"Tất Cả Chúng Ta Đều Hành Xử Cảm Tính - Sự Hình Thành Kinh Tế Học Hành Vi - Richard H. Thaler full prc pdf epub azw3 [Kinh Tế] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tất Cả Chúng Ta Đều Hành Xử Cảm Tính - Sự Hình Thành Kinh Tế Học Hành Vi - Richard H. Thaler full prc pdf epub azw3 [Kinh Tế] Ebooks Nhóm Zalo Copyright © Richard H. Thaler, 2015 All rights reserved. Bản tiếng Việt © Nhà xuất bản Trẻ 2016 BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Thaler, Richard H Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính: sự hình thành kinh tế học hành vi / Richard H. Thaler ; Vũ Tiến Phúc dịch. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2016. 518tr. ; 23cm. Nguyên bản : Misbehaving : the making of behavioral economics. 1. Kinh tế học -- Khía cạnh tâm lý. I. Vũ Tiến Phúc. II. Ts. III. Ts: Misbehaving : the making of behavioral economics. 330.019 -- ddc 23 T365 Vũ Tiến Phúc dịch Vũ Thanh Tùng hiệu đính Mục lục Lời nói đầu Cố gắng làm hài lòng Amos 9 PHẦN I. THUỞ BAN ĐẦU 1970-1978 Chương 1. Những yếu tố được cho là không phù hợp 16 Chương 2. Hiệu ứng quyền sở hữu 27 Chương 3. Bản danh sách 37 Chương 4. Lý thuyết giá trị 44 Chương 5. Giấc mơ California 57 Chương 6. Lời thách đấu 67 PHẦN II. TÍNH TOÁN CẢM TÍNH: 1979-1985 Chương 7. Giá hời và giá hớ 85 Chương 8. Chi phí chìm 95 Chương 9. Thùng chứa ngân sách bị rò rỉ 108 Chương 10. Trên bàn đánh bạc 116 PHẦN III. TÍNH TỰ CHỦ 1975-1988 Chương 11. Nghị lực? Không thành vấn đề 126 Chương 12. Người lập kế hoạch và kẻ thừa hành 143 TIẾT MỤC XEN KẼ Chương 13. Hành xử vô lý trong thế giới thực 162 PHẦN IV. LÀM VIỆC VỚI DANNY 1984-1985 Chương 14. Cái gì có vẻ công bằng? 177 Chương 15. Các trò chơi công bằng 195 Chương 16. Li cà phê 205 PHẦN V. VÀO NGHỀ KINH TẾ HỌC 1986-1994 Chương 17. Cuộc tranh luận bắt đầu 216 Chương 18. Những điều bất thường 229 Chương 19. Đồng hội đồng thuyền 238 Chương 20. Định nghĩa hẹp bên phía Đông Thượng Manhattan 250 PHẦN VI. VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH 1983-2003 Chương 21. Cuộc thi sắc đẹp 275 Chương 22. Thị trường chứng khoán phản ứng thái quá? 289 Chương 23. Phản ứng lại sự thái quá 301 Chương 24. Giá không đúng 308 Chương 25. Quỹ đóng tranh hùng 318 Chương 26. Ruồi giấm, tảng băng và giá chứng khoán âm 328 PHẦN VII. THÀNH TRÌ CHICAGO 1995 - NAY Chương 27. Học thêm luật 343 Chương 28. Chọn văn phòng 360 Chương 29. Bóng bầu dục 369 Chương 30. Các Game show 393 PHẦN VIII. GIÚP SỨC 2004-NAY Chương 31. Ngày mai tiết kiệm nhiều hơn 411 Chương 32. Đến với công chúng 430 Chương 33. Cú hích tại Anh 439 Kết luận: Tiếp theo là gì? 460 Nền tảng của kinh tế chính trị học, và nhìn chung là mọi ngành khoa học xã hội, hiển nhiên là tâm lý học. Sẽ có ngày chúng ta có thể rút ra các quy luật của khoa học xã hội từ các nguyên lý của tâm lý học. – Vilfredo Pareto, 1906 Lời nói đầu Trước khi bắt đầu, mời các bạn đọc hai câu chuyện về hai người bạn và cũng là những người thầy thông thái của tôi, Amos Tversky và Daniel Kahneman. Các câu chuyện này sẽ gợi ý về điều bạn có thể mong đợi từ cuốn sách này. Cố gắng làm hài lòng Amos Ngay cả đối với những người vừa để chìa khóa ở đâu còn không nhớ, thì cuộc sống vẫn có những khoảnh khắc không thể nào quên được. Một số trong đó là những sự kiện công cộng. Nếu bạn ở vào thời của tôi thì có lẽ sẽ không bao giờ quên được ngày mà John F. Kennedy bị ám sát (lúc đó tôi là sinh viên năm thứ nhất, đang chơi bóng rổ trong sân tập của trường đại học). Đối với những ai đủ chín chắn để đọc cuốn sách này, thì ngày 11 tháng 9 năm 2001 cũng là một sự kiện như thế (tôi vừa thức dậy, lắng nghe đài NPR, cố lý giải điều gì đang xảy ra). Có những sự kiện cá nhân để đời khác: từ các đám cưới cho đến bước ngoặt cuộc đời. Đối với tôi, có một sự kiện không bao giờ quên là cú điện thoại của Danny Kahneman. Mặc dù chúng tôi thường xuyên nói chuyện, và có hàng trăm cuộc gọi thông thường, nhưng 10 RICHARD H. THALER với cuộc gọi này tôi biết chính xác mình đang ở đâu. Đó là vào đầu năm 1996, Danny (tên thân mật của Daniel - ND) đã gọi điện cho tôi để báo tin rằng người bạn cũng là cộng sự của anh, Amos Tversky, bị bệnh ung thư giai đoạn cuối và chỉ còn sống được thêm 6 tháng nữa. Tôi bàng hoàng đến nỗi phải đưa điện thoại cho vợ cầm hộ để trấn tĩnh lại. Nghe tin một người bạn tốt nào sắp từ giã cõi đời cũng gây sốc, nhưng Amos Tversky không phải loại người dễ dàng buông xuôi ở cái tuổi 59. Amos, người có các bài viết và các buổi nói chuyện khúc chiết và hoàn hảo, trên bàn làm việc của ông luôn chỉ có tập giấy và chiếc bút chì đặt song song nhau, không thể ra đi như vậy. Amos đã giữ kín việc này cho đến khi ông không thể đến văn phòng làm việc được nữa. Trước đó, chỉ có vài người biết chuyện, bao gồm hai người bạn thân của tôi. Chúng tôi không được phép tiết lộ tin này cho ai trừ vợ hoặc chồng, và an ủi lẫn nhau trong suốt 5 tháng giữ kín việc này. Amos không công khai tình trạng sức khỏe vì ông không muốn những ngày tháng cuối cùng của đời mình vô dụng như một kẻ chờ chết. Còn có việc để làm. Ông và Danny đã quyết định biên tập một cuốn sách: tập hợp các bài viết của hai ông và của những người khác trong lĩnh vực tâm lý học mà các ông là người ‘‘khai lối mở đường’’, nghiên cứu về việc đánh giá và ra quyết định. Họ đặt tên cuốn sách là Những lựa chọn, giá trị và các khuôn khổ (Choices, Values, and Frames). Amos hầu như chỉ làm những điều ông yêu thích: làm việc, dành thời gian cho gia đình, và xem bóng rổ. Trong thời gian này Amos không khuyến khích khách đến thăm để chia buồn, mà chỉ tiếp khách đến “làm việc”, do đó tôi đã đến thăm ông khoảng 6 tuần trước khi ông mất, với cái cớ không mấy hợp lý là để hoàn thiện một bài viết mà chúng tôi đã làm cùng nhau trước đó. Chúng tôi dành một chút thời gian cho bài viết rồi cùng xem trận đấu chung kết tranh suất lên hạng (play off) bóng rổ nhà nghề NBA. Lời nói đầu 11 Amos luôn là một ‘‘cuốn bách khoa toàn thư’’ ở hầu hết mọi lĩnh vực trong cuộc đời mình, kể cả việc phải đương đầu với bệnh tật1. Sau khi tham vấn các chuyên gia tại Stanford về bệnh án của mình, ông đã quyết định không làm hỏng những ngày tháng cuối cùng bằng các ca điều trị vô nghĩa, có thể làm ông càng thêm đau đớn và cùng lắm chỉ kéo dài cuộc sống thêm vài tuần lễ như một ngọn đèn lay lắt trước gió. Trí tuệ sắc bén của ông vẫn còn nguyên. Ông giải thích với bác sĩ chuyên khoa ung thư của mình rằng ung thư không phải là trò chơi kẻ thắng người thua (zero-sum game). “Điều gì xấu cho khối u chưa chắc là tốt cho tôi.” Một ngày nọ tôi gọi điện hỏi ông cảm thấy thế nào. Ông trả lời, “Anh biết đấy, thật là nực cười. Khi anh bị cảm cúm, anh cảm thấy như sắp chết, nhưng khi anh đang cận kề cái chết thì anh lại cảm thấy hầu như chẳng sao cả.” Amos mất vào tháng 6 và tang lễ được tổ chức tại Palo Alto, California, nơi ông sống cùng với gia đình. Oren, con trai Amos, đọc lời điếu ngắn tại tang lễ và trích dẫn lời Amos đã viết cho cậu ta trước khi ông chết: Bố cảm thấy mấy ngày qua, hai bố con mình đã trao đổi những giai thoại và câu chuyện đáng nhớ, ít ra cũng được trong một khoảng thời gian. Bố nghĩ rằng người Do Thái có truyền thống lâu đời là truyền lại lịch sử và trí tuệ từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng các giai thoại, truyện vui và truyện tiếu lâm thích hợp chứ không phải bằng các bài giảng hay sách sử. Sau đám tang, gia đình Tverskys đã chủ trì lễ tưởng niệm truyền thống (shiv’a) tại nhà riêng của họ. Đó là một buổi chiều chủ nhật. Có lúc một vài người khách trong chúng tôi lẩn vào phòng xem tivi để 1 Khi Amos còn sống, có một truyện tiếu lâm mà trong giới các nhà tâm lý học ai cũng biết, đó là nhờ ông mà bạn chỉ cần một phép thử là biết kết quả IQ của mình: bạn càng sớm nhận ra ông ấy thông minh hơn mình bao nhiêu, thì bạn càng thông minh bấy nhiêu. 12 RICHARD H. THALER coi phần cuối trận chung kết bóng rổ NBA. Chúng tôi cảm thấy hơi ngượng, thế nhưng sau đó Tal, con trai của Amos, đã vội lên tiếng: “Nếu bố Amos còn sống, ông sẽ yêu cầu cho ghi hình lại buổi lễ tang rồi xem bóng rổ.” Từ lần gặp Amos đầu tiên vào năm 1977, tôi đã áp dụng một phép thử không chính thức cho các bài viết của mình. “Liệu Amos có thông qua không nhỉ?”. Bạn tôi, Eric Johnson, người mà các bạn sẽ gặp lại ở những phần sau, có thể làm chứng rằng có một bài báo do chúng tôi cùng chấp bút đã phải mất 3 năm để được xuất bản, sau khi đã được tạp chí chấp thuận. Biên tập viên, nhà xuất bản và cả Eric đều rất hài lòng về bài báo này, nhưng có một điểm không được Amos tán thành và tôi muốn chiều ý ông. Tôi tiếp tục chỉnh sửa bài báo đó, trong khi Eric đang được xem xét đề bạt cất nhắc nhưng lại không có bài báo đó trong hồ sơ lý lịch chuyên môn của mình. May mà Eric còn viết nhiều bài báo có giá trị khác, cho nên sự trì hoãn của tôi không ảnh hưởng gì đến việc đề bạt anh ấy. Thế rồi, Amos cũng hài lòng về bài báo đó. Khi viết cuốn sách này, tôi luôn tâm niệm lời dặn của Amos cho Oren, con trai ông. Đây không phải là loại sách bạn có thể mong đợi do một giáo sư kinh tế viết ra. Nó cũng không phải loại sách luận thuyết hay bút chiến. Đương nhiên cuốn sách không tránh khỏi đề cập đến các tranh luận trong nghiên cứu, nhưng nó vẫn còn đầy ắp những giai thoại, những câu chuyện vui và thậm chí cả chuyện tiếu lâm kì khôi nữa. Danny nói về ưu điểm lớn nhất của tôi Vào một ngày đầu năm 2001, tôi đến thăm Danny Kahneman tại nhà riêng của ông ở Berkeley. Chúng tôi đang tán gẫu trong phòng khách như mọi khi. Thế rồi Danny bỗng sực nhớ là có hẹn gọi điện thoại cho Roger Lowenstein, một nhà báo đang viết bài về công trình của tôi cho New York Times Magazine. Roger, tác giả của nhiều cuốn sách nổi Lời nói đầu 13 tiếng, trong đó có cuốn Khi thiên tài thất bại (When Genius Failed), hẳn là muốn nói chuyện riêng với Danny, người bạn lâu năm của tôi. Đây là tình huống khó xử. Liệu tôi nên ra khỏi phòng, hay ngồi lại để nghe họ nói chuyện. “Cậu cứ ngồi yên đó”, Danny nói, “Sẽ có chuyện hay đây”. Cuộc phỏng vấn bắt đầu. Nghe người bạn kể chuyện cũ về mình thì không có gì phải háo hức, nhưng nghe người khác đề cao mình thì tôi cảm thấy ngượng làm sao đấy. Tôi nhặt đại một cuốn sách lên đọc và thả trôi sự chú ý cho đến khi nghe thấy Danny nói: “Ồ, ưu điểm lớn nhất của Thaler ấy à? Cậu ấy rất lười biếng, đó chính là điều làm cho cậu ấy trở nên đặc biệt...” Cái gì? Thật vậy sao? Tôi không chối cãi là mình rất lười biếng, nhưng sao Danny lại nghĩ rằng làm biếng là ưu điểm lớn nhất của tôi? Tôi bắt đầu xua tay và lắc đầu nguây nguẩy, nhưng Danny vẫn cứ thản nhiên nói tiếp, hết lời tâng bốc tính cách của tôi. Cho đến tận ngày nay, Danny vẫn cứ khăng khăng cho rằng đó là lời khen xác đáng. Ông giải thích rằng tính lười biếng của tôi có nghĩa là tôi chỉ bỏ công sức vào những việc đủ lý thú để tôi vượt qua xu hướng lảng tránh công việc tẻ nhạt. Chỉ có Danny là người duy nhất coi thói lười biếng của tôi là một gia tài. Nhưng đó là điều các bạn sẽ chiêm nghiệm. Trước khi đọc tiếp, các bạn nên lưu ý rằng cuốn sách này do một người lười biếng có hạng viết ra. Điều mấu chốt, theo Danny, tôi chỉ đề cập đến những điều lý thú, ít ra là đối với tôi, mà thôi. Phần I T h u ở b a n đ ầ u 1970-1978 Chương 1 Những yếu tố được cho là không phù hợp Thời kỳ đầu bước chân vào nghề dạy học, tôi đã vô tình làm cho các em sinh viên của cả lớp học kinh tế vi mô bất mãn, mà có lần nguyên nhân gây ra thì chẳng có gì liên quan đến bài giảng của tôi cả. Rắc rối nảy sinh là do bài thi giữa học kỳ. Tôi soạn đề thi nhằm phân loại sinh viên thành ba nhóm: nhóm dẫn đầu là những em thực sự nắm vững nội dung môn học, nhóm trung bình là những em chỉ nắm được các khái niệm cơ bản, còn nhóm đứng cuối là những em không nắm được gì cả. Để đạt được mục đích, đề thi có một số câu mà chỉ những sinh viên giỏi mới làm được, nghĩa là đề thi hơi khó. Cuộc thi đạt được mục đích của tôi – đã có sự phân hóa khá rộng về kết quả điểm thi – nhưng khi các sinh viên nhận được kết quả thì họ kêu ca ầm ĩ cả lên. Nguyên nhân chính khiến họ phàn nàn là điểm số trung bình đạt được của họ chỉ là 72 trên tổng số điểm 100. Điều bất thường của phản ứng này là điểm số trung bình tuyệt nhiên không có ảnh hưởng đến việc xếp loại học lực của họ. Tiêu chuẩn của trường để xếp loại trung bình là phải đạt loại B hoặc B+, và chỉ có một số rất ít sinh viên bị xếp dưới loại C. Tôi đã trù tính khả năng điểm số trung bình có thể gây rắc rối cho việc này, nên tôi đã thông báo các mức điểm chuẩn để xếp loại trong lớp. Ai đạt trên 80 điểm sẽ được xếp loại A hoặc A-, còn trên 65 điểm thuộc loại B, và chỉ Những yếu tố được cho là không phù hợp 17 những ai dưới 50 điểm mới có nguy cơ bị xếp dưới loại C. Kết quả xếp loại không có gì là bất thường, nhưng thông báo này không làm xoay chuyển tâm trạng bất mãn của các sinh viên. Họ vẫn căm ghét môn thi của tôi, và qua đó cũng ‘‘giận cá chém thớt’’ với tôi. Là một giáo viên trẻ vẫn còn phải lo giữ chỗ làm việc của mình, tôi quyết tâm phải xử lý vấn đề này, nhưng tôi lại không muốn ra đề thi dễ hơn. Vậy phải làm thế nào? Cuối cùng, tôi nảy ra một ý. Đến kỳ thi lần sau, tôi nâng tổng số điểm lên 137, thay vì 100. Kỳ thi này khó hơn kỳ thi đầu tiên chút ít, các sinh viên chỉ đạt được 70% câu trả lời đúng, nhưng điểm số trung bình được nâng lên 96 điểm. Các em rất vui mừng! Không ai có thứ hạng xếp loại bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi này, mọi người đều hài lòng. Từ đó trở đi, cứ khi nào dạy môn này tôi lại cho tổng số điểm 137, tôi chọn con số này vì hai lẽ. Thứ nhất, nó làm cho điểm số trung bình vượt quá 90, và một số sinh viên đạt trên 100 điểm khiến các em rất hồ hởi. Thứ hai, vì điểm số đạt được chia cho 137 không dễ tính nhẩm trong đầu, nên hầu hết các sinh viên chẳng bận tâm tính điểm số ra phần trăm. Để các bạn khỏi hiểu nhầm là tôi ít nhiều đã đánh lừa sinh viên, trong những năm sau đó tôi đã đưa vào thông báo, in chữ đậm trong cuốn giáo trình của mình: “Bài thi này có tổng số điểm là 137 thay vì 100 điểm. Hệ thống thang điểm này không có ảnh hưởng gì đến việc xếp loại học lực đối với môn học, nhưng hình như các em vẫn thích nó hơn.” Quả thực, sau khi tôi thay đổi thang điểm, các em sinh viên không còn kêu ca môn thi của tôi là quá khó như trước nữa. Dưới con mắt của nhà kinh tế, các sinh viên của tôi đã “hành xử vô lý”. Nghĩa là hành vi của họ không nhất quán với mô hình hành vi lý tưởng hóa, là tâm điểm của lý thuyết kinh tế. Đối với nhà kinh tế, không ai có thể hài lòng với số điểm 96 trên tổng số 137 (70%) hơn số điểm 72 trên tổng số 100, nhưng các sinh viên của tôi lại cảm thấy ngược lại. Do nhận ra điều này, nên tôi đã ra được đề thi như mình mong muốn mà không làm cho các em kêu ca. 18 RICHARD H. THALER Trong bốn thập kỷ kể từ khi tốt nghiệp đại học, tôi luôn để tâm đến chuyện có vô số cách mà người ta có thể thoát khỏi những giả thuyết hư cấu đang tồn tại trong các mô hình kinh tế. Tôi chưa bao giờ cho rằng con người có cái gì đó không ổn; tất cả chúng ta đều là con người - những sinh vật có trí khôn (homo sapiens). Nói thật ra, vấn đề nằm ở chính mô hình mà các nhà kinh tế đang sử dụng, mô hình đó thay thế con người khôn ngoan bằng giả thuyết con người kinh tế (homo economicus), (còn được coi là cỗ máy kinh tế đội lốt con người - ND), mà tôi thích gọi là “Econ” cho ngắn gọn. So sánh với thế giới giả định của các Econ thì con người thực có nhiều hành xử vô lý, đồng nghĩa với việc các mô hình kinh tế đã đưa ra nhiều phán đoán sai, những phán đoán có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn là chỉ gây bất mãn cho một nhóm sinh viên. Hầu như không có một nhà kinh tế nào tiên liệu được cuộc khủng hoảng kinh tế 2007-2008 đang ập đến1, tệ hơn nữa, nhiều người còn nghĩ rằng không bao giờ có chuyện thị trường chứng khoán sụp đổ và các hậu quả tai hại do nó gây ra chỉ là chuyện khoa học viễn tưởng mà thôi. Trớ trêu thay, sự tồn tại của các mô hình chính thống dựa vào quan niệm sai lầm về hành vi của con người lại đem đến uy tín cho kinh tế học, biến nó thành môn khoa học xã hội có sức mạnh nhất - sức mạnh nổi bật về cả hai mặt. Thế mạnh thứ nhất là không thể bàn cãi: trong tất cả các nhà khoa học xã hội, chỉ có các nhà kinh tế học là có nhiều ảnh hưởng nhất đến chính sách công. Trên thực tế, họ là ‘‘ông vua không ngai’’ trong việc tư vấn chính sách. Cho đến gần đây, rất hiếm khi các nhà khoa học xã hội khác được mời tham dự vào việc này, và dù có được mời đi