh hai người Huyền Trang hai vòng, người đi đầu vén áo choàng trên người lên, để lộ ra một gương mặt thanh tú. Huyền Trang không khỏi ngẩn người, ngài không nghĩ người đứng trước mặt mình đây lại là người Hán, đến y phục cũng giống với người Đại Đường. Nhưng A Thuật vừa nhìn thấy người này, cả người bỗng run lẩy bẩy, sắc mặt lộ rõ sự sợ hãi. Trông Huyền Trang lúc này quả thực có phần chật vật, nhếch nhác, ngài một thân một mình vượt sa mạc Mạc Hạ Diên, y áo mặc trên người đã bẩn thỉu vô cùng, phần tóc trên đỉnh đầu cũng mọc dài áng chừng một đốt ngón tay, trên mặt, trên người dính đầy bụi bặm và vết máu, vì tiết trời khô hanh và phơi nắng nhiều nên da mặt ngài nứt nẻ thành vệt sâu hoắm, thậm chí còn rỉ máu. Đôi giày vải ngàn lớp dưới chân ngài cũng đã rách tả tơi, để lộ ra ba đầu ngón chân… Nhưng tinh thần của ngài thì không hề suy giảm, ánh mắt vẫn điềm đạm như mặt hồ bình lặng, trong mệt mỏi vẫn toát lên vẻ ung dung tự tại. Người trẻ tuổi kia kinh ngạc hồi lâu mới nhận ra Huyền Trang là hòa thượng, liền vội vàng chắp tay thi lễ với ngài: “Hóa ra là một vị đại sư! Không biết đại sư từ đâu tới? Muốn đi về đâu? Tại sao lại đi một mình trong sa mạc Mạc Hạ Diên này?” Cách ăn nói cũng giống như người Đại Đường. Huyền Trang vội vàng chắp tay: “A Di Đà Phật, bần tăng tên gọi Huyền Trang, đến từ Đại Đường, muốn đi Thiên Trúc cầu Phật”. Người trẻ tuổi kia bỗng tỏ ra kinh ngạc, vui mừng nói: “Hóa ra ngài chính là đại sư Huyền Trang! Thần Phật phù hộ, ngài… vậy mà lại có thể một mình đi xuyên qua sa mạc Mạc Hạ Diên!”. Hắn ta vội vàng nhảy xuống ngựa, quỳ trước mặt Huyền Trang lễ bái, không ngờ hắn lại hành lễ Ngũ Luân Câu Khuất. Đây là đại lễ ảnh hưởng từ Phật giáo Thiên Trúc được phổ biến rộng rãi ở Tây Vực, lễ gọi là Ngũ Luân Câu Khuất, chính là hai tay, hai gối và trán đều chạm đất. Đây là lễ tiết cấp thứ tám trong cửu lễ, chỉ đứng sau lễ thứ chín, ngũ thể đầu địa (đầu rạp xuống đất). Hai kỵ sĩ còn lại cũng rối rít xuống ngựa quỳ bái. Huyền Trang được nhận lễ tiết tôn quý như vậy nhất thời không biết phải làm sao, chỉ có thể làm theo nghi thức, lấy tay xoa đầu hắn, miệng thì niệm kinh chúc nguyện cho hắn được trường sinh như ý, sau đó mới lưỡng lự nói: “Thí chủ đây là…?”. Thanh niên kia vui vẻ ra mặt đứng dậy: “Đại sư có điều không biết, tại hạ là con thứ ba của quốc vương Cao Xương[39], họ Khúc, tên Trí Thịnh. Mấy ngày trước theo nhị vương huynh đi sứ Y Ngô quốc, có nghe thương nhân người Hồ qua lại Con đường Tơ lụa nói, đại sư muốn Tây du Thiên Trúc cầu pháp. Lúc đó ta còn cùng nhị vương huynh thương lượng với nhau xem có cần ở lại Y Ngô thêm vài ngày đợi ngài đến hay không, không ngờ rằng Phật Tổ thương xót, để ta ở đây lại gặp được đại sư”. Huyền Trang lúc này mới ngộ ra, hóa ra vị tên Khúc Trí Thịnh này lại là tam hoàng tử của Cao Xương, chẳng trách tướng mạo và cách ăn mặc lại giống y hệt người Hán. Cao Xương là một vương quốc có phần khác biệt so với các vương quốc khác ở Tây Vực, từ quốc vương đến bách tính đều là người Hán, tách biệt hẳn với đám người Hồ của các tiểu quốc Tây Vực suốt mấy trăm năm nay, mặc dù trải qua bao thăng trầm, nhưng vẫn ngoan cường mà tiếp tục tồn tại. Cao Xương trước kia là khu vực đóng quân thời Lưỡng Hán. Lúc đó Hán triều xây dựng thành lũy quân sự ở nơi này, vừa canh tác vừa phòng thủ. Bởi vì “địa thế cao rộng, người đông vật thịnh”, liền được mệnh danh là thành lũy Cao Xương. Từ thời Đông Hán đến thời Lưỡng Tấn, trong nước nội chiến liên miên, xác người chồng chất, người Hán vì chạy nạn binh đao, nên đổ dồn về vùng Hà Tây chạy đến tận Cao Xương. Dân số của Cao Xương càng ngày càng đông, người Hán chiếm tới bảy phần. Thời kì Ngũ Hồ Loạn Hoa[40], Nhu Nhiên[41] tấn công Cao Xương, lập người Hán là Hám Bá Chu làm quốc vương Cao Xương, từ đó trở đi Cao Xương được xem như một quốc gia. Trải qua mấy trăm năm rối ren sau đó, những quốc gia hùng mạnh như Nhu Nhiên, Cao Xa, Tây Đột Quyết lần lượt nhảy vào vòng tranh đấu, luận định xem Cao Xương thuộc về ai, kèn cựa nhau suốt mấy trăm năm, nhưng chính quyền Cao Xương vẫn luôn nằm trong tay người Hán. Bắc Ngụy năm Cảnh Minh thứ ba, họ Khúc xưng vương, đến nay đã truyền được tám đời. Phụ thân của Khúc Trí Thịnh là Khúc Văn Thái, chính là quốc vương Cao Xương đời này. Cao Xương nằm ở điểm giao thoa giữa văn hóa Trung Nguyên và Tây Vực, nhưng vẫn luôn lấy tiếng Hán làm ngôn ngữ chính thức, thậm chí bắt đầu từ đời quốc vương Cao Xương trước là Khúc Bá Nhã, dưới sự xếp đặt của Khúc Văn Thái đã tiến hành cải cách Hán hóa, yêu cầu “loại bỏ kiểu tóc quấn và áo vạt dài của đám Di Địch[42], tiến hành Hán hóa”. Kết quả phụ tử Khúc Bá Nhã và Khúc Văn Thái bị các quý tộc Cao Xương làm phản, phát động chiến loạn đòi “lập lại kỷ cương, phép nước”, hai người phải khổ sở trốn chạy, mãi cho đến sáu năm sau mới bình định được phản loạn, một lần nữa lên nắm quyền triều chính. “Không biết tam hoàng tử lần này thân chinh tiến vào sa mạc Mạc Hạ Diên là vì cớ gì?” Huyền Trang hỏi. Khúc Trí Thịnh do dự một lúc, mới trầm giọng nói: “Ta đang ở Y Ngô, nghe được đám thương nhân nói rằng, trong sa mạc có một nhóm thương lữ người Hồ bị bọn cướp chặn giết, không biết là thật hay giả, nên mới dẫn người đi kiểm tra. Không ngờ lại trùng hợp gặp được đại sư”. Huyền Trang thở dài nói: “Việc này không phải là giả, bần tăng vừa mới đi qua, đoàn thương lữ đó có hơn sáu mươi người, toàn bộ đều bị giết hết, vô cùng thê thảm”. Ngài chỉ vào A Thuật, “đứa trẻ này…”. A Thuật đột nhiên cười nói: “Cháu tên A Thuật, là đầy tớ mà đại sư đưa theo từ Trường An tới, tham kiến tam hoàng tử.” Khúc Trí Thịnh liếc nhìn A Thuật, người Hồ ở Cao Xương quá nhiều, hắn cũng không thấy có gì kỳ lạ. Nhưng Huyền Trang lại thấy vô cùng kinh ngạc, ngài nhìn A Thuật chằm chằm, trong lòng không ngừng hoang mang. Thật không ngờ đứa trẻ này lại che giấu thân phận của mình trước mặt Khúc Trí Thịnh! Tại sao chứ? Huyền Trang không dám nghĩ tiếp. Khúc Trí Thịnh không phát hiện ra sự khác thường của Huyền Trang, hắn tỏ ra rất nhiệt tình: “Nếu đại sư đã chứng thực chuyện này, vậy ta cũng không cần phải đi dò xét thêm nữa. Chi bằng như vậy đi, giờ ta hộ tống đại sư tới Y Ngô, để hai tên tùy tùng này của ta đến hiện trường xem xét, đợi tới Y Ngô rồi, ta sẽ thông báo chuyện này cho quốc vương Y Ngô, dặn ông ấy phái người đi xử lý thích đáng. Đại sư thấy thế nào?”. “Xin nghe theo sự sắp xếp của tam hoàng tử!” Huyền Trang nói. Qua một hồi đối đáp, Huyền Trang cũng nhìn ra, vị hoàng tử Khúc Trí Thịnh này là một người nhiệt tình, tính cách đơn thuần chất phác. Chỉ có điều phản ứng của A Thuật lại khiến lòng ngài dấy lên cảm giác có điều chẳng lành. Nhưng giờ lại không phải lúc thích hợp để hỏi han, nên ngài chỉ có thể im lặng, giữ buồn bực ở trong lòng. Khúc Trí Thịnh rất vui mừng, dặn dò hai kỵ sĩ để dành ra một con ngựa nhường cho Huyền Trang cưỡi. Nơi đây cách hồ nước kia không xa, hai kỵ sĩ nọ liền cưỡi chung một con ngựa mà đi, thoáng cái đã không thấy bóng. Khúc Trí Thịnh tự mình dắt ngựa, làm bàn đạp cho Huyền Trang, hầu ngài lên ngựa, bản thân thì đi trước dẫn đường tới Y Ngô. °°° Huyền Trang và A Thuật đi theo Khúc Trí Thịnh một ngày trong sa mạc Mạc Hạ Diên thì tới được ngoài thành Y Ngô, người đi đường dần nhiều lên, trên đỉnh đầu là bầu trời xanh thẳm, hai bên đường trồng hồ dương và liễu rủ, những khóm hồng liễu rậm rạp vô cùng, như sóng lớn bao trùm cả vùng đất hoang vắng. Những ngôi nhà mái bằng vách đất sơ sài nằm rải rác bên ngoài thành. Y Ngô là quốc gia Tây Vực gần Đại Đường nhất, cũng là một tiểu quốc nhỏ bé chật hẹp nổi tiếng của Tây Vực, cả quốc gia chỉ có bảy tòa thành, tổng nhân khẩu không quá hai vạn, người Hồ và người Hán chung sống với nhau. Nhưng Y Ngô là trạm dịch quan trọng của Con đường Tơ lụa, những thương lữ người Hồ đến nơi này, trạm tiếp theo là vào đến Trung Nguyên rồi, vì vậy vương quốc này tuy nhỏ nhưng lại cực kỳ giàu có. Đến cổng thành, thì lối vào bị tắc nghẽn. Cổng thành các nước Tây Vực luôn chật hẹp, thường chỉ cần một đội thương nhân hùng hậu đi qua thì cổng thành liền bị lấp kín đến mức nước chảy không lọt, thậm chí còn gặp phải tình huống hai chiếc xe cao bị kẹt cứng lại, tiến không được mà lùi cũng không xong. Nhưng lần này rõ ràng không phải là thương lữ chặn đường, cổng thành không có một ai, nhưng có không ít thương lữ người Hồ đều đứng dẹp qua một bên ở ngoài cổng thành, không ngừng xì xào bàn tán, bên cạnh còn có binh sĩ duy trì trật tự, không cho những đoàn thương lữ đến sau đi qua. Khúc Trí Thịnh tiến lên phía trước hỏi thăm một thương lữ người Hồ: “Có chuyện gì vậy? Tại sao lại không cho vào thành?”. Thương nhân người Hồ kia nhìn thấy hắn là một người Hán, mặc quần áo cầu kì, nên không dám vô lễ, kính cẩn đáp: “Vị thiếu gia người Hán này chắc không biết, hình như sắp có quý nhân đi qua đây nên mới có lệnh giới nghiêm cổng thành”. “Ồ, lẽ nào Thạch Vạn Niên muốn ra khỏi thành sao?” Khúc Trí Thịnh kinh ngạc hỏi. Người thương nhân kia sợ đến giật nảy mình, nhất thời không dám đáp lại. Bởi vì Thạch Vạn Niên là quốc vương Y Ngô, vị thiếu gia người Hán này lại dám gọi thẳng tên của quốc vương Y Ngô! Thế nhưng Khúc Trí Thịnh lại không buồn để tâm đến điều này, trên thực tế, trong mắt của quốc vương Cao Xương, một Y Ngô nhỏ nhoi như thế này cũng chỉ đáng coi là nước chư hầu của mình. Hắn là hoàng tử của Cao Xương, đương nhiên không cần phải cung kính với quốc vương Y Ngô rồi. “Đại sư không cần để ý tới mấy chuyện này, trước vẫn cứ là mời ngài vào thành đến nhà khách nghỉ ngơi, sau đó ta sẽ đi gặp quốc vương Y Ngô, cùng ông ấy đến bái kiến ngài.” Khúc Trí Thịnh cười nói với Huyền Trang. Huyền Trang lắc đầu: “Bần tăng chỉ là một hòa thượng từ xa đến, sao có thể quấy rầy quốc sự được? Nếu trong nước đã có việc, bần tăng chờ là được.” Khúc Trí Thịnh chỉ đành trông nom bên cạnh ngài, đợi quý nhân trong thành đi qua. Đúng lúc này, trong thành truyền tới tiếng vó ngựa dồn dập, như sấm rền quét qua đường phố, ba mươi kỵ sĩ cưỡi tuấn mã, tay cầm thương dài, thắt lưng dắt loan đao, trên lưng còn đeo cung tiễn, chạy nhanh như gió, phóng qua trước mặt mọi người. Khúc Trí Thịnh vừa nhìn phục sức của đám kỵ sĩ này, nhất thời giật mình thảng thốt: “Người Yên Kỳ?”. Huyền Trang tò mò nhìn hắn một cái, không hiểu được tại sao hắn lại kích động như vậy. Trước khi Tây du, Huyền Trang đã từng tìm hiểu thông tin về các nước Tây Vực, biết được Yên Kỳ này nằm ở phía tây nam Cao Xương, cũng là một quốc gia sùng Phật, nhưng cụ thể hơn thì ngài không rõ. Đừng nói là ngài, chỉ sợ triều đình Đại Đường đối với tình hình Tây Vực lúc này cũng chẳng biết gì hết. Sau chiến loạn cuối đời Tùy, Tây Vực và Trung Nguyên bị ngăn cách, tới nay đã ba mươi năm rồi, ngoại trừ những thương lữ người Hồ đi lại trên Con đường Tơ lụa mang theo tin tức từ các nơi khác nhau ra, Đại Đường cấm bách tính xuất quan, nguồn tin tức tình báo của triều đình cũng bị giới hạn. Nhưng thấy Khúc Trí Thịnh ngơ ngác nhìn kỵ sĩ Yên Kỳ, sắc mặt ửng hồng, kích động khó kiềm chế, sau đó đột nhiên xông lên, chặn một kỵ sĩ cuối cùng lại, nói to: “Long kỵ sĩ, khoan đi đã!”