" Tập Truyện ngắn Alice Munro - Alice Munro full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập Truyện ngắn Alice Munro - Alice Munro full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn Ebooks Nhóm Zalo TRUYỆN NGẮN ALICE MUNRO Tác giả: Alice Munro Dịch giả: Nguyễn Đ. Thanh, Nguyễn Đức Tùng, Trần Bình Nam Nguồn: Sưu tầm Biên tập: V.C Tạo bìa: Tornad Tạo ebook: inno14 ★★★ Tác Giả Alice Munro là con cả trong gia đình có ba người con. Mẹ bà là một giáo viên và cha là nông dân. Từ năm 10 tuổi, Munro đã đắm mình trong những cuốn sách và nuôi dưỡng giấc mộng văn chương. Sau khi rời trường phổ thông, bà giành được học bổng nghiên cứu báo chí và tiếng Anh tại Đại học Western Ontario, nơi đây, bà bán máu, làm bồi bàn, cuốn thuốc lá, thủ thư cùng nhiều công việc khác để kiếm tiền ăn học. Năm 1951, Munro bất ngờ nghỉ học để kết hôn với người bạn cùng trường James Munro. Vài năm sau đó, Alice cùng chồng chuyển tới sống ở Victoria, British Columbia, dồn vốn mở một hiệu sách có tên Munro's Books. Thường xuyên tiếp xúc sách báo cộng với niềm đam mê có sẵn, Munro vừa bán sách, vừa chăm con, vừa cho ra đời những tác phẩm của riêng mình. Chung sống với nhau được ba mặt con, Munro và chồng chia tay năm 1972. Năm 1976, bà đi bước nữa với nhà nghiên cứu địa lý Gerald Fremlin. Mặc dù vậy, bà vẫn giữ họ của mình theo họ người chồng đầu tiên - Alice Ann Munro. Alice Munro bắt đầu viết truyện từ những năm tháng tuổi teen. Bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên năm 1950, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, tác phẩm có tên "The Dimensions of a Shadow". Năm 1968, khi Munro 37 tuổi, tuyển tập truyện ngắn "Dance of the Happy Shades" ra đời, nhận được sự chú ý lớn trong giới văn chương Canada. "Dance of the Happy Shades" cũng lập tức được trao giải Governor General - giải thưởng văn học lớn của Canada - dành cho lĩnh vực văn học hư cấu. Năm 1971, bà xuất bản tuyển tập truyện ngắn "Lives of Girls and Women", được các nhà phê bình đánh giá là một tiểu thuyết có tính giáo dục lớn. Sau đó, nhiều tuyển tập khác lần lượt ra đời: "Something I've Been Meaning to Tell You" (1974),"Who Do You Think You Are?" (1978 - thắng giải Governor General),"The Moons of Jupiter" (1982), Runway (2004 - tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tiêu đề "Trốn chạy"),"The View from Castle Rock" (2006),"Too Much Happiness" (2009)... Tuyển tập "Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage" (2001) của Munro là chất liệu chính cho bộ phim "Away from Her" của đạo diễn Sarah Polley năm 2006. Tổng cộng, Alice Munro đã xuất bản 14 tuyển tập truyện ngắn trong quãng đời viết lách của mình, chưa kể nhiều tác phẩm lẻ khác. Tuyển tập gần đây nhất của bà là "Dear Lifer" phát hành năm 2012. Bà cũng nhận nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Man Booker Quốc tế 2009 và ba giải thưởng Governor General danh giá của Canada. Đầu năm nay, nhà văn 82 tuổi đã thông báo kế hoạch gác bút, rời bỏ công việc văn chương để tận hưởng những năm tháng cuối đời. Ngày 10/10, Alice Munro vượt qua nhiều tên tuổi lớn khác của văn học thế giới để nhận giải Nobel lần thứ 106. Trong lời công bố của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bà được mệnh danh là "bậc thầy của truyện ngắn đương đại". Munro là nữ nhà văn theo đuổi chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Những câu chuyện thường có bối cảnh là những thị trấn nhỏ, nơi tưởng yên bình lặng lẽ nhưng ẩn chứa không ít xung đột, mâu thuẫn, căng thẳng xuất phát từ những khác biệt thế hệ, những va chạm đạo đức, tham vọng sống của con người trong xã hội... Munro cũng quan tâm tới phụ nữ và các cô gái trẻ, những vấn đề mà họ phải đối mặt trong cuộc sống ở những thị trấn nhỏ của bà. Các tác phẩm thời kỳ đầu của Munro thường nêu bật sự khác biệt giữa cuộc sống thời niên thiếu ở Wingham, một thị trấn bảo thủ phía Tây Toronro, cũng như những biến chuyển cuộc sống sau cách mạng xã hội những năm 1960. Trong một cuộc phỏng vấn với AP vào năm 2003, bà nói thời kỳ 1960 là "những năm tháng tuyệt vời". "Tôi sinh ra vào năm 1931, tới lúc đó, tôi cũng đã lớn nhưng không phải quá già. Những phụ nữ như tôi sau một vài năm đã được mặc váy ngắn và nhảy nhót". Có thể thấy, cuộc sống xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến các sáng tác của Munro. Về văn phong, Alice Munro nổi tiếng với lối kể chuyện tinh tế, khúc chiết. Những chủ đề giản dị, thường thấy trong cuộc sống được thể hiện bằng lối viết dụng công ở chi tiết - dù chỉ miêu tả những câu chuyện hàng ngày, các chi tiết khi qua tay Munro đều tỏa sáng; và sắc nét ở nhân vật. Munro cũng được đánh giá là nhà văn đã "cách mạng hóa" cấu trúc của truyện ngắn - các tác phẩm thường bắt đầu ở một mốc bất ngờ, sau đó kể ngược về sau hoặc dịch chuyển về phía trước trong quỹ đạo thời gian, với kết thúc hết sức khó lường. Alice Munro được đánh giá là một bậc kỳ tài của thể loại truyện ngắn, thậm chí một số nhà phê bình từng gọi bà là Anton Chekov của Canada. Thế nhưng, bản thân Alice Munro từng không xác định mình sẽ gắn bó với thể loại này. "Trong nhiều năm, tôi cứ nghĩ rằng truyện ngắn chỉ là bước thực tập, và tôi sẽ viết tiểu thuyết vào một ngày nào đó. Sau đó tôi phát hiện, truyện ngắn là tất cả những gì tôi có thể làm, và tôi đối diện với nó. Tôi cho rằng những nỗ lực của tôi vào thể loại này đã được đền bù". Dù vậy, truyện ngắn của Munro thường được cho là giống tiểu thuyết hay là những tiểu thuyết thu nhỏ, không chỉ bởi độ dài của chúng mà còn bởi mật độ cuộc sống mà bà "nhét" vào tác phẩm. • 25 sự thật thú vị trong suốt cuộc đời và sự nghiệp viết lách của bà: 1. Alice Munro sở hữu 22 giải thưởng văn chương, bao gồm: Giải Nobel, 3 giải The Governor General’s Literary Awards, 2 giải Scotiabank Giller Prizes, 2 giải Trillium Book Awards, giải National Book Critics' Circle Award, 3 giải O.Henry Award s và giải The Man Booker International Prize . 2. Munro chuyển sang viết truyện ngắn kể từ khi bà trở thành nội trợ với ba cô con gái nhỏ. Bà không đủ thời giờ dành cho việc viết tiểu thuyết. Munro nghĩ sẽ viết truyện ngắn trong một thời gian nhưng rồi cuối cùng thể loại này đã quyến rũ bà. 3. Mặc dù thành công vang dội với thể loại truyện ngắn, Munro thường nói về ước mơ viết được một cuốn tiểu thuyết. Trong cuộc phỏng vấn với tờ Guardian năm 2003, bà nói rằng: “Tôi vẫn đang cố gắng” . 4. Khi còn bé, Munro bị ám ảnh bởi kết thúc của câu chuyện cổ Andersen - Nàng tiên cá. Bà đã viết một kết thúc hạnh phúc hơn cho câu chuyện. Bà gọi đó là bước khởi đầu cho sự nghiệp viết lách sau này. 5. Đọc sách không được khuyến khích trong gia đình bà. Khi Munro thực sự trở thành một độc giả nghiêm túc, mẹ gọi bà là "một Emma McClure khác!". Theo lời Munro, Emma McClure là một người họ hàng sống ẩn dật,"đã đọc sách suốt ngày đêm trong 35 năm, không có thời gian để kết hôn hay học tên của cháu trai và cháu gái của bà, thậm chí không có thời giờ chải tóc”. 6. Tập truyện ngắn đầu tay của bà, Dance of the Happy Shades (tạm dịch “Vũ điệu của những cái bóng hạnh phúc”) đã được viết trong vòng 15 năm. 7. Khi Munro nhận bản thảo của cuốn sách từ nhà xuất bản của mình, bà đã giấu chúng trong tủ quần áo để không nhìn thấy nó. Một đêm, cuối cùng bà lấy bản thảo ra đọc và nghĩ rằng "Nó không phải tệ như tôi tưởng". Cuốn sách này đã giành chiến thắng giải thưởng The Governor General's Literary Award vào năm 1968. 8. Sau tập truyện đầu tiên bà giành được giải thưởng The Governor General's Literary Award vào năm 1968, Munro cảm thấy rất nhiều áp lực để viết một cuốn tiểu thuyết. Bà đã cố gắng nhưng không có kết quả. Nhà xuất bản của bà, Douglas Gibson, nói với bà ấy,"Alice, tất cả đều sai. Bà là một nhà viết truyện ngắn tuyệt vời. Nếu bà muốn xuất bản truyện ngắn trong suốt quãng đời còn lại của bà, tôi sẽ xuất bản chúng ". 9. Nhà làm phim nổi tiếng Tây Ban Nha Pedro Almodóvar đã xây dựng bộ phim Julieta dựa trên bộ ba truyện ngắn của Munro - Chance, Soon và Silence, trích từ tập truyện Runaway (Trốn chạy). 10. Bộ phim dựa theo truyện ngắn của Munro “Boys and Girls” thắng giải Oscar 1984 cho hạng mục Phim ngắn xuất sắc nhất. 11. Munro là người Canada đầu tiên đạt giải Nobel Văn chương và là người phụ nữ thứ 13 chiến thắng giải này. Bà 82 tuổi khi nhận giải. 12. Royal Canadian Mint đã ban hành một đồng xu Alice Munro vào năm 2014 để kỷ niệm chiến thắng Nobel của bà. Các đồng tiền bao gồm một đoạn văn từ truyện ngắn Messenger của bà. 13. Bà đã tốt nghiệp trường trung học Wingham với kết quả đứng đầu lớp năm 1949. 14. Bà gặp người chồng đầu tiên của bà, James Munro, tại thư viện đại học. Bà luôn đói bụng khi ở trường đại học vì bà không đủ tiền để ăn. Ông James đang ăn kẹo bạc hà bọc sô cô la. Ông đã làm rơi trên sàn nhà và nhìn xung quanh trước khi nhặt nó lên và ăn, để đảm bảo không ai thấy ông ăn một thứ đã rơi xuống đất. Alice nhìn ông và nói: "Tôi sẽ ăn nó". 15. Bà gặp người chồng thứ hai, Gerald Fremlin cũng trong trường đại học. Alice đã đi xe buýt với bạn gái của Fremlin. Cô gái này đã kể cho bà nghe rất nhiều chuyện về Fremlin và bà từng nghĩ nghĩ cô ấy là "cô gái may mắn nhất trên thế giới". 16. Ở độ tuổi 25 - 35, Munro sợ rằng bà không đủ tài năng để trở thành nhà văn. Trong thời gian này, bà đã ném đi rất nhiều bản thảo và trải qua một thời kỳ bế tắc và khủng hoảng. 17. Vào năm 1963, bà và người chồng James đã mở hiệu sách đầu tiên ở Victoria. Ngày đầu tiên mở cửa, họ đã kiếm được $175. Hiệu sách của Munro vẫn tiếp tục phát triển cho đến năm 2014 khi James Munro về hưu và chuyển giao quyền sở hữu cho các nhân viên làm việc lâu năm. 18. Tự nhận là một độc giả trẻ, bà đã có một phản ứng dữ dội đối với xu hướng ghét phụ nữ trong công việc của Leo Tolstoy và DH Lawrence, nói rằng điều đó "giống như móng vuốt cố gắng nhấn tôi xuống". Điều đó cũng làm bà ngạc nhiên "Làm thế nào tôi có thể là một nhà văn khi tôi là đối tượng của các nhà văn khác?” 19. Munro thích viết về các thị trấn nhỏ vì bà cho rằng “thị trấn nhỏ như một sân khấu của cuộc sống con người”. 20. Munro đã viết câu chuyện The Office, trong đó một người phụ nữ thuê một văn phòng để viết và làm cho chủ nhà phiền lòng khiến cô phải chuyển đi. Đây là tự truyện. Munro phát hiện ra rằng bà không bao giờ có thể viết trong một văn phòng, thậm chí khi chủ nhà không khó chịu. Trong nhà của bà ở Clinton, Munro viết ở một bàn nhỏ trong góc phòng ăn, đối diện với một cửa sổ nhìn ra đường. 21. Munro từng nhận được rất nhiều thư chê bai phàn nàn rằng truyện của bà quá chán. 22. Bà biết rất nhiều về nhân vật của mình: "những quần áo họ muốn chọn, những gì họ thích làm ở trường, những gì xảy ra trước đây và điều gì sẽ xảy ra sau này". Bà thừa nhận rằng đã viết rất nhiều về quần áo trong các câu chuyện đầu tay của mình, và tiết lộ rằng khi còn nhỏ bà không có những bộ quần áo bà muốn. 23. Trong một tự truyện từ cuốn sách Dear Life (Cuộc đời yêu dấu), Munro nói rằng: "Tôi không bao giờ viết nhật ký. Tôi ghi nhớ rất nhiều và luôn cho mình là trung tâm hơn mọi người." 24. Câu chuyện Cuộc đời yêu dấu của Munro đã được dựng lại thành một tác phẩm cho dàn nhạc biểu diễn tại Trung tâm Nghệ thuật Quốc gia Ottawa năm 2015. 25. Vào năm 2013, Munro nói trong một buổi phỏng vấn rằng bà sẽ không viết nữa. Đây không phải lần đầu tiên bà đề cập đến việc “nghỉ hưu”. Bà đã nói “Tôi không biết còn đủ sức lực để làm bất cứ điều gì” với tờ Globe and Mail năm 2006 nhưng sau đó vẫn cho ra đời tập truyện Cuộc đời yêu dấu. Vì vậy, người hâm mộ vẫn có quyền hy vọng. (Theo CBC.ca) ★★★ Cõi Âm ———★——— Nguyên tác: Dimension Sáng Chủ nhật, Doree lấy 3 chuyến xe búyt. Từ nhà đến thị trấn Kincardine, đổi xe đi London, rồi từ London đi đến bệnh viên giam giữ phạm nhân tâm thần. Ngồi trên xe từ 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều Doree mới đến nơi qua khoảng đường dài hơn 200 km. Nhưng ngồi không phải là vấn đề đối với Doree vì Doree đứng làm việc hằng ngày. Doree là nhân viên phụ dọn phòng cho khách sạn Comfort. Công việc hằng ngày gồm thay drap giường, hút bụi và lau chùi phòng vệ sinh. Cô yêu công việc, nó giúp cô khỏi phải nghĩ ngợi lung tung, và tối đến dễ ngủ. Doree không gặp khó khăn trong công việc, mặc dù các bà bạn cùng sở hay kể lại những khó khăn thỉnh thoảng gặp phải nghe thật khó tin. Các bà này đều lớn hơn Doree, và tốt bụng. Họ khuyên Doree vì còn trẻ và có nhan sắc nên xin học làm một việc gì ở văn phòng cho đỡ nhọc nhằn. Doree không muốn thổ lộ tâm tình với các người phụ nữ tốt bụng này tại sao cô yên phận với công việc. *** Không ai trong các bạn cùng sở biết những gì đã xẩy đến cho Doree. Chuyện của cô báo đài đều đăng tải. Báo địa phương đã đăng một tấm hình của cô, tóc nâu dài, lượn sóng chụp với 3 con nhỏ, bồng trên tay là bé mới sinh Dimitri, hai bên là Barbara Ann và Sasha nhìn mẹ và em. Bây giờ Doree gầy hơn hình trên báo, tóc cắt ngắn, nhuộm đậm hơn và kẹp tóc. Khi xin việc cô dùng tên khác – Fleur là tên mới của cô. Hơn nữa cô làm việc tại một thành phố nhỏ xa chỗ ở, nơi đã xẩy ra thảm trạng. *** Đây là chuyến thứ ba Doree đến nhà giam thăm Lloyd. Hai lần trước Lloyd không tiếp Doree. Lần này nếu Lloyd còn từ chối không muốn gặp thì Doree nghĩ nàng sẽ không bao giờ đến thăm nữa. Mỗi chuyến đi thăm là một lần tâm sự Doree rối bời. Lần đầu nàng cố gắng bình tĩnh dùng thì giờ trên xe ngắm nhìn phong cảnh chung quanh. Nàng lớn lên, lấy chồng ở thành phố biển có mùa Xuân êm mát dịu dàng. Ở đây sâu trong đất liền, mùa Hạ nối tiếp mùa Đông. Tháng trước còn tuyết, bây giờ trời nóng