"Tập Truyện Ngắn Hồ Biểu Chánh - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập Truyện Ngắn Hồ Biểu Chánh - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Hồ Biểu Chánh Một Ðoá Hoa Rừng vietmessenger.com I Húng hính chơi ở trong chốn cố hương được mấy tuần, tôi lóng nghe đô thành đã yên tịnh, không có phi cơ oanh tạc đến viếng nữa. Tôi tò mò trở về Sài Gòn. Nào dè mới về được vài ngày thì còi báo động thổi rân nữa, có bữa báo động tới hai lần. Người ta lo tản cư. Tôi ngao ngán nên cũng chạy như thiên hạ. Mà lần nầy, tôi theo một ông bạn chạy lên miệt trên, tìm nơi cao ráo u nhàn đặng dung thân dưỡng trí. Tôi lên ở Bến Súc. Đến đây tôi liền nhớ cái thớt vườn êm đềm kín đáo, mà năm trước tôi đã thày lay tả vẻ trong một bộ tiểu thuyết của tôi, cái thớt vườn nực nồng thi vị, chan chứa thương yêu, nối tóc xe tơ cho cặp nam nữ thanh niên là cậu Phúc với cô Lý, một tối cựu, một tối tân nhưng hai tâm hồn tương đồng, tương hiệp. Bữa sau tôi đi xem lại thớt vườn nầy, xem coi Thần ái tình còn ủng hộ Phúc với Lý hay không. Miễu ái tình vẫn còn sờ sờ, mội nước trong vẫn còn ro re, tiếng đờn ve vẫn còn inh ỏi, duy thiếu Phúc với Lý. Người ta nói cặp tri âm nầy đã vô Đường Long mấy bừa rày, vô kiếm chỗ mà gây thêm một cái ổ ái tình thứ nhì nữa. Đường Long... Tôi biết rồi, chỗ Phúc khẩn đất để trồng tiêu, trồng nghệ, tôi đã có nói trong quyển „Ái tình miếu". Tôi quyết đi, đi tìm Phúc với Lý, mà cũng đi xem quang cảnh Đường Long. Một ông bạn mượn chiếc xe bò mà chở tôi đi vì đường xa đến năm ngàn thước, đi bộ không tiện. Đi Đường Long mà ông bạn tôi không chịu đi theo lộ đá Kiểm Lâm, lại bắt đi dọc theo mé bưng, nói đi ngã đó tôi mới được thưởng thức đủ cảnh rừng, vườn, bưng, suối. Hồi xưa, cụ Nguyễn Công Trứ ngâm câu „Cỡi trâu êm hơn cỡi ngựa", hôm nay, tôi lại thấy „Ngồi xe bò khỏe hơn ngồi xe hơi". Ngồi xe bò khỏi lật té mà nó còn gây trong lòng tôi một cảm hứng nồng nàn dị kỳ. Tại sao cảm hứng? Tại gặp cái nguồn. Suối Xinô bắt từ trên từng cao, xa lắm, phía trong Cà Tong nữa kìa, quanh co chảy ra sông Sài Gòn. Tuy suối dài đến mấy chục ngàn thước, như mùa khô bề ngang chỉ có năm ba thước, đến mùa ướt mới có nước nhiều. Hai bên suối, đất thấp, thì mưa dào người ta gieo mạ, cấy lúa. Vô trong, đất cao lên một chút, thì người ta làm rẫy, trồng những mía, mì, mè, đậu và ớt nghệ, gừng. Vô trong nữa, đất cao hơn, thì người ta lập vườn trồng những sầu riêng, trái sữa, chanh, mít, tiêu, cau. Phía sau vườn thì là rừng, lố xố những sao, sến, dầu, gõ, bằng lăng, trắc, chỗ còn rừng cấm, chỗ đã có chủ. Phần nhiều chủ đất chiếm từ dưới ruộng lên tới trên rừng. Lại mỗi sở đất đều có người ta ở trồng tỉa, ai ở xa thì cất trại, ai ở tại đó thì cất nhà, có nhà tranh mà cũng có trại ngói. Ngồi xe bò đi cục kịch theo mé rừng hay qua đám rẫy! mắt ngó khoai mía xanh tươi, cây cội chớn chở, tai nghe gà rừng gáy, cu đất kêu, quan cảnh an tịnh làm cho tôi ngẩn ngơ, quên hết các rộn rực ở thị thành, mà cũng quên hết các nổi chìm của thế sự, tâm hồn bắt say sưa với thú lâm viên khỏe khoắn, với thói thôn quê thiệt thà. Vô tới Đường Long, gặp lộ đá Kiểm Lâm, tôi hỏi thăm Phúc và Lý. Người ta nói cách vài bữa trước có thấy đi qua, đi thẳng vô phía trong. Tôi đi theo, đi một đỗi rất xa, mà tìm không gặp. Nghĩ đều rừng thẳm, suối dại, Bóng chim tâm cá, hỏi ai bây giờ. Bạn tôi mới khuyên tôi đừng theo nữa, rủ ghé một trại quen xin nước trà quế bọt mà uống rồi trở về. Ông Ba Lung, ở trại nầy, ông mừng rỡ và dường như ở đây ít người nên ông khao khát nói chuyện, bởi vậy ông tiếp rước chúng tôi rất ân cần, ông nấu nước pha trà đãi chúng tôi rồi ông thuật cho chúng tôi nghe một chuyện ái tình mới kết cuộc cách mấy bữa trước, kết cuộc với màn bi kịch xào xáo rồi tiu hiu, làm cho ở vùng nầy người ta vừa kinh tâm, vừa áo não. Thôi, tìm không được ổ ái tình êm ấm kia, thì tôi chép lại chuyện ái tình xào xáo nầy, kỷ niệm cho buổi nhàn du và luôn dịp bày tỏ Đường Long cảnh vật. II Hôm nọ, lúc nửa chiều, con Quế đầu đội nón lá đương lum khum giữa đám dậu, lo xới đất vun gốc đậu, có thím Tư Cam ở gần, muốn vần công 1 nên lại làm phụ với nó cho mau. Thím Tư Canh hay nói chuyện; thím thấy thằng Khoa đương lùa cặp bò cho ăn cỏ dựa mé rừng, thì thím hỏi Quế: - Ủa! Bò của mầy sao còn có một cặp? Còn hai con nữa đâu? - Cặp bò kia mắc đi xe củi trong Bào Đề. Cậu Tư Cu đấu giá mua rừng làm củi. Cậu nói với má tôi, cậu mướn xe ít bữa, nên hôm qua má tôi sai anh Lực đem xe vô trỏng cho cậu. - Thằng khùng đó mà chị Ba dám giao xe giao bò cho nó đem đi xa như vậy sao? - Chớ có ai đâu mà sai. - Thằng Khoa là con nít, nó trị cặp bò kia sao nổi. - Cậu Tư hứa cậu coi chừng dùm, nên má tôi mới chịu. - Anh Tư Cu năm nay bày làm củi chi vậy không biết. - Củi có giá, làm khá lắm chớ. - Khá giống gì? Củi đem ra bến mà bán thì họ dụ bưng họ trả rẻ. Mình mướn ghe chở xuống Thủ 2 hay xuống Sài Gòn thì bán được giá hơn, song đường đi hiểm trở lắm. Đó, ông Ba Lung chở củi đi bán, ổng về hôm kia, rồi cứ ngồi khoanh tay mà khóc đó. - Sao mà khóc? - Ổng bán củi được 130 đồng bạc. Ổng không dám về ghe, lận bạc trong lưng mà đi lên Thủ. Trễ xe hơi, ổng giang xe bò mà về trên nầy, đi tới chỗ Trắc Sùm, bị ăn cướp đón giựt bạc hết trọi, lại đánh ổng sưng cánh tay. - Trời ơi! Ở Trắc Sùm có ăn cướp hay sao? - Có họ nói chừng một tháng nay có đảng ăn cướp năm sáu đứa, có súng, dữ lắm, nó ẩn núp ở đó đón giựt đồ người ta. Bọn nó giựt tới xe máy, xe ngựa nữa, ai chống cự thì nó bắn chết. - Dữ há? Tôi nghe nói Trắc Sùm mà tôi không biết ở chỗ nào. - Ở trên An Tây thôn một đỗi đó. Chỗ đó vắng lắm. - Ăn cướp làm dữ như vây, quan làng không bắt nó sao? - Dễ gì mà bắt. Nó rút vô rừng rồi làm sao mà tìm được. Lại nó có súng, nó bắn chết chớ. - Thím Tư, ăn cướp có súng, mình đi xe hơi tôi tưởng nó đón nó đánh cũng được a thím. - Được nó gạt xe ngừng rồi nó giựt. - Ghê quá! Chắc tôi không dám đi Thủ rồi a. - Không có chuyện cần thì đi làm gì. Mầy hay đi Thủ lắm sao? - Không. Từ nhỏ tới giờ tôi đi có một lần, đi với má tôi. Bận đi thì giang xe bò, bận về đi xe hơi. Lâu lắm rồi, cách bốn năm nay, hồi đó tôi mới mười sáu tuổi. - Thằng Lực nó khoe với họ, nó nói chị Ba sẽ gả mầy cho nó. Chị Ba có hứa với nó hay sao? - Đâu mà có! Anh khùng đó, ai thèm gả. Hai người nói chuyện tới đó, kế nghe phía cầu Đường Long có tiếng ồ ồ, rồi thấy có một chiếc xe hơi ngừng. Quế đứng ngó và nói: - Xe ai mà vô tới trong nầy vậy kìa. Ba người đàn ông ở trên xe leo xuống, rồi đi vô phía Quế với Tư Cam bón đậu, người đi trước mặc âu phục, bộ đàng hoàng còn hai người đi sau thì mặc đồ vắn, lại mỗi người đều có vác đồ trên vai Mấy người đi gần tới. Quế thấy lạ, nên sụp nón ngồi bón đậu, không dám ngó Người đi trước là một thanh niên chừng hăm lăm tuổi, mặt mày sáng rỡ, y phục gọn gàng, tới ngang đám đậu thì đứng lại chỉ nhà bà Ba Hạc, là mẹ của Quế, mà hỏi: - Hai cô, không biết nhà nầy là nhà của ai vậy hả? Quế cứ cúi mặt, không đáp. Thím Tư Cam đứng dậy nói: - Nhà của bà Ba Hạc. Cậu hỏi chi vậy? Người trai cười mà đáp: - Năm trước đi bán trong nầy, tôi có ghé nhà bà Ba một lần. Lâu vô nên tôi quên, bởi vậy tôi muốn hỏi lại cho chắc đặng ghé thăm bà. Không biết có bà Ba ở nhà hay không? - Có. Tôi mới thấy dạng chỉ ra sân hồi nãy. - Cám ơn thím. Người trai ấy đi lại nhà bà Ba Hạc, hai người kia cũng vác đồ đi theo sau. Quế đứng dậy hỏi Tư Cam: - Ai mà quen với má tôi vậy kìa? - Tao có biết đâu. Nói năm trước có ghé nhà mầy; nếu mầy không biết thì tao làm sao mà biết được. - Tôi không nhớ. - Có lẽ hồi người ta ghé, thì không có mầy ở nhà. - Không biết chừng tại vậy... Bây giờ quá nửa chiều rồi. Họ vô đây rồi tối họ làm sao mà về. - Chắc họ vô đặng tối họ đi bắn đèn. - Đi bắn sao không thấy súng? - À! Sao không có mang súng há? Đâu mầy về coi ai đó. - Thôi về làm chi? Có má tôi ở nhà. Để lát nữa rồi tôi sẽ về hỏi coi ai đó cho biết. - Người đó đẹp trai quá phải hôn mậy? Quế chúm chím cười rồi bỏ đi qua liếp đậu khác không nói nữa. -------------------------------- 1Giúp công với nhau, nông dân miền Nam giúp công với nhau vào mùa cấy, gặt. 2 Thủ Dầu Một, lối nói rút gọn của dân địa phương. III Bà Ba Hạc đương ngồi gần miệng giếng, chăm chỉ rửa mớ khoai môn, đặng sáng mai thím Tư Cam đi chợ Bến Súc, bà gởi cho thím bán dùm. Thình lình con chó mực nằm trong cửa hực hực rồi tuông ra sân đứng sủa. Bà ngước mặt ngó ra, thì thấy một dọc ba người xăm xăm đi lại nhà bà, cả ba đều lạ hoắc, lại áo quần không giống người ở chốn nầy. Bà cầm củ khoai, vừa gọt rửa, vừa ngó trân, mái tóc điểm bạc gió thổi phất phơ, gương mặt thiệt thà nắng giọi sáng rỡ. Người trai đi trước, tuy còn đi ngoài rào, nhưng đã kêu mà hỏi: - Bà Ba, bà mạnh giỏi hả bà Ba? Bà Ba Hạc không biết là ai, nhưng nghe kêu "bà Ba" trúng thứ của bà thì bà đứng dậy mà đáp: - Ờ mạnh giỏi. Bà đáp mà bộ lơ lửng, tay cũng còn cầm một củ khoai. Ba người đi ngay lại cái giếng chỗ bà Ba Hạc đứng. Người trai đi trước ngó bà và cười và hỏi: - Chắc bà quên tôi rồi hả? - Ơ… Tôi không nhớ rồi a... - Năm trước tôi theo mấy người vô kiếm bắn mển trong nầy, tôi có ghé nghỉ ở nhà bà đây bà quên sao? - Thiệt tôi quên. - Mấy năm rồi mà bà cũng vậy, không già hơn. Người ta nói ở chốn lâm viên thân thể khỏe khoắn nên lâu già, thiệt phải lắm. Vô đến đây tôi muốn ở luôn trong nầy. - Ở trong nầy buồn chết, cậu ở sao được. - Không. Vui lắm chớ, có buồn đâu bà. Đó, cu kêu đó. Nghe phải vui hôn? Tôi ưa quá. Chiều mát, nằm nghe tiếng cu kêu xa xa, trí khỏe khoắn không biết chừng nào. Nghe cu kêu, tôi muốn xin bà cho tôi ở đậu vài bữa chơi, được hôn bà Ba? - Nhà tôi nghèo, không có chỗ ăn chỗ nằm, cậu ở sao được. - Không hại gì. Bà cho tôi một tấm ván hoặc một cái chõng nhỏ đặng tối tôi ngủ thì đủ rồi. Tôi ở được mà, bà đừng ngại gì hết. Bà Ba Hạc la chó rồi buông củ khoai vô rổ, và cười và hỏi: - Cậu ở đây rồi lấy gì mà ăn? - Xin bà đừng lo. Bà ăn thứ gì, thì tôi ăn được vậy chớ. Tôi lập thế gài cu đất, gài gà rừng bắt làm thịt ăn. Tháng nầy trời mưa, trong rừng thiếu gì nấm. Đi kiếm nấm mối, kiếm măng le đem về xào hoặc luộc mà ăn, ngon lắm mà! Bà đừng ngại, như kiếm đồ ăn không được thì tôi sai người ở với tôi ra chợ mua thịt cá về ăn. - Có vậy thì được; ngặt nhà tôi xấu xa dơ dáy quá không xứng đáng chỗ cậu nằm; tôi ngại chỗ đó, chớ không phải tôi làm hiểm 1 với cậu. - Ở trong rừng đâu có nhà tốt bà. Tôi đã thèm đài cát, tôi muốn tìm thanh tịnh, nên tôi mới vô đây. Có lẽ nào tôi chê nhà bà hay sao mà bà ngại, bà Ba? - Thôi, mời mấy cậu vô nhà, vô rồi cậu mới thấy nhà tôi, trống trước trống sau, thiệt tệ lắm cậu. Bà Ba Hạc bỏ đống khoai mà vô nhà, ba người lạ đi theo, người trai đi trước ngó hai người đi sau mà cười. Nhà bà Ba thiệt là tệ, kêu chòi thì trúng hơn. Một cái chòi tranh ba căn xông: cột gỗ tuy lớn, song đẽo tròn chớ không bào lẵng; kèo và đòn tay đều bằng cây bằng lăng 2 có bào sơ, ở rừng thiếu gì cây tốt mà phải dùng tạp mộc. Căn giữa bỏ trống, không có làm cửa. Hai căn bìa thì đóng song tròn. Còn phía sau với hai đầu xông thì đóng bằng cây sến, đóng hở đến thọc hai ngón tay vô được. Ở đầu xông phía tay mặt, thì có cất nối một mái vại cũng lợp tranh, để nấu ăn. Đồ đạc trong nhà coi không có chi lắm. Ở căn giữa, phía trong, có một bồ lúa lớn, lúa của bà Ba làm ruộng ngoài suối gặt hồi tháng chạp bây giờ còn hơn nửa bồ. Phía ngoài thì để một cái bàn dài, hai bên có để chân ngựa đặng ngồi, chớ không có ghế. Căn xông phía trái, thì ở ngoài, kế song, có lót một cái chõng, còn ở trong có