. Kỵ sĩ nọ ghìm chiến mã lại, dùng cây thương dài chỉ vào Khúc Trí Thịnh, lạnh giọng nói: “Ngươi là ai? Tại sao lại chặn đường?”. Lúc này những kỵ sĩ đi trước cũng lũ lượt vòng về, thương dài, cung tiễn đồng loạt chĩa vào Khúc Trí Thịnh. Khúc Trí Thịnh cười tươi như hoa, chắp tay lia lịa: “Không có ác ý, không có ác ý. Tại hạ chỉ là muốn hỏi một chút, Công chúa Long Sương có phải đã đến Y Ngô rồi hay không?”. Huyền Trang chẳng hiểu gì hết, A Thuật mới kéo ngài, nhỏ giọng nói: “Quốc vương Yên Kỳ họ Long, kỵ sĩ Yên Kỳ được xưng là Long kỵ sĩ. Hai nước liền nhau, xưa nay không hòa thuận, đại sư chớ để cho hắn gây sự, chúng ta không trốn thoát được đâu”. Huyền Trang gật đầu, còn chưa kịp nói gì, Khúc Trí Thịnh quả nhiên đã gây sự, kỵ sĩ kia nổi giận, vung cây thương dài lên đánh tới, giận dữ mắng: “To gan, ngươi là ai? Dám hỏi hành tung của công chúa nước ta!”. Khúc Trí Thịnh cười giả lả, không hề né tránh, để mặc cho cán thương dài kia quất vào người mình, bốp một tiếng, áo quần tựa như rách toạc. Khúc Trí Thịnh đau đến mức gương mặt co quắp, nhưng vẫn làm bộ cung kính cười nói: “Không dám, không dám. Tại hạ chỉ là kính mộ công chúa, đặc biệt tới để gửi lời hỏi thăm mà thôi”. Đám kỵ sĩ kia không khỏi đưa mắt nhìn nhau, không hiểu gì, Huyền Trang cũng không khỏi nghẹn lời. Đường đường một quốc gia, mấy kỵ sĩ bình thường xuất ngoại, vừa gặp mặt ngươi đã hỏi thăm công chúa nhà người ta, đây là muốn ăn đòn sao? Mấy kỵ sĩ cường tráng tiến lên phía trước định đánh hắn. Một kỵ sĩ dày dạn kinh nghiệm trong đó nhìn chằm chằm vào hắn rất lâu, thấy quần áo hắn có vẻ là thuộc tầng lớp quý tộc, lại là người Hán, bèn ngăn cản mấy người còn lại, quát hỏi: “Ngươi là ai?”. Khúc Trí Thịnh chắp tay, nét mặt vô cùng thành khẩn: “Tại hạ họ Khúc, tên Trí Thịnh, đã từng được diện kiến công chúa. Thấy trang phục của mấy vị huynh đài giống như cận vệ cung đình, nên mới dám tùy tiện thăm hỏi”. “Khúc Trí Thịnh…” Kỵ sĩ nọ nhìn hắn chăm chú, do dự hồi lâu, hỏi bạn mình, “Cái tên này sao nghe quen tai thế nhỉ…? Ồ!” Hắn đột nhiên thốt lên đầy kinh ngạc, trên mặt lộ rõ vẻ kinh sợ, “ngươi chính là tam hoàng tử của Cao Xương?”. “Hắn quả đúng là tên Khúc Trí Thịnh đó đấy!” Phía xa có tiếng vó ngựa vang lên, một giọng nói trong trẻo, dễ nghe cất lời. Đám người Huyền Trang ngẩng đầu lên nhìn, chỉ nhìn thấy hơn mười con ngựa khỏe mạnh chạy tới cổng thành, cưỡi trên lưng chúng đều là những cô gái người Hồ xinh đẹp trẻ trung, đặc biệt là thiếu nữ đi đằng trước, làn da trắng nõn, vòng eo mềm mại, chân ngọc thon dài kẹp trên bụng ngựa, dưới đôi mắt xanh lam có một tầng lụa mỏng rủ xuống, che khuôn mặt của nàng lại. Nàng mặc một chiếc váy có phần áo ngắn bo tay bằng lụa tơ tằm màu trắng, bên ngoài choàng một chiếc trường bào có thêu hoa ở cổ, trên đầu cài trâm chim đồi mồi phối bảo thạch, một tấm khăn lụa màu đỏ rộng quấn vòng quanh mái tóc, hai đầu mép khăn phía sau lưng rủ xuống đến ngang hông thì được kết lại thành một nút buộc cầu kỳ, buông xuống tận dưới chân. Khi khoái mã chạy băng băng, mảnh lụa đỏ tung bay theo gió, trông đặc biệt phong nhã. Khúc Trí Thịnh đã sớm nhìn đến mức ngây ngẩn, há hốc miệng, si ngốc nhìn nàng chằm chằm, thân thể như khẽ run, thật lâu sau mới lẩm bẩm: “Sương Nguyệt Chi, nàng tới rồi! Ta… thật sự rất vui mừng!”. “Hạ lưu!” Một thị nữ lập tức thay đổi sắc mặt, quất roi tới, bốp một tiếng đã đánh trúng lên mặt của Khúc Trí Thịnh, lưu lại trên mặt hắn một vết cứa chảy cả máu, những giọt máu cuồn cuộn rỉ ra. Huyền Trang sợ đến mức nhảy dựng lên, đến đám Long kỵ sĩ xung quanh cũng phải kinh sợ, dù sao gã này cũng là hoàng tử Cao Xương, bị thị nữ quất một roi, có thể nói là một sự sỉ nhục rất lớn đối với hắn. Nhưng Khúc Trí Thịnh lại cười híp mắt, thần thái vẫn ung dung tự tại, đưa mắt nhìn công chúa Long Sương, chắp tay thi lễ với thị nữ nọ: “Phải phải, là tại hạ ăn nói không cẩn thận, cô nương đánh đúng lắm!”. Lần này đến Huyền Trang cũng không thể tiếp tục đứng ngoài nhìn được nữa, ngài thấp giọng nói: “A Di Đà Phật, tam hoàng tử, có cần bần tăng băng bó cho người không?”. Khúc Trí Thịnh một lúc lâu sau mới hoàn hồn lại, ngạc nhiên hỏi: “Băng bó ư? Không, sao ta lại cần phải băng bó? Roi này là công chúa ban tặng, làm sao có thể tổn hại được! Có lẽ nhiều năm sau, tại hạ còn vuốt ve vết roi trên mặt, nhớ đến phong thái của công chúa hiện giờ, đó chẳng phải là phúc lợi mà Phật Đà ban tặng hay sao?”. Huyền Trang nghẹn lời không nói thêm được nữa. A Thuật ở bên cạnh nhỏ giọng nói: “Sư phụ, vị công chúa Long Sương này tên là Sương Nguyệt Chi, là viên minh châu trên tay quốc vương Yên Kỳ - Long Đột Kỵ Chi, quyền lực áp đảo triều cương, khống chế chính sách quốc gia. Long Đột Kỳ Chi chỉ là kẻ hữu dũng vô mưu, thích khoe khoang, còn vị công chúa này mới là kẻ tinh thông quyền mưu, một tay lập lên quốc sách của Yên Kỳ, được xưng là ‘Phượng Hoàng Tây Vực’”. Huyền Trang yên lặng gật đầu, tất nhiên là ngài nhìn ra được rằng Khúc Trí Thịnh thích vị công chúa này, có thể nói là một tấm chân tình khắc cốt ghi tâm, nhưng mà xem ra sự việc tiến triển hình như không được tốt đẹp như hắn mong cầu. Quả nhiên, công chúa Long Sương nhìn chằm chằm vào Khúc Trí Thịnh với ánh nhìn đầy mai mỉa, trong ánh mắt lộ ra ý trêu đùa, đột nhiên mỉm cười: “Tam hoàng tử, có thể vì ta làm một chuyện được không?” “Được!” Khúc Trí Thịnh vui mừng khôn xiết, lớn tiếng đáp lại, đến cả giọng nói cũng có chút run rẩy, “Công chúa bảo tại hạ làm gì? Đừng nói là một chuyện, dù là một trăm, một ngàn chuyện, tại hạ cũng không tiếc thân này, thề chết hoàn thành tâm nguyện của công chúa”. “Không nghiêm trọng như thế đâu”, công chúa Long Sương thản nhiên nói, “ta tới vội vàng, chưa mang theo nô bộc, ngươi có bằng lòng quỳ xuống làm giá đỡ cho ta, dắt ta xuống ngựa không?”. Chương 2 Hoàng tử Cao Xương, Công chúa Yên Kỳ Lời vừa nói ra, ngay cả đám thị nữ của công chúa cũng phải run sợ, thương nhân và bách tính Y Ngô vây quanh cổng thành đứng xem cũng lặng người. Cái gọi là “quỳ xuống làm giá đỡ”, vốn được xem là một dạng lễ nghi vô cùng cao quý, người hành lễ này phải quỳ trên mặt đất, giơ cao sống lưng cho người ta đạp lên. Ở các vương quốc theo thờ Phật giáo Thiên Trúc thì dạng lễ nghi này rất thịnh hành, thậm chí còn có một vài vị quốc vương khi lễ Phật cũng sẽ tự mình quỳ xuống làm giá đỡ để thỉnh các vị cao tăng đại đức giẫm lên mình mà bước lên pháp đàn. Nhưng trong các gia đình quý tộc Tây Vực nói chung, thì đây lại là động tác mà chúng nô bộc hầu hạ chủ nhân khi xuống ngựa. Tất cả mọi người đều hiểu rõ, công chúa Long Sương mượn cớ này để làm nhục hoàng tử Cao Xương. Ngay cả đám thị nữ của công chúa cùng đám Long kỵ sĩ đều cảm thấy yêu cầu không ổn, Khúc Trí Thịnh tốt xấu gì cũng đường đường là hoàng tử của một nước lớn ở Tây Vực, quan hệ giữa Yên Kỳ và Cao Xương vốn đã không hòa thuận, nay công chúa lại đưa ra yêu sách hạ nhục thế này, rất dễ khiến quốc vương Cao Xương nổi giận, việc này có thể dẫn tới chiến tranh giữa hai nước. Mọi người nhìn thấy Khúc Trí Thịnh đứng ngây người mới dám len lén thở phào một hơi, ai cũng đợi hắn lên tiếng từ chối. Không ngờ hắn đứng ngây đó một lúc lâu, rồi đột nhiên khoa chân múa tay, nhảy phắt xuống khỏi lưng ngựa, chạy đến trước ngựa của công chúa Long Sương, nghiêm sắc mặt nói: “Công chúa, từ lần đầu gặp nàng tại vương cung Yên Kỳ cách đây ba năm, dung nhan tuyệt thế của nàng liền in sâu vào tâm trí của tiểu nhân. Ba năm qua, tiểu nhân hằng đêm khó ngủ, không ngày nào không trằn trọc thương nhớ. Tiểu nhân không dám cầu được công chúa ưu ái, nhưng cầu có thể ngày ngày được nghe tiếng nói, được trông thấy dung nhan tuyệt mỹ của nàng, thì dẫu sau khi chết có phải xuống mười tám tầng địa ngục Nê Lê, cũng cam tâm tình nguyện!”. Sau đó hắn dứt khoát quỳ gối, hai tay chống lên mặt đất, giơ cao lưng, lớn tiếng nói: “Mời công chúa xuống ngựa!”. Đám đông nhất thời chết lặng, ngây người nhìn hoàng tử Cao Xương đang quỳ rạp dưới đất. Huyền Trang cảm thấy không ổn, vội vàng nhảy xuống ngựa, bước tới bên Khúc Trí Thịnh, chắp tay hành lễ: “A Di Đà Phật! Tam hoàng tử, Phật ban giảng giáo pháp, vì chúng sinh mà tiêu trừ bệnh tật. Căn nguyên bệnh trạng của chúng sinh trong tam giới, hết thảy đều xuất phát từ chấp ngã[43] của chúng sinh. Từ bỏ được chấp ngã, mới trừ được ba độc tham sân si. Xin hoàng tử suy nghĩ lại!”. Khúc Trí Thịnh quay đầu nhìn Huyền Trang chăm chăm, không biết từ khi nào đôi mắt hắn đã ngấn lệ, nghẹn ngào đáp: “Đội ơn đại sư chỉ bảo. Chỉ là… vì cớ gì mà kể từ lần đầu trông thấy nàng ấy vào ba năm trước, cả đời này ta cứ nhớ nhung mãi chẳng thể nào quên? Lẽ nào đó không phải là số mệnh mà Phật Tổ an bài cho ta sao? Thân là hoàng tử Cao Xương, cuộc đời tiêu dao tự tại, xem nhẹ tiền tài vật chất, chẳng ham quyền thế, cũng chằng màng ngó tới ngàn vạn mỹ nữ trong vương cung. Ngôi báu là thứ khiến đại ca và nhị ca tranh giành, đối nghịch với nhau như nước với lửa, nhưng với ta nó chẳng khác nào một đôi giày rách. Ta cứ đinh ninh rằng đời này chẳng có gì có thể trói buộc được mình, Đại Đường các ngài không phải có đại sư Phạn Chí[44] từng viết lời Phật kệ sao: “Thành ngoại thổ man đầu, hãm thảo tại thành lí. Nhất nhân cật nhất cá, mạc hiềm một tư vị[45]. Ta có thể nhìn thấu chuyện sinh tử, cũng có thể lường trước chuyện thế tục, đại sư thử nói xem, vì cớ gì mà chỉ nhìn thấy một lần vào ba năm trước, nhưng nàng lại có thể chiếm trọn linh hồn ta như thế?”. Huyền Trang cười khổ, Phạn Chí khi chưa xuất gia mang họ Vương, vốn là tăng hữu của ngài, lớn hơn Huyền Trang mười tuổi, lấy Phật lý giáo nghĩa để dung nhập vào trong thơ thiền, tự dưỡng thành một trường phái riêng, có phần tôn sùng Huyền Trang. Không ngờ Phật kệ của Phạn Chí lại truyền đến tận Tây Vực rồi. Khúc Trí Thịnh dụi mắt, cười nói: “Đại sư, ta tình nguyện làm nô bộc, cũng tốt hơn là làm hoàng tử Cao Xương. Bởi vì, ta không ngăn được trái tim mình”. Sau đó cung kính nói: “Mời công chúa xuống ngựa!”. Huyền Trang thở dài, tránh sang một bên. Công chúa Long Sương nghe hết lời của Khúc Trí Thịnh vẫn chẳng chút động lòng, thản nhiên nhấc chân, chân xỏ ủng da hươu lạnh lùng giẫm lên lưng hắn, chuẩn bị xuống ngựa. Đúng lúc này, đột nhiên trong thành vang lên tiếng quát lớn: “Không được…”. Kèm theo đó là tiếng vó ngựa rầm rập, mấy chục kỵ binh cưỡi chiến mã chạy tới, tiếng vó ngựa nện ầm ầm như sấm rung chớp giật. Đến cổng thành, kỵ sĩ dẫn đầu vừa vung tay, ba mươi kỵ binh cưỡi chiến mã phía sau đồng thời ghìm dây cương, nhất loạt đứng lại trong tiếng hò hét. Động tác của mọi người đồng đều ngay ngắn, khí thế mạnh mẽ, vừa nhìn liền có thể nhận ra là các chiến sĩ tinh nhuệ đã quen chinh chiến nơi sa trường. Dẫn đầu là một nam nhân tráng kiện hùng dũng, cằm để râu, tay chân vạm vỡ, sức lực dồi dào. Hắn mặc áo giáp da, thắt lưng dắt trường đao. Vừa nhìn thấy Khúc Trí Thịnh quỳ dưới đất, công chúa Long Sương đang muốn giẫm chân lên lưng hắn thì nổi trận lôi đình, nhảy xuống ngựa, sải bước đi tới, túm cổ Khúc Trí Thịnh kéo lên. “Tam đệ, đệ đang làm cái gì vậy?” Nam nhân đó trừng mắt hét lớn: “Đừng có làm nhục phụ vương và tôn nghiêm của Cao Xương!”