"Tay Sát Thủ Mù - Margaret Atwood & An Lý (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tay Sát Thủ Mù - Margaret Atwood & An Lý (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo TAY SÁT THỦ MÙ —★— Tác giả: Margaret Atwood Người dịch: An Lý Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2015ebook©vctvegroup Hãy tưởng tượng vị hãn Agha Mohammed, kẻ đã lệnh đem hạ sát hoặc chọc cho mù mắt toàn bộ dân thành Kerman, không từ một ai. Đội cận vệ hăm hở bắt tay vào việc. Chúng gom cư dân thành hàng, người lớn cắt đầu, trẻ con khoét mắt… Về sau, đàn đàn lũ lũ trẻ con mù rời khỏi đô thành. Một số, sau khi xiêu dạt nơi thảo dã, lạc đường trong sa mạc mà chết khát. Số khác tìm được tới nơi người ở… hát những bài ca về cuộc tận diệt gái trai già trẻ Kerman… - RYSZARD KAPUŚCIŃSKI Ta bơi, biển khơi vô tận, nhìn chẳng thấy bờ. Tanit nguyệt thần không biết xót thương, ta nguyện cầu, người đền đáp. Hỡi kẻ kia chìm trong bể ái, hãy nhớ về ta. - KHẮC TRÊN BÌNH TRO THỜI CARTHAGE Lời là lửa cháy trong lòng kính tối. - SHEILA WATSON I CÂY CẦU Mười ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Laura em tôi lái xe lao khỏi cầu. Cầu đang sửa, nó phi thẳng qua biển báo Nguy hiểm. Chiếc xe rơi ba chục mét xuống vực, bổ qua những ngọn cây lơ thơ trổ lá, rồi cháy đùng đùng lăn xuống lòng con suối nông choèn dưới đáy. Từng tảng ván cầu lả tả rơi lên trên. Em tôi không còn lại gì ngoài tro tàn than vụn. Tôi được tin từ một viên cảnh sát: xe là xe tôi, họ tra ra biển số. Anh ta tỏ ra lễ độ: hẳn nhiên anh ta nhận ra họ Richard. Anh ta nói có lẽ bánh bị kẹt vào rãnh xe điện hoặc phanh bị hỏng, nhưng anh cũng có bổn phận báo tôi biết có hai người - một luật sư về hưu và một thu ngân ở nhà băng, toàn những người đáng tin tưởng cả - tự nhận đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Họ cho biết Laura đã chủ động quành xe rất gắt, và đâm qua tường cầu thản nhiên cứ như đang bước trên hè xuống. Họ có nhận ra tay em tôi vẫn đặt trên vô lăng nhờ đôi găng trắng. Không phải tại phanh, tôi nghĩ. Nó có những lý do riêng. Không bao giờ giống lý do của ai khác. Về mặt đó nó tàn nhẫn vô cùng. “Tôi nghĩ các anh cần người nhận dạng,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng xuống đó ngay khi được.” Tôi nghe giọng mình vang lên bình tĩnh, như từ xa vọng lại. Thực tế tôi hầu như không thốt được thành lời; miệng tôi tê dại, mặt sắt lại vì đau. Cảm giác như vừa đi nhổ răng. Tôi tức muốn điên vì việc Laura đã làm, và còn vì viên cảnh sát cả gan ám chỉ nó đã làm thế. Một luồng gió nóng đang cuộn quanh đầu tôi, những cọng tóc bị bốc lên ngoằn ngoèo trong gió, như mực loang trong nước. “Tôi e rằng sẽ có điều tra, thưa bà Griffen,” anh ta nói. “Tôi hiểu mà,” tôi đáp. “Nhưng đây là tai nạn thôi. Em gái tôi chưa bao giờ lái xe thành thạo cả.” Tôi hình dung khuôn mặt trái xoan của Laura, búi tóc cài trâm gọn, chiếc áo chắc hẳn nó mặc lúc ấy: áo chẽn eo cổ tròn khoét hẹp, một màu nghiêm nghị - xanh nước biển hoặc xám ánh thép, hoặc lá cây thứ màu hành lang bệnh viện. Những màu thống hối - nhìn không giống đồ tự chọn, mà như đồ ép mặc trước khi nhốt lại. Nụ cười nửa miệng nghiêm trang; đôi mày nhướng lên kinh ngạc, như là nó đang chiêm ngưỡng khung cảnh trước mắt. Găng tay trắng - cử chỉ học của Pontius Pilatus[1]. Nó đang rửa tay cho sạch khỏi tôi. Khỏi tất cả chúng tôi. Nó nghĩ gì khi chiếc xe bay bổng khỏi cầu, lơ lửng giữa hoàng hôn đầy nắng, lấp loáng như cánh chuồn trong khoảnh khắc nín hơi trước lúc bổ nhào? Nghĩ tới Alex, tới Richard, tới lòng man trá, tới cha chúng tôi và cuộc lụn bại của ông; có lẽ là tới Chúa, và cuộc thỏa thuận tay ba chết người của nó. Hay tới tập vở học trò rẻ tiền hẳn nó đã giấu vừa sáng hôm ấy, trong ngăn để tất của tôi, vì biết tôi sẽ là người tìm thấy. Khi viên cảnh sát đi rồi tôi lên lầu thay áo. Muốn tới nhà xác tôi cần găng tay, và mũ có mạng. Để che đôi mắt. Có thể sẽ có nhà báo. Tôi sẽ phải gọi tắc xi. Cũng cần báo trước cho Richard lúc này đang ở văn phòng; chắc sẽ muốn chuẩn bị trước vài lời ai điếu. Tôi vào phòng thay đồ: cần có đồ đen, và khăn tay nữa. Tôi mở ngăn kéo, nhìn thấy tập vở. Tôi tháo nắm chun chằng chịt buộc ngoài. Tôi nhận ra răng mình đang va lập cập, người mình đang lạnh từ đầu đến chân. Chắc đang bị sốc, tôi kết luận. Trong đầu tôi lúc đó nhớ lại Reenie, từ hồi chúng tôi còn nhỏ. Luôn là Reenie lo lấy bông băng, băng những vết trầy xước hay đứt tay và các thương tích lặt vặt khác: mẹ đang nghỉ, hoặc đi làm việc thiện ở đâu đó, nhưng Reenie thì luôn có mặt. Chị sẽ túm lấy chúng tôi đặt ngồi lên bàn men trắng trong bếp, cạnh chỗ bột làm bánh đang nhào hay con gà đang chặt hoặc con cá đang làm ruột, và dúi cho cục đường đen để chúng tôi ngậm miệng. Nói xem đau ở đâu nào, chị bảo. Đừng có rú lên nữa. Bình tĩnh lại rồi bảo cho tôi đau ở đâu. Nhưng có những người không thể nói được đau ở đâu. Không thể bình tĩnh lại. Thậm chí không thể ngừng rú lên. NGÔI SAO TORONTO, 26 THÁNG NĂM 1945 NGHI VẤN ĐẶT RA TỪ CÁI CHẾT TRONG THÀNH PHỐ Bản tin độc quyền Nhân viên điều tra đã kết luận chính thức cái chết xảy ra ở đại lộ St. Clair tuần trước là do tai nạn. Cô Laura Chase, 25 tuổi, đang đi theo hướng Đông-Tây chiều ngày 18 thì chiếc xe chệch đường lao qua lớp ba-ri-e ngăn khu vực đang sửa chữa trên cầu, đâm xuống vực núi bên dưới và bốc cháy. Cô Chase đã chết tức khắc. Chị của cô, bà Richard E. Griffen, vợ nhà công nghiệp nổi tiếng, đã chứng nhận cô Chase mắc chứng đau đầu nặng ảnh hưởng đến thị lực. Khi trả lời chất vấn, bà Griffen đã bác bỏ khả năng say rượu bởi cô Chase không uống rượu bao giờ. Theo cảnh sát, một trong những nguyên nhân chính là bánh xe bị kẹt vào rãnh xe điện lộ thiên. Có nghi vấn về chất lượng những biện pháp an toàn của chính quyền thành phố, nhưng đã bị phản bác sau khi tham khảo ý kiến chuyên môn của công trình sư thành phố Gordon Perkins. Tai nạn này đã dấy lên lại làn sóng kiến nghị về tình trạng rãnh xe điện ở đoạn đường này. Ông Herb T. Jolliffe, đại diện cho dân đóng thuế sở tại, nói với phóng viên tờ Ngôi sao đây không phải là tai nạn đầu tiên gây ra bởi những đoạn rãnh bị bỏ bê. Hội đồng thành phố cần chú ý tới vấn đề này. TAY SÁT THỦ MÙ. TÁC GIẢ LAURA CHASE. NXB Reingold, Jaynes & Moreau, New York, 1947 MỞ: CÂY LƯU NIÊN TRỒNG VƯỜN ĐÁ Cô có một tấm ảnh duy nhất chụp anh. Cô nhét trong một phong bì nâu trên có đề Cắt từ báo, và giấu phong bì trong cuốn Cây lưu niên trồng vườn đá, nơi ngoài cô sẽ chẳng ai ngó ngàng. Cô đã giữ gìn tấm ảnh cẩn thận, vì đấy gần như là tất cả những gì còn lại về anh. Ảnh đen trắng, chụp bằng thứ máy ảnh hộp có flash lồng cồng từ dạo trước chiến tranh, có cái vòi voi xếp nếp như đàn phong cầm bỏ trong hộp da cầu kỳ trông như rọ mõm, dây da khóa thép lằng nhằng. Ảnh chụp hai người với nhau, cô với người ấy, hôm picnic. Chữ Picnic viết ở mặt sau, bằng bút chì - không có tên anh hay tên cô, chỉ là picnic. Tên hai người cô biết, không phải viết vào. Họ đang ngồi dưới gốc cây; có lẽ là cây táo, lúc ấy cô không chú ý đến cái cây. Cô mặc sơ mi trắng tay xắn đến khuỷu, váy xòe dém lại quanh gối. Chắc là có gió nhẹ, vì vạt áo cô bị gió thổi dán vào người; hoặc có thể không phải gió thổi, có thể chỉ là dính vào; có thể là do nóng. Đúng là do nóng. Đưa tay khua trên tấm ảnh, cô vẫn còn cảm thấy hơi nóng dâng lên, như hòn đá lúc nửa đêm phả hơi nắng. Người kia đội mũ màu sáng, kéo sụp trên đầu, che khuất một phần khuôn mặt. Mặt anh trông bắt nắng sạm hơn cô. Cô xoay nửa người lại phía anh, mỉm cười, một nụ cười cô không nhớ có dành thêm cho ai từ dạo ấy. Trong ảnh trông cô rất trẻ, rất non, dù lúc ấy cô không nghĩ mình non trẻ. Anh cũng đang cười - hàm răng trắng loáng lên như que diêm vừa xòe lửa - nhưng tay lại giơ ra, như muốn đùa cợt chặn cô lại, hoặc ngược lại che chắn mình khỏi ống kính, khỏi cái người ắt hẳn đang ở đó chụp ảnh; hoặc có khi che chắn mình khỏi những con mắt tương lai có thể đang nhìn anh, nhìn anh qua ô cửa sổ vuông sáng ngời bằng giấy tráng này. Như che chắn mình khỏi cô. Như che chắn cho cô. Trong bàn tay giơ ra che chắn, có một đầu mẩu thuốc lá. Mỗi khi ngồi một mình cô lại lấy cái phong bì nâu, lôi tấm ảnh ra từ giữa các mảnh báo cắt. Cô đặt trên mặt bàn, nhìn chăm chắm, như đang nhìn vào lòng giếng hay mặt hồ - nhìn qua đằng sau bóng mình tìm kiếm một thứ gì khác, một thứ cô đã nhỡ tay đánh rơi, ngoài tầm với nhưng vẫn còn hiển hiện, lập lòe như viên ngọc lẩn trong cát. Cô xem kỹ từng chi tiết. Mấy ngón tay anh, trắng xóa vì đèn flash hay nắng chói; nếp áo quần hai người; lá trên cây, và những quả tròn nho nhỏ đung đưa trên đó - rốt cuộc là táo hay là không? Lớp cỏ xác xơ ở tiền cảnh, cỏ vàng úa vì mấy ngày đó trời hanh. Ở phía bên kia - thoạt nhìn thì chưa nhận ra - có một bàn tay, đứt ngang mép ảnh, vết kéo cắt ngay cổ tay, đặt trên mặt cỏ như bị bỏ rơi. Mặc cho tự xoay xở lấy. Vệt mây nâu trên bầu trời sáng rỡ, như kem vấy trên nền crom. Những ngón tay anh ám khói. Nước lấp lánh đằng xa xa. Giờ đã chìm cả. Đã chìm, nhưng còn lung linh. II TAY SÁT THỦ MÙ: QUẢ TRỨNG LUỘC Bây giờ thế nào đây? anh hỏi. Áo đuôi tôm trong bữa tối dưới ánh nến, hay đắm tàu trên bờ biển không người? Cô cứ chọn đi: hoang đảo nhiệt đới hay núi cao rừng thẳm. Hay một chiều không gian khác - đấy là món tủ của tôi. Một chiều không gian khác hả? Thiệt tình! Đừng có cười, một địa điểm sinh lời đấy. Ở đó cái gì cũng có thể xảy ra. Tàu vũ trụ với đồng phục bó sát nhé, súng bức xạ nhé, người sao Hỏa trông như mực ống khổng lồ nhé, đại loại thế. Anh cứ chọn, cô nói. Anh là chuyên gia mà. Sa mạc được không nhỉ? Tôi lúc nào cũng muốn đi xem sa mạc. Có ốc đảo nữa, hẳn rồi. Vài cây chà là nữa cũng hay. Cô đang xé phần vỏ khỏi lát bánh kẹp. Cô không thích ăn vỏ bánh. Sa mạc thì chẳng có mấy triển vọng. Chẳng có mấy bài trí, trừ phi thêm vào mấy ngôi mộ. Rồi cô có thể cho một đội đàn bà trần truồng đã chết từ ba ngàn năm nay, thân hình khêu gợi uốn éo, môi đỏ như hồng ngọc, tóc xoăn bồng bềnh rối bời màu thiên thanh, mắt như những hố rắn độc. Nhưng tôi không nghĩ mình ấn được cho cô mấy thứ đó. Man rợ không hợp khẩu vị cô. Anh biết đâu được. Nhỡ tôi thích thì sao. Tôi ngờ lắm. Loại đó chỉ dành cho đám đông láo nháo. Mặc dù bìa tạp chí thì chuộng lắm: các nàng ấy oằn oại bu lấy một anh chàng, chắc phải dùng báng súng đập mới tản đi. Cho tôi cả chiều không gian ngoài vũ trụ, lẫn cả mộ và đàn bà chết, nhé? Đòi hỏi tham lam thế, nhưng để xem xem tôi làm được gì. Tôi có thể cho thêm vài cô trinh nữ hiến sinh, mặc yếm thép, đeo xích bạc ở cổ chân, áo tế trong suốt. Và một bầy sói đói gào, khuyến mãi thêm. Tôi thấy anh sẽ không từ thứ gì. Vậy cô muốn áo đuôi tôm chăng? Du thuyền với cổ cồn trắng, hôn nhẹ lên cổ tay và những lời đường mật giả nhân nghĩa nhé? Không. Thôi được rồi. Anh cứ làm gì anh ưa nhất. Hút thuốc không? Cô lắc đầu từ chối. Anh châm một điếu cho mình, quẹt diêm vào móng tay. Anh sẽ tự đốt cháy mình mất thôi, cô nói. Cho đến giờ thì chưa. Cô nhìn cổ tay áo sơ mi anh xắn lên, màu trắng hay là xanh rất nhạt, rồi cổ tay anh, bàn tay màu nâu sẫm hơn. Anh như phát sáng, chắc là do ánh nắng phản lại. Tại sao mọi người không nhìn cả về đây? Dù sao anh vẫn quá dễ lọt mắt, chẳng nên ra đây - giữa ngàn mắt chĩa vào. Xung quanh có người, ngồi hay nằm trên cỏ, chống khuỷu tay tựa mình - những người khác cũng đang picnic, trang phục hè màu sáng. Rất đường đường chính chính. Nhưng cô vẫn không khỏi cảm thấy chỉ có hai bọn họ với nhau; như cây táo trên đầu không phải cây mà là một cái lều, như quanh họ vẽ một vòng tròn phấn. Bên trong vòng tròn, họ vô hình trước tất cả. Vũ trụ thì vũ trụ, anh nói. Cả mộ và trinh nữ với sói nữa - nhưng mà trả góp. Đồng ý không? Trả góp là sao? Tức là, như mua đồ ấy. Cô bật cười. Không, tôi nói thật đấy. Không thể ăn xổi được, có thể phải nhiều ngày. Chúng ta sẽ phải gặp nhau lần nữa. Cô do dự. Được rồi, cô nói. Nếu được. Nếu tôi tìm được cách. Tốt lắm, anh nói. Giờ để tôi nghĩ đã. Anh cố giữ giọng bình thường. Khẩn khoản quá có thể khiến cô chùn lại. Trên hành tinh - xem nào. Sao Thổ thì bỏ qua, gần quá. Trên hành tinh Zycron, ở một chiều không gian khác, có một bình nguyên ngổn ngang gạch vụn. Phía Bắc bình nguyên là biển, nước màu xanh tím than. Phía Tây là một dãy núi, nghe đồn khi hoàng hôn xuống đấy là chốn tung hoành của những ma nữ khát máu làm chủ khu cổ mộ đổ nát trong lòng núi. Cô thấy không, tôi đã cho mồ mả vào ngay từ đầu. Anh chu đáo quá, cô nói. Tôi biết tuân thủ giao kèo. Đằng phía Nam là một miền cát cháy, còn phía Đông có vài thung lũng dốc đứng ngày xưa có thể từng là sông. Tôi đoán chừng có cả kênh rạch nữa, như trên sao Hỏa? Ờ, kênh rạch, và đủ thứ trên đời. Khắp nơi là dấu vết một nền văn minh cổ đại từng đạt tới đỉnh cao, dù vùng này giờ đây chỉ còn thi thoảng điểm xuyết vài toán lữ hành thuộc những nhóm du mục nguyên sơ. Ở chính giữa bình nguyên có một đồi đá rất to. Đất đai xung quanh cằn cỗi, có vài bụi cây còi cọc. Không hẳn là sa mạc, nhưng cũng chẳng khác nhiều. Còn bánh kẹp pho mát không? Cô lục tìm trong túi giấy. Hết rồi, cô nói, nhưng còn một quả trứng luộc. Chưa bao giờ cô thấy vui đến thế. Mọi thứ trở lại tinh khôi, vẫn còn chờ thực hiện. Chính xác là những gì bác sĩ khuyên dùng, anh nói. Chai nước chanh, quả trứng luộc, và Em. Anh lăn quả trứng giữa hai lòng bàn tay, đập vỏ, rồi bóc sạch. Cô nhìn ngắm miệng anh, quai hàm, đôi hàng răng. Bên tôi hát giữa công viên thành phố, cô tiếp. Muối đây. Cám ơn. Cái gì cô cũng nhớ. Bình nguyên cằn cỗi này không thuộc quyền ai, anh nói tiếp. Hay đúng hơn nó là đối tượng tranh giành của năm bộ lạc, không thằng nào đủ mạnh để diệt bốn thằng kia. Mỗi bên đôi lúc lại đi qua đồi đá, trên đường chăn dắt đàn thulk - một loài vật màu xanh tựa như cừu tính tình cắm cảu - hay vận chuyển hàng hóa rẻ tiền trên lưng một thứ lạc đà ba mắt. Đồi đá mang tên khác nhau trong từng ngôn ngữ của các bộ lạc, Điểm Rắn Bay, Đống Đá Nát, Nhà Các Bà Mụ Rú Gào, Cửa Về Quên Lăng, Hố Xương Gặm Vụn. Mỗi bộ lạc kể về nó một sự tích tương tự nhau. Dưới đồi đá kia, họ kể, có chôn một vị vua - một vị vua không có tên. Không chỉ vua, mà còn cả tàn dư của thành bang tráng lệ xưa kia ông ta cai trị. Thành bang bị hủy diệt trong một trận chiến, nhà vua rơi vào tay địch và bị treo cổ lên cây chà là để ăn mừng thắng lợi. Tới khi trăng mọc ông ta được hạ xuống đem chôn, đá chất lên là đánh dấu vị trí ấy. Những cư dân còn lại trong thành, họ đều chết cả. Bị làm thịt cả - đàn ông, đàn bà, con nít, sơ sinh, cả súc vật cũng không thoát. Kiếm xả xuống, băm thành mảnh vụn. Không sinh vật sống nào được buông tha. Thật ghê rợn. Chỉ cần cắm xẻng xuống đất hầu như bất cứ đâu là sẽ phơi ra một vật ghê rợn. Nhờ thế nghề này mới ăn nên làm ra, chúng tôi làm giàu được là nhờ xương, thiếu xương lấy đâu ra chuyện mà kể. Còn nước chanh không? Không, cô nói. Chúng ta uống hết sạch rồi. Tiếp đi. Tên thật của thành bang đã bị những kẻ chinh phục xóa sạch khỏi trí nhớ, và vì thế - theo lời những người kể chuyện - thành bang giờ chỉ còn được biết đến bằng tên đặt cho vụ hủy diệt. Đồi đá như vậy vừa là một cử chỉ ghi nhớ cố ý, mà lại cũng là một cử chỉ lãng quên cố ý. Ở vùng này các nghịch lý rất được yêu chuộng. Cả năm bộ tộc đều nhận mình là kẻ chinh phục. Cả năm đều hả hê ôn lại cuộc tàn sát. Cả năm đều tin đó là thánh ý của thần tổ bộ lạc mình, là sự điếu phạt công chính, trừ bỏ những hành vi tà đạo diễn ra trong thành này. Ác tà phải lấy máu mà rửa, họ bảo thế. Ngày hôm ấy máu đã chảy thành sông, hẳn là sau đó phải sạch sẽ vô cùng. Mỗi mục đồng hoặc thương nhân đi qua lại đắp thêm một viên vào đồi đá. Đấy là phong tục cổ - làm thế để tưởng nhớ người chết, người thân thích của mình - nhưng vì không ai biết người nằm dưới đá kia thực sự là ai, người nào cũng chất đá lên cầu may. Để bào chữa họ lý giải rằng sự kiện xảy ra ở đây hẳn phải do ý nguyện thần tổ của mình, và như thế đặt đá vào là xưng tán ý nguyện đó. Còn có chuyện kể rằng thực ra thành bang không bị tiêu diệt. Thay vào