lót một bộ ván gõ dày cui 3 mà không dồi 4láng. Ván với chõng không lót sát vách xông, bỏ trống một khoảng để dựng cuốc, rựa, búa, cày, cần câu ở trên lại có móc mấy bó bố khô của bà Ba nhổ, đập, phơi hôm tháng trước để dành đánh 5 võng mà bán. Còn căn bên phía tay mặt, khít vại nấu ăn, thì ở trong có một cái giường để cho mẹ con bà Ba ngủ, ở ngoài có úp một cối giã gạo, dựa vách có dựng hai cái chày. Trên cái bàn dài ở giữa thì tộ đá, bình tích xanh, rổ đựng trầu cau, với một trái mít, để nghinh ngang, không có thứ lớp. Trên ván, trên chõng cũng vậy, thúng đậu xanh để một bên tĩn nước mắm, bao trà huế nằm chình ình trên mớ khoai từ. Dắt khách bước vô nhà, bà Ba day lại nói: - Mấy cậu thấy chưa? Tôi nói nhà tôi lôi thôi lắm. Người trai ngó vòng trong nhà rồi cười mà đáp: - Ở trong rừng thì nhà như vậy, có lôi thôi chi đâu. Tôi ở được mà. Xin bà làm ơn cho tôi ở đậu đầu trên đây; có bộ ván với cái chõng nầy thì thiếu gì chỗ nghỉ. Bà Ba nói: - Cậu muốn sao cũng được. Để tôi dọn đồ cho trống đặng trải chiếu mà nằm. Hai người vác đồ đi theo người trai nãy giờ không nói chi hết, bây giờ mới để va ly và gói xuống cái chõng. Chừng thấy bà Ba rinh thúng đậu thì hai người áp lại dành mà dọn dẹp, không để cho bà làm. Người trai trở ra sân, đứng nhắm tứ hướng, rồi đi vòng chung quanh nhà, đi lại coi cái nhà trống để nhốt bò và cất xe, trở qua coi vườn mít gồm trên hai chục cây, cây nào cũng có trái đeo lòng thòng, trái nhỏ chen với trái lớn, rồi đi thẳng vô mé rừng, đứng dòm đường xe bò, hai bên chồi đơm rậm rạp. Chừng trở vô nhà, người trai hỏi bà Ba: - Mé bên nây thấy có đường xe bò, đường đó đi đâu vậy bà Ba? - Đường đó ra đụng đường Kiểm Lâm phân ranh rừng cấm. Đường Kiểm Lâm ở từ ngoài chợ vô đây rồi đi thẳng vô Bào Đế có ngã vô Cà Tong, có ngã qua Thị Tính, qua Bến Cát, đi đâu cũng được hết, đi xa lắm. - Để rồi tôi đi ruồng trong đó coi rừng chơi. Có cọp hôn bà Ba? - Không. Ở đây có cọp hùm gì đâu. Nai hưu bị họ bắn quá nên bây giờ cũng ít. Người trai thấy hai người dọn quét ván chõng xong rồi mới nói: - Hai Phú coi dọn đồ nghe hôn; còn Năm Quí đi theo tôi chơi một chút. Vừa trở ra sân, người trai gặp con Quế ở đám đậu đi về móc cái nón trên cánh tay. Trong nhà bà Ba kêu nói: - Còn mấy củ khoai con rửa hết đi con, rửa đặng mai thím Tư đi chợ gởi cho thím bán. Người trai đứng ngó trân con Quế, tuy quần áo lôi thôi, tay chơn bùn lấm, nhưng mà nước da trắng nõn, mái tóc đen huyền, mặt mày tươi cười, tướng mạo dong dảy, nhứt là cái miệng có duyên dị thường, không cười mà như cười, môi đỏ tợ thoa son, hai hàm răng trắng trong lại nhỏ xíu. Thiệt là một đóa hoa rừng đương nở trong xóm Đường Long, đóa hoa không cần tay người săn sóc mà rất xinh tươi đẹp đẽ. Người trai ngó mê mẩn rồi gật đầu nói: - Cô em in là hồi nãy ngồi bón đậu đàng kia mà. Con gái của bà phải hôn bà Ba? - Phải. Con của tôi. Tôi có một mình con Quế đó. Quế chúm chím cười đi lại gần miệng giếng ngồi rửa khoai, không ngó khách, mà cũng không nói chi hết. Người trai dắt người kêu tên Quí hồi nãy mà đi lại đường xe bò, rồi bị cây bao phủ nên khuất dạng. Quế rửa riết khoai rồi hốt bỏ hết vô thúng bưng đi vô nhà, đặng lo nhúm lửa nấu cơm chiều. Bà Ba hỏi người kêu là Phú hồi nãy: - Cậu trai đó là ai, đi vô trong nầy làm chi mà xin ở đậu vậy cậu? - Cậu Sáu đó đa bà. Con của ông Hội đồng ở trên Châu Đốc, sang trọng giàu có lắm. Cậu Sáu tử tế hết sức, để rồi bà coi. - Hứ! Giàu có sang trọng thì ta ở nhà chơi phải sướng hơn, vô rừng làm chi cho cực khổ? - Ấy tại tánh cậu Sáu ưa thanh tịnh, cậu không muốn ở mấy chỗ phiền ba. Cậu còn học, lúc nầy cậu mệt nên ông bà biểu cậu nghỉ học để đi hứng gió ít ngày. Ở nhà thì cậu nói cậu đi Long Hải, mà chừng lên tới Sài Gòn thì cậu lại đi quẹo lên đây, cậu nói đi vô rừng kiếm chỗ thanh tịnh mà nghỉ mới khỏe. Cậu Sáu rộng rãi, lại biết thương con nhà nghèo. Bà cho cậu ở đậu, cậu sẽ đền ơn cho bà xứng đáng. Chắc chắn như vậy. - Ở thì ở, có gì đâu mà đền ơn. Cậu Sáu chưa có vợ con hay sao, nên đi chơi một mình như vậy? - Thưa, cậu còn học mà. Sách vở của cậu cả đống trong va ly kia, đi đâu cậu cũng bắt vác theo, nặng hết sức. Cậu ham học lắm, cậu nói đọc sách vui hơn là có vợ. - Con nhà giàu, lại trộng tuổi rồi, mà chưa cưới vợ thiệt là kỳ. Năm nay cậu Sáu được ba mươi chưa? - Trời ơi, đâu mà dữ vậy? Cậu mới hăm lăm tuổi. - Hai mươi lăm tuổi, cưới vợ vừa rồi, còn học nữa làm chi? - Thiếu gì nhà sang trọng muốn gả con cho cậu; tại cậu ham học nên cậu không chịu cưới vợ chớ. - Vợ chồng phải có duyên nợ thì mới hiệp nhau được. Chắc là cậu chưa gặp duyên nợ, nên trời khiến lòng cậu chưa muốn vợ. - Bà nói đó có lẽ phải a, bà Ba. - Dữ quá, đi chơi mà cậu Sáu đem tới hai người theo vác đồ. Ở đây tôi trồng tỉa, tôi kiếm mướn không được ai hết. - Không, bà. Có một mình tôi theo hầu cậu Sáu thôi. Anh Quí đó là người Châu Đốc, ảnh lên Thủ ở làm ăn. Ảnh gặp cậu Sáu ảnh mừng quá, ảnh xin đưa cậu đây rồi ảnh kiếm chỗ làm ăn. Ảnh biết tánh cậu Sáu rộng rãi, ảnh lập công đặng kiếm ít đồng bạc vậy mà. Con Quế nấu cơm, mà nó lóng tai nghe đủ các lời Phú nói với mẹ nó. Chừng cơm cạn, nó bước lên nhà trên hỏi nhỏ mẹ nó coi làm gà hay không. Bà Ba cười và nói lớn: - Không làm gà thì có gì đâu cho cậu Sáu ăn cơm chiều. Cha chả, mà gà đi ăn minh mông, bây giờ làm sao rượt bắt cho được. Phú lật đật can: - Khỏi làm gà, bà Ba à. Trong va ly có đồ ăn. Hồi trưa cậu Sáu có biểu tôi đi mua cá mòi hộp, bánh mì bộn bộn. Tôi cũng có mấy hộp chao nữa. Chiều nay ăn sơ sịa, rồi mai coi có ai đi chợ sẽ gởi mua thịt cá để dành ăn, hoặc tôi đi mua cũng được. Quế chen vô nói: - Khuya nầy có thím Tư Cam đi chợ. - Thím Tư đó ở đâu? Làm ơn chỉ dùm đặng tôi gởi mua đồ. - Khuya thím lại đây mà, lại lấy khoai của má tôi gởi bán. - Vậy thì tiện lắm. Chớ chi nhà có xe máy, mỗi bữa tôi mượn cỡi đi chợ lẹ quá. - Xe máy nghe nói bây giờ mắc lắm, làm sao mà sắm cho nổi. Hồi nãy cậu Sáu đi xe hơi mà. - Ừ, xe hơi của người quen với cậu ở dưới Thủ, đưa dùm cậu lên đây rồi xe về. - Hồi nãy tôi thấy còn đậu ngoài cầu. - Bộ khi sốp-phơ đậu nghỉ máy một chút chớ không phải ở luôn trên nầy đâu. Mặt trời gần lặn, người trai mà Phú kêu bằng cậu Sáu đó trở về, cậu thủng thẳng bước vô sân, về một mình, không có Quí đi theo. Con chó mực đã quen rồi, nên nó nằm mà ngó, không sủa nữa. Cậu Sáu vô cửa, bà Ba hỏi: - Ủa, còn cậu kia đâu? - Quí về rồi, sẵn có xe đậu ở ngoài cầu, nên ảnh theo xe ra Bến Súc. Nãy giờ tôi đi theo đường xe bò mà ra đường Kiểm Lâm coi chơi. Tuy rừng không có cây lớn, nhưng có cảnh thú trù mật thanh tịnh tôi chịu quá. Ở đây buổi sáng và buổi chiều trời mát đi chơi trong rừng chắc nhàn thú nực nồng khỏe khoắn lắm. - Ở rừng thì êm ấm hơn ở chợ. - Bởi vậy tôi thích ở rừng hơn. Cậu Sáu bèn hỏi thăm bề làm ăn cùng cách trồng tỉa ở chốn nầy, cậu hỏi đâu bà Ba trả lời đó Bà cũng như cậu, cả hai đều dùng lời thiệt thà hòa nhã mà nói chuyện, bà than không có vốn đặng mua phân và mướn công nhựt trồng tỉa cho nhiều; cậu khuyên trồng bông với, trồng bố, trồng gai, mới có lợi lớn. Phú hiệp với Quế lo dọn bữa cơm chiều. Phú lấy bánh mì, khui cá mòi, mở hộp chao, còn Quế, thì giở cơm, hâm mắm chưng, luộc rau muống. Đồ dọn lên bàn, bà Ba mời cậu Sáu đi ăn. Cậu nài bà Ba và Quế ăn với cậu cho vui. Bà nhứt định không chịu, ép cậu ăn trước rồi mẹ con bà sẽ ăn với Phú. Cậu Sáu ăn bánh mì, song cũng ăn một chén cơm cho vui lòng chủ nhà, cậu không chê đũa tre chén đá, mà cậu lại khen mắm chưng dịu, rau muống mềm. Thấy trời sẩm, Quế lấy hai thếp đèn mà rót dầu phộng rồi ra bếp mồi lửa đốt liền một thếp, bưng vô để trên bàn đặng sáng cho cậu Sáu ăn cơm. Bà Ba lên ôm trái mít ra sau mà xẻ bao giờ không ai hay. Chừng cậu Sáu ăn cơm rồi bà đem một miếng mít mời cậu tráng miệng, nói mít trồng ở đây cũng ngon như mít đất đỏ. Cậu Sáu cũng ăn vài múi mít cho bà vui. Cậu Sáu ăn rồi thì bà Ba kêu Quế biểu bưng dọn ngoài sân đặng mẹ con ăn với Phú cho sáng. Thằng Khoa lùa hai con bò vô chuồng rồi nó cũng ráp vô ăn cơm với chủ. Cậu Sáu thơ thẩn hứng mát theo mé rẫy. Gió tháng ba hiu hiu mát mẻ; trăng mùng 8 chói sáng giữa trời. Dưới bưng có tiếng bìm bịp kêu, trong rừng có tiếng gà rừng gáy. Tối một lát, cậu Sáu trở vô nhà nói chuyện chơi với bà Ba. Cậu tỏ ý muốn kiếm mua một sở đất ở đây mà lập vườn đặng lâu lâu cậu lên ở chơi. Nghe gà rừng gáy, cậu hỏi ở đây người ta có tìm cách nào đặng bắt thứ gà ấy mà ăn thịt hay không. Bà Ba nói trong nhà có rập, làm siêng giăng rập thì bắt được. Bà lại nói có bẫy để gài thỏ nữa, ngặt ban đêm con Quế không dám vô rừng một mình, nên không rập gà hay gài thỏ được. Cậu Sáu xin ngày mai bà dạy cho cậu đi làm. Con Quế cũng thỏ thẻ thuật lại cho mẹ nghe chuyện ông Ba Lung bị bọn cướp ở Trắc Sùm giựt hết 130 đồng bạc. Nó nói theo lời thím Tư Cam thì từ hôm qua ông Ba Lung cứ ngồi khoanh tay mà khóc, tội nghiệp hết sức, công làm củi mấy tháng trường cực khổ lại bị chúng cướp giựt hết. Bà Ba chắc lưỡi kêu trời tỏ lời oán hận bọn bất lương. Cậu Sáu hỏi rõ đầu đuôi rồi cậu cũng tội nghiệp cho người lương thiện, mãn năm trải nắng dầm mưa tay chai mặt nám mới làm ra tiền, rồi bị bọn gian ác hoặc dùng sức hoặc lập mưu mà cướp giựt. Phú đã sắp đặt rồi, đêm ấy cậu Sáu nằm ngủ ở bộ ván phía trong còn Phú ngủ trên cái chõng phía ngoài, cậu Sáu có nệm có gối, có mền đủ hết. -------------------------------- 1 Hẹp bụng, nhỏ nhen. 2(lat. Lagerstroemia calyculata Kurz.), còn được gọi là cây thau lau, dịch âm từ tiếng Khmer. 3 thật dầy. 4từ ngữ chuyên môn ngành mộc: trám những chỗ khuyết và đánh bóng. 5 thắt dây với ít nhứt 2 thẻ sợi, thí dụ đánh dây luộc, đánh võng. IV Trời gần sáng. Xa xa nghe tiếng chuông chậm rãi dộng bon bon rồi kế thím Tư Cam vô cửa kêu Quế đặng lấy khoai môn mà đi chợ. Cậu Sáu thức dậy đi ra ngoài. Phú đưa bạc cậy thím Tư mua dùm cá thịt. Bà Ba ra chuồng bò bắt một con gà trống tơ cột chân lại, tính bữa nay làm thịt đặng phân nửa kho mặn, phân nửa nấu canh chua. Quế ra giếng xách nước đổ mấy lu cho đầy hết. Trời sáng lần lần. Quế đội nón tính đi lại đám đậu đặng tiếp vun gốc đậu. Bà Ba kêu dặn: - Chừng nửa buổi con về đặng phụ với má làm gà nấu cơm ăn nghe hôn con. Quế ra tới sân gặp cậu Sáu. Cậu chận lại mà hỏi: - Cô đi đâu sớm vậy? - Tôi đi vun gốc đậu. - Khoan. Để cho tôi hỏi thăm một chút. Hồi hôm cô nói ai bị ăn cướp giựt 130 đồng bạc đó? - Ông Ba Lung. - Ổng ở đâu? Cô có thể dắt dùm tôi lại nhà ổng hôn? Quế dụ dự không đáp được. Thấy bà Ba ở trong nhà bước ra, Quế mới nói: - Ông Ba Lung ở trong kia... Cậu muốn đi thì biểu má tôi dắt cậu đi. Bà Ba tiếp hỏi: - Cậu muốn vô nhà anh Ba Lung làm chi? - Hồi hôm tôi nghe nói ổng nghèo, làm cực khổ đến mấy tháng mới có được 130 đồng bạc lại bị chúng giựt hết. Nghe như vậy tôi thương ổng quá. Tôi muốn cho ổng số bạc ấy đặng ổng hết buồn rầu. Thôi, bà Ba làm ơn đi dùm cho tôi. Để tôi đưa bạc cho bà đi. Cậu Sáu móc bóp lấy ra một trăm ba chục đồng bạc. Mẹ con bà Ba ngó nhau chưng hửng. Bà Ba hỏi: - Cậu cho tới một trăm ba chục đồng lận sao? - Cho không đủ số ổng mất, sợ ổng không hết buồn. - Cậu thương nên cậu làm phước, chớ phải cậu bồi thường hay sao mà cho đủ số mất? - Không hại gì. Ổng già cả, mình nên làm phước. Bà làm ơn đem bạc đưa cho ổng. - Số bạc lớn quá, tôi không dám lãnh. Thôi, để tôi vô kêu ảnh ra đây rồi cậu đưa cho ảnh. - Cũng được. Bà Ba bươn bã đi liền. Quế đi lại đám đậu. Cậu Sáu thủng thẳng đi theo Quế. Quế xới đất mà vun gốc đậu. Cậu Sáu đứng coi, làm cho Quế ái ngại không dám ngước mặt lên. Mặt