. Khúc Trí Thịnh vừa nhìn thấy hắn thì thoáng chột dạ, thấp giọng gọi: “Nhị ca….” Huyền Trang lúc này mới bừng tỉnh ngộ, thì ra người này là nhị hoàng tử của Cao Xương, Khúc Đức Dũng. Khúc Đức Dũng giận dữ nhìn công chúa Long Sương, thấy trên mặt Khúc Trí Thịnh có vết thương, toàn thân lại đầy bụi bẩn, vừa giận vừa thương: “Tam đệ à, sao đệ lại mắc chứng cuồng mê này? Tâm tư của đệ sao ta không nhìn thấu, nhưng… ả đàn bà này mà đệ cũng cưới được sao? Không bàn chuyện hai nước bất hòa, ngay đến việc kết giao hảo cũng đã nảy sinh mâu thuẫn, lão Long kia muốn dùng ả đổi lấy trăm năm yên bình cho Yên Kỳ, liệu có thể gả ả ta cho đệ không?”. Khúc Trí Thịnh đẩy Khúc Đức Dũng ra, bình thản đáp: “Nhị ca, huynh nghĩ sai rồi, đời này cho dù ta không có khả năng cưới được nàng, vậy thì ở bên nàng, làm chân dắt ngựa, làm giá đỡ, làm một kẻ nô bộc cũng đã là tốt lắm rồi”. “Nhưng đệ là hoàng tử của Cao Xương!” Khúc Đức Dũng không nén nổi cơn giận dữ. “Hoàng tử thì sao chứ?” Khúc Trí Thịnh thở dài, “Nếu làm nô bộc mà được ở bên nàng, còn hoàng tử thì không, vậy thì địa vị hoàng tử cũng chẳng bằng làm nô bộc!”. Khúc Đức Dũng nhất thời uất nghẹn, lại không biết nên nói gì. Khúc Trí Thịnh một lần nữa quỳ xuống, lớn tiếng nói: “Mời công chúa xuống ngựa!”. “Đừng có ức hiếp người quá đáng!” Khúc Đức Dũng nhìn thẳng vào công chúa Long Sương, điềm nhiên nói “Nếu chân của ngươi dám giẫm lên lưng của tam đệ ta, lão tử sẽ cho đội quân hùng mạnh nhất đến đập nát vương thành Yên Kỳ của ngươi!”. Công chúa Long Sương cười nhạt, rồi đột nhiên nhấc chân đá vào lưng Khúc Trí Thịnh một cái, làm hắn ngã lăn ra đất, con ngươi màu lam bừng bừng lửa giận: “Khúc Đức Dũng, rốt cuộc là ngươi ức hiếp người quá đáng hay ta ức hiếp người quá đáng? Ta hỏi ngươi, những thương lữ Yên Kỳ ở sa mạc Mạc Hạ Diên, rốt cuộc là do ai giết chết?”. Nghe những lời này, mặt Huyền Trang liền biến sắc, nhẹ nhàng cầm lấy tay A Thuật, lại phát hiện cả người cậu bé không ngừng run rẩy, tràn đầy sợ hãi nhìn chằm chằm vào dáng vẻ mạnh mẽ to lớn của Khúc Đức Dũng. Khúc Đức Dũng ngẩn ra một lúc, thấy Khúc Trí Thịnh muốn nói chuyện, lập tức ấn vai hắn xuống, cười lạnh: “Ta cũng nghe nói có một đội thương lữ bị giết trong sa mạc Mạc Hạ Diên, lại không biết những người đó là người Yên Kỳ. Công chúa hỏi câu này thật kỳ quặc”. “Kỳ quặc?” Công chúa Long Sương nhìn chằm chằm vào hắn “Đoàn thương lữ đó có tổng cộng sáu mươi ba người, trừ hơn hai mươi người Túc Đặc, còn lại đều là người Yên Kỳ, có hai mươi bộ cung nỏ, mỗi người đều có loan đao, oai võ thiện chiến. Những thành lân cận quanh Y Ngô này, còn có thế lực nào có thể giết tất cả bọn họ?”. Khúc Đức Dũng bật cười lớn: “Ngươi hỏi ta, ta biết hỏi ai đây? Bọn thổ phỉ? Người Đại Đường? Người Đột Quyết? Người Sa Đà? Hay là người Cát La Lộc[46] (Karluk)? Ai ai cũng có thể, tại sao lại đổ hết tội lỗi lên đầu bọn ta chứ?”. Sắc mặt công chúa Long Sương trầm lại: “Được, ta hỏi ngươi. Lấy thân phận của ngươi, tại sao lại phải âm thầm lặng lẽ đi sứ Y Ngô?”. Khúc Đức Dũng bình thản nói: “Đã là đi sứ nước khác, ắt phải gánh theo sứ mệnh riêng, sao có thể nói với ngươi được? Nhưng công chúa nhà ngươi cũng thực kỳ quái, bỗng dưng xuất hiện ở Y Ngô, chớ bảo với ta là ngươi cũng đi sứ nhé. Hơn nữa…” Hắn quan sát công chúa Long Sương từ trên xuống dưới, “Một đội thương lữ, rõ ràng có hai mươi bộ cung nỏ, lại còn được trang bị vũ lực mạnh như vậy, không phải là chuyện nực cười sao? Ai cũng biết, một khi đã tiến vào Qua Châu của Đại Đường, cung nỏ đều bị thu giữ. Từ Yên Kỳ đi tới Y Ngô, việc gì phải trang bị một đội bảo hộ với thực lực kinh người như thế chứ? Thương đoàn mà ngươi nói là dạng gì vậy?”. “Được lắm!” Công chúa Long Sương gật đầu “Ta cũng vốn không mong ngươi sẽ chính miệng thừa nhận, nhưng món nợ ngày hôm nay, người Yên Kỳ ta nhất định ghi nhớ suốt đời. Đợi ta tra ra chân tướng, hy vọng có thể gặp lại ngươi trên sa trường.” “Công chúa, không phải như vậy đâu!” Khúc Trí Thịnh đột nhiên kêu lên. “Câm miệng!” Khúc Đức Dũng cùng công chúa Long Sương đồng thời quát lớn. Khúc Trí Thịnh cũng không lui, đứng giữa hai người, nghiêng đầu nhìn công chúa Long Sương, cầu xin: “Công chúa, hai nước phân tranh không ngừng, giết người vô số, dân chúng oán thán. Chúng ta đứng trong vạch nối sinh tồn giữa hai nước, vốn đã không dễ dàng, tội gì phải khiến hai quân đội tàn sát lẫn nhau thêm? Nếu công chúa không chê, ta nguyện thuyết phục phụ vương, cùng Yên Kỳ kết tình giao hảo, hai nước chúng ta cùng chung tay cai quản Con đường Tơ lụa, chẳng phải là tốt hơn sao?” Công chúa Long Sương lộ ra vẻ trào phúng: “Sau đó ngươi có thể cầu thân với Yên Kỳ ta, khiến ta phải theo cách hòa thân mà gả đến Cao Xương đúng không?” Khúc Trí Thịnh đỏ mặt, những lời nói này như nhát dao đâm thẳng vào khát vọng sâu kín nhất trong lòng, hắn liền nghiêng đầu nhìn công chúa, chờ nàng trả lời. “Được! Được lắm!” Công chúa Long Sương nở nụ cười: “Nhưng ta nói cho ngươi biết, Khúc Trí Thịnh, ngươi sớm đã không có phúc đó rồi. Long Sương Nguyệt Chi ta đời này kiếp này, dù có phải gả cho kẻ ăn xin đầu đường xó chợ, toàn thân chảy mủ, cũng tuyệt đối không gả cho Khúc Trí Thịnh ngươi!” Những lời này vừa thốt ra còn hàm chứa ý cười nhàn nhạt, cũng mang đậm ý chí, lộ rõ vẻ khinh thường và oán hận tột cùng. Công chúa Long Sương không thèm liếc hắn một cái, giơ roi giật cương, con ngựa Yên Kỳ cao lớn hí dài một tiếng, lao vụt ra ngoài thành. Đám thị nữ cùng Long kỵ sĩ vội vàng đi theo, cuốn lên một đám bụi phủ kín cả người Khúc Trí Thịnh. Khúc Trí Thịnh ngơ ngác ngóng nhìn bóng lưng yểu điệu khuất dần trong đám bụi, khóe miệng nhếch lên, bật ra tràng cười thê lương, rồi đột nhiên phun ra một ngụm máu tươi, quỳ rạp xuống đất. Huyền Trang kinh ngạc, vội ôm lấy hắn, hắn mới không nằm ngã lăn ra đất. Khúc Trí Thịnh đẩy Huyền Trang ra, lảo đảo đứng lên, gương mặt thanh tú thoáng hiện một nụ cười ái ngại, đau lòng mà thề rằng: “Long Sương Nguyệt Chi… ta, Khúc Trí Thịnh, xin thề trước ngàn vị Phật hiện thế ở Hiền Kiếp[47]: Đời này nếu không thể cưới nàng làm vợ, ta sẽ sinh bệnh lở loét, hôi thối như quỷ; chết không có đất chôn, phơi thây ra đường, làm thức ăn cho chó; hồn nhập vào mười tám tầng địa ngục Nê Lê, chịu vạn kiếp nỗi khổ, vĩnh viễn không siêu sinh; tất cả con cháu về sau, ngàn đời vạn kiếp, nam thành hoạn nô, nữ làm kỹ nữ… Các vị Thần Phật trên trời dưới đất đi qua, xin hãy chứng kiến lời thề của ta!” Lời thề độc này khiến mọi người thất kinh, ngay cả Khúc Đức Dũng cũng ngây người. Lúc này tại cổng thành, thương nhân đi đường tụ tập ngày càng nhiều, nhưng hoàng tử cùng công chúa của hai nước lớn ở Tây Vực nảy sinh xung đột, chỉ sợ đến quốc vương Y Ngô cũng chẳng dám can thiệp, nên mọi người chỉ đành bấm bụng nán lại chờ, không nghĩ đến việc bản thân lại trở thành nhân chứng cho lời thề độc địa, quyết liệt nhất từ trước tới giờ như thế này! Lòng Huyền Trang chấn động, ngài biết lúc này Khúc Trí Thịnh đã không giữ được tinh thần, bị tà ma xâm lấn, vội vàng vươn cánh tay phủ lên trán của hắn, thì thầm: “Phàm những thứ mà ta tưởng thấy, kỳ thực vốn là không. Như người vớt trăng nơi đáy nước, kẻ muốn buộc gió ở ngọn cây. Vớt lên, trăng nào thấy, gió nắm làm sao được. Chúng sinh luân hồi tùy nghiệp quả, đời chỉ như giấc mộng mà thôi! Ôi…!”. Theo lời tụng của ngài, Khúc Trí Thịnh trợn ngược mắt, ngã vật xuống đất. Huyền Trang lúc này mới thở phào một hơi, nói với Khúc Đức Dũng: “Nhị hoàng tử, tinh thần của ngài ấy bị tổn thương nghiêm trọng, xin hãy để ngài ấy được nghỉ ngơi, tỉnh dậy sẽ thấy đỡ hơn!”. Khúc Đức Dũng vô cùng cảm kích, đưa tay ra đỡ tam đệ của mình, rồi sai người tìm một cỗ xe cao đưa Khúc Trí Thịnh vào thành Y Ngô, sau đó hỏi thăm Huyền Trang: “Xin hỏi đại sư xưng hô như thế nào? Làm sao lại quen biết với tam đệ của ta vậy?” “A Di Đà Phật, bần tăng tên gọi Huyền Trang, tới từ Trường An, khi đi ngang qua sa mạc Mạc Hạ Diên thì ngẫu nhiên gặp được tam hoàng tử”, Huyền Trang nói. Khúc Đức Dũng lắp bắp kinh hãi, vội vàng thăm hỏi: “Thì ra ngài chính là đại sư Huyền Trang! Khoảng một tháng trước, danh tiếng của ngài đã truyền khắp Tây Vực, khi ta và tam đệ đi sứ Y Ngô, phụ vương còn lệnh cho chúng ta nghe ngóng hành tung của ngài. Đại sư, xin ngài theo ta tới Cao Xương đi!” Huyền Trang khéo léo từ chối, mặc dù mục đích của ngài là đến Thiên Trúc, nhưng ngài không cần ngựa phi không ngừng nghỉ, một mạch chạy đến Thiên Trúc. Mục đích Tây du là để tìm hiểu Phật pháp của các vương quốc ở dọc đường, từ đó bổ sung những thiếu sót của mình, để tìm hiểu và nghiên cứu thêm về nguồn gốc cũng như sự phát triển của Phật pháp.. Khúc Đức Dũng cũng không nài ép ngài, chuyện của đệ đệ đã đủ khiến hắn đau đầu nhức óc rồi, đành phải tạm biệt Huyền Trang. Trước khi đi hắn nói với Huyền Trang: “Trong thành Y Ngô có chùa Đại Giác, trong chùa có tăng nhân người Hán, đại sư nghỉ lại ở đó hẳn sẽ thuận tiện hơn. Tại hạ có chút việc gấp phải đi trước xử lý, xong việc lại đến bái kiến đại sư.” Huyền Trang liên tục nói không dám, hai người liền chào từ biệt, lúc này xem ra cổng thành đã thông thoáng rồi. Huyền Trang và A Thuật dắt ngựa tiến vào thành. Ở Tây Vực, muốn vào thành cần giao nộp thuế, số lượng tiền thuế phải nộp không giống nhau, thương lữ phải giao nộp nhiều hơn một chút, nhưng tăng lữ thì được miễn thuế. Đường phố trong thành Y Ngô chật chội, hai bên đều là những căn nhà xây bằng gạch mộc[48], gạch mộc phải dày đến vài thước, vô cùng chắc chắn kiên cố. Không giống như Trung Nguyên, khí hậu Tây Vực khô hạn, không cần lo lắng vấn đề thoát nước mùa mưa, bởi vậy mái nhà đều là mái bằng. Phòng ốc sát đường đều bị sung công làm cửa hiệu, mái nhà bền chắc còn có thể xây lên thêm một, hai tầng làm chỗ ở cho gia đình. Đường xá đi lại khá phức tạp, lúc này đã vào tháng Mười một, nhưng ánh mặt trời vẫn nóng rực, cửa tiệm hai bên đường đều dựng lều ở bên ngoài, kệ sạp chiếm giữ hơn nửa con phố. Trên quầy hàng bày đầy các loại hàng hóa của phương đông lẫn phương tây, như tơ lụa, giấy, gang, cá biển khô, ngọc trai, quạt của Trung Nguyên; lông cừu, da thuộc, bảo thạch, chế phẩm từ vàng bạc, loan đao của phương tây, cần gì có đó. Ngôn ngữ lại càng đa dạng hơn. Mặc dù Huyền Trang từng học qua tiếng Phạn, nhưng đến đây thì vẫn còn xa mới đủ dùng, nhờ sự giảng giải của A Thuật ngài mới