như đốt. Những vũng nước hai bên đường khô nhanh dưới ánh mặt trời gay gắt chiếu lọt qua rừng cây chưa kịp đâm lá. Chuyến thứ hai, Doree không còn bình tĩnh để ngắm nhìn phong cảnh. Nàng tự hỏi không biết các bà khác trên xe có cùng đến nhà giam thăm thân nhân như mình không. Đa số các bà lớn tuổi ăn mặc tươm tất như đi lễ nhà thờ với nón, áo khoát và vớ dài. Các bà trẻ hơn mặc quần dài, áo ngắn ngang lưng, đeo bông tai và khăn choàng nhiều màu sắc, tóc được săn sóc cẩn thận theo nhiều kiểu khác nhau. Doree ăn mặc tầm thường. Từ ngày đi làm đến nay nàng chưa sắm một bộ áo quần mới nào. Đi làm việc nàng mặc đồng phục như nhânviên khác của khách sạn. Ngoài giờ làm việc nàng mặc jeans. Chuyến thứ ba này Doree ngồi gần cửa sổ và không biết làm gì hơn là đọc các tấm bảng trên đường. Ở ngoại ô là các bảng chỉ đường, vào thành phố bảng chỉ đường lẫn lộn với các bảng quảng cáo. *** Doree không báo cho bà Sands – người của sở Xã hội có nhiệm vụ giúp đỡ cô về mặt tâm thần- biết cô đã đi thăm Lloyd hai lần trước, và có lẽ nàng cũng dấu chuyến đi thăm này. Chiều Thứ Hai hằng tuần Doree gặp bà Sands. Bà thường khuyên không nên vội vã trong bất cứ việc gì, thời gian sẽ giải quyết một số vấn đề. Bà nói bà thấy Doree có ý chí, vững vàng chịu đựng và có sức sống. *** Bảy năm trước, Doree 16 tuổi, mỗi ngày ở trường về Doree ghé thăm mẹ ở bệnh viện. Bà mới mổ xương sống. Lloyd làm y tá ở đó. Lloyd nhỏ hơn Mẹ Doree, nhưng hai người mau chóng trở thành bạn tâm giao vì cả hai đều từng là dân bụi đời. Trong giờ làm việc rành rỗi Lloyd thường đến tán chuyện gẫu với bà. Nhắc lại những ngày lang thang, biểu tình phản đối chương trình này hay chương trình khác của chính phủ, và những lần say thuốc chết lên chết xuống. Lloyd là một y tá bình dân trong bệnh viện, có óc khôi hài và mát tay khi săn sóc bệnh nhân. Người anh cao to, vai rộng, da ửng đỏ, tóc thưa, đôi mắt tự tin nên nhiều bệnh nhân tưởng Lloyd là bác sĩ. Llyod không lấy đó làm vinh dự. Anh thường cho rằng ngành y khoa có nhiều gian dối và đa số y sĩ rất khó thương. Một hôm Lloyd hôn Doree một cách tự nhiên trong thang máy, cười và nói nhìn cô như một chiếc hoa dại giữa sa mạc. Doree không giận , phản ứng nhẹ nhàng: “ Anh ăn nói như một nhà thơ vậy!” Thình lình mẹ Doree bị nghẽn mạch máu qua đời. Doree tạm thời ở với một người bạn của mẹ, nhưng cô thích ở với Lloyd hơn. Vào sinh nhật thứ 17, Doree có bầu và họ cưới nhau. Lloyd chưa vợ và có hai con riêng, hiện ở đâu anh cũng không rõ. Anh nghĩ chúng đã lớn ít nhất cũng xấp xỉ tuổi của Doree và tự xoay xở được. Có tuổi Lloyd thay đổi quan niệm về cuộc đời. Anh nghĩ lấy vợ là phải, và tuy không sùng đạo Chúa anh là người chống thuốc ngừa thai. Hai vợ chồng thuê một căn nhà ở bán đảo Sechelt, nơi cả hai đang ở trước khi lập gia đình. Cư dân ở đó đều biết nhau, sùng đạo và bảo thủ. Lloyd thấy không hợp với lối sống phóng khoáng của mình. Hai vợ chồng dọn đến vùng ngoại ô của thành phố Mildmay khá xa. Lloyd xin được việc làm quản lý cho một hãng làm icecream, dành dụm tậu được một ngôi nhà nhỏ có vườn. Ngoài giờ làm việc Lloyd làm vườn trồng rau trái. Anh khéo tay tự chỉnh trang ngôi nhà ọp ẹp, và biết cách bảo trì giữ cho chiếc xe khá cũ chạy được ngay cả trong mùa Đông đầy tuyết . Tạm ổn định, Doree sinh Sasha con đầu lòng. *** Khi nghe Doree kể lại, bà Sands nói: “Mọi việc thuận chiều, êm đẹp quá!” “Có thật không bà?” Doree hỏi lại một cách luyến tiếc. Trong những buổi hẹn gặp bà Sands, Doree ngồi trên chiếc ghế trước bàn giấy của bà Sands mà không ngồi trên chiếc chiếc sofa bọc da dù bà Sands mời. Bà Sands thường kéo ghế bà sang một bên để mặt nhìn mặt Doree khi nói chuyện tâm tình. Khi nghe Doree thuật chuyện đi thăm Lloyd, bà Sands nói: “Tôi nghĩ trước sau cô sẽ đi thăm Lloyd . Ở vào vị trí của cô tôi cũng làm vậy.” Bà Sands là một nhân viên sở Xã hội nhiều kinh nghiệm. Hơn một năm qua, bà không đá động đến việc đi thăm Lloyd. Biết đâu Doree sẽ bực tức. Bây giờ bà thoải mái ủng hộ quyết định đã đi thăm Lloyd của Doree . Bạo dạn Doree bày tỏ: “Hai lần trước Lloyd không chịu tiếp tôi” “Nhưng lần này anh ấy ra cho cô thăm phải không?” bà Sands hỏi . “Vâng . Thoạt nhìn anh tôi ngỡ nhận không ra.” “Lloyd già lắm sao?” “Hơi già, gầy nhiều, và nhất là bộ đồng phục. Tôi chưa bao giờ thấy anh ấy mặc đồng phục” “Anh ấy vốn là y tá?” “Vâng, nhưng bộ đồng phục này khác” “Anh ấy khác hẳn sao?” “Không hẳn vậy.” Doree cắn môi nghĩ xem Lloyd khác như thế nào? Anh mất vẻ tự nhiên của ngày trước. Anh lúng túng không biết có nên ngồi xuống để nói chuyện với Doree không. Doree mời “Anh ngồi xuống đi anh”, và Lloyd trả lời một cách xa vắng như người được uống thuốc an thần “Vậy thì ngồi!” “Tinh thần anh ấy sụp đổ chăng?” bà Sands hỏi,“Thế hai người có trò chuyện nhiều với nhau không?” Doree không biết có thể nói đó là một cuộc trò chuyện không. Cô hỏi Lloyd những câu hỏi vô thưởng vô phạt không đâu vào đâu. Anh cảm thấy thế nào ? – OK- Người ta cho ăn uống đầy đủ không ? – Ừ cũng đủ – Có chỗ để đi lui đi tới cho thư giản không ? – Đi đứng có người giám sát, và không biết có thể gọi đó là đi thư giản không – Ít nhất anh cũng được hít thở không khí trong lành hơn chứ ? – Cái đó thì có... Doree nói có lúc định hỏi Lloyd có bạn mới không như bố mẹ thường hỏi con cái khi đổi trường. May cô chưa hỏi . Bà Sands nhanh nhẩu: “Đúng, cô không hỏi là phải”, vừa nói bà vừa lấy một tấm Kleenex đưa cho Doree chấm nước mắt, mặc dù mắt cô khô rốc. Cô thấy bụng thắt lại chỉ muốn nấc lên. Bà Sands im lặng chờ. Khi cơn xúc động lắng xuống, Doree nói dường như Lloyd đoán được ý nghĩ của nàng và Lloyd nói, thỉnh thoảng có bác sĩ tâm thần đến thăm hỏi. Anh nói “quý vị chỉ mất thì giờ vô ích, tôi biết tôi có vấn đề gì.” Qua câu chuyện, Doree thoáng thấy cá tính vốn bướng bỉnh của anh. Suốt buổi thăm viếng, trống ngực Doree đập thình thịch, tưởng như có thể ngả lăn ra bất tỉnh bất cứ lúc nào. Nàng cố bình tĩnh để nhận diện người đàn ông vốn yêu đời, dí dỏm, bây giờ là một thanh niên ốm yếu, lạnh lùng xa vắng, cử chỉ lúng ta lúng túng. Doree không nói cho bà Sands biết sự hồi hộp của mình, ngại bà ta hỏi mình sợ ai, vì thật ra Doree không sợ ai cả. *** Khi Sasha được một tuổi rưỡi, Doree sinh Barbara Ann. Khi Barbara Ann lên hai, Dimitri ra đời. Shasa là tên hai vợ chồng cùng chọn, sau đó Doree và Lloyd đồng ý, Lloyd đặt tên cho con trai, Doree đặt tên cho con gái. Vừa lọt lòng Dimitri đau bụng kinh niên. Doree nghĩ là vì sữa của nàng không đủ hoặc thiếu hay quá thừa chất bổ dưỡng. Lloyd mời một bà chuyên viên trong hội La Leche đến trao đổi ý kiến với Doree. Bà ta khuyên làm gì thì làm, tuyệt đối không được cho Dimitri uống thêm sữa bình. Làm vậy Dimitri sẽ bỏ sữa mẹ và chứng đau bụng sẽ khó trị hơn. Không ai biết Doree đã cho Dimitri uống thêm sữa bình và nàng không thể ngưng được. Quả thật uống thêm sữa bình, Dimitri càng chê sữa mẹ, và sau 3 tháng Dimitri chỉ uống sữa bình. Đến lúc đó Doree không thể dấu Lloyd và nói với Lloyd sữa nàng cạn kiệt phải cho Dimitri uống sữa bình. Lloyd nặn đôi vú của Doree và thấy còn có sữa tuy không nhiều. Lloyd giận nói Doree nói láo, hai người cãi lộn và đánh nhau. Trong cơn giận Lloyd nhiếc Doree là con điếm như mẹ của nàng. Lloyd nói những kẻ từng đi cù bơ cù bất đều là điếm. Cãi nhau rồi làm lành. Nhưng mỗi lúc Dimitri trở chứng khóc nhiều, bị cảm lạnh, hay đi đứng khó khăn vào tuổi Sasha và Barbara đã chạy được, thì câu chuyện không cho con bú sữa mẹ trở thành đề tài bất hòa. *** Lần đầu tiên khi Doree đến văn phòng gặp bà Sands, một phụ nữ ngồi trước văn phòng đưa cho Doree một tờ quảng cáo tôn giáo in hai măt. Một mặt in hình thánh giá màu vàng rực rỡ với dòng chữ cũng màu vàng rất bắt mắt: “Khi con mất mát ngoài sức chịu đựng ….”. Trang kia in hình Chúa Jesus và mấy dòng chữ Doree không buồn đọc. Ngồi trước bàn giấy của bà Sands, tay nắm chắc tờ quảng cáo Doree giận run. Bà Sands nắm bàn tay Doree cho hết run và hỏi: “Có ai đưa cho cô tờ quảng cáo này” “Cô ấy”, Doree vừa trả lời vừa quay đầu về hướng chiếc cửa đã đóng kín. “Cô không thích tấm quảng cáo phải không?” “Khi ai gặp khó khăn là lúc có người lợi dụng lòng tin của mình,” Doree trả lời, nhớ đến lời mỉa mai của mẹ khi còn nằm bệnh viện khi quý bà trong các đoàn thể tôn giáo đến thăm tặng quà và thuyết phục ,“Họ tưởng mình chỉ cần quỳ xuống dưới chân Chúa là mọi sự êm đẹp!” Bà Sands nói: “Tin chưa chắc giải quyết được mọi việc” “Chắc là chẳng giải quyết được gì !” Doree quả quyết. “Có thể là vậy” Trong thời gian mấy tháng đầu, bà Sands và Doree không bao giờ nhắc đến tên Lloyd trong câu chuyện. Doree cố gắng quên Lloyd xem như những gì đã xẩy ra là một tai nạn của trời đất. Doree nói: “Cho dù tôi tin Chúa cũng chỉ khổ cho tôi thêm…” Doree liên tưởng đến sự trừng phạt của Chuá dành cho Lloyd nhưng không nói với bà Sands. Và mỗi lần nghĩ đến sự đền tội của Lloyd lòng cô xốn xang bứt rứt. *** Lloyd thích dạy mấy con học ở nhà. Không phải vì lý do tôn giáo không muốn con học những gì ở trường trái với lời Chúa dạy, như thời đại dinosaurs, thời vượn chuyển thành người … lý do đơn giản là Lloyd muốn các con có nhiều thì giờ gần bố mẹ và học theo khả năng hấp thụ chứ không bị nhồi nhét như chương trình trường công. Lloyd nói anh muốn Sasha, Barbara Ann và Dimitri là con của anh chứ không phải là con của Bộ Giáo Dục . Doree tưởng không kham nổi trách nhiệm dạy con học ở nhà, nhưng rất may Bộ Giáo Dục có tài liệu hướng dẫn. Hơn nữa Sasha sáng dạ học dễ, trong khi hai đứa em còn nhỏ không cần học bao nhiêu. Mỗi tối hay vào cuối tuần, Lloyd dạy Sasha về địa lý, về thái dương hệ, nguyên nhân một số thú vật ngủ mùa Đông, tại sao xe chạy được. Không bao lâu Sasha đã đi trước chương trình của Bộ Giáo dục. Nhưng Doree vẫn để Sasha học theo nhịp của Bộ. Trong vùng ở cách nhà mấy cây số có gia đình bà Maggie cũng cho con học ở nhà. Bà có một chiếc xe van nhỏ, mỗi tuần Doree đi nhờ xe bà Maggie ra Học khu nộp bài làm của Sasha và lấy bài học mới. Mỗi lần đi bà chở cả bọn nhóc đi theo. Bà Maggie có hai đứa con trai. Đứa lớn bị chứng dị ứng thực phẩm nên bà Maggie phải coi chừng thức ăn, và đó là lý do chính bà cho nó học ở nhà. Đứa nhỏ bị suyễn và muốn ở nhà chơi với anh nên bà Magie cho nó học ở nhà luôn. So sánh với mấy con bà Maggie, Doree may mắn hơn nhiều. Sasha và Barbara Ann khỏe mạnh, Dimitry có chút vấn đề nhưng không có gì trầm trọng. Lloyd nói nhờ Doree lấy chồng sinh con sớm, trong khi bà Maggie chờ gần tắc kinh mới lấy chồng. Lloyd so sánh hơi quá. Thật ra bà Maggie lấy chồng trễ nhưng không quá già. Bà hành nghề bác sĩ về kiếng đeo mắt với chồng, và sau khi tậu một ngôi nhà khang trang ở miền quê hai người cưới nhau và bà nghỉ làm luôn. Bà Maggie tóc muối tiêu cắt ngắn, người tầm thước, ngực nở, vui tính và ngang bướng một cách dễ thương. Lloyd hay tán chuyện gẫu với Maggie qua điện thoại, và nói với Doree “Maggie đó” mà không bao giờ nói đã cà kê dê ngỗng những gì . Doree không mấy quan tâm vì với ai Lloyd cũng cà khịa một cách thân mật được. Doree chỉ ngại tính nói chuyện dai của Lloyd làm bà Maggie khó chịu và mất thì giờ của Maggie. Có một lần Doree nghe Lloyd bắt phone có vẻ đùa cợt, bên kia là Maggie “Chị muốn nói chuyện với bà vợ cưng của tôi hả. Đây, cô ta đây . Cô ấy đang ủi quần cho tôi. Chị thấy đó, tôi chỉ có hai cái quần để thay đổi, và việc đó giúp cô ta giặt ủi luôn tay” Doree và Maggie có thói quen sau khi đến Học khu thì đi chợ. Thỉnh thoảng họ vào tiệm Tim Horton lấy cà phê “to go”, thả mấy đứa nhỏ tại công viên Riverside, ra ngồi ghế đá vừa trông bọn nhỏ vừa nhấm cà phê trò chuyện. Sasha và hai đứa con trai của Maggie leo trèo trên các thang trong công viên, Barbara Ann đong đưa trên xích đu, trong khi Dimitri vọc cát. Gặp trời lạnh hai bà bạn ngồi trong xe tâm sự đủ điều về con cái và bếp núc giúp hai người biết nhau hơn. Maggie từng du lịch khắp lục địa Châu Âu trước khi vào trường thuốc. Maggie biết Doree lấy chồng khi còn rất trẻ, và tại sao Doree có thai sớm. Doree nói với Maggie sau 3 đứa con nàng bỗng không sinh nữa và Lloyd nghi nàng uống thuốc ngừa thai. “Thế cô có uống thuốc ngừa thai không?” Maggie hỏi “Không”, Doree nói “Có muốn tôi cũng không dám” “Vậy sao ?” Maggie trả lời hơi chút ngạc nhiên Một lần, Maggie đột nhiên hỏi “Cô có tìm thấy hạnh phúc trong hôn nhân không ?” Không do dự Doree trả lời “Có”. Doree không biết câu trả lời của mình có thành thật không. Có nhiều việc, nhiều hoàn cảnh mình quen và chấp nhận như vậy nhưng chưa chắc nguời khác đã nhìn sự việc như mình? Lloyd nói năng hoạt bát nhưng khó tính, và đó là điều đáng yêu cũng như đáng ghét của Lloyd . Tại bệnh viện Lloyd ghét cay ghét đắng bà Y tá trưởng Lloyd cho là loại người kỳ thị. Lloyd gọi bà là con quỷ cái. Hiện nay tại sở làm Lloyd cũng ghét một nam công nhân Lloyd cho là nịnh cấp trên và đặt tên là “thằng nịnh” Doree biết những người đó không tệ như Lloyd thấy, nhưng Doree không nói ra trái ý Lloyd . Đàn ông có nhu cầu có kẻ thù để ghét chăng, cũng như có nhu cầu kể chuyện khôi hài mặc dù nhiều lúc rất vô duyên? Lloyd hay đưa những người mình ghét vào chuyện khôi hài, cũng như hay tự lố bịch hóa mình để cười. Chỉ những lúc đó Doree mới có thể cùng cười với Lloyd mà không sinh chuyện . Doree không muốn Lloyd ghét bà Maggie . Nếu Lloyd ghét bà Maggie và cấm cô đi chợ chung thì thật là bất tiện. Phải nói sao về Lloyd với Maggie mà không cảm thấy mình nói dối? Nhưng Doree nghĩ Maggie là một phụ nữ sâu sắc, chóng hay chầy bà ấy cũng biết con người thật của Lloyd . Nghĩ quanh nghĩ quẩn, Doree tự nhũ tại sao mình thắc mắc về ý nghĩ của bà Maggie đối với Lloyd. Mặc bà ấy. Gia đình và quan hệ giữa mình và Lloyd mới quan trọng. Lloyd thường nói vậy, và anh ấy nói đúng. Chất keo kết hợp giữa hai người và nỗ lực của Doree giữ gìn chất keo đó không phải là chuyện của người khác . Quan hệ giữa Lloyd và Maggie trở nên xấu dần. Lloyd phê phán và đổ lỗi cho Maggie về tình trạng sức khỏe của hai cậu con trai. Lloyd nói, tại bệnh viên anh thấy trẻ con bệnh đều tại mẹ, nhất là những bà mẹ có trình độ học vấn cao vì cưng con mà làm hạn chế sự phát triển tự nhiên của chúng . Doree nói: “Nhiều đứa bé sinh ra đã có vấn đề. Anh không thể kết luận con hư hay con bệnh khi nào cũng tại mẹ” “Lloyd cao giọng “Ai cấm tôi” “Không ai cấm anh cả, nghĩ gì là quyền của anh. Tôi chỉ muốn nói có khi sức khỏe của mỗi người do bẩm sinh chứ không tại ai cả.” “Chà, cô học y khoa hồi nào mà ăn nói như một bà bác sĩ vậy!” “Tôi không bao giờ nói tôi là bác sĩ” “Lẽ dĩ nhiên cô không phải là bác sĩ, và không có thẩm quyền gì bàn về vấn đề sức khỏe. ” Từ chuyện nhỏ kéo ra chuyện lớn, Lloyd hạch sách hỏi Doree bà Maggie và cô thường nói với nhau những gì. “Nói chuyện tâm phào, và chẳng có gì đáng ghi nhớ cả”, Doree trả lời . “Người ngu mới tin cô. Hai người đàn bà đi chung xe ngày này qua tháng khác mà không nói gì đáng nhớ với nhau!Tôi biết thế nào mà chẳng có chuyện để chia rẽ tôi với cô” “Anh nói ai? Bà Maggie hả?” Lloyd trả lời: “Tôi có kinh nghiệm về loại phụ nữ đó” “Loại nào?” “Loại bà ấy chớ còn loại nào” “Anh chớ nên hồ đồ.” “Cô nên giữ mồm giữ miệng. Tôi cấm cô nói tôi hồ đồ” “Thế bà ấy muốn chia rẽ anh với tôi để làm gì?” “Làm sao tôi biết được lòng dạ bà ấy. Cô cứ chờ đó sẽ biết. Thế nào bà ấy cũng nhét vào tai cô rằng tôi là một người đàn ông chẳng ra gì.” *** Một hôm sau khi cãi nhau, Doree khóc chạy đến nhà Maggie. 