nữa, họ cũng bị xếp ngồi chiếu dưới, ở vị thế như đám trẻ con trong một cuộc họp gia đình mà thôi. Thứ hai, kinh tế học cũng được xem là môn khoa học xã hội có sức mạnh nhất xét theo nghĩa học thuật. Sức mạnh này suy ra từ một thực 1 Có một nhà kinh tế đã cảnh báo về mức gia tăng báo động của giá nhà đất, đó là nhà kinh tế học hành vi, đồng nghiệp của tôi, Robert Shiller. Những yếu tố được cho là không phù hợp 19 tế là kinh tế học có một cơ sở lý thuyết cốt lõi, thống nhất mà từ đó gần như mọi thứ khác phải tuân theo. Nếu bạn nhắc đến cụm từ “lý thuyết kinh tế”, mọi người sẽ hiểu ngay bạn muốn nói gì. Không một môn khoa học xã hội nào khác có được một vị thế vững chắc như thế. Nói đúng hơn, các lý thuyết trong các môn khoa học xã hội khác thường nhắm vào những mục đích đặc biệt - giải thích điều gì sẽ xảy ra trong một tập hợp các hoàn cảnh cụ thể. Quả thực, các nhà kinh tế thường so sánh lĩnh vực chuyên môn của họ với môn vật lý học; giống như vật lý, kinh tế học cũng được xây dựng từ một vài giả thuyết cốt lõi. Giả định lõi của lý thuyết kinh tế là con người lựa chọn bằng cách tối ưu hóa. Trong tất cả hàng hóa và dịch vụ mà một gia đình có thể mua sắm, họ sẽ lựa chọn cái tốt nhất trong khả năng của mình. Hơn nữa, niềm tin mà các Econ dựa vào để đề ra các giả định là không thiên lệch. Nghĩa là, chúng ta lựa chọn dựa trên cơ sở mà các nhà kinh tế gọi là “các kỳ vọng hợp lý”. Nếu ai khởi sự kinh doanh mới với niềm tin thông thường rằng cơ hội thành công là 75%, thì đó là dự tính ‘‘biết người biết ta’’. Econ không bao giờ tự tin thái quá. Giả định tối ưu hóa có giới hạn này, nghĩa là lựa chọn cái tốt nhất từ một ngân sách có hạn, được kết hợp với một công cụ đắc lực khác của lý thuyết kinh tế, đó là sự cân bằng. Trong các thị trường cạnh tranh, nơi mà giá cả tự do lên xuống, chúng có xu hướng dịch chuyển về mức cân bằng giữa cung với cầu. Để đơn giản hóa một chút, chúng ta có thể nói rằng Tối ưu hóa + Sự cân bằng = Kinh tế học. Đây là một sự kết hợp đầy sức mạnh, mà các môn khoa học xã hội khác không thể sánh được. Tuy nhiên, có một vấn đề: các giả định mà lý thuyết kinh tế dựa vào còn nhiều khiếm khuyết. Thứ nhất, các vấn đề tối ưu hóa thường là quá khó đối với người bình thường, họ không thể giải quyết hoặc tiếp cận được. Ngay cả việc đi đến một cửa hàng tạp hóa loại khiêm tốn cũng tạo ra cho người mua hàng triệu cách kết hợp các món hàng phù hợp với túi tiền của một gia đình. Liệu gia đình đó có thực sự lựa 20 RICHARD H. THALER chọn được phương án tốt nhất? Lẽ dĩ nhiên, chúng ta phải đương đầu với biết bao nhiêu vấn đề khác còn khó hơn nhiều so với lựa chọn một hành trình đi đến cửa hàng tạp hóa, chẳng hạn như lựa chọn một nghề nghiệp, cách thế chấp tài sản, hay chọn bạn đời. Với những tỷ lệ thất bại mà chúng ta đã thấy trong tất cả các lĩnh vực đó, thì thật khó mà bảo vệ quan điểm cho rằng tất cả những lựa chọn ấy đều tối ưu. Thứ hai, niềm tin mà người ta dựa vào đó để đưa ra lựa chọn không phải là không thiên lệch. Sự quá tự tin có thể không nằm trong từ điển của các nhà kinh tế, nhưng đó là một bản tính cố hữu của con người, và còn có vô số những thiên lệch khác mà các nhà tâm lý học đã đúc kết ra. Thứ ba, có nhiều yếu tố mà mô hình tối ưu hóa bỏ sót, như câu chuyện về bài thi với thang điểm 137 tôi đã kể. Trong một thế giới của các Econ, có một danh sách dài các điều được coi là chẳng có gì phù hợp cả. Không một Econ nào sẽ mua một suất ăn lớn dù là thứ gì để dùng cho bữa ăn tối vào hôm thứ Ba, chỉ vì anh ta bỗng nhiên cảm thấy đói bụng trong khi đang đi mua sắm vào hôm Chủ nhật. Cơn đói vào ngày Chủ nhật đó sẽ chẳng có liên quan gì đến việc lựa chọn liều lượng cho suất ăn vào ngày thứ Ba cả. Chẳng có một Econ nào cố ăn hết suất ăn lớn vào tối thứ Ba nếu như anh ta không còn cảm thấy đói, mà chỉ vì anh ta đã trót bỏ tiền ra mua và anh ta không muốn lãng phí mà thôi. Đối với Econ, cái giá phải trả cho một số món ăn trong quá khứ chẳng có liên quan gì đến việc ra quyết định bây giờ sẽ ăn bao nhiêu. Econ cũng sẽ không mong đợi món quà vào dịp kỉ niệm ngày cưới hay ngày sinh nhật trong năm. Một cuộc hẹn hò thì có thể tạo ra sự khác biệt nào nhỉ? Trên thực tế, các Econ sẽ rất lúng túng đối với việc tặng quà. Econ sẽ hiểu rằng tiền mặt là món quà tốt nhất; nó cho phép người nhận quà mua bất cứ thứ gì tối ưu. Nhưng trừ khi bạn đã kết hôn với một nhà kinh tế, tôi sẽ không khuyên bạn tặng bao thư vào ngày kỷ niệm năm sau. Cứ thử nghĩ mà xem, ngay cả khi người đầu ấp tay gối của bạn là một nhà kinh tế đi chăng nữa, thì đây cũng đâu phải là một ý kiến hay. Những yếu tố được cho là không phù hợp 21 Bạn cũng như tôi đều biết rằng chúng ta đâu có sống trong một thế giới của các Econ. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những con người thực. Và bởi vì các nhà kinh tế cũng là con người, nên hầu hết họ cũng hiểu rằng họ đâu có sống trong thế giới của các Econ. Adam Smith, cha đẻ của tư duy kinh tế hiện đại, đã công khai thừa nhận sự thật này. Trước khi viết tác phẩm để đời, Sự thịnh vượng của các quốc gia (The Wealth of Nations), ông đã viết một cuốn sách khác dành cho chủ đề “những đam mê” của con người, một từ ngữ không thấy xuất hiện trong bất cứ sách giáo khoa kinh tế học nào. Các Econ không hề có những đam mê, họ chỉ là những kẻ tối ưu hóa lạnh lùng. Như hình ảnh Spock trong bộ phim Star Trek chẳng hạn. Tuy nhiên, mô hình hành vi kinh tế học chỉ dựa vào quần thể gồm các Econ lại rất phát triển, đưa kinh tế học lên đỉnh cao của tầm ảnh hưởng mà nó đang thể hiện. Các bài viết phê phán nó trong nhiều năm qua đã bị bỏ qua với những lời thách đố võ đoán và những sự giải thích đuối lí nhằm biện minh trước những bằng chứng khiến họ bối rối. Nhưng lần lượt từng bài phê phán đã được hậu thuẫn đắc lực bởi hàng loạt các công trình nghiên cứu, qua đó không ngừng khẳng định tầm quan trọng của chúng. Thật là quá dễ để bỏ qua câu chuyện về xếp loại sinh viên qua một bài thi. Nhưng không dễ bỏ qua các công trình nghiên cứu đã chứng minh được các lựa chọn tệ hại trong các lĩnh vực đầu tư lớn, như là tiết kiệm hưu trí, lựa chọn vay thế chấp, hay đầu tư trên thị trường chứng khoán. Hơn nữa, không thể nào phớt lờ hàng loạt các địa chấn kinh tế, bong bóng, và sụp đổ mà chúng ta từng chứng kiến tại các thị trường tài chính, bắt đầu vào ngày 19/10/1987, ngày mà giá chứng khoán sụt giảm hơn 20% trên toàn thế giới mà chẳng hề có bất cứ tiếng chuông cảnh báo nào. Tiếp đó là bong bóng các cổ phiếu công nghệ cao tan thành bọt xà phòng, nhanh chóng tạo thành chuỗi hiệu ứng lây lan sang cơn sốt giá nhà đất, để rồi khi bong bóng bị nổ tung, khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra. 22 RICHARD H. THALER Đã đến lúc chấm dứt việc bào chữa được rồi. Chúng ta cần một cách tiếp cận hoàn thiện hơn để nghiên cứu kinh tế, theo đó thừa nhận sự tồn tại và mối liên quan của con người thực. Điều thuận lợi là chúng ta không cần thiết phải “đổ sông đổ biển’’ mọi thứ đã biết về cách thức vận hành của các nền kinh tế và thị trường. Không cần thiết phải loại bỏ các lý thuyết dựa vào giả thiết cho rằng con người là các Econ. Chúng vẫn có ích như là nền tảng cho các mô hình hiện thực hơn. Trong một số tình huống đặc biệt, như khi các vấn đề con người gặp phải có thể được giải quyết một cách dễ dàng, hoặc khi các thành phần trong nền kinh tế có các kỹ năng chuyên môn cao, lúc đó các mô hình Econ có thể cho kết quả gần đúng với thế giới thực. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, các tình huống như vậy chỉ là ‘‘hạt cát trong sa mạc’’ chứ không phải là định luật bất biến. Hơn thế nữa, phần lớn công việc mà các nhà kinh tế làm là thu thập và phân tích dữ liệu về cách thức thị trường vận hành, hầu như với sự thận trọng và chuyên nghiệp cao về thống kê, và điều quan trọng là hầu hết các nghiên cứu này đều không dựa vào giả thiết con người tối ưu hóa. Có hai công cụ nghiên cứu đã xuất hiện trong hơn 25 năm qua, mở rộng đáng kể vốn hiểu biết của các nhà kinh tế về thế giới. Công cụ thứ nhất là việc sử dụng các thực nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên, từ lâu đã được dùng trong các lĩnh vực khoa học như y học. Nghiên cứu điển hình đã chỉ ra điều gì sẽ xảy đến khi một số người tiếp nhận một “chính sách hỗ trợ” có trọng tâm nào đó. Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng các thử nghiệm xuất hiện một cách tự nhiên (chẳng hạn trong khi một số người được tuyển chọn vào một chương trình thì người khác lại không được) hoặc là các thuật toán thông minh để đo lường tác động của chính sách hỗ trợ mặc dù không có ai cố tình tạo ra tình huống cho mục đích đó. Các công cụ mới này đã làm nảy sinh hàng loạt nghiên cứu trên diện rộng về nhiều vấn đề quan trọng của xã hội. Các chính sách hỗ trợ được nghiên cứu bao gồm tài trợ nhiều hơn cho giáo dục, lớp học ít Những yếu tố được cho là không phù hợp 23 học sinh hơn hay được học với giáo viên giỏi hơn, cung cấp dịch vụ tư vấn quản trị, giúp đỡ tìm kiếm việc làm, hỗ trợ pháp lý khi bị kết án giam giữ, chuyển từ khu ổ chuột đến sống ở khu dân cư có đời sống khá hơn, được hưởng chế độ bảo hiểm y tế từ chương trình hỗ trợ của chính phủ v.v... Những nghiên cứu này cho thấy có thể học hỏi được rất nhiều về thế giới xung quanh mà không cần phải áp đặt các mô hình tối ưu hóa, và trong một số trường hợp còn cung cấp những bằng chứng đáng tin cậy để kiểm chứng sự phù hợp của các mô hình với phản ứng của con người thực. Đối với phần lớn lý thuyết kinh tế, giả thiết cho rằng tất cả các tác nhân đều tối ưu hóa không phải là một giả định quan trọng, ngay cả khi những đối tượng được nghiên cứu không phải là các chuyên gia. Chẳng hạn, dự đoán cho rằng các nông dân sẽ sử dụng nhiều phân bón hơn nếu giá phân bón giảm là khá chắc chắn, ngay cả khi có nhiều nông dân chậm thay đổi thói quen để phù hợp với những biến động của thị trường. Dự đoán này là khá chắc chắn bởi vì nó không cụ thể: chỉ đưa ra chiều hướng của hệ quả. Điều này cũng giống như dự đoán khi những quả táo rơi khỏi cây, chúng sẽ rơi xuống đất thay vì bay lên trời. Dự đoán chỉ đúng trong một phạm vi nào đó thôi, chứ nó không chính xác như định luật về trọng lực. Các nhà kinh tế gặp rắc rối khi họ phải đưa ra dự đoán rất cụ thể mà điều đó đòi hỏi tất cả mọi người phải am hiểu kinh tế. Chúng ta hãy trở lại thí dụ về nông dân. Giả dụ các nhà khoa học biết rằng các nông dân đó sẽ có lợi hơn khi sử dụng phân bón nhiều hơn hoặc ít hơn so với thói quen lâu nay. Nếu giả định rằng ‘‘có bột thì sẽ gột được nên hồ’’ thì sẽ không có chính sách nào thích hợp hơn là công khai thông tin này. Công bố các khám phá, đưa chúng đến tay người nông dân, và rồi cứ để cho ma thuật của thị trường định đoạt phần còn lại. Trừ phi tất cả nông dân đều là Econ, còn không thì lời khuyên trên là vô ích. Có thể các công ty lương thực đa quốc gia sẽ nhanh chân áp dụng những khám phá của các công trình nghiên cứu mới nhất, 24 RICHARD H. THALER nhưng thử hỏi hành vi của các nông dân trồng lúa tại Ấn Độ hay Phi châu thì sao? Tương tự, nếu bạn tin rằng mọi người sẽ chỉ tiết kiệm một khoản tiền hợp lý hưu trí, như bất cứ Econ nào có thể làm, và bạn rút ra kết luận từ phân tích này rằng không có lý do gì để cố gắng giúp người khác tiết kiệm (ví dụ, lên các kế hoạch lương hưu), thì bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội cải thiện cuộc sống cho nhiều người. Và nếu bạn tin rằng các bong bóng tài chính chỉ là những câu chuyện sách vở hoang đường, và bạn là ngân hàng trung ương, thì bạn đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng – như Alan Greenspan (cựu chủ tịch Fed – Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - ND), với uy tín của bản thân, đã thừa nhận mình mắc sai lầm. Chúng ta không cần phải từ bỏ việc sáng chế ra các mô hình trừu tượng để mô tả hành vi của các Econ tưởng tượng. Tuy nhiên, chúng ta cần chấm dứt giả định rằng các mô hình này mô tả chính xác hành vi của con người, và chấm dứt dựa vào các lỗ hổng phân tích đó để đưa ra các quyết định về chính sách. Và chúng ta cần phải bắt đầu chú ý đến những nhân tố được cho là không phù hợp (Supposedly Irrelevant Factors), điều mà tôi sẽ gọi tắt là SIFs (lấy ba chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh ghép lại – ND) ‘‘Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời’’, thật khó thay đổi suy nghĩ của người khác về việc họ nên ăn gì vào bữa sáng, huống chi đối với các vấn đề mà họ đã thực hiện trong suốt cả cuộc đời. Những năm qua, có nhiều nhà kinh tế đã cực lực phản đối lời kêu gọi xây dựng các mô hình kinh tế dựa trên cơ sở mô tả các đặc điểm của hành vi con người một cách chính xác hơn. Nhưng nhờ có sự tập hợp của những nhà kinh tế trẻ đầy sức sáng tạo, những người sẵn sàng mạo hiểm và phá vỡ những lối mòn trong nghiên cứu kinh tế truyền thống, nên giấc mơ về một phiên bản hoàn thiện hơn của lý thuyết kinh tế đang trở thành hiện thực. Lĩnh vực này được biết đến với cái tên “kinh tế học hành vi”. Nó vẫn thuộc về kinh tế học, chứ không phải là một môn Những yếu tố được cho là không phù hợp 25 khoa học khác, nhưng đó là môn kinh tế học được gắn chặt với tâm lý học và các môn khoa học xã hội khác. Lý do cơ bản để đưa thêm yếu tố con người vào các lý thuyết kinh tế là nhằm cải thiện độ chính xác của các dự đoán dựa vào các lý thuyết đó. Nhưng còn có cái lợi khác nữa kèm theo. Kinh tế học hành vi hấp dẫn hơn và lý thú hơn kinh tế học thông thường. Nó không phải là môn khoa học tẻ nhạt. Kinh tế học hành vi hiện là một nhánh đang “đơm hoa kết trái’’ của kinh tế học, và những người áp dụng nó đang hiện diện tại hầu hết các trường đại học tốt nhất trên thế giới. Và gần đây, các nhà kinh tế học hành vi và các nhà khoa học hành vi đang trở thành một bộ phận có tiếng nói trong việc hoạch định chính sách, dù là chưa đáng kể. Năm 2010, Chính phủ Vương Quốc Anh đã thành lập Nhóm Khai trí Hành vi (Behavioural Insights Team), và hiện nay nhiều nước khác trên thế giới đang tham gia phong trào thành lập các nhóm chuyên gia với sứ mệnh liên kết những nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội khác nhau để hình thành chính sách công. Các doanh nghiệp cũng đang bắt kịp xu thế, nhận ra việc nắm rõ tận ‘‘chân tơ kẽ tóc’’ về hành vi của con người là kim chỉ nam cho thành công trong kinh doanh, không kém các báo cáo tài chính hay việc quản trị hoạt động doanh nghiệp. Xét cho cùng, chính con người điều hành công ty, đội ngũ nhân viên và khách hàng của công ty cũng là con người. Cuốn sách này nói về câu chuyện kinh tế học hành vi được hình thành như thế nào, ít ra là theo những gì tôi đã chứng kiến. Tuy rằng, tôi không thực hiện tất cả các cuộc nghiên cứu - như các bạn biết, tôi là người rất lười biếng cho việc đó - nhưng tôi là người xuất hiện ngay ở giai đoạn đầu và là một thành viên của phong trào đã tạo ra lĩnh vực này. Thực hiện lời nhắn nhủ của Amos, tôi sẽ kể nhiều câu chuyện tiếp theo, nhưng mục tiêu chính của tôi là thuật lại tất cả đầu đuôi câu chuyện đã diễn ra như thế nào, và giải thích đôi điều chúng tôi đã học được trong quá trình đó. Không có gì phải ngạc nhiên là sẽ có nhiều cuộc cãi vã với 26 RICHARD H. THALER những người theo chủ nghĩa truyền thống, những người bảo vệ lối mòn của kinh tế học. Những cuộc tranh cãi này không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng cũng như các trải nghiệm qua chuyến đi du lịch vất vả, đó sẽ là những câu chuyện lý thú rút ra từ thực tế, và sự cần thiết phải đấu tranh để xây dựng lĩnh vực khoa học này lớn mạnh không ngừng. Như mọi câu chuyện khác, câu chuyện này không tự nhiên dẫn dắt thẳng từ một ý tưởng này đến các ý tưởng khác. Nhiều ý tưởng được chắt lọc ở các thời điểm khác nhau và với tốc độ khác nhau. Nhờ đó, bố cục của cuốn sách vừa theo trình tự thời gian và vừa theo đề tài. Tóm tắt như sau: Xuất phát từ thuở ban đầu, khi đó tôi mới tốt nghiệp đại học và đang tập hợp các hành vi bất thường có vẻ không ăn khớp với các mô hình tôi đã được học ở trường. Phần đầu cuốn sách được dành cho những năm đầu của thời kỳ mông muội này, và mô tả một số thách thức do những người phản bác giá trị của nghiên cứu này tung hô lên. Sau đó chúng ta chuyển sang một loạt chủ đề đã chiếm trọn tâm trí của tôi trong suốt 15 năm đầu khởi nghiệp nghiên cứu: Tính toán cảm tính (mental accounting), tính tự chủ, sự công bằng và tài chính. Mục đích của tôi là giải thích những điều mà các đồng nghiệp và tôi đã học hỏi được trong quá trình nghiên cứu