trời ló mọc. Cậu Sáu kiếm một khúc cây mà xới cát làm với Quế cho vui, Quế nói phải có con dao hoặc cái cuốc làm mới tiện. Cậu Sáu nói để buổi chiều cậu kiếm con dao đem theo mà làm. Thấy từ cử chỉ cho tới lời nói của cậu Sáu đều đoan chánh, Quế lần lần hết ái ngại. Cậu Sáu hỏi: - Đám đậu như vầy chắc là trúng, phải hôn cô Quế ? - Trúng. Đất nầy đậu chịu lắm, năm nào cũng tốt. - Chừng cô nhổ ước được bao nhiêu? - Lối bốn giạ. - Chà, khá quá há? Sao bà Ba không tỉa thêm cho nhiều nữa, bỏ đất trống làm chi kia? - Không có người ta làm nên làm nhiều không được. Đất trống đó hễ mưa rào thì trồng bí. - Còn miếng rừng kế sau đây của cô hay là của chủ khác? - Của má tôi hết, vô tới đường Kiểm Lâm. - Sao không phá rừng mà trồng ? - Để rừng đặng bán củi. Phá rừng cốt gốc tốn công nhiều lắm; phải có tiền nhiều làm mới nổi; bởi vậy má tôi không dám tính tới chuyện đó, để lấy củi mà thôi. - Bán củi không sợ bị ăn cướp như ông Lung hay sao? - Bán ở đây mà sợ giống gì. - Ở đây không có ăn cướp sao? - Không có. - Sao cô chắc không có. Vô trong nầy ở thì êm ái khỏe khoắn thiệt, nhưng mà thấy vắng vẻ tôi sợ quá, hồi hôm tôi ngủ không an giấc. - Hổng có sao đâu cậu. Ở đây người ta thiệt thà, ai cũng lo làm ăn, không chịu gian giảo, bởi vậy ban đêm không cần đóng cửa. Cậu không thấy sao? Nhà nào cũng không có làm cửa. - Nếu bọn cướp nó hay, nó vô đây làm ăn dễ lắm. - Nghèo muốn chết, có vật gì đáng đâu ,nên trộm cướp không thèm. - Tôi tính tối nay đi gài thỏ hoặc rập gà rừng chơi. Không biết ban đêm đi vô rừng có hại gì hôn? - Hổng có sao hết. Ngặt lúc nầy có trăng sợ gài không có. - Có trăng, thỏ gà mới đi ăn chớ. - Cậu muốn đi thì thử coi. - Ngặt tôi không biết cách gài bẫy hay đặt rập thì đi sao được. - Để chiều tôi chỉ cách cho cậu biết. Dễ mà. Quế ngước lên ngó mặt trời rồi nói: - Thôi, để tôi về đặng lo nấu cơm. Cậu Sáu châu mày đáp: - Cô khỏi lo. Tôi có dặn Phú lo cơm nước. - Ảnh có biết gạo mắm để chỗ nào đâu. Lại má tôi có dặn làm gà. - Làm gà hay sao? - Phải. Má tôi có bắt gà cột sẵn rồi. - Ôi! Tôi làm tốn hao cho bà Ba quá! Quế ngó cậu sáu mà cười rất có duyên và nói: - Gà ở nhà nuôi, có tốn hao gì đâu. Quế đi về. Cậu Sáu cũng về theo, Quế ngó vô phía trong và nói: - Má tôi về kìa. Có ông Ba Lung theo ra đó. - Mắt cô thấy xa dữ. À, cô Quế, hồi khuya tôi có nghe tiếng chuông bon bon. Chuông ở đâu vậy? - Chuông trong chùa Kiến An, khuya bữa nào ông Thủ Tạ cũng tụng kinh dộng chuông. - Nghe tiếng chuông sao lòng tôi ngậm ngùi, khó chịu dữ. Để mai cô làm ơn chỉ cho tôi biết coi chùa ở chỗ nào, đặng tôi đi cúng Phật. - Cậu mộ đạo Phật lắm sao? - Đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ, bởi vậy đạo nào tôi cũng kính hết. - Cậu nhơn đức quá, hèn chi cậu tính cho ông Ba Lung tới bạc trăm. Cậu Sáu với Quế vô nhà một chút, thì bà Ba Hạc về tới có ông Ba Lung theo. Bà Ba bước vô nói: - Anh Ba ra đó, cậu Sáu. Thiệt ảnh nói họ giựt của ảnh chẳn một trăm ba. Một người đàn ông, quần áo lèn xèn, tóc bạc hơn phân nửa, miệng ngậm trầu, râu le the, mặt buồn bực song bộ mạnh mẽ lòm khòm vô cửa xá cậu Sáu đương ngồi tại bàn giữa. Cậu Sáu đứng dậy chào và mời ngồi. Ông Ba Lung, vì nghe người ta muốn cứu giúp mình, nên trong lòng kiêng nể, ông nhả trầu quăng ra sân rồi ngồi ghé bên cái chõng. Cậu Sáu nghiêm chỉnh ngó ông hỏi: - Tôi nghe nói ông đi bán củi về dọc đường bị ăn cướp giựt hết tiền bạc phải hôn? Ông mất hết bao nhiêu? - Tôi bán 21 thước củi, bán giá 6 đồng rười. Ông chủ lò chén tính tiền trả cho tôi 136,50 đồng. Ba người bạn chèo ghe mượn mỗi người một đồng. Tôi để cho họ 3 đồng đặng mua gạo mua cá ăn mà về. Tôi lên tới chợ Thủ thì xe hơi chạy rồi. Tôi ăn cơm hết 5 cắc bạc. Còn lại chẳn 130 đồng. Tôi tính đi về bộ, may gặp xe bò quen ở Cỏ Trách chở cao su xuống Phú Văn rồi về xe không. Tôi xin giang mà về cho khỏe chân. Đến nửa chiều, xe đương đi thình lình có ba người ngồi dựa mé đường đứng dậy chân xe. Một người cầm súng hai người cầm cây, biểu tôi với người đánh xe bò có tiền bao nhiêu phải đưa hết. Vì trong lưng có tiền nhiều nên tôi sợ chúng giựt hết nên tôi co giò nhảy xuống lộ và chạy và la làng. Một tên cướp xách cây chạy theo tôi, nó quất tôi một cây trúng cánh tay đau quá, tôi muốn ngã. Nó níu tôi đứng dậy rồi lật lưng lấy hết gói bạc. Bọn nó dữ lắm, nó muốn bắt luôn cặp bò. Người đánh xe bò lạy hết gối nó mới thả cho đi. Đây, cánh tay của tôi tới bữa nay mà còn sưng. - Ông bị giựt bạc tại khúc nào? - Tại chỗ có cây trắc lớn, người ta kêu là Trắc Sùm đó. - Tôi không biết Trắc Sùm hay Trắc sụp nào hết, song nghe ông là người lương thiện mà bị họa, thì tôi thương. Dày công lao khổ lắm mới có đồng tiền, mà có rồi lại bị người ta cướp giựt, nhiều khi buồn rầu mà chết được, chớ phải chơi sao. Ông già cả, thôi để tôi thường đủ số 130 đồng bạc cho ông. Ông đừng buồn rầu nghe hôn. Quân gian giựt của ông; tôi ngay mà tôi thường lại cho ông. Chuyện nghe trái đời thật. Nhưng ở đời nầy chuyện nào cũng trái hết, thì chuyện nầy thành ra hợp, chớ không có trái đâu. Cậu Sáu nói câu sau và nói và cười. Cậu lấy bạc ra đếm 130 đồng mà đưa cho ông Ba Lung. Ông Ba Lung đứng dậy lấy bạc và xá và nói: - Cậu thiệt là người nhơn đức, biết thương kẻ nghèo. Tôi vái phật trời phò hộ cậu luôn luôn, cho cậu giàu sang đặng cứu giúp thiên hạ. Cậu Sáu cười mà đáp: - Cám ơn ông. Cha chả mà một mình tôi thì làm sao cứu giúp cả thiên hạ cho nổi ông? Thôi, ông về nghỉ. Đừng rầu nữa, mà cũng đừng nói chuyện nầy cho ai biết làm chi. Mẹ con bà Ba Hạc đứng chỗ cửa xuống bếp mà nghe câu Sáu nói chuyện với Ba Lung. Chừng bà Ba thấy ông Ba Lung lấy bạc thì bà nói: - Phật trời thương anh lắm nên mới khiến cậu Sáu vô chơi trong nầy đặng cứu anh đó. Chừng về anh phải ghé chùa Kiến An mà lạy Phật. Nầy, về nhà anh ráng cất bạc cho kỹ, đừng để mất nữa, không lẽ bắt cậu Sáu thường hoài. Ông ba Lung cười ngon ngoẻn mà đáp: - Cậu Sáu nhơn đức, nên cậu bố thí, chớ thường giống gì. Quế ngó trân cậu Sáu một hồi, rồi xây lưng đi bắt gà làm thịt, mặt luôn luôn tươi cười. Bữa nay Phú vô bếp phụ với Quế lo nấu cơm. Phú dành làm gà nhưng tới nấu canh chua, thì Quế không chịu để cho Phú, khoe tài nấu canh chua gà ngon nhứt hạng. Buổi chiều ông Ba Lung gánh ra cho cậu Sáu một quày chuối cau, một chục củ khoai sáp, một con gà mái với một con vịt tơ, xin cậu Sáu nhậm lễ tạ ơn của ông. Cậu Sáu muốn trả tiền nhưng ông quyết định không chịu lấy, nói rằng ông đi lễ chớ không phải đem bán. Tuy cậu Sáu dặn ông Ba Lung đừng nói chuyện cậu cứu giúp cho ai biết, song chuyện ấy mẹ con bà Ba Hạc biết, tức nhiên thím Tư Cam cũng biết, rồi người nầy nói chuyền với người nọ, thành thử qua bữa sau cả xứ Đường Long không còn một người nào không biết. Ban đầu người ta khen lòng nhơn từ và cách hảo hớn của cậu, đến chừng người ta hay cậu vô chùa Kiến An đốt nhang niệm Phật, thì người ta lại đổi lời khen ra lời kính phục, kính người trẻ tuổi mà có Phật tâm, phục người sang giàu mà biết thương kẻ bần tiện. Có người trọng cậu thái quá, trọng đến nỗi cho cậu là "Phật tái sanh", rồi truyền ngôn rằng Phật hiện ra nơi chốn Đường Long để cứu nhơn độ thế. Hoặc Quế, hoặc bà Ba Hạc, hoặc thím Tư Cam, hễ có dịp thuật chuyện người ta kính trọng cho cậu Sáu nghe, thì cậu ái ngại hết sức, cậu chắc lưỡi cậu suy nghĩ, rồi cậu trách ông Ba Lung không kín miệng. Tuy cậu Sáu không muốn cho người ta biết cậu, song sự không muốn ấy người ta lại coi như đức tánh của Phật, bởi vậy người ta càng kính phục cậu hơn nữa. Sớm mơi hay là buổi chiều, cậu đi chơi dưới bưng hoặc trên mé rừng, già trẻ gặp cậu thảy đều cung kính chào mừng. Ai có dịp đi chợ cũng ghé hỏi bà Ba coi cậu Sáu có muốn gởi mua thứ gì đặng họ mua dùm cho cậu. Ai có trái cây hoặc khoai củ ngon cũng đem dâng cho cậu ăn chơi, cậu nài trả tiền, không ai chịu lấy. Cả thảy người ta đều kính phục cậu Sáu, Quế ở trong nhà, có lẽ nào nó lại ơ thờ. Quế cũng kính phục cậu lắm, tận tâm lo phụng sự cậu, cậu cần việc gì Quế cũng làm cho cậu vui lòng, bởi vậy có bữa cậu biểu Quế cho cậu theo ra rẫy giặm dây lang, thì nó vui vẻ vâng lời; mà chiều tối cậu biểu nó dắt cậu vô rừng rập gà hay gài thỏ, thì nó cũng chiều ý cậu, không dùng dằng mà cũng không e lệ chút nào hết. Cậu Sáu vô Đường Long ở chơi chưa được mấy ngày thì cả vùng nầy ai cũng vui, ai cũng chuộng, trừ ra có một người mà thôi. Người không vui đó là thằng Lực, đứa khật khùng ở đánh xe bò cho bà Ba Hạc. Thằng Lực đi xe củi cho Tư Cu, xe hết rồi nó đã đem xe với bò về vài bữa rày. Nó thấy trong nhà bà Ba bây giờ có hai người đàn ông, nhất là có một chú trai trắng trẻo nghiêm chỉnh, thì nó không vui. Mà chừng nó thấy chú trai đó được mẹ con bà Ba tưng trọng, chú đi đâu thường có Quế đi theo, thậm chí chiều tối chú vô trong rừng, Quế cũng đi với chú, thì nó lấy làm bất bình, rồi sanh lòng nghi kỵ, giận người ở đâu tới phá đám, oán mẹ con bà Ba trọng đồ lạc chợ trôi sông. Oán giận mà không dám nói ra, mỗi ngày nó cứ dành với thằng Khoa mà cỡi bò đi cho ăn, có lẽ nó tính ôm lòng oán giận vào rừng để than thở với cỏ cây chớ không muốn ở nhà mà thấy những cảnh đau lòng xốn mắt. Mẹ con bà Ba Hạc không dè nên không để ý đến cử chỉ trái đời của Lực. Cậu Sáu nghe nói Lực có tánh khật khùng thì cậu cũng không muốn nói chuyện với nó. Duy có Phú, người theo hầu hạ cậu Sáu, Phú cứ theo lân la với Lực và Khoa. Hễ rảnh việc cơm nước rồi thì Phú hay thả đi chơi, mà chẳng đi đâu khác hơn là đi kiếm coi Lực thả bò ăn lối nào, rồi có khi lại gần nói chuyện chơi với Lực, có khi ngồi dưới bóng cây xa xa mà ngó mây, ngó suối, ngó Lực, ngó bò, dường như người hiền thưởng thức thú lâm viên, hay là đứa ngu biếng nhác lánh công việc. Khi đến nhà bà Ba Hạc, thì cậu Sáu xin ở đậu vài ngày đặng cậu nghe cu kêu, hưởng nhàn thú. Mà ở đây đã hơn nửa tháng rồi, cậu chưa nói tới chuyện đi về. Còn mẹ con bà Ba, vì kính trọng, mà cũng vì mến, nên chẳng hề nhắc tới chuyện ấy. Có phước mới rước được khách quí vào nhà, làm cho khách quí đi rồi thì làm sao mà tìm lại được. Có đêm bà Ba nằm suy nghĩ, bà lo sợ cậu Sáu đi, nên bà tính kiếm cho biết coi tại sao cậu Sáu quyến luyến ở xứ nầy. Tại cậu mê con Quế, nên cậu không đành lìa nó mà về, phải hôn? Không có lẽ vậy. Cậu tử tế với mẹ con mình thiệt. Mình nghèo hèn mà cậu không khinh khi. Đối với con Quế, thì coi bộ cậu mến nó. Nhưng chẳng bao giờ cậu có tỏ một lời chọc ghẹo nó. Dầu đi bên cậu, hay đi giặm khoai, dầu đi rập gà hay đi gài thỏ, luôn luôn cậu giữ thái độ chỉnh tề đoan chính, không lả lơi ngả ngớn, không ghẹo nguyệt trêu hoa. Lại nào phải con Quế có sắc có tài như Dương Ngọc đâu mà rù quến được Thái Tử. Hay là cậu uất về việc nhà sao đó nên cậu không chịu về? Mình không biết gia đạo của cậu nên mình không đoán được việc đó. Hay là cảnh lâm viên làm cho cậu say mê, nên cậu quên hết cửa nhà cha mẹ? Để nhớ lại coi hơn nửa tháng nay cậu Sáu vui chơi cách nào, vui chơi đến nỗi quên về. Bữa nào cũng vậy, hễ khuya thì cậu dậy sớm, mà dậy rồi thì cậu đi ra ngoài, không biết đi đâu, đi cho tới mặt trời lên cao cậu mới trở về. Con Quế có đi làm rẫy thì cậu theo nó mà chơi, đến trưa mới về ăn cơm. Cậu không ngủ trưa, hễ ăn cơm rồi thì cậu cứ nằm coi cách cho đến xế cậu mới rủ con Quế đi xuống bưng hoặc đi ra rẫy. Nửa chiều thì cậu bắt con Quế đem bẫy rập theo đi vô rừng với cậu đặng kiếm chỗ gài thỏ, rập gà, có bữa ở đến tối mò mới về. Thỏ hay gà một hai khi bắt được, mà nhiều bữa bắt không được. Tuy vậy mà cậu không mòn chí, bữa nào cũng lò mò đi gài bẫy, rập hoài. Chơi như vậy cậu