10 giờ đêm, Doree gõ cửa. Chồng bà Maggie chưa từng gặp Doree ra mở cửa. Ông nhìn thẳng vào mặt Doree hỏi không chút thiện cảm “Cái gì vậy? Cô muốn gi?” Doree ấp úng: “Xin lỗi đã làm phiền ông”. Vừa lúc đó Maggie bước ra. Đêm ấy như một kẻ mất hồn Doree thất thểu đi bộ đến nhà bà Maggie. Bắt đầu một đoạn đường làng rồi ra xa lộ. Vừa đi Doree vừa nhìn xe cộ chạy qua xem thử có xe nào của Lloyd không? Doree không muốn Lloyd nhận ra mình. Nàng muốn để cho Lloyd hoảng hốt một lần cho bỏ ghét . Kinh nghiệm cho Doree biết khi nào Lloyd cãi bướng nàng khóc, nàng la, đập đầu vào tường thì Lloyd nhịn “ OK, cưng, hãy nín đi, cưng nói đúng! Hãy thương mấy đứa nhỏ và nín đi cưng !” Đêm nay Doree định giở trò cũ để làm cho Lloyd sợ . Nàng lấy một chiếc áo ấm choàng vào người vừa khóc vừa bước ra đường không nghe tiếng Lloyd de đọa “Tôi cảnh giác cô đừng bỏ đi như vậy !” Linh tính bảo Lloyd rằng những gì anh nghi ngờ về Maggie đang trở thành sự thật. Sau khi vợ nhận ra Doree, chồng bà Maggie bỏ đi ngủ. Doree khóc nói với Maggie “Tôi xin lỗi đêm hôm đến nhà phiền chị.” “Lỗi phải gì. Cô cần mới đến đây. Cứ yên tâm. Uống một ly rượu vang cho ấm người nhé? “Tôi không biết uống rượu”, Maggie nói. “Vậy để tôi lấy trà nóng cho cô. Trà Raspberry ngon lắm. Mà sao đó? Lại cãi nhau về chuyện mấy đứa nhỏ phải không?” “Không phải vì mấy đứa nhỏ” Magie giúp Doree cởi áo khoát, đưa cho Doree một tấm Kleenex và nói: “Khoan nói đã. Hãy nghỉ ngơi cho tỉnh người rồi hẵng hay.” Khi bắt chuyện lại với Maggie ,Doree cũng không muốn nói hết sự thật những gì nàng nghĩ về Lloyd. Doree nói lỗi do nàng. Doree nghĩ dù Lloyd có xấu với nàng, Lloyd vẫn là người thân duy nhất còn lại trong cuộc đời nàng, và nếu nàng nói với Maggie tất cả cảm nghĩ thật của mình đối với Lloyd thì mọi sự sụp đổ hết. Doree kể với Maggie rằng, cô và Lloyd lại cãi nhau về một chuyện lảng xẹt và cô không còn đủ can đảm để nghe những lời hết sức vô lý của Lloyd mà cô đã nghe hoài, cho nên cô muốn ra khỏi nhà cho đỡ nhức đầu. Doree nghĩ rồi sẽ lại làm lành với nhau. Có tiếng chuông điện thoại reo, Maggie trả lời “Vâng, cô ta bình an. Cô ấy chỉ muốn tránh một chuyện bực mình . Cô ta khỏe, OK . Anh yên tâm, sáng mai tôi đưa cô về nhà. Chúc anh ngủ ngon.” Gát điện thoại xuống, Maggie nói với Doree: “Lloyd. Chắc cô đã đoán ra” “Giọng anh ấy có bình thường không?” Doree hỏi Maggie cười: “Tôi đâu có biết khi bình thường thì giọng anh ấy thế nào mà biết có bình thường hay không. Chỉ biết giọng không có hơi rượu” “Anh ấy không biết uống rượu . Cà phê cũng không.” *** Sáng tinh sương, Maggie đưa Doree về nhà. Lloyd chưa đi làm. Maggie có việc cần đi gấp. Bà quày xe, nói với Doree: “Bye bye, cần gì cứ điện thoại cho tôi”, rồi thả thắng nhấn gas . Đầu xuân, buổi sáng trời lạnh, tuyết còn phủ trên sân, và Doree ngạc nhiên thấy Lloyd ăn mặc mong manh ngồi trên ngưỡng cửa. Doree nhìn Lloyd, bước vào nhà, nhưng Lloyd ngồi chắn lối đi. “Cô không được bước vào nhà” “Sao vậy? Tôi xin anh” Doree nói. Lloyd không trả lời, hai môi mím vào nhau cười đau khổ. Cảm thấy có điều bất thường, Doree la lớn: “Lloyd, Lloyd, anh làm gì kỳ vậy?” “Tôi nghĩ tốt nhất là cô không nên bước vào nhà” “Anh đừng hiểu lầm. Tôi không nói gì với Maggie cả. Tôi xin lỗi đã đi ra khỏi nhà. Tôi chỉ muốn tạm có không gian để thở thôi.” “Tốt hơn cô không nên vào nhà” Lloyd lặp lại . Doree càng hoảng : Anh sao thế ? Mấy con đâu ?” Lloyd lắc đầu như anh vẫn có thói quen lắc đầu mỗi khi nghe Doree nói điều gì anh không muốn nghe . Doree thét lên: “Lloyd, các con đâu ?” Vừa thét Doree vừa sấn tới. Lloyd nhích sang một bên nhường lối cho Doree. Dimitri nằm chết cứng đơ trong chiếc nôi. Barbara Ann chết trên sàn nhà dưới chân giường ngủ. Sasha nằm sóng soài nơi cửa nhà bếp cho thấy Sasha muốn thoát nhưng không kịp. Cổ Sasha bị bóp tím bầm. Dimitri và Barbara chết ngạt bằng gối đè lên mặt. Lloyd nói: “Hôm qua khi tôi điện thoại đến nhà bà Maggie, mấy đứa con đều chết cả rồi” Lloyd nói tiếp “Do cô cả .” Doree mê sảng thất thểu chạy ra khỏi nhà, hai bàn tay ôm bụng như thân hình bị chẻ làm đôi vừa chạy quanh sân nhà vừa rên khóc không thành tiếng. Đó là cảnh tượng bà Maggie thấy khi bà trở lại. Trên đường về linh tính báo cho bà biết có gì đó chẳng lành, bà quày xe về nhà Doree. Maggie tưởng Doree bị Lloyd đá vào bụng. Maggie để yên cho Doree khóc la, bà chạy thẳng vào nhà – Lloyd vẫn còn ngồi trên ngưỡng cửa im lặng tránh chỗ cho Maggie đi qua không nói một lời – Maggie thấy điều chẳng lành bà linh cảm. Bà gọi cảnh sát. *** Tòa án kết luận, Lloyd hành động vô thức trong cơn điên, và nhốt Lloyd vào một bệnh viện tâm thần. *** Doree bỏ ăn nhiều ngày. Cô nhét bất cứ gì thấy trước mắt vào miệng, áo quần, vải vóc, ngay cả bùn đất và cỏ rác như thể giúp chận lại tiếng kêu ai oán trong cổ họng phút nào cũng chực tuôn ra và cũng để giúp xóa hình ảnh khủng khiếp ám ảnh ngày đêm. Bác sĩ chích thuốc an thần giúp Doree không tự hủy và nàng dần tỉnh lại trong trạng thái vô cảm với sự vật chung quanh. Dần dà Doree ổn định, sở Xã hội tìm cho Doree một chỗ tạm trú khác và ủy thác bà Sands săn sóc Doree. Bà Sands tìm một nơi thật xa cho Doree ở và tìm một việc làm thích hợp cho cô. Hằng tuần mỗi chiều Thứ Hai Doree đến gặp bà Sands ở văn phòng. Maggie ngỏ ý đến thăm Doree nhưng bà Sands khuyên chưa phải lúc . Sự có mặt của bà Maggie sẽ nhắc lại cho Doree hình ảnh của buổi sáng kinh hoàng đó. Riêng Lloyd qua một khoảng thời gian bà Sands nói với Doree muốn đi thăm hay không tùy ý không cần hỏi ý kiến bà. Cảm thấy thoải mái thì đi, không thì thôi, đừng suy nghĩ nhiều . “Tôi không biết” Doree trả lời. *** Doree nói cô đã đi thăm Lloyd mà hình như chưa thăm. Không phải Lloyd mà là một con người nào khác. Xanh, gầy, áo quần thùng thình, đôi dép hờ hững nơi đôi chân bước đi như không chạm đất. Đâu là người đàn ông khỏe mạnh, vai rộng, tóc lượn sóng, chiếc ngực rộng mênh mông Doree thường ngả đầu vào khi thân mật trò chuyện. Báo chí tường thuật Lloyd khai với cảnh sát rằng: “Tôi hành động như vậy để giúp cho các con tôi khỏi khổ” “Khổ gỉ” Cảnh sát hỏi “Khổ vì có một bà mẹ hư hỏng, bỏ chồng đi khỏi nhà!” Điều thúc đẩy Doree đi thăm Lloyd là để nói với Lloyd điều anh ta nghĩ không đúng. “Anh bảo tôi đừng cãi lại anh, hay đi đâu thì đi, thì tôi đi. Tôi định đến nhà Maggie một đêm cho khuây khỏa rồi về. Tôi không bỏ chồng, bỏ con.” *** Doree nhớ lại tối hôm ấy cô mua một hộp bún Spaghetti móp một bên với nửa giá và Doree cảm thấy vui vui vì có dịp tiết kiệm. Khi Lloyd hỏi sao mua hộp bún móp, không hiểu sao Doree không trả lời vì rẻ mà nói rằng nàng không thấy. Lloyd nói, vết móp rành rành trước mắt vậy mà không thấy. Hay cô muốn đầu độc cha con tôi? Doree nói Lloyd đừng nổi điên nói bậy. Lloyd cãi lại anh không điên. Cái thứ đàn bà mua thực phẩm độc về thuốc gia đình mới là điên. Doree thấp thoáng thấy ba đứa nhỏ lấm lét nhìn vào nhà bếp nghe bố mẹ cãi nhau. Đó là lần cuối Doree thấy chúng còn sống. *** Xe đến cổng bệnh viện Doree bước ra khỏi xe buýt, chuận bị ý tứ sẵn sàng để thuyết phục Lloyd. Nhưng Doree còn do dự. Đi theo đoàn các bà thăm nuôi vào phòng chờ hay băng qua đường đón chuyến buýt quay trở về? Doree từng chứng kiến cảnh đến cổng rồi quay về như vậy nhiều lần. Như cái máy, Doree đi theo đoàn người vào phòng chờ. Doree nhớ đã hỏi bà Sands: “Lần trước bà hỏi tôi sau khi thăm Lloyd tôi cảm thấy vui hay buồn, phải không?” “Đúng vậy” bà Sands nói . “Để tôi nghĩ xem. Nhưng chắc là buồn nhiều hơn vui, nên tôi quyết định không bao giờ đến thăm Lloyd nữa” Bà Sands gật đầu tỏ vẻ đồng ý Thế nên lần này khi quyết định đi thăm Lloyd nữa, Doree không nói cho bà Sands biết. Doree nói với bà Sands cô đi nghỉ hè vài tuần. *** Thấy Doree, Lloyd ngạc nhiên hỏi: “Cái áo khoác dày mặc tuần trước sao không thấy em mặc” “Đâu phải tuần trước” “Vậy hả ?” “ Ba tuần rồi. Bây giờ trời nóng. Cái áo này mỏng hơn, nhưng thật ra cũng không cần lắm” Lloyd hỏi đi có mệt không? Từ Mildway đến đây đổi bao nhiêu chuyến xe . Doree nói cô không ở Mildway nữa . Doree thuật tỉ mỉ chỗ ở mới và 3 chuyến buýt từ nhà đến đây. “Đường xa quá nhỉ. Chỗ ở mới là đô thị lớn hơn hay sao?” “Không lớn hơn, nhưng gần chỗ làm” “Em đi làm rồi hả?” Doree nhớ lần thăm trước đã nói cho Lloyd biết nàng hiện ở đâu , làm gì, mỗi lần đi thăm đổi bao nhiêu chuyến xe. “Tôi làm việc lau chùi phòng tại một khách sạn” Doree nhắc lại. “Tôi nhớ ra rồi. Tôi xin lỗi. Em có ý đi học lớp đêm lại không ?” Doree nói nàng có nghĩ đến việc đi học lại, nhưng không tỉnh trí để quyết định một cái gì dứt khoát. Doree nói cô thích công việc hiện tại tuy có chút nhọc nhằn. Đến đó cả hai ngưng bặt không biết còn chuyện gì để nói. Lloyd thở dài: “Tôi xin lỗi. Hình như tôi đã quên cả cách nói chuyện” “Hằng ngày anh làm gì trong bệnh viện?” “Đọc sách, đủ loại sách, chẳng hạn loại sách dạy thiền định.” “Hay quá!” “Em tới thăm tôi rất mừng. Nhưng tôi nghĩ em không nên buộc mình phải đến thăm tôi. Lúc nào thấy thoải mái thì đến, không thì thôi . Em đến thăm dù chỉ một lần cũng đã là một món qùa quý hiếm đối với tôi.” Doree nói nàng cũng nghĩ như vậy. Và Lloyd nói anh không muốn làm bận rộn đời sống của Doree . “Không, anh không làm bận rộn đời sống của em” Doree nói. “Thật vậy không .Hay em nghĩ một đàng nói một đàng” Thật ra Doree định nói nàng còn đời sống nào nữa đâu. Nhưng nàng vẫn quả quyết nàng có một đời sống để Lloyd yên tâm. “Vậy thì tốt.” Lloyd nói *** Ba tuần sau, bà Sands điện thoại. “Doree! Cô về rồi hả? Tôi tưởng cô nghỉ hè chưa về” “Vâng, tôi vừa về” Vừa trả lời Doree vừa nghĩ nếu bà Sands hỏi cô sẽ trả lời cô đi những đâu trong những ngày nghỉ . “Vậy sao cô điện thoại hẹn gặp ?” “Mới về, tôi chưa định hẹn” “Không sao. Tôi hỏi cho biết thôi. Cô khỏe mạnh chứ ?” “Vâng, tôi khỏe” “Vậy thì tốt Khi nào cô thấy có nhu cầu chuyện trò thì cứ hẹn gặp tôi” “Vâng.” “Bye ….. !” Bà Sands không nhắc đến Lloyd , cũng không hỏi xem Doree còn đến thăm Lloyd nữa không. Cũng phải . Vì Doree đã nói sẽ không đến thăm nữa. Tuy vậy bà Sands bén nhạy bà có thể đoán Doree đã đi thăm Lloyds, nhưng bà không hỏi nếu biết rằng câu hỏi sẽ làm cho Doree lúng túng. Doree chưa tìm ra cách trả lời nếu bà Sands hỏi. Doree sẽ nói dối là không đi thăm, hay thật cho bà Sands biết? Sự thật là, vào ngày Chủ nhật một tuần sau khi Doree nói với bà Sands cô không tha thiết gì thăm viếng thì cô đã đến thăm Lloyd. Lloyd bị cảm lạnh, không biết lây ở đâu. Lloyd nói có thể lây bởi Doree trong lần thăm trước, hay chỉ là sự “trở chứng” của Lloyd. Bệnh do “trở chứng” là chuyện lạ, nhưng Lloyd ưa dùng chữ như vậy Doree nghe đã quen. Doree ngạc nhiên nghe lại ngôn từ hai người vẫn dùng riêng với nhau. “Anh khác trước lắm phải không ?” Lloyd hỏi “Vâng, có khác .” Doree thận trọng trả lời, và nói tiếp “Qua thời gian ai không thay đổi. Sắc diện em cũng vậy phải không?” “Em còn đẹp lắm” Lloyd nói một cách luyến tiếc Doree cố đè nén sự xúc động. “Em có cảm thấy em đã thay đổi thành một người khác không?” Lloyd hỏi tiếp. “Em không biết chắc. Còn anh, anh thấy thế nào?” “Hai ta đều thay đổi. Những ngày đẹp đã trôi vào quá khứ!” Lloyd kết luận. *** Vào ngày cuối tuần Doree nhận được một phong thư gồm nhiều tờ giấy mỏng viết hai mặt gởi về sở làm. Thư của Lloyd. Ngạc nhiên vì Doree tưởng phạm nhân không có quyền viết thư . Thư không đề ngày tháng và đi thẳng vào đề, ngay cả công thức “Doree thân mến” cũng không. Thư viết: “Cuộc sống làm ai cũng bận rộn. Em cứ nhìn vào khuôn mặt của mỗi người thì thấy. Tất tả ngược xuôi. Đi chợ, giặt áo quần, hớt tóc, đi làm, đi ra sở Xã hội lãnh tiền trợ cấp… Nghèo thì vậy, còn nhà giàu thì bận rộn nghĩ cách tiêu tiền . Làm sao xây nhà thật