phân biệt được rõ ràng tiếng Ba Tư, tiếng Hồi Hột, tiếng Thổ Hỏa La, tiếng Đột Quyết và các loại phương ngữ Tây Á phát triển ra từ tiếng Phạn. A Thuật nói cho ngài biết người Túc Đặc làm nghề buôn bán, từ khi còn nhỏ đã phải học tập nhiều loại ngôn ngữ, phải nắm vững tiếng Ba Tư, tiếng Hán, tiếng Phạn, bởi vì ngôn ngữ các quốc gia trên Con đường Tơ lụa phần lớn dựa theo những biến thể của các ngôn ngữ này mà ra. Huyền Trang không khỏi cảm khái, nếu nói rằng Con đường Tơ lụa là đường huyết mạch từ Ba Tư di chuyển tới Đại Đường, như vậy người Túc Đặc chính là máu chảy trong đường huyết mạch này. Trong các nước Tây Vực, chùa Phật rất dễ tìm, chỉ cần tìm được nơi họp chợ, bên cạnh nhất định là chùa Phật. Quan hệ của Phật giáo và thương nhân có từ xa xưa, từ thời Thích Ca Mâu Ni, tăng lữ truyền giáo đi theo lộ tuyến của thương lữ tới, tăng lữ dựa vào sự bố thí và bảo vệ của thương lữ suốt dọc đường đi, thương lữ thì dựa vào đặc quyền miễn thuế của tăng lữ mà kiếm nhiều tiền hơn một chút. Sau khi Phật môn hưng thịnh, Phật giáo vẫn thường dành cho thương lữ sự bảo hộ lớn nhất, cung cấp cho họ nơi dừng chân và lương thực. Bởi vậy mà chợ thường hay vây quanh chùa Phật. Huyền Trang và A Thuật che mũi chạy từ trong một khu chợ bán la ngựa ra liền nhìn thấy chùa Đại Giác ở ngay trước mặt. Chùa Phật tại Tây Vực không giống như ở Trung Nguyên, mà nổi bật với nét văn hóa dị vực, không có gạch xanh ngói biếc vây quanh hiên nhà nóc đình của Trung Nguyên, mà thường dựa theo địa thế đặc thù của khu vực đó mà xây nên. Chùa Đại Giác này rộng khoảng hai, ba mươi mẫu, chia thành hai khoảng. Phía trước là kiến trúc gạch mộc vách đất vừa dày vừa nặng, cửa sổ hẹp, từ cửa chính hình vòm đi vào, chính giữa là một sảnh chính rất dài, hai bên đều là các loại tăng phòng. Hậu viện thì có một tòa Phật tháp to lớn hùng vĩ, kết cấu gạch mộc cao hơn mười trượng, mang đậm nét văn hóa Thiên Trúc. Huyền Trang và A Thuật đến chùa Đại Giác, vừa tới cửa liền thấy ba lão tăng tay nhấc vạt tăng bào từ trong chùa chạy ra, đến cả giày cũng chưa kịp mang. Ba lão tăng này tướng mạo tựa như người Trung Nguyên, vừa nhìn thấy Huyền Trang thì bật khóc nức nở: “Không ngờ đời này kiếp này còn có thể gặp được người đến từ cố hương!”. Một câu nói này khiến Huyền Trang cũng phải rơi lệ. Một lão tăng khóc lóc hồi lâu, xấu hổ nói: “Đại sư chớ cười, Tây Vực đã thoát ly khỏi Trung Nguyên quá lâu, dù Đại Tùy từng khống chế Tây Vực một thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng cấm bách tính xuất quan, trên Con đường Tơ lụa vạn dặm chỉ thấy thương lữ người Hồ qua lại, sao có thể nhìn thấy bóng dáng người Hán đây?” Mọi người cùng trò chuyện trong chốc lát, rồi họ mời Huyền Trang rửa mặt, dùng đồ chay. Một đường đi qua sa mạc Mạc Hạ Diên, dù nguy hiểm nhưng vẫn còn sống sót, thể lực sớm đã hao hết, lúc này Huyền Trang mới cảm thấy mệt mỏi. A Thuật xem ra cũng mệt muốn chết rồi, hai người nghỉ ngơi đến đêm mới tạm hồi phục thể lực. Lão tăng sắp xếp người đưa cơm chay tới, là một chút trái cây và thức ăn làm từ bột mì, còn có một bình nước ép nho. Huyền Trang nhìn A Thuật ăn như hổ đói, thấp giọng hỏi: “A Thuật, cuộc chặn giết xảy ra trong sa mạc kia rốt cuộc là như thế nào? Những lời tố cáo của công chúa Long Sương là thật sao? Thúc thúc của con quả thực đã bị người Cao Xương giết chết?” A Thuật bất ngờ bị ngài hỏi tới, liền bị nghẹn, ho khan một lúc lâu, uống ực một hớp nước nho mới bình thường lại đôi chút. Cậu lặng nhìn chằm chằm vào ngọn đèn trên bàn, trên gương mặt lộ ra vẻ sợ hãi: “Sư phụ, đám thổ phỉ kia chính là người Cao Xương! Đêm đó con đã nhìn thấy mặt của Khúc Đức Dũng!” Thì ra đêm hôm đó đoàn thương lữ trú đóng ở cồn cát bên cạnh hồ nước, A Thuật lén chạy tới hồ nước để bơi, mấy canh giờ sau mới trở về doanh trại ngủ, vừa bò lên trên cồn cát liền nhìn thấy ở nơi xa trong đống cát lờ mờ xuất hiện vô số bóng người. Trong miệng bọn họ ngậm loan đao, trên tay kéo cung tiễn, dáng vẻ như ma như quỷ, lặng lẽ tiến tới gần doanh trại. Mấy người gác đêm bị bắn chết, một người trong số đó khi gần chết thổi kèn lệnh sừng trâu trong tay lên, đám thương lữ đều choàng tỉnh, hăng hái phản kháng. Nhưng đúng lúc này, đại đội kỵ binh chạy băng băng tới, mũi tên bắn ra như mưa, bọn họ thúc ngựa chạy vòng quanh doanh trại, tùy ý bắn giết, vô số người bị mũi tên nhọn bắn xuyên qua thân, kêu la thảm thiết rồi dần gục ngã. A Thuật vội vàng vùi mình trong đống cát, chỉ ló đầu ra quan sát, đây là kinh nghiệm từ trong máu và lửa mà thúc thúc của cậu khi đi qua Con đường Tơ lụa đã tích lũy ra để bảo vệ cháu mình cho thật tốt, nhưng bản thân thúc thúc của cậu lại bị kỵ binh bổ một đao. Đoàn thương lữ dù có mang cung nỏ, nhưng trước sự tập kích bất ngờ của đội kỵ binh thì về căn bản vẫn không cách nào chống cự được, dù là người Túc Đặc hay người Yên Kỳ đều nhanh chóng bị giết hết. Lúc này, Khúc Đức Dũng mới đi vào doanh trại, thân hình hắn cao lớn mạnh mẽ như một vị thần khiến A Thuật ấn tượng đến mức khắc cốt ghi tâm. Khúc Trí Thịnh đi theo sau hắn, dường như bị dọa sợ tới mức chân tay nhũn cả ra, bị Khúc Đức Dũng mắng liên tục: “Tam đệ, phụ vương lệnh cho đệ theo ta tới đây vốn là muốn cho đệ mở mang kiến thức về chiến trường máu và lửa. Đệ lại kinh hoàng khiếp sợ như vậy, trở về sao ăn nói với phụ vương được đây? Qua bên kia, xem xem còn ai chưa chết không, chém cho hắn thêm một nhát.” Dưới ánh lửa, khuôn mặt Khúc Trí Thịnh đỏ bừng, xách kiếm lật tìm người còn sống sót. Khúc Đức Dũng cũng lần lượt tìm kiếm, hắn hạ nghiêm lệnh, chém tận giết tuyệt, không thể để lại một người sống sót. Nhưng đúng lúc này, một người Yên Kỳ bỗng nhiên bật dậy từ trong đống thi thể, nâng đao nhắm thẳng tới Khúc Đức Dũng mà chém. Khúc Đức Dũng lách mình tránh thoát, loan đao trong tay thuận thế chém tới, một cánh tay của người nọ bị chém rơi, trong tiếng kêu gào thảm thiết, bị hắn đạp ngã xuống mặt đất. A Thuận nhận ra hắn, là thủ lĩnh người Yên Kỳ. Không ngờ Khúc Đức Dũng cũng nhận ra hắn, giẫm lên ngực của người kia cười ha ha: “Hóa ra là đại nhân Long Chiêm Bà. Hừ hừ, đường đường là Lễ bộ trưởng Sử của Yên Kỳ mà lại đi làm một thương nhân”. “Khúc Đức Dũng”, Long Chiêm Bà kia khàn giọng nói, “Ngươi tập kích giết hại sứ giả Yên Kỳ, chẳng lẽ muốn khơi dậy chiến tranh hai nước sao?”. “Sứ giả Yên Kỳ?” Khúc Đức Dũng cười lạnh, “Ở đâu? Lão tử chỉ thấy một đám người Túc Đặc và người Yên Kỳ họp lại thành một đoàn thương lữ mà thôi!” Hắn ngồi xổm xuống, dùng sống đao vỗ lên mặt Long Chiêm Bà, “Nói như vậy, Long đại nhân ngươi hóa ra là sứ giả sao? Nói một chút coi, đi sứ ở đâu? Có sứ mệnh gì?”. Long Chiêm Bà hừ một tiếng, cố nén cơn đau kịch liệt, không nói lời nào. Khúc Đức Dũng lục lọi trong ngực áo hắn một lát, móc ra một quyển sách lụa, Long Chiêm Bà quát ầm lên: “Trả cho ta…”. Khúc Đức Dũng cười lạnh một tiếng, nặng nề giẫm lên mặt hắn, mở cuốn sách lụa ra, chống trên mũi đao, sai người cầm đuốc soi cho mình quan sát. Hắn xem một lúc lâu, rồi hít sâu một hơi, nghiến răng nghiến lợi: “Quả nhiên là như thế! Người Yên Kỳ lại âm thầm xin Đại Đường giúp đỡ, mở lại Con đường Tơ lụa cũ! Tâm địa thật ác độc, đây là muốn ép Cao Xương ta vào chỗ chết mà! Hừ, khó trách ngươi đường đường Lễ bộ trưởng Sử lại lén lút giả bộ làm thương lữ đi sứ Đại Đường! Ngươi còn lời gì để nói không?”. Long Chiêm Bà cười gượng một tiếng: “Muốn chém giết, muốn róc thịt thì ngươi cứ ra tay, nhưng Long tộc Yên Kỳ ta tuyệt đối không từ bỏ ý định, nhất định phải đoạt được Con đường Tơ lụa, mở lại con đường cũ này!”. “Nằm mơ!” Khúc Đức Dũng một đao giết chết Long Chiêm Bà, đoạt thư và cống phẩm của sứ giả Yên Kỳ, nhân lúc trời tối dẫn đầu đội kỵ sĩ bỏ đi. °°° A Thuật vùi người trong cát, nhìn kẻ giết người rời đi. Suy cho cùng thì cậu cũng chỉ là một đứa trẻ chín tuổi, đã sớm bị dọa đến sợ ngây người, mãi không dám thò đầu ra. Nghe tới đây, Huyền Trang cảm thấy khá khó hiểu: “Con đường Tơ lụa cũ là sao?”. “Cái đó con lại hiểu rất rõ”, A Thuật bèn giải thích, “Con đường Tơ lụa cũng không phải luôn luôn bất di bất dịch, nhiều khi do địa lý thay đổi, hoặc chiến tranh nổ ra, đoàn thương lữ có thể thay đổi lộ tuyến. Vốn dĩ những đoàn thương lữ sẽ đi một lộ tuyến sát rìa phía bắc của đại sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can[49] (Taklamakan), đi qua Cô Mặc[50], Quy Từ[51], và bờ nam hồ Bác Tư Đằng[52] (Bosten) của Yên Kỳ, Lâu Lan[53], lại qua hồ La Bố[54] đến Ngọc Môn quan[55]. Sau này khi nhà Hán ở Trung Nguyên khống chế Y Ngô đã thay đổi đường đi, sau khi qua Cô Mặc, Quy Từ, từ bờ bắc hồ Bác Tư Đằng tiến vào Cao Xương, rồi lại đến Y Ngô, đi qua sa mạc Mạc Hạ Diên đến Qua Châu. Con đường này chính là đường mà sư phụ vừa đi qua, được gọi là đường mới”. “Ồ!” Huyền Trang gật đầu, “Vậy thì đường mới và đường cũ đối với Yên Kỳ và Cao Xương sao lại quan trọng đến như vậy, thậm chí còn nguy hiểm tới mức vong quốc?”. A Thuật nhếch môi: “Sư phụ, đối với các nước lớn nằm tại hai đầu đông tây của Con đường Tơ lụa như vương triều nhà Hán ở Trung Nguyên cùng với Ba Tư và Bái Chiêm Đình mà nói, chỉ cần không đóng cửa, thì đi con đường nào cũng được cả. Nhưng đối với những nước nhỏ trên Con đường Tơ lụa mà nói, nếu đổi đường thì quốc gia của bọn họ lập tức sẽ biến mất trong tro bụi lịch sử. Bởi vì bọn họ bám víu vào những thương lữ trên Con đường Tơ lụa để sinh tồn, có thương lữ thì có của cải, có người ở, nếu không quốc gia của bọn họ cũng sẽ bị lãng quên, dân chúng không thể sinh tồn được, quốc gia cũng không thể duy trì”. Huyền Trang sợ hãi cảm thán không thôi, những khó khăn trong việc sinh tồn của những tiểu quốc này quả là điều mà người Trung Nguyên chưa từng để tâm đến. “Đối với Yên Kỳ mà nói, mặc dù hai con đường đều đi qua quốc gia của bọn họ, nhưng bản chất không giống nhau. Bởi vì nếu đi đường cũ, qua bờ phía nam của hồ Bác Tư Đằng cũng đồng nghĩa với việc đi sát cạnh vương thành Yên Kỳ, lãnh thổ của họ. Họ có toàn quyền khống chế. Nhưng nếu đi đường mới, thứ nhất khoảng cách với vương thành khá xa, quan trọng hơn chính là khu vực đó thực tế thuộc phạm vi khống chế của Cao Xương. Hơn trăm năm qua, của cải trên Con đường Tơ lụa liên tục cuồn cuộn chảy vào Cao Xương, biến Cao Xương trở thành quốc gia giàu có thu được nhiều lợi ích nhất trên Con đường Tơ lụa, còn người Yên Kỳ lại dần bị lạnh nhạt. Bởi vậy, đoạt được quyền khống chế Con đường Tơ lụa đối với Yên Kỳ mà nói là vô cùng quan trọng.” Đến giờ Huyền Trang mới hiểu rõ, thở dài nói: “Như vậy một khi Con đường Tơ lụa đổi thành đường cũ thì Cao Xương sẽ bị cách xa nó, tan biến trong bão cát đại mạc”. A Thuật gật đầu, Huyền Trang cuối cùng cũng hiểu được vì sao người Cao Xương phải bí mật chặn giết sứ giả Yên Kỳ rồi. Yên Kỳ phái sứ giả triều cống Đại Đường, thỉnh cầu thay đổi lộ tuyến của Con đường Tơ lụa. Một khi Đại Đường chấp thuận, đây chính là tai họa diệt quốc với người Cao Xương. Nhưng Huyền Trang lại thấy kỳ quái: “Con đường Tơ lụa mới tồn tại cũng được hơn trăm năm, người Yên Kỳ thỉnh cầu thay đổi lộ tuyến, triều đình Đại Đường chắc gì đã chấp thuận chứ? Sao người Cao Xương phải vội đoán chắc rằng Đại Đường sẽ chấp thuận thỉnh cầu của Yên Kỳ mà sinh lo sợ, không tiếc chặn giết sứ giả”. A Thuật thở dài: “Sư phụ quả nhiên mắt sáng như đuốc, liếc mắt liền có thể thấy được điểm mấu chốt. Đúng vậy, bình thường Đại Đường có thuận ý Yên Kỳ hay không thì chẳng ai chắc được, nhưng lúc này nếu người Yên Kỳ khẩn cầu thì triều đình Đại Đường đến tám, chín phần là chấp thuận!”