vui lắm hay sao, nên chơi hoài, quên nhà quên cửa? Chú Quí vác đồ cho cậu lại đây hôm trước, hễ đôi ba ngày thì chú có trở lại một lần, chú nói bây giờ chú làm mướn ở phía ngoài, nên chú vô thăm cậu Sáu là người đồng hương của chú. Hễ có Quí đến thì cậu Sáu nói chuyện một chút rồi rủ Quí đi chơi, đi một hồi rồi cậu Sáu trở về một mình, nói Quí đã đi về luôn rồi. Đi chơi với Quí có thú vui gì hay không? Mình không có đi theo, nên việc đó mình không hiểu được. Bà Ba Hạc nằm suy nghĩ đủ điều, mà bà cũng không hiểu trí ý của cậu Sáu được. Quen tánh chất phác, bà suy nghĩ không ra thì thôi, bà không cần phải nhọc trí mà tìm tòi nữa. Cậu Sáu không tính về mà bà lo nỗi gì? Không biết chừng cậu xin ở đậu vài tháng mà bà nghe lộn, nên bà tưởng vài bữa. Bây giờ cậu ở luôn cho tới mãn năm, chắc bà cũng sẵn lòng, thiệt như vậy. Cách ít ngày sau, một buổi trưa, Quí vô thăm cậu Sáu, khoe ở xóm gần cầu có một đám bông vải họ trồng lên mạnh lắm và rủ cậu đi coi. Cậu Sáu đi bữa nay cậu lại biểu Phú đi theo nữa. Ba người đi ngã rừng, chớ không đi theo bưng. Đến nửa chiều, Phú trở về một mình, nói cậu Sáu biểu về lo nấu cơm chiều và về kêu Quế đem bẫy cho cậu gài thỏ, cậu ngồi đợi Quế chỗ cây dầu ngã. Bà Ba hối Quế đi liền kẻo cậu Sáu trông. Quế vác bẫy vô chỗ cây dầu ngã. Thiệt quả cậu Sáu đương ngồi chờ tại đó, cậu khoanh tay ngồi bên gốc cây dầu, sắc mặt buồn hiu. Quế đi gần tới thì ngó cậu mà cười trong lòng hân hoan nên lộ ra mặt tươi rói. Cậu Sáu chỉ dưới đất biểu Quế ngồi, bộ rất nghiêm chỉnh. Quế dụ dự ngó cậu như muốn hỏi cậu ngồi làm chi. Cậu Sáu chậm rãi nói: - Bữa nay qua có chuyện không vui. Em ngồi đặng qua nói cho em nghe. Gần một tháng nay, hễ nói với Quế thì cậu Sáu xưng "tôi" và kêu Quế bằng "cô". Hôm nay cậu đổi mà dùng tiếng "qua" và tiếng "em", hai tiếng ấy làm rung dộng cả tâm hồn Quế, nên Quế biến sắc, trong lòng nghi ngại, sợ, lo lộn xộn. Quế quăng bó bẫy trên đám chồi, thủng thẳng ngồi xuống, ngồi chồm hổm trước mặt cậu Sáu. Cậu chong mắt nhìn Quế, nhìn mà không nói chi nữa hết. Quế không dám ngó cậu, cúi bẻ chồi bên chân, miệng chúm chím cười, cái cười thơ ngây động trên gương mặt thiệt thà mà rực rỡ. Cậu Sáu lặng thinh ngồi nhắm đóa hoa rừng một hồi, rồi cậu lắc đầu mà nói: - Chắc nay mai qua sẽ xa em, không biết xa rồi có gần lại được nữa hay không. Qua gặp em, trời xuôi khiến qua đem lòng thương em, qua thương như qua thương sự sống của qua vậy. Khoảng đời của qua gần một tháng nay là khoảng đời vui vẻ sung sướng, khỏe khoắn, an ổn nhứt, thuở nay qua chưa được biết. Qua muốn kéo khoảng đời nầy ra, cho thiệt dài, đặng luôn luôn sống một bên em, không thèm nhớ tới nhân tình thế sự. Ngặt qua thiếu phước, nên Phật Trời cho qua hưởng sung sướng một chút mà thôi, không để qua hưởng lâu. Vậy trong giăng rừng Đường Long nầy đã quen mặt qua và bên cây dầu ngã đây chứng nhận lời qua, bữa nay qua nói cho em biết rằng dầu qua đi, song luôn luôn em ở trong tâm trong trí qua, chắc chắn không giây phút nào qua quên em được. Cậu Sáu không nói nữa. Quế liếc mắt dòm cậu thấy hai hàng nước mắt chảy dài xuống gò má cậu. Quế cũng khóc, đưa cánh tay quẹt nước mắt và thỏ thẻ hỏi: - Cậu đi đâu. Cậu Sáu châu mày dụ dự rồi thở ra mà đáp: - Có biết đi đâu mà nói. Quế nói tiếp: - Vậy mà tôi tưởng cậu về nhà chớ. Cậu Sáu ngó sửng Quế, ngó chớ không nói nữa. Quế thỏ thẻ: - Như cậu còn đi chơi nữa, thôi cậu nói với má tôi đặng dắt tôi theo nấu cơm cho cậu ăn. Cậu Sáu thở một hơi dài rồi lắc đầu đáp, đáp lớn: - Không được... Không thể được... Qua không nên làm khổ cho thân em. Quế khóc, bây giờ khóc rấm rức, nước mắt nước mũi chàm ngoàm. Cậu Sáu lấy cái khăn trắng trong túi ra vói lau mặt cho Quế rồi cậu đứng dậy, nắm cánh tay Quế kéo đứng lên, và kéo và nói: - Qua bậy lắm!... Nói làm chi cho em buồn...Qua ở đây, ở với em không đi đâu hết. Thôi, em vui đi đừng buồn nữa. Quế ngó cậu và cười. Cậu buông cánh tay Quế mạnh dạn bước lại bụi chồi gom ôm nắm bẫy và nói: - Thôi, hai đứa mình đi kiếm chỗ mà gài bẫy. Trời gần tối rồi. Vái trời đêm nay cho bắt được vài con thỏ làm thịt ăn chơi. Cậu Sáu hăm hở tránh bụi, tuông chồi mà đi, Quế níu cánh tay cậu mà đi theo dường như sợ cậu đi lạc mất, chân bước gọn gàng, mặt mày hớn hở. Mặt trời chiều chói ngọn cây sáng lòa. Cặp cu đất đậu trên nhánh cây sến tiếp hơi nhau mà gáy cù cú cu, tiếng thảnh thơi, trong trẻo, hòa nhã, nồng nàn. Trong lúc cậu Sáu với Quế dắt nhau đi kiếm chỗ gài bẫy, Phú ở nhà lui cui trong bếp lo bữa cơm chiều. Một người bước vô sân, Con chó mực xông ra đón sủa, Phú đứng dậy gọn gàng, mắt chăm chú ngó người vô đó không biết là ai, hổm nay chưa thấy tới nhà bà Ba lần nào. Bà Ba lại cửa đứng la chó và hỏi: - Cậu đi đâu? Có chuyện chi hay không? Phú biết bà Ba không quen với người ấy, Phú bước lại đứng dựa vách, kề mắt vào lỗ trống mà dòm lên nhà trên. Người ấy vô nhà, mắt dớn dác ngó cùng trong nhà và ngó và nói: - Tôi làm củi phía sau đây. Tôi nghe nói dì có xe bò nên ra hỏi mướn xe củi ít bữa. - Có Tôi có một cái xe, hỗm nay để bò nghỉ nên không xe cho ai. - Vậy thì dì để cho tôi mướn, được lắm? - Được. Xe từ đâu ra đâu? - Từ rừng cúp sau đây ra Bến Súc. - Xa dữ! Lóng nầy xe mỗi thước 2 đồng 8, xe nào cũng vậy. Cậu bằng lòng giá đó hay không? Chớ chi xe ra cầu Xi-nô thì rẽ hơn. - Không. Tôi mượn xe ra Bến Súc đặng chở cho tiện. Dì bớt chút đỉnh không được hay sao dì? - Hổng được. Cậu đi mướn chỗ khác thử coi, ai cũng xe giá đó hết. - Được! Tôi chịu mướn. - Chừng nào khởi sự chớ? - Khuya nay. Dì biểu xe ra cho sớm đặng tôi chỉ chỗ một lần cho người đánh xe biết mà xe. Lực đuổi bò về. Bà Ba kêu nó vô mà dặn đêm nay phải cho bò ăn no đặng khuya đi chở củi. Lực hỏi chở củi chỗ nào. Người mướn xe nói: - Khuya anh đem xe vô đường Kiểm Lâm rồi tôi sẽ chỉ chỗ cho anh chở. Tôi chờ anh ở đó. Hễ sao mai mọc thì anh đi, vô đó sẽ có tôi. Người ấy từ giã trở ra sân. Lực đi ra chuồng bò. Người ấy đi theo Lực, đứng ngó bốn con bò, nói chuyện với Lực ít câu rồi đi. Phú lên nhà trên hỏi bà Ba: - Ai đó bà Ba ? - Tôi không biết. Chắc là người ở đâu ngoài Bến Súc, họ đấu giá rừng cúp rồi vô ở đây làm củi. - Tôi coi dường như Lực biết người đó. - Ừ, có lẽ nó biết. Nó đi xe củi hoài, tự nhiên nó biết mấy người làm củi. Đến tối mò cậu Sáu với Quế mới về tới nhà, Quế nói nói cười cười, bộ vui vẻ khác thường, còn cậu Sáu thì vẫn nghiêm nghị như hổm nay, nhưng nếu ai có tài quan sát tinh đời, thì sẽ thấy trong cặp mắt cậu có vẻ lo ngại nhiều ít. Ăn cơm tối rồi cậu Sáu ra sân ngồi trên khúc cây khô dưới tàn cây đu đủ mà hứng gió. Mùng ba trăng lưỡi liềm chen lặn, sao trên trời tứ giăng nên sân không tối lắm. Quế ra vô lăng xăng dường như cố ý thăm chừng cậu Sáu. Dọn dẹp xong rồi, Phú cũng ra sân, lại ngồi chồm hổm trước mặt cậu Sáu mà nói chuyện nho nhỏ. Cách một lát, cậu Sáu vô nhà và lên ván nằm êm. Phú vẫn ở ngoài sân, ở cho tới chừng mẹ con bà Ba đi ngủ mà Phú cũng chưa vô. Đến khuya cậu Sáu thức dậy rọ rạy một chút rồi đi ra ngoài. Quế nhè nhẹ bước xuống giường đi rửa mặt rồi ra giếng xách nước. Quế không dòm thấy có Phú nằm trên chõng mà cũng không thấy Phú ở chỗ nào, chỉ thấy dạng cậu Sáu ngồi êm trên khúc cây khô như hồi hôm ngồi bên gốc cây đu đủ. Lực ngủ ngoài chuồng bò nó dậy cho bò uống nước rồi mắc một cặp bò vào xe mà đánh đi, tiếng xe kêu lét két. Xe đi gần cái giếng, Lực thấy Quế đương xách nước thì kêu mà nói: - Quế, ở nhà ráng chơi nhé, chơi cho vui, chơi riết đi... Quế không thèm trả lời, mà cũng không thèm nghĩ tới ý nghĩa mấy câu dặn dị kỳ ấy. Xe đi vừa khuất thì cậu Sáu đứng dậy ngó vòng bốn phía rồi thủng thẳng nhẹ bước đi vòng sau hè. Quế buông cái gàu lật đật đi vòng phía nhà bếp mà ra hè dường như muốn chận đường cậu Sáu. Nó thấy cậu đương băng ngang qua mấy liếp mía mà vô mé rừng thì nó chạy theo kêu hỏi nho nhỏ: - Cậu đi đâu đó cậu Sáu? Đi thăm bẫy hả? Đợi tôi đi với. Cậu Sáu đứng khứng lại, day ngó Quế lố dạng mờ mờ giữa cảnh trời khuya xám xám. Đi tới, Quế vui vẻ nói: - Bữa nay chắc có thỏ mắc bẫy, để tôi theo tôi bắt. Cậu Sáu đứng lặng thinh, dụ dự. Quế đưa tay xô cậu nhè nhẹ và nói: - Câu đi trước đi... - Qua muốn em ở nhà. - Không. Để tôi đi với. Trời còn tối, cậu đi một mình trong rừng, cậu lạc đường à. Cậu Sáu cương quyết nói: - Thôi, muốn đi thì đi. Hai người đi vô rừng. Ở chân trời hướng đông đã đâm mây ngang hừng sáng. Trên nhành chim thức dậy nói chuyện líu lo. Trót một đêm tăm tối im lìm, bây giờ cảnh vật dường như mở mắt sống lại. Trên đường xe bò từ nhà bà Ba Hạc vô rừng cấm bây giờ lại có tiếng xe đi lét két, xe ở trong rừng đi trở ra bưng, trên xe có tiếng nhiều người nói chuyện lào xào. Xe ra ngang nhà bà Ba thì ngừng. Chín mười người trên xe chen nhau nhảy xuống đất, người mang súng người cầm cây, bộ hăm hở dữ tợn. Họ áp bao chung quanh nhà bà Ba Hạc, rồi một người đứng giữa sân tay cầm súng chỉ ngay vô cửa và kêu và nói: - Ai ở trong nhà thức dậy ra đây coi nào. Ra hết đây. Ra mau mau. Mấy người khác tiếp kêu om sòm, tiếng kêu rất cứng cỏi, mạnh mẽ. Bà Ba Hạc đương ngủ, bà giựt mình, rờ không có Quế, bà gọn gàng bước xuống đất rồi xông ra cửa. Trời sáng mờ mờ, bà thấy nhiều người đứng trước sân, bộ muốn làm dữ, thì bà kinh hãi, đứng run lập cập. Một người nạt lớn: - Bà già sao đứng đó? Kêu hết trong nhà ra đây cho mau. Bà Ba dòm chỗ thầy trò cậu Sáu ngủ, bà không thấy ai hết, trong nhà vắng hoe, bà nói: - Đi đâu mất hết. Có một mình tôi chớ có ai nữa đâu? Một người nói: - Bà có chứa hai thằng ăn cướp, bà đừng lẽo lự. Bà ra đây coi nào. Áp vô xét nhà đi. Ai ở phía sau coi chừng nghe hôn. Bà Ba rón rén bước ra sân, mặt mày tái mét. Ở trong có tiếng nói: - Thiệt không có ai hết. Kiếm kỹ rồi. Trong bồ lúa hay dưới giường, dưới ván chỗ nào cũng coi rồi. Không có. Ở ngoài hỏi: - Có đồ đạc còn đó hay không? Ở trong đáp: - Không. Ván chõng đều trống trơn. Người đứng giữa sân ra lịnh nãy giờ đó xông vô nhà, bổn thân đi thâu đi kiếm nữa, rồi trở ra nói: - Chắc có ai thông tin nên chung nó biết mà trốn đi trước chớ gì. Đâu kêu tên Lực đánh xe bò vô đây coi. Lực xăm xăm đi vô sân. Bà Ba chưng hửng. Té ra thằng Lực chở người ta đến vây nhà chủ nó! Bà Ba rất ngao ngán. Người lại mướn xe bò hồi chiều hôm qua nhảy ra thộp ngực Lực mà hỏi: - Sao mấy thông tin cho bọn ăn cướp trốn mất vậy hử? - Trời ơi! Tôi dại gì mà thông tin. Tôi ghét tụi nó lắm, nhứt là thằng nhỏ kêu là "cậu Sáu" đó nên tôi mới mách đặng bắt nó chớ. Người ta nói tôi khùng hứ! Tôi dễ khùng đâu, tôi khôn lắm chớ. Hồi tôi đánh xe đi tôi thấy con Quế đương xách nước, lại có dạng một người ngồi dựa gốc đu đủ in là cậu Sáu. Chắc nó mới rút vô rừng chồi ở sau đây. Mấy ông ruồng mau mau chắc bắt được. - Chắc mầy mới thấy thằng kêu là "cậu Sáu" phải hôn? - Phải. - Thôi, vài người ở giữ bà già...nầy ..còn. bao nhiêu rã vô rừng ruồng kiếm. Đi cho mau bớ anh em. Ai bắt cho được cậu Sáu đó thì công lớn lắm. Bảy tám người cằn cây mang súng đi vô rừng, ai cũng hăng hái nặng nhẹ. Trời đã sáng rồi hai người còn lại mới dắt bà Ba Hạc vô nhà ngồi chờ mấy người kia. Một người hỏi bà Ba: - Sao bà dám chứa đầu đảng của bọn cướp Trắc Sùm trong nhà bà cả tháng nay vậy? - Tôi có biết đâu. Ai đầu đảng? - Thằng kêu là Cậu Sáu đó! - Hứ, có lẽ nào, cậu Sáu nhơn đức tử tế lắm mà. . , chẳng tin hỏi thử hết thảy xóm này mà coi. - Bà lầm. Mà xóm này cũng đều lầm hết thảy. Nó là thằng dữ tợn cầm đầu bọn côn đồ sai khiến chúng giựt đồ, cướp của giết người không có cái án nào mà nó chừa. Có tờ tập nã nó mấy tháng nay, hễ bắt