đó, nhờ một bùa phép chỉ mình nhà vua biết, thành bang cùng mọi cư dân đã bị đưa đi mất, để lại những bóng ma thay thế, và quân giặc chỉ đem thiêu và giết chóc những bóng ma này. Thành bang thật thì bị thu lại rất nhỏ đặt vào hốc dưới chân đồi đá. Tất cả mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn, kể cả cung điện và các khu vườn thượng uyển đầy hoa, kể cả dân thành - nhỏ leo teo như kiến, nhưng vẫn sinh hoạt chẳng khác trước đây - mặc những áo quần nhỏ xíu, tổ chức những bữa tiệc nhỏ xíu, kể những câu chuyện nhỏ xíu và hát những bài ca nhỏ xíu. Chỉ mình nhà vua biết chuyện đã xảy ra và hằng đêm vẫn lên cơn ác mộng, mọi người còn lại không ai biết. Họ không biết mình đã nhỏ tí teo đi như thế. Họ không biết người đời đã nghĩ mình chết rồi. Họ còn không biết mình đã được cứu thoát. Trước mắt họ tảng đá trên đầu nhìn giống như bầu trời: ánh sáng lọt vào qua khe giữa các hòn đá, và họ nghỉ đó là nắng trời. Lá trên cây táo xào xạc. Cô nhìn lên trời, rồi nhìn xuống đồng hồ. Lạnh quá, cô nói. Mà tôi bị muộn rồi. Anh thủ tiêu mấy tang vật này đi được không? Cô nhặt nhạnh những mảnh vỏ trứng, vò nhàu giấy gói. Cô không vội chứ hẳn? Ở đây không lạnh. Đang có gió thổi đến từ phía sông, cô nói. Chắc gió đổi chiều. Cô nhổm lên, xoay người định đứng dậy. Đừng đi vội, anh nói, hơi quá vội vã. Tôi phải về thôi. Họ sẽ tìm tôi mất. Nếu tôi về muộn, họ sẽ truy xem tôi ở đâu. ẳ Cô vuốt lại váy cho phẳng, rùng mình ôm lấy người, quay đi, những quả táo nhỏ màu xanh đưa mắt nhìn theo. ĐỊA CẦU VÀ TIN THƯ, 4 THÁNG SÁU, 1947 ĐÃ TÌM THẤY GRIFFEN TRONG THUYỀN Bản tin độc quyền Sau khi vắng mặt không rõ nguyên do mất vài ngày, thi thể nhà công nghiệp Richard E. Griffen, bốn mươi bảy tuổi, người có nhiều khả năng trở thành ứng cử viên đại diện chi đảng Bảo thủ tiến bộ quận St. David ở Toronto, đã được phát hiện gần nhà nghỉ mùa hè “Avilion” thị trấn Cảng Ticonderoga, nơi ông đang về nghỉ. Ông Griffen được tìm thấy trong thuyền, chiếc Thủy Nữ Tinh, đang neo vào cầu tàu tư trên dòng Jogues. Khám nghiệm sơ bộ cho thấy ông bị xuất huyết. Cảnh sát báo cáo rằng không có nghi vấn về âm mưu ám hại nào. Ông Griffen đã xây dựng một sự nghiệp kỳ vĩ, là ông chủ một đế quốc công nghiệp trải rộng nhiều lĩnh vực gồm cả dệt may và công nghiệp nhẹ, từng được ca tụng vì thành tích cung cấp phụ kiện đồng phục và linh kiện vũ khí cho quân đội Đồng minh trong chiến tranh. Ông thường xuyên dự các buổi gặp gỡ tại ngôi nhà ở Pugwash của nhà công nghiệp Cyrus Eaton, và là nhân vật hàng đầu ở cả câu lạc bộ Đế quốc lẫn câu lạc bộ Granite. Ông là một gôn thủ cừ khôi và là tên tuổi quen thuộc ở câu lạc bộ Thuyền buồm hoàng gia Canada. Thủ tướng chính phủ, qua điện thoại tại tư gia “Kingsmere”, đã nhận định, “Ông Griffen là một trong những con người tài năng nhất của đất nước ta. Sự ra đi của ông là một tổn thất nặng nề.” Ông Griffen là anh rể cô Laura Chase đã quá cố, có cuốn tiểu thuyết đầu tay vừa ra mắt mùa xuân vừa qua sau khi qua đời. Tang quyến gồm có em gái, bà Winifred (Griffen) Prior, nhà hoạt động xã hội nổi danh, và vợ ông là bà Iris (Chase) Griffen, cùng với con gái mười tuổi Aimee. Tang lễ sẽ được tổ chức tại Toronto, nhà thờ Thánh tông đồ Simon vào thứ Tư tới. TAY SÁT THỦ MÙ: GHẾ ĐÁ CÔNG VIÊN Tại sao lại có người, ở Zycron ấy? Ý tôi là người thường giống như chúng ta. Nếu là một chiều không gian khác, lẽ ra phải là thằn lằn biết nói hay gì đó chứ? Chỉ báo lá cải mới nói vậy thôi, anh đáp. Toàn chuyện bịa cả. Thực tế là thế này: Zycron gửi người đến Trái đất định cư, do đã nắm được bí quyết du hành qua các chiều không gian khoảng vài thiên niên kỷ sau thời kỳ chúng ta đang kể. Họ đáp xuống đây vào tám ngàn năm trước. Họ mang theo rất nhiều giống cây, vì thế chúng ta mới có cam hay táo, lại chuối nữa chứ - chỉ nhìn là biết chuối là thứ từ hành tinh khác tới. Họ mang đến cả động vật, ngựa chó dê và nhiều thứ nữa. Chính họ đã kiến tạo lục địa Atlantis. Rồi họ tự làm mình nổ tung vì quá thông minh. Chúng ta là hậu duệ của đám tụt hậu. À, cô nói. Thế là rõ cả. Tiện cho anh quá rồi. Đáp án cấp cứu đấy. Còn về các chi tiết khác, Zycron có bảy đại dương, năm mặt trăng, ba mặt trời, kích cỡ và màu sắc khác nhau. Màu gì? Sô cô la, va ni và dâu? Cô nghe tôi không nghiêm túc. Xin lỗi. Cô nghiêng đầu về phía anh. Giờ tôi đang chăm chú nghe này. Thấy chưa? Anh tiếp: Trước cuộc hủy diệt, người ta nói thành bang ấy - ta hãy gọi bằng cái tên lúc trước, Sakiel-Norn, tạm dịch là Viên Ngọc Số Phận - là một kỳ quan thế giới. Ngay cả những kẻ tự nhận tổ tiên mình đã tiêu diệt nó cũng vô cùng hào hứng miêu tả vẻ đẹp của đô thành. Suối tự nhiên được nắn lại cho chảy qua những đài phun chạm trổ cầu kỳ trong sân vườn lát gạch của vô số cung điện. Hoa sum suê khắp nơi, và khắp nơi chim chóc hót vang lừng. Gần quanh đô thành những đồng cỏ xanh rờn thả hàng đàn gnarr béo tròn gặm cỏ, lại thêm những vườn cây ăn trái, khóm rừng và rừng già cao vút còn chưa bị đám thương nhân đốn đi hay kẻ thù ác ý thiêu trụi. Những khe sâu khô cạn lúc ấy còn là sông; kênh tưới dẫn nước sông vào những cánh đồng quanh đô thành, và đất màu đến nỗi nghe đồn bề ngang hạt thóc đo được tới bảy phân. Tầng lớp quý tộc ở Sakiel-Norn gọi là Snilfard. Họ là những thợ kim khí lành nghề, chế ra nhiều máy móc cơ khí tinh xảo dựa theo những bí quyết được giữ gìn rất mật. Tới thời kỳ này họ đã phát minh ra đồng hồ, ná, máy bơm tay, dù chưa tới được động cơ đốt trong và vẫn còn vận chuyển bằng súc vật. Đàn ông Snilfard đeo mặt nạ dệt bằng sợi bạch kim, ôm lấy cử động theo da mặt, nhưng giúp che đi cảm xúc thật của người đeo. Phụ nữ đeo mạng bằng thứ vải mềm như lụa, kéo từ kén con tằm chaz. Hình phạt cho ai không phải Snilfard mà lại dám che mặt là tội tử hình, vì chỉ có giới thượng lưu mới có đặc quyền bất khả xâm phạm hay giấu giếm. Tầng lớp Snilfard ăn mặc xa hoa, tinh thông âm nhạc và chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau để phô bày tài năng và thị hiếu của mình. Họ thêu dệt những chuyện thâm cung bí sử, mở những yến tiệc hoành tráng, và phải lòng vợ của nhau một cách cầu kỳ. Đã xảy ra nhiều cuộc thách đấu vì tình ái, dù các đức ông chồng sẽ được tán đồng hơn nếu vờ như không biết gì. Đám tiểu nông, nông nô và nô lệ gọi chung là Ygnirod. Họ mặc áo thụng xám tồi tàn, trần một vai - đàn bà để hở cả một bên vú và, khỏi cần phải nói, là mồi ngon cho các ông chủ Snilfard. Người Ygnirod thù hận số mệnh mình, nhưng che giấu bằng cách tỏ ra đần độn. Lúc lúc họ lại dấy loạn lật đổ, để rồi bị đàn áp tàn khốc. Cùng đinh xã hội là đám nô lệ, có thể bị mua đi bán lại hay giết chết tùy hứng. Luật cấm họ đọc chữ, nhưng họ dùng đá vạch lên mặt đất trao đổi nhờ ám hiệu riêng. Lớp Snilfard thắng họ vào cày. Nếu có ai trong tầng lớp Snilfard phá sản, người đó có thể phải xuống làm Ygnirod. Cũng có thể tránh nỗi bất hạnh đó bằng cách bán vợ con trang trải nợ nần. Ygnirod lên làm Snilfard thì hiếm hơn, bởi đường lên dốc bao giờ cũng cực hơn xuống dốc: dù có gây dựng đủ của cải và cưới được một cô vợ Snilfard cho mình hoặc con mình, vẫn cần một khoản đấm mõm kha khá, và cũng còn lâu hắn ta mới được chấp nhận vào xã hội thượng lưu. Tôi thấy là cái Bôn sê vích của anh cuối cùng cũng xuất đầu lộ diện, cô nói. Tôi biết thế nào anh cũng tới bước đó, sớm hay muộn thôi. Ngược lại thì có. Xã hội tôi đang mô tả dựa trên hình mẫu Lưỡng Hà cổ đại. Nó được ghi lại trong bộ luật Hammurabi, luật của người Hittite và nhiều nữa. Ít ra là một phần, về mạng che mặt, ít nhất là thế, và bán vợ đợ con nữa. Tôi có thể dẫn số chương và điều cho cô nghe. Thôi đừng chương với điều hôm nay, làm ơn, cô nói. Tôi không đủ sức đâu, tôi yếu lả rồi. Tôi đang héo rũ. Đang là tháng Tám, nóng như thiêu. Hơi ẩm lảng vảng quanh họ như một lớp sương vô hình. Bốn giờ chiều, ánh sáng vàng như bơ chảy. Họ ngồi trên ghế đá công viên, không sát quá; bên trên là cây thích lá quắt queo, dưới chân đất nứt nẻ, xung quanh cỏ vàng úa. Mẩu vỏ bánh mì chim rỉa qua, giấy vò nát. Không gian còn xa mới gọi là lý tưởng. Một máy nước uống chảy ri rỉ; cạnh đó ba đứa trẻ lôi thôi lếch thếch, một con bé mặc đồ bó sát toàn thân và hai thằng bé đánh quần cộc, đang chụm đầu bàn mưu tính kế. Áo cô mặc màu vàng anh thảo; tay cô để trần đến khuỷu, lớp lông tơ mịn màu sáng. Cô đã cởi đôi găng vải bông, vo thành một cục, hai tay run run. Anh không ngại khi thấy cô căng thẳng: anh thích nghĩ ngay từ giờ cô đã phải đánh đổi gì đó vì mình. Cô đang đội mũ nan, vành tròn như mũ bé gái; tóc kẹp sau gáy, một lọn âm ẩm tuột ra. Người ta thường cắt các lọn tóc, để dành lại, đeo trong mặt dây chuyền; hoặc nếu là đàn ông thì bỏ cạnh trái tim. Anh chưa từng hiểu vì sao, cho đến giờ. Cô nói mình đi đâu? anh hỏi. Đi mua sắm. Nhìn túi hàng này. Tôi đã mua ít tất dài, loại tốt lắm - lụa hàng đầu đấy. Mặc vào cứ như không mặc. Cô hơi mỉm cười. Tôi chỉ có mười lăm phút thôi. Cô đánh rơi một chiếc găng, nó nằm dưới chân cô. Anh đang để mắt canh. Nếu cô đi mà bỏ quên, anh sẽ chiếm lấy nó. Hít lấy hơi cô, khi cô vắng mặt. Khi nào tôi gặp được cô? anh nói. Ngọn gió nóng lay động lá, ánh nắng rơi qua, phấn hoa bay khắp quanh cô, một mảng mây vàng. Thực tình thì chỉ là bụi. Anh đang gặp tôi thôi, cô nói. Đừng thế chứ, anh nói. Nói đi. Da trên khoảng cổ áo cô để hở sáng lên, màng mồ hôi mỏng. Tôi chưa biết được, cô nói. Cô ngoái lại qua vai, liếc khắp công viên. Không có ai quanh đây đâu, anh nói. Không ai quen cô cả. Chẳng ai biết được khi nào thì có, cô nói. Chẳng ai biết được mình quen ai. Cô nên kiếm một con chó, anh nói. Cô bật cười. Chó à? Tại sao? Như thế sẽ có lý do. Cô có thể dắt ra ngoài đi dạo. Tôi và con chó. Con chó sẽ ghen tị với anh, cô nói. Và anh sẽ nghĩ tôi thích con chó hơn. Nhưng cô sẽ không thích con chó hơn đâu, anh nói. Phải không? Cô mở to mắt. Tại sao không? Anh nói, Chó không biết nói. NGÔI SAO TORONTO, 25 THÁNG TÁM, 1975 CHÁU GÁI NỮ VĂN SĨ GẶP NẠN Bản tin độc quyền Aimee Griffen, ba mươi tám tuổi, con gái nhà công nghiệp tài ba Richard E. Griffen quá cố, cháu gái nữ tiểu thuyết gia tên tuổi Laura Chase, được phát hiện đã chết trong căn hộ tầng hầm phố Church thứ Tư vừa qua, bị gãy cổ sau một cú ngã. Khi tìm thấy, cô Griffen đã chết ít nhất một ngày. Hai người hàng xóm là Jos và Beatrice Kelley được báo động nhờ cháu Sabrina bốn tuổi, con của cô Griffen, vẫn thường sang nhà họ ăn khi mẹ cháu vắng mặt. Theo lời đồn, cô Griffen đã trải qua một thời gian dài vật lộn với chứng nghiện rượu và ma túy, phải nhập viện vài lần. Cháu Sabrina đã được đưa tới chỗ bà trẻ cháu là bà Winifred Prior chăm sóc trong thời gian chờ điều tra. Cả bà Prior lẫn mẹ của Aimee Griffen, bà Iris Griffen hiện sống ở Cảng Ticonderoga, đều không đưa ra bình luận gì. Sự việc không may này là một minh chứng nữa cho tình trạng vô trách nhiệm của phúc lợi xã hội ở nước ta, và nhu cầu siết chặt luật pháp để tăng cường bảo vệ cho trẻ nhỏ gặp hoàn cảnh bất hạnh. TAY SÁT THỦ MÙ: THẢM DỆT Đường dây lèo rèo rồi lạo xạo. Đang có sấm, hay kẻ nào nghe lén? Nhưng đây là điện thoại công cộng, chúng không thể dò ra anh. Anh ở đâu đấy? cô hỏi. Anh không nên gọi đến đây. Anh không nghe được tiếng thở của cô, tiếng cô đang thở. Anh muốn cô áp ống nghe lên họng, nhưng anh sẽ không đòi làm thế, chưa đâu. Tôi ngay gần nhà cô thôi, anh nói. Cách hai khối nhà. Tôi có thể đến công viên, cái vườn hoa nhỏ ấy, có đồng hồ mặt trời ấy. Ôi, tôi nghĩ là… Cứ lẻn ra thôi. Bảo cô cần hít thở không khí trong lành. Anh đợi. Tôi sẽ thử xem. Lối vào công viên có hai trụ đá làm cổng, tứ diện mái xiên, nhìn có hơi hướng Ai Cập. Tuy nhiên không có chữ khắc ca ngợi chiến thắng, hay hình chạm nổi kẻ thù quỳ đeo xiềng. Chỉ có Cấm Lảng Vảng và Không Thả Rông Chó. Vào đây, anh nói. Tránh đèn đường. Tôi không ở lâu được đâu. Tôi biết. Tránh vào dưới đây. Anh nắm lấy tay cô, dẫn đường; cô run rẩy như sợi dây trong gió mạnh. Đó, anh nói. Giờ thì không ai thấy ta. Khỏi sợ các bà già dắt chó xù. Khỏi sợ cảnh sát vẫy dùi cui, cô nói. Cô khe khẽ cười. Ánh đèn lọt qua kẽ lá, làm tròng trắng mắt cô lóa lên. Lẽ ra tôi không nên tới đây, cô nói. Liều lĩnh quá. Có một băng ghế gần như khuất sau lùm cây. Anh cởi áo khoác trùm lên vai cô. Vải tuýt cũ, thuốc lá đã lâu, mùi khét nhẹ. Hơi có vị muối. Da anh vừa ở đó, sát vào lớp vải, giờ đến da cô. Thế, cô sẽ được ấm hơn. Giờ ta sẽ bất tuân luật. Ta sẽ lảng vảng[2]. Còn Thả Rông Chó thì sao? Chúng ta sẽ bất tuân luôn cái đó. Anh không vòng tay ôm cô. Anh biết cô muốn thế. Cô đã đoán thế; cô cảm thấy trước bàn tay anh, như chim chóc cảm thấy bóng râm. Anh bận rộn quấn điếu thuốc. Anh mời cô một điếu, lần này cô nhận. Diêm đánh lên chớp nhoáng giữa bốn bàn tay chụm lại. Những đầu ngón tay màu đỏ. Cô nghĩ, Lửa sáng chút nữa sẽ thấy tận xương. Cũng như tia X. Con người chỉ là một thứ sương mù, là nước nhuộm phẩm. Mà nước thì luôn làm gì nó thích. Bao giờ cũng lao xuống dốc. Họng cô nuốt đầy khói. Anh nói, Giờ tôi sẽ kể về lũ trẻ. Lũ trẻ? Lũ trẻ nào? Khoản trả góp tiếp theo, về Zycron, về Sakiel-Norn. À. Phải. Ở đó có trẻ con. Chúng ta đâu có thỏa thuận có trẻ con. Đấy là trẻ con nô lệ. Chúng nhất thiết phải có. Không có chúng, tôi không kể tiếp được. Tôi không nghĩ mình muốn có trẻ con ở đó. Cô bảo tôi dừng lại lúc nào cũng được mà. Đâu có ai bắt cô nghe. Cô có quyền đi, như cảnh sát vẫn nói khi cô gặp vận đỏ. Anh giữ giọng bình thản. Cô không lùi ra. Anh nói: Sakiel-Norn giờ chỉ là một chồng đá, nhưng một thời nó từng là một trung tâm giao thương phồn vinh. Nó nằm ở đầu mối hội tụ ba tuyến đường xuyên lục địa: từ phía Đông, phía Tây, và phía Nam. Phía Bắc có kênh đào lớn đâm thẳng ra biển Bắc, ở đó có một hải cảng được phòng thủ vững vàng. Giờ không còn vết tích gì của những công trình đào đắp nữa: sau cuộc tru diệt, những khối đá tảng xây thành đã bị kẻ thù hoặc dân vãng lai bê đi đắp chuồng gia súc, máng nước hay những pháo đài xây vội, hoặc bị sóng gió vùi lấp dưới cát bay. Kênh đào và cảng biển xây lên bằng công sức nô lệ, một điều chẳng mấy lạ lùng: xác nô lệ lát con đường đưa Sakiel-Norn tới thịnh vượng và hùng mạnh. Nhưng thành bang còn nổi danh vì đồ thủ công nghệ, đặc biệt là hàng dệt. Bí quyết pha thuốc nhuộm của các nghệ nhân được bảo vệ kỹ, vải dệt của đô thành ngời sáng như mật ong chảy lỏng, như nước nho nghiền tím, như chén máu bò mộng đổ loang trong nắng. Những tấm mạng tinh xảo nhẹ như tơ nhện, thảm làm ra thì nhẹ và mềm đến nỗi người ta những tưởng mình đang giẫm trên mây, thứ mây kết dạng hình hoa lá và nước chảy. Nên thơ lắm, cô nói. Tôi ngạc nhiên đấy. Cứ coi như một cửa hàng bách hóa đi. Đấy là những xa xỉ phẩm, xét cho cùng thì là thế. Như thế sẽ bớt nên thơ. Thảm dệt ra đời này qua đời khác đều nhờ trẻ con nô lệ, bởi chỉ có ngón tay trẻ con mới đủ nhỏ cho những động tác tinh vi đến thế. Nhưng những giờ dài dằng dặc sít sao khiến đám trẻ lên tám hay chín là thảy mù lòa, và người bán thảm dựa vào đó mà tính toán cũng như quảng bá giá trị hàng hóa. Tấm thảm này đã khiến mười đứa trẻ mù đấy, họ rao thế. Tấm kia mười lăm đứa, tấm nữa hai mươi. Bởi giá tiền theo đó mà tăng, họ luôn luôn nói thách. Người mua thì đã quen khinh khỉnh trước những khẳng định hùng hồn đó. Chắc chỉ đến bảy đứa, chỉ mười hai, chỉ mười sáu là cùng, họ nói, tay mân mê tấm thảm. Tấm này thô như giẻ lau bát. Tấm này đúng là chăn ăn mày. Tấm này chắc gnarr làm ra. Khi mắt đã mù, bọn trẻ sẽ bị bán cho chủ chứa, cả gái lẫn trai. Muốn được đám trẻ này phục vụ sẽ phải trả rất nhiều tiền; bàn tay chúng cực âu yếm và khéo léo, nghe đồn thế, tới nỗi dưới những ngón tay chúng có thể cảm thấy hoa đang nở, sông đang tuôn trên chính da mình. Chúng lại cũng lành nghề bẻ khóa. Những đứa thoát thân chuyển sang nghiệp cắt cổ trong bóng tối, chúng là nguồn cung đắt giá trong thị trường giết thuê. Thính giác chúng nhạy ngoài sức tưởng tượng, chúng bước chân không ra tiếng, khe hở hẹp cỡ nào cũng lọt qua; chúng đánh hơi được đâu là người ngủ say còn đâu là kẻ chỉ đang chập chờn mơ. Chúng xuống tay nhẹ như cánh mối lướt qua cổ. Chúng thường được coi là không biết thương xót. Nhắc đến chúng là nghe khiếp hãi. Những câu chuyện đám trẻ rỉ tai nhau - trong lúc ngồi dệt những tấm thảm bất tận, khi còn nhìn được - là về lối thoát này trong tương lai chúng. Câu châm ngôn lan truyền giữa chúng: chỉ khi mù mới được tự do. Chuyện buồn quá, cô thì thầm. Anh kể cho tôi chuyện buồn thế làm gì. Giờ họ đã chìm sâu hơn vào bóng tối. Tay anh rốt cuộc cũng quàng lấy cô. Tự nhiên thôi, anh nghĩ. Đừng thình lình làm tới. Anh tập trung điều hòa nhịp thở. Tôi kể những chuyện tôi thạo kể, anh nói. Hơn nữa là chuyện cô sẽ tin. Cô sẽ không tin những lời ngọt ngào rỗng tuếch, phải không? Ừ, tôi không tin. Hơn nữa, chuyện này cũng không buồn tuyệt đối - một số đã thoát ra. Nhưng chúng lại đi cắt cổ người ta. Chúng đâu có lựa chọn khác, phải không? Chúng không thể lọt vào giữa đám buôn thảm, hay chủ nhà chứa. Chúng không có đủ vốn tư bản. Vậy là phải lãnh lấy phần bẩn thỉu thôi. Chia buồn với chúng. Đừng nên thế, cô nói. Lỗi đâu phải tại tôi. ẳ Cũng không phải tại tôi. Cứ coi là chúng ta chẳng trốn được tội tổ tông phạm phải. Anh đang tàn nhẫn không cần thiết, cô lạnh nhạt nói. Có khi nào tàn nhẫn là cần thiết? anh nói. Và đến mức nào? Cô cứ đọc báo xem, tôi đâu có bịa ra thế giới. Dù sao tôi vẫn bênh vực những kẻ cắt cổ hơn. Nếu không cắt cổ là chết đói, thì cô sẽ chọn cái nào? Hay bán trôn nuôi miệng, vẫn còn có đường đó. Giờ thì anh đi quá xa rồi. Anh đã để lộ mình tức giận. Cô gỡ mình khỏi anh. Bắt đầu rồi, cô nói. Tôi phải về thôi. Lá quanh họ xao động lo âu. Cô chìa tay ra, lòng bàn tay ngửa: có mấy giọt mưa. Tiếng sấm đã gần hơn. Cô tuột áo anh khỏi vai mình. Anh vẫn chưa hôn cô; anh sẽ không hôn cô, tối nay. Cô cảm thấy vậy, như một bản án đang đình lại. Cô ra đứng ở cửa nhé, anh nói. Cửa sổ phòng ngủ ấy. Cứ để đèn. Chỉ cần đứng đó thôi. Anh làm cô lo ngại. Để làm gì? Để làm gì cơ chứ? Tôi muốn thế. Tôi muốn biết chắc cô được an toàn, anh thêm, dù chuyện này chẳng liên quan gì đến an toàn. Tôi sẽ cố, cô nói. Chỉ một phút thôi. Còn anh ở đâu? Dưới tán cây. Cây dẻ ấy. Cô không thấy tôi đâu, nhưng tôi sẽ ở đó. Cô nghĩ, Anh biết cửa sổ ở đâu. Anh biết có cây gì. Chắc hẳn anh đã rình mò. Quan sát cô. Cô hơi rùng mình. Mưa rồi, cô nói. Sắp ào ào thôi. Anh sẽ ướt mất. Không lạnh đâu, anh nói. Tôi sẽ đợi. ĐỊA CẦU VÀ TIN THƯ, 19 THÁNG HAI 1998 Prior, Winifred Griffen. 