để các bạn có thể tự sử dụng những tri thức đó nhằm cải thiện sự hiểu biết của mình về con người. Nhưng cũng sẽ có những bài học bổ ích về cách làm thế nào để thay đổi cách suy nghĩ của con người, đặc biệt khi họ đã hao tài tốn của để duy trì được hiện trạng. Phần sau, chúng ta sẽ quay lại với các nỗ lực nghiên cứu gần đây hơn, từ hành vi của các tài xế taxi ở thành phố New York, cho đến hành vi của những người tham dự game show với giải thưởng hấp dẫn. Cuối cùng chúng ta sẽ đến London, số 10 phố Downing (Dinh Thủ tướng Anh – ND), nơi một loạt thách thức và cơ hội mới đang xuất hiện. Lời khuyên duy nhất của tôi khi đọc cuốn sách này là bạn hãy dừng đọc ngay khi thấy nó không còn lý thú nữa. Nếu ai làm khác, thì có sao đâu, đó cũng chỉ là hành xử vô lý mà thôi. C h ư ơ n g 2 Hiệu ứng quyền sở hữu Tôi bắt đầu có những ý nghĩ khác thường về lý thuyết kinh tế học khi đang học cao học ở khoa kinh tế Đại học Rochester trên Thượng New York. Mặc dù tôi có cảm giác nghi hoặc về một số nội dung được giảng dạy trên lớp nhưng tôi không dám chắc vấn đề nằm ở lý thuyết hay là do tôi hiểu sai nội dung môn học. Tôi không hẳn là một sinh viên xuất sắc. Trong bài viết của Roger Lowenstein trên tờ New York Times mà tôi đã đề cập ở phần Lời nói đầu, giáo sư hướng dẫn luận văn của tôi, Sherwin Rosen, đã đánh giá về triển vọng của tôi như sau: “Chúng tôi không đặt nhiều kỳ vọng ở anh ta.” Đề tài luận văn của tôi nghe có vẻ thách thức, “Giá trị của một đời người”, nhưng cách tiếp cận thì hoàn toàn chuẩn mực. Về đại thể, lối tư duy đúng đắn về vấn đề này đã được nhà kinh tế Thomas Schelling nêu ra trong bài tiểu luận xuất sắc của ông, “Cuộc đời mà bạn cứu vớt biết đâu lại chính là cuộc đời của bạn”. Rất nhiều lần trong nhiều năm qua tôi luôn đồng tâm ý hợp với Schelling, người đã ủng hộ và có đóng góp ngay từ đầu cho môn học mà ngày nay gọi là kinh tế học hành vi. Dưới đây là một đoạn văn nổi tiếng trong tiểu luận của ông: Để kéo dài cuộc sống cho một bé gái tóc vàng 6 tuổi đến lễ Giáng sinh cần có hàng ngàn đôla làm phẫu thuật, thế là tại bưu điện tràn 28 RICHARD H. THALER ngập đồng năm cent và mười cent được quyên góp để cứu em bé đó. Nhưng nên biết rằng nếu không có thuế giá trị gia tăng thì các trang thiết bị bệnh viện của tiểu bang Massachusetts sẽ xuống cấp và làm gia tăng số lượng người chết mà đáng lý ra vẫn có thể cứu được – thế mà điều này lại chẳng lấy được giọt nước mắt nào của nhiều người hay làm túi tiền của họ vơi đi. Schelling viết cay đắng, nghiệt ngã như vậy. Ông muốn làm cho bạn khó chịu một chút.1 Ở đây, câu chuyện về bé gái ốm đau là một cách sinh động để đề cập ý đồ chính của bài viết. Các bệnh viện đại diện cho khái niệm mà Schelling gọi là “sinh mạng thống kê”, đối nghịch với bé gái, đại diện cho “sinh mạng được xác định rõ”. Đôi khi trong cuộc đời thực chúng ta cũng bắt gặp những cuộc đời được xác định rõ như thế, ví dụ như cuộc giải cứu thợ mỏ bị sập hầm mỏ. Như Schelling đã lưu ý, chúng ta hiếm khi để cho một sinh mạng được xác định rõ phải chấm dứt chỉ vì thiếu tiền. Nhưng lại có hàng ngàn sinh mạng “không xác định” chết mỗi ngày do thiếu những thứ đơn giản như màn, vắc xin, hay nước sạch. Khác với em bé bệnh tật, quyết định chính sách công quốc gia điển hình thường trừu tượng và không bị tình cảm chi phối. Giả sử chúng ta đang xây một đường cao tốc mới, các kỹ sư giám sát độ an toàn cho chúng ta biết rằng nếu nới dải phân cách ở giữa rộng thêm 100cm sẽ tiêu tốn 42 triệu USD và giảm được 1, 4 vụ tai nạn chết người mỗi năm trong vòng 30 năm tới. Liệu chúng ta có nên làm không? Dĩ nhiên, chúng ta không biết nhân dạng của các nạn nhân này. Họ “thuần túy” chỉ là những “sinh mạng thống kê”. Nhưng để quyết định chiều rộng dải phân cách, chúng ta cần có một con số để có lý do kéo dài sự sống cho những sinh mạng này, hay nói sinh động hơn, họ được “cứu sống” 1 Thí nghiệm tư duy điển hình của Schelling: Giả sử có một quy trình y khoa nào đó có lợi đôi chút cho sức khỏe, nhưng lại cực kỳ đau đớn. Thế nhưng, qui trình này được chỉ định dùng thuốc không phải để giảm đau mà nhằm để xóa bỏ mọi kí ức về sự kiện. Liệu bạn có muốn tiến hành quá trình này không? Hiệu ứng quyền sở hữu 29 bằng kinh phí. Trong thế giới của các Econ, xã hội sẽ không chi nhiều tiền hơn để cứu sống một sinh mạng được xác định so với 20 sinh mạng thống kê. Như Schelling đã lưu ý, câu hỏi cần đặt ra là những người sử dụng con đường đó (và có thể cả bạn bè và thân nhân của họ) sẽ sẵn sàng bỏ ra bao nhiêu tiền để cho mỗi hành trình của họ trên con đường an toàn hơn. Schelling đã nêu ra câu hỏi cụ thể, nhưng chưa ai trả lời được cả. Để giải quyết vấn đề này bạn cần một số tình huống trong đó người ta sẽ phải lựa chọn đánh đổi giữa tiền bạc với rủi ro sinh mạng. Từ đó bạn có thể suy ra mức độ họ sẵn sàng trả tiền cho sự an toàn. Nhưng có thể xem xét những lựa chọn như vậy ở đâu? Kinh tế gia Richard Zeckhauser, một môn đồ của Schelling, đã nhận xét rằng trò rulét của Nga cho chúng ta một cách nghĩ về vấn đề này. Đây là sự phỏng theo ví dụ của ông. Giả sử Aidan được yêu cầu chơi trò rulét Nga, sử dụng một khẩu súng ngắn ổ xoay với nhiều ngăn đạn, chẳng hạn 1000 ngăn, trong đó có 4 ngăn được lắp đạn một cách hú họa. Aidan phải bóp cò một lần. (Vì nhân đạo, khẩu súng được cài đặt để chỉ bắn một phát duy nhất). Vậy thì Aidan sẽ sẵn sàng trả bao nhiêu tiền để lấy ra một viên đạn?1 Mặc dù cách sắp đặt rulét Nga của Zeckhauser lột tả được vấn đề một cách đơn giản, nó vẫn không giúp chúng ta tìm ra đáp án nào. Làm thí nghiệm mà các đối tượng chĩa súng đã lên đạn vào đầu họ là một phương pháp không thực tế chút nào để thu thập số liệu. Trong khi suy ngẫm các vấn đề này, tôi đã nảy ra một ý. Giả sử tôi có được số liệu tỷ lệ người chết trong các ngành nghề khác nhau, bao gồm cả các nghề nguy hiểm như khai thác mỏ, lâm nghiệp, và lau 1 Câu hỏi mà Zeckhauser quan tâm là: Mức độ sẵn sàng trả tiền của Aidan sẽ phụ thuộc như thế nào vào số viên đạn nằm trong khẩu súng? Nếu tất cả các ngăn đạn được lắp đầy đạn, Aidan sẽ trả tất cả số tiền anh ta có (và có thể vay thêm) để tháo ra dù chỉ một viên đạn. Nhưng nếu chỉ có hai viên đạn được lắp thì sao? Anh ta sẽ trả bao nhiêu để lấy ra một viên đạn? Và anh ta sẽ trả nhiều hơn hay ít hơn so với mức anh ta sẽ trả để lấy viên đạn cuối cùng ra. 30 RICHARD H. THALER cửa kính các tòa nhà chọc trời, và những nghề an toàn hơn như nông nghiệp, chủ cửa hàng, hay lau cửa kính tầng thấp. Trong thế giới của các Econ, công việc càng rủi ro thì thu nhập sẽ càng cao nếu không thì chẳng ai chịu làm cả. Quả thực, tiền lương tăng thêm cho một công việc nguy hiểm là để bù đắp cho các công nhân dám hứng chịu rủi ro (cũng như các đặc thù khác của công việc). Do vậy, nếu tôi có được số liệu về mức lương của từng ngành nghề, tôi có thể ước tính con số mà Schelling đã ám chỉ trong phân tích của ông, mà không cần cậy nhờ ai chơi rulét Nga. Tôi đã tìm kiếm, nhưng không moi được ở đâu ra số liệu về tỷ lệ tử vong do nghề nghiệp. Cha tôi, Alan, đã giúp tôi phen này. Ông là một chuyên gia định phí bảo hiểm, một trong những dạng chuyên gia tính toán nhằm quản trị rủi ro cho các công ty bảo hiểm. Tôi nhờ ông giúp tôi tìm số liệu về tỷ lệ tử vong do nghề nghiệp. Không lâu sau, tôi nhận được một bản copy mỏng, màu đỏ, bìa cứng của cuốn sách do Hiệp hội các Chuyên gia định phí Bảo hiểm xuất bản, trong đó có liệt kê số liệu tôi đang cần. Bằng cách đối chiếu các tỷ lệ tử vong do nghề nghiệp với các số liệu sẵn có về mức lương theo ngành nghề, tôi có thể ước tính số tiền người ta yêu cầu phải được trả là bao nhiêu để họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro thiệt mạng cao hơn trong công việc. Có được ý tưởng và số liệu là có hy vọng ‘‘đầu xuôi đuôi lọt’’, nhưng mấu chốt là phải thực hiện thống kê chính xác. Tôi cần tìm một giáo sư hướng dẫn tôi làm luận văn trong khoa kinh tế. Lựa chọn sáng giá nhất là nhà kinh tế học về lao động có tiền đồ xán lạn người đã được nhắc đến ở phần trên, Sherwin Rosen. Trước đó chúng tôi chưa hề làm việc cùng nhau, nhưng đề tài luận văn của tôi có liên quan đến một số công trình lý thuyết mà ông đang làm, do đó ông đã đồng ý hướng dẫn tôi. Chúng tôi là đồng tác giả cho một bài viết dựa vào luận văn của tôi với nhan đề, nghe rất tự nhiên, là “Giá trị của việc cứu một mạng người”. Các bản cập nhật số liệu mà chúng tôi từng ước tính vẫn còn Hiệu ứng quyền sở hữu 31 đang được sử dụng trong các phân tích lợi ích-chi phí của chính phủ. Ước tính hiện thời là khoảng 7 triệu USD cho một mạng người được cứu sống. Khi đang làm luận văn, tôi đã nghĩ rằng sẽ rất thú vị khi đặt một vài câu hỏi giả định cho một số người để biết được ưu tiên của họ trong việc đánh đổi giữa tiền và rủi ro thiệt mạng. Để viết ra các câu hỏi này, trước tiên tôi phải quyết định nên chọn cách hỏi nào: hỏi dưới dạng “sẵn sàng trả” hay “sẵn sàng chấp nhận”. Cách thứ nhất là hỏi xem họ sẽ trả bao nhiêu để giảm đi phần nào xác suất bị tử vong vào năm tới, chẳng hạn một phần nghìn. Cách thứ hai là hỏi họ đòi được trả bao nhiêu tiền mặt khi gia tăng mức độ rủi ro bị tử vong với một tỷ lệ tương tự. Đặt các con số này vào một hoàn cảnh cụ thể, thì cho ra kết quả là một cư dân 55 tuổi của Hoa Kỳ sẽ đối diện với mức độ rủi ro thiệt mạng hằng năm là 4/1000. Dưới đây là một câu hỏi điển hình tôi đã nêu ra trong một lớp học. Các sinh viên đã trả lời câu hỏi dưới cả 2 hình thức: A. Giả sử để tham gia vào bài giảng này, bạn tự đặt bản thân vào tình huống có một căn bệnh chết người hiếm gặp đang lây lan. Nếu bị dính bệnh này thì bạn sẽ ‘‘bất đắc kỳ tử’’ nhanh chóng và êm ái vào tuần sau. Xác suất bạn bị lây nhiễm là 1/1000. Chúng tôi có một liều thuốc giải độc duy nhất cho căn bệnh này mà chúng tôi sẽ bán cho ai thầu giá cao nhất. Nếu bạn uống thuốc giải độc thì rủi ro thiệt mạng vì căn bệnh này sẽ “tan thành mây khói’’. Vậy cái giá cao nhất mà bạn sẵn sàng trả cho liều thuốc giải độc này là bao nhiêu? (Nếu bạn thiếu tiền mặt thì chúng tôi sẽ cho bạn vay để mua thuốc với lãi suất bằng không và thời hạn phải trả là 30 năm). B. Các nhà nghiên cứu tại bệnh viện Đại học Y khoa đang tiến hành một số nghiên cứu về căn bệnh hiếm gặp đó. Họ cần các tình nguyện viên sẵn sàng bước vào một căn phòng trong 5 32 RICHARD H. THALER phút và tự mình tiếp xúc với căn bệnh với xác suất 1/1000 bị lây nhiễm và sẽ chết một cách nhanh chóng và không đau đớn vào tuần sau. Không có sẵn liều thuốc giải độc nào cả. Vậy số tiền tối thiểu mà bạn yêu cầu để tham gia vào công trình nghiên cứu này là bao nhiêu? Lý thuyết kinh tế học đã có dự đoán chắc nịch về cách mà người ta sẽ trả lời hai dạng câu hỏi. Các câu trả lời này gần như giống nhau. Đối với một người 50 tuổi trả lời câu hỏi, sự đánh đổi giữa tiền bạc và rủi ro tử vong không khác bao nhiêu khi chuyển từ mức độ rủi ro 5/1000 (0,005) xuống 0,004 (như ở dạng câu hỏi đầu tiên) so với khi chuyển từ độ rủi ro 0,004 đến 0,005 (như trong dạng thứ hai). Các câu trả lời phân tán khá rộng giữa những người được hỏi ý kiến, nhưng tựu trung lại có một đặc điểm rất rõ ràng: các câu trả lời cho hai câu hỏi này rất khác nhau. Các câu trả lời tiêu biểu xoay quanh nội dung sau: Tôi sẽ không trả hơn 2000 USD cho hình thức A nhưng sẽ không chấp nhận ít hơn 500.000 USD cho hình thức B. Trên thực tế, ở dạng B, nhiều người được hỏi đã nói rằng họ sẽ không tham gia vào công trình nghiên cứu với bất cứ giá nào. Không phải chỉ có lý thuyết kinh tế cho rằng các câu trả lời sẽ như nhau. Tính nhất quán của logic cũng đòi hỏi như vậy. Hãy xem xét lần nữa một người 50 tuổi, trước khi vô tình gặp tôi, đang đối mặt với rủi ro 0,004 khả năng tử vong vào năm sau. Giả dụ ông ta trả lời các câu hỏi nêu ở đoạn trên: 2000 USD cho kịch bản A và 500.000 USD cho kịch bản B. Câu trả lời thứ nhất hàm ý rằng việc tăng độ rủi ro từ 0,004 lên 0,005 chỉ làm cho ông ta thiệt hơn nhiều nhất 2000 USD, vì ông ta sẽ không sẵn sàng trả thêm để dự phòng rủi ro. Nhưng câu trả lời thứ hai là ông ta sẽ không chấp nhận gia tăng rủi ro như vậy với cái giá bèo 500.000 USD. Rõ ràng, sự khác biệt giữa độ rủi ro 0,004 và 0,005 không thể ở mức tối đa 2000 USD và tối thiểu 500.000 USD! Không phải ai cũng chấp nhận sự thật này. Trên thực tế, ngay cả khi được giải thích, nhiều người vẫn phản đối, bạn cũng có thể như vậy Hiệu ứng quyền sở hữu 33 lúc này. Nhưng logic là điều không thể bàn cãi1. Đối với một nhà kinh tế, những khám phá này vừa gây ngạc nhiên vừa thấy phi lý. Tôi dẫn họ gặp Sherwin và ông bảo tôi đừng có phí thời gian mà hãy quay lại làm luận văn của mình. Nhưng tôi là cá đã cắn câu mất rồi. Điều gì đang diễn ra ở đây nhỉ? Đúng là kịch bản đặt cược cả tính mạng của mình vào ván bài ‘‘năm ăn năm thua’’ là hiếm khi xảy ra, nhưng khi tôi thử đi tìm các thí dụ khác, thì ở đâu cũng có cả. Một trường hợp nữa là Richard Rosett, trưởng khoa kinh tế và là nhà sưu tập rượu vang lâu năm. Ông nói với tôi rằng trong hầm rượu nhà ông có những chai rượu vang đã mua từ lâu với giá 10 USD, nay có trị giá hơn 100 USD một chai. Trên thực tế, một nhà buôn rượu vang địa phương tên là Woody đang muốn mua một số chai rượu cổ của Rosett với giá thị trường. Rosett nói rằng thỉnh thoảng ông ta có uống những chai rượu này vào các dịp đặc biệt, nhưng có nằm mơ thì ông cũng chẳng bao giờ nghĩ sẽ bỏ ra 100 USD để mua lại. Ông cũng đã không bán chai nào cho Woody. Đây là điều không logic. Nếu ông muốn uống một chai rượu mà ông có thể bán được với giá 100 USD, thì việc uống nó sẽ phải tiêu tốn hơn 100 USD. Thế thì, tại sao ông không muốn mua chai rượu đó? Thật ra, vì sao ông từ chối mua bất cứ một chai rượu nào như thế với giá xấp xỉ 100 USD? Là một nhà kinh tế, Rosett thừa hiểu rằng hành vi đó là không hợp lý, nhưng ngay cả ông cũng không thể làm khác2. Những thí dụ này đều có liên quan đến thuật ngữ mà các nhà kinh tế gọi là “chi phí cơ hội”. Chi phí cơ hội của một hoạt động là những 1 Nói một cách chính xác, các câu trả lời có thể khác nhau do hiệu ứng được các nhà kinh tế học gọi là hiệu ứng thu nhập hay của cải. Bạn bị thiệt hơn trong phiên bản A so với phiên bản B bởi vì nếu bạn không làm gì trong phiên bản B thì bạn sẽ không tiếp xúc với căn bệnh. Nhưng hiệu ứng này không giải thích được sự khác biệt về độ lớn mà tôi đã quan sát thấy, và các cuộc khảo sát khác mà tôi sẽ giả định nói với những người ở trong phiên bản A rằng dù họ đã được trả (chẳng hạn) 50.000 USD cũng không loại bỏ được sự khác biệt này. 2 Hình như Rosett chẳng thấy phiền lòng gì bởi hành vi này. Sau đó tôi có viết bài báo về câu chuyện vặt này, trong đó Rosett được đổi tên là ông R. Tôi gửi cho Rosett bản sao bài báo và nhận được câu trả lời cộc lốc: “À, chỉ có thế mà nổi tiếng!” 