được nó thì chắc chắn nó bị xử tử. - Trời ơi? Tôi đâu có dè đâu. Vậy mà nói là học trò, con của nhà giàu có sang trọng ở trên Châu Đốc chớ. - Ừ, phải nói như vậy, mới ẩn mặt được chớ! - Trời đất ơi! Tôi thiệt thà, tôi tin người ta cũng thiệt thà như tôi nên tôi phải mang họa, khổ chưa? - Không, bà là người quê mùa khờ dại, chắc người ta nghe, xét tình ngay mà châm chế cho bà. - Mô Phật, lòng tôi ngay thẳng. Xin Phật Trời làm chứng dúm cho tôi. Một tiếng súng nổ trong rừng. Hai người ở giữ bà Ba liền đứng dậy nhìn nhau mà nói: - Rồi… chắc gặp nó nên bắn nó chớ gì. - Phải chi mà bắt sống nó mới tài chớ bắn nó có giỏi gì đâu? - Không biết chừng nó nổ súng chống cự. Nghe nói nó có súng thì nó giết mình còn gì? Quân đó hễ gặp thì bắn nhầu cho nó chết, để làm chi. - Tôi không đồng ý với anh về khoản đó. - Tôi tiếc quá, hồi nãy tôi không dành mà đi. Để ngồi chông ngốc mà chờ như vầy, thiệt là khó chịu hết sức! - Anh đi, anh chắc làm được hay sao? - Hễ tôi gặp nó thì tôi hạ liền, chạy đâu cho khỏi? - Anh chắc chắn như vậy? Nghe tiếng người ta hú hí và nói rang trong rừng, hai người đi ra phía sau hè đứng ngó. Bà Ba có thằng Lực cũng đi theo, bà Ba nói nhỏ với Lực: - Mầy đó nhe. . . mấy là đồ phản chủ, mầy độc ác lắm. Cách một lát sau có hai người khiêng một người, chân tay lòng thòng ở trên rừng đem ra. Mấy người khác đi theo, hai bên nói cãi với nhau om xòm. Hai người đứng chờ sau hè liền áp ra đón coi. Bà Ba cũng đi ra thì không thấy con Quế mà bà ngó người nằm cho họ khiêng, mặc đồ đen,.tức nhiên cũng không phải là cậu Sáu. Bà vuốt ngực nói lầm thầm: - Nam mô A-di-đà Phật. Hai người ở nhà kêu hỏi mấy người đi: - Hạ được thằng đầu đảng rồi hả? - Không. Nó dông rồi, bắt không được. - Vậy chớ khiêng ai đó? - Tụi mình. - Sao vậy? - Bị nó bắn chớ sao. - Trời! Sao không bắn nó, lại để cho nó bắn? - Anh nầy ảnh gặp nó, ngặt ảnh không có súng, lấy gì mà bắn. - Tức quá! Phải hồi nãy tôi đi thì nó không thoát khỏi tay tôi. Nó bắn trúng nặng hôn? - Trúng cánh tay. Ra máu nhiều, nhưng không sao, ảnh tỉnh táo như thường. - Mấy anh thiệt là dở. - Thôi đi cậu. Đừng có nói phách. Nó lanh lẹ lắm, bắt nó không phải dễ đâu. Người ta khiêng luôn bịnh nhân vô nhà, để nằm dài trên cái bàn giữa, rồi lấy khăn bó chặt chỗ vết đạn. Người đứng giữa sân mà chỉ huy hồi khuya, bây giờ mang cây súng trên vai, bước lại rờ trán người bịnh và hỏi: - Em khỏe hôn? - Thưa, khỏe... Khát nước quá. - Ý! bị đạn, không nên uống nước. Phải ráng mà chịu. Em gặp nó chỗ nào? Gặp sao không kêu la, lại xốc vô làm chi mà bị nó bắn? - Tôi không thấy nó cầm súng, nên tôi mới tính dùng roi mà hạ nó. - Nó cầm súng, ở xa nên em thấy sao được. Gặp chỗ nào? Đâu em nói sơ nghe coi. - Tôi cặp nách cây roi đi tới chỗ cây sao lớn đó, tôi thấy có hai người đang ngồi dựa gốc sao. Tôi muốn kêu mấy bà con. Nhưng sợ động nó dông đi mất đi. Tôi mới núp mà chuyền bụi nầy qua bụi kia, tính đi vòng ra phía sau rồi lén lại gần mà quật hết hai đứa. Chẳng dè chúng nó thấy tôi. Hai đứa đứng dậy hết, một thằng trai và một đứa gái. Đứa gái có xách con thỏ. Chúng nó ngó tôi hườm hườm. Không cần phải núp lén nữa, tôi vụt la lên cho bà con hay, và la và nhảy riết tới tính đánh bắt nó, kẻo nó chạy. Hai đứa cứ đứng đó, đứng khít nhau. Chừng vừa lằn roi, tôi mới huơi roi mà đánh. Đứa gái thiệt lớn gan. Nó vụt con thỏ vô mặt tôi rồi a tới đưa tay quyết bắt roi. Thằng trai một tay níu đứa gái lại, còn một tay đưa ngay tôi. Ngọn roi tôi chưa xuống thì nghe một tiếng bùm, tôi buông roi, té ngửa. Chừng ấy tôi mới hay nó có súng. Việc ấy xảy ra lẹ như nháy mắt. Tuy ngã, mà tôi thấy hai đứa nó chạy, đứa gái chạy trước dẫn đường, thằng trai chạy sau phòng thủ. Chừng mấy bà con áp lại, thì chúng nó chạy mất đã lâu rồi. - Thôi, bây giờ phải chở liền em ra nhà thương đặng múc đạn và băng bó. Mấy người biểu quay xe bò lại, lót đồ cho êm, rồi khiêng bịnh ra. Làm mau, mau đi. Người ấy kêu hỏi bà Ba Hạc: - Bà già kia, bà chứa trong nhà mấy đứa? - Có hai người lại xin ở đậu hổm nay đó thôi. - Hồi khuya nầy chúng nó đi đâu? - Cái đó thiệt tôi không biết. Hồi đầu hôm, tôi đi ngủ, thì còn đủ hai người. Tôi ngủ rồi họ lén đi hồi nào tôi không hay. - Đồ đạc của chúng nó đâu? - Hổm nay họ để trên cái chõng kia. Họ đem đi đâu hồi nào tôi cũng không biết. Hồi khuya mấy ông vô, tôi còn ngủ đó, không thấy sao? - Còn đứa con gái nào xách thỏ đi với thằng trai đó. - Tôi không thấy thì tôi có biết ai mà nói. - Bà chứa ăn cướp nên phải bắt bà. - Tội nghiệp tôi quá. Tôi có dè ăn cướp đâu mà mấy ông bắt tôi. - Ra ngoải rồi sẽ đối nại. - Tôi đi rồi nhà cửa, đậu khoai ai coi? - Ồ! Bà đi thì để đó, rồi trưa chiều thằng đánh xe bò nó trở về nó coi. - Thằng khùng đó mà giao cho nó, thì càng thêm khổ. Nó đốt nhà chớ phải chơi sao. Bịnh nhân đã khiêng để nằm trên xe rồi. Bà Ba Hạc thấy thằng Khoa đứng ngoài chuồng bò, bà kêu mà dặn nó coi nhà rồi bà lên xe đi với họ. Xe ra khỏi sân, bà thấy có thím Tư Cam đương đứng gần đám đậu, bà gởi luôn nhà cửa, bò xe, đậu khoai cho thím, cậy thím gìn giừ dùm. Thím gật đầu. Xe đi khỏi rồi thím vô nhà bà Ba kêu thằng Khoa mà chỉ cho nó dọn dẹp trong nhà, thím quản xuất cũng như chủ nhà vậy. Đến chiều thằng Lực đem xe bò về. Nó thấy thím Tư Cam ở trong nhà, bộ nó không vui, nhưng hồi sớm mơi bà Ba cậy thím Tư trước mặt nó, nên nó buồn mà không dám nói ra. Sáng bữa sau Lực đuổi bốn con bò đi ăn. Đến trưa bò tự nhiên trở về chuồng, mà không có Lực về. Luôn mấy bữa rày Lực biệt tích, hỏi thăm thì không ai thấy mà chỉ. Việc xảy ra ở nhà bà Ba Hạc làm náo động cả vùng Đường Long mấy bữa rày. Người ta lấy làm lạ mà hay cậu Sáu nhơn từ nho nhã, lễ nghĩa đó là đầu đảng của bọn cướp vùng Trắc Sùm. Người ta lại không lấy làm lạ mà hay con Quế, một đóa hoa rừng tươi tốt, nặng tình với cậu Sáu, trong cơn dông gió dám hy sinh tánh mạng đặng bảo hộ tình lang. Người ta đoán bà Ba Hạc vì thiệt thà quê dốt nên bà lầm lỗi, chớ không phải bà cố ý chứa kẻ bất lương, bởi vậy có lẽ bà khỏi tội. Người ta nghi thằng Lực khùng, vì nó muốn hại cậu Sáu, nên nó bị bọn cướp Trắc Sùm bắt cóc mà trả thù, chớ không phải nó trốn đi đâu hết. Ông Ba Lung thuật hết chuyện nầy cho chúng tôi nghe, ông pha cho chúng tôi mỗi người một tô trà quế bọt vun chùm nữa, rồi ông vuốt râu chúm chím cười mà kết luận: - Trong chuyện nầy người nào cũng trái đời: Bà Ba Hạc thiệt thà đạo đức mà bà lại chứa đầu đảng ăn cướp. Tôi bị ăn cướp giựt bạc. Đầu đảng lại bồi thường đủ số cho tôi. Con Quế, là một đóa hoa rừng, mà nó lại nặng tình với một tên cường khấu. Đầu đảng ăn cướp mà lại biết lễ nghĩa, kính Phật trời, được gái yêu được người trọng. Thằng Lực khùng khịu mà lại kêu đòi, muốn kết tóc với gái xinh, muốn không được rồi sanh tâm hại nhơn, phản chủ. Trái đời hết thảy! Vĩnh Hội, 17 Septembre 1944. Hồ BIểu Chánh Một Đời Tài Sắc LỬA HỒNG xuất bản 1957 vietmessenger.com 1 Năm 1929 tháng Juillet. Mưa dầm dề luôn mấy ngày, rồi một buổi chiều sớm mơi, bầu trời thanh bạch, mặt trời ló ra chói nắng sáng lòa. Cây cối bị ướt loi ngoi mấy bữa, nay gặp nắng lại, giũ lá phơi ngành, trổ bông đâm tược, từ ngoài ruộng vô tới trong vườn, khoe một màu xanh lặc lìa, coi thiệt là khỏe mắt. Ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp, nhà ở làng Phú Lợi gần chợ Cái Tắc, thuộc tỉnh Cần Thơ, có tánh hay trồng bông trồng kiểng; mấy bữa rày bị mưa, ông không chăm sóc kiểng vật của ông được, nay thấy trời nắng, ông mới bước ra sân. Con gái lớn của ông là Võ Thị Xuân Hương, 18 tuổi, học trên Sài Gòn, thi đậu, ông mới rước về, cô cũng đi theo ông ra ngoài sân mà thăm hoa xem kiểng. Ông hội đồng tay cầm cái kéo nhỏ, đi vòng theo mấy chậu bùm sụm, quít tàu, càng thăng mà hớt đọt bắt sâu. Cô Xuân Hương thì đi dài theo mấy liếp bông hường, lo chỏi mấy nhánh bị mưa oằn, gặp cái bông nào tốt thì cô cầm mà coi, mặt gần bông, bông giọi mặt. Mặt càng đẹp, bông càng xinh. Thình lình nghe có tiếng xe hơi ồ ồ ở xa chạy lại, tới ngang cửa, xe chạy chậm rồi quanh vô sân. Ông hội đồng ngó ra rồi nói với con rằng: „Xe nầy của ông Cai Tổng bên Thạnh Hòa mà". Xe ngừng giữa sân, hai vợ chồng ông Cai Tổng Hà Thiện Bình leo xuống. Ông hội đồng bước tới chào mừng. Cô Xuân Hương cũng lại gần chấp tay cúi đầu thi lễ. Bà Cai Tổng Bình ngó cô Xuân Hương và hỏi rằng: - Bày trẻ ở nhà coi nhựt trình nói con thi đậu bằng cấp gì đó rồi phải hôn? - Dạ thưa phải. Con thi đậu „Brevet Élémentaire". - Giỏi à! Bác nghe nói nên lật đật qua đây mà mừng cho con. Thằng Ý ở bên Tây nó cũng đậu Tú Tài kỳ nhì rồi, nó mới đánh dây thép về hôm qua. Có má con ở nhà hôn? - Thưa có. Ông Cai Tổng Bình tiếp hỏi Xuân Hương rằng: - Con đậu „Brevet Elémentaire" rồi con tính đi học nữa hay là thôi? - Thưa, con tính xin với má cho con học thêm ít năm nữa đặng thi „Brevet Supérieur". - Được a. Con học được thì học luôn cho đến cùng. Thằng Ý đậu Tú Tài rồi nó tính học luật. Học luật phải học 3 năm nữa mới được Cử Nhơn. Ông Hội đồng Nghiệp mời khách vô nhà. Bà hội đồng nghe nói có hai vợ chồng ông Cai Tổng Bình qua thì bước ra cửa mà tiếp chào. Ông Cai Tổng Hà Thiện Bình, nhà ở làng Thạnh Hòa, thuộc tỉnh Rạch Giá dựa bên cái lộ mới Long Xuyên - Rạch Giá kêu là lộ Cái Sắn. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng Nghiệp vốn là bạn đồng hương, hai người hồi nhỏ ở Thục Nhiêu, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ông Hội đồng là con nhà giàu, rủi chừng ông cưới vợ rồi, cha mẹ lại suy sụp, gia tài bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, ông phải qua Cái Tắc theo ở quê vợ mà nương dựa làm ăn. Ông lặn lội nhen nhúm lần lần, lại nhờ tám chín năm nay lúa gạo cao giá luôn luôn, ông dùng ít mà gây ra nhiều, nên hiện bây giờ ông có một cái nhà tốt mới cất tốn trên 12 ngàn đồng bạc lại có gần 100 mẫu ruộng trong làng Phú Lợi, 200 mẫu trong Kinh Xà No, và mới đấu giá mua thêm 200 mẫu bên làng Thạnh Hòa, thuộc hạt Rạch Giá nữa. Ông mới 42 tuổi, vợ chồng sanh được ba đứa con, đứa lớn là cô Xuân Hương đã thấy đó rồi, đứa giữa, con trai mới 15 tuổi học Tú Tài năm thứ tư, tại trường Chasseloup Laubat, còn đứa út cũng con trai, còn học tại Cần Thơ. Còn ông Cai Tổng Bình hồi trước thiệt tên Huỳnh, làng cử ông làm thôn Trưởng, ông xài thâm công nho hơn 1.000 đồng bạc, sợ tội nên bỏ xứ dắt vợ con mà trốn, để cho hương chức Hội tề giăng tay đậu tiền bồi thường. Vô Rạch Giá ông đổi tên lại là Hà Thiện Bình, nương náu ở làng Thạnh Hòa mà làm ruộng, lần lần ông mua điền khẩn đất, trở nên một người giàu, ra làm làng rồi lên chức Cai tổng. Ông năm nay đã hơn 55 tuổi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm Nghị Viên Hội Đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên Tây, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi, thôi học ở nhà mà chưa hứa gả nơi nào. Tuy ông Hội đồng với ông Cai tổng ở xa nhau, lại niên kỷ bất đồng, song thuở nay hai nhà thân thiện với nhau lắm, hay giúp đỡ nhau, hay tới lui thăm nhau, lại thường tính chừng Thiện Ý và Xuân Hương lớn khôn, thì hai nhà sẽ làm sui với nhau. Chủ khách gặp nhau mừng rỡ cùng dắt nhau vô nhà, rồi ông Hội đồng với ông Cai tổng thì ngồi bộ ghế giữa, còn hai bà thì ngồi tại bộ ván cẩm lai lót gần đó. Cô Xuân Hương lo trầu nước đãi khách, cô ra vô lăng xăng, mặt tươi cười, bộ nhâm nhẹ, tư cách phải là gái tân học, mà nết na cũng phải là con nhà giàu. Bà Cai tổng ngó theo cô hoài rồi bà nói với bà Hội đồng rằng: - Con nhỏ năm nay nó lớn đại. Nè, tôi nói với thím nó a, phải chờ thằng Ý tôi, chớ đừng có gả chỗ khác tôi không