82 tuổi, tại nhà ở Rosedale, sau cơn bệnh kéo dài. Khi bà Prior, nhà từ thiện đáng kính mất đi, thành phố Toronto đã mất một trong những nhà hảo tâm trung thành và kỳ cựu nhất. Là em gái nhà công nghiệp quá cố Richard Griffen và chị em thông gia với nữ tiểu thuyết gia nổi danh Laura Chase, bà Prior đã đứng trong ban quản trị Dàn nhạc giao hưởng Toronto những ngày đầu thành lập, và gần đây là cả ủy ban tình nguyện điều hành Phòng trưng bày nghệ thuật Ontario và Hiệp hội ung thư Canada. Bà cũng hoạt động trong cả câu lạc bộ Granite, câu lạc bộ Nữ thi thần, Liên hội phụ nữ, và Liên hoan kịch nói Canada. Tang quyến còn lại cháu họ bà là Sabrina Griffen, hiện đang du hành ở Ấn Độ. Tang lễ sẽ diễn ra vào sáng thứ Ba ở nhà thờ Thánh tông đồ Simon, tiếp đó hạ huyệt ở nghĩa trang Mount Pleasant. Thay cho hoa viếng xin quyên góp cho bệnh viện Công nương Margaret. TAY SÁT THỦ MÙ: TRÁI TIM VẼ SON Chúng ta có bao lâu? anh hỏi. Khá nhiều, cô nói. Hai hay ba giờ gì đó. Họ đều đi cả rồi. Đi làm gì? Không rõ nữa. Đi làm tiền. Mua mua bán bán. Thiện nguyện. Trăm thứ bà rằn. Cô vén một lọn tóc ra sau tai, ngồi lại cho thẳng. Cô cảm thấy mình chỉ chực sẵn, nghe huýt sáo là chạy tới. Cảm giác thật rẻ mạt. Xe của ai đây? cô hỏi. Của bạn. Tôi là một nhân vật quan trọng, tôi có bạn sở hữu xe riêng. Anh đang nhạo tôi, cô nói. Anh không trả lời. Cô kéo kéo những ngón găng trên bàn tay. Nếu có ai thấy thì sao? Họ chỉ thấy có cái xe. Cái xe này tã lắm rồi, nó là xe con nhà nghèo. Có nhìn thẳng vào cô họ cũng chẳng nhận thấy cô, bởi không ai nghĩ người như cô lại để bị thấy ngồi trong cái xe thế này. Có những lúc anh chẳng ưa tôi lắm, cô nói. Dạo này tôi ít khi nghĩ được về thứ gì ngoài cô, anh nói. Nhưng ưa lại là chuyện khác. Muốn ưa được cần thời gian. Tôi không đủ thời gian để ưa cô. Tôi không tập trung làm thế được. Ở đây không được, cô nói. Có biển kia. Biển không dành cho những người như ta, anh nói. Đây này - xuống đây. Con đường hẹp như rãnh cày. Giấy ăn vứt đi, vỏ kẹo cao su, bao dùng rồi như bong bóng cá. Chai lọ giữa sỏi, bùn khô đã nứt rồi mủn ra. Cô đã tính nhầm khi đi giày ấy, đôi gót ấy. Anh nắm tay cô, giữ cho vững. Cô tránh đi. ẳ Đây chẳng khác gì đồng trống ấy. Sẽ có người thấy. Người nào thấy? Ta đang ở dưới chân cầu. Cảnh sát. Đừng. Chưa được. Cảnh sát không rình rập giữa ban ngày ban mặt đâu, anh nói. Chỉ vào ban đêm thôi, còn chĩa đèn pha tìm quân đồi bại không kính Chúa. Hay là đám vô gia cư, cô nói. Bọn điên dở. Đây này, anh nói. Tít dưới đây. Trong bóng râm ấy. Liệu có dây sơn độc không? Không có tí nào đâu. Thề đấy. Không có cả vô gia cư lẫn điên dở luôn, trừ tôi. Làm sao anh biết? Cây sơn độc ấy. Anh từng đến đây rồi à? Đừng lo lắm thứ thế, anh nói. Nằm xuống nào. Đừng. Anh làm rách mất. Đợi đã. Cô nghe thấy giọng chính mình. Đó không phải giọng cô nữa, nghe như hụt hơi. Có một trái tim vẽ son trên nền xi măng, khoanh vòng bốn chữ cái. Nối bằng một chữ Y: Y nghĩa là Yêu. Chỉ những người liên quan mới biết là tên ai, biết họ đã ở đây, biết họ đã làm chuyện ấy. Tuyên xưng ái tình, giấu nhẹm các tiểu tiết. Bên ngoài trái tim, lại bốn chữ nữa, như bốn điểm chỉ hướng trên la bàn: F U C K Chữ bị xé toang, banh rộng: địa thế của nhục dục, bất nhẫn không thương xót. Miệng anh mùi khói, miệng cô vị muối, còn tứ bề, mùi cỏ bị xéo nát và mèo, mùi những góc khuất bị khinh rẻ. Hơi ẩm và cây cỏ, đất lấm trên đầu gối, cáu ghét bên xanh tươi; những bông bồ công anh mảnh khảnh vươn về ánh sáng. Bên dưới chỗ họ nằm, những gợn sóng lăn tăn. Bên trên, những cành xanh lá, dây leo nở hoa tim tím; những trụ cầu cao nghều đâm lên, những dầm cầu sắt, bánh xe lăn ngang trên đầu; trời xanh cắt thành từng vệt. Đất cứng dưới lưng cô. Anh vuốt ve trán cô, lần ngón tay dọc gò má. Em đừng nên thờ phụng tôi, anh nói. Tôi không sở hữu con cu duy nhất trên toàn thế giới. Sớm muộn gì em cũng hiểu. Vấn đề không phải thứ đó, cô nói. Mà đằng nào em cũng không thờ phụng anh. Chưa chi anh đã đẩy cô ra xa, vào tương lai cách biệt. Thứ gì cũng thế, em sẽ còn được nhiều hơn, một khi tôi không còn quấy rầy em. Nghĩa là sao? Anh đâu có quấy rầy em. Là sau đời này còn có đời khác, anh nói. Khi đời ta đã qua. Mình nói chuyện khác đi. Được rồi, anh nói. Em nằm lại xuống đi. Gối đầu lên đó. Đẩy cái áo ẩm ướt sang bên. Một tay vòng qua người cô, tay kia lần túi tìm thuốc lá, rồi quẹt diêm bằng móng tay. Tai cô áp vào chỗ hõm trên cổ anh. Anh nói, Ta đến đâu rồi nhỉ? Người dệt thảm. Đám trẻ mù. À phải. Nhớ ra rồi. Anh nói: Cảnh phồn vinh của thành Sakiel-Norn xây dựng trên lưng nô lệ, đặc biệt là đám trẻ nô lệ đã dệt ra thứ thảm trứ danh. Nhưng nhắc tới nó là điều kiêng kỵ. Tầng lớp Snilfard khẳng định sự trù phú của họ có được không phải nhờ nô lệ, mà nhờ đức hạnh và trí tuệ của vương triều - nói cách khác, nhờ những lễ vật rất hậu dâng lên thần thánh. Có rất lắm loại thần. Thần thánh luôn đem lại nhiều tiện lợi, có thể dùng bào chữa hầu hết mọi điều, và thần linh ở Sakiel-Norn cũng không phải ngoại lệ. Các thần là loài ăn thịt; họ thích hiến tế súc vật, nhưng máu người mới là thứ quý giá hơn cả. Khi thành bang dựng lên, từ cái ngày xửa ngày xưa đã đi vào truyền thuyết, tương truyền chín người cha sùng mộ đã dâng chính con đẻ mình, đem chôn dưới chín cổng thành làm thần gác cổng. Có hai cổng thành mỗi hướng Đông Tây Nam Bắc, một cửa ra và một cửa vào: ra cùng một lối đã vào là cầm chắc sẽ chết yểu. Cổng thứ chín là một phiến cẩm thạch đặt nằm trên đỉnh ngọn đồi chính giữa thành; nó mở mà không dời chỗ, nó xoay giữa cõi sống và cõi chết, giữa xác phàm và linh hồn. Đó là cánh cổng cho các vị thần đến và đi; họ không cần đến hai cửa, bởi khác với người trần, họ có thể ở hai bên cửa cùng một lúc. Những nhà tiên tri thành Sakiel-Norn có câu: Đâu là hơi thở đích thực của con người - khi hít vào hay khi thở ra? Bản chất của thần linh là vậy đấy. Cánh cổng thứ chín cũng là bàn thờ, nơi máu hiến tế đổ ra. Đồng nam được dâng cho nam thần Ba Mặt Trời, cai quản ban ngày, ánh sáng, cung điện, yến tiệc, lò thiêu, chiến trận, rượu, lối vào, lời nói; đồng nữ cho nữ thần Năm Mặt Trăng, bảo hộ màn đêm, sương mù và bóng tối, nạn đói, hang động, sinh nở, lối ra, im lặng. Đồng nam bị đập giập đầu bằng chùy trên bàn thờ rồi quăng vào miệng thần, rơi thẳng xuống lò thiêu bùng cháy. Đồng nữ bị cắt cổ cho máu chảy hết, để nuôi cho đầy lại năm mặt trăng đang kỳ khuyết, để chúng không mòn mất và vĩnh viễn biến đi. Chín thiếu nữ được hiến sinh hằng năm, tưởng nhớ chín cô bé chôn dưới cổng thành. Họ được mệnh danh “nữ tỳ của thần thái âm”, và người ta dâng lên họ lời nguyện cầu, hoa và hương trầm để họ cầu xin với thần thay mặt người sống. Ba tháng cuối năm được gọi là “những tháng không mặt”; đó là những tháng mùa màng không mọc, vì nữ thần tịch cốc. Trong thời kỳ này thần Mặt Trời cai quản chiến trận và lò thiêu tung hoành khắp nơi, các bà mẹ cho con trai mình ăn mặc giả gái để bảo vệ chúng. Theo luật định những gia tộc Snilfard đứng đầu phải đưa ra ít nhất một người con gái họ mình để hiến sinh. Nhưng tế vật bị vấy bẩn hay khuyết tật sẽ là phạm thượng với nữ thần, nên dần dà tầng lớp Snilfard bắt đầu cắt xẻo các cô bé để được tha: một ngón tay hay một dái tai, những bộ phận nho nhỏ kiểu ấy. Rất nhanh việc cắt xẻo chỉ còn mang tính biểu tượng: một hình xăm vuông màu xanh trên xương quai xanh. Đàn bà không phải Snilfard mà mang dấu hiệu đẳng cấp riêng như vậy là đáng tội tử hình, nhưng các chủ chứa, luôn luôn thèm muốn thêm lợi lộc, nghĩ ra cách dùng mực tô lên những cô điếm trẻ nhất biết tỏ ra bắc bậc kiêu kỳ. Đó là món hàng quyến rũ với những kẻ muốn được cảm thấy đang cưỡng gian một tiểu thư huyết thống Snilfard cao quý. Cũng vào thời kỳ đó, tầng lớp Snilfard bắt đầu thói quen nhận con nuôi - phần lớn là con của các nữ nô với chủ nhân - đem hiến thay con gái hợp pháp của mình. Làm thế là lách luật, nhưng những gia tộc lớn vốn rất quyền uy, nên giới chức sắc lờ đi cho họ. Rồi những gia tộc đó còn chây lười hơn nữa. Họ không muốn bỏ công nuôi những đứa con gái ấy lớn lên trong nhà mình, nên họ chỉ đơn giản trao cô bé cho đền thờ nữ thần, kèm số tiền hậu hĩnh trả công chăm sóc. Bởi cô bé vẫn mang tên gia tộc, gia tộc được ghi nhận là đã hiến sinh. Cũng như nay ta bỏ tiền bao ngựa đua. Nghi lễ đã suy đọa đi nhiều so với nguồn gốc cao quý ban đầu, nhưng đến thời ấy, ở Sakiel-Norn, mọi thứ đều đem ra buôn bán. Các cô bé cống vật bị nhốt trong khu đền, được nhồi đồ ăn ngon lành để vỗ cho khỏe mạnh béo tốt, và huấn luyện nghiêm cẩn để chuẩn bị cho ngày trọng đại - các cô phải đủ sức hoàn thành bổn phận một cách đoan trang, không mè nheo rên rỉ. Lễ hiến tế lý tưởng phải như một vũ điệu, theo lý thuyết: đường bệ và êm ái, hòa hợp và uyển chuyển. Họ không phải là súc vật, không thể bị mổ thịt một cách dã man; phải là họ tự nguyện dâng mạng sống của mình. Rất nhiều cô trong số đó tin vào những điều được dạy: rằng cuộc sống thanh bình của cả vương quốc phụ thuộc vào sự hiến thân của họ. Họ bỏ hàng giờ cầu nguyện, dọn mình; họ được dạy bước đi mắt nhìn xuống đất, mỉm cười sầu muộn dịu dàng, ca những bài ca của nữ thần về vắng mặt và im lặng, về tình yêu không đền đáp và tiếc nuối không nói ra, về sự không lời - bài ca về việc không thể hát. Năm lại năm qua. Giờ chỉ còn rất ít người thực sự coi trọng thánh thần, và kẻ nào quá sức mộ đạo trong tâm tưởng cũng như nghi thức đều bị coi là thần kinh. Những nghi lễ cổ vẫn được dân thành tiếp tục bởi đã quen làm vậy trước nay, nhưng không còn là mối quan tâm chính nữa. Dù sống trong cảnh biệt lập, cũng có những cô bé nhận ra mình đang bị giết để bôi trơn một tín ngưỡng đã phai tàn. Một số toan bỏ chạy khi đối mặt với lưỡi dao. Số khác rú rít khi bị nắm lấy tóc mà đè ngửa trên phiến đá bàn thờ, nhưng cũng có một số lên tiếng nguyền rủa nhà vua, người luôn đảm trách vai trò chủ tế nghi lễ. Thậm chí một cô còn cắn ông ta. Những cơn kinh sợ hay điên giận bột phát kiểu đó khiến dân thành căm ghét, bởi làm thế sẽ mang vận rủi khủng khiếp đến kinh thành. Hoặc biết đâu sẽ đến, ấy là nếu nữ thần có tồn tại. Dù gì những vụ cuồng loạn ấy cũng làm hỏng cả không khí lễ hội: người người đều chuộng các dịp hiến sinh, kể cả Ygnirod, kể cả nô lệ, bởi ngày đó họ sẽ được nghỉ và uống say mèm. Vậy là có thêm phong tục mới, cắt lưỡi các cô bé ba tháng trước khi tới ngày hiến sinh. Đây không phải là khuyết tật, các thầy tế nói, mà là cải thiện - còn gì thích hợp hơn với những nô tỳ phục vụ nữ thần cai quản sự lặng yên? Cứ thế, không còn lưỡi, người căng phồng những lời lẽ không còn có thể thốt ra, mỗi cô bé sẽ được rước đi trong tiếng nhạc trang nghiêm, trùm mạng kín mình, tràng hoa quấn cổ, theo cầu thang xoắn lên tới cổng thành thứ chín. Tới thời này em có thể nói trông họ giống như một cô vợ thượng lưu được cưng chiều. Cô ngồi dậy. Cái đó thật không cần thiết, cô nói. Anh muốn đả kích tôi. Anh chỉ khoái thủ tiêu mấy cô bé tội nghiệp đó trong tấm mạng cô dâu. Tôi cá tất cả họ đều tóc vàng. ẳ Không phải đả kích em, anh nói. Không hẳn thế. Mà dù sao tôi cũng đâu có bịa ra từ đầu đến cuối, nó có cội rễ vững chắc trong lịch sử. Người Hittite… Tôi biết rồi, nhưng dù sao nó cũng làm anh sướng rỏ dãi. Anh chứa đầy hận thù - không phải, đầy ganh tị, Chúa mới hiểu vì sao. Tôi thèm vào biết người Hittite hay lịch sử hay cả mớ đó - chỉ giỏi ngụy biện. Khoan một chút nào. Em đã phê chuẩn các cô trinh nữ hiến sinh, tự em chọn lấy trong thực đơn cơ mà. Tôi chỉ bưng lên những món em gọi. Em không thích cái gì - phục sức ư? Khăn voan nhiều quá à? Chúng ta đừng cãi nhau, cô nói. Cô cảm thấy mình sắp khóc, cô nắm chặt tay để khỏi bùng ra. Tôi không cố tình chọc tức em. Lại đây nào. Cô gạt tay anh ra. Đúng là anh cố tình chọc tức tôi. Anh khoái chí vì biết mình làm được. Tôi cứ nghĩ em sẽ thấy thú vị. Khi nghe tôi biểu diễn. Tung hứng các tính từ. Đóng vai hề cho em vui. Cô vuốt phẳng váy xuống, nhét áo vào trong. Các cô bé bị giết trong tấm mạng cô dâu, thế mà tôi lại thấy thú vị à? Lưỡi bị cắt nữa chứ. Anh hẳn nghĩ tôi là quỷ dạ xoa. Tôi rút lại vậy. Tôi sẽ thay đổi. Tôi viết lại lịch sử vì em. Thế nào? Anh không thể làm được, cô nói. Lời đã thốt ra rồi. Nửa câu anh cũng không rút lại được. Tôi đi đây. Giờ cô đã chống chân quỳ lên, chuẩn bị đứng dậy. Còn nhiều thời gian lắm. Nằm xuống đã. Anh nắm khuỷu tay cô. Không. Bỏ ra. Nhìn xem mặt trời xuống rồi. Họ sắp về. Tôi có thể bị rắc rối, dù chắc với anh thì cái đó chẳng phải là rắc rối nữa, tẹp nhẹp quá mà. Anh đâu cần biết - anh chỉ thèm có… thèm có… Nào, nói toẹt ra đi. Anh hiểu tôi định nói gì, cô nói giọng mệt mỏi. Không phải thế. Tôi xin lỗi. Tôi mới là quỷ dạ xoa, tôi đã đi quá đà. Dù sao cũng chỉ là chuyện kể thôi mà. Cô tì trán vào đầu gối. Một phút sau cô nói, Rồi em sẽ làm gì đây? Sau này - khi anh không còn đây nữa? Em sẽ vượt qua, anh nói. Em sẽ sống. Nào, anh sẽ phủi cho em sạch. Không sạch nổi đâu, nếu chỉ phủi đi. Cài cúc áo lên nào, anh nói. Đừng buồn nhé. BẢNG TIN HỘI GIA ĐÌNH - TRƯỜNG HỌC - CỰU HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC ĐẠI TÁ HENRY PARKMAN, CẢNG TICONDEROGA, THÁNG NĂM 1998. SẮP TRAO GIẢI TƯỞNG NIỆM LAURA CHASE Myra Sturgess, Phó chủ tịch Hội cựu học sinh Trường trung học Đại tá Henry Parkman mới được tặng một quỹ giải thưởng vô cùng giá trị, theo di chúc hào phóng của bà Winifred Griffen Prior ở Toronto vừa tạ thế, em gái ngài Richard E. Griffen đáng kính sẽ được tưởng nhớ vì vẫn thường về nghỉ hè ở Cảng Ticonderoga và rất yêu thích dong thuyền trên dòng sông thị trấn ta. Mang tên Giải tưởng niệm Laura Chase về sáng tác văn học, giải thưởng trị giá hai trăm đô la