đẹp, xây đâu, ngay cả bận tâm tìm sắm các vòi nước trong nhà sao cho lạ, cho hơn nhà khác, và làm sao trang bị một hệ thống báo động thật hữu hiệu phòng kẻ gian. Mấy hôm nay đầu anh nặng trĩu, như có tiếng ong vo ve trong đầu. Anh đập đầu vào sàn nhà hy vọng chết đi để chạy trốn hình phạt trời giáng xuống cho anh. Người ta trói anh lại chích thuốc an thần. Anh để yên cho người ta chích, không chống lại, biết chống lại cũng vô ích. Thế giới của con người thật nhiều tai ương. Uống rượu giải khuây, say, giết người để trấn áp những ý nghĩ đen tối trong đầu. Để rồi thấy mình điên hơn hay bình an trong vô cảm. Bình an! Anh đang cảm thấy phần nào bình an. Đọc tới đây chắc em tưởng anh đã rữa tội theo Chúa hay quy y theo Phật. Không, anh không nhắm mắt để cho thần linh sai bảo. Anh chỉ biết anh đang ở trạng thái “Tự Biết Mình” và “Chỉ Tin Chính Mình”, hai điều hình như đều nằm trong Kinh Thánh . “Tự Biết Mình” không phải là một điều răn về luân lý, mà là một lời khuyên về động thái. Nhưng “động thái” không phải là điều anh quan tâm vì tòa án đã phán quyết một cách đúng đắn rằng anh là người không có khả năng kiểm soát động thái của mình, và đó là lý do tại sao hôm nay anh ở đây cách ly với thế giới con người. Về chữ “Biết” trong “Tự Biết Mình” anh có thể quả quyết rằng anh biết anh. Anh biết anh có khả năng phạm tội ác đến mức độ nào và biết anh đã làm điều đó. Thế giới xem anh là một quái vật, và anh không có quyền tranh cãi. Không thể tranh cãi.Tuy nhiên buồn cười là kẻ giết hằng trăm ngàn người bằng bom bi, bom lửa, đốt cháy hàng trăm thành phố, tạo nên nạn đói giết hàng chục triệu người thì thường không bị kết tội là “quái vật ” mà còn được huy chương. Trong thế giới chúng ta sống chỉ có tiểu sát thủ bị lên án, đại sát thủ thì không. Em nên hiểu rằng anh không lên án ai, chỉ là đưa ra một nhận xét hiển nhiên. Chữ “Mình” trong ‘Chỉ Biết Chính Mình” thì anh biết anh là con quỷ của anh. Anh biết thế giới loài người xem con quỷ này dữ hơn những con quỷ dữ của người khác. Biết vậy, anh cảm thấy bình an, vì anh không còn quan tâm đến sự phán đoán của thế giới con người. Anh là anh, anh không là người khác. Anh có thể nói anh điên. Nhưng điên là gì? Tôi là tôi, lúc đó tôi là thế, và bây giờ tôi là vậy tôi không thể thay đổi tôi? Doree! Đọc tới đây chắc cô chờ đợi một cái gì bí hiểm viễn vông hơn từ ngòi bút của tôi. Nhưng thôi, tôi không thể viết tiếp được. Chừng nào cô đến thăm may ra tôi sẽ nói với cô. Cô đừng cho tôi là ác. Viết được tôi đã viết. Chỉ vì tôi không thể viết được thôi. Tôi gởi thư này đến sở cô để cô thấy tôi chưa mất trí . Tôi còn có khả năng nhớ địa chỉ cô cho qua điện thoại” Doree đọc đi đọc lại lá thư , Doree vẫn không hình dung được nếu gặp Lloyd cô sẽ nói gì về lá thư này. Có thể cô sẽ nói Lloyd không nên viết lảm nhảm như vậy. Nhưng khi gặp Lloyd, anh không nói gì đến lá thư, tuồng như không có lá thư kia. Để bắt chuyện, Doree kể chuyện tại khách sạn cô làm việc vừa có một ca sĩ nổi tiếng hát nhạc bình dân ghé qua ở mấy ngày. Doree ngạc nhiên thấy Lloyd biết khá nhiều về cô ca sĩ nhờ xem truyền hình và đọc báo tại trại giam. Cô cứ tưởng phạm nhân không được xem được biết gì cả. Câu chuyện lòng vòng cho đến khi Doree không nín được. “Chuyện anh nói anh không viết trong thư được ngoại trừ nói thẳng với tôi là chuyện gì vậy? Lloyd nói anh ước gì Doree đừng hỏi. Anh không biết đã đến lúc có thể nói chuyện đó với tôi không. Doree bỗng cảm thấy sợ, sợ rằng điều Lloyd định nói là điều nàng không xử lý được, thí dụ như Lloyd nói Lloyd vẫn còn tha thiết yêu Doree . Yêu là danh từ nàng không thể xử lý nổi . “Vâng anh” Doree nói “Có lẽ chưa thuận tiện thật!” Nhưng bỗng đổi ý, Doree nói: “Anh nên nói đi. Biết đâu ra khỏi đây tôi bị xe cán chết thì tôi không bao giờ biết điều anh muốn nói, và khi anh muốn cũng không còn ai để nói với.” “Em có lý” Lloyd nói “Vậy nói đi anh” “Hẹn em lần tới” Lloyd hứa . *** Chưa đi thăm Lloyd lại, Doree nhận được thư của Lloyd. “Tôi nghĩ đến cô, ngay cả trong giấc ngủ từ hôm đó và buồn vì đã làm cô thất vọng. Khi cô ngồi trước mặt, tôi rất xúc động dù ngoài mặt làm tỉnh. Thật ra tôi không có quyền xúc động, cô mới là người có quyền xúc động. Nhưng cô biết kềm chế giỏi hơn tôi. Vì vậy tôi thay đổi ý định, thay vì nói thẳng với cô, tôi viết thư ” “Bắt đầu như thế nào nhỉ? “ À, Thiên đường có thật. Bắt đầu bằng ý đó thì dễ vào câu chuyện tôi muốn nói với em, nhưng mâu thuẫn vì tôi vốn không tin có Thiên Đường hay Địa Ngục. Theo tôi đó là những ý niệm viễn vông.” “Điều tôi muốn nói với em là tôi đã gặp lại các con. Tôi đã được gặp và nói chuyện với chúng” “Em nghĩ gì? Chắc em lại nghĩ ảo giác đang ngự trị tôi. Hay chỉ là một giấc mộng và tôi không phân biệt nổi đâu là mộng, đâu là thật. Nhưng tôi đoan chắc với em rằng tôi biết phân biệt mộng và thật, và rằng các con chúng ta còn tồn tại. Tôi nói còn “tồn tại” chứ không phải “còn sống”, vì sống là sự hiện hữu của hình hài trong không gian 3 chiều. Không! các con chúng ta không còn sống trong không gian này, nhưng chúng còn tồn tại trong một không gian nhiều chiều khác, và tôi biết rằng tôi đã lọt vào chiều đó và gặp chúng. Có lẽ sự quán tưởng kiên trì của tôi về các con đã cho tôi khả năng lọt vào không gian huyền bí đó, nơi chúng ta gọi là ‘Cõi Âm’.” “Đọc đến đây mà em chưa xé nát lá thư vất vào sọt rác thì chắc em muốn biết các con bây giờ ra sao. Chúng ngoan và vui. Chúng không nhớ gì chuyện cũ và hình như lớn hơn ngày ấy. Dimitri nói bập bẹ, hồi đó Dimitri chưa biết nói. Tôi loáng thoáng thấy chúng ở chung trong một căn phòng rộng và đẹp hơn phòng khách nhà chúng ta. Tôi hỏi ai săn sóc chúng, chúng cười nói không có ai cả, chúng tự săn sóc lấy. Hình như Sasha nói câu đó. Tôi không phân biệt được đứa nào nói cái gì vì lời và ý của chúng chập lên nhau. Nhưng tôi phân biệt được giọng và hình thù mỗi đứa. Và tôi thấy chúng thoải mái.” “Em đừng cho tôi điên. Vì sợ em bảo là điên nên tôi đã do dự không dám nói thẳng cho em nghe. Tôi từng điên, nhưng tôi đã lột vỏ để trở về với chính mình và nhờ đó tôi đã tiếp cận được với Sasha, Barbara Ann và Dimitri ở cõi âm. Tôi ước gì em cũng có được ân phước đó. Điều này hoàn toàn có thể vì em tinh khiết hơn tôi về mọi mặt.” Doree không biết bà Sands sẽ nghĩ gì nếu đọc thư này. Có lẽ bà không nói ngay Lloyd khùng, nhưng có thể bằng một cách gợi ý nhẹ nhàng nào đó bà muốn Doree nghĩ rằng Lloyd không bình thường. Hoặc bà chọn thái độ trung lập, chuyện trò thế nào để Doree tự tìm thấy kết luận. Nghĩ vậy Doree tránh không gặp bà Sands . Trong thâm tâm Doree nghĩ Lloyd chưa dứt hẵn bệnh tâm thần, và qua lá thư Doree phảng phất thấy tính tự khoe cố hữu của Lloyd. Doree không trả lời thư của Lloyd. Doree cũng không nói với bất cứ ai về lá thư của Lloyd. Ngày tháng trôi qua, Doree vẫn nghĩ Lloyd có vấn đề, nhưng Doree không quên nội dung lá thư. Dần dần Doree cảm thấy bắt đầu biết cảm xúc với thế giới quanh mình. Thỉnh thoảng lúc đang lau kiếng hay kéo chăn phủ giường, Doree cảm thấy một cái gì dịu dàng len lén vào hồn. Trong hai năm qua Doree sống như vô cảm đối với những hiện tượng thiên nhiên trong khi người khác thấy đẹp như khi khí trời trở nên ấm áp, hoa nở rộ vào mùa Xuân hay mùi bánh nướng. .. Nhưng cái cảm giác êm dịu đang đến với Doree không liên quan gì đến bầu trời đẹp, hoa nở, mùi bánh nướng … mà là cái cõi âm của Lloyd. Từ biến cố đau thương ấy, Doree không chịu đựng được bất cứ gì liên quan đến các con. Nghe tên của chúng Doree phát điên thét lên như ai cầm dao đâm vào cổ nàng. Ngay cả giọng thỏ thẻ của trẻ em, tiếng chân trẻ con chạy quanh hồ bơi tại khách sạn đều làm cho Doree đau đớn tận cùng. Thế mà bây giờ nhờ lá chắn của “cõi âm” Doree không còn kinh sợ nghe thấy những gì nhắc nhở đến các con. Ai đã cho Doree món quà vô giá đó? Lloyd! Lloyd – một người điên đang bị giam giữ – chính là người đã cứu nàng ra khỏi bể khổ chứ không phải bà Sands với những giờ ở văn phòng sở Xã Hội để được khuyên răn về ổn định cuộc sống. Ừ thì cứ cho là điên, nhưng biết đâu những gì anh ấy nói là sự thật, biết đâu anh đã lọt đuợc vào cõi âm, và có nhà thần học nào dám quả quyết những cuộc du hành vào không gian nhiều hơn ba chiều là điều không tưởng? Câu hỏi đó ám ảnh Doree và làm cho cô cảm thấy gần gũi Lloyd hơn. Cuộc đời cô bây giờ còn ai? Và nàng còn sống cũng chỉ để “đòi hỏi” Llyods lý giải hành động tàn ác của mình. *** Chiếc xe buýt bon bon trên xa lộ đưa Doree đi thăm Lloyd. Nàng hồi tưởng những đêm sau khi mẹ mất nàng nói dối với Laurie – người bạn của mẹ săn sóc cô sau khi mẹ chết – để đi chơi với Lloyd. Ai còn nhớ tên và màu mắt các con ngoài Lloyd? Bà Sands mỗi lần nhắc đến chúng đã không dùng chữ “trẻ em” mà chỉ dùng chữ “gia đình cô” một cách chung chung . Doree nhớ lại nàng không cảm thấy tội lỗi khi nói dối với Laurie để đi chơi với Lloyd Nàng cho là định mệnh đã buộc nàng với Lloyd, và biết đâu nàng được sinh ra để sống với Lloyd ? Dù cho nửa đường đứt gánh! Doree ngồi ghế trước bên cạnh bác tài. Bác tài và Doree là hai người duy nhất trên xe thấy một xe tải nhỏ tốc độ cao từ một đường ngang phóng băng qua xa lộ, đâm vào cái hố cạnh đường. Người tài xế còn rất trẻ trông như một chú bé bị sức bắn tung ra khỏi đầu xe nằm sóng soài trên một bãi đá bên bờ hố . Hành khách giật mình hoảng hốt khi bác tài đạp mạnh thắng xe. Sau tiếng kêu ken két, chiếc xe buýt ngừng hẵn. Bác tài bình tĩnh giải thích: “Có một chiếc xe vượt qua xa lộ đâm vào hố trước mắt. Tôi sẽ tiếp tục hành trình sau khi làm những gì cần thiết. Xin quý khách đừng ra khỏi xe” Nói xong bác mở cửa xuống xe. Doree cũng xuống xe đi sau lưng bác tài. Bác không phản đối. Trên mặt đất đầy đá cuội, chú tài bất tỉnh nằm sóng sượt, tay chân giang ra duỗi thẳng như người đã chết. “Trên xa lộ 21, độ một mile, phía nam thị trấn Bayfield”. Bác tài nói với cảnh sát qua điện thoại cầm tay. Dưới đầu chú tài, Doree thấy một vũng bọt màu hồng. Không phải máu, trông như nước trái strawberry khi đánh bằng máy quay để làm mứt. Doree sờ vào ngực chú, ngực bất động. Doree dùng tay uốn vành tai mình để nghe cho rõ cũng không nghe thấy một chút dấu hiệu gì của sự sống. Khi sờ vào mạch máu cổ Doree thấy còn thoi thóp . Doree nhớ Lloyd dặn rằng khi các con lở té tức ngực không thở được cần đế ý cái lưỡi. Cái lưỡi có thể bị thụt vào chận khí quản. Doree đặt một bàn tay lên trán chú tài, hai ngón tay của bàn tay kia chọc dưới cằm. Doree đè trán xuống và đẩy cằm lên giúp cho chú thở. Sau đó Doree làm hô hấp nhân tạo. Một bàn tay bóp mũi chú tài, hít một hơi dài thổi mạnh vào miệng. Thổi hai lần ngưng lại kiểm tra hơi thở rồi tiếp tục. Một thanh niên đi xe hai bánh ngừng lại mang đến một cái chăn hỏi có cần lót đầu cho chú bé không. Doree nói không. Lloyd từng dặn đừng đụng đậy cái đầu có thể gây tổn thương cho cột sống. Doree thổi truyền hơi, chờ, rồi tiếp tục thổi . Mồ hôi ướt đẫm đôi má ửng hồng của nàng. Bác tài đứng sau lưng nói gì Doree không nghe rõ. Bỗng Doree thấy nước da mặt chú tài thay đổi. Doree luồng tay vào ngực chú tài, tay run lên khi cảm thấy ngực chú tài chuyển động lên xuống nhịp nhàng . “Anh ấy thở được rồi, sống rồi!” . Doree lắp bắp sung sướng báo tin cho người thanh niên cầm chăn, và bảo lấy chăn đắp lên người chú bé. Cúi mình sau lưng Doree bác tài hỏi: “Thằng nhỏ còn sống hả?” Doree gật đầu, ngón tay đặt lên cườm tay chú bé . Bọt màu hồng không chảy ra nữa. Chắc không phải là não. “Tôi không chờ thêm được nữa” Bác tài nói “Trễ quá rồi.” “Được bác cứ đi, tôi sẽ lo ở đây.” Người thanh niên đi xe hai bánh nói. Doree muốn nói, quý vị đừng gây tiếng động. Đối với Doree lúc này không có gì quan trọng hơn là một không gian thật yên tỉnh để nuôi dưỡng hơi thở bèo bọt của chú bé. “Cô nghe chứ” Bác tài nói “Người thanh niên nói anh ta lo được. Chúng ta đi thôi. Hơn nữa xe cứu thương cũng tới ngay bây giờ” “Bác cứ đi đi” Doree nói,“Tôi sẽ theo xe cứu thương ra London, và chiều nay tôi sẽ đón xe bác trở về” “Nhưng tôi không ra London” “Bác cũng cứ đi đi!” Doree không ngước lên thấp giọng trả lời. Các Mặt Trăng Của Sao Mộc ———★——— Nguyên tác: The Moons of Jupiter Tôi tìm thấy ba tôi trong cánh bệnh viện về tim, ở tầng thứ tám của Bệnh Viện Đa Khoa Toronto. Ông nằm trong một phòng riêng hai giường. Giường kia trống. Ông nói bảo hiểm bệnh viện của ông chỉ trả một giường, và ông lo lắng ông có thể phải trả thêm tiền. "Ba không bao giờ đòi một phòng riêng hai giường", ông nói. Tôi cho ông biết có lẽ các phòng đều đầy hết. "Không. Ba thấy một số giường trống khi họ đẩy ba đi ngang." "Vậy thì có lẽ vì ba cần phải gắn cái máy đó," tôi nói. "Ba đừng lo. Nếu họ tính thêm chi phí cho ba, họ sẽ cho ba biết." "Có lẽ như vậy", ông nói. "Họ sẽ không muốn những người vô danh nào đó vào đây. Ba nghĩ ba được bảo hiểm cho vấn đề nầy." Tôi nói chắc chắn là ông được. Ngực của ông dán nhiều dây điện. Một màn hình nhỏ treo phía trên đầu nằm. Trên màn hình một đường răng cưa sáng được liên tục viết ra. Dòng viết kèm theo một tiếng bíp điện tử lo lắng. Tình trạng trái tim của ông được thể hiện. Tôi cố gắng không để ý đến. Dường như đối với tôi sự chú ý cặn kẻ như vậy - trong thực tế, làm cho bi thảm một hoạt động bí mật nhất - là đi tìm rắc rối. Bất cứ cái gì phơi bày ra theo cách đó có khuynh hướng bùng lên và phát điên. Ba tôi không có vẻ bận tâm. Ông nói họ đã cho ông thuốc an thần. Con biết, ông nói, những viên thuốc hạnh phúc đó. Ông có vẻ bình tĩnh và lạc quan thật. Đêm hôm trước là một câu chuyện khác. Khi tôi đưa ông vào bệnh viện, đến phòng cấp cứu, mặt ông đã nhợt nhạt