nghe cho mà coi. - Ai mà gả! Anh chị đã nói từ hồi nào tới giờ, gả chỗ khác sao được. Có sợ là sợ cậu Ý ở bển rồi cậu cưới đầm chớ. - Đâu có vậy! Vợ chồng tôi có nói trước cho nó biết rồi mà. - Ờ! Tôi quên nói cho chị hay nữa chớ. Hôm tháng giêng tôi có bịnh, tôi nghe nói ông Bình ngoài Cần Thơ hay lắm, tôi ra tôi cầu đặng xin thuốc. - Xác ông Quan Bình phải hôn? Tôi cũng nghe họ đồn hay lắm. - Thưa phải. Bận đó sẵn có con Xuân Hương bãi trường nên nó ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Ra đó coi cho tôi rồi, luôn dịp coi cho nó nữa. Nè, ông Bình coi cho nó, ổng nói kỳ lắm chị. - Nói làm sao? - Ổng nói nó thông minh, học giỏi lắm, năm nay nó thi đậu, mà sau nó còn đậu một bằng cấp lớn hơn nữa. Tôi hỏi tới căn duyên của nó, thì ổng nói nó vốn tiên phong đạo cốt nên chừng nó lớn khôn không ham phú quí vinh huê, lại ngao ngán nhơn tình thế tục. Cuối 21 bước qua 22 tuổi thì nó có chồng, nhưng mà nó có chồng có con rồi thì nó lại tu. Nói năm thi đậu trúng rồi, còn sau nữa thì không biết ra sao. - Ối! Hơi nào mà tin chuyện ma ma phật phật. Đã có chồng có con rồi, mà còn tu nỗi gì? Có lẽ ngày sau nó bắt chước người ta ăn chay vậy chăng? - Tôi cũng nghĩ như vậy đó. - Ăn chay có hại gì. Đời bây giờ tôi coi người ta ăn chay muốn đều hết. Thím nó sao cứ bịnh hoài, lúc nầy nghe trong mình khá hay không? - Lúc nầy tôi khỏe lắm, ăn ngủ được. Mà hễ có việc gì phải lo, thì nó cứ rang cái ngực hoài, nên tôi sợ quá. - Thím đừng có lo chi hết. Có việc gì thì đờn ông họ tính sao họ tính, mình lo làm chi. - Tôi có cái tật hay lo lắm chị. - Thím nó làm như tôi vậy, ăn no rồi đi chơi, việc ruộng đất đờn ông họ tính làm sao họ làm. Thím nó có xe thì đi Hà Tiên hay Long Hải mà hứng gió, ở nhà làm chi. Ông Hội đồng Nghiệp đương nói chuyện với ông Tổng, chừng nghe bà Tổng nói như vậy thì ông day qua nói rằng: „Ở nhà tôi 1 kỳ lắm chị, tôi biểu đi chơi mà bả cứ rút ở nhà không chịu đi đâu hết". Bà Tổng xỉa thuốc, vảnh bàn tay làm cho ba chiếc cà rá hột xoàn chói lòa, bà cười mà đáp rằng: - Tại chú a. Chú không thèm dắt, thím đi sao được. - Nhà có hai vợ chồng, sắp nhỏ mắc đi học; nếu tôi dắt đi chơi rồi nhà cửa làm sao? - Dữ hôn. Nhà cửa thì mượn người ta coi, ai bưng đi đâu mà sợ? - Còn ruộng nương làm sao? - Cấy rồi ta đi. - Thôi, năm nay tôi nghe lời chị, hễ cấy rồi tôi dắt nhà tôi vô Hà Tiên ở hứng gió chừng một tháng. - Chú thím có đi thì cho tôi hay, tôi đi với… À, bữa hổm đấu giá đất quốc gia bên Thạnh Hòa đó, chú đấu được mấy trăm mẫu? - Tôi đấu được 2 lô, 200 mẫu. Cha chả, tôi nóng mũi, tôi đấu mắc quá, chị. Tôi đấu tới 310$00 một mẫu, thành ra 62 ngàn đồng, nếu kể phần bách phần, con niêm, cùng các sở phí khác vô nữa thì non non 65 ngàn. Bây giờ phải trả trước phân nửa với sở phí 35 ngàn nặng quá. - Có sao đâu mà sợ. Đất đó chú mua rồi mùa tới đây, chú góp tiền lúa mướn lối bốn năm giạ một công mà sợ nỗi gì. Tôi dám chắc chú góp 10 ngàn giạ được, kể về lúa vay. Tính giá lúa tệ hơn hết 1$20 một giạ thì chú cũng có 12 ngàn đồng bạc. Chú thâu góp ít năm thì đủ vốn, có gì mà lo. - Chị nói thì phải rồi, ngặt bây giờ chạy tiền mà đóng phân nửa giá mua đây cũng ngất ngư chớ. - Chú nó khéo lo! Thứ có mấy chục ngàn đồng bạc mà sợ gì! - Tôi bị cất cái nhà tốn nhiều quá, nên hụt tiền. Tôi nghe lời anh Tổng tôi làm bướng hổm nay tôi lo hết sức. Ông Cai Tổng chen vô nói rằng: - Có gì đâu mà lo. Ruộng nhà bên đây chú thâu góp mười mấy ngàn giạ. Mua ở bển chú góp thêm 10 ngàn, cộng ít nào cũng 25 ngàn giạ. Theo giá lúa nầy mỗi năm chắc chú có 30 ngàn đồng bạc. Tôi cho chú ăn xài và đóng thuế 10 ngàn, thì còn dư 20 ngàn trả tiền mua đất. Chú trả ba bốn năm thì dứt, có gì mà lo. Tôi dện một cái tới 400 mẫu, bằng hai của chú đây sao. - Anh nhờ họ vị tình, họ không giành, nên anh mua giá rẻ hơn tôi, vậy cũng đỡ chớ. - Phải. Nhờ tôi làm Tổng họ có vị một chút, họ ít giành. Mà tôi mua tính bổ đồng thành ra cũng 240 đồng một mẫu, cộng chung là 96 ngàn đồng bạc, chớ phải ít sao. Bây giờ trả phân nửa giá mua với sở phí cũng là 50 ngàn đồng. - Anh có sẵn bạc hay không? - Đâu mà có! Nhưng mà lúa tôi còn trên hơn một chài. - Vậy rồi anh làm sao mà đóng bạc mua đất? - Ối! Lo gì! Quơ tạm mà đóng rồi tới mùa sẽ hay. - Anh mua sở đất mới đây nữa, thì số huê lợi của anh chừng bao nhiêu? - Thuở nay đất cũ của tôi góp 45 ngàn giạ. Mua sở mới đây chắc 20 ngàn giạ nữa, thì thành 65 ngàn giạ. - Anh lúa nhiều quá, nên anh không lo thì phải, chớ lúa tôi ít, tôi không lo sao được. - Lớn thuyền thì lớn sóng, thế nào cũng phải lo chớ. Thôi từ rày sắp lên tôi nghỉ không thèm sắm điền đất nữa, để trí rảnh rang mà chơi. Già rồi, lo làm hoài mệt quá. - Mà chuyện nhà nước đòi đóng tiền mua đất anh tính làm sao? - Vay tiền mà đóng chớ làm sao? - Anh biết ở bên Rạch Giá có ai cho vay anh làm ơn chỉ giùm cho tôi vay với. Bên nầy họ làm bộ, hễ tới hỏi họ thì họ nói đâu mình mạt rồi a, nên tôi ghét tôi không muốn tới họ. - Bên Rạch Giá tôi quen thiếu gì. Như Huyện Hàm Trương Hà ở chợ Rạch Giá đó, chú muốn hỏi mấy chục muôn cũng có bạc sẵn mà. Nhưng mà lấy bạc băng cho vay, muốn lấy bạc nhà băng nào cũng được hết, dễ lắm. - Cha chả! Rớ tới băng tôi ghê lắm. Thiệt tiền lời thì rẻ, ngặt hễ mình xin vay thì họ buộc phải đóng tiền sở phí đi xét đất, đóng tiền nầy tiền kia nhiều quá thành ra cũng không rẻ hơn Chà-và Việt Nam mình là bao nhiêu. Mà cũng có một điều nầy gay lắm, là hễ trong giấy hẹn ngày nào thì tới ngày ấy phải trả, không nói gì được hết, nếu trễ thì xin Tòa thi hành phát mãi. - Như chú sợ thì hỏi bạc của Trương Hà. Dầu ổng ăn lời mắc. Tôi còn thiếu ổng 12 ngàn, ổng ăn lời tới một phân rưỡi. - Như vậy cũng không mắc gì lắm. - Chú cần dùng hỏi chừng bao nhiêu? - Tôi phải hỏi tới 30 ngàn mới đủ đóng tiền đất. - Tiền lời tới 4 ngàn rưỡi một năm… Phần tôi phải hỏi tới 50 ngàn. Mình hỏi nhiều mình nói ổng bớt tiền lời một phân hai có lẽ được. Chú muốn hỏi thì bữa nào chú qua bển rồi tôi dắt chú đi. - Chắc hỏi được hôn? - Chắc mà. Tôi lấy bao nhiêu cũng được hết. Song hỏi nhiều phải thế bằng khoán đất. Chú phải đem bằng khoán cho ổng coi. - Thôi, mốt tôi đem qua được hôn? - Được. Chú qua rồi tôi dắt đi. Nè, mà mốt chú qua, thím với con Hai qua chơi nghe. Qua đó để thím ở nhà, rồi hai anh em mình đi. Bà Tổng nghe hai người đờn ông nói chuyện như vậy bà cũng tiếp mời bà Hội đồng với cô Xuân Hương qua nhà chơi. Bà Hội đồng không dám thất lễ, nên bà phải hứa lời. Ông Tổng với bà Tổng ở nói chuyện chơi và ăn cơm trưa rồi hai ông bà mới về. -------------------------------- 1 vợ hay chồng 2 Dựa mé kinh Rạch Giá qua Long Xuyên, phía bên tay trái, từ cầu Quây Rạch Giá trở vô ước chừng ba bốn trăm thước, có một cuộc ở đồ- sộ, chính giữa một cái nhà lầu rộng lớn, hai bên kềm hai lẫm lúa mỗi cái dài 10 căn, phía sau có một cái nhà bếp, tại đầu lẫm lúa bên tay mặt có nhà để xe hơi, tại đầu lẫm lúa phía bên tay trái lại có một cái nhà chứa đồ làm ruộng. Ai đi ngang cũng biết cuộc ở của một vị điền chủ lớn, tiếc gì cái nhà lầu cất gần cái lộ dựa mé kinh, chừa cái sân chỉ có sáu bảy thước, lại bị hai lẫm lúa kềm khít hai bên bó rọ, sân không kiểng, nhà không vườn; bởi vậy cuộc ở coi hùng hào nhưng thiếu vẻ thanh nhã. Cuộc ở nầy là cuộc ở của ông Trương Hà, đại điền chủ trong tỉnh Rạch Giá, có công giúp một số bạc rất lớn để cất nhà thương nên được quan trên ân tứ Hàm- Tri Huyện. Ông Trương Hà vốn là con cháu khách, cha của ông là người Triều Châu, còn mẹ là Việt Nam. Ông mới được 50 tuổi, vợ chồng chỉ có sanh hai người con, người lớn là gái tên là Trương Thị Lang đã gả cho ông Đốc tơ Triệu Như Hổ, học bên Tây lãnh được bằng cấp y khoa Tấn Sĩ, về cưới vợ, nhờ cha mẹ vợ mua cho cái nhà lầu tại Sài Gòn ở mà khám bịnh cho thuốc; còn người nhỏ là trai trên Trương Hoàng Kiết 20 tuổi, học bên Tây sáu năm, tốn chừng năm muôn đồng bạc, mới lãnh được một cái bằng cấp khiêu vũ, kế cha mẹ kêu về đặng phụ giúp cai quản sự nghiệp không cho học nữa. Y theo lời hứa hôm nọ, nên đúng ngày hẹn ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp đi với vợ và con gái qua nhà ông Cai Tổng Hà Thiện Bình. Bà Tổng với hai đứa con gái nhỏ của bà thấy cô Xuân Hương thì mừng rỡ, tiếp rước rất ân cần vui vẻ không nói được. Ăn đồ lót lòng rồi, ông Hội đồng Nghiệp với ông Cai Tổng Bình vô Rạch Giá đặng tính việc vay bạc mà đóng bạc mua đất. Hai ông vô tới nhà ông Huyện hàm Trương Hà thì lối 10 giờ sớm mơi. Xuống xe bước vô sân thì thấy nhà lầu cửa đóng kín mít, không có cho vô. Hai người đứng ngơ ngáo, thấy trong nhà xe có để một cái xe hơi nhỏ 4 chỗ ngồi còn mới tinh với một cái xe hơi mui kiếng lớn thình lình coi hùng vĩ lắm. Ông Tổng chỉ mà nói rằng: „Cái xe lớn đó máy 40 ngựa, ông huyện ổng mua tám chín ngàn gì đó. Nó chạy dữ quá, nội tỉnh Rạch Giá chưa có ai dám sắm cái xe như vậy". Ông Hội đồng cười và hỏi rằng: - Ổng đi đâu mà sắm xe dữ như vậy? - Ổng ở nhà hoài, không bao giờ ai thấy ổng đi đâu hết. - Vậy chớ sắm xe hơi làm chi mà lớn dữ vậy? - Giàu có, tiền bạc không biết làm gì cho hết, nên sắm để coi chơi vậy mà. - Người mình xài phí quá! Hai ông đương nói chuyện, bỗng có một người gánh cặp thùng thiếc ở phía sau đi dọc theo lẫm lúa mà ra. Ông Tổng chận mà hỏi rằng: - Có ông Huyện ở nhà hay không em? Sao đóng cửa bít bùng vậy? - Thưa có, ông bà tôi ở nhà đủ hết. Ăn cơm rồi ông tôi mới lên lầu, còn bà tôi ngồi ở dưới từng dưới. - Em trở vô nói có ông Tổng ở ngoài Thạnh Hòa vô thăm ông, rồi mở cửa đi chớ. Người gánh nước đó trở vô một hồi rồi ra nói rằng: „ Thưa, bà tôi mời ông vô nhà. Ông đi theo tôi đây mà vô cửa sau cũng được". Hai ông đi theo người ấy, đi dọc theo lẫm lúa mà vô cửa sau. Bà Huyện Trương Hà mập mạp, cao lớn, nước da đen, chơn mày rậm, bộ tướng thô tục, y phục sơ sài, bà ngồi tại bộ ván gần cửa sau, bà chào hai ông khách và nói rằng: „Mời hai ông đi ngay lên lầu, ở nhà tôi nằm hút ở trển, hai ông đi ngay lên trển nói chuyện chơi, chớ chờ biết chừng nào ổng hút mới rồi". Hai ông khách đi thẳng lại thang mà lên lầu. Ông Huyện Trương mập mạp mà lùn, mặt tròn, cặp mắt híp, không có râu, đầu hớt trọc lóc, khi hai ông khách bước lên thì ông Huyện bận một cái áo lá trắng có hai cái túi thiệt lớn, đương nằm vít đốc trên bộ ván, quần vén tới đầu gối, dựa bên có để một mâm thuốc á phiện, bên kia có một người nằm làm thuốc cho ông hút. Ông thấy khách thì lồm cồm ngồi dậy chào ông Cai Tổng Bình rồi hỏi rằng: - Còn ông nầy là ai, tôi không biết? Ông Tổng đáp rằng: „Ông đây là Hội đồng Nghiệp, anh em với tôi ở bên Cái Tắc". Ông Huyện mời khách lại ngồi bộ ghế bành tượng cẩn ốc xa cừ để gần bộ ván chỗ ông hút, kêu trẻ lấy thuốc rót nước, ông cũng bận áo lá chớ không thay áo khác. Ông hỏi ông Tổng rằng: - Mấy tháng nay tôi không gặp ông. Ông mạnh giỏi hả? - Mạnh. - Ông đi hầu việc quan rồi ghé thăm tôi chơi hay là có việc chi? - Ờ! Ghé thăm ông chơi, mà cũng nói chuyện riêng một chút. - Mời hai ông hút chơi. - Cái đó hai anh em tôi không biết. - Hút mà cái giống gì không biết. Hút cho nó khỏe trong mình chớ. - Xin cho kiếu, không dám đâu. - Thôi xin lỗi hai ông ngồi đó chơi, cho tôi hút ít điếu. - Được, được, ông hút đi. Ông Huyện nằm lại mà hút, kéo ống nghe ro ro. Ông Hội đồng Nghiệp ngồi ngó cùng trong nhà thấy từng lầu rộng mà lại cao, tiếc vì bàn ghế, tủ gương không xứng đáng nên coi không đẹp. Ông Tổng thấy ông Huyện đã hút ít điếu bèn hỏi rằng: - Lúa ông còn nhiều hôn? - Còn chút đỉnh, chừng năm sáu chài. - Năm sáu chài, mà ông nói chút đỉnh chớ. Tới tháng nầy sao ông không