này sẽ được trao cho học sinh năm cuối có truyện ngắn xuất sắc nhất, theo quyết định của hội đồng gồm ba thành viên Hội cựu học sinh, dựa trên giá trị văn học cũng như cả đạo đức. Thầy hiệu trưởng Eph Evans phát biểu: “Chúng ta vô cùng biết ơn bà Prior đã nhớ đến trường ta trong số vô vàn người khác chịu ơn bà.” Đặt tên theo nữ tác giả danh tiếng Laura Chase người gốc thị trấn ta, giải thưởng lần thứ nhất sẽ được trao trong lễ tốt nghiệp tháng Sáu này. Chị gái tác giả, bà Iris Griffen thuộc gia đình Chase vốn đã đóng góp rất nhiều cho thị trấn những ngày đầu thành lập, đã vui lòng chấp thuận lên bục trao giải cho quán quân may mắn, và chỉ còn vài tuần nữa thôi, vậy quý vị hãy bảo con cái mình xắn tay áo lên mà viết những thứ để đời! Hội cựu học sinh sẽ tài trợ một buổi tiệc trà trong nhà thể chất ngay sau lễ tốt nghiệp. Vé liên hệ Myra Sturgess ở Nhà Bánh Gừng, toàn bộ tiền thu được dành may đồng phục mới đang rất cần thiết cho đội bóng đá! Khuyến khích mọi người mang góp bánh nhà làm, xin đề rõ nếu có dùng hạt dẻ. III BUỔI PHÁT THƯỞNG Sáng nay tôi thức dậy trong cơn sợ ngạt thở. Ban đầu tôi không xác định được vì sao, nhưng rồi nhớ ra. Hôm nay sẽ cử hành lễ. Mặt trời đã lên, phòng chưa gì đã quá nóng. Ánh sáng thấu vào qua rèm lưới, treo lửng lơ giữa không trung, như chất lắng trong hồ. Đầu tôi nặng như một bịch bùn nhão. Trong áo ngủ còn ẩm ướt vì nỗi kinh hoảng nào đó đã bị gạt qua một bên như cành lá, tôi dựng mình dậy và lê khỏi cái giường bừa bộn, rồi ép mình hoàn thành bộ nghi thức bình minh - thứ nghi lễ ta thực hiện để khiến mình trông có vẻ tỉnh trí và tươm tất trước mắt mọi người. Tóc phải vuốt cho mượt sau khi đã dựng đứng lên vì hồn ma bóng quế nào đó trong đêm, ánh nhìn ngơ ngác không tin phải rửa cho sạch khỏi mắt. Răng đánh kỹ, dù trông ra sao. Chúa biết được tôi đã gặm thứ xương gì trong giấc ngủ. Rồi tôi bước vào dưới vòi sen, bám chặt thanh vịn Myra ép tôi mua, cẩn trọng không đánh rơi miếng xà phòng - tôi rất cảnh giác sợ trượt chân. Tuy thế, cơ thể cũng cần xối nước, để gột cho mùi tăm tối ban đêm sạch khỏi da. Tôi ngờ mình bốc một thứ mùi mà bản thân không còn nhận ra - hỗn hợp khăm khẳm từ thịt ôi và thứ nước giải người già đùng đục. Đã lau khô, thoa dầu rồi đánh phấn, xịt nước thơm ngang xịt thuốc diệt mốc sương, thế là tôi có thể tạm coi là hồi phục. Chỉ có điều vẫn còn cảm giác không trọng lượng, hay đúng hơn là cảm giác sắp bước hụt ra ngoài vách đá. Mỗi lần nhấc một chân lên tôi ướm thử rồi mới đặt, cứ như sàn sắp tụt dưới chân. Chẳng có gì ngoài sức cảng mặt ngoài giữ tôi đứng vững. Mặc quần áo vào cũng đỡ hơn đôi chút. Tôi không dám tự tin nếu không có bộ khung. (Nhưng mà quần áo thực của tôi đâu rồi? Hẳn nhiên những thứ đồ màu nhạt bèo nhèo này, đôi giày chỉnh hình này phải là của ai khác. Nhưng chúng là của tôi; tệ hơn nữa, giờ chúng vừa với tôi.) Giờ đến cầu thang. Tôi luôn kinh sợ sẽ ngã lộn nhào xuống đó - gãy cổ, nằm thẳng cẳng phơi đồ lót, rồi tan thành một vũng ung thối trước khi có kẻ nào có sáng kiến đến tìm tôi. Chết như thế quá ư không đẹp mắt. Tôi dò từng bậc một, bám chắc lấy tay vịn; rồi dọc hành lang tới bếp, những ngón tay trái khẽ lướt trên tường như ria mèo. (Tôi vẫn nhìn được, nói chung. Tôi vẫn đi được. Hãy cảm tạ từ những ân huệ nhỏ, Reenie hẳn sẽ nói. Việc gì phải thế? Laura hỏi. Sao các ân huệ lại nhỏ như vậy?) Tôi không muốn ăn sáng. Tôi uống một cốc nước, và tiêu sầu bằng cách rung đùi. Đến chín giờ rưỡi Walter qua đón tôi. “Nực thế này đủ chưa bà?” cậu ta hỏi, câu mở đầu trăm lần như một. Mùa đông sẽ là cóng thế này. Ướt và khô khi xuân và thu tới. “Cậu hôm nay thế nào, Walter?” tôi hỏi, cũng như mọi lần. “Cố gắng tránh không nghịch dại,” cậu ta trả lời, cũng như mọi lần. “Lũ chúng ta còn mong được gì hơn thế,” tôi nói. Cậu ta cười theo lối riêng của mình - mặt nứt ra thành kẽ mảnh, như bùn khô - mở cửa xe, rồi ấn tôi vào băng sau. “Ngày trọng đại hửm?” cậu nói. “Cài dây an toàn đi, không là cháu bị bắt cũng nên.” Cậu ta nói cài dây an toàn đi bằng giọng bông đùa; cậu ta đủ tuổi nhớ những ngày xưa, những ngày còn thoải mái. Thời trẻ cậu ta từng là một trong những cậu trai lái xe với khuỷu tay tựa ra ngoài cửa sổ, tay kia đặt trên đùi bạn gái. Cũng hơi bàng hoàng khi nhớ rằng bạn gái ấy là Myra chứ chẳng ai vào đây. Cậu ta điệu nghệ đánh xe khỏi lề đường và chúng tôi phóng đi trong lặng yên. Vóc người to lớn, cậu Walter ấy - vuông vắn, như hòn đá tảng chân cột, cái cổ giống như cái vai thứ ba thì đúng hơn; cậu tỏa ra mùi không phải là không dễ chịu, mùi giày da đi mòn lẫn với xăng xe. Nhìn áo sơ mi kẻ ca rô và mũ bóng chày tôi đoán cậu không định dự buổi lễ tốt nghiệp. Cậu không đọc sách, như thế tiện cho cả hai chúng tôi: bằng vào những gì cậu hiểu thì Laura là em gái tôi và thật đáng buồn là nó đã chết, chấm hết. Lẽ ra tôi nên lấy một người như Walter. Tay chân khéo léo. Không phải: lẽ ra tôi chẳng nên lấy ai. Như thế sẽ đỡ đi lắm phiền hà. Walter đậu xe trước cửa trường học. Trường xây kiểu hiện đại hậu chiến, năm mươi năm tuổi nhưng với tôi vẫn còn mới mẻ: tôi vẫn không quen được với vẻ bằng phẳng nhạt nhẽo này. Trông ngôi trường như một thùng đóng hàng. Đám thiếu niên cùng cha mẹ đang tràn ra trên vệ đường, trên bãi cỏ, qua cổng trước, ăn mặc đủ màu sắc mùa hè. Myra đã đứng chờ chúng tôi, hú gọi từ trên bậc tam cấp, váy dài trắng phủ những đóa hồng đỏ to đùng. Đàn bà mông nở không nên mặc đồ in hoa to. Không thể không nhớ tiếc đai nịt bụng, tuy không phải tôi muốn chúng hồi sinh. Cô ả vừa mới làm đầu, những lọn bạc sấy quăn tít trông như tóc giả của một trạng sư Anh quốc. “Anh đến muộn rồi,” cô bảo Walter. “Anh đâu có muộn,” Walter đáp. “Nếu anh muộn, thì là vì mọi người đến sớm, có thế thôi. Chẳng có lý do gì bắt bà ngồi chờ đến cóng cả chân.” Hai người này có thói quen nói về tôi như người vắng mặt, cứ như tôi là trẻ con hay chó mèo. Walter trao cánh tay tôi vào vòng giám hộ của Myra và chúng tôi lên bậc cửa trước như đang thi chạy hai người ba chân. Tôi cảm thấy mình như bàn tay Myra chắc đang cảm thấy: một cái xương quay tay dễ gãy, bọc lỏng lẻo trong cháo yến mạch đầy gân. Đáng ra nên mang cây gậy chống theo, nhưng tôi không thấy có triển vọng lôi nó lên sân khấu với mình. Rồi chắc chắn sẽ có kẻ ngã chổng vó. Myra đưa tôi vào hậu trường và hỏi có cần đi nhẹ không - cô nàng rất giỏi nhớ chuyện đó - rồi đặt tôi ngồi trong phòng thay đồ. “Bà cứ ngồi yên chỗ thôi,” cô dặn. Rồi hối hả đi, mông nảy tưng tưng, để coi sóc cho mọi thứ đâu vào đấy. Tấm gương phòng thay đồ lắp đầy những bóng đèn tròn nhỏ viền quanh, như trong nhà hát; ánh sáng nhuận sắc cho hình người trong gương đến khéo, nhưng tôi không bị lừa: trông tôi ốm yếu, da trắng nhợt cắt không ra máu, như thịt ngâm nước lâu ngày. Đây là do sợ, hay bệnh thật rồi? Chắc chắn là tôi không thấy mình tuyệt đối khỏe khoắn. Tôi tìm lược, quệt mấy nhát chiếu lệ trên đỉnh đầu. Myra không ngớt dọa sẽ vác tôi đến chỗ “con em cháu”, ở chỗ cô vẫn còn gọi là Trung Tâm Thẩm Mỹ - tên chính thức của nó là Cảng Tóc, đèo thêm cái đuôi Unisex cho khuyến khích - nhưng tôi vẫn không ngớt cưỡng lại. Ít ra tóc tôi vẫn còn đúng là của tôi, dù nó bờm xờm dựng lên như vừa bị điện giật. Bên dưới có thể thoáng nhìn thấy da đầu, hồng nhờn nhợt như chân chuột nhắt. Nếu có bao giờ tôi lọt vào gió mạnh, tóc tôi sẽ bay sạch như hạt bồ công anh, chừa lại cái đầu trọc lồi lõm sẹo. Myra để lại cho tôi một cái bánh xốp sô cô la đặc biệt tự tay làm, có phết kem nhân buổi tiệc trà cựu học sinh - một thanh vữa phủ bùn lỏng màu ca cao - và bình nhựa nắp vặn đựng thứ cà phê khét tiếng chua như pin chảy. Tôi không ăn cũng không uống được, nhưng trời sinh ra toa lét để làm gì? Tôi cũng chừa lại ít vụn bánh nâu nâu cho thuyết phục. Rồi Myra sầm sập chạy vào xốc tôi lên dẫn tôi ra, và tay tôi được ông hiệu trưởng cầm lắc lắc, và tôi được cho biết tôi đến được đây thật quý hóa quá; rồi tôi được giao qua ông hiệu phó, chủ tịch Hội cựu học sinh, tổ trưởng tổ Anh văn - một bà mặc áo vét quần âu - đại diện Phòng thương mại trẻ, rồi chót cùng là nghị sĩ đại diện cho thị trấn, loại người này sẽ phát rồ phát dại nếu lỡ mất dịp hay ho nào. Tôi chưa từng thấy nhiều hàm răng trắng bóng trưng ra như thế kể từ thời Richard còn thênh thang quan lộ. Myra hộ tống tôi tới tận ghế đại biểu, trước khi thì thầm vào tai, “Con đứng ngay trong cánh gà.” Dàn hợp xướng trường bắt nhịp giữa những tiếng rít và nốt phô, và tất cả cùng hát “Canada hỡi!”, một bài tôi không bao giờ thuộc vì người ta liên tục thay lời. Giờ đây một phần bài quốc ca dùng tiếng Pháp, một chuyện ngày xưa không ai hình dung nổi. Chúng tôi ngồi xuống, sau khi khẳng định xong lòng tự hào tập thể vì một thứ không đọc nổi tên. Rồi viên mục sư trường mở đầu lời cầu nguyện, giảng giải cho Chúa nghe những khó khăn chưa từng thấy đang đón chờ giới trẻ hôm nay. Chắc Chúa không phải lần đầu nghe phải thứ này, và chắc hẳn cũng chán ngấy y như khán giả. Rồi số còn lại thay nhau lên tiếng: năm cuối thế kỷ hai mươi, tống cựu nghênh tân, công dân thế hệ tương lai, tay xuôi truyền lại cho các em vân vân. Tôi mặc đầu óc mình phiêu bạt; tôi đủ khôn mà hiểu đòi hỏi duy nhất với mình là không làm trò lố trên sân khấu. Không khác gì những ngày tôi ở bên lễ đài, hoặc trong bữa tối lê thê nào đó, cạnh Richard, im miệng hến. Nếu có ai hỏi đến, mà cũng hiếm xảy ra, tôi đáp sở thích của mình là vườn tược. Khá lắm thì cũng là nửa sự thực, nhưng cũng đủ nhàm để được gật đầu chấp nhận. Tiếp theo đó là các em vừa tốt nghiệp nhận bằng. Chúng lần lượt tiến lên, nghiêm trang và rạng rỡ, đứa lớn đứa nhỏ, nhưng ai cũng đẹp một vẻ chỉ có người trẻ mới đẹp được như thế. Ngay cả những đứa xấu nhất cũng đẹp, ngay cả những đứa cau có, những đứa béo phì, ngay những đứa mặt mụn. Chúng không đứa nào hiểu được điều ấy - hiểu chúng đẹp đến thế nào. Nhưng bất kể vậy chúng vẫn khiến tôi bực mình, đám trẻ ấy. Dáng điệu chúng nhìn đến khó chịu, và cứ xét từ những bài hát mà chúng quen nức nở rền rĩ thì đối với chúng câu cắn răng mà chịu đã xuống mồ cùng với điệu foxtrot. Chúng không hiểu được mình may mắn đến thế nào. Chúng hầu như không nhìn sang tôi. Trước mắt chúng hẳn tôi khá cổ lỗ, nhưng tôi đồ rằng tất cả mọi người đều không tránh khỏi phận biến thành cổ lỗ trong mắt đám trẻ hơn. Cho đến khi máu đổ ra sàn, tất nhiên. Chiến tranh, dịch hạch, giết người, mọi dạng thử lửa hay bạo lực, đấy là những thứ chúng kính nể. Có máu, nghĩa là ta nói chuyện nghiêm túc. Sau đó đến các giải thưởng: Vi tính, Vật lý, gì đó, Kinh doanh, Văn học Anh, một thứ tôi không nghe kịp. Rồi người ở Hội cựu học sinh hắng giọng xổ ra một tràng sùng mộ về Winifred Griffen Prior, nữ thánh giáng trần. Người ta trơn mồm mép biết mấy khi có hơi tiền hơi bạc! Tôi đoán con mẹ già đã hình dung tất cả từ đầu khi lập chúc thư tài trợ, dù khoản ấy bủn xỉn có từng này. Mụ đã biết tôi sẽ được yêu cầu có mặt; mụ muốn tôi co giật trước mắt cả thị trấn soi mói trong khi lòng rộng rãi của mụ được tung hô. Hãy tiêu khoản này mà tưởng nhớ đến ta[3]. Tôi ghét nhất làm cho mụ khoái chí, nhưng không thể phủi tay mà không tỏ ra khiếp sợ hoặc tội lỗi, hoặc bàng quan. Hoặc tệ hơn nữa: bội bạc. Và bây giờ đến lượt Laura. Ông nghị viên tự đảm nhận lấy vinh dự đó: sẽ cần tài ăn nói ở đây. Gốc gác địa phương của Laura được nhắc qua, rồi lòng can đảm, rồi quyết tâm “hiến mình cho mục tiêu đã định”, bất kể ý ông ta là gì. Không một lời về hoàn cảnh cái chết của nó, dù dân thị trấn trăm người như một đều tin - bất chấp phán quyết sau điều tra - rằng chuyện đó cũng giống với tự tử như mẹ kiếp giống với chửi thề. Và tịnh không một lời về cuốn sách, mà đảm bảo là hầu hết họ đều nghĩ tốt hơn nên quên đi cho nhanh. Cho dù người ta không quên, ở đây thì không: sau năm chục năm nó vẫn phảng phất mùi lưu huỳnh, vẫn xếp vào hàng cấm vật. Chuyện khá khó hiểu, theo ý tôi: về phương diện dâm ô nó đã quá cũ kỹ, ngôn từ tục tĩu thì không còn chữ nào không đầy đường đầy phố ngày nay, tình dục thì phải đạo như vũ nữ múa quạt - gần như đồng bóng nữa, như mấy cái nịt giữ tất. Thời ấy tất nhiên lại là chuyện khác. Bản thân cuốn sách không phải thứ người ta nhớ, hoặc cũng thua xa nhớ về cơn thịnh nộ đương thời: trong các nhà thờ mục sư kết án nó là tà dâm, không phải chỉ ở thị trấn tôi; thư viện công cộng buộc phải hạ nó khỏi giá, hiệu sách duy nhất trong thị trấn không chịu nhập về. Còn nghe xì xào tin kiểm duyệt. Dân tình giấu giếm tới Stratford hay London hay tận Toronto, kiếm lấy một cuốn cho mình lén lút, như hồi đó người ta vẫn làm với bao cao su. Về tới nhà họ kéo rèm ngồi đọc, người bất bình, kẻ nhấm nháp, người ngốn ngấu và hí hửng - ngay cả những kẻ chưa bao giờ định lật một cuốn tiểu thuyết quá trang bìa. Chuyện bẩn thỉu là cách khuyến khích xóa mù tốt nhất. (Tất nhiên cũng có vài lời bày tỏ cảm thông. Tôi không đọc hết được - với tôi chưa đủ là một chuyện. Nhưng cô bé tội nghiệp còn trẻ quá. Có lẽ cô sẽ tiến bộ hơn ở cuốn sau, nếu chưa bị mang đi. Họ chỉ khen được đến cỡ đó là hết.) Họ mong nhận gì từ cuốn sách? Dâm dật, tục tĩu, khẳng định những ngờ vực đen tối của họ. Nhưng cũng có thể một số, dù không tự biết, muốn được quyến rũ vào câu chuyện. Có thể họ đi tìm đam mê, có thể họ chúi vào cuốn sách như vào một gói đồ bí ẩn - một hộp quà mà tận dưới đáy, giấu trong hàng lớp giấy bóng sột soạt, có một thứ họ mong mỏi từ lâu nhưng chưa bao giờ nắm được. Nhưng ngoài ra họ còn muốn chỉ tay day mặt những người trong đó - trừ Laura, đã hẳn: việc nó có mặt được coi là đương nhiên. Họ muốn những thân người thật, để ghép vào những thân người được chữ gọi lên. Họ muốn dục vọng có thật. Trên hết họ muốn biết: người đó là ai? Trong giường của cô gái trẻ, cô gái trẻ đáng yêu đã chết; trong giường của Laura. Một số nghĩ mình biết, tất nhiên. Hồi đó bàn ra tán vào cũng lắm. Với những ai biết đem hai với hai cộng lại, kết quả đã rành rành. Cứ làm như mình sạch trong như tuyết. Củ mỉ cù mì. Đúng là không thể trông mặt mà bắt hình dong. Nhưng tới lúc đó Laura đã ra ngoài vòng phán xét. Tôi mới là kẻ nằm trong tầm tay. Thư nặc danh bắt đầu đổ tới. Sao tôi lại bố trí cho của bẩn thỉu này được in cơ chứ? Mà lại ở New York nữa - điếm thành Sodom. Uế tạp thay! Tôi không có liêm sỉ à? Tôi cho phép gia đình mình - một gia đình đáng trọng biết mấy - bị nhấn xuống vũng bùn, nghĩa là cả thị trấn bị nhấn xuống bùn. Laura đầu óc không được bình thường, ai cũng đã ngờ vậy rồi, cuốn sách chỉ càng thêm bằng chứng. Lẽ ra tôi phải bảo vệ ký ức về nó. Tôi phải cho bản thảo một mồi lửa. Nhìn vào biển đầu khán giả dưới kia - mảng đầu già - tôi còn thấy một lớp tà khí đố kỵ cũ, ganh ghét cũ, buộc tội cũ, bốc lên như từ một đầm lầy đang nguội. Còn cuốn sách thì, nó vẫn không được nhắc đến - bị đẩy ra rìa, như một bà con quê lọ lem, đáng xấu hổ. Cuốn sách mỏng như thế, bất lực làm sao. Làm khách không mời trong buổi tiệc lạ lùng này, nó dập dờn bên rìa sân khấu như con bướm ma đuối sức. Trong lúc đang mơ màng như vậy tay tôi bỗng có người chộp lấy, tôi được xốc lên, tấm séc trong phong bì thắt nơ vàng được ấn vào tay. Người đoạt giải vừa được xướng. Tôi không nghe kịp tên. Cô bé đi về phía tôi, gót giày cộp cộp ngang sân khấu. Cô rất cao; bọn chúng bây giờ đứa nào cũng cao, các cô bé ấy, chắc hẳn là do ăn uống. Cô bé mặc áo đen, nghiêm nghị giữa những bộ áo hè rực rỡ; vải thêu lẫn chỉ bạc, hay hạt cườm - thấy có chút lấp lánh. Tóc cô dài và đen. Khuôn mặt trái xoan, miệng tô son màu anh đào; mắt hơi nhíu, tập trung, chăm chú. Da hơi pha màu vàng nhạt hay nâu nhạt - liệu cô có thể là người Ấn, Ả Rập, hay Trung Hoa? Ngay cả ở Cảng Ticonderoga cũng có thể có chuyện ấy - ngày nay người ta ở khắp nơi. Tim tôi nhảy lên, ước muốn chạy qua người như kinh giật. Có thể cháu tôi - có thể Sabrina trông đúng thế này, tôi nghĩ. Có thể, mà cũng có thể không, tôi biết sao được? Có gặp khéo tôi cũng chẳng nhận ra. Nó đã bị tách khỏi tôi lâu đến thế, nó vẫn bị tách đi. Đâu có cách nào? “Bà Griffen,” viên nghị sĩ rin rít. Tôi lập cập, thăng