. “Vì sao?” Huyền Trang giật mình nói. “Sư phụ thử nghĩ xem” A Thuật nháy mắt, cười hì hì nói. Huyền Trang cười khổ không thôi, đứa trẻ trước mắt này nói là chín tuổi, nhưng nếu chỉ nghe lời nói, có bảo cậu ba mươi, bốn mươi tuổi cũng sẽ có người tin. Đứa trẻ này quá trải đời, tư duy nhanh nhẹn, học rộng nghe nhiều, nhất là cách nói chuyện và nhìn nhận vấn đề không khác gì người trưởng thành. Xem ra người Túc Đặc có thể khống chế Con đường Tơ lụa mấy trăm năm đương nhiên có đạo lý của họ. Đọc vạn quyển sách không bằng đi vạn dặm đường, một đứa trẻ được bồi dưỡng từ nhỏ, dù là cải cách chính trị hay cơ hội làm ăn buôn bán cũng đều quan tâm, còn tự suy nghĩ vấn đề, cách thức đối người đãi vật đều có thể khiến tâm trí của cậu nhanh chóng trưởng thành. Huyền Trang suy nghĩ hồi lâu, chợt nhớ tới một đại sự của Đại Đường, không khỏi sợ hãi: “Chẳng lẽ có liên quan tới việc Đại Đường xuất binh đánh Đông Đột Quyết?”. Lúc này A Thuật thật sự giật mình: “Sư phụ, người thật sự là thần nhân đây!”. Huyền Trang xấu hổ vô cùng. Ngài chỉ đoán mà thôi. Qua lời giải thích của A Thuật, ngài mới hiểu được nút thắt trong đó. Mùa thu năm Trinh Quán thứ ba, cũng chính là trước khi ngài rời khỏi Trường An, Lý Thế Dân phái Lý Tĩnh, Lý Tích, Sài Thiệu thống lĩnh mười vạn đại quân tiến lên phương bắc, định đánh một trận tấn công diệt Đông Đột Quyết. Lúc này chắc hẳn hai bên vẫn còn đang chém giết trên thảo nguyên rộng lớn. Các nước Tây Vực lúc này đều bị khống chế trong tay Tây Đột Quyết, mặc dù Đông - Tây Đột Quyết trước giờ không vừa mắt nhau, nhưng con đường mới đi theo hướng bắc, cách Đông Đột Quyết quá gần, Đông Đột Quyết có thể cắt đứt Con đường Tơ lụa bất cứ lúc nào. Nếu như đổi thành đường cũ, chẳng những Đông Đột Quyết ở ngoài tầm với, đến cả tầm ảnh hưởng với Tây Đột Quyết cũng dần kém đi, đây chính là điều khiến triều đình Đại Đường thấy vui nhất. “Quan trọng hơn là quốc vương của Cao Xương là thông gia với Khả hãn Thống Diệp Hộ[56] của Tây Đột Quyết!” A Thuật nói, “Trưởng nữ của Khúc Văn Thái gả cho trưởng tử của Khả hãn Thống Diệp Hộ là Đát Độ Thiết, bởi vậy trong trận chiến phân tranh giữa các nước Tây Vực, Tây Đột Quyết thường nghiêng về Cao Xương, làm những nước Tây Vực khác rất bất mãn. Mặc dù quan hệ trước mắt giữa Đại Đường và Tây Đột Quyết tốt đẹp, nhưng nếu có thể khiến Tây Đột Quyết suy yếu thì tội gì không làm?”. “Thì ra là thế!” Đến giờ Huyền Trang mới bừng hiểu, “Khó trách Cao Xương lại sợ hãi như vậy, là sợ sứ giả Yên Kỳ đến được Trường An”. A Thuật bỗng trầm hẳn xuống, hẳn cậu đang nghĩ tới thảm kịch mà người trong tộc phải hứng chịu vì bị kéo vào vòng tranh đấu của hai nước. Hai người ngồi đối diện ngọn đèn rất lâu không nói gì, thật lâu sau Huyền Trang mới thở dài: “Xem ra kế hoạch đoàn sứ Yên Kỳ đi sứ Đại Đường lần này do chính công chúa Long Sương đề ra. Giỏi nắm bắt thời cơ và cục diện chính trị như vậy, vị ‘Phượng Hoàng Tây Vực’ này quả nhiên không phải hư danh, Khúc Trí Thịnh đã yêu nàng ấy, thật là oan nghiệt!”. “Bọn họ đều đáng chết!” A Thuật bực tức nói. Huyền Trang cười cay đắng, lúc này tăng nhân chùa Đại Giác tới gặp Huyền Trang: “Đại sư, quốc vương Y Ngô và nhị hoàng tử của Cao Xương đến đây bái kiến đại sư, đang đợi trong tăng phòng.” Huyền Trang khẽ gật đầu, A Thuật lại nói: “Con không đi!”. Huyền Trang mỉm cười xoa đầu cậu, dặn dò tăng nhân dẫn A Thuật đi dùng cơm, rồi lấy từ trong bọc hành lý ra một bộ tăng bào sạch để thay, cũng thay luôn cả đôi hài đã bị mài nát mũi của mình. Ngài là một người ưa sạch sẽ, sau khi chuẩn bị tươm tất mới ra ngoài gặp quốc vương Y Ngô. Quốc vương Y Ngô là Thạch Vạn Niên có một nửa huyết thống Túc Đặc, tổ tiên đến từ Thạch Quốc thuộc Túc Đặc, chính là cố hương của Thạch Bàn Đà mà Huyền Trang đã gặp khi ở Qua Châu. Sau đó gia tộc này định cư ở Y Ngô, thông hôn với người Hán địa phương, thành một gia tộc lớn ở đây. Thời Tiền Tùy, thành Y Ngô là quận Y Ngô của triều Tùy, sau đó cuối thời Tùy đại loạn, ngăn cách với Trung Nguyên, Thạch Vạn Niên nhân cơ hội đứng dậy, thống lĩnh bảy thành độc lập, dựng nên nước Y Ngô, nói ra cũng là một nhân vật kiêu hùng của Tây Vực. Đến tăng phòng, Huyền Trang không khỏi kinh hãi, chẳng những quốc vương Y Ngô và Khúc Đức Dũng cùng đến đây, còn có hơn mười trụ trì của các chùa trong Y Ngô. Mọi người vừa nhìn thấy Huyền Trang liền cùng nhau cúi chào. Quốc vương Y Ngô mời ngài ngày mai tới vương cung của mình mở đàn giảng pháp, Huyền Trang vui vẻ đáp ứng. Hàn huyên vài câu, Khúc Đức Dũng nói: “Đại sư, đệ tử tới là để chào từ biệt đại sư, thứ nhất là đã hoàn thành sứ mệnh, phải quay về phụng mệnh phụ vương, thứ hai là tình hình của tam đệ không thấy khá hơn, vẫn là nên đưa đệ ấy về nước chẩn trị. Ngày mai đệ tử phải đi, xin đại sư hãy bảo trọng. Qua mấy ngày tới, đại sư nhất định phải tới Cao Xương đấy.” Mặc dù Khúc Đức Dũng giết người không ghê tay, võ dũng hung ác, nhưng lại hết sức cung kính với Huyền Trang. Hắn không chỉ sùng kính thân phận cao tăng của ngài, mà càng cảm phục vì ngài là hòa thượng mà lại dám đơn độc vượt sa mạc Mạc Hạ Diên. Người Tây Vực hiểu quá rõ sa mạc Mạc Hạ Diên đáng sợ đến thế nào, vị hòa thượng này trong mắt họ chẳng những thần bí, mà còn đáng được kính nể. Biết sứ mạng thật sự khiến Khúc Đức Dũng đi sứ Y Ngô, trên mặt Huyền Trang vẫn biểu hiện vẻ thản nhiên bình thường, chắp tay nói: “Vậy thì chúc nhị hoàng tử đi đường thuận lợi. Bần tăng nán lại Y Ngô một thời gian, có thể lên tây bắc chọn đường đi thành Khả Hãn Phù Đồ[57], chỉ sợ không thể đến Cao Xương được rồi!”. “Đại sư tới thành Khả Hãn Phù Đồ làm gì?” Quốc vương Y Ngô ngạc nhiên hỏi. Huyền Trang cười: “Thành Khả Hãn Phù Đồ chính là vương đình của Tây Đột Quyết, các nước Tây Vực đều thuộc quản lý của Tây Đột Quyết, nếu bần tăng không lấy con dấu của Tây Đột Quyết thì sao có thể tự do đi lại trong Tây Vực được?”. Mọi người khẽ bật cười, Khúc Đức Dũng suy nghĩ một chút, rồi cũng cười nói: “Đây quả thực là một vấn đề, đợi sau khi đệ tử về nước sẽ thương nghị với phụ vương xem sao”. Đúng lúc này, hai binh sĩ Cao Xương vội vã xông vào: “Khởi bẩm nhị hoàng tử, có thích khách xâm nhập dịch quán ám sát tam hoàng tử!”. Khúc Đức Dũng và quốc vương Y Ngô giật mình kinh hãi, Khúc Đức Dũng phẫn nộ quát: “Tam đệ có sao không?”. “Tam hoàng tử bình an vô sự, nhưng hộ vệ có ba người mất mạng, cũng không biết thích khách kia sử dụng yêu pháp gì mà toàn thân họ không bị thương, chỉ ngã gục xuống đất mà chết”, binh sĩ Cao Xương nói. Quốc vương Y Ngô cũng ngồi không yên, dám ám sát hoàng tử một nước ngay trong vương thành của mình, đám giặc này cũng quá liều lĩnh rồi. Hai người vội vàng cáo từ Huyền Trang. Vừa ra khỏi chùa Đại Giác, quốc vương Y Ngô liền hạ lệnh phong tỏa cổng thành, lùng bắt hung thủ, sau đó đi theo Khúc Đức Dũng tới dịch quán xem xét hiện trường. Ngoại giao không phải chuyện nhỏ, các nước nhỏ tập trung ở Tây Vực lại càng phải như vậy, có đôi khi thậm chí vì tranh giành nước uống mà bùng nổ chiến tranh, huống chi là sự tình nghiêm trọng tới mức này. Chuyện như vậy đương nhiên Huyền Trang không tham dự, sau khi quốc vương Y Ngô và Khúc Đức Dũng rời đi, ngài lại cùng tất cả các trụ trì nói chuyện thêm một lát rồi mới trở về tăng phòng của mình nghỉ ngơi. Không ngờ sau khi trở lại tăng phòng lại không thấy A Thuật đâu. Huyền Trang không để ý nhiều, ngồi xếp bằng trên giường, qua một lúc lâu vẫn không thấy A Thuật trở về, trong lòng mới chợt cảm thấy lo lắng. Đứa bé này mặc dù người nhỏ suy nghĩ già dặn, nhưng dù sao cũng mới chỉ tám, chín tuổi, lúc này đã là giờ Tuất, trời tối đen như mực, cậu bé có thể đi đâu đây? Huyền Trang trong lòng bồn chồn không yên, liền ra ngoài đi tìm, hỏi không ít người nhưng đều không nhìn thấy. Huyền Trang đang muốn xin trụ trì tìm kiếm giúp thì lại thấy A Thuật với sắc mặt u ám đi trên hành lang, cả người nhếch nhác, bẩn thỉu. “A Thuật, muộn như vậy sao không về phòng nghỉ ngơi?” Huyền Trang lúc này mới yên tâm, hỏi. A Thuật lắc đầu: “Đi tìm một người Túc Đặc mà thúc thúc con quen biết, không ngờ người nọ đi hành thương xa rồi. Trên đường về đúng lúc trông thấy đội kỵ binh của Khúc Đức Dũng chạy qua đường cái, phủ lên người con một đống bụi bặm. Hừ!”. Huyền Trang cười, hòa nhã nói: “Con vẫn còn là trẻ con, buổi tối không được chạy lung tung.” A Thuật cúi đầu đi theo Huyền Trang trở về tăng phòng ngủ. Ngày hôm sau, sau khi quốc vương Y Ngô đưa tiễn hai huynh đệ Khúc Đức Dũng và Khúc Trí Thịnh đi liền phái người đến chùa Đại Giác cho mời Huyền Trang, ngài dẫn theo A Thuật vào vương cung của ông ta để thuyết pháp. Tây Vực sùng Phật, người đương thời xưng là “Tây Vực ba mươi sáu Phật quốc”, đương nhiên Tây Vực không phải chỉ có ba mươi sáu nước, nhưng có thể thấy Phật giáo nơi đây rất hưng thịnh, có một số nước tuy diện tích không lớn, nhưng số lượng chùa chiền còn nhiều hơn so với Trường An. Quốc vương Y Ngô không những mời tất cả tăng nhân từ các chùa chiền Y Ngô tới, thậm chí còn mở quảng trường trước vương cung để cho người dân đến nghe giảng pháp. Một thời gian trước, kỳ tích danh tăng Đại Đường tới Thiên Trúc cầu pháp, một mình xuyên qua sa mạc Mạc Hạ Diên được truyền ra khắp Y Ngô, các tín đồ đều nhao nhao tràn vào, hơn một vạn dân chúng nước Y Ngô trong nửa ngày đã tụ tập trên quảng trường, số lượng lên tới hơn ba nghìn người. Có thể nói từ cuối thời nhà Tùy tới nay, đây là sự kiện Phật giáo rầm rộ nhất ở Y Ngô. Huyền Trang bắt đầu bài giảng “Nhiếp Đại Thừa Luận” và “Câu Xá Luận”, tổng cộng giảng trong ba ngày, bầu không khí ngày ngày đều rầm rộ, sôi nổi. Sau đó, các chùa khác của Y Ngô đều tranh nhau mời Huyền Trang tới, vì vậy Huyền Trang liền tiến hành một loạt buổi tọa đàm lưu động, đồng thời cũng nghiên cứu những bản sao kinh Phật trong chùa Phật của Y Ngô, liên tiếp hơn nửa tháng đều ở trong mấy ngôi chùa. Một ngày kia, Huyền Trang đang thưởng thức bích họa thời kỳ Bắc triều trong một hang động tại chùa Ngọc Phật, bỗng nghe thấy bên ngoài động có tiếng người hô ngựa hí, ồn ào bất thường. Trong động vô cùng tối tăm, Huyền Trang cầm đèn cùng A Thuật đi ra, thấy trụ trì chùa Ngọc Phật dẫn một người mặc Hán phục nhưng đầu đội mũ Hồ vội vã đi tới. Người Hồ này tuổi chừng bốn mươi, gầy gò lão luyện, ria mép hai bên khóe miệng, vừa nhìn thấy Huyền Trang liền vội khấu đầu bái lạy: “Đệ tử Hoan Tín, sứ giả Cao Xương tham kiến đại sư!”