bán, để lúa sụt còn gì? - Không có sao mà. Chừng nào bán cũng được, có lo gì. Có một người lên thang lầu, vì thang bằng cây, mà lại đi mạnh, nên tiếng nghe ầm ầm. Ông Tổng với ông Hội đồng ngó lại, thì thấy một người trai chừng 20, 21 tuổi, mặc một bộ đồ Tây nỉ xám, may thiệt kéo, chơn mang giày vàng, đầu đội bê rê đen. Người trai ấy thấy khách thì cúi đầu chào rồi đi thẳng vô một cái phòng. Ông Tổng hỏi ông Huyện rằng: - Thầy đó là ai? - Con tôi đa, ở bên Tây mới về vài tháng nay. - Té ra cậu đây là Trương Hoàng Kiết phải hôn? - Phải a. - Tôi có nghe nói, mà thuở nay tôi không gặp. Cậu học bên Tây đã lấy được bằng cấp gì hay chưa? - Nó gần thi Tú Tài, mà bị việc nhà bê bối, có một mình tôi coi không xiết, nên tôi phải kêu nó về. - Sao không để cậu học cho đến cùng đặng có bằng cấp với người ta? - Đời nầy học cho biết thì thôi, bằng cấp bằng kéo làm giống gì. Phải mình tính cho nó đi làm mướn hay sao, nên cần phải có bằng cấp. - Ông đem cậu về bây giờ ông tính cưới vợ cho cậu rồi bắt cậu coi ruộng nương hay sao? - Ờ, hổm nay mẹ nó muốn đi coi vợ cho nó, mà nó không chịu. Nó nói cưới vợ thì thà nó cưới đầm, chớ con gái Việt Nam quê mùa lắm, nó không muốn. - Bên mình đâu có đầm mà cưới. - Nó đòi trở qua Tây cưới vợ, rồi nó dắt về . - Ông bằng lòng cho cậu cưới đầm hay sao? - Đâu được! Mình quê mùa, có dâu đầm rồi làm sao mà nói chuyện. - Nè, thầy Phó trong nầy mới cất cái nhà tốt quá ông há! Đi ngoài dòm vô coi thiệt là đẹp. Cái nhà đó cất tôi sợ không dưới 30 ngàn. - Thầy khoe với người ta, thầy cất 35 ngàn đó đa. Thầy không khá gì mà cất nhà chi tốt dữ vậy không biết. Cất nhà hụt tiền nên phải cậy tôi giùm hết 10 ngàn. Người hay làm bướng quá, ít tiền mà muốn se sua, cất nhà tốt sắm xe hơi, cho con đi Tây, mua hột xoàn lớn, không biết rồi họ làm sao? - Họ cũng liệu cơm mà gắp mắm chớ. - Liệu giống gì? Họ làm cố mạng rồi hụt hạt cứ bấu lại tôi. Tôi cho vay thì ăn lời, không nói gì, ngặt tôi sợ họ vay bướng trả không nổi, họ xô ruộng đất cho tôi đây, rồi tôi không biết làm sao coi cho xiết chớ. - Hiện giờ ông có chừng bao nhiêu ruộng? - Có biết đâu. Hôm thằng con tôi bên Tây về, nó soạn giấy tờ trong tủ nó tính chơi, nó nói đâu chín mười ngàn mẫu gì đó. - Nhiều quá! - Tôi có hai đứa con, tôi không thèm sắm ruộng đất nhiều, chớ phải tôi ham như người ta thì tôi có tới bằng hai bằng ba số đó. - Hai anh em tôi vô đây tính cậy ông một việc. - Cậy việc gì? - Hôm nhà nước bán đất quốc gia ngoài làng Thạnh Hòa, hai anh em tôi đấu giá, tôi mua được 400 mẫu, chú Hội đồng đây mua được 200 mẫu. - Ờ! Tôi có nghe nói hôm đó áp giành với nhau đấu giá mua mắc lắm phải hôn? Đất mà mua mắc làm chi, có bạc để ta cho vay rồi ta lấy đất của họ, giá rẻ rề, cần gì phải giành giựt mà mua cho mắc. - Đất Thạnh Hòa tốt, cho mướn tới 5 giạ một công. Hai anh em tôi mua giá cũng vừa, chớ không mắc gì. Ngặt vì nhà nước buộc anh em tôi phải đóng bạc phân nửa, còn phân nửa thì cho kỳ qua sang năm sẽ đóng. Bây giờ hai anh em tôi thiếu bạc, nếu hỏi mấy nhà băng thì cũng được, song nếu hỏi người mình cho dễ, nên vô xin ông liệu coi có thì giúp giùm cho hai anh em tôi được hay không? - Hai ông muốn hỏi bao nhiêu? - Tôi muốn hỏi 50 ngàn, có chú Hội đồng đây chú hỏi 30 ngàn? - Số nợ cũ mấy năm nay ông cứ trả lời hoài, ông không trả vốn, mà hỏi nữa rồi làm sao? - Nợ cũ có 12 ngàn, nhiều nhõi gì đó mà lo. Ông sợ tôi nói ngược hay sao? - Không phải sợ. Năm nào ông cũng trả tiền lời, mà nói ngược giống gì, ông giàu có làm tới Cai Tổng, có mười mấy ngàn đồng bạc lẽ nào ông chối hay sao mà sợ. Ông Huyện bước lại rót nước uống, ông suy nghĩ một hồi rồi nói tiếp rằng: „Anh em hễ mích lòng trước thì được lòng sau. Tôi nói thiệt hai ông muốn hỏi bao nhiêu cũng được hết. Nhưng mà hỏi số bạc nhiều như vậy thì phải cố đất. Thuở nay ai hỏi bạc, tôi cũng buộc như vậy hết thảy; bởi vì nếu không buộc cố đất, có người xấu họ vay bạc của mình rồi họ không trả bạc, mình lấy gì đâu mà trừ. Không phải tôi nghi hai ông, song bạc tiền là núm ruột, thà mình làm minh bạch vậy tốt hơn". Ông Tổng đáp rằng: „Ông muốn anh em tôi cố đất cũng được, không hại gì. Mình thiệt tình, hễ vay thì lo trả, có sao đâu mà sợ". Ông Tổng với ông Hội đồng lấy bằng khoán đất đưa hết cho ông Huyện Trương Hà coi. Ông Huyện nói: „Thôi hai ông để hết bằng khoán đây cho tôi coi ít bữa rồi tôi sẽ trả lại. Mà những đất quốc gia hai ông mới mua đó, tuy chưa có bằng khoán, song trong tờ hai ông cũng phải nói cố luôn nữa mới được chớ". Hai người khách gặt đầu, chịu cố luôn đất đó nữa. Ông Hội đồng hỏi ông Huyện rằng: - Nhưng ông coi bằng khoán rồi ông chịu cho, thì ông tính tiền lời bao nhiêu? - Thường tôi cho tiền lời một phân rưỡi. - Nặng quá. Cho bạc muôn ông phải giảm tiền lời chớ. Chà và kia nó còn cho một phân. - Sao được. Ông hỏi băng, họ cũng tính lời ít nữa là một phần tư. Tôi cho phân rưỡi đó là rẻ lắm, bởi vì tôi còn phải tốn tiền bách cầu chứng tờ cố đất nữa chi. - Xin ông bớt tiền lời, chớ một phân rưỡi nặng lắm, ông. - Thôi không sao. Để tôi coi giấy tờ rồi sẽ tính. Như ông đây tôi muốn viết thơ trả lời, tôi phải đề bao làm sao? - Ông cứ viết thơ cho Ông Tổng đây, rồi ảnh cho tôi hay cũng được. - Như vậy thì tiện lắm. Thôi để ít bữa rồi tôi sẽ trả lời cho ông Tổng. Trời đã trưa, mà chuyện nói cũng đã xong, hai ông khách đứng dậy từ mà về rồi cũng phải ra cửa sau, chớ cửa trước không mở. Ông Hội đồng Nghiệp trở về nhà ông Tổng Bình mà ăn cơm, chủ khách thuận hòa, cô Xuân Hương với con gái của ông Tổng cũng thân thiết, nên bữa ăn thiệt là vui vẻ lắm. Bà Tổng hỏi thăm coi việc đi hỏi bạc có thành hay không. Ông Tổng thuật chuyện lại cho bà nghe rồi cười mà nói rằng: - Ông Trương Hà làm màu đặng mình hầu ổng chơi, chớ tôi biết bề nào ổng cũng chịu. Trời ơi, cho vay mà gặp tôi với chú Hội đồng đây thì cầu mà cho, còn đợi ai nữa. Vậy mà còn cố đất thì chắc quá, còn sợ nỗi gì. Tôi nói không sai đâu, trong năm ba bữa đây ổng kêu làm giấy lấy bạc đa. Mà hễ ổng kêu thì mình dục dặc lại, đặng nài ổng bớt lời cho nhẹ. Ông Hội đồng nói rằng: - Ông Huyện ăn lời tới một phân rưỡi nặng quá. - Được đâu. Chừng làm giấy mình xin tính một phân mà thôi. Như ổng không chịu, thì lên một phân mốt, hoặc một phân hai, chớ một phân rưỡi thì thôi xin vay chỗ khác. - Ông Huyện đó bộ coi thô tục quá. Ổng ỷ ổng nhiều tiền, nên nói chuyện ổng coi không có trời đất gì hết. - Nhà giàu mới bây giờ phần nhiều họ như vậy hết thảy. Họ quê mùa dốt nát, không có giáo dục, khi không họ bực lên họ giàu to, rồi tư cách không xứng với sự sản, nên mới vậy đó. Chớ nhà giàu xưa người ta biết lễ nghĩa khiêm nhượng, chớ đâu có kỳ cục như vậy bao giờ. Ăn cơm rồi vợ chồng ông Hội đồng mới từ giã mà về Cái Tắc. Cách chừng một tuần lễ, ông Tổng Bình được thơ của ông huyện Trương Hà. Trong thơ ổng nói ổng chịu cho ông Tổng vay 50 ngàn và cho ông Hội đồng vay 30 ngàn, song buộc bà Tổng với bà Hội đồng phải đứng giấy với chồng, lại buộc hai ông phải bảo lãnh vần công với nhau. Ông Tổng chạy xe hơi qua Cái Tắc đưa thơ cho ông Hội đồng coi và hẹn ngày đi làm giấy lấy bạc. Đúng ngày hẹn, vợ chồng ông Hội đồng qua Thạnh Hòa hiệp với vợ chồng ông Tổng mà đi Rạch Giá. Hai ông nài quá, nên ông huỵên hàm chịu sụt bớt tiền lời xuống một phân hai. Hai ông làm giấy theo thế thức của chủ nợ buộc, rồi lấy bạc đem qua kho bạc mà đóng phân nữa giá mua đất. 3 Trong năm phần tư năm 1920 tới năm 1929, năm nào lúa bán giá bực trung cũng 1đ50 một giạ, có lúc lên tới 1đ80 hoặc 2đ00. Dân trong xứ phần nhiều chuyên nghề làm ruộng, nhờ giá lúa cao đó, nên bạc tiền chớn chở không biết làm gì cho hết. Những điền chủ ở các tỉnh, nhứt là ở miệt Tiền Giang, Hậu Giang, đua nhau cất nhà tốt, sắm xe hơi, mua hột xoàn, chơi bài bạc, bành trướng điền địa, cho con đi Tây, gây ra cuộc vui dầu tốn một hai ngàn không cần, được chúng bẩm dạ dầu hao đôi ba muôn cũng chịu. Từ lớn chí nhỏ coi bạc tiền như đất cục, chê nhơn nghĩa là trái mùa, phải vọc bạc muôn mới ra mặt người sang, chớ luận đạo đức thì bị coi là đồ dại. Đất hoang vu rừng bụi mà giành nhau mua đến một hai trăm đồng một mẫu, nợ năm bảy chục ngàn mà cho là chút đỉnh không đủ gì lo. Người nào có ý nghĩ xa, thấy nhơn tình với thế cuộc như vậy thì cũng lắc đầu tự hỏi: „Vậy chớ cái đường Việt Nam mình đi đó tới đâu mới cùng? Mà cái đường đó phải hay quấy?" Tại cái thời cuộc đó mà ông Hội đồng Nghiệp với ông Cai Tổng Bình mới mua thêm đất, lại mua mắc, rồi đi vay bạc, người 30 ngàn, kẻ 50 ngàn mà coi như chuyện chơi. Thiệt, nếu làng sóng thạnh vượng cứ bủa tới hoài, thì chừng vài ba năm, hai ông cũng trả đứt số nợ, không khó chi hết. Rủi thay, qua năm 1930 mùa thất, ông Cai Tổng Bình thâu góp về đất cũ về đất mới chỉ có 45 ngàn giạ, chớ không phải 65 ngàn, còn ông Hội Đồng Nghiệp thâu góp được có 18 ngàn giạ. Hồi đấu mùa thì giá lúa 1đ60 một giạ. Năm nầy hai ông phải đóng tất số tiền cho nhà nước, nên mới chẩn lại ít ngày, nhóng coi như giá lúa lên thêm nữa thì sẽ bán đặng có lời thêm một mớ. Nào dè cuối tháng 5 Tây, lúa sụt xuống 1đ50. Giá 1đ60 không bán, mà bán 1đ50 sao được. Để chờ nữa. Té ra lúa không lên giá mà lại lần lần bị sụt thêm hoài, sụt xuống 1đ30, 1đ20, 1đ00, qua tới tháng 8 giá còn có 0đ80 một giạ. Chết tươi! Nhà nước gởi giấy thúc đóng tiền mua đất, chủ nợ gởi thơ buộc phải trả nợ. Ông Cai Tổng chừa 5 ngàn giạ để cho tá điền ăn, ông bán 40 ngàn giạ lấy có 32 ngàn đồng. Ông Hội đồng chừa 3 ngàn giạ, ông bán 15 ngàn giạ lấy có 12 ngàn đồng. Ông Cai Tổng phải đóng bạc mua đất 48 ngàn, phải trả tiền lời về 62 ngàn đồng bạc nợ, 7.440 đồng. Ông Hội đồng phải đóng bạc mua đất 31 ngàn, phải trả tiền lời cho chủ nợ là 3.600đồng. Làm sao có đủ bạc mà trả? Hai ông bối rối hết sức, bàn tính với nhau rồi hiệp nhau vô nhà ông Huyện hàm Trương Hà tỏ việc rủi ro đã bị thất mùa lại bị lúa rẻ, rồi năn nỉ xin vay thêm cho đủ đóng bạc mua đất, còn vốn cũ nhập với vốn mới và nhập với tiền lời mà làm chung mỗi người một cái giấy mới cho dễ. Trương Hà nghĩ hai ông đất nhiều, dầu cho vay thêm chẳng hại gì. Đã vậy hai ông lại có đất mới mua của nhà nước. Nếu muốn cố đất đó cho chắc chắn, thì cần phải trả tất cả số bạc mua đất đặng Nhà nước sang bộ mới được. Ông Trương Hà tính như vậy nên chịu cho vay thêm và chịu cho thay giấy nhập lời làm vốn thêm nữa. Phần ông Cai Tổng Bình: Số vốn cũ: 62.000$ Số bạc lời: 7.440$ Số vay thêm: 20.560$ Cộng: 90.000$ Phần ông Hội đồng Nghiệp: Số vốn cũ: 30.000$ Số bạc lời: 3.600$ Số vay thêm: 16.4000$ Cộng: 50.000$ Hai ông về dắt hai bà vô làm giấy lại, ông Cai Tổng vay 90 ngàn, ông Hội đồng vay 50 ngàn. Mỗi cái giấy đều có vợ chồng đứng đủ, có biên cố ruộng đất, mà lại còn buộc hai ông bảo lãnh vần công cho nhau nữa. Hai ông lấy thêm bạc mà đóng tất giá mua đất thì yên được một mối rồi, chỉ còn lo một mối nợ mà thôi. Qua năm 1931 lúa thất luôn một mùa nữa, lại giá còn có 0đ60 một giạ. Ông Cai Tổng thâu góp có 37 ngàn giạ, để giành nuôi tá điền 7 ngàn, còn bán có 30 ngàn giạ có 18 ngàn đồng bạc. Ông Hội đồng thâu góp có 17 ngàn giạ, để giành nuôi tá điền 3 ngàn, còn bán có 14 ngàn giạ có 8.400 đồng bạc. Tính nội tiền lời thì ông Cai Tổng phải trả 10.8000đ. Ông Hội đồng phải trả 6.000đ. bán lúa giá như vậy, nếu trả tiền lời rồi cũng không còn đủ bạc mà đóng thuế và ăn xài, có đâu mà trả vốn được. Hai ông hiệp nhau đi nói với chủ nợ mà trả tiền lời xin để vốn lại, song ông Cai Tổng trả được có 7.800đ, còn thiếu số lời lại 3.000đ, còn ông Hội đồng rán trả được 5.000đ, để thiếu số lời lại 1.000đ. Qua