bằng lại. Tôi đã định nói gì nhỉ? “Laura em gái tôi sẽ rất hài lòng,” tôi hổn hển nói vào loa. Giọng tôi phều phào, tôi nghĩ mình sắp ngất. “Cô ấy rất thích giúp đỡ người khác.” Điều này là sự thật, tôi đã thề không nói một lời không thật. “Cô ấy thích đọc và rất yêu sách.” Cũng là thật, một phần nào đó. “Cô ấy hẳn luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho tương lai các em.” Cũng thật luôn. Tôi cũng trao được phong bì; cô bé phải cúi mình xuống nhận. Tôi thì thầm vào tai cô, hoặc có ý định thì thầm - Cầu cho con gặp may. Hãy giữ mình. Bất kỳ ai có ý định rớ vào chữ nghĩa đều cần lời chúc phúc ấy, câu cảnh báo ấy. Tôi có nói ra lời không, hay là chỉ mở miệng ra đóng miệng vào như một con cá? Cô bé cười, và những hạt cườm li ti lấp lánh sáng lóa lên khắp mặt và tóc cô. Ấy là tại mắt tôi, và tại đèn sân khấu, đèn quá sáng. Lẽ ra tôi phải đeo theo kính râm. Tôi cứ đứng yên mắt hấp háy. Rồi cô bé làm một điều bất ngờ: cô cúi mình tới hôn lên má tôi. Qua môi cô tôi cảm thấy làn da chính mình: mềm như găng tay da dê, nhăn nheo, dày phấn, cổ lỗ. Đến lượt cô thì thầm đáp lại, nhưng tôi không nghe rõ. Chỉ là cám ơn thông thường, hay một lời nhắn gửi - biết đâu? - trong một ngôn ngữ khác? Cô bé quay đi. Luồng sáng từ cô tràn ra váng óc đến nỗi tôi phải nhắm mắt. Tôi không nghe được, tôi không nhìn thấy. Bóng tối nhích gần hơn. Tiếng pháo tay quật vào tai tôi như cánh chim vỗ. Tôi loạng choạng, suýt ngã lăn ra. Một viên chức cảnh giác nào đó tóm lấy tay tôi dẫn về chỗ cũ. Trở lại không tên. Trở lại dưới cái bóng dài của Laura. Ra ngoài tầm nguy hiểm. Nhưng vết thương cũ đã toác miệng ra, máu vô hình đổ ộc. Tôi sẽ cạn rất nhanh. CÁI HỘP BẠC Uất kim hương màu cam đang nhú, quặt quẹo tơi tả như những kẻ lẽo đẽo rớt sau đội quân đang trở về. Tôi nhẹ cả người đón chào chúng, như người đứng trong tòa nhà bị bom phá nát mà vẫy tay; tuy nhiên chúng phải tự cựa lấy đường mà ra, tôi không giúp được nhiều. Đôi khi tôi vầy vọc trong phế địa vườn sau, dọn dẹp cuộng hoa tàn hay lá rụng, nhưng chỉ được đến thế là hết. Tôi không quỳ được nhiều nữa, không thể thọc tay vào đất. Hôm qua tôi đi khám bệnh, kiểm tra xem mấy cú váng đầu dạo này là sao. Bác sĩ bảo tôi bị tim, như cách nói ngày trước, cứ như những người khỏe mạnh thì không có tim. Xem ra là rốt cuộc không phải tôi sẽ cứ thế sống mãi, chỉ quắt lại, xám thêm và bụi bặm hơn, như bà đồng trong chai. Đã thầm nhủ tôi muốn chết từ rất lâu về trước, giờ đây tôi nhận thấy rồi mình quả thật sẽ được toại nguyện, và sớm chứ không còn muộn. Không thèm biết tôi đã đổi ý đến đâu. Tôi đã quấn mình trong tấm khăn để ra ngồi ngoài sân, náu dưới mái chìa ngoài hiên sau, bên cái bàn gỗ sứt sẹo nhờ Walter bê từ ga ra vào. Cái ga ra, như thường thấy, chất đầy di vật từ những người chủ trước: bộ bình sơn đủ màu đã khô, đống đá cuội nhựa đường, lọ gần đầy đinh đã gỉ, cuộn dây thép mỏng. Xác ướp chim én, đệm ruột bông cho chuột làm nhà. Walter đã giặt bằng nước Javex, nhưng nó vẫn bốc mùi chuột. Bày trước mặt tôi có tách trà, quả táo bổ làm tư, tập giấy dòng kẻ ngang màu xanh, như pyjama đàn ông hồi xưa. Tôi cũng đã mua bút mới, rẻ tiền, vỏ nhựa đen, ngòi bi. Tôi vẫn nhớ cái bút mực đầu tiên, cầm trơn bóng, mực dây ra ngón tay xanh xanh. Hiệu Bakelite, đai bạc. Là năm 1929. Tôi mười ba tuổi. Laura đã mượn - mà không hỏi, cũng như với bất kỳ thứ gì khác - rồi làm gãy, dễ như không. Tôi tha thứ cho nó, tất nhiên. Tôi luôn luôn tha thứ; tôi buộc phải tha thứ, bởi chỉ còn có tôi với nó. Có tôi với nó trên hòn đảo giữa rào cây gai, chờ giải thoát; trên đất liền, tất cả mọi người còn lại. Tôi viết cái này cho ai đây? Cho mình? Chắc là không phải. Tôi không thể hình dung mình đọc lại nó sau này, cái sau này đã trở thành không chắc chắn. Cho một người lạ mặt, trong tương lai, khi tôi đã chết? Tôi không có tham vọng, hay hy vọng nào như vậy. Có thể tôi viết chẳng cho ai. Có thể cho cái người như khi trẻ con viết, khi chúng vạch tên trên nền tuyết. Tôi không còn nhanh nhẹn như trước. Ngón tay đã cứng lại còng queo, cây bút rung rẩy đâm xiên xẹo, phải mất rất lâu mới hoàn thành một chữ. Nhưng tôi vẫn ngoan cường viết, người gập lại như đang thêu dưới ánh trăng. Nhìn vào gương tôi thấy một bà già; hoặc không phải già, bởi ngày nay người ta không được phép già nữa. Cao tuổi vậy. Đôi lúc tôi thấy một bà cao tuổi có lẽ trông giống bà nội tôi không bao giờ gặp, hoặc giống mẹ tôi, nếu mẹ gắng sống được đến tuổi này. Nhưng đôi khi tôi lại thấy khuôn mặt cô gái trẻ ngày trước tôi từng bỏ bao nhiêu công sang sửa và phỉ nhổ, đã chìm mà vẫn bập bềnh ngay dưới khuôn mặt hiện thời, cái khuôn mặt - nhất là vào buổi chiều, khi ánh sáng chiếu xiên xiên - lỏng lẻo và trong suốt đến nỗi tôi có thể lột ra như cởi tất. Bác sĩ nói tôi cần đi bộ - hằng ngày, anh ta bảo, để tập cho tim. Tôi thì không muốn. Chuyện đi lại không làm tôi băn khoăn, nhưng ra khỏi nhà thì có: tôi luôn cảm thấy mình bị phơi bày. Có phải tôi tưởng tượng ra, ánh nhìn soi mói, tiếng xì xầm? Có thể, mà cũng có thể không. Suy cho cùng tôi là một cảnh quan địa phương, như lô đất trống gạch vứt bừa ngày xưa từng là tòa nhà quan trọng. Ở lại trong nhà cám dỗ hơn nhiều, náu mình trong cảnh ẩn dật vẫn khiến trẻ con hàng xóm giễu cợt và ít nhiều kinh khiếp; mặc hàng giậu và sân cỏ mọc tràn, mặc cửa nhà gỉ không mở được, nằm trên giường trong một thứ áo chùng nào đó mặc cho tóc mọc dài kín gối và móng tay quặp thành vuốt nhọn, trong khi sáp nến nhỏ đầy thảm. Nhưng từ ngày xưa tôi đã chọn lựa dứt khoát giữa chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn. Tôi muốn đứng thẳng và kiểm soát - một bình tro giữa ban ngày. ẳ Có thể chuyển lại về đây sống không phải ý hay. Nhưng hồi đó tôi chẳng nghĩ ra nơi nào khác mà đi. Như Reenie từng nói, Ma quen hơn quỷ lạ. Hôm nay tôi đã cố. Tôi ra ngoài, tôi đi bộ. Tôi đi đến tận nghĩa trang: cũng cần có cái đích cho những cuộc thăm thú mà nếu không sẽ trở thành ngớ ngẩn. Tôi đội mũ nan rộng vành cho bớt lóa, mang kính râm, và gậy chống để dò mép vệ đường. Cả túi nhựa đi chợ nữa. Tôi đi theo phố Erie, qua một hiệu giặt khô, một hiệu ảnh chân dung, vài cửa hàng mặt phố đã sống sót qua nạn mất khách vì các trung tâm thương mại biên thị trấn. Rồi là Quán điểm tâm Betty, đã lại thay chủ mới: sở hữu chủ của nó không sớm thì muộn lại chán, hoặc lăn ra chết, hoặc chuyển đi Florida. Betty giờ có một khoảnh vườn nhỏ, cho khách du lịch ngồi phơi nắng tới độ cháy giòn tan; vườn ở sân sau, khoảnh sàn xi măng vỡ lúc trước chuyên để thùng rác. Cửa hàng có tortellini và cappuccino, quảng cáo hùng hồn trên cửa sổ cứ như dân thị trấn đương nhiên phải biết đấy là những gì. Mà giờ họ cũng biết; họ đã thử qua, dù chỉ để có quyền cười khẩy. Tôi không cần đánh bọt trên cà phê kiểu đó. Trông cứ như kem cạo râu. Nuốt một miếng là miệng sùi đầy bọt. Bánh tạc gà đã từng là đặc sản quán, nhưng mất tích lâu rồi. Giờ chỉ có hamburger, nhưng Myra đã nhắc tránh xa. Cô bảo họ dùng nhân đông lạnh sẵn bằng mạt thịt. Mạt thịt, cô nói, là thứ người ta cào khỏi sàn sau khi xẻ bò đông lạnh bằng cưa điện. Cô đọc rất nhiều tạp chí, mỗi khi đi làm đầu. Nghĩa trang có cổng sắt uốn, một vòm hoa văn tinh xảo bên trên, khắc dòng chữ: Dù Đi Qua Thung Lũng Bóng Tử Thần Con Cũng Không Sợ Sự Dữ, Bởi Có Người Ở Cùng Con. Tất nhiên, có hai người sẽ mang lại cảm giác an toàn giả tạo, nhưng Người là một nhân vật trơn như lươn. Mọi Người tôi biết đều có đường mất tích riêng. Họ đào thoát khỏi trấn, hay bội tín, hoặc rơi rụng như ruồi, và rồi thì ta ở đâu? Ở chính nơi này. Đài tưởng niệm dòng họ Chase đập ngay vào mắt: nó cao vượt lên trên tất cả. Có hai thiên thần, bằng cẩm thạch trắng, kiểu thời Victoria, sướt mướt nhưng khá tinh xảo như loại này luôn thế, đặt trên bệ đá to bốn góc chạm hoa văn cuộn. Thiên thần thứ nhất đứng, đầu gục sang bên dáng khóc thương, một tay âu yếm đặt lên vai thứ hai. Thiên thần thứ hai quỳ, dựa vào đùi thiên thần thứ nhất, nhìn thẳng trước mặt, ẵm bó hoa huệ trong lòng. Thân thể cả hai đều rất đoan trang, mọi đường nét đều lẩn trong nếp áo khoáng thạch buông nhẹ nhàng nhưng bất khả xuyên thủng, nhưng vẫn nhận ra được là nữ giới. Mưa a xít đang bào mòn chúng; hai đôi mắt từng tinh anh đã mờ đi, hiền hòa và rỗ, cứ như mắc bệnh đục thủy tinh thể. Nhưng có thể chỉ là chính mắt tôi đã mờ đi. Laura và tôi ngày trước thường tới đây. Chúng tôi được Reenie đưa đến, vì không hiểu sao chị chủ trương đi thăm mồ dòng họ có tác dụng tốt cho trẻ, còn sau thì tự đi: muốn chuồn ra ngoài thì lấy cớ càng mộ đạo càng dễ được chấp thuận. Ngày còn nhỏ, Laura thường bảo hai thiên thần đó ý nói chúng tôi đấy, hai chị em tôi. Tôi bảo làm sao thế được, bởi hai thiên thần là do bà nội đặt từ trước khi chúng tôi sinh. Nhưng Laura không bao giờ chú ý đến những lập luận kiểu ấy. Nó quan tâm đến hình thức hơn - đến những gì tự thân chứa trong sự vật, chứ không phải những gì không có trong chúng. Nó muốn biết bản chất. Sau nhiều năm tôi đã tập thói quen tới đây ít nhất hai lần một năm, để quét tước, nếu không vì lý do nào khác. Ngày xưa tôi lái xe đến, nhưng giờ thì thôi rồi: mắt tôi giờ đã quá yếu. Tôi khó nhọc cúi xuống nhặt bỏ hết hoa héo đã tích lại đó, của những người hâm mộ vô danh, nhồi vào cái túi ni lông. Dạo này ít hoa viếng hơn trước, dù vẫn khá nhiều. Hôm nay vài bó vẫn còn tươi. Đôi lúc tôi còn bắt gặp nén hương, hay cả nến, như có ai tìm cách gọi hồn Laura về lại. Sau khi đã xử lý xong đám hoa hoét tôi đi vòng quanh đài tưởng niệm, đọc lướt danh sách những người nhà Chase đã hết số khắc trên các mặt bệ đá. Benjamin Chase Và Vợ Thân Yêu Là Adelia; Norval Chase Và Vợ Thân Yêu Là Liliana. Edgar Và Percival, Họ Sẽ Không Già Đi Như Chúng Ta Những Kẻ Bị Bỏ Lại. Và Laura, còn lại ở đây cũng nhiều như bất kỳ đâu. Bản chất của Laura. Mạt thịt. Trên báo thị trấn tuần trước đăng ảnh nó, kèm theo tin về giải thưởng - tấm ảnh chính thức, tấm ảnh bìa sách, tấm ảnh duy nhất được in vì là tấm duy nhất tôi cho họ. Đấy là một tấm chân dung chụp hiệu, nửa người trên quay đi khỏi máy, đầu ngoảnh lại để tạo nét cong duyên dáng nơi cổ. Thêm chút nữa nào, giờ nhìn lên, nhìn tôi đây, ngoan lắm, bây giờ cười lên xem nào. Mái tóc dài màu vàng, giống tóc tôi hồi đó - rất nhạt, gần như trắng, như sắc đỏ đã bị gột đi sạch - sắt, đồng, mọi thứ kim loại nặng. Cái mũi thẳng, khuôn mặt hình tim; đôi mắt to, sáng, vô tội; lông mày cong vút, đầu mày hơi nhếch tạo cảm giác đang bối rối. Quai hàm có nét bướng bỉnh, nhưng chỉ ai biết trước mới nhận thấy. Không phấn không son, làm khuôn mặt có vẻ trần trụi lạ lùng: khi nhìn vào miệng, người ta biết đang nhìn vào da thịt. Xinh lắm, đẹp nữa là khác; sạch sẽ đến nao lòng. Hình quảng cáo xà phòng, thành phần từ thiên nhiên. Khuôn mặt không nói lên gì cả: nó có cái vẻ bất khả xâm phạm trống rỗng, làm bộ của mọi cô bé con nhà gia giáo đương thời. Tấm bảng còn trắng, không chờ được viết, mà chờ được viết vào. Chỉ còn cuốn sách khiến nó được người ta nhớ đến. Laura về trong một cái hộp nhỏ màu bạc, như hộp xì gà. Tôi biết thị trấn bình phẩm ra sao, biết rõ như tự mình đi nghe lén. Tất nhiên không hẳn là cô ta, chỉ là tro xương. Chẳng ai nghĩ nhà Chase lại đi thiêu xác, trước đây chưa bao giờ, trong thời hoàng kim họ chẳng thèm dùng cách đó, nhưng có vẻ lần này tốt nhất là làm nốt cho xong, đằng nào cô ta cũng gần cháy sạch rồi. Tuy thế, tôi cho là nhà ấy nghĩ cô ta phải ở với gia đình. Muốn cô ta về cái đài to đùng có hai thiên thần ấy. Chẳng ai làm hai, nhưng lúc đó tiền bạc cứ là muốn nứt căng túi họ ấy. Họ thích phô trương mà, hồi ấy, thích gây huyên náo; thích giương cờ đầu, kiểu vậy. Thích làm bố tướng thiên hạ. Mà quả họ cũng đã gieo phấn phát khắp vùng, hồi ấy. Những câu đó luôn vang lên trong đầu tôi bằng giọng Reenie. Ngày đó chị là người phiên dịch cả thị trấn cho chúng tôi, tôi và Laura. Chúng tôi còn dựa được vào ai nữa? Đằng sau đài tưởng niệm vẫn còn đất trống. Tôi coi đấy là lô đặt sẵn - đặt cả đời, như Richard từng đặt tại Nhà hát hoàng gia Alexandra. Đấy là chỗ của tôi; ở đó tôi sẽ về với đất. Aimee tội nghiệp thì ở Toronto, trong nghĩa trang Mount Pleasant, cùng với cả lò nhà Griffen - với Richard và Winifred và thạch trụ granite choáng lộn. Winifred đảm đương việc đó: mụ ta cắm cọc trong cuộc đua giành Richard và Aimee bằng cách sấn vào lập tức, vác theo cả quan tài. Ai trả nhà đòn sẽ toàn quyền chiêng trống. Nếu có thể mụ đã cấm tôi thò mặt đến tang lễ. Nhưng Laura đi trước hết, khi Winifred chưa kịp hoàn thiện cung cách ăn cắp xác của mình. Tôi nói, “Nó sẽ về nhà,” và thế là hết. Tôi rải tro trên mặt đất, nhưng giữ lại cái hộp bạc. May tôi đã không chôn: nếu không hẳn cái hộp đã sớm mất tích về tay người hâm mộ nào đó rồi. Họ thó bất cứ gì lấy được, đám người ấy. Năm ngoái tôi bắt được một đứa ôm theo hũ mứt và bay, đào đất từ ngôi mộ. Tôi thường đặt câu hỏi về Sabrina - con bé sẽ nằm lại đâu. Nó là người cuối cùng trong số chúng tôi. Tôi đoán nó vẫn còn trên mặt đất: tôi chưa nghe được tin gì khác, vẫn còn phải chờ xem giữa hai phía gia đình nó sẽ chọn nằm lại phía nào, hay sẽ giấu mình xuống một xó xỉnh khác, tránh xa cả lũ chúng tôi. Nếu có vậy tôi cũng không trách nó. Lần đầu nó trốn nhà, năm mười ba tuổi, Winifred gọi cho tôi, điên giận một cách lạnh lùng, buộc tội tôi trợ giúp và che giấu nó, dù không đi tới mức nói bắt cóc. Mụ ta hạch hỏi Sabrina có đến chỗ tôi không. “Tôi không nghĩ mình có nghĩa vụ cho bà biết,” tôi nói, cốt để hành hạ mụ ta. Công bằng thôi: phần lớn cơ hội hành hạ trước giờ là của mụ. Mụ luôn gửi trả lại thiếp với thư từ và quà sinh nhật của tôi cho Sabrina, trên ghi nắn nót Trả lại người gửi bằng nét chữ độc tài bè bè của mụ. “Dù sao tôi cũng là bà ngoại nó. Nó muốn đến nhà tôi lúc nào tùy thích. Cửa nhà tôi lúc nào cũng rộng mở cho nó.” “Chắc tôi không cần nhắc lại với cô tôi là giám hộ hợp pháp của nó.” “Nếu bà không cần nhắc lại với tôi, sao bà còn đang nhắc lại với tôi?” ẳ Nhưng Sabrina không đến với tôi. Không bao giờ đến. Chẳng khó đoán tại sao. Chúa biết nó đã nghe nói những gì về tôi. Chẳng có gì tốt đẹp. NHÀ MÁY CÚC Cái nóng mùa hè đã về đầy đủ, vánh lại trên thị trấn như xúp kem. Tiết trời sốt rét, một thời; tiết trời thổ tả. Hàng cây che đường tôi đi xòe những tán ô rũ rượi, giấy ẩm nhớp dưới tay, chữ viết ra đâm râu tua tủa như son môi rỉ vào đường chân chim ven khuôn miệng già cỗi. Chỉ cần leo thang tôi đã trổ một hàng ria mồ hôi. Tôi không nên đi bộ trong cái nóng thế này, sẽ làm tim mất sức. Tôi để ý ra điều này một cách ác ý. Tôi không nên thử thách tim mình kiểu đó, nhất là giờ đã được tin bệnh trạng của nó; nhưng tôi vẫn làm thế với nỗi khoái trá bệnh hoạn, như tôi là thằng đầu bò đầu bướu đang bắt nạt nó là đứa trẻ mè nheo yếu đuối tôi vẫn ghét. Chiều chiều bắt đầu có sấm, tiếng thì thùng đì đùng đằng xa, như Chúa đang hờn lẫy đập phá. Tôi dậy đi tè, về lại giường, nằm uốn éo giữa lớp chăn ẩm, lắng nghe tiếng quạt rừ rừ buồn tẻ. Myra bảo tôi nên lắp điều hòa, nhưng tôi không muốn. Với lại cũng không có tiền. “Ai mà giả tiền cho cái đồ ấy được?” tôi bảo cô. Cô ả chắc nghĩ tôi có hòn ngọc giấu trên trán, như con cóc trong cổ tích. Đích đến hôm nay là Nhà Máy Cúc, tôi định sẽ đến đó uống cà phê sáng. Bác sĩ đã răn tôi tránh cho xa cà phê, nhưng anh ta mới có năm chục tuổi - anh ta vẫn mặc quần soóc chạy bộ hằng ngày, cho thiên hạ có dịp ngắm nghía đôi cẳng chân lắm lông. Anh ta đâu có biết tuốt, dù chắc anh ta cũng chẳng biết chính điều này. Nếu tôi không chết vì cà phê thì thế nào chẳng chết vì thứ khác. Phố Erie bứ lên vì du khách, hầu hết trung tuổi, gí mũi vào mọi cửa hàng xú vơ nia, sục sạo từng xó xỉnh trong hiệu sách, lang thang vô định trước khi lên xe sau bữa trưa đến liên hoan sân khấu mùa hè gần đó lấy vài giờ mua vui bằng phản bội, hung bạo, ngoại tình và giết chóc. Một số đi về cùng phía tôi đi - tới Nhà Máy Cúc, hòng kiếm một hai món đồ sặc sỡ ghi nhớ kỳ nghỉ một đêm rời khỏi thế kỷ hai mươi. Đồ tích bụi, Reenie hẳn sẽ mệnh danh những của lạ đó như