34 RICHARD H. THALER gì mà bạn phải từ bỏ để thực hiện hoạt động đó. Nếu hôm nay bạn cuốc bộ thay vì ở nhà xem bóng đá, thì chi phí cơ hội của việc cuốc bộ là từ bỏ niềm vui xem bóng đá. Đối với chai rượu vang giá 100 USD, chi phí cơ hội của việc uống nó là số tiền mà Woody sẵn sàng trả cho Rosett để mua lại. Bất kể Rosett có uống chai rượu của ông ta hay mua một chai khác, thì chi phí cơ hội của việc uống chai rượu đó vẫn vậy. Nhưng như hành vi của Rosett đã thể hiện, thì ngay cả các nhà kinh tế cũng gặp khó khăn khi đặt lên bàn cân các chi phí cơ hội với việc móc tiền túi ra. Từ bỏ cơ hội bán đi một thứ gì đó không thấy xót của như móc ví ra để mua chính thứ đó. Chi phí cơ hội là điều mơ hồ và trừu tượng so với việc trao tay tiền mặt. Bạn tôi Tom Russell góp một chuyện lý thú khác. Vào thời gian đó, thẻ tín dụng mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi, và những nhà phát hành thẻ đang đấu tranh pháp lý với các nhà bán lẻ về việc dân bán hàng tính giá khác nhau tùy theo khách hàng trả bằng tiền mặt hay bằng thẻ tín dụng. Do các nhà phát hành thẻ tín dụng thu lệ phí các nhà bán lẻ khi họ đến thanh toán tiền mặt, nên một số người bán hàng, nhất là ở các trạm xăng, đòi các khách hàng sử dụng thẻ tín dụng phải trả nhiều tiền hơn. Tất nhiên, dân kinh doanh thẻ tín dụng rất ghét cái lệ này vì họ muốn khách hàng coi việc thanh toán bằng thẻ là miễn phí. Khi vụ tranh chấp đi đến quy trình tố tụng, các nhà vận động hành lang của bên thẻ tín dụng đã chơi trò nước đôi và chuyển trọng tâm vào vấn đề sát sườn. Họ khăng khăng cho rằng nếu các cửa hàng nhất quyết tính giá khác nhau tùy theo khách hàng trả bằng tiền mặt hay thẻ tín dụng, thì “giá bình thường” sẽ cao hơn giá trả bằng thẻ tín dụng, nghĩa là khách hàng trả bằng tiền mặt được “giảm giá”. Theo phương án khác thì giá bình thường sẽ lấy giá trả bằng tiền mặt, còn khách hàng trả bằng thẻ tín dụng phải trả thêm “phụ phí”. Đối với Econ thì hai cách làm này chỉ là ‘‘bình cũ rượu mới’’. Nếu giá trả bằng thẻ là 1,03 USD và giá trả bằng tiền mặt là 1 USD, thì dù bạn có gọi chênh lệch 3 cent đó là giảm giá hay phụ phí thì cũng Hiệu ứng quyền sở hữu 35 chẳng có vấn đề gì. Tuy nhiên, ngành kinh doanh thẻ tín dụng nghiêng hẳn về phương án gọi là giảm giá. Nhiều năm sau đó Kahneman và Tversky gọi sự phân biệt này là “định khuôn khổ” (framing), nhưng các chuyên gia tiếp thị, với bản năng nghề nghiệp của mình, đã khẳng định rằng sự đóng khuôn này rất quan trọng. Trả phụ phí có nghĩa là móc tiền túi của mình, trong khi không được hạ giá “thuần túy” là chi phí cơ hội. Tôi gọi hiện tượng này là “hiệu ứng quyền sở hữu” (endowment effect) bởi vì trong thuật ngữ chuyên ngành của các nhà kinh tế, thứ mà bạn nắm giữ là một phần thuộc quyền sở hữu của bạn, và tôi đã bất ngờ phát hiện ra rằng người ta coi trọng những thứ đã là một phần thuộc quyền sở hữu của họ hơn là những thứ nằm ngoài tầm với, nghĩa là họ chưa được làm chủ chúng. Hiệu ứng quyền sở hữu có ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi của những người đang cân nhắc có nên tham dự các buổi hòa nhạc hay các sự kiện thể thao đặc biệt không. Thông thường thì giá gốc bao giờ cũng thấp hơn giá vé thị trường nhiều. Người nào may mắn vớ được vé giá gốc, nhờ kiên trì xếp hàng dài hoặc do nhanh tay nhấp chuột đặt hàng sớm trên mạng, bây giờ sẽ phải quyết định: nên đi xem các sự kiện đó hay bán lại vé? Hiện nay, tại nhiều nước trên thế giới đã hình thành thị trường vé tiện lợi, hợp pháp trên mạng, như là website Stubhub.com chẳng hạn, nhờ đó những người có vé không còn phải đứng ngoài cổng sự kiện để chào bán những chiếc vé giá trị mà họ may mắn có được để kiếm lời. Chỉ có ít người không phải là các kinh tế gia là nghĩ đúng về quyết định nói trên. Một minh họa hay cho trường hợp này là nhà kinh tế Dean Karlan, hiện giảng dạy tại Đại học Yale. Thời gian Dean ở Chicago - theo học chương trình Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (MBA) - trùng hợp với thời kỳ Michael Jordan trở thành ông vua ‘‘bất khả chiến bại trong’’ làng bóng rổ nhà nghề. Đội bóng rổ Chicago Bulls của Jordan đã giành được 6 chức vô địch khi có anh trong đội. Vào 36 RICHARD H. THALER năm xảy ra câu chuyện, đội Bulls gặp đội Washington Wizards tại trận đấu đầu tiên của vòng chung kết. Mặc dù đội Bulls đã chắc thắng, nhu cầu mua vé vẫn rất cao, một phần vì các cổ động viên biết rằng giá vé các trận sau trong vòng chung kết sẽ còn đắt hơn nhiều. Dean có người bạn thân cùng trường đang làm việc cho đội Wizards và người bạn này đã cho Dean hai chiếc vé. Dean cũng có một người bạn khác, một sinh viên mới tốt nghiệp trường thần học, là người cũng có mối quan hệ với đội Wizards và có một cặp vé miễn phí. Cả hai người đang phải vật lộn với các khó khăn tài chính – chuyện thường tình của các sinh viên mới ra trường, mặc dù Dean có triển vọng tài chính dài hạn tốt hơn: dân MBA thường sẽ kiếm được nhiều tiền hơn dân tốt nghiệp trường thần học1. Cả Dean và bạn của anh ta đều coi quyết định nên bán lại vé hay đi xem trận đấu bóng rổ là chuyện không cần phải suy nghĩ. Anh sinh viên thần học đã mời một người cùng đi xem cho vui. Trong khi đó, Dean loay hoay đi tìm những ông giáo sư vừa yêu thích bóng rổ lại vừa có thu nhập hướng dẫn sinh viên cao. Anh ta đã bán lại hai vé của mình, mỗi chiếc vài trăm đôla. Cả Dean và bạn anh ta đều cho rằng hành vi của người kia đúng là gàn dở. Dean thì không hiểu nổi làm sao mà thằng bạn kia lại có thể nghĩ rằng hắn dư dả đến mức dám bỏ tiền đi xem một trận đấu bóng nhà nghề đắt như thế. Còn bạn anh ta cũng không hiểu nổi vì sao Dean lại không cho rằng hai chiếc vé đó là miễn phí. Đây chính là hiệu ứng quyền sở hữu. Tôi biết là nó có thật, nhưng tôi chưa biết xử lý nó như thế nào. 1 Dĩ nhiên, các sinh viên trường thần học vẫn có thể san lấp sự khác biệt này trong một thời gian rất, rất dài sau này. C h ư ơ n g 3 Bản danh sách Sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán luôn khiến tôi rất phân vân. Còn điều gì khác nữa mà người ta làm không nhất quán với mô hình lựa chọn hợp lý của các nhà kinh tế học? Khi tôi bắt đầu chú ý tìm hiểu, thì bắt gặp ngay rất nhiều thí dụ đủ để lập thành một danh sách ghi trên bảng đen treo tại phòng làm việc của mình. Dưới đây là một vài thí dụ mô tả hành vi của các bạn tôi. • Không nhớ bằng cách nào Jeffrey và tôi đã xoay xở được hai chiếc vé miễn phí xem trận đấu bóng rổ nhà nghề tại Buffalo, cách nơi chúng tôi ở tại Rochester một tiếng rưỡi đồng hồ lái xe. Vào ngày trận đấu diễn ra có cơn bão tuyết lớn. Chúng tôi quyết định không đi xem, nhưng Jeffrey nhận xét rằng, ‘‘của đau con xót’’, nếu chúng tôi bỏ tiền túi ra mua vé (khá đắt), có lẽ chúng tôi đã bất chấp bão tuyết để cố lái xe đến sân bóng rồi. • Cứ vào ngày cuối tuần là Stanley cắt cỏ ở sân nhà mình và việc này khiến anh ta bị bệnh sốt cỏ khô. Tôi hỏi Stan tại sao không thuê một đứa trẻ cắt cỏ dùm. Stan nói anh ta không muốn mất 10 USD. Tôi hỏi Stan thế liệu anh ta có đi cắt cỏ thuê cho hàng xóm với tiền công 20 USD hay không, thì Stan lắc đầu nói không, tất nhiên là không bao giờ. • Linnea đi siêu thị để tìm mua một chiếc radio báo thức. Cô ấy tìm được loại mình thích với giá phải chăng là 45 USD, theo như cô ấy tìm hiểu. 38 RICHARD H. THALER Khi cô ấy định mua, nhân viên bán hàng khuyên cô rằng loại đài này cũng đang được bán hạ giá 35 USD tại chi nhánh mới của cửa hàng, cách đây 10 phút lái xe, nơi đang diễn ra lễ khai trương. Liệu cô ta có lái xe đến đó để mua hay không? Trong một chuyến đi mua sắm khác, Linnea tìm mua tivi và nhìn thấy một chiếc có giá hời là 495 USD. Nhân viên bán hàng lại mách rằng chiếc tivi cùng loại đang bán hạ giá tại cửa hàng khác, cách 10 phút lái xe, với giá chỉ 485 USD. Cùng một câu hỏi... nhưng chắc là câu trả lời khác với tình huống trên. • Vợ Lee tặng chồng một chiếc áo len đắt tiền nhân dịp lễ Giáng sinh. Anh ta từng nhìn thấy chiếc áo len đó bày bán tại cửa hàng, nhưng quyết định không mua vì nghĩ rằng dù có thích nhưng không nên tự nuông chiều quá đáng. Thế nhưng anh ta vẫn vui mừng khi được vợ tặng món quà đắt tiền này. Về tài chính, hai vợ chồng Lee góp gạo thổi cơm chung; không ai có quỹ đen cả. • Một số bạn bè kéo đến nhà chơi và cùng ăn tối. Chúng tôi uống rượu khai vị trong khi chờ đợi món thịt nướng đang quay trong lò trước khi ngồi vào bàn ăn. Tôi bưng ra một khay lớn đựng hạt điều để nhấm nháp cho vui miệng. Chúng tôi nhai ngấu nghiến hết nửa khay hạt điều trong 5 phút khiến ai nấy không còn cảm giác ngon miệng nữa. Thế là tôi đành phải cất cái khay hạt điều đang ăn dở vào trong bếp. Ai cũng vui vẻ cả. Mỗi thí dụ nêu trên minh họa cho một hành vi không phù hợp với lý thuyết kinh tế. Jeffrey để ngoài tai câu châm ngôn của các nhà kinh tế “bỏ qua các chi phí chìm”, tức là số tiền đã được chi tiêu. Cái giá chúng tôi trả cho những chiếc vé không có ảnh hưởng gì đến sự chọn lựa có nên đi xem trận bóng rổ đó hay không. Stanley vi phạm quy tắc giá bán và giá mua phải tương đương nhau. Nếu Linnea mất 10 phút để tiết kiệm được 10 USD khi đi mua một món hàng nhỏ chứ không phải món hàng lớn, thì cô ta đã không nhất quán trong việc đánh giá Bản danh sách 39 giá trị của thời gian. Lee cảm thấy dễ chịu hơn khi dùng quỹ chung của gia đình để mua chiếc áo len đắt tiền nếu vợ là người quyết định mua, mặc dù như thế thì chiếc áo len cũng chẳng rẻ hơn chút nào. Còn việc cất khay hạt điều đi đồng nghĩa với hủy bỏ quyền chọn được ăn thêm nữa; đối với các Econ, có nhiều sự lựa chọn vẫn tốt hơn là ít sự lựa chọn. Tôi đã mất khá nhiều thời gian xem đi xem lại và bổ sung nhiều điều mới vào bản Danh sách, nhưng chẳng biết nên xử lý thế nào. Gọi đây là “Những việc ngây ngô mà người ta làm” để làm tựa đề cho một bài báo học thuật thì không ổn chút nào. Thế là tôi tạm gác lại. Vào mùa hè năm 1976, Sherwin và tôi đến tham dự một hội nghị gần Monterey, California. Chúng tôi đến đó để thuyết trình về giá trị của cuộc sống. Điều đặc biệt của hội nghị này đối với tôi là có hai nhà tâm lý hoc cùng tham dự: Baruch Fischhoff và Paul Slovic. Cả hai đang nghiên cứu về vấn đề con người ra quyết định như thế nào. Thật chẳng khác ‘‘nắng hạn gặp mưa rào’’. Tôi chưa từng gặp ai trong giới học thuật uyên bác như hai người này. Rút cuộc tôi lái xe đưa Fischhoff ra sân bay. Ngồi trong xe, Fischhoff kể tôi nghe anh ấy đã lấy bằng tiến sĩ về tâm lý học tại Đại học Hebrew, Israel. Tại đó anh đã làm việc với hai gã mà tên tuổi của họ tôi chưa từng nghe thấy: Daniel Kahneman và Amos Tversky. Baruch cho tôi biết về đề tài luận án của anh mà ngày nay rất nổi tiếng, “Phán đoán thiên lệch theo sự thật đã xảy ra” (hindsight bias). Khám phá này cho rằng sau khi một sự thật diễn ra, chúng ta luôn nghĩ rằng mình đã biết trước kết cục tất yếu đó, nếu không nói đó là một kết luận đã được dự báo. Sau khi Thượng nghị sĩ Mỹ gốc Phi ít tên tuổi, Barack Obama, đánh bại đối thủ nặng kí được dư luận mến mộ là bà Hillary Clinton để trở thành ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, nhiều người nghĩ rằng đó là điều họ đã thấy từ trước. Thật ra không phải vậy. Họ chỉ tự huyễn hoặc mà thôi. 40 RICHARD H. THALER Tôi nhận thấy khái niệm thiên lệch theo sự thật đã xảy ra rất thú vị và cực kỳ quan trọng đối với công việc quản lý. Một trong những vấn đề khó nhằn nhất mà một CEO phải đối mặt là thuyết phục các trưởng phòng dám đảm nhận các dự án rủi ro nếu như họ muốn đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng cao tương ứng. Các trưởng phòng có lý do xác đáng để quan ngại, vì nếu như dự án không trót lọt, thì trách nhiệm sẽ đổ lên đầu họ bất kể quyết định ban đầu có đúng hay không. Thiên lệch theo sự thật đã xảy ra làm trầm trọng thêm vấn đề này, vì CEO sẽ tưởng lầm rằng bất kể nguyên nhân thất bại là gì, thì nó cũng phải được dự kiến từ trước. Và cũng do suy nghĩ lệch lạc này mà ông ta cứ nghĩ rằng mình đã biết trước dự án đó không đáng mạo hiểm. Điều làm cho lệch lạc này trở thành liều thuốc độc giết người là chúng ta đều chỉ lo bới lông tìm vết người khác, chứ chẳng bao giờ soi gương lại chính mình. Baruch gợi ý tôi nên đọc một số công trình của các giáo sư hướng dẫn anh. Ngày hôm sau, khi trở lại văn phòng làm việc tại Rochester, tôi vùi đầu ngay vào thư viện. Dành hầu hết thời gian trong dãy sách kinh tế, tôi đã khám phá ra được một chân trời mới cho mình từ cái thư viện này. Mở đầu tôi tìm đọc bài tóm tắt của bộ đôi tác giả đăng trên tạp chí Science: “Phán đoán trong điều kiện bất định: Suy nghiệm và sự thiên lệch” ( Judgement Under Uncertainty: Heuristics and Biases). Vào lúc đó tôi không biết chắc heuristics nghĩa là gì, nhưng hóa ra nó là một mĩ từ để chỉ quy tắc Ngón tay cái (qui tắc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm chứ không căn cứ vào thực chứng - ND). Càng đọc, tim tôi càng đập mạnh như đang chứng kiến những giây phút nghẹt thở cuối cùng của một trận đấu bóng. Tôi chỉ mất nửa tiếng đồng hồ để đọc hết bài viết từ đầu đến cuối, nhưng nó đã làm thay đổi cả cuộc đời tôi kể từ đó. Luận điểm của bài viết thật đơn giản và lôi cuốn. Thời gian và trí tuệ của con người là hữu hạn. Do vậy, họ phải dùng quy tắc Ngón Bản danh sách 41 tay cái đơn giản là - dựa vào suy nghiệm để đưa ra các phán đoán. Thử lấy một thí dụ về “tính sẵn có”(availability). Giả dụ tôi hỏi bạn rằng Dhruv có phải là một tên người phổ biến không. Nếu bạn đến từ hầu hết các nước trên thế giới, trừ Ấn Độ, bạn sẽ trả lời là không phải, nhưng đây lại là tên người rất phổ biến ở Ấn Độ, một đất nước đông dân nhất nhì thế giới, do đó có thể nói Dhruv là cái tên rất thông dụng, xét trên quy mô toàn cầu. Để ước lượng sự phổ biến của một việc nào đó, chúng ta thường nghĩ trong đầu có những trường hợp nào tương tự mà mình đã từng gặp chưa. Đó chính là quy tắc suy nghiệm, và trong cộng đồng mà bạn đang sống, việc dễ dàng nhớ lại đã từng gặp ai, tên gì sẽ cho bạn manh mối tìm ra sự phổ biến thực sự của nó. Nhưng quy tắc này cho ra kết quả sai trong điều kiện các trường hợp của một biến cố nào đó không tương thích cao với việc bạn dễ dàng có được các thí dụ (như cái tên Dhruv chẳng hạn). Đây là một minh họa cho một ý tưởng lớn lao của bài báo, điều khiến tay tôi run lên bần bật khi đọc nó: việc sử dụng những suy nghiệm này khiến ta đưa ra những sai lầm có thể dự đoán được. Bởi thế mà bài báo mang tựa đề: Suy nghiệm và sự thiên lệch. Khái niệm về những thiên lệch có thể dự đoán được đã cung cấp cho tôi một khung lý thuyết cho những ý tưởng lộn xộn trước đây của mình. Tiền bối của Kahneman và Tversky là Herbert Simon, một học giả uyên bác gắn bó phần lớn sự nghiệp của mình với Đại học Carnegie Mellon. Simon nổi tiếng trong hầu hết các lĩnh vực khoa học xã hội, bao gồm kinh tế học, khoa học chính trị, trí tuệ nhân tạo, và lý thuyết tổ chức, nhưng lý thuyết phù hợp nhất với cuốn sách này mà ông đã viết là “Tính duy lý giới hạn” (bounded rationality) được ông viết từ rất sớm trước thời của Kahneman và Tversky. Khi nói rằng con người bị giới hạn về sự hợp lý thì Simon đã ngụ ý rằng họ thiếu khả năng nhận thức để giải quyết các vấn đề phức tạp, mà điều này quả thực rất đúng. Tuy vậy, dù ông đoạt giải Nobel Kinh tế, tôi cũng phải công 42 RICHARD H. THALER bằng mà nói rằng ông ít có ảnh hưởng đến giới kinh tế học1. Tôi tin rằng nhiều kinh tế gia phớt lờ Simon đi do người ta dễ dàng gạt sang một bên khái niệm tính duy lý giới hạn của ông vì nó “đúng nhưng không quan trọng”. Các nhà kinh tế hài lòng với ý tưởng cho rằng các mô hình của họ không thể chính xác nếu thiếu các giả định nên những phán đoán của các mô hình đó đương nhiên là có sai số. Trong các mô hình thống kê được các nhà kinh tế áp dụng, điều này được xử lý đơn giản bằng cách cộng thêm “sai số” vào phương trình là xong. Giả dụ bạn thử dự đoán chiều cao của một đứa trẻ đến tuổi trưởng thành bằng cách lấy chiều cao của cả bố và mẹ nó làm thông số dự báo. Mô hình này cho kết quả không tồi vì bố mẹ cao thì thường những đứa con của họ cũng cao theo, nhưng đây không thể là mô hình chính xác tuyệt đối, do vậy mà khái niệm sai số được sử dụng ở đây. Tất cả sẽ đâu vào đấy, miễn là sai số có tính ngẫu nhiên - tức là các dự đoán theo mô hình sai lệch quá cao hoặc quá thấp với tần số như nhau. Các sai số sẽ bù trừ lẫn nhau. Đây là lập luận của các nhà kinh tế để biện minh vì sao có thể bỏ qua các sai số do tính duy lý giới hạn gây ra mà vẫn không có ảnh hưởng gì. Vậy hãy quay trở lại mô hình hợp lý toàn phần đi thôi! Kahneman và Tversky đã cực lực bác bỏ lập luận đó và nói rằng những sai số đó không phải là ngẫu nhiên. Khi hỏi mọi người rằng trong số người chết ở Mỹ do súng gây ra thì trường hợp nào chiếm tỷ lệ nhiều hơn, giết người hay tự tử, hầu hết sẽ đoán là giết người, nhưng trên thực tế số người chết do tự sát lớn gần gấp đôi số người bị giết2. 1 Giải thưởng Nobel về kinh tế học không phải là một trong những giải Nobel gốc được nêu trong di chúc của Alfred Nobel, mặc dù giải này được trao cùng với các giải khác. Tên đầy đủ của nó là Giải Sveriges Risksbank về khoa học kinh tế để tưởng niệm Alfred Nobel, nhưng ở đây tôi vẵn gọi tắt là Giải Nobel về kinh tế học cho ngắn gọn. Danh sách những người được nhận giải có thể truy tìm trên trang mạng http://www. nobelprize. org/nobel_prizeseconomic-scienceslaureates/. 