và miệng ông khép kín. Ông đã mở cửa xe, đứng lên và lặng lẽ nói,"Có lẽ tốt hơn con có thể lấy cho ba một chiếc xe lăn." Ông sử dụng một giọng nói mà ông luôn dùng trong cơn khủng hoảng. Một lần, ống khói của chúng tôi bị cháy, đó là vào một buổi trưa chủ nhật và tôi ở trong phòng ăn đang ghim một cái váy tôi may. Ông bước vào và nói cũng với giọng nói thực tế, cảnh báo là,"Janet. Con có biết bột làm cho bánh nở ở đâu không?" Ông muốn ném nó vào để dập tắt lửa. Sau đó, ông nói,"Ba đoán đó là lỗi tại con - may áo một ngày chủ nhật." Tôi phải chờ hơn một giờ trong phòng chờ đợi cấp cứu. Họ cho gọi một chuyên gia tim mạch đang có mặt trong bệnh viện, một người đàn ông trẻ. Ông gọi tôi ra hành lang và giải thích với tôi rằng một trong những van tim của ba tôi đã bị suy thoái rất tệ đến độ phải cần một cuộc giải phẫu ngay lập tức. Tôi hỏi ông cái gì sẽ xảy ra nếu không. "Ông ấy phải nằm trên giường," bác sĩ nói. "Bao lâu?" "Có lẽ ba tháng." "Tôi muốn nói là, ông sẽ sống được bao lâu?" "Đó cũng là những gì tôi muốn nói," bác sĩ trả lời. Tôi đến gặp ba tôi. Ông đang ngồi trên giường trong một góc sau bức màn. "Xấu, phải không con?", ông nói. "Ông có nói với con phần trên cái van không?" "Không đến nổi xấu, ba" tôi nói. Sau đó, tôi lặp đi lặp lại, thậm chí phóng đại, bất cứ điều hy vọng gì bác sĩ đã nói. "Ba không bị nguy hiểm ngay lúc này. Tình trạng thể chất của ba tốt, nếu không". "Nếu không," ba tôi nói, ủ rũ. Tôi mệt mỏi vì lái xe - chạy lên đến Dalgleish, để đón ông, và trở lại Toronto từ buổi trưa - và lo lắng về việc trả lại chiếc xe thuê đúng thời hạn, và bực dọc bởi một bài báo tôi đã đọc trong một tạp chí tại phòng chờ đợi. Nó nói về một nhà văn khác, một người phụ nữ trẻ hơn, đẹp hơn, có thể tài năng hơn tôi. Tôi đã ở bên Anh hai tháng và vì vậy tôi không nhìn thấy bài viết này trước đây, nhưng trong tâm trí tôi vừa chợt nghĩ là ba tôi có lẽ đã xem qua. Tôi có thể nghe ông nói, A, ba không thấy bài nào nói về con trong tạp chí Maclean. Và nếu ông đã đọc một cái gì đó về tôi ông sẽ nói, A, ba không nghĩ quá nhiều về bài viết đó. Giọng của ông sẽ hài hước và dể dãi nhưng sẽ tạo ra trong tôi một tinh thần mơ mộng quen thuộc. Điều mà ông muốn nhắn với tôi rất đơn giản: Phải nỗ lực phấn đấu cho tiếng tăm, sau đó vì nó mà xin lỗi. Được hoặc không được, con vẩn bị khiển trách. Tôi không ngạc nhiên bởi tin tức của bác sĩ. Tôi đã chuẩn bị để nghe một cái gì đó như vậy và hài lòng với bản thân đã tiếp nhận một cách bình tĩnh, giống như tôi sẽ hài lòng khi băng bó một vết thương hay nhìn xuống từ ban công không chắc của một tòa nhà cao. Tôi nghĩ, Phải, đúng lúc; phải có một cái gì đó, đây rồi. Tôi không cảm thấy bất cứ sự phản đối nào mà tôi có thể có hai mươi, thậm chí mười năm trước. Khi tôi nhìn thấy từ mặt ba tôi rằng ông đã cảm thấy - việc từ chối vụt lên trông ông sẵn sàng như thể ông ba mươi hay bốn mươi tuổi trẻ hơn - trái tim của tôi cứng lai, và tôi nói với một giọng vui vẻ, phiền não. "Rất nhiều nếu không, ba à" tôi nói. Ngày hôm sau, ông trở lại bình thường. Đó là những gì tôi đã nhận thấy. Ông nói rằng hình như ông cảm thấy bây giờ người bác sĩ trẻ có vẻ hơi quá háo hức để giải phẫu. "Một người thích sử dụng con dao", ông nói. Ông vừa chế giễu vừa khoe tiếng lóng của bệnh viện. Ông nói một bác sĩ khác đã khám nghiệm ông, một người đàn ông lớn tuổi hơn, và đã cho biết ý kiến của ông là nghỉ ngơi và uống thuốc có thể là giải pháp. Tôi không hỏi giải pháp gì. "Ông nói ba có một van bị hỏng, đúng vậy. Chắc chắn là có vài thiệt hại. Họ muốn biết nếu ba đã bị sốt phong thấp lúc nhỏ. Ba nói ba không nghĩ vậy. Nhưng lúc đó phân nửa thời gian ba không được chẩn đoán bệnh ba đã có. Ba của ba không phải là người để đi tìm bác sĩ." Những tư tưởng về thời thơ ấu của ba tôi, mà tôi luôn luôn hình dung ảm đạm và nguy hiểm - trang trại nghèo, các chị em sợ hãi, người cha khắc nghiệt - làm cho tôi khó chấp nhận cái chết gần kề của ông. Tôi nghĩ đến lúc ông bỏ nhà đi để làm việc trong các tàu thuyền trên hồ, chạy dọc theo đường rầy xe lửa, hướng về Goderich, trong ánh sáng ban tối. Ông thường kể về chuyến đi nầy. Một nơi nào đó dọc theo đường rầy, ông tìm thấy một cây mộc qua. Cây mộc qua rất hiếm trên phần đất nước của chúng tôi; trong thực tế, tôi chưa bao giờ thấy cây nào. Cũng chưa tìm thấy được cây mà ba tôi đã gặp, mặc dù có một lần ông đã chở chúng tôi đi một chuyến thám hiểm để tìm nó. Ông nghĩ rằng ông biết ngã tư ở gần đó, nhưng chúng tôi không thể tìm thấy. Ông không thể ăn được trái, tất nhiên, nhưng ông đã bị ấn tượng bởi sự tồn tại của nó. Điều đó khiến ông nghĩ rằng ông đã bước vào một phần mới của thế giới. Đứa trẻ trốn thoát, người sống sót, một ông già bị kẹt ở đây vì trái tim hỏng. Tôi không theo đuổi những ý nghĩ đó. Tôi không quan tâm nhớ đến những thời trẻ của ông. Ngay cả phần ngực trần của ông, dầy và trắng - ông có cơ thể của một người lao động của thế hệ ông, hiếm khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời - là mối nguy hiểm cho tôi; nó trông rất mạnh mẽ và trẻ trung. Chiếc cổ nhăn nheo, bàn tay và cánh tay đầy tàn nhang với tuổi, cái đầu hẹp, lịch sự, với mái tóc và ria mép thưa thớt bạc màu, là những gì mà tôi quen thuộc hơn. "Bây giờ, tại sao ba muốn mình giải phẫu?" Ba tôi nói một cách hợp lý. "Hãy nghĩ đến những nguy cơ ở tuổi của ba, và để làm gì? Một vài năm ở bên ngoài. Ba nghĩ điều tốt nhất cho ba là về nhà và nghỉ ngơi. Chịu thua một cách nhẹ nhàng. Đó là tất cả những gì con có thể làm, ở độ tuổi ba. Thái độ của mình thay đổi, con biết không. Mình trải qua vài thay đổi về tinh thần. Nó có vẻ tự nhiên hơn." "Cái gì tự nhiên, ba?" Tôi nói. "A, cái chết. Mình không thể có cái gì tự nhiên hơn. Không, ba muốn nói, một cách cụ thể, là sẽ không giải phẫu." "Điều đó có vẻ tự nhiên hơn sao ba?" "Đúng." "Tùy ba," tôi nói, nhưng tôi đã chấp nhận. Đó là điều tôi mong đợi ở ông. Bất cứ lúc nào tôi nói với ai về ba tôi, tôi nhấn mạnh tánh độc lập, tự túc, nhẫn nại của ông. Ông làm việc trong một nhà máy, ông làm việc trong khu vườn của ông, ông đọc sách lịch sử. Ông có thể kể về những vị hoàng đế La Mã hay các cuộc chiến tranh Balkan. Ông không bao giờ ồn ào. Judith, con gái nhỏ của tôi đã đến gặp tôi ở Phi Trường Toronto hai ngày trước. Cô đi cùng Don, người bạn trai cô đang sống chung với. Họ lái xe đi Mexico vào buổi sáng, và trong khi tôi ở Toronto tôi đến ở trong căn hộ của họ. Hiện giờ, tôi sống ở Vancouver. Đôi khi tôi nói trụ sở chính của tôi là Vancouver. "Nichola đâu?" Tôi hỏi, nghĩ ngay đến một tai nạn hoặc uống quá liều thuốc. Nichola là con gái lớn của tôi. Cô từng là một sinh viên Nhạc Viện, sau đó cô trở thành một cô hầu bàn lo rượu, sau cùng cô không có việc làm. Nếu cô đã có mặt tại sân bay, tôi có lẽ sẽ nói một cái gì đó sai. Tôi có thể sẽ hỏi về những kế hoạch của cô, và cô sẽ vuốt lại mái tóc của mình một cách duyên dáng và hỏi lại: "Kế hoạch?" - Như thể đó là một từ ngữ tôi đã chế ra. "Con biết điều đầu tiên mẹ sẽ hỏi là về Nichola," Judith nói. "Không phải. Mẹ nói chào các con và mẹ -" "Chúng con lấy túi xách cho mẹ", Don nói một cách trung lập. "Chị ấy khỏe chứ?" "Con chắc chắn chị ấy khỏe," Judith cho biết, tạo ra một vẻ đùa vui. "Mẹ sẽ không giống như vậy nếu con là người không có ở đây." "Tất nhiên là mẹ sẽ như vậy." "Mẹ sẽ không như vậy. Nichola là con cưng của gia đình. Mẹ biết, chị ấy lớn hơn con bốn tuổi." "Mẹ cần biết." Judith nói cô không biết chính xác Nichola ở đâu. Cô nói Nichola đã dọn ra khỏi căn hộ của cô (một ổ rác!) và cô ấy thực sự có gọi điện thoại (thật là cả một thỏa thuận, bạn có thể nói, Nichola gọi điện thoại) để nói cô muốn được biệt lập trong một thời gian nhưng cô không sao cả. "Con nói với chị ấy là mẹ sẽ lo lắng," Judith nói một cách tử tế hơn trên đường đi đến xe van của họ. Don đi trước mang va li của tôi. "Nhưng mẹ đừng lo. Chị ấy không sao, tin con đi." Sự hiện diện của Don khiến tôi không thoải mái. Tôi không thích anh ta nghe những điều này. Tôi nghĩ đến các cuộc trò chuyện giữa Don và Judith. Hoặc Don và Judith và Nichola, bởi vì Nichola và Judith đôi khi có quan hệ tốt. Hoặc Don và Judith và Nichola và những người khác mà thậm chí tôi không biết tên. Họ có thể sẽ nói về tôi. Judith và Nichola so sánh các ghi nhận, những giai thoại liên quan; phân tích, hối hận, đổ lỗi, tha thứ. Tôi ước gì tôi đã có một đứa con trai và một đứa con gái. Hoặc hai đứa con trai. Họ sẽ không làm như vậy. Con trai sẽ không có thể biết quá nhiều về tôi. Tôi cũng đã làm điều tương tự ở tuổi đó. Khi tôi ở tuổi Judith bay giờ, tôi nói chuyện với bạn bè trong nhà ăn trường đại học hoặc, đêm khuya, vừa uống cà phê trong những căn phòng rẻ tiền của chúng tôi. Khi tôi ở tuổi Nichola bây giờ, tôi đã có Nichola nằm trong một cái nôi nhỏ có thể mang theo hoặc bế nó trong lòng tôi, và tôi thường uống cà phê suốt các buổi chiều mưa ở Vancouver với một người bạn hàng xóm, Ruth Boudreau, cô ấy đọc rất nhiều và hoang mang với hoàn cảnh của cô, như tôi vậy. Chúng tôi nói chuyện về cha mẹ, tuổi thơ, mặc dù trong một thời gian không để cập đến hôn nhân của chúng tôi. Chúng tôi đối xử với cha mẹ tận tâm thế nào, lên án cuộc hôn nhân của họ, tham vọng sai lầm của họ hoặc sợ hãi tham vọng, chúng tôi đã xếp tất cả lại đàng hoàng thế nào, xác định chúng để không có một thay đổi nào có thể xảy ra. Cả một giả thuyết. Tôi nhìn Don đi phía trước. Một anh chàng cao lớn, vẻ khổ hạnh, đội một kết Thánh Phanxicô trên mái tóc đen, một rìa râu gọn gàng. Anh có quyền gì để nghe nói về tôi, để biết những điều chính bản thân tôi có lẽ đã quên? Tôi quyết định rằng râu và kiểu tóc của anh bị ảnh hưởng. Một lần, khi các con tôi còn nhỏ, ba tôi nói với tôi: "Con biết những năm con còn trẻ - A, tất cả đó chỉ là một bóng mờ đối với ba. Ba không thể phân biệt năm này với năm kia." Tôi cảm thấy bị xúc phạm. Tôi nhớ mỗi năm riêng biệt với nổi đau và rõ ràng. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi đi ra nhìn những váy dạ hội trong cửa tiệm Quần Áo Phụ Nữ Benbow. Mỗi tuần suốt mùa đông một chiếc váy mới, nổi bật bằng kim tuyến và vải lưới, mau hồng và hoa cà, ngọc xanh, thủy tiên vàng - và tôi như một tín đồ ngoan đạo lạnh cóng trên vỉa hè ướt tuyết. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi giả mạo chữ ký của mẹ tôi trong một bản báo cáo xấu, khi tôi bị bệnh sởi, khi chúng tôi dán đầy giấy phòng phía trước. Nhưng những năm mà Judith và Nichola còn nhỏ, khi tôi sống với cha của các con - đúng, mờ nhạt là từ ngữ dành cho thời gian này. Tôi nhớ treo tã ra, mang vào và gấp tã lại; tôi có thể nhớ các quầy bếp của hai ngôi nhà và nơi để giỏ quần áo. Tôi nhớ những chương trình truyền hình - Popeye Sailor, The Three Stooges, Funorama. Khi đến giờ xem Funorama, đó là lúc để bật đèn lên và nấu bữa ăn tối. Nhưng tôi không thể phân biệt những năm đó. Chúng tôi sống bên ngoài Vancouver ở một vùng ngoại ô ký túc xá: Dormir, Dormer, Dormouse - một cái tên gì như vậy. Luc đó, tôi luôn luôn buồn ngủ, mang thai làm tôi buồn ngủ, và những cử bú ban đêm, và cơn mưa vùng Bờ Biển Phía Tây. Cây bách hương đen nhỏ giọt, cây nguyệt quế bóng láng nhỏ giọt; người vợ ngáp, ngủ trưa, đi chơi, uống cà phê, và gấp tã; người chồng về nhà ban đêm từ thành phố phía bên kia bờ. Mỗi đêm tôi hôn người chồng trở về trong chiếc áo Burberry ướt sũng và hy vọng anh có thể đánh thức tôi dậy; tôi dọn món thịt và khoai tây và một trong bốn loại rau mà anh cho phép. Anh ăn một cách ngon miệng ồn ào, sau đó ngủ thiếp đi trên ghế dài ở phòng khách. Chúng tôi ở tuổi đôi mươi nhưng đã trở thành một cặp trong phim hoạt hình tuổi trung niên nhiều hơn là khi chúng tôi sẽ sống đến thời điểm đó. Những năm khó khăn là những năm con cái sẽ nhớ suốt đời. Những góc sân tôi chưa bao giờ đến sẽ luôn ở trong đầu của nó. "Nichola không muốn gặp mẹ sao?" Tôi hỏi Judith. "Thường chị ấy không muốn gặp ai hết", cô nói. Judith đi lên phía trước và chạm vào tay của Don. Tôi biết cử chỉ này – biểu hiệu một xin lỗi, một an tâm lo lắng. Cô sờ một người đàn ông như vậy để nhắc nhở anh là cô cảm ơn, là cô biết anh đang làm một cái gì đó vì cô, mà anh cảm thấy phiền hoặc hơi đe dọa nhân phẩm của anh. Nó làm cho tôi cảm thấy già hơn các cháu nếu nhìn thấy con gái tôi chạm vào một người đàn ông - một cậu bé - như vậy. Tôi cảm thấy nổi bồn chồn buồn bã, có thể đoán được sự quan tâm dịu dàng của cô. Đứa con thẳng thắn, lùn và mập, tóc vàng và công bình của tôi. Tại sao tôi nghĩ cô sẽ không nhạy cảm, mà sẽ luôn luôn chân thật, nặng nề, tự tin? Cũng giống như tôi đi khắp nơi nói rằng Nichola ranh mảnh và cô độc, lạnh lùng, quyến rũ. Nhiều người phải biết những điều đó sẽ mâu thuẫn với những gì tôi nói. Buổi sáng Don và Judith lên đường đi Mexico. Tôi quyết định muốn gặp ai đó không liên hệ đến tôi, và không mong đợi bất cứ điều gì đặc biệt ở tôi. Tôi gọi một người yêu cũ, nhưng điện thoại của anh được trả lời bằng một cái máy: "Đây là Tom Shepherd. Tôi sẽ vắng mặt nguyên tháng chín. Xin vui lòng để lại tin nhắn, tên và số điện thoại." Giọng nói của Tom nghe có vẻ rất dễ chịu và quen thuộc đến độ tôi mở miệng để hỏi anh ý nghĩa của sự điên rồ này. Sau đó, tôi gác máy. Tôi cảm thấy như thể anh đã cố tình bỏ rơi tôi, như thể chúng tôi đã dự định gặp nhau ở một nơi công cộng và sau đó anh không xuất hiện. Một lần, anh đã làm như vậy, tôi nhớ. Tôi rót một ly rượu vermouth, mặc dù chưa phải là giờ trưa, và tôi gọi điện cho ba tôi. "A, thật là ngẫu nhiên", ông nói. "Mười lăm phút nửa là con sẽ hụt ba rồi." "Ba đi xuống phố?" "Xuống phố Toronto." Ông giải