vậy. Cũng áp dụng luôn cho cả chính đám du khách kia. Tôi đi tiếp giữa đám bạn đồng hành áo màu nhạt, tới điểm phố Erie biến thành phố Mill và chạy dọc theo sông Louveteau. Cảng Ticonderoga có hai con sông, Jogues và Louveteau - những cái tên là dấu tích kho trữ hàng Pháp từng đặt ở ngã ba sông, nhưng miền này chúng tôi cũng chẳng đi sùng Pháp: người thị trấn gọi thành sông Jogs và sông Lovetow. Dòng nước xiết sông Louveteau đã rủ về những nhà xay bột đầu tiên, rồi đến các nhà máy thủy điện. Jogues ngược lại, sâu và chảy chậm, thuyền bè có thể đi đến ba chục dặm bên kia hồ Erie. Xưa dòng sông dùng để chuyên chở đá vôi, ngành công nghiệp sớm nhất của thị trấn, phát triển trên nguồn trầm tích khổng lồ để lại khi biển nội địa rút đi. (Từ kỷ Permi, kỷ Jura? Có thời tôi biết đấy.) Phần lớn nhà trong thị trấn đều xây bằng thứ đá này, kể cả nhà tôi. Các mỏ đá bỏ hoang vẫn còn quanh khu ngoại ô, những khối vuông và chữ nhật xẻ rất sâu vào núi như từng có những tòa nhà được dỡ nguyên vẹn từ trong ra, bỏ lại cái khuôn rỗng ruột. Thỉnh thoảng tôi mường tượng toàn thị trấn trồi lên từ đại dương tiền sử nông choèn, nở chầm chậm như con hải quỳ hay năm ngón găng tay cao su ta thổi hơi vào - giật cục như những thước phim nâu lạo xạo quay hoa đang mở cánh thường chiếu trong rạp - hồi bao giờ nhỉ? - trước khi vào phim chính. Những kẻ săn hóa thạch lùng sục quanh đó, kiếm cá tuyệt chủng, dương xỉ cổ đại, san hô cuộn; và nếu đám trẻ mới lớn cần ăn chơi nhảy múa, chúng cũng chọn nơi này. Bọn trẻ đốt lửa trại, nốc rượu và rít cỏ, mò mẫm trong áo quần nhau với cái vẻ như người đầu tiên nghĩ ra trò đó trên đời, rồi đâm nát xe của cha mẹ trên đường trở lại thị trấn. Vườn sau nhà tôi tiếp giáp Hẻm Louveteau, nơi con sông thu dòng rồi đổ xuống. Cái thác dốc gây nên kha khá sương mù, và chút ít kính sợ. Mùa hè đến cuối tuần du khách lượn trên đường mòn bên vách núi hoặc đứng ngay sát mép mà chụp ảnh; tôi nhìn thấy từng đoàn mũ phớt trắng ngây thơ đến bực mình diễu qua. Vách đá dễ lở nên rất nguy hiểm, nhưng thị trấn không muốn chi tiền dựng hàng rào: dân ở đây vẫn nhất trí, cho đến tận giờ, rằng nếu có ai đi làm một trò thậm ngu ngốc rồi lãnh hậu quả gì thì cũng đáng đời kẻ đó. Cốc giấy hàng bánh vòng tắc lại trong xoáy nước bên dưới, và thi thoảng lại thấy một cái xác, ngã hay tự nhảy hay bị đẩy cũng khó nói, tất nhiên trừ khi có thư để lại. Nhà Máy Cúc nằm bên bờ Đông dòng Louveteau, một phần tư dặm từ Hẻm ngược lên. Suốt vài thập kỷ nó đứng đó điêu tàn, cửa sổ vỡ vụn, mái dột gần hết, làm mái ấm của chuột và dân nát rượu, tới khi được cứu khỏi kiếp bị ủi nhờ một ủy ban dân lập năng nổ, và đổi phận làm tổ hợp cửa hàng. Các luống hoa được khôi phục như xưa, mặt tiền được phun cát cho sạch, những tàn phá của thời gian và phá hoại của con người được sửa sang, dù vẫn nhìn rõ những lưỡi tro đen quanh các cửa sổ tầng trệt, từ vụ hỏa hoạn hơn sáu chục năm trước. Tòa nhà xây bằng gạch đỏ nâu, cửa sổ rất lớn ghép nhiều ô kính theo lối các nhà máy thời xưa để tiết kiệm điện chiếu sáng. Nó khá xinh đẹp là khác, so với những nhà máy đồng loại: diềm hoa trang trí trên cửa, chính giữa có bông hồng đá, cửa sổ áp mái, mái vát bằng ngói tím và xanh. Bên cạnh là bãi để xe nhỏ gọn. Chào Mừng Quý Khách Đến Nhà Máy Cúc, tấm biển viết, lối chữ bay bướm kiểu cổ; và, nhỏ hơn, bên dưới: Cấm Để Xe Qua Đêm. Và dưới nữa, bằng bút dạ đen ngoằn ngoèo tức giận: Mày không phải Chúa và trái đất không phải Lối Xe Vào của Con Mẹ Nhà Mày. Dấu ấn địa phương chính hiệu. Lối vào chính đã mở rộng thêm, xây thêm dốc cho xe lăn, những cánh cửa nặng nề đã thay bằng cửa kính: Ra - Vào, Kéo - Đẩy, bộ tứ hống hách của thế kỷ hai mươi. Bên trong có tiếng nhạc, vĩ cầm nông thôn một-hai-ba, một điệu van nhún nhảy não tình nào đấy. Có một giếng trời, đậy trên khoảnh sân trung tâm lót đá cuội giả, thêm vài ghế đá công viên mới sơn xanh và chậu đựng vài bụi cây quặt quẹo. Các cửa hàng sắp vòng quanh sân: không khác gì phố mua săm. Tường gạch để trần, trang trí bằng những ảnh cũ lấy từ kho lưu trữ thị trấn, phóng to đại tướng. Đầu tiên là đoạn trích trong báo - một tờ báo Montreal, không phải báo ở đây - đề năm 1899: Ai hình-dung những nhà xay tối-tăm của Quỷ như thời Cổ Anh quốc là nhầm. Các nhà-máy ở Cảng Ticonderoga mọc lên giữa cây-cối xanh tươi điểm hoa trái tươi-tắn, trong tiếng ru róc-rách của dòng nước chảy gần bên; phòng xưởng sạch-sẽ và thoáng khí, thợ-thuyền hăng-hái tươi-cười. Khi hoàng-hôn tới, đứng bên cầu Khánh-Tiết duyên-dáng mới xây, cong cong như chiếc cầu-vồng sắt cuốn bắc qua những luồng thác ào-ạt của dòng Louveteau, người ta ngỡ đang chiêm-ngưỡng cảnh thần-tiên mê-hồn khi đèn nhà máy cúc Chase bừng lên, phản-chiếu trên mặt nước lấp-lánh. Những câu này, vào thời được viết ra, không phải hoàn toàn bịa đật. Ít ra trong một giai đoạn ngắn, ở đây đã biết thế nào là sung túc, đủ để vực dậy cả vùng. Tiếp theo là hình ông nội tôi, áo bành tô và mũ quả dưa cùng đôi chòm ria bạc, đứng giữa một tốp chức sắc cũng bóng bẩy không kém chờ chào đón Công tước xứ York[4] đang làm chuyến công du Canada năm 1901. Rồi đến cha tôi ôm vòng hoa, trước Đài tưởng niệm chiến tranh trong lễ khánh thành - một người cao, nghiêm nghị, để ria, băng một bên mắt; nhìn gần hơn: một loạt đốm đen. Tôi đứng lùi lại xem hình ông có rõ nét hơn không - cố bắt ánh mắt bên lành - nhưng ông không nhìn tôi; ông đang nhìn về chân trời, thẳng lưng ưỡn ngực, như đang đối mặt đội hành quyết. Một người trung kiên, ai thấy hẳn cũng nói vậy. Rồi một pô chụp bản thân nhà máy, năm 1911, theo dòng chữ đề dưới. Máy móc khua những cánh tay rầm rập như chân cào cào, bánh răng thép lớn nhỏ đủ hình thù, và những pit tông sầm sầm lên xuống, quai hình dạng cho sản phẩm; những bàn dài hai bên hai dãy thợ, gập người tới trước, tay thoăn thoắt. Đứng máy là đàn ông, đeo kính và mặc áo bảo hộ, tay xắn lên; bên bàn là đàn bà, tóc búi cao mặc tạp dề. Đàn bà là người đếm và đóng cúc vào hộp, hoặc khâu vào những vỉ bìa in chéo tên nhà Chase, mỗi vỉ sáu hoặc tám hoặc mười hai chiếc. Tận cuối khoảng sân trống rải sỏi có một quán ăn, Trăm Món Đua Ngon, có nhạc sống vào thứ Bảy, bia thì quảng cáo là lấy của các lò bia gia đình trong vùng. Nội thất toàn ván gỗ đặt trên thùng bia làm bàn, một bên tường có các ngăn bàn ghế gỗ thông kiểu đầu thế kỷ. Thực đơn quán, dán trên cửa sổ - tôi chưa bao giờ vào trong - liệt kê những món tôi thấy sặc mùi ngoại quốc: burger pho mát chảy, vỏ khoai tây, bánh ngô nacho. Món chính giàu béo của đám trẻ hạ lưu, hoặc ít ra Myra bảo thế. Cô nàng nắm vị trí quan sát hàng đầu, ngay cửa hàng sát vách, và mọi trò mèo xảy ra tại Trăm Món chẳng cái nào thoát khỏi mắt cô. Cô nói có một thằng ma cô hay tới đó ăn, cả một gã cò ma túy, giữa ban ngày ban mặt. Cô còn chỉ cho tôi xem, kèm rất nhiều lời thì thầm rùng rợn. Tên ma cô mặc com lê vía, dáng vẻ như dân môi giới chứng khoán. Gã cò ma túy để ria xám, mặc đồ bò, như một thủ lĩnh công đoàn ngày xưa. Cửa hàng của Myra có tên Nhà Bánh Gừng, Quà tặng và lưu niệm. Bên trong tỏa ra mùi vừa ngọt vừa cay - một thứ nước xịt phòng hương quế gì đó - và bày đủ thứ: lọ mứt nắp bọc vài hoa, gối trái tim nhồi lá thơm sấy ngửi như cỏ khô, những hộp lắp bàn lề xộc xệch do “nghệ nhân dân gian” đẽo tạc, chăn chần được cho là của đạo hữu Mennonite may, chổi cọ nhà xí hình đầu con vịt đang cười khẩy. Quan niệm của Myra về quan niệm của dân thành thị về đời sống nông thôn, đời sống những vị cố tổ quê mùa đồng nội - một mảnh lịch sử cho khách mang về nhà. Lịch sử, theo như tôi nhớ, chưa bao giờ lành mạnh thế này, và nhất là chưa bao giờ sạch sẽ thế này, nhưng hàng thật thì đừng hòng bán được: nói chung chẳng ai ưa một quá khứ nặng mùi. Myra hay tặng quà cho tôi lựa từ kho bảo bối ấy. Nói cách khác, cô tống cho tôi những món đồ dân tình sẽ không đời nào mua. Tôi đã gom góp được một vòng cành tết bên nhỏ bên to, bộ vòng gỗ xỏ khăn ăn hình quả dứa thiếu vài cái, cây nến thơm béo phị ngửi như dầu hỏa. Vào ngày sinh nhật tôi nhận được đôi găng làm bếp hình càng tôm. Tôi chắc là cô có thiện ý. Hoặc có thể cô đang cố khiến tôi mủi lòng: cô thuộc phái Báp tít, cô muốn tôi tìm được Giê su, hoặc Giê su tìm được tôi, trước khi quá muộn. Đấy không phải là tính nết di truyền: Reenie mẹ cô chưa bao giờ hứng thú nhiều với Chúa. Hai bên tương kính như tân, và nếu gặp họa thì người ta tất nhiên sẽ gọi tới ngài, cũng như gọi luật sư; nhưng cũng như luật sư, chỉ khi đấy là đại họa. Nếu không thì viễn chi vẫn lành hơn. Dĩ nhiên chị ẳ không muốn có ngài quanh quẩn trong bếp, chẳng cần thêm ngài thì chị cũng việc ngập đầu rồi. Sau một hồi cân nhắc, tôi mua bánh quy tại Thợ Cả Bánh Quy - yến mạch rắc sô cô la vụn - với cà phê đựng cốc xốp, rồi ngồi lên một băng ghế đá mà nhấp cà phê và liếm ngón tay, cho đôi chân nghỉ, nghe nhạc trong băng phát ra những tiếng bật dây luyến láy sầu não. Chính ông nội Benjamin của tôi là người xây nhà máy cúc, hồi đầu thập kỷ 1870. Hồi ấy nhu cầu cúc áo tăng cao, cũng như áo quần và mọi thứ râu ria trên áo quần - dân số tân lục địa đang bùng nổ với một tốc độ khủng khiếp - còn cúc có thể sản xuất với chi phí rẻ và bán cũng rẻ, và đó (theo Reenie nói) chính là cơ hội ngàn vàng cho ông tôi, người đã nhìn ra vận hội và đã dùng đến bộ óc Chúa ban cho ông. Tổ tiên ông đã từ Pennsylvania đến đây vào thập kỷ 1820 để khai thác đất khi ấy còn rẻ mạt, cũng như thị trường xây dựng - thị trấn đã cháy trụi trong cuộc chiến 1812, khối lượng cần xây lại quả là không nhỏ. Những bậc tiền bối này là một sản phẩm Giéc-manh, thuộc nhánh giáo phái phi chính thống, pha trộn thêm Thanh giáo thế hệ thứ bảy thành một hỗn hợp cần cù nhưng dễ nổ, giữa hàng ngũ nhà nông đức hạnh và trì độn thường lệ đã sản xuất ra: ba mục sư lưu động, hai tay đầu cơ đất bất tài, và một gã biển thủ vặt - những kẻ ưa đùa cợt số mệnh có thiên hướng tiên tri và tham vọng hướng đến chân trời. Tới ông tôi nết đó thể hiện ra thành trò đen đỏ, cho dù thứ duy nhất ông đem cược là bản thân mình. Cụ nhà ông làm chủ một trong những nhà xay đầu tiên ở Cảng Ticonderoga, một nhà xay lúa thường thường bậc trung, cái thời mọi thứ còn chạy bằng sức nước. Khi cụ chết, do chứng ngập máu như người ta gọi hồi ấy, ông tôi hai mươi sáu tuổi. Ông thừa hưởng nhà xay, vay mượn thêm tiền, nhập tận Hợp chúng quốc về máy móc làm cúc. Những hạt cúc đầu tiên làm bằng gỗ và xương, sang hơn một chút thì bằng sừng bò. Xương và sừng có thể kiếm được với giá rẻ bèo từ mấy lò mổ trong vùng, còn gỗ thì ê hề khắp nơi đến chật cả đất, còn phải đem đốt chỉ để tống khứ chúng đi. Vật liệu thô rẻ cũng như nhân công rẻ còn thị trường thì đang mở rộng, hỏi làm sao ông không phất lên nhanh chóng? Cúc áo nhà máy ông tôi làm ra không phải loại khiến cô gái bé là tôi mê thích. Không có những viên xà cừ bé tẹo, không có hạt huyền lóng lánh, không có loại bọc da trắng đính vào găng tay các quý phu nhân. Cúc xưởng nhà giữa họ hàng cúc áo cũng như ủng cao su thô trong số dép giày: những viên cúc câm đụt, thực dụng, dành cho áo bành tô và quần áo bảo hộ hay sơ mi công nhân; chúng toát ra vẻ vâm váp, thậm chí lỗ mãng. Có thể mường tượng những cúc ấy nằm trên quần áo lót mùa đông, cài nắp túi mông quần, hay sắp hàng trên cửa quần dài đàn ông. Chúng sẽ che giấu gì, hẳn là những thứ lủng lẳng, yếu nhược, đáng thẹn, không có không được - những thứ thế giới cần đến nhưng khinh ghét. Khó hình dung được có thứ hào quang lớn lao nào tìm đến với cháu gái người làm ra thứ cúc như vậy, nếu không phải vì tiền. Nhưng tiền hay ngay cả hơi hám về tiền luôn luôn phả ra một ánh sáng lóa mắt, khiến Laura và tôi lớn lên giữa một vầng cũng khá lung linh. Và ở Cảng Ticonderoga, không ai dám coi cúc nhà Chase là đáng cười hay hạ tiện. Cúc ở đây là vấn đề nghiêm túc: công ăn việc làm của quá nhiều người là ở chúng. Năm lại năm ông tôi mua lại các nhà xay rồi biến cả thành nhà máy. Ông có một nhà máy đan quần đùi may ô, một nhà nữa làm tất, một cái thứ ba chế tạo đồ gốm cỡ nhỏ, ví như gạt tàn. Ông lấy làm hãnh diện về điều kiện lao động ở các nhà máy của mình: ông lắng nghe mọi lời than phiền khi có ai đủ can đảm lên tiếng, ông rầu lòng thương xót ca thương vong nào được thông báo đến ông. Ông theo sát mọi tiến bộ về cơ khí, mà thực ra là về mọi mặt. Ông là chủ nhà máy đầu tiên trong thị trấn sử dụng điện chiếu sáng. Ông cho rằng hoa cỏ sẽ khích lệ tinh thần công nhân - cúc gỗ và mõm chó là trợ thủ đắc lực của ông, bởi chúng không tốn kém mà lại lòe loẹt và sống được lâu dài. Ông tuyên bố rằng lao động nữ dưới quyền ông cũng được an toàn y như trong phòng khách của họ. (Ông tin rằng họ có phòng khách. Ông tin rằng ở đó họ an toàn. Ông hay nghĩ tốt cho người khác.) Ông không nương tay với kẻ nào say sưa trong giờ làm, hay có ngôn ngữ thô tục, hành vi phóng đãng. Hoặc ít ra đấy là những gì biết được từ Lịch sử Công ty công nghiệp Chase, cuốn sách ông tôi đặt viết và in riêng năm 1903, bọc bìa da xanh, trên bìa mạ vàng không chỉ nhan đề mà cả chữ ký chân phương đồ sộ của ông. Ông thường đem cuốn biên niên sử rỗi hơi này làm quà tặng đối tác làm ăn, chắc đã khiến họ phải kinh ngạc, dù cũng có thể không. Chắc đó được coi như chuyện đã rồi, bởi nếu không, bà nội Adelia sẽ không đời nào cho phép ông làm thế. Tôi ngồi trên ghế đá công viên, cần mẫn gặm bánh quy. Cái bánh to đùng, ngang một bánh phân trâu, cái kiểu ngày nay nó thế - nhạt phèo, nát vụn, nhờn mỡ - và có vẻ tôi sẽ không đời nào ăn xong được. Đấy không phải món thích hợp trong tiết trời ấm thế này. Tôi cũng hơi chóng mặt nữa, có thể tại cà phê. Tôi đặt cốc xuống ghế, khiến cây gậy trên ghế lục cục lăn xuống đất. Tôi nhoài người sang bên với theo, nhưng không với tới. Tôi mất thăng bằng, va đổ cốc cà phê. Tôi cảm thấy nó qua lần váy, ấm hâm hẩm. Rồi sẽ có một vệt nâu khi tôi đứng dậy, sẽ giống như tôi vừa bĩnh ra. Ít nhất người ngoài sẽ nghĩ như thế. Tại sao những lúc ấy chúng ta luôn cho cả thế giới đang dồn mắt vào mình? Thường thì chẳng có ai đâu. Nhưng lúc này có Myra. Cô nàng chắc đã thấy tôi vào đây, chắc đã để mắt trông chừng. Cô tế ra khỏi cửa hàng. “Trông bà trắng bệch như phấn ấy! Bà phờ phạc quá,” cô nói. “Mình lau chỗ đó đi thôi! Trời đất, bà đi bộ từ nhà đến tận đây hả? Bà không được tự đi về đâu! Tốt hơn là con gọi Walter đến đưa bà về.” “Tôi đi được mà,” tôi bảo. “Tôi không sao đâu.” Nhưng tôi vẫn để cô gọi. AVILION Xương cốt tôi lại nhức trở lại, mỗi lần trời ẩm đều như thế. Chúng nhức cứ như lịch sử: những điều đã quyết toán từ lâu, nhưng vẫn dội lại thành cơn đau. Có lúc cơn nhức lên tới mức tôi không ngủ nổi. Đêm nào tôi cũng cầu mong giấc ngủ đến, ráng sức mà ngủ; nhưng giấc ngủ vẫn phất phơ phía trước vài tấc như một tấm màn dính muội, vẫn có thể dùng thuốc ngủ, tất nhiên, nhưng bác sĩ đã cấm đụng đến. Đêm qua, sau cơn vật vã ẩm nhớp hình như phải hàng giờ, tôi trở dậy bò không dép xuống tầng, lần đường nhờ ánh đèn đường nhợt nhạt hắt vào cửa sổ bên cầu thang. Khi đã an toàn chạm đất, tôi lê tới bếp và chúi vào sục sạo khoảng sáng lòa mờ ảo trong tủ lạnh. Không có gì thật hấp dẫn: bó cần đã nát nhoét, mẩu đuôi bánh mì lấm tấm mốc xanh, quả chanh đang nhũn. Một góc pho mát, bọc trong giấy mỡ, cứng và trắng đục như móng chân. Tôi đã mắc thói quen sinh ra trong cô độc: những bữa ăn thường vụn và tùy tiện. Lén lút ăn vặt, lén lút quà bánh và picnic. Cuối cùng tôi tạm hài lòng với chút bơ lạc, quệt thẳng trong lọ bằng ngón trỏ: tội gì phải rửa thìa? Đứng đó một tay cầm lọ, miệng mút tay kia, tôi cảm giác hình như có ai sắp bước vào phòng - một người đàn bà lạ, người chủ giấu mặt, có thực quyền - mà hỏi tôi đang làm cái trò khỉ gì trong bếp nhà bà ta vậy. Tôi đã từng trải qua cảm giác này, rằng ngay giữa những hành vi hợp pháp thường ngày - bóc chuối, đánh răng - tôi cũng đang là kẻ chiếm chỗ. Trong đêm càng đậm cảm giác ngôi nhà thuộc về người lạ. Tôi tha thẩn qua các phòng chính, phòng ăn, phòng khách, tay bám tường giữ thăng bằng. Đủ thứ tài sản đang dập dềnh trong những vũng đêm riêng, cách lìa khỏi tôi, chối bỏ quyền tôi sở hữu. Tôi nhìn bao quát bằng con mắt kẻ trộm, đoán định xem thứ gì đáng liều lấy đi, cái gì tôi sẽ bỏ lại. Bọn trộm sẽ lấy những thứ hiển nhiên - bộ đồ trà bạc vốn của bà nội, có thể là bộ đồ sứ vẽ tay nữa. Những chiếc sót lại trong bộ thìa khảm chữ đầu tên. Cái ti vi. Chẳng phải những thứ tôi thật muốn. Tất cả chúng nó rồi sẽ bị soi xét rồi quăng đi bởi một người nào đó, khi nào tôi chết. Myra sẽ giành lấy việc này, tất nhiên - cô nàng nghĩ đã thừa kế tôi từ Reenie. Cô ả sẽ thích thú đóng vai người tâm phúc của gia đình. Tôi không lấy đó làm ganh tị: mỗi cuộc đời đã là một bãi phế thải ngay từ khi còn đang diễn ra quá trình sống, và càng tệ hơn sau quá trình đó. Nhưng dù là bãi phế thải, thì cũng nhỏ đến bất thường: ai đã trải qua việc dọn dẹp khi người khác chết, sẽ hiểu tới lượt mình chắc chỉ đầy dăm bảy cái túi rác xanh. Cái kẹp hạt dẻ hình con cá sấu, hột khuy măng sét xà cừ lẻ bạn, cái lược mai rùa nhiều răng đã gãy. Chiếc bật lửa bạc hỏng, cái chén đã mất đĩa, giá lọ gia vị thiếu lọ dấm. Những mảnh xương vương vãi của tổ ấm, những đồ giẻ rách, những di vật. Ván tàu đắm sóng dạt lên bờ. Hôm nay Myra thuyết phục tôi mua quạt điện - một cây quạt có chân cao, khá hơn nhiều em bé kẽo kẹt vẫn xoa dịu tôi trước giờ. Món đồ hợp ý cô đang giảm giá tại siêu thị mới mở đầu kia cầu sông Jogues. Cô sẽ đưa tôi đi: đằng nào cô cũng định đến đó, nên chẳng phiền gì đâu. Cái lối bịa ra lý do của cô thật khéo dội nước lạnh. Xe chúng tôi đi ngang qua Avilion, hoặc nơi trước kia từng là Avilion và giờ đây đã đổi khác đến mức đáng buồn. Valhalla là tên nó bây giờ. Con khỉ đần ngồi phòng giấy nào đã nghĩ tên này hợp với một nhà dưỡng lão? Theo như tôi nhớ, người ta tới Valhalla là sau khi chết, chứ không phải ngay trước khi chết. Nhưng có lẽ có ẩn ý gì đây. Vị trí thật đắc địa - bờ Đông sông Louveteau, chính điểm hợp lưu với sông Jogues - từ đó vừa ngắm Hẻm Louveteau nên thơ vừa có bến neo an toàn cho thuyền buồm. Tòa nhà rất lớn nhưng giờ trông như bị bủa vây, bị huých dạt ra lề bởi những nhà gỗ bấy bớt mọc lên như nấm sau chiến tranh. Có ba bà già ngồi trên hiên trước, một người ngồi xe lăn, lén lút đốt thuốc, như đám trẻ mới lớn ngỗ nghịch trong buồng vệ sinh. Rồi có ngày họ sẽ đốt cháy rụi nơi này cho mà xem. Tôi chưa bước vào Avilion kể từ khi nó đổi chức năng; giờ hẳn là bên trong bốc mùi phấn trẻ em cùng nước tiểu khắm và khoai tây đun cả ngày chưa ăn hết. Cứ để tôi nhớ về nó như lúc trước, kể cả như lúc tôi biết nó cũng được, khi vẻ xác xơ vừa chớm tới định cư - những hành lang thênh thang mát rượi, căn bếp rộng bóng loáng, bát sứ Sèvres đựng đầy cánh hoa khô đặt trên cái bàn tròn nhỏ gỗ anh đào trong sảnh chính. Tầng trên, trong phòng Laura, bệ lò sưởi có một chỗ mẻ, khi nó đánh rơi cái vỉ lò - một động tác điển hình. Tôi là người duy nhất còn biết thế, ngày nay. Nhìn dáng vẻ đó - làn da mở đóng, hình dong mềm mại, cần cổ vũ nữ ba lê - người ta quen nghĩ nó phải cực kỳ yểu điệu. Avilion không cất từ đá vôi như các nhà khác. Những người thiết kế muốn có một sản phẩm lạ thường, thế nên nó được xây từ sỏi tròn dưới lòng sông, đổ xi măng thành tảng. Từ xa nhìn lại trông như nổi mẩn, như da khủng long hay giếng thần trong sách tranh. Lăng tẩm chôn tham vọng, giờ tôi nghĩ về nó thế. Đấy không phải một ngôi nhà đặc biệt thanh nhã xinh đẹp, nhưng ngày xưa đã từng được coi là oai vệ theo cách riêng - cung điện của một nhà buôn, có đường lái xe uốn lượn dẫn vào, một tháp kiểu Gô tích bè bè trên đỉnh, và hàng hiên rộng hình bán nguyệt nhìn bao quát cả hai con sông, nơi các quý bà đội mũ hoa rộng vành nhấm nháp trà trong những chiều hè oi bức năm chuyển mình giữa hai thế kỷ. Những ban tứ tấu đàn dây từng biểu diễn ở đó trong các buổi tiệc trà; bà tôi cùng với bạn bè dùng đây làm sân khấu, diễn kịch nghiệp dư, lúc hoàng hôn, bốn bề đèn thắp; Laura và tôi thường trốn bên dưới đó. Nó đã trũng xuống rồi, hàng hiên ấy; nó cần sơn lại rồi. Ngày xưa có cả một vọng lâu, một vườn rau rào kín, vài khoảnh cây làm cảnh, một hồ súng thả cá vàng, và một nhà kính sưởi bằng hơi nước giờ đã bị phá, trồng dương xỉ và hoa lồng đèn, thi thoảng có những cây chanh hay cam đắng mảnh khảnh. Có cả phòng đánh bi a, phòng khách chiều và phòng khách sáng, thư viện với tượng Medusa hoa cương trên bệ lò sưởi - Medusa theo kiểu thế kỷ mười chín, ánh nhìn đáng yêu bất khả xâm phạm, lũ rắn ngoằn ngoèo nhỏng khỏi đầu như những ý nghĩ cuồng thống. Cái bệ lò sưởi là của Pháp: vốn người ta đặt mua cái khác, có Dionysus giữa những dây nho, nhưng thay vào đó Medusa đến gõ cửa, và vì từ đây gửi trả về Pháp thì quá là xa nên cái này được đem dùng. Còn có một phòng ăn thênh thang mờ tối dán tường bằng giấy William Morris, mẫu “kẻ trộm dâu”, ngọn đèn chùm chạm hoa súng đồng quấn quýt, ba cửa sổ cao bằng kính màu, chuyển đường thủy từ Anh về, tả các cảnh lấy từ sự tích Tristan - Iseult (cảnh trao tình dược, trong chén đỏ như hồng ngọc; đôi tình nhân, Tristan quỳ một gối, Iseult cúi mình bên trên, mái tóc vàng đổ xuống như thác - chất liệu kính không hợp lắm, trông hơi giống cây chổi tan chảy; Iseult một mình, ai oán, quấn trong lượt là màu tía, bên mình có cây đàn hạc). Việc thiết kế và trang trí ngôi nhà do bà nội Adelia đảm trách. Bà mất khi tôi chưa kịp ra đời, nhưng cứ như tôi nghe kể bà là một người êm như ru và lạnh như băng, nhưng ý chí sắc như dao cau. Thêm nữa bà chuộng Văn hóa, điều này đem lại cho bà chút ít thẩm quyền về đạo đức. Bây giờ thì chắc là không, nhưng thời đó, người ta vẫn tin rằng Văn hóa có thể đem lại điều tốt - làm nên con người tốt. Người ta tin rằng nó làm con người thêm cao thượng, hoặc ít ra đám đàn bà tin. Họ còn chưa thấy Hitler ở nhà hát nhạc kịch. Họ thời con gái của Adelia là Montfort. Bà thuộc một gia tộc bề thế, hoặc ít ra là cái tương đương với một gia tộc bề thế ở Canada: người Anh Montreal thế hệ thứ hai, lai với người Pháp Huguenot. Nhà Montfort đã từng thịnh vượng một thời - họ vớ bẫm nhờ kinh doanh đường sắt - nhưng vài màn đầu cơ hấp tấp cộng với thói ì trệ đã đẩy họ tụt xuống được nửa chừng con dốc. Thế nên khi thời gian dành cho Adelia đã gần cạn mà xung quanh không thấy có triển vọng đáng kể nào về một gã chồng ra hồn, bà đã kết hôn vì tiền - tiền thô, tiền làm cúc. Nhiệm vụ của bà là phải tinh luyện thứ tiền ấy, như luyện dầu. (Không phải bà được gả, mà là gả bán, Reenie bảo, tay đẩy chày cán bánh quy gừng. Gia đình họ đã sắp đặt hết. Thế là thường trong những gia đình kiểu đó, và ai mà biết như thế hơn hay kém việc tự chọn lấy ở chỗ nào? Đằng nào thì, Adelia Montfort cũng thực hiện bổn phận của mình, và còn may mà có chỗ, bởi tới lúc đó bà cũng quá lứa lỡ thì đến nơi rồi - bà chắc đã phải hai mươi ba, tức là coi như quá đát vào cái thời ấy.) Tôi vẫn còn một bức chân dung hai ông bà; tấm ảnh lồng trong khung bạc, họa tiết hoa bìm bìm quấn quanh, chụp ngay ít lâu sau đám cưới. Hậu cảnh có tấm rèm nhung diềm và hai cây dương xỉ đặt trên đôn. Bà nội Adelia ngả mình trên ghế dài; một người đàn bà quý tướng, mi trĩu, vận lớp lớp áo xống kèm chuỗi ngọc trai đôi dài và cổ áo xẻ rất sâu viền ren, đôi cánh tay trắng ẻo lá, như gà rút xương. Ông nội Benjamin ngồi đằng sau trong bộ cánh chỉnh chện, vững chãi nhưng ngượng nghịu, cứ như đã được tân trang riêng cho dịp này. Cả hai đều thẳng đơ như bó coóc xê. Khi đến tuổi mơ mộng - mười ba, mười bốn - tôi thường lãng mạn hóa Adelia. Tôi hay nhìn ra cửa sổ ban đêm, ngắm thảm cỏ và những luống cây cảnh được trăng dát bạc, mà thấy bà u sầu lướt trên mặt đất trong tấm áo dài trắng có ren mặc dự tiệc trà. Tôi gán cho bà một nụ cười uể oải, sỏi đời, có chút khinh ngạo. Được ít lâu tôi bổ sung một người tình. Tôi cho bà hẹn người ấy bên ngoài nhà kính, tới lúc đó đã bị bỏ mặc - cha tôi không hứng thú gì cam sưởi bằng hơi nước - nhưng tôi phục hiện lại nó trong óc, và thả vào đó bao nhiêu thứ hoa nhiệt đới. Hoa lan này, tôi nghĩ, hay hoa trà cũng được. (Tôi không biết hoa trà là thứ hoa gì, nhưng đã đọc thấy trong sách.) Bà tôi sẽ nắm tay người tình biến vào trong đó, rồi làm những gì? Cái này tôi không rõ. Trong thực tế, xác suất Adelia có một người tình là zero. Thị trấn quá nhỏ, đầu óc quá hẹp hòi, bà ở một vị trí quá cao không muốn ngã đau. Bà không đần. Thêm nữa bà cũng không có tiền riêng. Là nữ chủ nhân, là người điều hành nội chính, Adelia khá tử tế với Benjamin Chase. Bà lấy làm kiêu hãnh với gu thẩm mỹ của mình, và ông nội thuận theo bà về mặt đó, bởi khiếu thẩm mỹ cũng nằm trong những nguyên nhân khiến ông cưới bà. Lúc đó ông đã bốn mươi; ông đã cật lực xây dựng gia tài, và giờ ông quyết chí có được giá trị xứng với số tài sản ấy, cụ thể là để cho người vợ mới cưới chỉ đạo về phục trang hằng ngày và bức hiếp về nề nếp giờ ăn. Bản thân ông theo cách của mình cũng cần Văn hóa, hoặc ít nhất là bằng chứng sờ nắn được về Văn hóa. Ông muốn món đồ sứ xịn. Thì ông đã có, cùng những bữa tối mười hai món đi kèm: mở đầu bằng cần tây và quả hạch muối, kết thúc bằng sô cô la. Canh thịt hầm, chả lăn bột, bánh timbale, món cá, món nướng, món phô mai, hoa quả, nho trồng nhà kính đổ tràn qua mép khay thủy tinh chạm trổ. Những món ăn của khách sạn đường sắt, giờ tôi nghĩ vậy; của tàu du lịch viễn dương. Các thủ tướng ghé thăm Cảng Ticonderoga - vào lúc ấy thị trấn đã có vài nhà sản xuất tiếng tăm, các chính đảng muốn tranh thủ sự ủng hộ quý báu - đều chọn Avilion nghỉ lại. Ảnh chụp ông nội Benjamin với lần lượt ba thủ tướng được lồng khung vàng treo trong thư viện - Sir John Sparrow Thompson, Sir Mackenzie Bowell, Sir Charles Tupper. Chắc hẳn các bữa ăn là thứ họ ưa hơn hết ở đây. Nhiệm vụ của Adelia lúc ấy là thiết kế rồi sắp đặt những bữa tiệc tối, rồi tránh khỏi bị nhìn thấy đang ngấu nghiến. Thói tục quy định rằng giữa khách mời bà chỉ được nhỏ nhẻ từng miếng: nhai và nuốt là những hành vi quá ư thú tính. Tôi đồ rằng bà có gọi khay riêng lên phòng mình, khi hết bữa. Rồi sai năm quân. Avilion hoàn thành năm 1889, được chính Adelia ban tên. Tên ấy lấy từ thơ Tennyson: Thung-lũng Avilion giữa đảo; Mưa bão tuyết giông chẳng gợn bao giờ, Và tiếng gió cũng thì-thầm khe-khẽ, Lũng bóng cây chìm giữa vạt đồng mơ, Vườn cây trái tươi non ríu-rít, Biển vây quanh xanh ngắt bốn mùa hè… Đoạn thơ này bà cho in cánh trái trong ruột thiếp Giáng sinh. (Tennyson đã hơi lỗi thời rồi, theo chuẩn ở Anh - thời đó đang làm mưa làm gió là Oscar Wilde, ít ra trong tốp trẻ - nhưng đằng nào, ở Cảng Ticonderoga cái gì mà chẳng hơi lỗi thời.) ẳ Mọi người - trong thị trấn - ắt hẳn đã cười nhạo bà vì đoạn thơ này: ngay cả những kẻ có tham vọng chen chân vào chốn giao tế cũng gọi kháy bà là Nương nương hay Công tước phu nhân, dù họ sẽ bất bình lắm lắm nếu bị gạt ra ngoài danh sách khách mời. Còn về tấm thiếp Giáng sinh ắt họ đã bảo, Chà, về chuyện mưa bão tuyết giông thì bà ta không gặp may rồi. Có lẽ bà ta nên có nhời với Chúa. Hoặc có thể, trong các nhà máy: Chúng mày từng thấy lũng bóng mát nào chưa, trừ ở dưới ngực áo bà chủ? Tôi có biết phong cách của họ và không tin nó đã đổi nhiều từ trước đến giờ. Adelia quả có muốn làm màu bằng tấm thiếp Giáng sinh, nhưng tôi nghĩ rằng không chỉ thế. Avilion là nơi vua Arthur tìm đến trước khi chết. Hẳn nhiên việc chọn tên này cho thấy bà nghĩ cảnh lưu đày của mình tuyệt vọng đến mức nào: bà có thể, chỉ nhờ sức mạnh ý chí, hóa phép ra một bản sao nhợt nhạt của hòn đảo thiên đường, nhưng vẫn không bao giờ là đồ thật. Bà muốn có phòng khách thính; bà muốn những dân tài tử, thi sĩ, nhạc sĩ, khoa học gia vân vân tụ tập, như đã chứng kiến hồi đi thăm bà con xa ở Anh, thời gia đình còn sung túc. Một cuộc sống vàng, giữa những thảm cỏ rộng. Nhưng loại người đó không tồn tại ở Cảng Ticonderoga, còn Benjamin thì không chịu đi xa. Ông phải ở bên nhà máy của mình, ông bảo thế. Có lẽ đúng hơn là ông không muốn bị lôi vào giữa đám người sẽ cười khẩy vào gã làm cúc áo là ông, vào nơi những món dao nĩa lạ lùng phục sẵn, vào nơi Adelia sẽ hổ thẹn vì ông. Adelia không chịu đi một mình mà không có ông, đến châu Âu hay nơi nào khác. Cám dỗ hẳn là quá lớn - ra đi mà không quay lại. Trôi dạt đi, trút rỗng túi tiền chút một như quả khí cầu thoát hơi, làm mồi cho đám vô lại hay những tên lưu manh dẻo miệng, chìm mỗi lúc một sâu vào cấm kỵ. Có cái cổ áo như thế, bà hẳn là dễ xiêu lòng. Bên cạnh nhiều mối quan tâm khác, Adelia tìm vui trong điêu khắc, vẫn còn hai con nhân sư đá canh hai bên nhà kính - Laura với tôi hay trèo lên lưng - và một gã dương thần tí tửng dòm ra từ sau ghế đá, đôi tai nhọn hoắt, chiếc lá nho khổng lồ quấn quanh chỗ kín như phù hiệu; còn có tiên nữ ngồi bên ao súng, một cô bé khiêm nhường có đôi vú chũm cau và bím tóc hoa cương vắt qua vai, một chân e dè nhúng xuống nước. Chị em tôi thường ngồi cạnh cô nhỏ ăn táo, nhìn lũ cá vàng nhấm ngón chân cô. (Những món tượng này nghe nói là “hàng thật”, nhưng thật thế nào? Và làm sao mà Adelia có được chúng? Tôi ngờ rằng có một dây chuyền trộm đạo ở đây - một gã mồi chài mờ ám nào đó ở cựu lục địa vớ được chúng chỉ mất một bài ca, bịa ra một cái nguyên quán, lừa đảo đường dài tống cho Adelia và ẵm khoản chênh lệch, sau khi phán đoán chính xác rằng một bà người Mỹ giàu có - như hắn ta hẳn sẽ xếp bà vào loại đó - sẽ không đời nào vỡ lẽ ra.) Cũng chính Adelia vẽ mẫu tượng đài dòng họ ở nghĩa trang, cùng hai thiên thần trên đó. Bà còn muốn ông tôi đào mả tổ tiên chuyển về đây, tạo cảm tưởng một triều đại trường cửu, nhưng ông chưa bao giờ bắt tay làm được. Rốt cuộc chính bà lại là người đầu tiên nằm xuống đó. Không biết ông nội Benjamin có thở phào nhẹ nhõm không, khi Adelia chết? Có thể ông đã mòn mỏi vì biết cả đời mình cũng không thỏa mãn thước đo khắc nghiệt của bà, dù rõ rệt là ông sùng bái bà đến gần như khiếp đảm. Một bằng chứng là ở Avilion không có gì thay đổi: không một bức tranh dời chỗ, không một món đồ gỗ thay đi. Có thể ông coi ngôi nhà chính là tượng đài đích thực về bà. Vì thế Laura cùng tôi được bà dạy dỗ nên người. Chúng tôi lớn lên trong ngôi nhà của bà; nói cách khác, trong ý niệm của bà về bản thân mình. Cũng là ý niệm của bà về chúng tôi như lẽ ra phải thế, mà không được thế. Vì bà đã chết rồi, chúng tôi chẳng tài nào cãi lại. Cha tôi là con cả trong số ba anh em trai, mỗi người một cái tên rất kêu theo sở nguyện của Adelia: Norval và Edgar và Percival, phục hưng thời đại Arthur kèm thêm âm hưởng Wagner. Tôi nghĩ họ nên mừng đã không bị đặt tên là Uther hay Sigmund hay Ulric. Ông nội Benjamin mê mẩn ba đứa con trai, và muốn chúng theo học ngành buôn cúc, nhưng Adelia có những dự định cao sang hơn. Bà đóng gói cả ba gửi đến trường Trinity College ở Port Hope, nơi Benjamin cùng máy móc của ông không thể lây cái thô tục sang người chúng. Bà trọng thị tài sản của Benjamin khi đem vào sử dụng, nhưng muốn phủ vải điều che đi nguồn gốc tài sản đó. Ba người con trai đến hè lại về nhà. Ở trường nội trú và rồi trường đại học, chúng đã học được cách khinh thường bỗ bã ông bố của mình, vì ông không đọc nổi tiếng La tinh, dù trúc trắc như chúng đọc. Chúng liên hồi nói về những người ông không biết, hát những bài ông chưa từng nghe, đùa những câu ông không hiểu. Đêm đêm chúng giương buồm chiếc du thuyền nhỏ của ông, Thủy Nữ Tinh, tên do Adelia đặt - cũng nằm trong thẩm mỹ Gô tích ẩm ương của bà. Chúng sẽ gẩy đàn mandolin (Edgar) hay banjo (Percival), lén lút nốc bia, làm rối tung dây chão rồi quẳng đấy mặc ông xử trí. Chúng sẽ lấy một trong hai cái xe mới của ông chạy vi vu, cho dù suốt một nửa năm đường quanh thị trấn khá tồi - tuyết, rồi bùn, rồi bụi - đến nỗi cũng chẳng còn mấy đường mà đi cả. Lại còn nghe đồn đại về những cô ả phóng đãng, ít nhất là với hai cậu em, và về những khoản tiền trao tay - mà có dúi một ít cho các cô nương ấy để các nàng tự xử thì cũng là cử chỉ đúng đắn thôi, vì ai mà muốn một bầy hài nhi vô thừa nhận mang dòng máu Chase bò khắp vùng cơ chứ? - nhưng các cô gái đó không phải người thị trấn, nên không ai phàn nàn gì về mấy cậu thanh niên; ngược lại là khác, ít nhất trong đám đàn