2 Quả thực, chỉ cần tàng trữ một khẩu súng trong nhà là sẽ làm tăng nguy cơ có người trong nhà tự tử. Bản danh sách 43 Đây là sai số có thể dự đoán được. Ngay cả khi hỏi rất nhiều người, các sai số này cũng không thể có trị trung bình bằng không được. Mặc dù lúc đó tôi chưa hoàn toàn tán thưởng điều này, nhưng trí tuệ của Kahneman và Tversky đã từng bước khai sáng cho tôi dần hoàn chỉnh Bản danh sách của mình. Mỗi đề mục trong danh sách là một thí dụ về một thiên lệch hệ thống. Các mục trong Bản danh sách còn có một đặc điểm đáng nhớ khác. Trong mọi trường hợp, lý thuyết kinh tế luôn có một dự đoán rất cụ thể về một số nhân tố then chốt - như trường hợp của hạt điều hay khoản tiền mua vé xem bóng rổ - mà theo lý thuyết sẽ không có ảnh hưởng đến các quyết định. Tất cả đều được giả định là những nhân tố không phù hợp - SIFs. Nhiều công trình trong kinh tế học hành vi sau này đã cho thấy những nhân tố SIFs nào trên thực tế lại có tương quan rất cao trong việc dự đoán hành vi, nhờ áp dụng lý luận về các thiên lệch hệ thống do Tversky và Kahneman nêu ra trong bài báo năm 1974 của hai ông. Đến nay bản danh sách đã rất dài, vượt xa những gì tôi đã viết trên bảng nhiều năm trước. Tôi dành thời gian vài giờ tại thư viện hăng say đọc hết những gì Kahneman và Tversky đã cùng nhau viết ra, rồi ra về với cái đầu quay như chong chóng. Trong trường hợp bạn phân vân về thứ tự các tên trong các bài viết của họ, ngay từ đầu Amos Tversky và Daniel Kahneman đã áp dụng một chiến lược rất khác thường là luân phiên lấy tên người này đứng trước người kia như một cách để ám chỉ tế nhị rằng họ là những đối tác bình đẳng. Trong kinh tế học, thứ tự theo chữ cái là một lựa chọn cơ bản, nhưng trong tâm lý học thứ tự các tên thường chỉ ra những đóng góp có liên quan. Giải pháp của hai ông nhằm tránh đưa ra quyết định, qua từng bài, ai đã có đóng góp nhiều hơn. Cách đánh giá như thế có thể gây ra sự ức chế. (xem chương 28). C h ư ơ n g 4 Lý thuyết giá trị Sau cái ngày ở thư viện, tôi gọi Fischhoff để cảm ơn. Anh nói với tôi rằng Kahneman và Tversky đang thực hiện công trình nghiên cứu mới về đề tài ra quyết định mà có lẽ rất phù hợp với mối quan tâm của tôi. Fischhoff còn bảo rằng có thể Howard Kunreuther, một giáo sư tại Wharton, có bản sao công trình đó. Tôi gọi ngay Howard và trúng mánh. Anh ta có một bản thảo và sẽ sao cho tôi một bản. Bản thảo, lúc đầu mang tựa đề “Lý thuyết giá trị” (Value Theory), đã đến tay tôi với những lời bình phẩm của Howard bằng các dòng chữ nguệch ngoạc chi chít trên lề các trang giấy. Đó là phiên bản đầu tiên của công trình sau này đem đến cho Danny giải Nobel năm 2002. (Amos đáng lẽ cũng đã được chia sẻ vinh quang này này nếu ông còn sống). Về sau các tác giả đã đổi tên tựa đề thành “Lý thuyết triển vọng”1 (Prospect Theory). Công trình này phù hợp với Bản danh sách của tôi nhiều hơn so với công trình nghiên cứu về suy nghiệm và thiên lệch. Có hai điều làm tôi chú ý ngay tức thì: nguyên tắc tổ chức và một biểu đồ đơn giản. Hai loại lý thuyết Nguyên tắc tổ chức là sự tồn tại của hai loại lý thuyết khác biệt: chuẩn tắc và mô tả. Các lý thuyết chuẩn tắc cho bạn cách suy nghĩ đúng đắn 1 Tôi có hỏi Danny lý do vì sao thay đổi tên, ông trả lời: “Lý thuyết giá trị” dễ gây nhầm lẫn, và chúng tôi quyết định dùng một thuật ngữ hoàn toàn vô nghĩa, nhưng nó có thể trở nên có ý nghĩa về sau, nếu lý thuyết này may mắn trở nên quan trọng. Vậy nên dùng chữ “triển vọng” là rất thích hợp”. Lý thuyết giá trị 45 về một vấn đề nào đó. Chữ “đúng” tôi dùng ở đây không phải là chuẩn về khía cạnh đạo lý; mà với ý nghĩa nhất quán một cách logic, như đã được thể hiện bởi mô hình tối ưu hóa trong tâm điểm của lý luận kinh tế học, mà đôi khi nó được gọi là lý thuyết chọn lựa hợp lý. Đó là cách nói duy nhất tôi sẽ dùng từ “chuẩn tắc” (normative) trong cuốn sách này. Chẳng hạn, định lý Pythagore là một lý thuyết chuẩn tắc để tính chiều dài một cạnh của tam giác vuông khi biết hai cạnh kia. Nếu bạn dùng bất kỳ công thức nào khác bạn sẽ tính sai. Dưới đây là một bài kiểm tra để thử xem bạn có trực giác tốt của một tín đồ theo trường phái Pythagore hay không. Xét hai đoạn đường ray xe lửa, mỗi đoạn dài một dặm Anh (1,609 km), hai đường ray đối đầu vào nhau (xem Hình 1). Các đoạn đường ray được bắt chặt xuống nền đường tại điểm cuối bằng bù-loong, nhưng chạm nhau tại điểm giữa. Giả sử lúc này nhiệt độ tăng lên khiến cho đường ray dãn nở, mỗi đoạn dãn thêm một inch. Do hai đường ray bị gắn chặt vào nền đường ở điểm cuối, nên chúng chỉ có thể dãn nở bằng cách nâng điểm ở giữa lên tạo thành hình dáng giống như một chiếc cầu kéo. Hơn nữa, các đoạn đường ray này rất chắc cứng nên chúng giữ nguyên hình dáng đường thẳng khi được nâng lên. (Ở đây chỉ có ý định làm cho bài toán đơn giản hơn, do đó không nên phàn nàn về những giả thiết không thực tế). Dưới đây là bài toán dành cho bạn: Xét chỉ một bên đường ray. Chúng ta sẽ có một hình tam giác vuông với cạnh đáy dài một dặm, cạnh huyền dài một dặm cộng thêm một inch. Thế còn đường cao là bao nhiêu? Nói cách khác, đường ray nâng khỏi mặt đất một đoạn cao bao nhiêu? HÌNH 1 Đoán chiều cao x 1 dặm cộng thêm 1 inch 1 dặm cộng thêm 1 inch x 1 dặm 1 dặm Lưu ý: hình vẽ không theo đúng tỷ lệ 46 RICHARD H. THALER Nếu bạn còn nhớ kiến thức hình học thời trung học, sẵn có máy tính tay có thể khai căn bậc hai, cũng như biết rằng một dặm bằng 5.280 feet (ft.) và một foot (ft) bằng 12 inch, bạn có thể giải ngay bài toán dễ dàng. Nhưng giả dụ rằng bạn chỉ được dùng trực giác thôi, thế thì bạn sẽ đoán thế nào? Hầu hết mọi người hình dung rằng do các đường ray dãn nở thêm một inch, nên chúng sẽ nâng lên một đoạn xấp xỉ bằng đó, hoặc có thể lên đến hai hoặc ba inch. Câu trả lời đúng là 29,7 ft! Còn bạn đã làm thế nào? Bây giờ giả sử chúng ta muốn phát triển một lý thuyết về cách mà mọi người sẽ trả lời câu hỏi này. Nếu ta là những nhà lý thuyết chọn lựa hợp lý, ta sẽ giả định rằng mọi người đều đưa ra câu trả lời chính xác, nên ta sẽ dùng định lý Pythagore cho cả hai mô hình chuẩn tắc lẫn mô tả và dự đoán rằng mọi người sẽ đưa ra kết quả xấp xỉ 30 ft. Đối với bài toán này, dự đoán như thế là sai bét. Câu trả lời của mọi người tính bình quân chỉ là khoảng 2 inch. Điều này dẫn đến tâm điểm của vấn đề giữa kinh tế học truyền thống và sự đột phá khái niệm mà lý thuyết triển vọng đã đưa ra. Lý thuyết kinh tế học vào thời đó, cũng như đối với hầu hết kinh tế gia của thời nay, đều sử dụng một lý thuyết để phục vụ cho cả hai mục đích chuẩn tắc và mô tả. Thử xét lý thuyết kinh tế của một doanh nghiệp. Lý thuyết này, một trường hợp ứng dụng đơn giản các mô hình dựa vào tối ưu hóa, mặc nhiên cho rằng các công ty sẽ hành động để tối đa hóa lợi nhuận (hay giá trị của doanh nghiệp), và những diễn giải chi tiết về lý thuyết đơn thuần chỉ nhằm giải thích cách thực hiện mục đích đó như thế nào. Chẳng hạn, một doanh nghiệp cần phải định ra mức giá sao cho chi phí biên tế và thu nhập biên tế bằng nhau. Khi các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ “biên tế” (marginal), nó chỉ có nghĩa là tăng thêm, do đó quy tắc này hàm ý rằng doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất cho đến điểm mà tại đó chi phí của sản phẩm cuối cùng được làm ra và thu nhập tăng thêm hoàn toàn bằng nhau. Tương tự như vậy, Lý thuyết giá trị 47 lý thuyết về sự hình thành vốn nhân lực (human capital formation), do nhà kinh tế Gary Becker đi tiên phong, cho rằng việc người ta lựa chọn học ngành gì, bỏ bao nhiêu thời gian và tiền của để đầu tư nhằm có được những kỹ năng chuyên môn của ngành đó, là nhờ dự đoán chính xác họ sẽ kiếm được bao nhiêu tiền (và được hưởng bao nhiêu niềm vui thú nữa) khi hành nghề sau này. Có rất ít học sinh các trường phổ thông và sinh viên đại học hay cao đẳng có sự lựa chọn phản ánh chính xác các yếu tố này. Thông thường thì nhiều người chọn học ngành nghề nào họ ưa thích nhất mà không tính toán thật thấu đáo sau này cuộc sống của họ sẽ ra sao khi chọn học ngành đó. Lý thuyết triển vọng theo đuổi mục tiêu thoát ra khỏi quan niệm truyền thống cho rằng một lý thuyết đơn lẻ về hành vi con người có thể thuộc về cả hai thể loại vừa chuẩn tắc vừa mô tả. Ví dụ cụ thể là công trình nghiên cứu về lý thuyết ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Những ý tưởng đầu tiên đằng sau lý thuyết này có xuất xứ từ Daniel Bernoulli vào năm 1738. Bernoulli từng là một sinh viên nghiên cứu tổng hợp, kể cả toán và vật lý, và công trình của ông trong lĩnh vực này là giải một bài toán đố có tên là nghịch lý Saint Petersburg, do người anh họ Nicolas nêu ra1. (Cả hai xuất thân từ gia đình có truyền thống thần đồng). Điều quan trọng là Bernoulli là người đã sáng tạo ra ý tưởng về nỗi e ngại rủi ro (risk aversion). Để có được ý tưởng đó ông thừa nhận 1 Bài toán đố như sau: Giả sử bạn đươc mời chơi cá cược, theo đó bạn sẽ tung một đồng tiền liên tục cho đến khi mặt ngửa xuất hiện. Nếu mặt ngửa xuất hiện ở lần tung thứ nhất bạn sẽ được thưởng 2 USD, ở lần thứ hai 4 USD, và cứ thế tiếp tục, với tiền thưởng tăng gấp đôi ở lần tiếp theo. Như vậy phần thưởng kỳ vọng của bạn sẽ là ½ x 2 USD +1/4 x 4 USD + 1/8 x 8 USD... giá trị của chuỗi số này là vô hạn, vậy tại sao người ta không đặt cược lớn để chơi trò cá cược này. Câu trả lời của Bernoulli giả định rằng giá trị người ta nhận được từ tài sản tăng lên sẽ giảm đi, từ đó dẫn đến khái niệm nỗi sợ mạo hiểm. Lời giải đơn giản là hãy lưu ý rằng tài sản trên đời chỉ có giới hạn, do đó bạn sẽ lo ngại không biết bên kia có trả hết tiền thưởng khi bạn thắng hay không. Chỉ cần có 40 lần xuất hiện mặt ngửa liên tục thì số tiền thưởng của bạn đã vượt con số một ngàn tỷ USD. Nếu bạn nghĩ rằng số tiền đó sẽ làm sụp đổ ngân hàng, thì nên nghĩ lại vì số tiền người ta đặt cược là không quá 40 USD. 48 RICHARD H. THALER rằng niềm hạnh phúc của con người – hay tính hữu dụng (utility) như các nhà kinh tế hay thích gọi như vậy - tăng lên khi họ giàu có hơn, nhưng với tỷ lệ giảm dần. Nguyên tắc này được gọi là tính nhạy cảm giảm dần (diminishing sensitivity). Khi tài sản lớn lên, ảnh hưởng của việc gia tăng một khối lượng tài sản nhất định, chẳng hạn 100.000 USD sẽ giảm đi. Đối với một anh nông dân, thì 100.000 USD của trời cho sẽ giúp anh ta đổi đời. Còn đối với Bill Gates, số tiền đó không làm ông phải bận tâm. Biểu đồ ở Hình 2 minh họa điều vừa nói. HÌNH 2: Tính hữu dụng biên tế giảm dần của tài sản ...nhưng đối với người giàu có thì sự Tính hữu dụng tăng lên Giá trị tài sản thay đổi 100.000 USD đối với người ít tiền có thể khiến họ đổi đời... thay đổi đó chỉ là chuyện nhỏ. Tài sản tăng lên Đường cong của hàm hữu dụng biểu thị nỗi e ngại rủi ro vì tính hữu dụng của một ngàn đôla đầu tiên lớn hơn tính hữu dụng của một ngàn đôla lần hai, và cứ thế tiếp tục. Điều này có hàm ý rằng nếu tài Lý thuyết giá trị 49 sản của bạn có trị giá 100.000 USD và tôi mời chào bạn một chọn lựa chắc chắn được tăng thêm 1000 USD hoặc chọn lựa khác sẽ được tăng thêm 2000 USD nhưng chỉ với 50% khả năng thành công, thì bạn sẽ chọn cái chắc ăn nhất bởi vì bạn đánh giá số tiền 1000 USD giành được ở lần thứ hai thấp hơn 1000 USD ở lần đầu tiên, do đó bạn không muốn mạo hiểm đánh mất 1000 USD đầu tiên để có được 2000 USD. Tác phẩm hoàn chỉnh trình bày lý thuyết chính thống về cách thức ra quyết định trong các tình huống rủi ro - có tên là Lý thuyết độ thỏa dụng kì vọng (expected utility theory) đã được nhà toán học John von Neuman và kinh tế gia Oskar Morgenstern công bố vào năm 1944. John von Neuman, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, là người cùng thời với Albert Einstein tại Viện Nghiên cứu cao cấp của Đại học Princeton, và trong Thế chiến II ông đã quyết định dấn thân vào các vấn đề thực tiễn. Kết quả là sự ra đời một tác phẩm để đời dày 600 trang, Lý thuyết trò chơi và Hành vi kinh tế (The Theory of Games and Economic Behavior), trong đó phần nói về sự phát triển của lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng chỉ là nội dung phụ. Cách mà von Neumann và Morgenstern xây dựng nên lý thuyết là đầu tiên họ viết ra một hệ các tiên đề về chọn lựa hợp lý. Thế rồi hai ông rút ra cách thức hành xử của những người muốn tuân theo các tiên đề này. Các tiên đề này hầu hết là các ý niệm không ai tranh cãi như là quy tắc bắc cầu (transivity), một thuật ngữ chuyên môn nói rằng nếu bạn thích A hơn B và B hơn C thì suy ra bạn phải thích A hơn C. Nổi bật nhất là von Neumann và Morgenstern đã chứng minh rằng nếu bạn muốn đáp ứng các tiên đề này (và đúng như vậy), thì bạn sẽ phải ra quyết định theo lý thuyết của hai ông ấy. Lập luận của hai ông hoàn toàn thuyết phục. Nếu tôi cần ra một quyết định quan trọng - bất kể là đảo nợ cho khoản thế chấp tài sản của tôi hay đầu tư vào một dự án kinh doanh mới – tôi cũng sẽ phải nhắm đến việc ra quyết định phù hợp với lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng, cũng như tôi dùng định 50 RICHARD H. THALER lý Pythagore để tính chiều cao của tam giác vuông tạo bởi các đường ray như trong thí dụ đã nêu. Như vậy, độ thỏa dụng kỳ vọng là phương pháp đúng để ra quyết định. Bằng lý thuyết triển vọng, hai ông Kahneman và Tversky bắt đầu đưa ra một lựa chọn khác cho lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng mà không có dụng ý lấy nó làm cẩm nang chỉ dẫn cách lựa chọn hợp lý; thay vào đó, nó giúp đưa ra dự đoán đúng về cách con người thực hiện lựa chọn thực tế của mình. Đó là một lý thuyết về hành vi của con người thực. Mặc dù đây có vẻ là bước đi có tính logic, nó vẫn không được các nhà kinh tế thực sự hưởng hứng. Simon là người đã đặt ra thuật ngữ “tính duy lý giới hạn” (bounded rationality), nhưng ông đã không làm được gì nhiều để cụ thể hóa sự khác nhau giữa những người có tính duy lý bị giới hạn với những người hợp lý hoàn toàn. Đã có một vài tiền lệ khác, nhưng họ cũng không đi đến đâu cả. Chẳng hạn, William Baumol, nhà kinh tế học lỗi lạc của Đại học Princeton (nhưng nhìn chung lại là người khá giáo điều) đã đề xuất một lý thuyết khác thay cho lý thuyết truyền thống (chuẩn tắc) của doanh nghiệp (lấy tối đa hóa lợi nhuận làm mục tiêu). Ông đã mặc nhiên thừa nhận rằng các doanh nghiệp tối đa hóa quy mô của nó, được đo lường chẳng hạn bằng doanh số tiêu thụ, chịu ràng buộc phải đạt được lợi nhuận tối thiểu. Tôi nghĩ rằng tối đa hóa doanh số có thể là một mô hình mô tả tốt của nhiều doanh nghiệp. Quả thực, CEO nào khôn ngoan mới làm theo chiến lược này, bởi vì mức lương khủng trả cho CEO có vẻ như phụ thuộc vào quy mô của công ty chẳng khác gì phụ thuộc vào lợi nhuận do công ty đó làm ra, nhưng nếu là như vậy sẽ vi phạm nguyên lý cho rằng các công ty tối đa hóa giá trị của nó. Điều đầu tiên tôi rút ra sau khi đọc lướt qua lý thuyết triển vọng là một tuyên ngôn sứ mệnh: xây dựng các mô hình kinh tế mô tả theo đó khắc họa một cách chính xác hành vi của con người. Lý thuyết giá trị 51 Biểu đồ gây choáng Tôi cũng rất ấn tượng với sơ đồ minh họa “hàm số giá trị”. Đây cũng là một thay đổi lớn về nhận thức trong tư duy kinh tế và là động lực thực sự cho lý thuyết mới nói trên. Kể từ thời Bernoulli, các mô hình kinh tế dựa vào một giả định đơn giản rằng con người có “tính hữu dụng biên giảm dần của tài sản” (diminishing marginal utility of wealth), như được minh họa trên Hình 2. Mô hình tính hữu dụng của tài sản này phản ánh đúng tâm lý học cơ bản về tài sản. Nhưng để xây dựng một mô hình mô tả tốt hơn, Kahneman và Tversky đã nhận ra rằng ta cần phải chuyển đổi trọng tâm chú ý từ mức độ của tài sản sang sự thay đổi giá trị của tài sản. Điều này có vẻ giống như sửa chữa vặt vãnh, nhưng thực ra việc chuyển đổi trọng tâm từ mức độ lớn nhỏ của tài sản sang thay đổi giá trị (tăng lên hay giảm xuống) của tài sản là một bước tiến rất căn bản. Dưới đây là biểu đồ mô tả hàm số giá trị của họ, xem Hình 3. Kahneman và Tversky tập trung chú ý vào những thay đổi bởi vì con người chiêm nghiệm cuộc sống thông qua sự thay đổi. Giả dụ bạn đang ở trong một tòa nhà văn phòng được trang bị hệ thống điều hòa không khí hoạt động tốt khiến cho bạn cứ tưởng như mình đang tận hưởng nhiệt độ trong phòng vậy. Bây giờ bạn rời khỏi văn phòng của mình để đến tham dự một cuộc họp tại hội trường. Khi bạn bước chân vào đấy, bạn sẽ phản ứng ra sao với nhiệt độ tại đó? Nếu không khí cũng tương tự như trong phòng làm việc hay ngoài hành lang, bạn sẽ chẳng để tâm làm gì. Bạn chỉ chú ý khi nhiệt độ trong hội trường nóng hơn hay lạnh hơn một cách bất thường so với phần còn lại trong tòa nhà. Khi đã thích ứng với môi trường theo kiểu ‘‘nhập gia tùy tục’’ rồi, chúng ta thường có xu hướng chẳng để ý gì nữa. 52 RICHARD H. THALER HÌNH 3 Hàm số giá trị Tính hữu dụng tăng Con người thích có lãi Lỗ Lỗ 100 USD Lãi Lãi 100 USD ...nhưng họ rất ghét bị thua lỗ Tính hữu dụng giảm Các vấn đề về tài chính cũng tương tự như vậy. Hãy thử xem trường hợp của Jane, người kiếm được mỗi năm 80.000 USD. Cô nhận được 5.000 USD tiền thưởng cuối năm, một khoản tiền mà cô không ngờ tới. Vậy Jane phản ứng trước sự kiện này thế nào? Liệu cô có tính toán rằng tài sản cả đời mình đã tăng thêm một khoản hay không, một điều rất khó nhận thấy? Không đâu, cùng lắm cô ta chỉ nghĩ là, “Ôi chao ơi, 5.000 USD tiền thưởng!”