thích là ông sẽ đi bệnh viện. Bác sĩ của ông ở Dalgleish muốn các bác sĩ ở Toronto khám nghiệm ông, và đã đưa cho ông một lá thư gởi cho họ trong phòng cấp cứu. "Phòng cấp cứu?" Tôi hỏi. "Không phải một trường hợp khẩn cấp. Ông chỉ có vẻ nghĩ rằng đây là cách tốt nhất để giải quyết. Ông biết tên của một đồng nghiệp ở đó. Nếu ông lấy cho ba một buổi hẹn, nó có thể mất vài tuần." "Bác sĩ có biết là ba sẽ lái xe đi Toronto không?" Tôi hỏi. "A, ông không có nói là ba không thể." Kết quả sau cùng của chuyện này là tôi thuê một chiếc xe, lái đi Dalgleish, chở ba tôi trở lại Toronto, và đưa ông vào phòng cấp cứu lúc bảy giờ tối hôm đó. Trước khi Judith rời nhà tôi nói với cô,"Con chắc chắn Nichola biết mẹ đang ở đây?" "Có, con có nói với chị ấy", cô nói. Đôi khi điện thoại reo lên, nhưng đó luôn luôn là một người bạn của Judith. "Tốt! Có vẻ như ba sẻ giải phẫu," ba tôi nói. Đó là vào ngày thứ tư. Ông đã thay đổi hoàn toàn qua đêm. "Có vẻ như tốt hơn là ba nên làm." Tôi không biết ông sẽ muốn tôi nói cái gì. Tôi nghĩ có lẽ ông nhìn tôi để có một phản đối, một cố gắng để ngăn cản ông. "Khi nào họ sẽ làm chuyện đó?" Tôi hỏi. "Sau ngày mai." Tôi nói tôi cần đi nhà vệ sinh. Tôi đến phòng y tá và tìm thấy một người phụ nữ tôi nghĩ là y tá trưởng. Cô có mái tóc màu bạc, tử tế, và vẻ nghiêm trọng. "Có phải là ba tôi sẽ giải phẫu sau ngày mai không?" Tôi hỏi. "Ồ, đúng vậy." "Tôi chỉ muốn nói chuyện với ai đó về vấn đề này. Tôi nghĩ đã có một quyết định cuối cùng là tốt hơn ông không nên. Tôi nghĩ đó là vì tuổi của ông." "Nhưng, đó là quyết định của ông và của bác sĩ." Cô ấy mỉm cười với tôi bình thản. "Thật khó để lấy các quyết định này." "Những thứ nghiệm của ông thế nào?" "A, tôi không nhìn thấy tất cả." Tôi chắc chắn cô đã có xem. Sau một lúc, cô nói,"Chúng ta cần phải thực tế. Nhưng các bác sĩ ở đây rất tốt." Khi tôi quay trở lại vào phòng, ba tôi nói, bằng một giọng ngạc nhiên,"Biển không bờ." "Ba nói cái gì?" Tôi nói. Tôi tự hỏi nếu ông đã phát hiện ra bao nhiêu thời gian hay ít hơn ông có thể hy vọng. Tôi tự hỏi nếu những viên thuốc đã đưa ông vào một trạng thái phởn phơ không đáng tin cậy. Hoặc nếu ông muốn chơi trò đỏ đen. Một lần, khi ông nói chuyện với tôi về cuộc đời của ông, ông nói: "Vấn đề là ba luôn luôn sợ lấy cơ hội." Tôi hay kể với mọi người là ông không bao giờ nói một cách tiếc nuối về cuộc đời ông, nhưng đó không đúng sự thật. Chỉ là vì tôi không lắng nghe. Ông nói phải chi ông gia nhập Quân Đội như một thương gia - ông sẽ khá hơn. Ông nói phải chi ông tự lập, như một người thợ mộc, sau chiến tranh. Phải chi ông rời khỏi Dalgleish. Một lần, ông nói,"Một cuộc sống lãng phí, phải không?" Nhưng ông nói chỉ cho vui về ông thôi, bởi vì nó quá bi đát để nói. Khi ông trích dẫn thơ, cũng vậy, ông luôn có một vẻ nhạo báng trong giọng nói, để che đậy sự phô trương và niềm vui. "Biển không bờ", ông nói một lần nửa. “Phía sau ông là vùng đảo Azores màu xám / Đằng sau các Cửa của Hercules / Phia trước ông chỉ là những biển không bờ. Đó là những gì diễn ra trong đầu của ba đêm qua. Nhưng con có nghĩ ba có thể nhớ loại biển gì không? Ba không thể. Biển cô đơn? Biển trống? Ba đã đi đúng hướng nhưng ba vẩn không thể nhớ ra được. Nhưng lúc bấy giờ khi con bước vào phòng và ba không hề suy nghĩ đến nó nửa, từ ngữ xuất hiện trong đầu ba. Luôn luôn là như vậy, phải không con? Thật không hẳn tất cả đều đáng ngạc nhiên. Ba hỏi tâm trí của ba một câu hỏi. Câu trả lời ở đó, nhưng ba không thể nhìn thấy tất cả các kết nối mà tâm trí thực hiện để có được nó. Giống như một máy vi tính. Không có gì bên ngoài hết. Con biết, trong trường hợp của ba điều này đúng, nếu có bất cứ điều gì con không thể giải thích ngay lập tức, có một sự cám dỗ lớn để biến nó thành cả một bí ẩn. Có một sự cám dỗ lớn để tin vào - Con biết." "Linh hồn?" Tôi nói, một cách nhẹ nhàng, cảm thấy một cơn vội vã kinh khủng của tình thương và chấp nhận. "Ồ, ba đoán con có thể gọi như vậy. Con biết, khi ba mới bước vào phòng này có một đống sách báo ở đây bên giường. Ai đó đã bỏ lại - một trong những loại báo lá cải ba không bao giờ đặt mắt tới. Ba bắt đầu đọc. Ba sẽ đọc bất cứ cái gì. Có một loạt bài đăng trong đó về những kinh nghiệm cá nhân của những người đã chết, nói một cách y tế - chủ yếu là tim ngừng đập - và đã được đưa trở lại cuộc sống. Đó là những gì họ nhớ về thời gian khi họ đã chết. Kinh nghiệm của họ." "Ba thấy thú vị hay không?" Tôi hỏi. "Ồ, thú vị. Ồ có chứ. Họ bay lên trần nhà rồi nhìn xuống chính họ và thấy các bác sĩ đang làm việc trên thân xác của họ. Sau đó họ bay xa hơn và nhận ra một số người mà họ biết đã chết trước họ. Không hẳn họ nhìn thấy những người đó chính xác nhưng giống như cảm nhận được họ. Đôi khi như có một tiếng ồn ào và đôi khi như có một ánh sáng hoặc màu sắc xung quanh một người?" "Hào quang?" "Đúng. Nhưng không có người. Đó là tất cả những gì họ cảm nhận được trong thời gian ấy, sau đó họ thấy mình trở lại trong cơ thể và cảm thấy tất cả nỗi đau sinh tử và tiếp theo đó - họ đã trở lại với cuộc sống". "Ba thấy nó có vẻ thuyết phục không?" "Ồ, ba không biết. Tất cả chỉ tùy theo con có muốn tin điều này hay không thôi. Và nếu con sẽ tin, hay nghiêm túc, ba nghĩ con nên nhìn tất cả mọi vấn đề khác một cách nghiêm trọng mà họ in ra trong những sách báo này." "Họ còn nói những gì khác nửa?" "Những chuyện vô lý - phương pháp chữa trị ung thư, chữa trị chứng hói đầu, chuyện đau bụng về thế hệ trẻ và những người ăn tiền xã hội. Những tin nhảm về ngôi sao điện ảnh." "Ồ, có. Ba biết." "Trong trường hợp của ba, con cần phải để ý", ông nói,"còn không con sẽ bắt đầu tự đánh lừa con." Sau đó, ông nói,"Có một vài chi tiết thực tế chúng ta cần phải giải quyết," và ông nói với tôi về di chúc của ông, ngôi nhà, miếng đất ở nghĩa trang. Tất cả mọi thứ đều đơn giản. "Ba có muốn con gọi điện cho Peggy?" Tôi hỏi. Peggy là em gái tôi. Cô kết hôn với một nhà thiên văn học và sống tại thành phố Victoria. Ông có nghĩ về điều đó. "Ba nghĩ chúng ta phải nói với họ," cuối cùng ông nói. "Nhưng nói với họ đừng lo sợ." "Dạ được rồi." "Không, chờ một phút. Sam phải đi dự một hội nghị vào cuối tuần này, và Peggy dự định đi cùng với anh ta. Ba không muốn họ thắc mắc về việc thay đổi kế hoạch của họ." "Ba có biết hội nghị ở đâu không?" "Amsterdam", ông hãnh diện nói. Ông rất tự hào về Sam, và theo dỗi những cuốn sách và bài viết của anh ấy. Ông sẽ chọn lên một cuốn và nói,"Hãy nhìn xem, con thấy không? Và ba không thể hiểu một chữ nào trong đó!" với một giọng kinh ngạc vừa hàm chứa một vẻ chế giễu. "Giáo sư Sam", ông sẽ nói. "Và ba đứa bé Sams." Đó là cách ông gọi mấy đứa cháu trai của ông, chúng thật giống cha trong trí não và gần như trong cách huênh hoang dễ mến - một sự khoe khoan ngây thơ đầy năng lượng. Họ đi học ở một trường tư với kỷ luật thời xưa và bắt đầu học toán ở lớp năm. "Và những con chó", ông có thể liệt kê thêm,"đã học được cách vâng lời ở trường. Và Peggy..." Nhưng nếu tôi nói,"Ba có cho rằng cô ấy cũng đã vâng lời khi đi học không?" Ông sẽ ngưng trò chơi ngay. Tôi tưởng tượng khi ông gặp Sam và Peggy ông nói về tôi cùng một cách - ám chỉ tánh yếu đuối của tôi như ông ám chỉ tánh buồn tẻ của họ, nói những chuyện đùa nhẹ nhàng về tôi, không hoàn toàn che giấu sự ngạc nhiên của ông (hoặc ông giả vờ không che giấu) rằng người ta trả tiền cho những bài tôi viết. Ông phải làm như vậy để ông không bao giờ có vẻ khoe khoang, nhưng ông sẽ ngưng ngay lại khi nói đùa quá lố. Và tất nhiên là tôi tìm thấy sau đó, trong nhà, những thứ của tôi ông đã giữ - một vài tạp chí, báo cắt, những thứ tôi không bao giờ bận tâm đến. Bây giờ những ý nghĩ của ông di chuyển từ gia đình của Peggy đến gia đình tôi. "Con có tin tức gì của Judith không?", ông hỏi. "Chưa có, Ba." "A, còn khá sớm. Họ có định ngủ trong xe không?" "Dạ có." "Ba đoán cũng đủ an toàn, nếu họ dừng lại ở đúng nơi." Tôi biết ông sẽ phải nói cái gì đó nửa và đó sẽ như là một lời nói đùa. "Ba đoán họ đặt một tấm bảng ở chính giữa, như những người tiền phong?" Tôi mỉm cười nhưng không trả lời. "Ba hiểu là con không có phản đối?" "Dạ không," tôi nói. "Tốt, ba cũng luôn tin như vậy. Không bao giờ xen vào chuyện của con cái. Ba cố gắng không nói gì hết. Ba không bao giờ nói gì hết khi con chia tay với Richard." "Ba muốn nói cái gì? Chỉ trích?" "Đó không phải là chuyện của ba." "Không," "Nhưng điều đó không có nghĩa là ba hài lòng." Tôi ngạc nhiên - không chỉ ở những gì ông nói nhưng ở cảm giác của ông rằng ông có quyền, ngay cả bây giờ, để nói. Tôi phải nhìn ra ngoài cửa sổ và xuống giao thông để tự kiểm soát. "Ba chỉ muốn con biết," ông nói thêm. Đã lâu lắm, ông nói với tôi một cách nhẹ nhàng,"Thật buồn cười. Richard khi lần đầu tiên ba gặp anh ta nhắc ba nhớ đến những gì ba của ba thường nói. Ông đã nói nếu người đó thông mình phân nửa như anh ta nghĩ, thì anh ta thông mình gấp đôi hơn sự thật." Tôi quay lại để nhắc ông về điều này, nhưng thấy mình nhìn vào dòng trái tim của ông đang viết. Không phải như là có điều gì không ổn, một sự khác biệt trong tiếng bíp và điểm. Nhưng nó có ở đó. Ông thấy nơi tôi đang nhìn. "Lợi thế không công bằng", ông nói. "Có chứ," tôi nói. "Con cũng sẽ đòi được gắn vào máy nửa." Chúng tôi cười, chúng tôi hôn nhau đàng hoàng; tôi rời khỏi phòng. Ít nhất ông đã không hỏi tôi về Nichola, tôi nghĩ. Buổi chiều hôm sau tôi không đến bệnh viện, vì ba tôi cần làm một số thử nghiệm nửa, để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Thay vào đó tôi sẽ gặp ông vào buổi tối. Tôi thấy mình lang thang qua các cửa tiệm, thử quần áo trên đường Bloor. Một mối bận tâm với thời trang và dáng người của tôi đã xâm nhập vào tôi như một cơn đau đầu dữ dội. Tôi nhìn những người phụ nữ trên đường phố, nhìn các quần áo trong cửa hàng, cố gắng khám phá một chuyển đổi nào có thể thực hiện được với những gì tôi sẽ phải mua. Tôi nhận ra tại sao có nỗi ám ảnh này nhưng rất khó khăn để loại nó đi. Có người đã nói với tôi rằng chờ đợi tin tức về sự sống-hay chết, họ đã đứng trước một tủ lạnh mở ra ăn bất cứ cái gì họ thấy - khoai tây luộc lạnh, tương ớt, cả chén kem. Hoặc họ không thể ngừng chơi những trò giải ô chữ. Chú ý thu hẹp vào một cái gì đó – vài giải trí – nắm lấy, trở nên nghiêm túc một cách điên cuồng. Tôi lục tìm quần áo trên các mắc áo, mặt thử vào trong phòng thay đồ nhỏ nóng bức trước tấm gương tàn nhẫn. Tôi đổ mồ hôi, một hoặc hai lần tôi nghĩ tôi có thể ngất xỉu. Trở ra đường lại, tôi biết tôi cần phải rời khỏi con đường Bloor, và quyết định đi đến viện bảo tàng. Tôi nhớ một thời điểm khác, ở Vancouver. Đó là khi Nichola vào mẫu giáo và Judith là một em bé. Nichola đã đi gặp bác sĩ vì bị cảm, hoặc có thể để kiểm tra sức khỏe thường xuyên, và thử nghiệm máu cho thấy một cái gì đó về bạch huyết cầu - hoặc là số lượng quá nhiều hoặc là nó to hơn bình thường. Bác sĩ đòi thử nghiệm thêm, và tôi đã mang Nichola đến bệnh viện để làm. Không ai đề cập đến bệnh bạch cầu nhưng tôi biết, tất nhiên, những gì họ đang tìm kiếm. Khi tôi cho Nichola về nhà tôi nhờ người giữ Judith ở lại buổi chiều và tôi đi mua sắm. Tôi mua chiếc váy táo bạo nhất mà tôi chưa từng có, một áo lụa màu đen với những sợi dây được sắp xếp cột lại ở phần trên phía trước. Tôi nhớ buổi chiều mùa xuân tươi sáng đó, đôi giày gót nhọn trong cửa tiệm, đồ lót in với những đốm con báo. Tôi cũng nhớ lúc về nhà từ Bệnh Viện St Paul qua Cầu Lions Gate trên chiếc xe buýt đông người và bế Nichola trên đầu gối. Bé đột nhiên nhớ tên gọi cây cầu bằng tiếng trẻ thơ và thì thầm với tôi: "Cầu - qua cầu." Tôi không tránh né chạm vào con tôi - Nichola mảnh mai và duyên dáng ngay cả lúc đó, với một cái lưng đẹp và tóc mịn đen - nhưng nhận ra tôi chạm vào bé với một sự khác biệt, mặc dù tôi không nghĩ có thể hiểu được bao giờ là cái gì. Có một sự chăm sóc - không phải chính xác là một sự rút lui nhưng một chăm sóc – mà tôi không cảm thấy gì nhiều. Tôi thấy các hình thức của tình thương có thể được duy trì như thế nào với một người bị kết án nhưng với tình thương trong thực tế được đo lường và kỷ luật, bởi vì bạn cần phải tồn tại. Nó có thể thực hiện thật kín đáo để đối tượng đuợc chăm sóc như vậy sẽ không nghi ngờ, cũng như không để bé nghi ngờ bản án của cái chết. Nichola không biết, sẽ không bao giờ biết. Đồ chơi và những nụ hôn và những trò đùa sẽ ào đến bao phủ cho bé, bé sẽ không bao giờ biết, mặc dù tôi lo lắng bé sẽ cảm thấy ngọn gió thổi giữa các vết nứt của những ngày nghỉ lễ được chế tạo, những ngày bình thường được chế tạo. Nhưng tất cả đều tốt. Nichola không có bệnh bạch cầu. Cô lớn lên - vẫn còn sống, và có thể hạnh phúc. Biệt lập. Tôi không thể nghĩ ra bất cứ cái gì trong bảo tàng mà tôi thực sự muốn xem, vì vậy tôi đi ngang qua và vào hành tinh hệ. Tôi chưa bao giờ đến đây. Chương trình sẽ bắt đầu trong mười phút. Tôi đi vào trong, mua vé, xếp hàng. Có cả một lớp toàn học sinh, có thể vài lớp, với các giáo viên và bà mẹ tình nguyện đi theo. Tôi nhìn xung quanh để xem nếu có người lớn nào khác đi một mình. Chỉ có một thôi - một người đàn ông với khuôn mặt đỏ và đôi mắt sưng húp, trông như thể ông nên vào đây để khỏi đi đến một quán rượu. Bên trong, chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế thoải mái tuyệt vời được nghiêng về phía sau để nằm xuống như trong một loại võng, chú ý hướng đến vòm trần nhà, nó nhanh chóng chuyển màu xanh đậm, với một vành ánh sáng mờ nhạt xung quanh. Âm nhạc tuyệt dịu, chỉ huy trổi lên. Người lớn chung quanh nhắc nhở các em giữ im lặng, cố gắng không làm ồn với những túi khoai tây sột soạt của