năm 1932, số lúa thâu góp chẳng nhiều hơn, mà giá lúa lại sụt hơn nữa, còn có 0đ50 một giạ. Hai ông trả tiền lời cũng không đủ, ông Cai Tổng để thiếu lại 4.000đ và ông Hội đồng 2.000đ. Ông Huyện Hàm Trương Hà thấy 2 năm mà hai ông đều thiếu tiền lời luôn luôn, lại giá lúa sụt, đất cũng sụt theo, sợ bị tịch hết ruộng đất cũng không đủ số nợ, nên vào đơn tại Tòa Hộ mà kiện xin Tòa lên án đặng thi hành phát mãi sự sản của hai ông. Hai ông lo quá nên phải mướn Trạng sư bào chữa, viện lẽ kinh tế khủng hoảng mà xin Tòa châm chế cho đình lại chừng nào giá lúa phát lên lại rồi sẽ trả nợ. Tòa cũng có nhơn, nên lên án cho đình lại một năm, nếu mãn năm mà không trả nợ thì sẽ thi hành phát mãi. Bà Hội đồng Nghiệp thấy việc nhà bối rối thì bà rầu quá ăn ngủ không được, bịnh ho của bà phát lại, làm cho chồng con thêm lo nữa. Ông Hội đồng Nghiệp bàn với ông Cai Tổng Bình, muốn bán bớt phân nữa ruộng đất mà trả nợ. Ông Cai Tổng nói bán bớt ruộng đất xấu hổ nên khuyên ông Hội đồng để thủng thẳng mà tính, chẳng nên vội lắm. Cách ít tháng sau, kỳ hạn Tòa định đã cận rồi, hai ông luýnh quýnh muốn bán ruộng đất thì không ai mua, túng thế vô Rạch Giá nói với chủ nợ xin định giá đất đặng hai ông làm tờ đoạn mãi một mớ mà trả số nợ. Ông Huyện Trương Hà cười mà đáp rằng: „Ruộng đất bây giờ không có giá, dầu hai ông bán năm chục đồng một mẫu cũng không có ai mua. Nếu hai ông bán hết ruộng đất nhà cửa cho tôi, hai ông cũng không trừ hết số nợ được. Bày mưu bán làm chi. Để chừng Tòa lên án thi hành phát mãi, nếu có ai muốn mua thì tôi cất giá lên cao cho đủ số nợ của tôi. Còn như không có ai giành mà mua, thì tôi lấy ruộng đất hết cũng được. Hai ông trở về mặt buồn xo. Năm ấy cô Xuân Hương thi đậu bằng cấp :"Brevet supérieur". Các nhựt báo đều khen ngợi lại đăng chơn dung của cô lên mặt báo cho công chúng biết, nhưng trong nhà đang bối rối về nợ nần, nên cha mẹ không mừng, rồi làm cho cô cũng không vui chi hết. Hà Thiện Ý là con của ông Cai Tổng Bình, ở bên Tây cũng thi đậu bằng cấp Luật Khoa Cử Nhơn, muốn ở học thêm đặng lấy bằng Tấn Sĩ. Ngặt vì việc nhà của ông Cai Tổng Bình nguy lắm, ông không thể nuôi con ở bên Tây nữa được, nên đánh dây thép biểu phải về ngay lập tức. Hà Thiện Ý về tới, cha mẹ dắt nhau qua thăm bà Hội đồng Nghiệp đau. Hà Thiện Ý với Xuân Hương là cặp thanh niên tân học nên không e lệ chi hết, gặp nhau thì trò chuyện vui vẻ bình thường, lại coi có mòi dan díu thân thiết lắm! Bà Hội đồng, vì rầu việc nợ nần, nên bịnh ho của bà càng ngày càng thêm, thân thể bà ốm như tàu lá. Ông Hội đồng lo sợ, biểu con ở nhà coi sóc gia đình, rồi ông đem vợ lên Sài Gòn cho lương y chuyên môn về bịnh ho rọi kiếng mà trị bịnh. Ông đem thằng con trai lớn theo đặng giúp đỡ ông, còn đứa con trai út thì ông để ở nhà với Xuân Hương. Một buổi sớm mơi, cậu út cỡi xe máy qua Rạch Gòi mà chơi. Cô Xuân Hương ở nhà một mình, cô đốc phách gia dịch đứa vô phân mấy bồn bông, đứa làm cỏ ngoài sau vườn. Cô mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, đầu gỡ sơ, chơn mang guốc, tai đeo một đôi bông lớn, tay trái đeo một chiếc vàng nhận hột xoàn, cô không trang điểm, không dồi phấn thoa son, mà vì cô có sắc sẵn, gương mặt sáng rỡ, bởi vậy ai thấy cô cũng phải trầm trồ khen thầm là gái đẹp. Cô đi vòng theo mấy bồn bông coi bắt sâu. Cô cầm bông hường da người mà hưởi, bông kề vô mặt, coi nước da của cô còn đẹp hơn màu bông. Cô nắm bông huệ mà nhìn, mấy ngón tay của cô coi cũng đẹp như mấy búp huệ gần nở. Cô đương xẩn bẩn trong hoa viên, bỗng có chú thường xuyên ở nhà việc làng đem một tờ nhựt báo với một cái thơ lại giao cho cô. Cô cầm cái thơ mà coi ngoài bao, thấy đề tên cô, cô chắc là thơ của chị em bạn học gởi. Cô cám ơn chú thường xuyên rồi thủng thẳng trở vô nhà. Cô men men đi lại cái bàn viết đặng đọc thơ. Cô vừa ngồi đọc thì cô thấy chơn dung của Hà Thiện Ý để trên bàn viết, cô liếc mắt ngó mà cười rồi thủng thẳng lấy cái dao rọc giấy mà rọc bao cái thơ cô mới được đọc. Cô lấy cái thơ ra mà coi thì thơ như vầy: Thạnh Hòa, le 10 Aout 1933 Em Xuân Hương rất yêu dấu ôi! „Mấy năm nay anh học ở bên Tây, thấy má anh viết thơ cho anh, thường hay khen tài đức của em và khuyên anh ráng học cho thành danh, đặng chừng trở về xứ sánh duyên cùng em cho xứng đáng. „Hồi nhỏ anh có giáp mặt em mấy lần mà không có nói chuyện gì với nhau. Từ khi anh đi Tây thì sẵn có tấm hình trong rương, hễ buồn thì anh lấy ra anh nhìn. Anh nhờ cái hình đó nung chí cho anh mới thành danh được." „Hôm qua anh qua thăm chú thím, anh muốn tỏ lời tạ ơn em, song anh bợ ngợ không mở miệng được. Vì vậy nên anh phải viết bức thơ nầy mà bày tỏ cái tình của anh đối với em cho em biết, và hứa chắc với em rằng anh sẽ hết lòng kính yêu bao bọc em trọn đời, cho tới chừng nào chết mới dứt. Hà Thiện Ý. Cô Xuân Hương đọc thơ rồi, cô xếp kỹ lưỡng mà bỏ vào túi. Cô vói lấy cái hình của Thiện Ý trên bàn viết, cầm mà nhìn và miệng chúm chím cười. Thình lình có một cái xe hơi chạy vô sân. Cô Xuân Hương dòm ra thì thấy chiếc xe hơi lạ hoắc, trên xe leo xuống một người trai mập mạp vậm vỡ, nước da mét mét, mặc bộ đồ xám may thật khéo và còn mới tinh. Người ấy xâm xâm đi vô cửa. Xuân Hương ở nhà một mình nên cô đứng dậy, tính bước ra tiếp khách. Người trai ấy vô tới cửa, ngó thấy cô, liền dở nón cúi đầu mà chào đúng lễ. Cô cũng cúi đầu đáp lễ, không bợ ngợ chi hết và hỏi rằng: - Ông đến nhà tôi có việc chi, xin ông vui lòng cho tôi biết? - Xin lỗi cô, có phải nhà nầy là nhà của ông Hội Đồng Võ Kế Nghiệp chăng? - Thưa, phải. - Tôi là Trương Hoàng Kiết, con của ông Huyện Hàm Trương Hà ở bên Rạch Giá. - Xin lỗi ông, thuở nay tôi không biết, vậy xin mời ông ngồi. Trương Hoàng Kiết bước vô „salon", ngồi cái ghế phía ngoài, tay cầm nón, mắt ngó cô Xuân Hương ngồi cái ghế „canapé" phía trong và kêu gia đinh bưng nước. Trương Hoàng Kiết hỏi: - Xin lỗi cô, không biết có ông Hội đồng ở nhà hay không? - Ba tôi đem má tôi đi uống thuốc ở trên Sài Gòn. - Té ra cô đây là con của ông Hội đồng ? - Thưa phải. Ông hỏi thăm ba tôi, vậy ông muốn nói chuyện chi hay sao? - Thưa phải. Tôi qua đây đặng nói chuyện riêng với ông Hội đồng. Thưa cô, không biết chừng nào ông Hội đồng về? - Thưa, cái đó tôi không biết được. Ba tôi không có nói bữa nào về. Nếu có việc chi, xin ông nói với tôi rồi chừng ba tôi về tôi sẽ nói lại. Hoàng Kiết liếc mắt ngó cô Xuân Hương, miệng chúm chím cười và nói rằng: „Tôi có việc cần phải tỏ với ông Hội đồng, mà chuyện đó không phải là chuyện vui. Cô là một đóa hoa thơm, vừa có duyên, vừa có sắc, có lẽ nào tôi đành vô lễ đem chuyện không vui mà thỏ thẻ với cô, rồi làm cho hoa sầu liễu ủ hay sao? Cô Xuân Hương hiểu mấy lời ấy thanh tao mà có ý chọc ghẹo, nên cô chánh sắc mà đáp rằng: „Xin ông đừng ngại. Hoa cũng có nhiều thứ, có thứ yếu ớt sợ nắng sợ mưa, mà cũng có thứ vững vàng quen giông quen gió. Ông muốn nói chuyện chi với ba tôi, xin ông cứ nói ngay ra, như chuyện huỡn thì tôi đợi ba tôi về tôi sẽ nói lại, còn như chuyện gấp thì tôi sẽ gởi thơ cho ba tôi hay". Hoàng Kiết gặc đầu cười và nói rằng: - Nếu cô cho phép thì tôi mới dám nói. - Ông cứ nói mà. - Tại cô ép quá, chớ thiệt tôi không muốn nói. Ông Hội đồng có thiếu bạc của cha tôi chút đỉnh. Bốn năm nay ông không trả vốn, mà bạc lời năm nào cũng không đủ, bởi vậy năm ngoái cha tôi kiện, ông Hội đồng xin Tòa đình lại một năm. Nay đã mãn hạn đình rồi, Tòa lên án dạy ông Hội đồng phải trả vốn và lời. Cha tôi sai tôi qua thưa cho ông Hội đồng hay, xin ông vui lòng trả số nợ theo án tòa dạy, bằng không cha tôi phải ép lòng mà giao án cho Trưởng Tòa. - Không biết việc đó gấp hay huỡn? Đợi ba tôi về rồi tôi sẽ nói lại được hay không? - Theo tôi thì cô muốn thế nào tôi cũng chịu hết. Ngặt vì việc nầy là việc của cha tôi, nên tôi không dám tự chuyện. Tuy vậy mà không sao. Để tôi về thưa lại với cha tôi mà xin huỡn ít ngày đặng đợi ông Hội đồng về rồi sẽ tính cũng được. - Tôi cám ơn ông lắm. - Thưa, tôi không dám. Tôi xin cô cho phép tôi hỏi ít điều. - Ông muốn hỏi việc chi? - Không biết ông Hội đồng có mấy người con? - Có tôi với hai đứa em trai tôi nữa. - Hôm trước tôi thấy nhựt trình in hình cô Xuân Hương thi đậu „Brevet supérieur". Không biết phải là cô hay không? - Thưa, phải. - Xin lỗi cô. Vậy mà nãy giờ tôi không dè. Tôi xin mừng và khen cô đã có sắc, có duyên, mà lại thêm có tài. Thiệt là ông Hội đồng có phước quá, sanh con gái đáng ngàn vàng. - Phận tôi là gái, học biết chút đỉnh, có tài bao nhiêu mà ông khen quá như vậy. - Ấy là lời khiêm nhường của cô. Hoàng Kiết móc túi lấy thuốc ra hút, coi bộ muốn ngồi mết mà nói chuyện dần lân. Cô Xuân Hương bèn đứng dậy đi mở tủ lấy thuốc và hộp quẹt để trên bàn, rồi cô lại bàn viết mà đứng, không ngồi nữa. Hoàng Kiết hiểu ý chủ nhà muốn đuổi mình, nên chàng đứng dậy mà nói rằng: „Thôi, tôi xin kiếu cô tôi về. Để bữa nào có ông Hội đồng ở nhà rồi tôi sẽ qua ở nói chuyện chơi lâu". Hoàng Kiết từ cô rồi bước ra sân. Cô Xuân Hương đi theo mà đứng tại cửa giữa. Hoàng Kiết ngó quanh quất, thấy bên tay trái có mấy liếp hường trổ màu, thì bông nào cũng lớn thì day qua nói rằng: „Cô trồng hường trổ bông đẹp quá. Xin cô cho phép tôi coi một chút. Tôi có tánh ái hoa, nên thấy hoa không thể đi được". Chàng đi lại mấy liếp hường rờ rẫm từ bông, rồi lại day vô ngó cô Xuân Hương và nói rằng: - Yêu hoa thì phải để hoa trên nhành mà xem. Ngặt vì tôi không ở đây được mà xem, Biết làm sao. Vậy xin cô cho phép tôi hái một cái bông đem về Rạch Giá làm kỷ niệm cái ngày tôi có phước mà được đến Cái Tắc . Cô Xuân Hương gặc đầu mà thôi, chớ cô không đáp một tiếng chi hết. Hoàng Kiết hái một cái bông hường trắng còn hàm tiết, giắt tại túi áo trên, ngó cô Xuân Hương mà cười, rồi dở nón cúi đầu mà từ và bước lên xe. Cô Xuân Hương trở vô, sắc mặt có vẻ buồn. 4 Ông Hội đồng Nghiệp dắt vợ lên Sài Gòn ở uống thuốc nửa tháng, bịnh giảm nhiều nên thầy thuốc khuyên mua thuốc đem về nhà mà uống tiếp thêm cũng được. Ông về nghe con thuật chuyện Trương Hoàng Kiết qua đòi nợ, nói nếu không trả thì chủ nợ sẽ đưa án cho Trưởng Tòa. Ông nghe nói như vậy thì thở dài mà nói rằng: „Việc ấy để ba lo. Con đừng có nói cho má con hay, má con buồn rồi phát bịnh lại đa nghe". Ông liền viết thơ cho ông Cai Tổng Bình mà thuật việc ấy cho ổng hay và nói mình đi Sài Gòn mới về, mắc lo sắp đặt việc nhà, không thể qua được, nên mời ông Cai Tổng Bình qua Cái Tắc mà bàn tính việc nợ nần. Cách ít ngày sau, hai vợ chồng Cai Tổng Bình qua. Việc nhà bối rối, mà coi bộ bà Cai Tổng không lo chi hết. Bước vô nhà, bà hớn hở vui cười, bà đi thẳng vô hậu đường mà vuốt ve cô Xuân Hương rồi nằm nói chuyện làm sui với bà Hội đồng. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng thì ngồi ngoài „salon" mặt mày buồn hiu, nói chuyện nho nhỏ, chớ không phải rộn ràng như hồi trước. Mời khách uống nước rồi, ông Hội đồng mới nói rằng: - Việc nợ nần bây giờ anh tính làm sao đây? Ông Huyện có sai con ổng qua đây thôi thúc nói đã được án Tòa rồi, kỳ cho mình trong ít ngày phải trả đủ vốn lời, nếu không trả thì người ta giao án cho Trưởng Tòa biên tịch tài sản. Khổ quá, không biết tính sao được. - Tính giống gì bây giờ! Mấy năm trước sáu bảy cắc một giạ, mà mình trả lời còn không nổi thay. Năm nay lúa còn ba cắc mấy thì chịu chết, chớ trả giống gì được mà tính. Tôi muốn bỏ xui hết, họ làm gì đó có sức họ làm. - Bỏ xui sao được. - Vậy chớ không bỏ thì làm sao? Đơn mình xin vay dài hạn thì chưa xét kịp. Chủ nợ thì họ được án thi hành. Điền đất thì không ai thèm """