. Con người nghĩ về cuộc sống thông qua sự thay đổi của sự vật, chứ không phải độ lớn của nó. Biểu đồ trong bài nghiên cứu đã cuốn hút hoàn toàn trí tưởng tượng của tôi khiến tôi phải vẽ ra một phiên bản khác trên tấm bảng ngay cạnh Bản danh sách. Bây giờ thử nhìn lại nó. Chúng ta sẽ thấy có một lượng lớn trí tuệ về bản chất con người được thể hiện bên trong đường cong hình chữ S đó. Phần trên của đường cong, là miền lãi, Lý thuyết giá trị 53 có hình dạng giống như đồ thị hàm số hữu dụng của tài sản thông thường, biểu thị tính nhạy cảm giảm dần. Nhưng lưu ý rằng hàm số biểu thị sự thua lỗ cũng thể hiện như vậy. Cảm nhận về sự chênh lệch giữa thua lỗ 10 USD với 20 USD lớn hơn nhiều so với cảm nhận về chênh lệch thua lỗ giữa 1.300 USD với 1.310 USD. Điều này khác hẳn với mô hình tiêu chuẩn, vì xuất phát từ mức độ tài sản đã cho ở Hình 1, thua lỗ được thể hiện dọc xuống phía dưới đường hữu dụng của tài sản, cứ thế thì mỗi mức thua lỗ tăng thêm sẽ làm cho bạn ‘‘xót của’’ nhiều hơn. (Nếu bạn càng ít quan tâm về sự gia tăng của tài sản, thì suy ra bạn càng bận tâm nhiều hơn về sự sụt giảm của chúng). Sự thật về việc chúng ta trải nghiệm độ nhạy cảm giảm dần đối với những thay đổi khỏi nguyên trạng giúp ta nhận thấy một bản chất khác của con người - một trong những khám phá sớm nhất trong tâm lý học - đó là Định luật Weber-Fechner. Định luật Weber-Fechner nói rằng ngưỡng khác biệt đủ nhận biết (just-noticeable difference) của mọi biến số tỷ lệ thuận với độ lớn của biến số đó. Nếu tôi tăng cân thêm một ounce (tương đương 28,35 gam), tôi chẳng nhận ra sự khác biệt này, nhưng nếu tôi mua một mớ thảo dược tươi, thì sự khác biệt giữa 2 ounce và 3 ounce là rất rõ ràng. Các nhà tâm lý học gọi tắt khái niệm ngưỡng khác biệt đủ nhận biết là JND (ghép ba chữ cái đầu của just-noticeable difference - ND). Nếu bạn muốn gây ấn tượng với một nhà tâm lý học hàn lâm, thì hãy chêm thuật ngữ đó vào câu chuyện phiếm khi bạn tham dự tiệc rượu cocktail. (“Tớ đã trang bị một hệ thống âm thanh đắt tiền cho chiếc xe hơi mới tậu vì sự chênh lệch giá này đâu phải là JND.”) Bạn có thể kiểm tra mức độ hiểu biết của mình về khái niệm nằm đằng sau Định luật Weber-Fechner qua ví dụ sau đây lấy từ chương trình phát thanh chiếm nhiều thời lượng trên Đài phát thanh quốc gia (National Public Radio) có tên là “Bàn chuyện xe hơi”. Tham gia chương trình gồm hai anh em, Tom và Ray Magliozzi - cả hai đều tốt nghiệp MIT - hai người sẽ nhận các cú điện thoại của thính giả gọi 54 RICHARD H. THALER đến để hỏi về những chiếc xe của họ. Đó là những câu chuyện hi hữu, chủ yếu nhằm gây ra những trận cười nghiêng ngả, và hai anh em nhà Magliozzi sẽ cười ngặt nghẽo không ngớt suốt buổi nói chuyện1. Trong một chương trình, một thính giả hỏi: “Cả hai chiếc đèn pha xe của tôi bỗng nhiên cùng tắt. Tôi lái xe đến trạm sửa chữa nhưng thợ bảo rằng tôi chỉ cần thay hai bóng đèn mới là xong. Làm sao có thể như thế được? Có phải là sự trùng hợp hiếm thấy không khi cả hai bóng đèn bị cháy cùng một lúc?” Tom trả lời ngay trong chớp mắt. “À, đó là Định luật Weber-Fechner rất nổi tiếng!”. Hóa ra Tom cũng có bằng tiến sĩ Tâm lý học và Tiếp thị dưới sự hướng dẫn của Max Bazerman, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu về phán đoán và ra quyết định. Vậy là câu hỏi của thính giả có liên quan đến Định luật Weber-Fechner, nhưng kiến thức này giúp Tom giải quyết vấn đề bằng cách nào? Câu trả lời là hai chiếc đèn pha quả thực đã không bị cháy bóng cùng một lúc. Không có gì khó hiểu khi bạn lái chiếc xe có một đèn pha bị cháy bóng mà bạn không nhận ra, nhất là khi bạn sống trong một thành phố có hệ thống chiếu sáng công cộng tốt. Từ lái xe với hai bóng xuống chỉ còn một bóng thì chẳng dễ nhận ra ngay đâu. Nhưng nếu đang chạy xe với một bóng đèn và rồi nó cháy luôn thì bạn sẽ biết liền. Hiện tượng này cũng giải thích cho hành vi trong một ví dụ nêu trong Bản danh sách: sẵn sàng lái xe 10 phút để tiết kiệm được 10 USD khi đi mua chiếc đài báo thức giá 45 USD hơn là đi mua chiếc TV giá 495 USD (cũng chỉ tiết kiệm được chừng đó - ND). Nếu mua trong trường hợp sau, khoản tiết kiệm được sẽ không phải là JND. Sự thật về việc con người có tính nhạy cảm giảm dần đối với cả các khoản lãi lẫn các khoản lỗ còn có một hàm ý khác. Con người sợ mạo hiểm để có lợi nhuận, nhưng dám mạo hiểm để tránh thua lỗ, như 1 Tom Magliozzi mất vào năm 2014 nhưng chương trình vẫn tiếp tục lên sóng, phát lại chương trình cũ, với những trận cười sảng khoái của hai anh em. Lý thuyết giá trị 55 được minh họa bởi thực nghiệm dưới đây đã được tiến hành cho hai nhóm đối tượng khác nhau. (Lưu ý rằng câu đầu tiên của hai câu hỏi là khác nhau nhằm đồng nhất các vấn đề lại nếu các đối tượng ra quyết định dựa vào mức độ của tài sản, như giả định của lý thuyết truyền thống.) Tỷ lệ phần trăm các đối tượng chọn lựa từng phương án được ghi trong dấu ngoặc. Câu 1. Giả sử bạn sẽ giàu thêm 300 USD so với hiện nay. Bạn được mời chọn một trong hai phương án sau: A. Chắc chắn có lãi 100 USD, hoặc [72%] B. 50% xác suất sinh lãi 200 USD và 50% xác suất thua lỗ 0 USD. [ 28%] Câu 2. Giả sử bạn sẽ giàu thêm 500 USD so với hiện nay. Bạn được mời chọn một trong hai phương án sau: A. Chắc chắn bị lỗ 100 USD, hoặc [36%] B. 50% xác suất bị lỗ 200 USD và 50% xác suất bị lỗ 0 USD. [64%] Nguyên nhân vì sao con người dám mạo hiểm để tránh bị lỗ có cùng logic với nguyên nhân vì sao con người sợ mạo hiểm để có lãi. Trường hợp ở câu 2, nỗi đau do mất một trăm đô la thứ hai ít hơn nỗi đau mất 100 USD thứ nhất, do đó đối tượng sẵn sàng mạo hiểm bị lỗ thêm để có cơ hội không bị lỗ đồng nào. Họ đặc biệt ham muốn loại bỏ tất cả các khoản lỗ vì thuộc tính thứ ba được ghi nhận trong Hình 3: Nỗi sợ thua lỗ (loss aversion). Xem xét hàm số giá trị trên hình vẽ tại điểm gốc, nơi cả hai đường cong bắt đầu. Chú ý rằng độ dốc của đường cong lỗ lớn hơn độ dốc đường cong lãi, nghĩa là hàm số lỗ giảm xuống nhanh hơn hàm số lãi 56 RICHARD H. THALER tăng lên. Nói nôm na thì cảm giác của đau con xót do thua lỗ gây ra lớn gấp đôi niềm vui do có lãi đem lại. Thuộc tính này của hàm số giá trị khiến tôi rất sửng sốt. Trong biểu đồ đó đã có sự hiện diện của hiệu ứng quyền sở hữu. Nếu tôi cầm đi chai rượu vang của giáo sư Rosett, ông ta sẽ cảm thấy cái mất lớn gấp đôi cái được nếu ông ta đi mua một chai rượu như thế; đó là lý do vì sao ông không bao giờ mua chai rượu có giá bằng giá thị trường giống như chai rượu đang cất trong hầm rượu ở nhà ông. Sự kiện thua lỗ gây đau đớn nhiều hơn niềm vui có được lợi nhuận tương đương được gọi là nỗi sợ thua lỗ (loss aversion). Nó đã trở thành một công cụ đơn lẻ có sức mạnh nhất trong kho tàng của nhà kinh tế học hành vi. Như vậy, chúng ta trải nghiệm cuộc sống thông qua những thay đổi, chúng ta cảm nhận tính nhạy cảm giảm dần đối với được và mất, và nỗi đau mất mát lớn hơn nhiều niềm vui có được thắng lợi tương đương. Đó là cả một trí tuệ lớn lao hàm chứa trong một hình ảnh. Dường như tôi không mảy may biết rằng tôi sẽ còn phải vật lộn với cái biểu đồ đó suốt phần còn lại trong sự nghiệp của mình. C h ư ơ n g 5 Giấc mơ California Sherwin Rosen có kế hoạch đi nghỉ hè năm 1977 tại Stanford và mời tôi cùng đi với ông về miền Tây để tiến hành nghiên cứu thêm về đề tài giá trị của cuộc sống. Một dịp vào mùa xuân năm đó, tôi được biết Kahneman và Tversky cũng có dự tính đến dạy tại Đại học Stanford cho năm học mới. Sau khi các công trình của hai ông đã tạo nguồn cảm hứng sâu đậm trong lòng, tôi không thể nào chịu nổi cái ý nghĩ mình sẽ rời khỏi thành phố này ngay trước khi họ đặt chân đến vào tháng 9 tới. Trong dịp nghỉ xuân, tôi bay đến California để thu xếp chỗ ở cho mùa hè, và đồng thời chạy vạy để được lưu lại Stanford trong học kỳ mùa thu. Tôi hy vọng nhân dịp này sẽ được làm quen với những người chưa từng gặp mặt nhưng đã trở thành thần tượng mới của mình. Tôi đã gửi cho Tversky bản thảo đầu tiên của bài luận văn của mình về hành vi, lúc đó có tựa đề là “Chọn lựa của khách hàng: lý thuyết về hành vi của các nhà kinh tế,” với hàm ý chỉ có các nhà kinh tế mới hành xử như những Econ. Ông đã có thư trả lời ngắn gọn nhưng thân tình nói rằng chúng tôi rõ ràng đang suy nghĩ cùng hướng, và chỉ có vậy. Thời chưa có email, việc gợi mở một cuộc đối thoại khi hai bên ở cách xa nhau khó hơn bây giờ rất nhiều. 58 RICHARD H. THALER Tôi mất vài ngày chạy vạy van nài nhà trường xin được làm một chân giảng viên thỉnh giảng, nhưng chẳng ăn thua gì sau hai ngày ròng. Tôi suýt từ bỏ ý định thì đúng lúc có cuộc nói chuyện với nhà kinh tế y học nổi tiếng, Victor Fuchs, giám đốc Viện nghiên cứu kinh tế Quốc gia (NBER), nơi Sherwin và tôi sẽ đến đó làm việc. Tôi kể lể với Victor về Bản danh sách, suy nghiệm và thiên lệch, lý thuyết triển vọng, và chuyện các ông thánh Israel sắp sửa đổ bộ xuống Stanford. Không biết vì Victor bị lôi cuốn hay chỉ vì thương hại tôi mà ông đã dành cho tôi một suất tài trợ cho cả học kỳ mùa thu. Sau khi tôi đến Stanford vào tháng 7, Victor và tôi thường xuyên trao đổi với nhau về những ý tưởng phá cách của tôi, và sau đó ông đã ngỏ lời trả lương tôi cho đến tận mùa hè năm sau. Gia đình Thaler chúng tôi tổ chức chuyến đi nghỉ nhàn nhã xuyên đất nước vào tháng 6 năm đó, trên đường đi ghé qua các công viên quốc gia, và cuộc hành trình đã cho tôi có nhiều thời gian thảnh thơi để đầu óc bay bổng nghĩ cách kết hợp tâm lý học và kinh tế học lại với nhau. Đề tài nào cũng là một trò chơi công bằng đáng để suy ngẫm. Chẳng hạn, giả sử ngày hôm nay tôi chạy xe được 300 dặm. Tôi nên lái với tốc độ bao nhiêu là vừa? Nếu tôi lái xe với tốc độ 70 dặm một giờ thay vì 60 dặm một giờ, chúng tôi sẽ đến đích sớm hơn 43 phút, có lẽ thời gian tiết kiệm như thế là đáng để chấp nhận bị dính thẻ phạt quá tốc độ của cảnh sát. Nhưng nếu tôi còn 30 dặm nữa là đến đích thì tôi chỉ tiết kiệm được 4, 3 phút nếu lái nhanh hơn. Điều đó xem ra không đáng. Do vậy, tôi có nên từ từ cho xe chạy chậm lại khi gần đến đích không? Việc này cũng không nên, đặc biệt khi chúng tôi sẽ phải quay lại xe và chạy tiếp vào ngày hôm sau. Vậy có nên có một chế độ tốc độ thống nhất cho toàn bộ hành trình? Ái chà, như vậy lại có thêm một tiết mục mới nữa để đưa vào Bản danh sách rồi1. 1 Trả lời: Nên lái với cùng tốc độ trong suốt hành trình. Khả năng bị thẻ phạt vượt quá tốc độ tỷ lệ thuận với thời gian bạn liên tục lái xe, trong điều kiện giữ các yếu tố khác không thay đổi. Giấc mơ California 59 Hành trình đi vòng vèo cuối cùng dẫn chúng tôi đến Eugene, tiểu bang Oregon, để thăm Baruch Fischhoff và Paul Slovic, hai nhà tâm lý học đã thổi bùng ngọn lửa đam mê ban đầu của tôi về những ý tưởng này. Trong khi gia đình đi tham quan thành phố, tôi dành thời gian tán gẫu với Baruch, Paul và cộng sự của họ, Sarah Lichtenstein. Ngoài ra còn có một nhà tâm lý học khác đang ở thăm trung tâm của họ, là người giống như Fischhoff đã cùng nghiên cứu với Kahneman và Tversky tại trường cao học Maya Bar-Hillel. Tất cả họ trong những năm tới đều tham gia vào nhóm trợ giảng không chính thức của tôi về tâm lý học. Vào cuối mùa hè, một bộ sậu đông đảo của hai nhà tâm lý học Kahneman và Tversky kéo nhau đến. Amos và vợ ông, Barbara, đến thăm khoa tâm lý của Stanford. Danny và người vợ tương lai, nhà tâm lý học xuất chúng Anne Treisman, đến thăm Trung tâm nghiên cứu cao cấp về các Khoa học Hành vi, nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống NBER. Victor Fuchs sắp xếp một bữa ăn trưa, tại đó Amos, Danny và tôi lần đầu tiên gặp nhau. Tôi không còn nhớ nhiều về sự kiện này, trừ một chi tiết là lúc đó tôi rất e dè ngại ngùng khác hẳn thường ngày. Tôi chỉ mong sao cho anh chàng khéo mồm Victor cứ tiếp tục thao thao bất tuyệt. Điều quan trọng hơn, bữa ăn trưa làm quen này đã cho tôi lý do để leo đồi đến thăm Danny. (Văn phòng của Tversky nằm trong khuôn viên nhà trường, quá xa để ghé thăm). Ông và Tversky đang hoàn thành bài nghiên cứu mà bây giờ được gọi là “Lý thuyết triển vọng”, tôi thỉnh thoảng lảng vảng đến đó khi hai ông đang làm việc. Hệ thống điện thoại cổ lỗ sĩ của Trung tâm khiến cho việc leo đồi còn dễ dàng hơn gọi điện thoại khi muốn biết Danny có mặt ở văn phòng hay không. Có lúc ghé thăm Danny tôi thấy hai ông đang cắm đầu hoàn chỉnh lần cuối bản thảo lý thuyết triển vọng. Khi đang cùng viết, với Danny gõ bàn phím, họ trao đổi và tranh cãi với nhau từng câu từng chữ một. 60 RICHARD H. THALER Họ dùng cả tiếng Hebrew lẫn tiếng Anh. Họ có thể bất thình lình chuyển đổi từ thứ tiếng này sang thứ tiếng kia một cách trôi chảy. Đôi khi họ chuyển sang nói tiếng Anh do sử dụng thuật ngữ chuyên môn, chẳng hạn như “nỗi sợ thua lỗ” (loss aversion), mà không bận tâm phải tìm ra thuật ngữ tương đương trong tiếng Hebrew. Nhưng tôi không tìm ra lý do xác đáng tại sao có lúc họ lại chuyển hướng sang nói tiếng Hebrew. Giá biết thêm chút ít tiếng Hebrew sẽ rất có ích vào lúc này. Hai người dành hàng tháng trời để hoàn chỉnh bài nghiên cứu. Hầu hết các học giả đánh giá những ý tưởng ban đầu là phần lý thú nhất của công trình, và việc tiến hành nghiên cứu thực sự cũng là điều thích thú không kém. Nhưng ít người thích bài viết đó, và họ thể hiện chuyện này ra mặt. Nể nang lắm người ta mới bảo rằng bài viết kinh viện khô khan. Tuy nhiên đối với nhiều người, bài viết khô khan là tấm phù hiệu của danh dự. Còn bài viết màu mè là tín hiệu chứng tỏ tác giả không coi trọng tác phẩm của mình và cả độc giả nữa1. “Lý thuyết triển vọng” không hề dễ đọc, nhưng rất mạch lạc nhờ các tác giả đã dày công gọt giũa và cũng nhờ mục tiêu lâu dài của Amos là “phải hiểu cho đúng”. Không lâu sau đó Danny và tôi hình thành thói quen cùng nhau đi dạo trong khu đồi gần Trung tâm để trò chuyện. Cả hai chúng tôi đều mù tịt và muốn tìm hiểu về các lĩnh vực chuyên môn của nhau, do đó các cuộc nói chuyện của chúng tôi là các cơ hội tốt để học hỏi. Một nội dung của các buổi phụ đạo lẫn nhau này là tìm hiểu suy nghĩ của những thành viên thuộc các ngành khác, và cần làm gì để thuyết phục họ chấp nhận các nghiên cứu. Sử dụng các câu hỏi giả định là một thí dụ hay. Toàn bộ nghiên cứu của Kahneman và Tversky cho đến lúc đó đều dựa vào những kịch 1 Dĩ nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ đối với sự khái quát này. Tôi cho rằng, vào thời đó George Stigler và Tom Schelling là những tác giả vĩ đại. Giấc mơ California 61 bản đơn giản, như là: “Thử tưởng tượng rằng ngoài mọi thứ mà bạn hiện đang sở hữu, bạn có thêm 400 USD. Bây giờ hãy xem xét chọn lựa giữa phương án chắc chắn bị thua lỗ 200 USD hoặc đánh cược trong đó bạn có 50% khả năng bị thua lỗ 400 USD và 50% khả năng không bị thua lỗ đồng nào.” (Hầu hết mọi người chọn đánh cược trong tình huống này). Như Kahneman thích thú giải thích trong cuốn sách của ông Thinking, Fast and Slow (Tư duy, Nhanh và Chậm), hai ông sẽ thử nghiệm ý tưởng này đối với chính mình và nếu họ tán thành câu trả lời thì họ sẽ tạm thời giả định rằng những người khác cũng sẽ trả lời giống như vậy, theo kiểu ‘‘suy bụng ta ra bụng người’’. Thế rồi họ sẽ kiểm tra lại bằng cách đi hỏi các đối tượng khác, chủ yếu là các sinh viên. Các nhà kinh tế không coi trọng lắm các câu trả lời của các câu hỏi giả định, hay các câu hỏi khảo sát đại khái như vậy. Các nhà kinh tế nói rằng họ chỉ quan tâm đến điều con người làm hơn là điều họ nói họ sẽ làm. Kahneman và Tversky hiểu rõ những phản bác đó, rõ ràng đến từ các nhà kinh tế theo chủ nghĩa hoài nghi mà họ từng gặp, nhưng họ có ít lựa chọn. Dự đoán then chốt của lý thuyết triển vọng là con người phản ứng khác biệt đối với cái mất nhiều hơn đối với cái được. Nhưng gần như không thể được phép tiến hành các thử nghiệm khiến cho các đối tượng tham gia bị thua lỗ những khoản tiền lớn. Ngay cả khi mọi người sẵn sàng tham gia thí nghiệm đi nữa, thì các hội đồng trường đại học cũng sẽ không chấp nhận việc dùng con người làm vật thí nghiệm. Trong một ấn bản của lý thuyết triển vọng, Amos và Danny đã nêu ra lập luận để bảo vệ cho các phương pháp của mình: “Khi chưa có cách nào hay hơn, thì phương pháp chọn lựa giả định nổi lên là phương pháp đơn giản nhất, thông qua việc xem xét một số lượng lớn các câu hỏi lý thuyết. Phương pháp này được sử dụng dựa trên giả thuyết là con người thường biết được họ sẽ hành xử như thế nào trong các tình huống chọn lựa thực tế, và dựa trên giả thuyết mở rộng rằng các đối tượng không có lý do đặc biệt nào để che giấu ưu tiên thực sự 62 RICHARD H. THALER của họ cả.” Về thực chất, điều hai người muốn nói ở đây là nếu các đối tượng phán đoán chính xác các chọn lựa thì họ sẽ hành xử đúng như vậy khi thực tế xảy ra, và nếu những chọn lựa giả định đó không nhất quán với lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng, thì ít ra điều đó sẽ khiến người ta nghi ngờ liệu rằng lý thuyết này đã diễn giải đúng về hành vi hay chưa. Lập luận này rõ ràng đã làm hài lòng ban biên tập của tạp chí nhưng các nhà kinh tế vẫn băn khoăn nhiều năm sau đó. Lý thuyết triển vọng dần dần được chấp nhận vì nó chứng tỏ lợi ích khi giải thích được các hành vi diễn ra trong đủ loại môi trường có nguy cơ rủi ro lớn (high stakes), là những nơi mà chúng ta có thể quan sát thấy những chọn lựa thực sự, từ các nhà đầu tư cá nhân cho đến các thí sinh tham gia các game show. Nhưng tôi không nghĩ rằng nhà kinh tế nào cũng có thể khám phá ra lý thuyết này, cho dù thánh thần có ban cho họ tri thức tâm lý học uyên bác của của Kahneman và Tversky đi nữa. Có lẽ vì không sẵn sàng dựa vào các câu hỏi giả định nên họ đã không thấy được những sắc thái hành vi mà Kahneman và Tversky có thể nhận ra. Tôi thấy khá là phiêu lưu nếu ta cứ hỏi đại mọi người và nghe từng ly từng tí lời người khác. Trước đó, các thí dụ trong Bảng danh sách đơn thuần chỉ là các thử nghiệm tư duy. Điều tôi thấy rõ là nếu bạn đọc nào đối diện với một trong các thí dụ giả định của tôi, họ sẽ kiểm tra lại trực giác của mình và đồng ý rằng hành vi đó có thật. (Điều này, dĩ nhiên là ấu trĩ). Hơn nữa, dù phương pháp khảo sát không được ‘‘chọn mặt gửi vàng’, thì chắc chắn nó vẫn tốt hơn các quan sát bằng trực giác của chính tôi. Vài năm sau tôi học được cách xử lý vấn đề này từ chính các thầy giáo của mình. Họ lấy thí dụ về việc mua đài báo thức và TV trong Bản danh sách và chuyển nó thành mua áo khoác và máy tính xách tay, rồi hỏi mọi người sẽ làm thế nào. Dưới đây là kết quả, với hai dạng khác nhau được ghi bằng con số trong dấu ngoặc đơn hoặc ngoặc vuông: Giấc mơ California 63 Giả sử bạn chuẩn bị mua một chiếc áo khoác với giá (125 USD) [15 USD] và một máy tính tay với giá (15 USD) [125 USD]. Người bán máy tính tay mách bạn rằng chiếc máy bạn muốn mua hiện đang bán hạ giá còn (10 USD) [120 USD] tại một chi nhánh khác của cửa hàng, nằm cách cửa hàng 20 phút lái xe. Bạn có lái xe đến cửa hàng kia không? Đúng như vậy, các đối tượng đời thực nói rằng họ sẵn sàng lái xe đi mua món hàng rẻ hơn để tiết kiệm được 10 USD như tôi đã đoán, và bây giờ thì đã có dữ liệu thực tế để làm căn cứ. Ngay sau đó tôi cũng bắt đầu sử dụng phương pháp này, mặc dù rất dè dặt. Nhưng Danny và tôi vẫn dựa chủ yếu vào các câu trả lời cho các câu hỏi giả định suốt 7 năm sau đó trong một dự án nghiên cứu về nhận thức đối với tính công bằng, sẽ được bàn đến trong chương 14. Khi nào không cùng Danny đi lang thang trên đồi, tôi sẽ đến ngồi xổm tại NBER, không làm gì cả mà chỉ ngồi suy nghĩ. Victor Fuchs đóng vai người mẹ Do Thái luôn nghĩ mình có lỗi với con, thỉnh thoảng hỏi tôi về sự tiến triển của công việc. Tôi đang gặp bế tắc. Tôi nghĩ mình đã có ý tưởng lớn, nhưng việc nghiên cứu tiến triển rất chậm. Tôi cũng không biết cần đi những bước nhỏ nào để phát triển ý tưởng lớn ấy. Những ý tưởng lớn thì hay quá rồi, nhưng tôi cần xuất bản các bài viết để được ở lại trường. Ngẫm lại, tôi có một cảm giác mà tác giả chuyên viết sách khoa học Steven Johnson gọi là “linh cảm chậm” (slow hunch). Linh cảm chậm không phải là một dạng tri thức kiểu “Ừ, đúng rồi!” (aha) khi mọi thứ đã trở nên rõ ràng. Đúng hơn, nó là một ấn tượng mơ hồ rằng có điều gì đó lý thú đang diễn ra, và là một trực giác có điều gì đó quan trọng đang lẩn khuất ở đâu đó không xa. Vấn đề của linh cảm chậm là bạn không có cách gì biết được liệu nó có dẫn đến ngõ cụt hay không. Tôi cảm thấy mình đã đặt chân đến bờ của một thế giới mới mà trong tay không có bản đồ, không biết đi tìm ở đâu, cũng không biết có tìm được cái gì đáng giá không. 64 RICHARD H. THALER Kahneman và Tversky đã làm thí nghiệm, nên đương nhiên là tôi cũng cần tiến hành các thí nghiệm. Tôi tìm đến hai sáng lập viên của một lĩnh vưc lúc đó còn rất non trẻ có tên là kinh tế học thực nghiệm, Charlie Plott ở Caltech (Viện Công nghệ California) và Vernon Smith, lúc đó làm việc tại Đại học Arizona. Các nhà kinh tế đã có truyền thống sử dụng dữ liệu lịch sử để kiểm tra các giả thuyết. Smith và Plott là những nhà thực hành, và cũng là kẻ truyền đạo cho việc cần phải kiểm tra các ý tưởng kinh tế trong phòng thí nghiệm. Do vậy, lần đầu tiên tôi có chuyến đi xuống Tucson để gặp Smith. Chương trình nghiên cứu của Smith, ít ra vào lúc đó, khác với chương trình mà tôi đang mường tượng ra cho mình. Nhiều năm sau này khi Smith cùng chia sẻ giải Nobel kinh tế với Danny, tôi nói với một phóng viên rằng sự khác biệt giữa các chương trình nghiên cứu của hai người đã mang lại cho họ giải thưởng này là ở chỗ Smith tìm cách chứng minh lý thuyết kinh tế đã vận hành tốt như thế nào còn Kahneman thì làm ngược lại1. Thời gian tôi đến thăm Smith, ông đang cổ xúy cho việc áp dụng điều mà ông gọi là phương pháp luận giá trị dẫn dụ (induced value methodology). Thay vì mua bán hàng hóa thật hay cá cược bằng tiền thật, người ta tạo ra các thị trường cho các đồng token, ở đó mỗi chủ thể được cấp một giá trị riêng cho từng token. Token của tôi có thể trị giá 8 USD trong khi token của bạn có thể chỉ là 4 USD, đây là những khoản tiền mà chúng ta sẽ nhận được từ người tiến hành thí nghiệm nếu khi kết thúc nghiên cứu, chúng ta còn giữ được một token. Sử dụng phương pháp này, Smith có thể tiến hành kiểm tra các nguyên lý kinh tế học như là phân tích cung cầu chẳng hạn. Nhưng tôi có một 1 Tôi đang nói về công trình nghiên cứu ban đầu của Smith, từng được ủy ban Nobel lấy làm dẫn chứng. Sau này ông đào sâu vào các lĩnh vực căn bản hơn, bao gồm hàng loạt thí nghiệm trong đó đưa ra kết quả đáng tin cậy về bong bóng giá tài sản (Smith, Suchanek và Gerry, 1998). Giấc mơ California 65 vài quan ngại đối với phương pháp luận này. Khi bạn đi đến cửa hàng và quyết định có nên mua một chiếc áo khoác giá 49 USD hay không, thì không ai nói cho bạn rằng bạn sẽ sẵn sàng trả giá bao nhiêu. Tự bản thân bạn sẽ phải quyết định, và giá trị đó có thể phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như là giá bán lẻ của sản phẩm là bao nhiêu, tháng này bạn đã chi bao nhiêu tiền để mua sắm quần áo rồi, và liệu bạn có vừa được hoàn thuế hay không. Rút cuộc nhiều năm sau đó tôi cũng đi loanh quanh tiến hành kiểm tra lại mối quan ngại của mình về phương pháp này bằng cách thay các token bằng những cái li cà phê, như chúng ta sẽ bàn đến ở chương 16. Thế rồi tôi kết hợp chuyến đi nghỉ của gia đình đến Disneyland với cuộc hành hương đến Caltech để gặp Charlie Plott, cũng là một người đi tiên phong trong lĩnh vực này (và lẽ ra ông đã có thể dễ dàng được chia sẻ giải Nobel cùng với Smith rồi). Có lẽ do điều kiện ở Caltech, Plott thích sử dụng phương pháp loại suy bằng mô hình đường hầm hút gió để mô tả những gì ông đang làm. Thay vì đi chứng minh các nguyên tắc cơ bản của kinh tế học trong phòng thí nghiệm, ông thiên về kiểm tra điều gì xảy ra khi các quy tắc của thị trường bị thay đổi. Charlie cũng rất nhiệt tình và dễ gần. Dù Smith và Plott tốt bụng và gây ấn tượng tốt như vậy, tôi vẫn chưa sẵn sàng tự thừa nhận mình là nhà kinh tế học thực nghiệm chuyên sâu, hay chỉ là một kinh tế gia thực nghiệm cơ bản. Tôi muốn nghiên cứu “hành vi” và luôn luôn cởi mở về các kỹ thuật tôi sẽ dùng. Tôi sẽ lập kế hoạch tiến hành thí nghiệm khi phương pháp đó tỏ ra là cách tốt nhất để quan sát hành vi, hoặc đôi khi chỉ cần đặt câu hỏi cho mọi người, nhưng tôi cũng muốn nghiên cứu hành vi của con người trong môi trường sống tự nhiên của họ... nếu tôi có thể tìm ra cách để thực hiện điều đó. 66 RICHARD H. THALER ————— Năm ở Stanford, có những lúc tôi đã quyết định sẽ “toàn tâm toàn ý” cho cuộc phiêu lưu mới này. Đại học Rochester không phải là môi trường lý tưởng bởi đây là nơi quy tụ các khuynh hướng học thuật của đội ngũ giáo sư lớn tuổi gắn bó với phương pháp luận kinh tế học truyền thống, vậy nên tôi đi tìm bến đậu khác1. Khi bạn đi phỏng vấn để xin việc làm trong giới học thuật, bạn sẽ phải trình bày một bài tham luận trước một hội đồng giáo sư, và bài trình bày đó, cộng với các bài báo chuyên ngành mà bạn đã viết, sẽ quyết định bạn có được tiếp nhận hay không. Bài luận “Giá trị của một đời người” tôi viết chung với Rosen khi đó đã khá nổi tiếng, và để chắc ăn tôi đã bổ sung thêm vài nghiên cứu vào bài luận đó, nhưng tôi lại muốn làm việc trong môi trường khoan dung với những tư tưởng có phần ngoại đạo, do đó bài luận của tôi lại nói về những vấn đề của kinh tế học như sự tự kiểm soát, hạt điều và các thứ đại loại như thế. Nơi nào mà sau khi nghe bài luận đó vẫn tuyển dụng tôi thì sẽ có sự rộng lượng nhất định đối với những gì xảy ra sau đó. May thay, hai trường đại học Cornell và Duke đã mời tôi, và tôi chọn Cornell. Nơi đến tiếp theo của tôi nằm cách Rochester 90 dặm theo đường bộ. 1 Những người trong giới học thuật có thể thắc mắc tại sao tôi được giao việc tại trường kinh doanh Rochester sau khi tôi từng là sinh viên của khoa kinh tế. Các trường đại học thường không tuyển dụng các sinh viên vừa tốt nghiệp tại trường mình. Câu trả lời là một câu chuyện dài, nói ngắn gọn thì tôi đã từng giảng dạy tại trường kinh doanh khi đang là nghiên cứu sinh, và khi lần xin việc đầu tiên của tôi bất thành vào phút chót, thì đúng lúc Bill Meckling, trưởng khoa bố trí cho tôi hợp đồng một năm như giải pháp tạm thời, thế rồi rút cuộc tôi gắn bó với vị trí đó thêm vài năm nữa. C h ư ơ n g 6 Lời thách đấu Tôi nhận việc tại Đại học Cornell sau khi đến Stanford một thời gian, và bắt đầu làm việc tại đây vào tháng 8, năm 1978. Công việc của tôi thuộc hai mặt trận. Thứ nhất tôi phải có công trình để chứng tỏ chúng tôi đã phát triển được những gì từ phương pháp tiếp cận mới mà tôi đã đề xuất. Thứ hai, quan trọng không kém, tôi phải lập luận thuyết phục để phản biện hàng loạt những lời bắt bẻ, khích bác tôi nhận được mỗi khi trình bày nghiên cứu của mình. Các nhà kinh tế có cách hành xử riêng và họ sẽ không chịu thay đổi, chỉ vì một lý do duy nhất, ấy là họ đã dày công xây dựng bao nhiêu năm trời mới có được cái kho tàng kiến thức cũ kĩ ấy. Tôi nhận ra sự thật này tại một hội nghị nơi tôi trình bày công trình nghiên cứu mới của mình. Trong phiên họp thảo luận tiếp theo, một nhà kinh tế nổi tiếng hỏi tôi: “Nếu tôi tin những điều anh vừa nói, tôi sẽ phải làm gì đây? Chuyên môn của tôi là giải quyết các vấn đề tối ưu hóa.” Ý của ông ta là nếu tôi đúng, và mô hình tối ưu hóa là sự mô tả sai lệch hành vi thực tế, thì kiến thức của ông vứt xó đi cho rồi. Phản ứng của ông ta bộc trực một cách khác thường so với phản hồi có phần nhẹ nhàng hơn của những người khác chỉ góp ý rằng điều tôi đang làm là chưa đúng, và tôi đã bỏ qua những nhân tố hiển nhiên nào đó. Thế là tôi nhanh chóng có thêm một danh sách mới: nguyên nhân vì sao 68 RICHARD H. THALER các nhà kinh tế có thể bàng quan bỏ qua những hành vi như đã liệt kê trong Bản danh sách. Nói vui với bạn bè, tôi gọi loạt câu hỏi kiểu này là “Lời thách đấu”1 bởi vì bất cứ khi nào trình bày công trình nghiên cứu của mình là tôi cảm thấy giống như đang bị đấu tố ở thời Trung cổ vậy. Dưới đây là một vài thách đấu quan trọng nhất, và những đáp trả sơ bộ của tôi vào lúc đó. Ở mức độ nào đó người ta vẫn còn đang tranh cãi nhau về những điểm này; bạn sẽ được chứng kiến chúng tái xuất hiện xuyên suốt quyển sách. Luận điệu “Cứ như” Một trong những luận điệu bắt bẻ thường gặp nhất chỉ gồm có hai từ: “cứ như” (as if). Nói ngắn gọn, theo luận điệu này ngay cả khi con người không có khả năng giải quyết thấu đáo các vấn đề phức tạp mà các nhà kinh tế cho rằng họ có thể làm được, họ vẫn hành xử “cứ như” mình có thể vậy. Để hiểu rõ chỉ trích “cứ như” này là gì, ta nên nhìn lại một chút lịch sử kinh tế học. Sau Thế chiến II, ngành kinh tế học đã trải qua biến động giống như một cuộc cách mạng. Các kinh tế gia dưới sự dẫn dắt của Kenneth Arrow, John Hicks, và Paul Samuelson đã thúc đẩy một xu hướng đang thịnh hành là làm cho lý thuyết kinh tế tiến lại gần với toán học chính thống hơn. Hai khái niệm trung tâm của kinh tế học vẫn được giữ nguyên - cụ thể là các tác nhân tối ưu hóa và các thị trường đạt đến sự cân bằng ổn định - nhưng các nhà kinh tế lão luyện hơn trong việc mô tả các giải pháp tối ưu cho các vấn đề đặt ra cũng như xác định các điều kiện để một thị trường đạt đến trạng thái cân bằng. Lấy một thí dụ về cái gọi là lý thuyết của doanh nghiệp, cho rằng các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận (hoặc giá cổ phiếu). Khi các 1 Nguyên văn “Gaunlet” nghĩa đen là găng tay sắt của các chiến binh thời Trung cổ; khi ném găng tay sắt vào đối thủ có nghĩa là thách đấu - ND. Lời thách đấu 69 nhà lý thuyết hiện đại bắt đầu cắt nghĩa chính xác điều đó có nghĩa là gì, thì một số nhà kinh tế lại phản đối, lấy lý do các nhà quản lý thực tế không có khả năng giải quyết những vấn đề như vậy. Một ví dụ đơn giản gọi là “phân tích biên tế”. Chúng ta nhớ lại đã bàn trong chương 4 rằng một doanh nghiệp tìm cách để tối đa hóa lợi nhuận sẽ xác định giá cả và sản lượng tại điểm mà chi phí biên tế và thu nhập biên tế bằng nhau. Phân tích tương tự cũng được áp dụng cho việc thuê nhân công. Tiếp tục thuê nhân công cho đến khi nào chi phí cho công nhân cuối cùng bằng thu nhập tăng lên do công nhân đó làm ra. Những kết quả này xem ra vô thưởng vô phạt, nhưng vào cuối những năm 1940, một cuộc tranh luận đã nổ ra trên tạp chí American Economic Review (AER) về việc có đúng là các nhà quản lý trong thực tế đã hành xử như vậy hay không. Người châm ngòi cho cuộc tranh luận là Richard Lester, một phó giáo sư kinh tế học đầy dũng khí của Đại học Princeton. Ông đã mạnh dạn viết thư cho các ông chủ của các công ty sản xuất yêu cầu họ giải thích các quy trình ra quyết định về số lượng nhân công cần thuê và số lượng sản phẩm sản xuất ra. Không một ông sếp nào trả lời họ đã làm điều gì đó tương tự như “cân bằng biên tế” cả. Thứ nhất, họ hình như chẳng nghĩ gì về hệ quả của việc thay đổi giá cả bán sản phẩm hay thay đổi mức chi trả cho nhân công. Trái ngược với lý thuyết, xem ra họ chẳng hề nghĩ rằng thay đổi mức lương sẽ có ảnh hưởng nhiều đến các quyết định về thuê nhân công hay về sản lượng sản phẩm. Thay vào đó, họ cho biết rằng họ chỉ cố gắng bán được càng nhiều sản phẩm càng tốt, và việc tăng hay giảm nhân lực là tùy theo nhu cầu. Lester kết thúc bài báo bằng những lời cứng rắn: “Bài viết này nêu ra những điều còn hoài nghi sâu sắc về tính ứng dụng của lý thuyết biên tế thông thường và những giả thuyết làm căn cứ cho lý thuyết đó.” Dẫn đầu nhóm bênh vực cho lý thuyết biên tế là Fritz Machlup, khi đó thuộc Đại học Buffalo nhưng sau đó theo Lester gia nhập Princeton, có lẽ để tiếp tục tranh cãi tay đôi. Machlup phớt lờ dữ liệu 70 RICHARD H. THALER điều tra của Lester, lấy cớ là các nhà kinh tế không thực sự quan tâm đến điều mọi người nói họ đang làm gì. Ông ta cãi lại rằng lý thuyết không yêu cầu các doanh nghiệp phải tính toán chính xác các chi phí và thu nhập biên tế, tuy nhiên những hành động của họ là gần đúng với những điều lý thuyết đã dự đoán. Ông đưa ra một dẫn chứng về việc một tài xế quyết định khi nào sẽ vượt một chiếc xe tải trên đường quốc lộ hai làn xe. Người tài xế đó không hề có tính toán gì, tuy vậy anh ta vẫn có thể lái xe của mình vượt qua chiếc xe tải. Ông ta biện luận tiếp rằng một giám đốc cũng rơi vào trường hợp tương tự như người tài xế khi đưa ra quyết định. “Ông ta chỉ đơn giản dựa vào trực giác hay “cảm giác” của mình trong tình huống đó... [và] “chỉ biết” một cách mơ hồ và đại khái là liệu có nên thuê thêm lao động hay không.” Machlup đã cực lực phê phán dữ liệu của Lester, nhưng ông ta lại chẳng có gì để đối chứng cả. Trong bối cảnh của cuộc tranh luận này, Milton Friedman, một nhà kinh tế trẻ tuổi sắp nổi như cồn, nhảy vào can thiệp. Trong một bài tiểu luận có nhiều ảnh hưởng với tiêu đề “Phương pháp luận của kinh tế học thực chứng” (The Methodology of Positive Economics), Friedman lập luận rằng thật là ngớ ngẩn khi đánh giá một lý thuyết lại đi dựa vào tính hiện thực của các giả thuyết mà nó đề ra. Điều quan trọng là tính chính xác của các dự đoán do lý thuyết đó đưa ra. (Ông sử dụng từ ngữ “thực chứng” (positive-ND) trong tiêu đề của mình giống như cách tôi dùng từ ngữ “mô tả” (descriptive-ND) trong quyển sách này, tức là tương phản với chuẩn tắc). Để minh họa cho luận điểm của mình, ông thay thế ví dụ về người tài