họ. Sau đó, tiếng nói của một người đàn ông, một giọng nói chuyên nghiệp hùng hồn, bắt đầu nói chậm chạp, xuất phát từ những bức tường. Giọng nói nhắc nhở tôi một chút về cách xướng ngôn viên đài phát thanh sử dụng để giới thiệu một tác phẩm âm nhạc cổ điển hoặc mô tả sự tiến hành của Hoàng Gia vào Tu Viện Westminster nhân dịp một buổi lễ hoàng gia. Có một hiệu ứng thính phòng vang lên thật nhẹ. Trần nhà tối lấp lánh đầy sao. Chúng xuất hiện ra không phải tất cả cùng một lúc nhưng từng cái một, đúng như cách các ngôi sao thực sự hiện ra ban đêm, mặc dù nhanh hơn. Dải Ngân Hà xuất hiện, di chuyển gần hơn; các vì sao bơi vào ánh sáng và tiếp tục đi, biến mất ở các cạnh của màn hình bầu trời hoặc phía sau đầu của tôi. Trong khi dòng ánh sáng tiếp tục, tiếng nói trình bày các sự kiện tuyệt vời. Một vài năm ánh sáng nửa, nó tuyên bố, mặt trời xuất hiện như một ngôi sao sáng, và các hành tinh không nhìn thấy được. Một vài chục năm ánh sáng nửa, mặt trời không nhìn thấy được, hoặc là, bằng mắt thường. Và khoảng cách đó - vài chục năm ánh sáng - chỉ là khoảng một phần ngàn của khoảng cách từ mặt trời đến trung tâm của thiên hà của chúng ta, một thiên hà, mà bản thân nó chứa khoảng hai trăm tỷ mặt trời. Và là, lần lượt, một trong hàng triệu, có lẽ hàng tỷ, thiên hà. Vô số lặp đi lặp lại, vô số các biến thể. Tất cả những hình ảnh này quay cuồng trong đầu tôi, cũng như những cuộn sét đánh. Bây giờ chủ nghĩa hiện thực đã bị bỏ rơi, thay vào đó sự giả tạo quen thuộc. Một mô hình của hệ thống năng lượng mặt trời quay đi xa một cách thanh lịch. Một con bọ sáng chói cất cánh khỏi mặt đất, hướng về sao Mộc. Tôi đặt tâm trí tránh né và thu hẹp một cách nghiêm khắc để ghi lại những sự kiện. Khối lượng của sao Mộc to gấp hai lần rưỡi tất cả các hành tinh khác cộng lại. Vết Đỏ Lớn. Mười ba mặt trăng. Qua sao Mộc, một cái nhìn vào quỹ đạo khác thường của Sao Diêm Vương, các vòng băng của sao Thổ. Trở lại Trái Dất và di chuyển vào sao Kìm nóng và rực rỡ. Áp suất khí quyển chín mươi lần nhiều hơn của chúng ta. Sao Thủy không trăng quay ba lần trong khi bay quanh mặt trời hai lần; một sự sắp xếp kỳ lạ, không hoàn toàn đáp ứng như những gì họ thường cho chúng ta biết - nó chỉ quay một lần khi nó đi vòng quanh mặt trời. Không có bóng tối vĩnh viễn gì cả. Tại sao họ lại đưa ra thông tin tự tin như vậy, chỉ để thông báo sau đó là nó hoàn toàn sai lầm? Cuối cùng, hình ảnh đã từng quen thuộc trong các tạp chí: đất đỏ của sao Hỏa, bầu trời sáng rực màu hồng. Khi chương trình kết thúc tôi ngồi ở ghế, trong khi trẻ em trèo qua tôi, không có một ý kiến về bất cứ điều gì họ vừa nhìn hoặc nghe thấy. Họ vây quanh phiền nhiễu những người trông giữ đòi thức ăn và vui chơi giải trí nửa. Một cố gắng đã được thực hiện để kéo được sự chú ý của các em, để chúng ngưng uống nước ngọt trong hộp và ăn khoai tây chiên và thay vào đó bằng những dự kiến biết và chưa biết khác nhau và những tính bao la khủng khiếp, và dường như đã thất bại. Cũng là một điều tốt, tôi nghĩ. Đa số trẻ em có một khả năng miễn nhiễm tự nhiên, và nó không nên bị xáo trộn. Đối với người lớn nào muốn phàn nàn, những người thúc đẩy chương trình này, không phải là họ tự miễn nhiễm đến mức mà họ có thể đặt vào các hiệu ứng thính phòng, âm nhạc, trang nghiêm như ở nhà thờ, mô phỏng kinh sợ mà họ cho là họ phải cảm thấy? Kinh sợ - Cái gì sẽ như vậy? Một cơn rùng mình khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ? Một khi bạn biết nó là cái gì, bạn sẽ không muốn đến gần nửa. Hai người đàn ông bước vào với chổi để quét các mảnh vụn khán giả đã để lại. Họ nói với tôi chương trình tiếp theo sẽ bắt đầu trong bốn mươi phút. Trong khi chờ đợi, tôi phải đi ra. "Con đi xem buổi diễn ở hành tinh hệ," Tôi nói với ba tôi. "Nó rất là thú vị - về hệ thống năng lượng mặt trời." Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn tôi đã sử dụng từ ngữ: "thú vị." "Nó hơi giống như một ngôi đền giả tạo," tôi nói thêm. Ông đã bàn luận ngay. "Ba nhớ khi họ tìm thấy sao Diêm Vương. Đúng tại nơi họ nghĩ rằng nó phải ở đó. Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa", ông đọc tiếp. "Mộc, Thổ, Hải-không, Thiên Vương, Hải Vương, Diêm Vương. Có đúng không?" "Dạ đúng," tôi nói. Tôi cảm thấy vui vì ông đã không nghe những gì tôi nói về ngôi đền giả. Tôi chỉ muốn nói một cách trung thực, nhưng nó có vẻ bóng bẩy và cao cấp. "Ba nói cho con biết các mặt trăng của sao Mộc." "A, ba không biết những cái mới. Có cả một nhóm mới, phải không?" "Hai cái. Nhưng chúng không phải là mới." "Mới cho chúng ta," ba tôi nói. "Con có vẻ khá tráo trở bây giờ mà bà sắp sửa nằm dưới con dao." "Dưới con dao. Cả một biểu hiện." Ông không nằm trên giường tối nay, đêm cuối cùng của ông. Ông đã được tháo ra khỏi bộ máy, và đang ngồi trong một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Chân ông để trần, ông mặc một cái áo choàng bệnh viện, nhưng ông không có vẻ tự giác hoặc không ổn. Ông có vẻ chu đáo nhưng hài hước, một người niềm nở. "Ba chưa cho biết tên những cái cũ," tôi nói. "Cho ba thời gian. Galileo đặt tên cho chúng. Io. " "Đó là một sự khởi đầu." "Các mặt trăng của sao Mộc là các thiên thể đầu tiên được phát hiện với kính viễn vọng." Ông nói điều này một cách nghiêm trọng, tựa như ông có thể nhìn thấy câu đó trong một cuốn sách cũ. "Cũng không phải là Galileo đặt tên chúng; đó là nguoi Đức. Io, Europa, Ganymede, Callisto. Tất cả đó con." ''Dạ.'' "Io và Europa, có phải họ là bạn gái của sao Mộc không ba?" "Ganymede là một cậu bé. Một bé chăn cừu? Ba không biết Callisto là ai." "Con nghĩ cô ấy cũng là một bạn gái," tôi nói. "Vợ của Jupiter - vợ của Jove biến cô thành một con gấu và nhốt cô lên trên bầu trời. Gấu Lớn và Gấu Nhỏ. Gấu Nhỏ là em bé của cô." Loa phát thanh nói đã hết giờ thăm viếng. "Con sẽ gặp lại ba khi ba ra khỏi thuốc mê," tôi nói. "Được." Khi tôi đi tới cửa, ông gọi tôi,"Ganymede không phải là một người chăn cừu. Anh ta là người hầu rượu của Jove." Khi tôi rời khỏi hành tinh hệ chiều hôm đó, tôi đã đi qua viện bảo tàng để đến khu vườn Tàu. Tôi nhìn thấy mấy con lạc đà bằng đá một lần nửa, các chiến binh, ngôi mộ. Tôi ngồi trên một băng ghế nhìn về phía đường Bloor. Thông qua các bụi cây trường xanh và hàng rào sắt cao tôi thấy nhiều người đi qua trong ánh sáng mặt trời của cuối buổi chiều. Dù sao chương trình vũ trụ đã mang lại cho tôi những gì tôi muốn - giúp tôi bình tĩnh lại, trút bỏ ra. Tôi thấy một cô gái nhắc tôi nhớ đến Nichola. Cô mặc một chiếc áo khoác và mang một cái túi thực phẩm. Cô ấy thắp hơn Nichola - không thực sự giống cô nhiều gì cả - nhưng tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy Nichola. Cô sẽ đi bộ dọc theo một con đường nào đó có lẽ cách đây không xa - nặng gánh, bận tâm, một mình. Cô là một trong những người trưởng thành trong thế giới hiện nay, một trong những người mua sắm đi về nhà. Nếu tôi nhìn thấy cô ấy, tôi có thể chỉ ngồi và nhìn, tôi quyết định như vậy. Tôi cảm thấy như một trong những người đã bay lên trần nhà, thưởng thức một cái chết ngắn gọn. Một sự nhẹ nhõm, trong khi nó kéo dài. Ba tôi đã chọn và Nichola đã chọn. Một ngày nào đó, có thể là gần đây, tôi sẽ có tin của cô ấy, nhưng nó cũng sẽ vậy thôi. Tôi định đứng dậy và đi đến ngôi mộ, nhìn vào các chạm khắc, những hình ảnh bằng đá, khắp tất cả con đường xung quanh đó. Tôi luôn có ý định đến xem và tôi không bao giờ làm. Và lần này cũng vậy. Trời đã bắt đầu lạnh ở bên ngoài, vì vậy tôi vào trong để uống cà phê và ăn một cái gì đó trước khi tôi quay trở lại bệnh viện. Chạy Trốn ———★——— Nguyên tác: Runaway Carla nghe tiếng xe đến từ xa trước khi chạy lên khoảng nhỏ nhô lên trên đường mà người ở xung quanh đây gọi là ngọn đồi. Chắc là bà ấy, cô nghĩ. Bà Jamieson - Sylvia - trở về sau chuyến đi chơi ở Hy Lạp. Từ cửa nhà kho - đủ xa bên trong để không ai có thể dễ dàng trông thấy cô - cô nhìn con đường bà Jamieson sẽ phải lái xe qua ngang, nhà của bà dọc theo con đường cách nhà Clark và Carla nửa dặm. Nếu ai sẵn sàng để quẹo vào cổng của họ, chiếc xe sẽ chạy chậm lại bây giờ. Nhưng Carla vẫn hy vọng. Không phải là bà ta. Chính là bà. Bà Jamieson quay đầu lại một lần, nhanh chóng - bà chỉ có thể điều khiển chiếc xe vượt qua các chỗ lún xuống và vũng nước mưa đã tạo ra trong sỏi đá - và bà không giơ tay lên khỏi bánh lái để vẫy, bà không thấy Carla. Cô nhìn thoáng qua thấy một cánh tay trần rám nắng tới vai, tóc tẩy một màu sáng hơn lúc trước, bây giờ trắng hơn là bạc vàng, và một nét mặt cương quyết, bực tức và thích thú ở chính cái bực tức của bà - đúng là vẻ cua bà Jamieson khi đối phó với một con đường như vậy. Khi bà quay đầu lại có một cái gì đó giống như một tia sáng - hỏi thăm, hy vọng - khiến Carla chùn lại. Tốt. Có lẽ Clark chưa biết. Nếu anh đang ngồi ở máy vi tính anh sẽ đưa lưng về phía cửa sổ và con đường. Nhưng bà Jamieson có thể phải đi một chuyến nữa. Lái xe về nhà từ sân bay, bà có thể đã không dừng lại mua thức ăn - chỉ khi bà về đến nhà và biết bà cần những gì. Lúc đó Clark có thể nhìn thấy bà. Và sau khi trời tối, ánh đèn nhà bà sẽ sáng lên. Nhưng bây giờ là tháng bảy, và trời chưa tối đến khuya. Bà có lẽ quá mệt mỏi nên sẽ không bận tâm với các ngọn đèn, bà có thể đi ngủ sớm. Mặt khác, bà có thể gọi điện thoại. Bất cứ lúc nào bây giờ. Mùa hè này mưa và mưa nữa. Tiếng đầu tiên buổi sáng bạn nghe là mưa, ồn ào trên mái căn nhà di động. Những con đường mòn ngập sâu trong bùn, ngọn cỏ dài ướt sũng, những chiếc lá trên cao thình lình trút xuống cả vòi nước ngay cả những lúc không có cơn mưa nào từ bầu trời và đám mây trông như đã di tản. Carla đội một cái nón phớt Úc cũ, cao, rộng vành mỗi khi cô đi ra ngoài, và nhét bím tóc dày dài xuống chiếc áo sơ mi. Không ai đến cưỡi ngựa trên con đường mòn, mặc dù Clark và Carla đã đi xung quanh dán quảng cáo trong tất cả các trang trại, quán cà phê, và trên tấm bảng niêm yết của văn phòng du lịch và bất cứ nơi nào khác họ có thể nghĩ ra. Chỉ có một vài học sinh đến để học và những người đó là khách thường xuyên, không phải các nhóm học sinh nghỉ hè, các xe buýt chở đầy từ trại hè, đã làm cho họ luôn bận rộn mùa hè năm rồi. Và thậm chí cả những khách thường xuyên mà họ chờ đợi cũng dành thời gian nghỉ cho các chuyến đi chơi dịp lễ, hoặc chỉ đơn giản hủy bỏ những buổi học của họ vì thời tiết thật chán nản. Nếu họ gọi quá muộn, Clark vẫn tính tiền cho thời gian đó. Một vài người phàn nàn, và bỏ luôn. Họ vẫn còn một số thu nhập từ ba con ngựa được nuôi. Ba con này, và bốn con của riêng họ, bây giờ ở ngoài đồng, đang phá đám cỏ dưới tàn cây. Chúng có vẻ như không cần quan tâm để nhận thấy cơn mưa tạm thời ngưng lại một lúc, như nó thường xảy ra vào buổi trưa. Chỉ đủ để hy vọng của bạn vươn lên - những đám mây trắng ra và mỏng đi để ló dạng một độ sáng lan tỏa không bao giờ tồn tại xung quanh mà trở thành thực sự ánh nắng mặt trời, và thường tắt đi trước bữa ăn tối. Carla đã rửa xong chuồng trong nhà kho. Cô làm từ từ - cô thích nhịp điệu công việc thường xuyên, không gian cao dưới mái nhà kho, những mùi quen thuộc. Bây giờ cô đi qua vòng tập luyện để xem mặt đất khô chưa, trong trường hợp học sinh ra lúc năm giờ sẽ đến. Hầu hết những cơn mưa đều đặn không đặc biệt nặng hột, hoặc sinh ra trên một luồng gió, nhưng tuần trước đã có một khuấy động đột ngột và sau đó là một tiếng nổ thông qua các ngọn cây và gần như một cơn mưa mịt mù rơi ngang. Trong vòng mười lăm phút cơn bão đã đi qua. Những nhánh cây nằm trên đường, dây điện bị đứt, và một phần lớn tấm lợp nóc bằng nhựa trên vòng tập luyện đã bị hở rách. Có một vũng nước như cái hồ ở cuối đường mòn, và Clark đã làm việc cho đến khi sau trời tối, đào một kênh để nước thoát đi. Mái nhà vẫn chưa được sửa chữa. Clark đã giăng dây kẽm hàng rào để giữ không cho ngựa đi vào bùn, và Carla đã đánh dấu một con đường mòn ngắn hơn. Trên mạn lưới, ngay bây giờ, Clark đang tìm kiếm một nơi nào để mua tấm lợp nóc. Vài cửa hàng cứu nạn, với giá cả họ có thể đủ khả năng, hoặc ai đó đang cố gắng thanh toán vật liệu cũ này. Anh sẽ không đến cửa tiệm Cung Cấp Xây Dựng của Hy và Robert Buckley trong phố, mà anh gọi là Bọn Cướp Thô Tục Cung Cấp, bởi vì anh nợ họ quá nhiều tiền và đã gây lộn với họ. Clark gây lộn không chỉ với những người mà anh còn nợ tiền. Sự thân thiện của anh, lúc đầu hấp dẫn, đột nhiên có thể trở nên chua chát. Có những nơi anh sẽ không đi vào, mà anh luôn để Carla đi, vì vài lần cãi nhau. Nhà thuốc là một nơi chẳng hạn. Một bà già đã xen vào đứng trước anh - nghĩa là, bà đi lấy một cái gì bà quên và trở lại xen vào ở phía trước, thay vì đi ra phía sau sắp hàng cuối cùng, và anh đã phàn nàn, người thủ quỹ nói với anh, "Bà ấy có bệnh khí thũng," và Clark nói: "Thật vậy sao? Bản thân tôi, tôi bị bệnh trĩ," và người quản lý đã được gọi đến, để cho biết rằng chuyện thật vô lý. Và trong quán cà phê trên đường cao tốc, quảng cáo món ăn sáng giảm giá đã không được áp dụng, bởi vì nó quá mười một giờ sáng, Clark đã tranh luận và sau đó đánh rơi tách cà phê mua mang đi trên sàn - chỉ xém, theo họ nói, trúng một đứa bé trong xe đẩy. Anh cho biết đứa bé cách đó nửa dặm và anh đã làm rơi tách bởi vì nó không có đồ cầm. Họ cho biết anh không có yêu cầu một cái. Anh nói anh không cần phải hỏi. "Anh bùng nổ", Carla nói. "Đàn ông làm như vậy đó." Cô đã không nói cái gì với anh về lần cãi nhau với Joy Tucker. Joy Tucker người trông coi thư viện ở thị trấn có gởi họ nuôi con ngựa. Lizzie là một con ngựa cái nhỏ như hạt dẻ dễ nổi nóng - Joy Tucker, khi ở trong một tâm trạng cưỡi ngựa, gọi nó là Lizzie Borden. Hôm qua