ông. Người ta có cười nhạo họ chút đỉnh, nhưng không quá nhiều; ý kiến chung là họ tin cậy được, lại có phong cách dân dã. Edgar và Percival được gọi tắt là Eddie và Percy, dù cha tôi, bẽn lẽn hơn và tự trọng hơn, lúc nào cũng là Norval. Đó là những cậu chàng xinh xẻo, hơi phóng túng, nhưng con trai cậu nào chẳng thế. Mà “phóng túng” chính xác nghĩa là gì? “Họ là bọn đểu,” Reenie bảo tôi, “nhưng không phải là phường vô lại.” “Khác nhau chỗ nào?” tôi hỏi. Chị thở dài. “Tôi chỉ mong cô không bao giờ hiểu ra,” chị nói. Adelia chết năm 1913, do ung thư - một chủng không được nêu tên nên gần như chắc chắn là bệnh phụ nữ. Vào tháng cuối cùng, mẹ Reenie được đưa về phụ việc trong bếp, mang theo Reenie; lúc đó chị mười ba tuổi, và chuyện này đã khiến chị nhớ suốt đời. “Cơn đau dữ đến mức người ta phải tiêm moóc phin cho bà, bốn giờ một lần, có y tá trực suốt ngày đêm. Nhưng bà không chịu nằm yên trên giường, bà ngậm bồ hòn làm ngọt, lúc nào cũng trở dậy và ăn bận đẹp như thường lệ, dù nhìn cũng thấy hồn vía bà đã lạc mất đâu rồi. Tôi thường thấy bà đi khắp khu nhà, áo váy màu nhạt và mũ rộng vành che mạng. Bà có tư thế tuyệt đẹp và nghị lực hơn phần lớn đàn ông, thật thế. Cuối cùng họ phải trói bà vào giường, chỉ vì muốn tốt cho bà. Ông nội cô lòng dạ tan nát, ai cũng thấy ông xẹp đi hẳn.” Khi tôi lớn lên và ngày càng khó gây ấn tượng, Reenie thêm thắt vào câu chuyện những tiếng thét kìm nén, tiếng rên la hay lời thề bên giường chết, cho dù tôi không dám chắc chị làm thế để làm gì. Chị muốn bảo cả tôi cũng cần trưng bày khí phách như thế - cũng phải coi thường đau đớn, phải ngậm bồ hòn như thế - hay chỉ đơn giản là chị khoái chí trước những chi tiết khốn khổ? Cả hai, chắc hẳn. Khi Adelia mất, ba đứa con trai đã gần trưởng thành. Chúng có nhớ mẹ không, có thương khóc bà hay không? Tất nhiên là có. Làm sao chúng không biết ơn bà đã tận tụy vì mình? Tuy nhiên, bà cũng đã siết chặt lấy chúng, hay ít ra là chặt tới mức bà còn giữ được. Chắc cũng phải có chút ít xả giàn sau khi bà đã được chôn cất đàng hoàng tử tế. Ba đứa con không đứa nào muốn tiếp tục sự nghiệp làm cúc; chúng đã thừa hưởng từ mẹ thói khinh thường nó, dù không thừa hưởng được tính thực tế của bà. Chúng biết tiền không từ trên trời rơi xuống, nhưng cũng chẳng có mấy ý tưởng sáng láng là nó rơi xuống từ đâu. Norval - cha tôi - dự kiến theo đuổi nghề luật và sau rốt sẽ tham gia chính sự, bởi ông ôm ấp nhiều kế hoạch cải tổ nước nhà. Hai người em muốn chu du: một khi Percy tốt nghiệp đại học, họ sẽ bắt đầu một chuyến thám hiểm tới Nam Mỹ, thăm dò xem đâu có vàng. Con đường rộng mở đang vẫy gọi. Vậy thì ai sẽ gánh lấy nền sản xuất nhà Chase? Chẳng lẽ công ty Chase và Con trai sẽ không bao giờ có? Nếu thế, Benjamin đổ mồ hôi máu ra để mà làm gì? Cho tới lúc đó ông đã thuyết phục bản thân rằng ông còn một nguyên do khác, không chỉ là tham vọng cá nhân, khao khát cá nhân - còn một mục tiêu cao quý. Ông đã gây dựng một di sản, ông muốn truyền lại, từ đời này qua đời khác. Chắc đã có những ám chỉ đầy trách móc trong không chỉ một cuộc bàn bạc, quanh bàn ăn tối, bên cốc vang porto. Nhưng đám trẻ vẫn khăng khăng lì lợm. Không thể ép một cậu thanh niên hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp sản xuất cúc nếu cậu ta không muốn. Chúng không định làm phật ý cha mình, không chủ tâm, nhưng mặt khác chúng cũng không muốn hứng lấy gánh trần tục sẽ làm vai chúng oằn xuống và chai mỏi. CỦA HỒI MÔN Quạt mới đã mua rồi. Các bộ phận được gửi đến trong một thùng các tông lớn, người ráp chúng lại là Walter, đã vác hộp đồ nghề đến và vặn hết vào với nhau. Khi làm xong, cậu ta nói, “Như thế là cô ả ngon rồi đấy.” Walter coi mọi tàu bè đều là nữ giới, cũng như động cơ xe bị cháy hay đèn đài hỏng - bất cứ thứ đồ gì mà những anh chàng rành máy móc có thể mang ra vầy vọc rồi trả về trạng thái chưa bóc tem. Sao tôi lại lấy đó làm an tâm thế? Có thể tôi vẫn tin, ở một góc đầy lòng tin con trẻ trong hồn, rằng có thể sẽ đến lúc Walter lôi bộ kìm và cờ lê ra thực hiện quy trình đó với tôi. Cái quạt cây để trong phòng ngủ. Cái quạt cũ tôi đã tha xuống dưới bỏ ra hiên, nó sẽ chiếu thẳng vào gáy tôi. Cảm giác dễ chịu nhưng cũng hơi sờ sợ, như có bàn tay bằng khí lạnh dịu nhẹ đặt lên vai. Đã được hong khí, tôi ngồi vào cái bàn gỗ, cầm bút cạo giấy miệt mài. Không, tôi nhầm - bút ngày nay không cạo giấy nữa. Từ ngữ tuôn ra êm ru trên giấy; chính cái việc bắt chúng chảy xuống cánh tay, nặn chúng ra các ngón, chính việc đó mới khó khăn. Trời đã tờ mờ. Không có gió, tiếng nước dưới ghềnh xối qua vườn như một hơi thở thật dài. Hoa nào màu xanh đã lẫn vào không trung, hoa đỏ biến thành đen, hoa trắng ngời lên như lân tinh. Uất kim hương đã trút hết cánh, trơ lại nhụy hoa - đen, như mõm chó, dâm đãng. Mẫu đơn cũng sắp hết đời, rã rượi mềm oặt như giấy ăn ẩm, nhưng ly đã nở bùng, cả hoa lốc nữa. Những cây sơn mai cuối cùng đã rụng hoa, cỏ phủ đầy những bông tuyết trắng xóa. Tháng Bảy năm 1914, mẹ tôi lấy cha tôi. Chuyện này đòi giải thích, tôi nghĩ thế, xét theo tình hình như vậy. Hy vọng lớn nhất của tôi là Reenie. Khi đến tuổi quan tâm đến những chuyện loại ấy - mười, mười một, mười hai, mười ba - tôi hay ngồi bên bàn bếp, vặn chị như vặn chìa. ẳ Chị còn chưa tròn mười bảy khi đến ở hẳn tại Avilion, rời khu nhà liên kế bên bờ Đông Nam sông Jogues, nơi cư ngụ của thợ thuyền nhà máy. Chị nói mình là người Tô Cách-Ái Nhĩ Lan, nhưng không phải cái giống Ái Nhĩ Lan Công giáo, dĩ nhiên, ám chỉ đời bà nội ngoại chị đã là Công giáo. Chị khởi đầu bằng việc bảo mẫu cho tôi, nhưng trải qua một loạt thay đổi và thải hồi chị đã trở thành chỗ dựa chính của gia đình. Chị hồi ấy bao nhiêu tuổi? Không phải chỗ cô nhúng mỏ vào. Đủ lớn đủ khôn rồi. Biết thế là đủ. Nếu bị cật vấn về đời tư, chị sẽ khép miệng hến. Tôi giữ mình cho mình, chị đáp. Ngày xưa tôi thấy chị khôn ngoan biết bao. Còn bây giờ, bủn xỉn dường nào. Nhưng chị nắm rõ lịch sử gia đình, hoặc ít nhất một phần nào đó. Chuyện chị kể thay đổi tùy theo độ tuổi của tôi, mà cũng tùy xem lúc đó chị lơ đãng đến đâu. Dù sao đi nữa, nhờ thế tôi đã nhặt nhạnh đủ mảnh vụn mà tái dựng lại quá khứ, một quá khứ so với thực tế chắc cũng như bức chân dung khảm so với nguyên mẫu bên ngoài. Mà dù sao tôi cũng không cần chủ nghĩa hiện thực: tôi muốn mỗi mảnh đều được tô màu chói gắt, đường viền rõ nét, không có gì mập mờ, cũng như phần lớn trẻ con đối với sự tích các đấng sinh thành. Chúng muốn hình trên bưu thiếp. Cha tôi đã cầu hôn (theo lời Reenie) trong một buổi liên hoan trượt băng. Có một cái ao - một hồ cấp nước cho cối xay cũ - ngược về phía trên đoạn thác, ở đó nước chảy chậm hơn. Mùa đông nào thật lạnh, mặt nước sẽ đóng băng đủ dày cho người trượt. Ở đây giới trẻ của giáo xứ thường tổ chức các buổi liên hoan trượt băng, tuy không gọi là liên hoan mà là dã ngoại. Mẹ tôi thuộc giáo hội Giám lý, còn cha theo Anh giáo: như vậy xét về thang bậc xã hội mẹ tôi thuộc đẳng thấp hơn, như người ta tính ngày đó. (Nếu còn sống, bà nội Adelia hẳn không đời nào chấp thuận cuộc hôn phối này, về sau tôi kết luận. Mẹ tôi quá lạc đôi lệch lứa, bà sẽ cho như vậy, lại thêm quá e thẹn, quá nghiêm ngắn, quá tỉnh lẻ. Adelia sẽ lôi cổ cha tôi đến Montreal - gán ông cho một tiểu thư mới ra mắt nào đó, ít nhất. Một người áo lượt quần là hơn.) Mẹ tôi khi ấy còn trẻ, mười tám tuổi, nhưng bà hoàn toàn không phải một cô bé đồng bóng ngốc nghếch, Reenie bảo. Bà đã dạy ở trường được ít lâu; hồi đó người ta có thể làm cô giáo khi chưa đầy hai mươi. Đấy không phải nhu cầu mưu sinh: cha của bà là luật sư chính cho Công ty Chase, và họ sống “khá phong lưu”. Nhưng, cũng như bà ngoại, đã qua đời khi mẹ vừa chín tuổi, mẹ tôi thành tâm tin theo tôn giáo của mình. Bà tin cần giúp đỡ những ai không được phúc phận bằng mình. Bà chọn nghề dạy học như người ta đi truyền giáo, Reenie ngưỡng mộ nhận xét. (Reenie thường ngưỡng mộ những việc mẹ tôi làm mà nếu ở địa vị mình chị sẽ coi là hết sức ngu ngốc. Còn về chủ đề người nghèo, chị đã lớn lên giữa họ và cho là họ chẳng đời nào nên thân. Cứ việc dạy dỗ họ đến rát cổ bỏng họng, nhưng đối với phần lớn đối tượng đó, việc ấy cũng chỉ như húc đầu vào tường mà thôi, chị bảo. Nhưng mẹ cô, cầu trời phù hộ trái tim cao quý của bà, chẳng bao giờ nhận ra điều đó.) Vẫn còn một tấm ảnh chụp mẹ tôi ở trường sư phạm, ở thành phố London, Ontario, chụp với hai cô gái nữa; cả ba đứng trên thềm trước nhà trọ, cười thoải mái, tay lồng vào nhau. Tuyết mùa đông đã quét thành đống sang hai bên; nhũ băng rủ xuống trên mái. Mẹ tôi mặc áo choàng da hải cẩu; đuôi mái tóc mềm ló ra dưới mũ. Chắc lúc này mẹ đã dùng đôi kính cặp mũi, tiền thân của gọng kính cú vọ tôi còn nhớ - mẹ bị cận thị từ nhỏ - nhưng trong ảnh không thấy đeo. Có thể nhìn thấy một bàn chân xỏ trong bốt viền lông, mắt cá hơi xoay ra làm dáng. Trông mẹ khá mạnh mẽ, táo bạo là khác, như một cậu cướp biển thiếu niên. Tốt nghiệp xong, mẹ đã nhận việc ở một ngôi trường nhỏ, loại trường mấy lớp học chung một phòng, tít về phía Tây Bắc, nơi lúc đó vẫn còn là vùng sâu vùng xa. Mẹ đã sốc trước những gì chứng kiến ở đó - nghèo khổ, dốt nát, rận rệp. Trẻ con ở đó mặc rịt quần áo lót từ khi thu tới cho đến tận mùa xuân, chi tiết này in sâu vào trí tôi như điển hình của sự nhếch nhác. Dĩ nhiên, Reenie nói, đấy không phải là nơi dành cho một thiếu nữ quý phái như mẹ cô. Nhưng mẹ tôi cảm thấy mình đang đạt được điều gì - làm được điều gì - cho ít nhất là vài đứa trong số tụi trẻ nghèo hèn ấy, hoặc ít nhất là bà hy vọng thế; và rồi bà về nhà nghỉ Giáng sinh, sắc mặt xanh xao và bắp tay gầy guộc của bà đem lại không ít phàn nàn: người ta muốn bà hồng hào đôi má. Và vì thế bà có mặt ở buổi liên hoan trượt băng, trên mặt hồ cối xay đóng băng, có cha tôi hộ tống. Ông buộc dây giày trượt cho bà trước, một gối quỳ trên sàn. Họ đã quen nhau từ trước nhờ có hai cụ thân sinh. Đã có nhiều buổi gặp gỡ lịch thiệp. Họ đã diễn cùng nhau, trong buổi diễn trong vườn cuối cùng của Adelia - ông đóng vai Ferdinand, bà Miranda, trong một vở Cơn bão được tỉa tót đứng đắn mà cả sex lẫn Caliban đều giản lược tối thiểu. Vận áo dài hồng cánh sen, Reenie kể, đeo một tràng hoa hồng; bà đọc lời thoại tuyệt vời, như một thiên thần đang nói. Thế giới mới diệu kỳ, có những con người như thế! Và ánh nhìn lãng đăng từ đôi mắt cận thị hấp háy lóa đèn. Có thể hiểu vì sao mà ra chuyện đó. Cha tôi lẽ ra có thể kiếm tìm nơi khác, một cô vợ nhiều tiền lắm bạc hơn, nhưng chắc ông muốn thứ vàng đã qua thử lửa, muốn người có thể cậy nhờ. Bất chấp tính khí bốc đồng - ngày trước ông đã từng rất bốc đồng, hẳn rồi - ông là một chàng trai nghiêm chỉnh, Reenie nói, ám chỉ nếu không phải thế mẹ tôi hẳn đã khước từ. Cả hai đều nhiệt thành theo cách riêng; họ đều đeo đẳng một mục đích cao xa, muốn đem lại điều tốt đẹp cho thế giới. Những lý tưởng quá sức quyến rũ, quá sức hiểm nghèo! Sau khi đã cùng trượt vài vòng quanh ao, cha tôi hỏi cưới mẹ tôi. Tôi đoán ông đã hỏi một cách vụng về, nhưng đàn ông vụng về thời đó là dấu hiệu cho thấy họ thành thực. Thời điểm ấy, dù chắc vai và hông đã chạm, cả hai đều không nhìn nhau; họ lướt bên nhau, hai tay phải nắm lấy nhau trước ngực, tay trái nắm sau lưng. (Lúc ấy mẹ mặc gì? Cả cái này Reenie cũng biết. Khăn len đan màu thiên thanh, mũ nồi với găng tay đan đồng màu. Đều là mẹ tự đan lấy. Áo khoác dày phủ ngang đùi, xanh như màu áo thợ săn. Và khăn tay giắt vào tay áo - một vật bà không bao giờ quên, Reenie bảo, không phải như một số đứa chị biết.) Mẹ đã làm gì ở thời điểm cốt tử này? Mẹ chăm chú nhìn mặt băng. Mẹ không trả lời ngay. Có nghĩa là đồng ý. Khắp bốn bề là núi đá tuyết phủ và những nhũ băng rủ trắng - trắng đất trắng trời. Dưới chân họ là băng, cũng trắng, và dưới nữa là nước sông đang chảy, đầy những xoáy nước và sóng tạt, tăm tối nhưng không thấy được. Đó cũng là cách tôi hình dung về thời kỳ đó, trước khi Laura và tôi sinh ra - phẳng lặng làm sao, vô hại sao, vững vàng sao trước mắt nhìn vào, nhưng vẫn cứ là băng mỏng. Dưới bề mặt ấy là những điều chẳng thành lời, đang âm ỉ sôi. Rồi sau đó là chiếc nhẫn, và tin đăng trên báo chí; rồi - ngay khi mẹ dạy xong năm học, bổn phận tất nhiên phải thế, và trở lại - bắt đầu những bữa tiệc trà mời khách. Bày biện trang nhã, với xăng uých cuốn măng tây, xăng uých kẹp cải xoong, cùng ba loại bánh ngọt - kem, sô cô la, hoa quả - còn trà thì rót trong ấm tách bạc, bàn bày hoa hồng, trắng hoặc phớt kem hoặc có khi vàng nhạt, nhưng không phải đỏ. Màu đỏ không dùng cho tiệc trà đính hôn. Tại sao cơ? Lớn lên cô sẽ biết, Reenie bảo. Rồi thì đến của hồi môn. Reenie thích kể cặn kẽ từng thứ một - áo ngủ dài, áo ngủ mềm, ren đính trên ấy, vỏ gối thêu tên tắt, ga giường và váy lót phồng. Chị tả từng tủ đứng và bàn có ngăn kéo và tủ áo chia ngăn, và những thứ dành cất vào trong đó, đã gập gọn gàng. Không nhắc gì đến những thân người rồi sẽ được các vải vóc ấy phủ lên: đám cưới, đối với Reenie, quan trọng chỉ là phương diện áo quần, ít nhất trên bề mặt. Rồi danh sách khách mời cần lên, thiệp mời cần gửi, hoa cưới cần chọn, và cứ thế cho đến lễ cưới. Và rồi, sau đám cưới, là chiến tranh. Yêu đương, sang cưới hỏi, sang thảm họa. Theo cách kể của Reenie, thứ tự ấy hình như do trời định. Chiến tranh bắt đầu tháng Tám năm 1914, chẳng mấy lâu sau hôn lễ của cha mẹ tôi. Cả ba anh em đều nhập ngũ ngay ngày đầu, cái đó là tất yếu. Giờ nghĩ lại mà kỳ lạ, cái sự tất yếu này. Vẫn còn một tấm ảnh chụp bọn họ, bộ ba bảnh tỏn đóng quân phục, ba cái trán nghiêm nghị và thơ ngây, ba bộ râu mềm yếu, ba nụ cười hờ hững, ba đôi mắt cương nghị, làm dáng theo hình mẫu ba người lính họ còn chưa kịp trở thành. Giữa cả ba cha tôi cao nhất. Bức ảnh này cha luôn để trên bàn. Họ đầu quân vào Trung đoàn hoàng gia Canada, đơn vị đầu quân của tất cả thanh niên từ Cảng Ticonderoga. Gần như tức khắc họ được phái tới Bermuda thế chỗ một trung đoàn Anh đã hết hạn đóng quân tại đó, và thế là, suốt năm đầu chiến sự, ngày ngày họ chỉ duyệt binh và chơi cricket. Và ngứa ngáy vô cùng, hay ít ra thư nói vậy. Ông nội Benjamin hăm hở đọc thư. Khi thời gian lết thết qua mà chưa thấy có tin thắng lợi từ một trong hai phía, ông càng lúc càng thêm bồn chồn bất an. Lẽ ra sự thể không được như thế. Trái khoáy là việc làm ăn của ông lại đang nở rộ. Gần đây ông đã bành trướng sang cả xen luy lô và cao su, ý là công nghệ làm cúc, cho phép sản xuất với khối lượng lớn hơn; và nhờ những quan hệ trong giới chính khách lập được nhờ Adelia lúc trước, các nhà máy của ông tới tấp nhận được đơn hàng cho quân đội. Ông vẫn trung thực như cũ, ông không xuất đi thứ hàng hóa tạp nhạp, ông không phải loại người trục lợi từ chiến tranh như người ta vẫn nói. Nhưng không thể nói là ông không được lợi. Chiến tranh là cơ hội đẹp cho ngành làm cúc. Bao nhiêu cúc áo mất đi trên chiến địa, cần được bổ sung - có khi hàng hộp, hàng xe một lúc. Chúng có thể bị nổ tung, bị đạp xuống bùn, bị cháy ra tro. Cả quần áo lót nữa chứ. Theo góc nhìn tài chính, chiến tranh là một thứ lửa thần kỳ: một đám cháy khổng lồ có phép giả kim, làn khói bốc lên tự động chuyển hóa thành tiền. Hoặc ít ra với ông tôi. Nhưng điều đó không còn đem niềm vui lại cho tâm hồn ông, hay nâng đỡ thêm lòng tự hào về sự chính trực của mình, như nếu đây còn là những năm xưa, những năm còn tự mãn. Ông muốn có lại các con. Dù cũng chưa phải chúng ở nơi nào nguy hiểm: chúng vẫn còn ở Bermuda, diễu hành nhởn nhơ trong nắng. Từ sau tuần trăng mật (tại vùng hồ Bảy Ngón, ở bang New York), cha mẹ tôi đã về Avilion sống chờ dựng cơ nghiệp của riêng mình, và khi chiến tranh nổ ra mẹ vẫn ở lại đó cai quản nhà cửa cho ông nội. Người làm vắng, bởi mọi cánh tay khỏe mạnh đều huy động tới nhà máy hoặc ra mặt trận, nhưng còn bởi người ta cảm thấy Avilion cần nêu gương sáng trong việc cắt giảm chi tiêu. Mẹ tôi khăng khăng chỉ cho phép ăn uống đơn giản - bò hầm vào thứ Tư, đậu nướng chiều Chủ nhật - mà như thế khá hợp với ông tôi. Ông chưa bao giờ thật yêu thích phong cách ẩm thực cầu kỳ của Adelia cả. """