. Huyền Trang đưa ngọn đèn cho A Thuật, vội vàng nâng hắn dậy: “Đại nhân xin đứng lên, bần tăng nào dám. Không biết quý sứ tới đây có chuyện gì quan trọng?”. Trụ trì chùa Ngọc Phật nở nụ cười: “Đại sư, đại nhân Hoan Tín đặc biệt vì ngài mà tới đây đó!”. Huyền Trang kinh ngạc không thôi, Hoan Tín cười nói: “Đại sư, nhị hoàng tử và tam hoàng tử sau khi trở lại Cao Xương có bẩm báo với quốc vương của ta rằng đại sư đi xuyên qua sa mạc Mạc Hạ Diên tới Y Ngô. Quốc vương vô cùng mừng rỡ, lập tức phái đệ tử tới đây cung nghênh đại sư đi tới Cao Xương. Đệ tử vốn nên tới sớm hơn, chẳng qua trên đường hoang vắng, quốc vương lo lắng đại sư nghỉ ngơi không tốt, lệnh cho đệ tử cách mỗi trăm dặm đặt một trạm dịch chuyên để đại sư nghỉ ngơi, bởi vậy mới trễ nải một chút thời gian”. Huyền Trang lập tức lâm vào cảnh khó xử: “Bần tăng vô cùng cảm kích thịnh tình của quốc vương Cao Xương, nhưng bần tăng trước đã quyết định đi tới thành Khả Hãn Phù Đồ, cầu lấy dấu của Tây Đột Quyết, đường này lại ngược hướng với Cao Xương…”. “Ha ha, việc này nhị hoàng tử cũng có đề cập qua với quốc vương rồi!” Hoan Tín cười híp mắt nói, “Toàn bộ những sự việc này đại sư không cần quan tâm, tất cả công việc đều do Cao Xương ta giải quyết. Đại sư chắc chắn không biết, Cao Xương ta có quan hệ thông gia với vương triều Tây Đột Quyết, trưởng công chúa của chúng ta gả cho trưởng tử của Khả hãn Thống Diệp Hộ, một chút chuyện nhỏ này đương nhiên có thể giải quyết. Hơn nữa, đại sư cho dù đến thành Khả Hãn Phù Đồ cũng chưa chắc gặp được Khả hãn Thống Diệp Hộ, hiện giờ vương đình của Khả hãn Thống Diệp Hộ đã dời đến thành Toái Diệp[58] ở bờ tây hồ Đại Thanh rồi. Quốc vương của chúng ta nói, sẽ phái người hộ tống đại sư tới Toái Diệp bái kiến Khả hãn Thống Diệp Hộ”. “À…” Huyền Trang hoàn toàn không biết nên nói gì, vị quốc vương Cao Xương chưa từng gặp mặt bao giờ này đã dẹp bỏ mọi lý do của ngài rồi, “Vậy… bần tăng xin phép đi chào từ biệt quốc vương Y Ngô trước đã!”. “Không cần!” Hoan Tín luôn cười tủm tỉm, “Quốc vương của ta cũng viết xong quốc thư trình lên cho quốc vương Y Ngô, ngài ấy cũng đã đáp ứng rồi, hiện giờ đang đứng chờ ngoài thành, tiễn đưa đại sư”. “Điều này…” Huyền Trang không nói thêm được lời nào nữa. Xem ra quốc vương Cao Xương phái Hoan Tín tới tất có đạo lý. Người này cẩn thận, tỉ mỉ, sắp xếp mọi thứ chu đáo, thỏa đáng, trước thuyết phục Huyền Trang, sau đó đi thu xếp ngựa, người hầu, lương thực, kể cả bọc hành lý của Huyền Trang cũng đều được sắp xếp thỏa đáng, không bỏ sót chi tiết nào. Nhân lúc hắn bận rộn, trụ trì chùa Ngọc Phật mới nói với Huyền Trang: “Đại sư chớ thấy kỳ quái, tại Tây Vực này, mỗi một vị cao tăng đại đức đi qua đều khiến cho các nước tranh đoạt, có đôi khi chỉ vì vậy mà không ngại động binh giao tranh đâu”. “Hả?” Huyền Trang thật sự kinh ngạc, “Vì sao?”. “Đại sư có điều không biết” trụ trì giải thích, “phong trào sùng Phật ở Tây Vực hưng thịnh, diện tích, nhân khẩu, tài phú của các nước cũng không cách biệt nhau lắm, vì vậy thứ có thể so đấu chính là tầm ảnh hưởng. Nước nào có thể cung dưỡng ra cao tăng đại đức, chớ nói uy tín quốc vương nước đó có thể tăng vọt, chính dân chúng nước đó cũng sẽ được vinh quang. Nếu như cao tăng đại đức có thể thường xuyên cư trú trong nước, thậm chí còn có dân chúng nước khác không tiếc tách khỏi hộ tịch nơi mình đang sống để di cư qua nước đó. Đến cả thương lữ cũng không tiếc vượt ngàn dặm đặc biệt đến cúng bái Thần Phật. Trên Con đường Tơ lụa cũng từng có không ít cao tăng quyết định đi xa tới Thiên Trúc cầu pháp, nhưng tới giữa đường lại bị một vài nước kiên quyết giữ lại. Cao tăng bình thường còn như thế, huống chi là cao tăng đại đức được Thần Phật, Bồ Tát phù hộ như ngài?”. Huyền Trang không ngờ còn có loại sự tình này, trái tim ngài bỗng đập nhanh hơn. Nhìn điệu bộ của quốc vương Cao Xương thì chưa chắc đã có tâm tư này. Nhìn Hoan Tín vui vẻ bận rộn, nội tâm của ngài cũng phiền não hơn. Chương 3 Chiếc bình của vua Đại Vệ: Truyền thuyết Nghìn lẻ một đêm Hoan Tín sắp xếp vô cùng chu đáo chặt chẽ, Huyền Trang đi theo hắn đến cổng thành Y Ngô, chỉ thấy quốc vương Y Ngô đang chờ sẵn ở đấy. Quốc vương Y Ngô cũng không nỡ để Huyền Trang rời đi, thế nhưng Cao Xương là nước lớn binh hùng tướng mạnh, ông ta không có khả năng chống đối, đành phải quyến luyến tiễn biệt Huyền Trang. Hoan Tín dẫn theo hơn hai mươi tùy tùng và mấy chục con lạc đà cùng ngựa mang theo đầy đủ vật tư, cùng Huyền Trang đi đến Cao Xương. Ngựa mà người Cao Xương cưỡi đều là Long mã sinh ra từ Yên Kỳ, còn gọi là Hải mã, giống ngựa này quý ngang với ngựa Đại Uyên, chẳng những cao to cường tráng, ngày đi sáu trăm dặm, mà còn bơi rất giỏi, chở người và hành lý bơi mấy chục dặm cũng không thấy mệt mỏi. Hoan Tín cưỡi trên một con ngựa cao to, nhìn Huyền Trang vẫn cưỡi con hồng mã già yếu lúc trước, có chút không được tự nhiên, nói: “Đại sư, con ngựa này của ngài vừa thấp vừa gầy, chi bằng ngài đổi sang cưỡi con ngựa tốt mà đệ tử đang cưỡi đi!”. Huyền Trang nở nụ cười, vuốt ve con ngựa gầy ốm: “Con ngựa này chính là bảo bối của bần tăng, nếu không có nó, bần tăng đã sớm bỏ mạng trên sa mạc Mạc Hạ Diên rồi!”. Hoan Tín không biết phải làm sao, chỉ có thể thuận theo ý của Huyền Trang. Đường từ Y Ngô đến Cao Xương dài hơn tám trăm dặm, ở giữa đều là sa mạc hoang vắng. Có điều, nơi này nằm trên Con đường Tơ lụa, chỉ cần không lạc đường, cứ cách hơn trăm dặm lại có một giếng nước. Vốn dĩ nơi có giếng nước thì sẽ có người ở, nhưng bị gió cát sa mạc xâm thực qua nhiều năm tháng, rất nhiều nơi đã không còn thích hợp để sinh sống nữa, thế nên nhiều thôn xóm bị bỏ hoang, xung quanh giếng nước đã biến thành cảnh tượng hoang tàn đổ nát. Còn có một số cây hồ dương với sức sống dồi dào đã mọc lên những chồi xanh non giữa hoang mạc. Thế nhưng, Huyền Trang trên đường đi tới lại phát hiện ra có các lều trại được dựng sẵn bên cạnh các giếng nước. Đoàn người của bọn họ còn chưa đến, người Cao Xương đóng giữ ở đó đã đun nước ấm, nấu xong đồ ăn. Lúc này là tháng Mười một, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm trên sa mạc rất lớn. Không chỉ cung cấp sa y cũng như áo choàng da dê loại tốt nhất cho Huyền Trang sử dụng, người Cao Xương còn đo người A Thuật để may mấy bộ đồ lót, áo khoác da lông, áo trong, giày da trâu, bít tất theo kiểu Túc Đặc cho cậu bé, không thiếu thứ gì. Huyền Trang không khỏi âm thầm cảm thán, vị quốc vương Cao Xương này cẩn thận chu đáo như vậy, ân tình này quả là không dễ trả. Cao Xương nằm trong bồn địa phía đông dãy Thiên Sơn, một dọc đường từ Y Ngô đến đây đều phải leo dốc, đến sườn núi của cao nguyên thì lại bắt đầu men theo khe núi đã bị nước sông làm xói mòn mà đi xuống. Lúc này đang là mùa đông, một đường thẳng hướng Thiên Sơn, đỉnh núi cao chót vót hòa nhập giữa tầng mây, tuyết đọng trắng lóa, làm nổi bật sắc xanh của những cây tùng, cây bách xen lẫn với nhau. Sáu ngày sau, bọn họ đến thành Bạch Lực[59] trong bồn địa, nơi này nằm ở biên giới phía đông của Cao Xương. Cao Xương thi hành chế độ quận huyện, có tổng cộng bốn quận hai mươi mốt huyện. Thành Bạch Lực là một huyện trong đó, đứng đầu là quan huyện lệnh. Đến thành Bạch Lực, Huyền Trang mới biết Khúc Văn Thái đã phái trưởng tử của hắn, Thượng thư lệnh[60] cai quản thành Giao Hà[61] là Khúc Nhân Thư đích thân đến nghênh đón mình. Cao Xương chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Nho gia Mặc Tuân[62] của Trung Nguyên, thực hiện chế độ trưởng tử kế thừa. Khúc Nhân Thư sinh ra đã là thế tử, ở Cao Xương có thể nói là dưới một người, trên vạn người. Huyền Trang không ngờ Khúc Văn Thái lại phái thế tử tới nghênh tiếp, trong lòng cũng có phần kinh sợ. Khúc Nhân Thư cười nói: “Hôm nay gặp được đại sư, thật sự là may mắn của đệ tử. Đệ tử vốn định đích thân đến Y Ngô đón ngài, có điều thân là thế tử, đến nước khác có phần bất tiện. Do đó sau khi Hoan Tín đi, đệ tử liền đợi tại thành Bạch Lực này, chỉ mong được là người đầu tiên trong toàn thể bách tính Cao Xương nhìn thấy đại sư!”. Huyền Trang thấy Khúc Nhân Thư hơn ba mươi tuổi, là người tao nhã phóng khoáng, tướng mạo đường hoàng, nói năng rất lịch sự, in đậm khí phách của danh sĩ Trung Nguyên, không khỏi tán thưởng mãi. Cho tới bây giờ, ngài đã gặp cả ba người nhi tử của quốc vương Cao Xương là thế tử Khúc Nhân Thư lịch sự nho nhã, nhị hoàng tử Khúc Đức Dũng hào sảng, oai hùng, tam hoàng tử Khúc Trí Thịnh sôi nổi thẳng thắn, đúng là mỗi người một phong thái, cho nên không khỏi có chút sùng bái vị quốc vương Khúc Văn Thái này. Hai người nói chuyện một hồi, lúc này mặt trời cũng sắp lặn, Huyền Trang định nghỉ ngơi trong thành một đêm, ngày mai lại lên đường. Chẳng ngờ Khúc Nhân Thư lại lúng túng nói với Huyền Trang: “Đại sư, thành Bạch Lực cách vương thành không xa, phụ vương nóng lòng muốn gặp mặt ngài, nên xin mời đại sư đổi ngựa, chúng ta đến vương thành nghỉ ngơi tiếp!”. Huyền Trang chưa quen thuộc địa lí, cho rằng “không xa” ở đây chỉ là mấy chục dặm đường, cho nên nghĩ, nếu đã không xa, vậy thì đi thôi. Khúc Nhân Thư rất vui mừng, lập tức đưa ngựa của mình cho Huyền Trang cưỡi. Con ngựa gầy ốm của ngài không được nghỉ ngơi, ngài không nỡ mang nó đi đường suốt đêm, liền giao phó lại cho huyện lệnh thành Bạch Lực sau này lại đưa tới trả mình, còn bản thân thì theo Khúc Nhân Thư tới vương thành. Đi rồi, Huyền Trang mới biết, không xa này chỉ là cách nói tương đối, mọi người thúc ngựa chạy nhanh, mãi cho đến canh ba mới đến thung lũng Tân Hưng dưới chân dãy Thiên Sơn[63]. Mọi người đi ra theo con đường trong hẻm núi, trước mắt chính là bồn địa mênh mông bát ngát, hai bên đường là vườn nho trải dài ngút tầm mắt. Từ thung lũng Tân Hưng đi về phía nam hai mươi dặm chính là vương thành Cao Xương. Trong màn đêm, tòa thành hùng vĩ tựa như một con thú khổng lồ lẳng lặng nằm trên mặt đất, cổng thành đóng chặt, không có đèn đuốc. Không ngờ khi đến dưới thành, đột nhiên cổng thành mở rộng ra, vô số bó đuốc và đèn lồng chiếu sáng cả thành, quốc vương Cao Xương là Khúc Văn Thái dẫn theo nhị hoàng tử là Khúc Đức Dũng, vương công, quý tộc, người hầu, cung nữ ra nghênh đón, mỗi người cầm trong tay một cây nến, chia làm hai hàng. Thì ra cả đêm bọn họ không ngủ, chỉ vì đợi Huyền Trang đến. Khúc Văn Thái khoảng năm mươi tuổi, khuôn mặt vuông vắn, hai mắt sáng có thần, cằm để râu ngắn, cử chỉ thong dong, phong thái bất phàm, đầu đội vương miện, người mặc vương bào màu tím giống như quy chế của Trung Nguyên. Vừa nhìn thấy Huyền Trang, Khúc Văn Thái không khỏi cảm phục phong thái của ngài, rảo bước xông tới, dắt dây cương ngựa, quỳ bái trên mặt đất: “Phong thái của đại sư, thật đúng là Thần Phật chuyển thế! Đệ tử trông mong đại sư, giống như sa mạc khô hạn mong mỏi gặp trời mưa, giống như chúng sinh lạc đường hi vọng gặp được Di Lặc Bồ Tát!”