xế của Machlup bằng một người chơi bida chuyên nghiệp. Ông lưu ý rằng: những dự đoán tuyệt vời có được là bởi giả thuyết rằng cơ thủ ra cú đánh cứ như anh ta đã biết các công thức toán học phức tạp mà nhờ đó anh ta có thể định hướng chuyển động tối ưu của viên bi, có thể Lời thách đấu 71 dự tính bằng cách ngắm các góc v.v..., bằng cách mô tả vị trí các viên bi, có thể tính toán chớp nhoáng từ các công thức, và sau đó có thể đánh các viên bi chạy theo hướng được xác định bởi công thức Sự tin cậy của chúng ta vào giả thuyết này không phải dựa trên niềm tin rằng các cơ thủ, kể cả dân chuyên nghiệp, có nhất định làm theo quy trình đã mô tả hay không; mà đúng hơn sự tin cậy đó có được là dựa vào niềm tin rằng trên thực tế họ không phải là cơ thủ chuyên nghiệp, trừ phi bằng cách này hay cách khác họ có khả năng đạt được kết quả tương tự như vậy. Friedman là một nhà tranh luận cự phách và lập luận của ông hẳn là có sức thuyết phục. Đối với nhiều nhà kinh tế vào thời điểm đó, vấn đề tranh cãi coi như đã ngã ngũ. Tạp chí AER đình chỉ phát hành các số tiếp theo của cuộc tranh luận mà tạp chí này đã phát hành trước đó, còn các nhà kinh tế thì quay trở lại các mô hình cũ của mình mà không phải bận tâm về các giả thuyết của chúng có “thực tế” hay không. Một lý thuyết đúng đắn, xem ra không thể nào bị đánh bại chỉ bởi việc sử dụng các dữ liệu điều tra, ngay cả khi những người bảo vệ lý thuyết đó không trưng ra được dữ liệu gì cả. Đây là tình trạng giằng co kéo dài suốt hơn 30 năm về sau, khi tôi bắt đầu có những tư duy chệch hướng của mình. Thậm chí cho đến ngày nay, vẫn có những tín đồ của trường phái “cứ như” bất ngờ trỗi dậy trong các cuộc hội thảo khoa học để bác bỏ những thành quả nào không tương thích với những phán đoán của lý thuyết chuẩn tắc. May thay, Kahneman và Tversky đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “cứ như”. Công trình của cả hai ông về suy nghiệm và thiên lệch cũng như về lý thuyết triển vọng đã cho thấy một cách rõ ràng rằng con người không hành động “cứ như” họ đang chọn lựa đi theo mô hình kinh tế hợp lý. Khi các đối tượng trong một thí nghiệm của Kahneman và Tversky chọn lựa một phương án khác với phương án đang chi phối – tức là phương án được chọn nhằm thay thế cho một phương án tốt hơn về mọi mặt - thì không thể nói rằng họ hành xử cứ như họ đang 72 RICHARD H. THALER phán đoán đúng. Thói quen mua rượu vang của Giáo sư Rosett cũng không thể coi là hợp lý được. Để tỏ lòng kính trọng Friedman, người mà tôi thực sự ngưỡng mộ, tôi đã đặt tên bài viết đầu tiên của tôi về kinh tế học hành vi là “Tiến tới một Lý thuyết thực chứng về Chọn lựa của Khách hàng”. Phần cuối bài viết tôi đưa ra câu trả lời chi tiết cho câu hỏi tất yếu “cứ như”. Tôi cũng mở đầu bằng trò chơi bida. Điểm mấu chốt của tôi là kinh tế học phải được coi là một lý thuyết cho mọi người, chứ không chỉ cho các chuyên gia. Một cơ thủ chuyên nghiệp có thể chơi cứ như anh ta biết mọi thứ về hình học và vật lý, nhưng đối với một cơ thủ bình thường ở quán bar, anh ta thường ngắm vào viên bi gần lỗ nhất để đánh, và ít khi trúng. Nếu chúng ta muốn có được các lý thuyết hữu dụng về cách những người bình thường mua sắm, tiết kiệm cho hưu trí, tìm kiếm việc làm, hay nấu bếp, thì sẽ tốt hơn nếu những lý thuyết đó không giả định con người hành xử cứ như họ là các chuyên gia. Ta không thể chơi cờ tướng giống như một đại kiện tướng, đầu tư giống như Warren Buffet, hay nấu bếp giống như Iron Chef1. Thậm chí nói là “cứ như” cũng không được như vậy. Rất có thể ta nấu bếp giống như Warren Buffett (người thích ăn tại Dairy Queen2). Nhưng nhanh nhẩu trả miếng trước luận điệu “cứ như” là chưa đủ; để đánh bại luận điệu này tôi cần có bằng chứng thực nghiệm vững chắc để có thể thuyết phục các nhà kinh tế. Cho đến ngày nay, cụm từ “bằng chứng điều tra” (survey evidence) ít được nghe thấy trong giới kinh tế học mà không kèm theo một tính từ cần thiết “chỉ là” với giọng điệu “chế nhạo”. Sự coi thường như vậy rất xa lạ với khoa học. Dữ liệu thăm dò về việc bỏ phiếu, có được nhờ đi hỏi mọi người liệu họ có định đi bỏ phiếu hay không và bỏ phiếu cho ai, khi được sử dụng một cách thận trọng bởi các nhà thống kê 1 Siêu đầu bếp – Người thắng trong cuộc thi chọn đầu bếp giỏi trên TV - ND. 2 Một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh đại chúng ở Mỹ – ND. Lời thách đấu 73 lão luyện như Nate Silver1 sẽ đưa ra phán đoán kết quả bầu cử khá chính xác. Điều khôi hài nhất của thái độ chống lại cuộc điều tra thăm dò là nhiều biến số kinh tế vĩ mô lại được rút ra từ kết quả các cuộc khảo sát! Chẳng hạn, tại Mỹ báo chí thường gây ám ảnh về bản công bố số liệu thống kê “việc làm” hằng tháng, kèm theo là hình ảnh các nhà kinh tế với vẻ mặt nghiêm trọng đòi nhảy vào để định lượng và lý giải những con số đó nói lên điều gì. Vậy những con số thống kê việc làm được lấy từ đâu ra? Nó được lấy từ các cuộc điều tra thăm dò do Cục điều tra dân số (Census Bureau) tiến hành. Tỷ lệ thất nghiệp, một trong những biến số quan trọng trong việc mô hình hóa kinh tế vĩ mô, cũng được xác định từ cuộc khảo sát ý kiến mọi người xem có phải họ đang tìm kiếm việc làm hay không. Tuy nhiên việc sử dụng số liệu thống kê đã công bố về tỷ lệ thất nghiệp lại không bị coi là sai lầm kinh khủng (faux pas) trong kinh tế học vĩ mô. Rõ ràng các nhà kinh tế không thấy phiền lòng đối với các dữ liệu điều tra thăm dò, miễn sao chúng không phải do nhà nghiên cứu tổng hợp là được. Nhưng vào năm 1980, các câu hỏi khảo sát không vượt qua được đám tín đồ của “cứ như”. Cần phải có một số dữ liệu thích hợp đưa ra để chứng minh rằng con người hành xử vô lý trong các chọn lựa đời thường. Động cơ Các nhà kinh tế đặt niềm tin rất lớn vào các yếu tố khuyến khích. Họ lập luận rằng, nếu tiền đặt cược (hay vốn đầu tư - ND) tăng lên, con người sẽ có động cơ mạnh hơn để suy nghĩ nhiều hơn, để đi tìm kiếm sự giúp đỡ, hay làm bất cứ điều gì cần thiết nhằm giải quyết cho được vấn đề. Các thử nghiệm của Kahneman và Tversky thường được tiến 1 Nhà thống kê Mỹ nổi tiếng vì dự đoán đúng các sự kiện chính trị và thể thao, nhất là hai lần dự đoán đúng Obama đắc cử tổng thống các năm 2008 và 2012 tại 49/50 tiểu bang – ND. 74 RICHARD H. THALER hành mà không tốn kém gì, do đó đối với các nhà kinh tế điều đó có nghĩa rằng có bỏ qua chúng thì cũng chẳng làm sao cả. Và nếu như các động cơ thực sự được đưa vào điều kiện của phòng thí nghiệm thì vốn đầu tư cũng sẽ rất nhỏ, chỉ vài đô la là cùng. Họ thường nói rằng lẽ dĩ nhiên, ‘có thực mới vực được đạo’, nếu vốn đầu tư được tăng lên, người ta sẽ đưa ra kết quả tốt hơn. Sự khẳng định này, không hề có bằng chứng làm căn cứ, đã được người ta tin chắc như đinh đóng cột, bất chấp thực tế là cả lý thuyết lẫn thực tiễn kinh tế học không có chỗ nào nói rằng kinh tế học chỉ áp dụng cho những vấn đề có vốn đầu tư lớn. Có lẽ sẽ tốt hơn khi lý thuyết kinh tế áp dụng được cho cả việc mua bắp rang lẫn mua xe hơi. Hai nhà kinh tế của Caltech đã đưa ra một số bằng chứng đầu tiên chống lại cách tiếp cận này: David Grether và Charlie Plott, một trong những người trợ giảng kinh tế học thực nghiệm của tôi. Grether và Plott tình cờ thấy công trình do hai thầy cố vấn tâm lý học của tôi thực hiện, Sarah Lichtenstein và Paul Slovic. Lichtenstein và Slovic đã khám phá ra hiện tượng “lựa chọn nghịch với sở thích” (preference reversals), một hiện tượng đã làm các nhà kinh tế bối rối. Tóm tắt như sau, các đối tượng bị dẫn dụ để nói rằng họ ưa thích chọn lựa A hơn chọn lựa B... và đồng thời họ cũng ưa thích chọn lựa B hơn A. Khám phá này làm đảo lộn nền tảng lý thuyết cần thiết cho mọi học thuyết kinh tế chính thống, cụ thể là con người có những ưa thích được gọi là “những ưa thích được xác định rõ” (well-defined preferences), đơn giản có nghĩa là chúng ta chắc chắn biết những gì mình ưa thích. Các nhà kinh tế chẳng quan tâm liệu bạn thích đệm giường cứng hay thích đệm giường mềm hơn, nhưng họ không thể chịu được khi bạn nói rằng mình thích đệm cứng hơn đệm mềm và đệm mềm hơn đệm cứng. Điều đó là không thể được. Các sách giáo khoa về lý thuyết kinh tế sẽ bị đốt bỏ ngay từ trang đầu tiên nếu giả định những ưa thích được xác định rõ bị vứt bỏ, vì nếu không có những ưa thích ổn định thì không thể tối ưu hóa được cái gì cả. Lời thách đấu 75 Lichtenstein và Slovic phát hiện ra những lựa chọn nghịch với sở thích khi họ đưa cho các đối tượng nghiên cứu hai trò chơi đánh bạc: một trò thì khá là chắc thắng, chẳng hạn có tới 97% cơ hội thắng 10 USD, và trò kia thì rủi ro nhiều hơn, chẳng hạn là chỉ có 37% cơ hội thắng 30 USD. Họ gọi trò chơi chắc ăn là đánh cược kiểu “p”, với xác suất thắng cao, và trò nhiều rủi ro hơn là đánh cược kiểu “$”, vì nó có cơ hội thắng nhiều tiền hơn. Trước tiên họ hỏi mọi người thích kiểu đánh bạc nào hơn. Hầu hết chọn kiểu p vì họ thích ‘ăn chắc mặc bền’. Đối với những đối tượng này thì p được ưu tiên hơn $. Sau đó họ hỏi các đối tượng thích kiểu đánh bạc p: “Giả sử các bạn sở hữu trò đánh cược p. Vậy thì bạn sẽ đồng ý bán nó với giá thấp nhất là bao nhiêu? Họ cũng hỏi một câu tương tự cho các đối tượng thích kiểu đánh bạc $. Thật kỳ lạ, đa số các đối tượng đòi được trả nhiều hơn để từ bỏ đánh cược $ hơn là đánh cược p, chứng tỏ họ thích kiểu đánh cược $ hơn. Nhưng như vậy là họ thích đánh cược p hơn đánh cược $ và rồi cũng thích đánh cược $ hơn đánh cược p. Thật là một sự báng bổ! Grether và Plott muốn biết điều gì đã dẫn đến các kết quả kỳ lạ này, và giả thiết chính của họ là do các động cơ1. Họ đoán rằng nếu các trò đánh cược này là thật, thì điều vô lý này sẽ không xảy ra. Do đó họ tiến hành thử nghiệm với tiền thật, và họ rất ngạc nhiên, tần số và tính nghiêm trọng của lựa chọn nghịch với sở thích thực sự tăng lên. Tức là tăng tiền đặt cược càng làm cho vấn đề xấu hơn. Điều này không làm chấm dứt những phản đối luận điểm động cơ. Nhưng ít ra đã có một bài viết dẫn chứng chất vấn quan điểm cho rằng tiền có thể giải quyết mọi vấn đề mà các nhà kinh tế đã nêu ra 1 Người ta vẫn ưa thích giả thuyết này mặc dù Lichtenstein và Slovic (1973) đã lặp lại các nghiên cứu sử dụng tiền thật tại sàn đánh bạc của một sòng bạc Las Vegas. Việc bác bỏ bằng chứng này có thể được giải thích bằng giả thuyết khác của họ. Họ cũng khoái chí ra mặt về khả năng những kết quả ngoan cố ấy có được đơn giản là do những người làm thử nghiệm là các nhà tâm lý học, những người có tiếng lừa dối nhiều người trong các thí nghiệm. Khỏi phải nói, giả thiết này không thỏa đáng với bất cứ nhà tâm lý nào vô tình đọc được bài viết của họ. 76 RICHARD H. THALER cho công trình nghiên cứu hành vi. Và như chúng ta sẽ thấy, đây là đề tài xuất hiện nhiều lần trong cuộc tranh luận về tính ứng nghiệm của bằng chứng thí nghiệm. Học hỏi Phương thức thử nghiệm của Kahneman và Tversky thường bị các nhà kinh tế bắt lỗi là một trò chơi “duy nhất một lần”. Họ lập luận trong “thế giới thực”, con người có nhiều cơ hội để học hỏi. Ý niệm này không phải không có lý. Không ai mới vào đời đã là một tài xế giỏi, nhưng hầu hết chúng ta biết học cách lái xe để ít gây ra sự cố. Sự thật một nhà tâm lý thông thái có thể nêu ra câu hỏi lôi kéo nhiều người trong phòng thí nghiệm mắc sai lầm không nhất thiết ngụ ý rằng sai lầm tương tự cũng xảy ra trong “thế giới thực” (các phòng thí nghiệm được xem là thế giới ảo). Trong thế giới thực con người có nhiều thời gian để cân nhắc việc đưa ra quyết định của mình, do đó họ ít mắc sai lầm như chúng ta thấy khi họ ở trong phòng thí nghiệm. Vấn đề của luận điểm học hỏi là giả định rằng tất cả chúng ta đều sống trong một thế giới giống như trong bộ phim Ngày chuột chũi (Groundhog Day)1 của Bill Muray. Nhân vật của Bill Muray không ngừng thức dậy và lặp lại cuộc sống của một ngày, và cứ thế lặp lại hết ngày này qua ngày khác. Một khi anh ta phát hiện ra điều gì mới, anh ta có thể học hỏi vì anh ta có thể làm thay đổi nhiều thứ tại một thời điểm và xem điều gì xảy ra. Cuộc sống thật không phải là thứ có thể điều khiển như vậy được, và đó là điều may mắn cho chúng ta. Nhưng cũng bởi vì vậy mà học hỏi chẳng dễ dàng chút nào. Các nhà tâm lý học cho chúng ta biết để học hỏi kinh nghiệm, cần phải có hai yếu tố: luyện tập thường xuyên và phản hồi tức thì. Khi 1 Ở Mỹ, ngày 2 tháng 2 gọi là ngày chuột chũi, đó là ngày cuối mùa đông con chuột chũi chui ra khỏi hang. Nếu đó là ngày nắng và con chuột chũi nhìn thấy bóng của nó, mùa đông sẽ kéo dài tiếp thêm 6 tuần nữa – ND. Lời thách đấu 77 các điều kiện đó tồn tại, chẳng hạn như khi tập đi xe đạp hay tập lái xe hơi, trong quá trình học hỏi đó chúng ta có thể vấp phải một số sự cố. Nhưng nhiều vấn đề của cuộc sống không tạo ra cơ hội, và đây là điều thú vị. Việc học hỏi và lý luận về động cơ, ở mức độ nào đó có mâu thuẫn với nhau. Tôi nhận ra điều này trong một cuộc tranh luận công khai về vấn đề tương tự với lý thuyết gia về trò chơi người Anh, Ken Binmore. Tại một hội nghị được tổ chức dành cho sinh viên sau đại học, Binmore và tôi mỗi người có một ngày thuyết trình. Tôi trình bày về những khám phá mới của kinh tế học hành vi và mặc dù công trình của Binmore chẳng có liên quan đến đề tài của tôi, anh ta vẫn tranh thủ khi mở đầu bài thuyết trình của mình để nêu ý kiến về buổi trình bày hôm trước của tôi. Sau bài giảng đầu tiên của tôi, Binmore đưa ra một phê phán “vốn đầu tư nhỏ”. Nói rằng nếu định mở một siêu thị, anh ta sẽ tham khảo công trình nghiên cứu của tôi, vì những điều tôi đã nghiên cứu có lẽ có ý nghĩa đối với mua bán hàng hóa không đắt tiền. Nhưng nếu mở cửa hàng đại lý bán xe hơi, công trình nghiên cứu của tôi sẽ ít có tác dụng. Khi tiền đầu tư lớn người ta sẽ biết cách làm thế nào cho đúng. Hôm sau tôi trình bày đề tài mà ngày nay tôi gọi là “liên thể Binmore” (Binmore continuum) để vinh danh ông. Tôi viết trên bảng một danh sách sản phẩm thay đổi từ trái sang phải dựa vào tần số mua bán. Ở bên trái bắt đầu bằng bữa ăn trưa tập thể (hằng ngày), rồi đến sữa và bánh mì (mỗi tuần hai lần), và tiếp tục cho đến chiếc áo thun, xe hơi, và nhà cửa, chọn lựa nghề nghiệp, và bạn đời (không quá hai đến ba người cho mỗi cuộc đời, đối với hầu hết chúng ta). Hãy thử nhận xét xu thế. Chúng ta mua bán những thứ ít tiền thường xuyên để biết được nên mua bán thế nào cho đúng, nhưng khi chọn mua một ngôi nhà, thế chấp tài sản, hay một việc làm, chúng ta không kinh qua nhiều thực tế hay có được cơ hội để học hỏi. Và khi nói đến tiết kiệm hưu trí, chúng ta chỉ thực hiện có mỗi một lần, trừ phi tin rằng có kiếp 78 RICHARD H. THALER sau. Như vậy Binmore đã suy ngược lại. Do việc học hỏi cần có thực tế, nên chúng ta biết xử lý đúng những khoản đầu tư nhỏ hơn các khoản đầu tư lớn. Điều này có nghĩa là những người chỉ trích chúng tôi phải quyết định họ sẽ áp dụng cách lập luận nào. Nếu coi việc học hỏi là quan trọng thì khi vốn đầu tư tăng lên, chất lượng ra quyết định chắc chắn sẽ phải đi xuống. Thị trường: Cái vẫy tay vô hình Phản biện quan trọng nhất trong các lời thách đấu liên quan đến thị trường. Tôi nhớ rõ lần đầu tiên Amos được mời tham gia tranh luận về vấn đề này. Đó là tại dạ tiệc ở hội nghị do Michael Jensen tổ chức. Jensen là học giả hàng đầu ở trường kinh doanh Rochester, nơi tôi từng giảng dạy. Khi đó Jensen là một tín đồ ngoan đạo của các mô hình chọn lựa hợp lý lẫn tính hiệu quả của các thị trường tài chính (từ đó trở về sau ông đã thay đổi quan điểm về nhiều phương diện). Tôi nghĩ rằng ông coi hội nghị này là dịp tốt để tìm hiểu câu chuyện đang rùm beng xung quanh Kahneman và Tversky là cái gì, cũng như là cơ hội để chấn chỉnh thái độ hai nhà tâm lý gây rối này. Trong cuộc thảo luận, Amos hỏi Jensen về khả năng ra quyết định của vợ ông ta. Jensen nhanh chóng góp vui bằng những câu chuyện rất nực cười của bà vợ về các quyết định kinh tế, chẳng hạn mua chiếc xe hơi đắt tiền nhưng rồi để đấy không lái vì sợ va quệt làm trầy xước xe. Amos liền hỏi Jensen về những sinh viên của ông, và thế là Michael được dịp tuôn ra một mạch về những sai lầm ngớ ngẩn của họ, phàn nàn họ chậm hiểu ngay cả những khái niệm kinh tế cơ bản nhất. Khi rượu vang đã ngấm, câu chuyện của Mike càng rôm rả. Thế là Amos tung ra đòn quyết định. Ông nói, “Này Mike, dường như anh nghĩ rằng hầu hết người mà anh quen biết đều không có khả năng đưa ra các quyết định đúng, ngay cả các quyết định kinh tế đơn giản nhất, nhưng anh lại cho rằng các tác nhân trong mô hình kinh tế của anh là những thiên tài. Có điều gì không ổn ở đây vậy?” """