. Đoàn tùy tùng không ngờ Khúc Văn Thái lại cúi lạy ngay tại chỗ, nhất thời luống cuống tay chân, nhưng lại không tìm thấy thảm trải đất. Khúc Nhân Thư nhanh tay nhanh mắt, lập tức cởi áo bào của mình rải lên trên mặt đất, mới tránh cho đầu gối của Khúc Văn Thái không dính bụi bặm. Huyền Trang cũng không ngờ đế vương lại quỳ lạy. Đây là một việc không thể nào tưởng tượng được ở Trung Nguyên. Ngài muốn nhanh chóng nhảy xuống ngựa, nhưng không ngờ sau khi Khúc Văn Thái quỳ xuống lại cong lưng lên: “Đại sư, xin cho phép đệ tử dùng thân này cung dưỡng, kính mời đại sư xuống ngựa!”. Huyền Trang nhất thời ngây ngẩn cả người, cảnh tượng này rõ mồn một trước mắt, không phải là dáng vẻ quỳ gối làm bàn đạp của Khúc Trí Thịnh lúc trước hay sao? Làm sao ngài có thể nhận nổi thứ đại lễ này đây? Ngài lập tức nhảy xuống phía bên kia bụng ngựa, vòng qua đầu ngựa, nâng Khúc Văn Thái lên: “Bệ hạ, bần tăng thật sự không nhận nổi đại lễ này. Đế vương trấn an bách tính, tăng lữ giáo dục cảm hóa lòng dân, quốc gia không Phật không ổn định, Phật không có quốc gia không hưng thịnh. Bệ hạ bằng lòng giữ gìn Phật pháp, đã được chư Phật, chúng Bồ Tát phù hộ, sau này nhất định có phúc tuệ vô cùng tận. Bần tăng sao dám để bệ hạ hành đại lễ lớn như vậy đây?”. Khúc Văn Thái mừng như mở cờ trong bụng, lời này của Huyền Trang thật sự đã gãi đúng chỗ ngứa của ông ta. Trước tiên, Huyền Trang thừa nhận sự thống trị của vương quyền đối với quốc gia, Phật giáo chỉ để trợ giúp ông ta giáo dục cảm hóa bách tính, hai bên hỗ trợ lẫn nhau, không bên nào thiếu được bên nào. Thứ hai, Huyền Trang ở trước mặt mọi người nói với ông ta, cũng tức là nói với các quốc gia khác rằng, quốc vương Cao Xương phổ biến Phật giáo, nói rõ rằng đã nhận được sự phù hộ của chư Phật, có được sự thừa nhận của chư Phật, hơn nữa sẽ còn nhận được phúc báo. “Đại sư!” Khúc Văn Thái rưng rưng nước mắt: “Đệ tử biết đêm nay đại sư tới vương thành, nên từ sớm đã cùng vương phi dâng hương đọc kinh, cung kính chờ đợi đại sư tới, trong cung đã sắp xếp ổn thỏa, xin mời đại sư vào cung!”. Bên cạnh có một chiếc kiệu lớn, Khúc Văn Thái đích thân vén rèm lên, mời Huyền Trang vào thành. Hai bên vang lên tiếng nhạc Phật, chiếc kiệu lớn trong vòng vây của quốc vương và văn võ bá quan tiến vào vương cung. Lầu các nơi hậu viện của vương cung đã được quét dọn, trong lầu thu xếp pháp trướng, bên trong là những vật cát tường khảm nạm ngà voi, châu báu, chuỗi ngọc… dưới ánh đèn chiếu rọi, vô cùng rực rỡ và lộng lẫy. Sau đó, vương phi dẫn theo mấy chục cung nữ tới lễ bái. Vị vương phi này hơn ba mươi tuổi, có vẻ không được khỏe, sắc mặt cũng không mấy vui vẻ, thế nhưng dung mạo xinh đẹp như hoa, tư thái thướt tha, nhìn dung mạo cũng giống người Trung Nguyên. Vương phi cũng không chờ lâu, lễ bái xong xuôi, Khúc Văn Thái liền để nàng hồi cung nghỉ ngơi. Trước khi Huyền Trang gặp Khúc Văn Thái, ngài có phần bất mãn về việc ông ta cử Khúc Đức Dũng chặn giết sứ giả Yên Kỳ, cảm thấy ông ta nhất định là một người ngang ngược có dã tâm, bụng dạ nham hiểm, ngài không muốn tới Cao Xương chính là vì nguyên nhân này. Thế nhưng đêm nay, gặp mặt Khúc Văn Thái, ngài lại cảm thấy người này có trái tim nhân hậu, thành kính sùng Phật, tuyệt đối không phải loại người tàn nhẫn vô tình. Xem ra, thân là quốc vương, vì sự sinh tồn của quốc gia, quả thật không thể không làm như vậy. Lúc này đã là giờ Dần, chỉ còn một canh giờ nữa là trời sáng. Huyền Trang phát hiện A Thuật ngồi ở trên giường, dáng vẻ nghiêng đầu giống như đang nghe bọn họ trò chuyện, nhưng thật ra thì người đã sớm ngủ thiếp đi, nước miếng chảy cả ra ngoài. Huyền Trang thấy Khúc Văn Thái cũng có vẻ mỏi mệt, liền nói: “Bệ hạ, hôm nay đã làm phiền người phải chờ lâu, thật sự rất áy náy. Bệ hạ nhiều quốc sự, hay là hãy sớm nghỉ ngơi đi!”. Tinh thần của Khúc Văn Thái phấn chấn, ông ta xua tay: “Không vội, đệ tử không mệt. Có thể nói chuyện với đại sư, được Phật pháp che chở, nào có đất dung thân cho con ma ngủ chứ? Ha ha!”. Huyền Trang cũng bật cười. Khúc Văn Thái do dự một hồi, dường như có điều muốn nói, thế nhưng không có cách nào nói ra khỏi miệng. Huyền Trang ngao du từ nhỏ, thấy rõ nhân tình thế sự, liền nói: “Bệ hạ có điều gì lo buồn sao?”. “Ôi!” Khúc Văn Thái vung tay, lệnh cho người tùy tùng bên cạnh đi ra ngoài, trong miệng than thở, sắc mặt thay đổi không ổn định, nhưng lại chần chừ không chịu nói. Huyền Trang cũng không hỏi, chỉ mỉm cười nhìn ông ta. Khúc Văn Thái dường như đã hạ quyết tâm, đột nhiên đứng lên rồi quỳ gối xuống đất, dập đầu nói: “Xin đại sư hãy cứu đệ tử!”. Huyền Trang kinh ngạc, vội vàng nhảy xuống giường, dùng hai tay nâng ông ta dậy: “Bệ hạ, hà tất phải như vậy? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”. Khúc Văn Thái nhắm mắt thở dài, cười khổ nói: “Có một việc trong nhà, vốn không muốn truyền ra bên ngoài, thế nhưng chuyện này lại liên lụy đến vận mệnh của Cao Xương ta… Ôi!” Ông ta do dự một hồi, cuối cùng thấp giọng nói: “Đệ tử nhất thời cũng không biết nên bắt đầu nói từ đâu, nguồn gốc là ở nghịch tử của đệ tử. Nếu như đại sư tại Y Ngô đã quen biết nó, vậy đệ tử sẽ nói về Y Ngô!”. “Người đang nói đến tam hoàng tử sao?” Huyền Trang kinh hãi, hơn hai mươi ngày trước, Khúc Trí Thịnh hộc máu hôn mê bên ngoài thành Y Ngô, ngài không khỏi lo lắng: “Lẽ nào tam hoàng tử đã xảy ra chuyện?”. “Nó xảy ra chuyện sao?” Chẳng ngờ Khúc Văn Thái lại tức giận: “Hừ, cho dù bách tính Cao Xương ta có chết hết, thì nó cũng không xảy ra chuyện được! Tên nghiệt tử này… Tên nghiệt tử này, nó còn thoải mái lắm!”. Huyền Trang nhìn bộ dạng nghiến răng nghiến lợi của Khúc Văn Thái, không khỏi ngỡ ngàng, Trong suy nghĩ của ngài, Khúc Trí Thịnh thành thật chất phác tự nhiên, nhưng vì sao lại khiến Khúc Văn Thái căm hận như vậy? Khúc Văn Thái lấy lại bình tĩnh, bắt đầu kể lại: “Vài ngày trước, đệ tử lệnh cho nhị hoàng tử là Đức Dũng đi sứ Y Ngô. Vốn dĩ chuyến đi này không cần tam hoàng tử Trí Thịnh đi theo. Có điều đứa trẻ này từ nhỏ đã có tính cách yếu đuối, không tranh với đời, đệ tử cũng là muốn cho nó ra ngoài rèn luyện một phen, nên đã ép nó đi trước lão nhị. Không ngờ, chuyến đi này, lại khiến cho đệ tử rước lấy phiền toái vô cùng vô tận, gần như sắp mang lại tai họa diệt vong cho Cao Xương rồi!”. “Lúc tam hoàng tử hôn mê ở thành Y Ngô, bần tăng cũng có mặt” Huyền Trang giật mình: “Ngày hôm sau ngài ấy đã được nhị hoàng tử đưa về, hình như không gây ra rắc rối gì mà nhỉ?”. “Đại sư có điều chưa biết” Khúc Văn Thái cười khổ: “Đi sứ Y Ngô thuận lợi, cũng không phải khó khăn gì. Có điều, khi lão tam trở về, lại chẳng biết mang một chiếc bình đồng từ đâu về cùng. Chiếc bình đồng đó… trên thân bình còn có khắc một dòng chữ Ba Tư bằng vàng: Chiếc bình của vua Đại Vệ!”. Huyền Trang hít một hơi lạnh, lập tức nhớ tới cảnh tượng kinh hoàng ngày hôm đó trong sa mạc Mạc Hạ Diên, sứ giả Yên Kỳ bị chặn giết. Gia Tư Đinh lúc sắp chết đã nắm chặt lấy tay của mình, miệng lẩm nhẩm bốn chữ: “Trong bình có quỷ…”. Huyền Trang liếc mắt nhìn A Thuật, trông nó giống như đang ngủ say nhưng hàng lông mi dài lại khẽ rung rung, rõ ràng là đang giả vờ ngủ, ngài thở dài, nhíu mày hỏi: “Chiếc bình đồng ấy có hình dáng như thế nào?”. “Cao chừng hai thước, nặng hơn ba mươi cân, thân lớn cổ nhỏ, toàn thân bịt kín, thân bình chạm khắc hoa văn phức tạp, miệng bình hàn thiếc, trên nền thiếc có con dấu mang hình ngôi sao sáu cánh.” Trong mắt Khúc Văn Thái thoáng lộ ra sự sợ hãi: “Thiếc trên miệng bình rất cứng, đao kiếm cũng không cạy ra được. Lắc thì thấy trong bình rỗng tuếch. Sau khi Trí Thịnh trở về, liền say mê Chiếc bình của vua Đại Vệ này, dùng ngựa chở nó đi khắp nơi tìm người hỏi thăm. Trong vương thành Cao Xương, người Hồ Hán chung sống loạn tạp, thiếu gì thương lữ đến từ vùng Ba Tư. Sau đó có một thương lữ nói cho nó biết, chiếc bình này, chính là Chiếc bình của vua Đại Vệ trong truyền thuyết của đế quốc Tát San Ba Tư”. “Hả?” Huyền Trang lại càng tò mò: “Chiếc bình của vua Đại Vệ này còn có truyền thuyết sao?”. “Không sai!” Khúc Văn Thái càng thêm sợ hãi, thậm chí trên trán còn rịn mồ hôi: “Truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ này được lưu truyền rộng rãi ở Tát San Ba Tư, vô cùng kỳ lạ. Nói là thời kỳ hoàng đế A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ đệ nhất[64] (Ardashir I) khai quốc, bên cạnh bờ biển có một ông lão đánh cá sinh sống, trong nhà ông ta có một người vợ già yếu và ba cô ái nữ, đều dựa vào ông ta nuôi sống, nhà chỉ có bốn bức tường, vừa đói vừa rét. Mặc dù ông ta sống bằng nghề đánh cá, nhưng lại có một thói quen kỳ dị, mỗi ngày chỉ tung lưới bốn mẻ cá, không chịu đánh nhiều hơn. Có một hôm, ông lão đi ra biển tung lưới bắt cá. Lần quăng lưới thứ nhất, ông ta chỉ đánh được một con lừa chết. Ông lão đánh cá vô cùng ủ rũ, lại quăng lưới lần thứ hai, nhưng chỉ kéo lên được một cái vạc sứ chứa đầy bùn cát, ông lão đánh cá bắt đầu tuyệt vọng. Thế nhưng lần quăng lưới thứ ba còn gay go hơn, đánh lên chỉ là một đống xương vỡ và vỏ sò nát vụn. Thế là, ông lão đánh cá vừa khóc vừa quăng lưới lần cuối cùng. Không ngờ lần này đánh lên được một chiếc bình đồng thau. Miệng bình dùng thiếc che lại, trên nắp là con dấu của Sở La Môn Đại Vệ (Solomon David)”. Huyền Trang yên lặng lắng nghe, tò mò không nhịn được mới hỏi: “Sở La Môn Đại Vệ là ai?”. “Đệ tử đặc biệt cho tìm những người Ba Tư đó để hỏi thăm, nghe nói Sở La Môn Đại Vệ là quốc vương đời thứ ba của vương quốc Dĩ Sắc Liệt (Israel) thời Thượng cổ, cũng là quốc vương vĩ đại nhất của Dĩ Sắc Liệt.” Khúc Văn Thái nói: “Ông ta là một quốc vương vĩ đại, một chỉ huy quân sự vĩ đại, cũng là trí giả vĩ đại nhất. Dưới sự cai trị của ông ta, vương quốc Dĩ Sắc Liệt đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ huy hoàng. Ông ta tài hoa xuất chúng, một đời viết ra hơn ngàn bài thơ ca. Đây là một người được thần linh chiếu cố, trí tuệ của ông ta tràn đầy thần tính, truyền thuyết nói ông ta có một chiếc nhẫn, phía trên có khắc kí hiệu hình ngôi sao sáu cánh và tên thật của Thượng đế, khiến cho ông ta có được sức mạnh để sai khiến cả ma giới”. Huyền Trang sợ hãi than lên: “Tam thiên đại thiên thế giới[65], quả nhiên là muôn màu muôn vẻ. Bệ hạ mời người tiếp tục kể!”. Khúc Văn Thái gật gật đầu, tiếp tục kể: “Sau khi ông lão đánh cá vớt Chiếc bình của vua Đại Vệ lên, liền đục phong tích trên miệng bình ra, nhìn xem bên trong có đồ vật gì hay không, không ngờ từ trong bình lại tỏa ra một đám khói nhỏ, hóa thành một con quỷ cao lớn như núi, tóc tai bù xù, xấu xí hung ác. Ông lão đánh cá bị con quỷ này dọa cho sợ ngây người, vô cùng sợ hãi, không ngờ rằng con quỷ quay ra cầu xin ông tha thứ: ‘Sở La Môn vĩ đại, xin hãy tha thứ cho ta, ta không bao giờ dám phạm vào ý chỉ của ngài nữa.’ Ông lão đánh cá mới nói: ‘Sở La Môn đã qua đời hơn một ngàn năm rồi, bây giờ là thời hậu thế sau khi ngài chết đi. Ma quỷ như ngươi tại sao lại chui vào chiếc bình này chứ?’ Con quỷ vừa nghe, liền nói ngay: ‘Lão đánh cá kia, ta báo cho ngươi một tin vui, bởi vì ta muốn giết chết ngươi!’ Ông lão đánh cá hỏi: ‘Ngươi vì sao lại muốn giết ta? Chẳng lẽ ta cứu ngươi ra, lại phạm phải tội gì sao?’ Con quỷ kể với ông lão, nói nó vốn là ma thần thủ hạ dưới tay Ma vương A Lí Man[66] (Ahriman), tên là A-tạp Mã-nạp (Ake Mana), thần thông quảng đại, những người bị nó nắm trong tay sẽ mất đi khả năng nhận thức chính tà, thiện ác. Bởi vì dám chống đối quốc vương Sở La Môn Đại Vệ, nên đã bị ngài bắt được và phong ấn vào trong chiếc bình này, đóng lên ấn dấu hình ngôi sao sáu cánh, vứt xuống biển sâu, vĩnh viễn không được siêu sinh. Nó ở dưới đáy biển không biết bao nhiêu năm, trong một trăm năm đầu tiên, nó thề rằng: ‘Nếu có ai cứu ta, ta sẽ giúp cho hắn cả đời vinh hoa phú quý’. Nhưng lại chẳng có ai tới cứu nó. Một trăm năm tiếp theo, nó lại thề nguyện: ‘Ai có thể cứu ta, ta sẽ tặng cho hắn tất cả kho báu dưới lòng đất’. Nhưng vẫn không ai cứu nó. Lại một trăm năm nữa, nó thề rằng: ‘Ai có thể cứu ta, ta sẽ cho hắn ba điều ước’. Kết quả vẫn là không ai tới cứu nó. Rồi lại qua một trăm năm nữa, nó trở nên căm hận, thề rằng: ‘Ai tới cứu ta, ta sẽ giết chết hắn’. Mà ông lão đánh cá lại tới cứu nó đúng vào lúc này.” “A Di Đà phật, vạn vật trên thế gian, sinh tử khôn lường. Chưa từng có thứ gì thoát nổi hai chữ ‘vô thường’. Ông lão đánh cá phúc họa buồn vui trong nháy mắt đều tan biến, quả nhiên là chú giải tuyệt diệu cho ngã Phật chân pháp.” Huyền Trang cũng bị truyền thuyết nơi xứ người này làm cho kinh ngạc, tuy nhiên ngài cảm thấy không cần phải sợ hãi, đây chỉ là một câu chuyện cổ bao hàm nhiều ý nghĩa thâm sâu: “Vậy sau đó thì sao?”. “Sau đó, ông lão đánh cá nói, ‘ta cứu ngươi, ngươi lại đòi giết chết ta, nếu thế thì phải để ta chết một cách minh bạch. Thân hình của ngươi to lớn như vậy, làm thế nào có thể thu nhỏ lại và chui và trong chiếc bình kia?’ Con quỷ kia có chút đắc ý, muốn khoe ra phép thuật của mình, bèn hóa thân thành một làn khói nhẹ, chui vào trong bình. Ông lão đánh cá mau tay nhanh mắt, nhặt miếng thiếc phong ấn lên, dán chặt vào miệng bình. Con quỷ biết mình bị mắc mưu, muốn ra khỏi bình, nhưng bị phong ấn sao sáu cánh ngăn cản. Ông lão đánh cá đem cái bình ném xuống biển sâu thêm một lần nữa.” Khúc Văn Thái kể xong, thổn thức không thôi. Huyền Trang thở dài: “Mỗi người đều có phật tính! Đúng là ông lão nhanh trí tự cứu vớt chính mình!”. Hai người đang trò chuyện, bỗng nhiên nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào khẽ vang lên, hai người kinh ngạc quay đầu lại, thấy A Thuật đang nhắm mắt nằm ngủ nhưng trên mặt lại đầy nước mắt. Khúc Văn Thái vốn không để ý tới đứa trẻ này, lúc này mới nhịn không được mà ngạc nhiên: “Đại sư, đứa trẻ này làm sao vậy?”. Huyền Trang trong lòng hiểu rõ, nhíu mày suy nghĩ, đi đến bên A Thuật nhỏ giọng nói: “A Thuật, chớ để uất ức trong lòng. Bệ hạ không phải là người xấu, con có thể đem đầu đuôi câu chuyện kể lại rõ ràng cho người, ta tin rằng bệ hạ nhất định trả lại công bằng cho con”. A Thuật chậm rãi mở mắt, đôi mắt màu xanh dương tràn đầy nước mắt. Khúc Văn Thái không ngừng vò đầu: “Đại sư, rốt cuộc sao lại thế này?”. A Thuật bỗng nhiên thét chói tai: “Là ngươi…. Là ngươi giết chết thúc thúc của ta, người của tộc ta!”. Khúc Văn Thái chấn động: “Đại sư…?”. Huyền Trang lắc đầu thở dài: “Bệ hạ, đứa trẻ A Thuật này vốn không phải người hầu theo ta từ Trường An tới đây, mà ta nhặt được nó trong sa mạc Mạc Hạ Diên. Nó vốn là người Túc Đặc, cùng thúc thúc của nó và người trong tộc hành thương tới thành Trường An, khi đi qua Yên Kỳ liền kết bạn đồng hành cùng với một đội thương nhân của Yên Kỳ. Không ngờ rằng tại sa mạc Mạc Hạ Diên…”. Khúc Văn Thái đột nhiên đứng lên, trên mặt lộ rõ thần sắc khó tin, chỉ vào A Thuật: “Lẽ nào… lẽ nào…?”. Huyền Trang gật đầu, ngưng mắt nhìn ông ta: “Đoàn thương lữ mà nhị hoàng tử giết chết trên sa mạc Mạc Hạ Diên, chính là người trong tộc của nó, lúc ấy nó trốn dưới cát, mới may mắn thoát khỏi kiếp nạn. Sau đó vừa khéo bần tăng đi qua, thương cảm trước nỗi khổ của nó, liền giữ nó lại bên người, dự định sẽ đưa nó trở về quê nhà tại Tát Mã Nhĩ Hãn.” Khúc Văn Thái suy sụp ngồi xuống, gương mặt đỏ hồng liền chuyển màu trắng bệch, miệng nói ngập ngừng: “Đại sư, đệ tử….!”. Nhìn bộ dạng của ông ta hệt như một đứa trẻ làm chuyện xấu bị bắt ngay tại trận vậy. “Bệ hạ!” Huyền Trang thấp giọng nói, “Bần tăng tuy rằng biết Cao Xương và Yên Kỳ có tranh chấp, hiểu được nỗi khổ của bệ hạ, nhưng nếu giết hại thương nhân thế này, chẳng phải là vi phạm vào giới luật nhà Phật rồi sao?”. Khúc Văn Thái ngồi ngơ ngác, trong lòng cuộn sóng, sự hối hận cùng xấu hổ sâu đậm khiến cho ông ta không thể ngẩng đầu. Cả cuộc đời ông ta luôn hưởng tiếng tốt, lập chí quyết phải trở thành một vị quốc vương sáng suốt, tài đức nhất trong lịch sử của Cao Xương, mới hao tổn tâm cơ, dùng cường thế ép buộc, giành Huyền Trang từ trong tay quốc vương Y Ngô qua đây, không nghĩ tới trong cuộc đua chính trị này mình lại là kẻ hắc ám nhất, một màn kịch đẫm máu nhất, lại bị vị danh tăng Đại Đường bắt gặp tận mắt, lại còn đưa người bị hại đến trước mặt mình đối chất. “Đại sư…” Khúc Văn Thái ngơ ngác nhìn Huyền Trang, giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt, “Đệ tử là cư sĩ từng thọ ngũ giới, sao dám vô cớ sát sinh! Chỉ là, đệ tử muốn vì thiện nghiệp, quốc vương lại là cái gốc của ác nghiệp, trong cuộc tranh chấp giữa hai nước, không thể nói đến lẽ trời, đến tình người. Đại sư cũng biết, quyền khống chế Con đường Tơ lụa là huyết mạch sinh tồn của các tiểu quốc Tây Vực, người Yên Kỳ muốn sửa đổi con đường này, nếu trong lòng đệ tử có thứ gọi là thiện niệm, toàn bộ Cao Xương của ta sẽ bị gió cát của đại mạc thổi bay, dân chúng ly tán, quốc gia suy tàn!”. “Chẳng lẽ hai nước không thể chung sống hòa thuận với nhau được sao?” Huyền Trang hỏi, “Bệ hạ có cách nào chung sống hòa thuận với Yên Kỳ mà không sinh ra cảnh giết chóc nữa không?”. Khúc Văn Thái cười đau khổ: “Đây không phải chuyện muốn hay không muốn, đối với Cao Xương của ta mà nói, một khi thay đổi tuyến đường của Con đường Tơ lụa, thương lữ không còn qua đây nữa, thương thuế dần cạn kiệt, đất trồng cấy trên thảo nguyên của ốc đảo trong Cao Xương ta vốn không đủ để nuôi sống ba vạn người dân, vì thế dân chúng sẽ lũ lượt lưu vong qua nước khác.” “Nói như vậy là nếu dân cư giảm bớt, thì vương quốc cũng không thể tiếp tục tồn tại hay sao?” Huyền Trang hỏi. Lời ngài hỏi không phải để chất vấn, mà là thật tâm mong muốn tìm hiểu vấn đề mà các nước Tây Vực đang gặp phải. Khúc Văn Thái liên tục lắc đầu: “Đại sư, người không biết, một quốc gia sống trên ốc đảo trong sa mạc, là dựa vào nhân lực để duy trì. Bởi vì trong đại mạc này, nguồn nước trong ốc đảo vốn không đủ, chúng ta phải tôn tạo hệ thống thủy lợi phức tạp để tưới cho hoa màu. Như ở Cao Xương, chúng ta đào mương dẫn nước từ chân dãy Thiên Sơn cách ngoài thành phía bắc hai mươi dặm, từ đây dẫn nước chảy xung quanh vương thành Cao Xương. Trừ bỏ một mương chính, thành tây có mười sáu nhánh mương, thành đông có mười bảy nhánh, thành nam thành bắc mỗi thành chín nhánh. Như thế hệ thống dẫn nước phức tạp này cần tới bao nhiêu người mới duy trì nổi đây?”. Huyền Trang giật mình: “Có nhiều mương nước vậy sao? Nhưng trên đường bần tăng tới đây lại không thấy nhiều như vậy!”. “Ha ha!” Khúc Văn Thái cười khổ, “Đại sư đương nhiên không thấy được, đại đa số đều là giếng mương. Cái gọi là giếng mương này, chính là những mương nước được giấu dưới lòng đất. Đại mạc khí hậu khô hạn, nếu để mương nước lộ trên mặt đất thì nước sẽ bốc hơi cạn sạch hoặc chảy thấm vào cát, cho nên chúng ta lợi dụng địa thế cao của Thiên Sơn và địa thế thấp trong vương thành, đào mương nước dưới lòng đất, xuyên qua sa mạc, dẫn nước vào khu vực tưới tiêu. Ở khu vục tưới tiêu, cách mỗi một trăm bước, ngay tại chỗ mương ngầm đào một cái giếng vuông góc, dùng lấy nước tưới. Gần vương thành Cao Xương, tổng chiều dài giếng mương vào khoảng bảy tám trăm dặm. Xin đại sư nghĩ xem, công trình thủy lợi phức tạp này, cần bao nhiêu người duy trì? Một khi dân chúng bỏ đi, hệ thống thuỷ lợi sẽ không thể duy trì được nữa, đồng ruộng bị gió cát ăn mòn, ốc đảo dần dần biến thành hoang mạc, Cao Xương sao có thể tránh khỏi nạn diệt vong! Trên Con đường Tơ lụa cũ, bên bờ hồ La Bố từng có vương quốc Lâu Lan, chính là bởi vì Con đường Tơ lụa thay đổi tuyến đường, bị thương nhân ngó lơ, dân cư bỏ đi, hệ thống thủy lợi của Lâu Lan sụp đổ, trong vòng vài chục năm liền biến thành tòa thành bỏ hoang không người ở”. Người Trung Nguyên vốn rất quen thuộc với Lâu Lan, sử sách còn ghi lại cuộc xung đột nổi tiếng của Hán triều và Lâu Lan, Lâu Lan trong lòng người Trung Nguyên là một tiểu quốc gian ác, ngang bướng, bất phục điển hình. Hơn trăm năm sau, Vương Xương Linh còn mượn tích này để hoài niệm: “Hoàng sa bách chiến xuyên kim giáp, bất phá Lâu Lan chung bất hoàn.”[67] Khi đó, Lâu Lan đã bị vùi lấp trong đại mạc được bốn trăm năm rồi. “Trên cõi đời này, mọi người đều phải nỗ lực hết sức, đại quốc tranh bá phải dùng hết toàn lực, tiểu quốc sinh tồn cũng phải dùng hết toàn lực, Phật Di Lặc niết bàn, thật không biết khi nào mới đến!” Huyền Trang cảm khái không thôi. Bắt gặp ánh mắt A Thuật nhìn mình tràn ngập hận thù, Khúc Văn Thái thở dài: “Bất luận như thế nào, đệ tử giết hại người vô tội cũng là nghiệp chướng nặng nề. Người không thể sống lại, đệ tử ngày mai liền phái người đi sa mạc Mạc Hạ Diên, thu thập xương cốt của đoàn thương lữ Túc Đặc, đưa đến Hiên từ của Cao Xương, để bọn họ được an táng trong một tòa tháp tĩnh lặng. Đệ tử đích thân đến hiến tế.” Quốc vương ôn tồn nhìn A Thuật, “Nếu ngươi có thể tha thứ cho bổn vương, bổn vương hy vọng có thể đền bù cho thúc thúc và những người trong tộc của ngươi, mỗi người một trăm đồng vàng, một ngàn đồng bạc, phái người đưa đến Tát Mã Nhĩ Hãn, để người nhà của họ không phải lo lắng về cuộc sống nữa.” Tới đây thì Huyền Trang cũng không thể nói gì hơn. Làm người đứng đầu một nước, Khúc Văn Thái tự hạ thấp mình như vậy, đã đủ để thấy sự chân thành của ông ta. A Thuật không nói lời nào, chỉ im lặng, ngây người một hồi lâu, rồi xoay người nằm lại lên giường, trùm chăn một mình khóc nức nở. Khúc Văn Thái cùng Huyền Trang nhất thời trầm mặc không nói chuyện, hai người nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc này sắc trời cũng sắp chuyển sáng, Huyền Trang khều bấc đèn: “Bệ hạ, trời sắp sáng rồi, truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ có phải đã kể xong rồi không?”. Khúc Văn Thái vỗ đầu, lộ ra thần sắc ảo não, sự gián đoạn của A Thuật """