cô đã lái xe ra đây, không ở trong tâm trạng cưỡi ngựa chút nào, và phàn nàn về mái nhà chưa được sửa chữa, và Lizzie có vẻ khốn khổ, như thể nó bị cảm lạnh. Thực sự Lizzie không có vấn đề gì hết. Clark đã cố gắng - cho anh - để xoa dịu nó. Nhưng sau đó chính Joy Tucker bùng lên và nói là chỗ của họ là một bãi rác, Lizzie xứng đáng có một nơi tốt hơn, và Clark trả lời: "Tùy cô thôi." Joy không - hoặc chưa - mang Lizzie đi, như Carla mong đợi. Nhưng Clark, trước đây anh đã xem con ngựa như con vật cưng của anh, từ chối không làm bất cứ điều gì cho nó nữa. Hậu quả là cảm xúc của Lizzie bị tổn thương - nó cứng đầu khi tập luyện và đá lên nổi phiền phức khi móng của nó phải được chăm sóc, như họ thường làm mỗi ngày, nếu không sẽ gây ra một loại nấm. Carla phải coi chừng bị cảm lạnh. Nhưng điều tệ nhất làm Carla quan tâm là sự vắng mặt của Flora, con dê nhỏ màu trắng làm bạn với những con ngựa trong chuồng và ngoài cánh đồng. Hai ngày qua không thấy nó đâu. Carla sợ mấy con chó hoang hay chó sói đã bắt nó, hoặc thậm chí một con gấu. Cô đã mơ thấy Flora đêm qua và đêm trước. Trong giấc mơ đầu tiên Flora đã đi ngay đến bên giường với một quả táo đỏ trong miệng, nhưng trong giấc mơ thứ hai - đêm qua - nó đã bỏ chạy khi nhìn thấy Carla tới. Chân của nó dường như bị thương nhưng nó vẫn chạy. Nó dẫn Carla đến một loại chướng ngại vật kẽm gai có thể của một chiến trường, và sau đó nó - Flora - trượt qua đó, chân và toàn thân bị thương, nó chỉ trườn qua như một con lươn trắng và biến mất. Mấy con ngựa đã thấy Carla băng qua để đến vòng tập luyện và tất cả di chuyển đến hàng rào - trông bẩn thỉu mặc dù chúng có cái chăn Tân Tây Lan - để cô dễ dàng nhận thấy trên đường trở lại. Cô nói chuyện nhẹ nhàng với chúng, xin lỗi vì đã đến tay không. Cô vuốt ve cổ và cọ xát mũi và hỏi chúng có biết gì về Flora không. Grace và Juniper khịt mũi và rúc lên, như thể chúng nhận ra tên và chia sẻ mối quan tâm của cô, nhưng sau đó Lizzie dùng đầu húc vào giữa và đẩy đầu Grace ra khỏi bàn tay nựng nịu của Carla. Nó cho một cảm giác lạnh vào tay như biện pháp tốt, và Carla phải dành thời gian để mắng nó. Cho đến cách đây ba năm Carla không bao giờ thực sự nhìn vào những căn nhà di động. Cô cũng không gọi như vậy. Giống như cha mẹ cô, cô nghĩ "nhà di động" có vẻ khoe khoang. Một số người sống trong các xe kéo, và tất cả chỉ có vậy thôi. Xe kéo không khác gì nhau. Khi Carla dọn vào ở đây, khi cô chọn cuộc sống này với Clark, cô bắt đầu nhìn các thứ một cách mới. Sau đó cô bắt đầu nói "nhà di động" và cô nhìn xem cách người ta sửa sang thế nào. Loại màn cửa họ treo, cách họ sơn trang trí, sàn nhà hoặc hàng hiên hoặc thêm phòng đầy tham vọng đã được xây dựng. Cô hầu như khó có thể chờ đợi để có những cải tiến đó cho mình. Clark đã chìu theo những ý kiến của cô, trong một thời gian. Anh đã xây dựng những bậc mới, và dành rất nhiều thời gian tìm kiếm một lan can sắt rèn cũ cho họ. Anh không than phiền về số tiền chi tiêu mua sơn cho nhà bếp và phòng tắm hoặc vải màn cửa. Công việc sơn của cô đã hơi vội vàng - cô không biết, tại thời điểm đó, là phải tháo bản lề ra khỏi cửa tủ. Hoặc là phải may lót màn cửa, nay đã phai màu. Việc mà Clark ngần ngại là xé bỏ tấm thảm, trong mỗi phòng đều giống nhau và là điều mà cô đã trông chờ nhất để thay thế. Nó được chia thành các hình vuông nhỏ màu nâu, mỗi cái với một mô hình những đường lượn sóng và hình dạng màu nâu sẫm hơn và màu rỉ. Trong một thời gian dài cô đã nghĩ đây là những đường lượn sóng và hình dạng tương tự, được sắp xếp theo cùng một cách, trong mỗi hình vuông. Sau đó, khi cô đã có nhiều thời gian, rất nhiều thời gian, để xem xét, cô quyết định có bốn mô hình liên kết với nhau thành những hình vuông lớn hơn giống hệt nhau. Đôi khi cô có thể nhận ra cách sắp xếp một cách dễ dàng và đôi khi cô phải nhìn kỹ để thấy. Cô làm như vậy khi trời mưa và tâm trạng của Clark đè nặng xuống tất cả không gian bên trong, và anh không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì ngoài màn hình máy tính. Nhưng điều tốt nhất để làm lúc đó là chế tạo hoặc nhớ lại một số việc để làm trong nhà kho. Mấy con ngựa sẽ không nhìn cô khi cô không vui, nhưng Flora, không bao giờ bị cột, sẽ đến cọ sát vào cô, và nhìn lên với một nét không phải hoàn toàn là thông cảm - mà tựa như đùa chọc chia sẽ từ đôi mắt lung linh vàng xanh. Flora đã được nuôi gần lớn khi Clark mang nó về nhà từ một trang trại mà anh đến để mặc cả vài xe ngựa kéo. Người dân ở đó từ bỏ cuộc sống ở vùng quê, hoặc ít nhất là về chăn nuôi gia súc - họ đã bán ngựa nhưng chưa thanh toán mấy còn dê. Anh đã nghe kể chuyện một con dê có thể mang lại một cảm giác dễ chịu và thoải mái trong một chuồng ngựa và anh muốn thử. Họ có ý định một ngày nào đó sẽ gầy giống nhưng chưa bao giờ nó có một dấu hiệu tiếp nhiệt nào. Lúc đầu, nó là con vật nuôi được Clark cưng chìu hoàn toàn, theo anh khắp mọi nơi, nhảy múa để gây sự chú ý. Nó nhanh chóng, duyên dáng và khiêu khích như một con mèo con, và nó giống như một cô gái ngây thơ đang yêu làm cho cả hai đều cười. Nhưng khi nó lớn lên, nó có vẻ gắn bó với Carla, và trong sự gắn bó này nó đột nhiên khôn ngoan hơn, bớt làm dáng - nó dường như có khả năng, thay vào đó, để tạo ra một khí chất nhẹ nhàng và khôi hài. Cách cư xử của Carla với những con ngựa dịu dàng, nghiêm ngặt như người mẹ, nhưng tình bạn với Flora thi khá khác nhau, Flora không cho phép cô có một cảm giác ưu thế nào hết. "Vẫn không có dấu hiệu gì của Flora à?" cô nói, vừa cởi đôi giày ống làm việc ở nhà kho ra. Clark đã đăng một thông báo Mất Dê trên Mạng Lưới. "Cho đến nay không có," anh nói, bằng một giọng bận tâm nhưng không phải thiếu thân thiện. Anh gợi ý, không phải lần đầu tiên, là có thể Flora chỉ đi tìm cho mình một người bạn trai. Không có tin gì về bà Jamieson. Carla đặt ấm nước lên. Clark ngâm nga như anh thường làm khi anh ngồi trước máy vi tính. Đôi khi anh nói chuyện với nó. Vớ vẩn, anh ấy sẽ nói, trả lời một số thách thức. Hoặc anh ta sẽ cười - nhưng không thể nhớ chuyện đùa là gì, khi cô hỏi anh sau đó. Carla gọi,"Anh có muốn uống trà không?" và trước sự ngạc nhiên của cô, anh đứng dậy và đi vào nhà bếp. "Tốt," anh nói. "Tốt, Carla". "Cái gì?" "Tốt, bà đã gọi điện thoại." "Ai?" "Nữ Hoàng. Nữ Hoàng Sylvia. Bà vừa trở về." "Em không nghe tiếng xe." "Anh không hỏi nếu em có nghe không." "Tốt, bà ấy gọi điện thoại để làm gì?" "Bà muốn em đến giúp bà thu dọn nhà. Bà nói như vậy. Ngày mai." "Anh đã nói gì với bà?" "Anh đã nói chắc chắn. Nhưng tốt hơn em điện thoại và xác nhận." Carla nói: "Em không thấy lý do tại sao em phải gọi, nếu anh đã nói với bà rồi." Cô cho trà vào tách. "Em đã dọn sạch căn nhà trước khi bà đi. Em không thấy cái gì có thể để làm sớm như vậy." "Có lẽ vài tên gian đã vào và làm xáo trộn trong khi bà đi vắng. Em sao biết được." "Em không cần phải gọi cho bà ấy ngay lúc này," cô nói. "Em muốn uống tách trà và em cần đi tắm." "Càng sớm càng tốt." Carla mang trà vào phòng tắm, nói trở ra,"Chúng ta cần đi đến tiệm giặt. Ngay cả khi khăn đã phơi khô vẫn ngửi thấy mùi ẩm mốc." "Chúng ta không thay đổi chủ đề, Carla". Ngay cả sau khi cô vào trong phòng tắm, anh đứng bên ngoài cửa và gọi cô. "Anh sẽ không để cho em trốn tránh, Carla." Cô nghĩ anh ta có lẽ vẫn còn đứng đó khi cô đi ra, nhưng anh đã trở lại máy vi tính. Cô mặc áo như cô sẽ đi ra phố - cô hy vọng nếu họ có thể ra khỏi nơi đây, đi đến tiệm giặt, mua thức uống mang đi tại tiệm cappuccino, họ có thể nói chuyện với nhau một cách khác, họ có thể nói ra một vài chuyện. Cô bước nhanh vào phòng khách và từ phía sau vòng tay ôm anh. Nhưng ngay sau khi cô làm cử chỉ đó một làn sóng đau buồn nuốt lấy cô - có thể vì sức nóng của vòi sen, làm chảy nước mắt của cô - và cô cúi xuống người anh, hoàn toàn sụp đổ và khóc. Anh rút tay ra khỏi bàn đánh chữ nhưng vẫn ngồi yên. "Anh chỉ cần không nổi giận với em", cô nói. "Anh không giận. Anh ghét khi em như thế này, chỉ vậy thôi." "Em như thế bởi vì anh đang giận." "Em đừng nói với anh là anh thế nào. Em làm anh nghẹt thở. Em đi nấu ăn tối đi." Cô đi vào bếp. Rõ ràng bây giờ là người hẹn năm giờ sẽ không đến. Cô lấy khoai tây và bắt đầu lột vỏ, nhưng nước mắt vẫn không ngừng chảy và cô không thể nhìn thấy cô đang làm gì. Cô lau mặt với một chiếc khăn giấy và xé lấy một cái mới để mang theo và đi ra ngoài mưa. Cô không đi vào nhà kho vì trong đó sẽ quá khổ sở khi vắng Flora. Cô đi dọc theo đường trở lại khu rừng. Mấy con ngựa đang ở trong cánh đồng khác. Chúng đi đến hàng rào để nhìn cô. Tất cả ngoại trừ Lizzie, nó chạy nhảy và khịt mũi một chút, nó cảm giác biết sự quan tâm của cô đang ở nơi khác. Câu chuyện bắt đầu khi họ đọc cáo phó của ông Jamieson. Bài được đăng trong báo của thành phố, và khuôn mặt của ông đã được đưa lên trong giờ tin tức buổi tối. Cho đến năm trước, họ chỉ biết gia đình Jamieson như những người hàng xóm sống riêng cho họ. Bà dạy Thực Vật Học tại trường đại học cách đây bốn mươi dặm, vì vậy bà phải dành rất nhiều thời gian di chuyển trên đường. Ông là một nhà thơ. Mọi người đều chỉ biết có bấy nhiêu. Nhưng ông dường như bận rộn với những thứ khác. Đối với một nhà thơ, và một người đàn ông có tuổi - có lẽ hai mươi tuổi lớn hơn bà Jamieson - ông là một người khỏe mạnh và hoạt động. Ông cải thiện hệ thống thoát nước khu nhà của ông, làm sạch ống cống và lót đá vào. Ông đào và trồng, làm hàng rào vườn rau, cắt dọn những con đường băng qua rừng, chăm sóc sửa chữa căn nhà. Căn nhà có một hình dạng tam giác trông kỳ lạ mà ông đã xây dựng mấy năm trước đây, với vài người bạn, trên nền tảng của một trang trại cũ phá hỏng. Họ nói đến những người đó như những kẻ lập dị - mặc dù, ngay cả lúc đó ông Jamieson có vẻ hơi già đối với nhóm này, trước khi có bà Jamieson. Một câu chuyện kể rằng họ đã trồng cần sa trong rừng, bán đi, và cất giữ tiền trong những bình thủy tinh niêm phong, được chôn xung quanh khu đất. Clark nghe những người anh quen biết trong phố kể lại như vậy. Anh cho là nhảm nhí. "Chắc có ai đã vào trong và đào nó lên, trước đây. Chắc có ai đã tìm cách để bắt ông nói chỗ cất giấu." Khi họ đọc cáo phó, Carla và Clark lần đầu tiên được biết Leon Jamieson là người đã nhận được một giải thưởng lớn, năm năm trước khi ông qua đời. Một giải thưởng về thơ. Chưa ai từng đề cập đến điều này. Dường như người ta có thể tin vào tiền thuốc phiện chôn trong lọ thủy tinh, nhưng không tin tiền giải thường nhận được nhờ làm thơ. Ít lâu sau đó Clark cho biết,"Chúng ta có thể bắt ông ta phải trả." Carla biết ngay anh muốn nói cái gì, nhưng cô xem đó là một lời nói đùa. "Quá trễ rồi," cô nói. "Ông không thể trả một khi đã chết." "Ông không thể. Bà có thể." "Bà đã đi Hy Lạp." "Bà ấy không ở lại Hy Lạp." "Bà không biết", Carla nói nghiêm nghị hơn. "Anh không nói bà ấy biết." "Bà không biết gi về chuyện này." "Chúng ta có thể giải quyết điều đó." Carla nói: "Không. Không." Clark tiếp tục như thể cô không có phản đối. "Chúng ta có thể nói là chúng ta sẽ khởi kiện. Người ta nhận được tiền cho những vụ như vậy hoài." "Làm sao anh có thể làm điều đó? Anh không thể khởi kiện một người chết." "Hăm dọa đưa ra báo chí. Một nhà thơ nổi tiếng. Báo chí sẽ ăn khách. Chúng ta chỉ phải hăm dọa và bà sẽ nhượng bộ." "Anh chỉ tưởng tượng", Carla nói. "Anh đang đùa." "Không," Clark nói. "Thực ra, anh không đùa." Carla nói cô không muốn nhắc đến chuyện đó nữa và anh trả lời được. Nhưng họ tiếp tục nói về vấn đề đó ngày hôm sau, và hôm sau và hôm sau nữa. Đôi khi anh có những quan niệm như vậy không thực hiện được, và thậm chí còn có thể bất hợp pháp. Anh đề cập đến càng ngày càng phấn khích và sau đó - cô không chắc tại sao - anh bỏ ý định. Nếu cơn mưa ngừng lại, nếu chuyện này biến thành một cái gì đó giống như một mùa hè bình thường, anh có thể bỏ qua ý tưởng theo những thứ khác. Nhưng nó không xảy ra, và trong tháng qua anh đã không ngừng nói đến kế hoạch như thể nó hoàn toàn khả thi và nghiêm túc. Câu hỏi đặt ra là đòi hỏi bao nhiêu tiền. Quá ít, và người đàn bà có thể không xem họ một cách nghiêm trọng, bà có thể có khuynh hướng xem họ có lừa gạt không. Quá nhiều có thể làm cho bà lùi lại và trở nên ngoan cố. Carla không còn nói đó là một trò đùa nữa. Thay vào đó cô nói với anh là chuyện sẽ không thành. Cô nói một điều là vì người ta trông mong nhà thơ phải như vậy. Do đó, nó sẽ không đáng bỏ tiền ra để che đậy câu chuyện. Anh nói việc sẽ làm được nếu thực hiện đúng. Carla sẽ làm ra vẻ suy sụp và nói với bà Jamieson toàn bộ câu chuyện. Sau đó, Clark sẽ đi vào, như thể tất cả đều là một bất ngờ đối với anh, anh vừa phát hiện ra. Anh sẽ cảm thấy bị xúc phạm, anh sẽ nói phố biến cho cả thế giới biết. Anh sẽ để bà Jamieson là người đề cập đến tiền bạc trước. "Em bị tổn thương. Em bị lạm dụng tình dục và làm nhục và anh đã bị tổn thương và làm nhục bởi vì em là vợ anh. Đó là một vấn đề của sự tôn trọng." Anh cứ nói và tiếp tục nói như vậy với cô và cô cố gắng để đánh lạc hướng anh, nhưng anh vẫn khẳng định. "Lời hứa", anh nói. "Lời hứa". Đó là tại những gì cô đã nói với anh, những thứ cô không thể nào bây giờ rút lại hoặc phủ nhận. Đôi khi ông ta thích em? Ông già? Đôi khi ông gọi em vào phòng khi không có bà ấy ở đó? Đúng. Khi bà phải đi ra ngoài mua sắm và người y tá cũng không có ở đó. Một cảm hứng may mắn của bà, một điều làm ông ta vui mừng ngay lập tức. Vậy sau đó, em làm gì? Em có đi vào không? Cô làm vẻ ngại ngùng. Đôi khi. Ông gọi em vào phòng. Vậy? Carla? Vậy, sau đó? Em vào xem ông muốn cái gì. Vậy ông muốn cái gì? Điều này được hỏi và kể trong thì thầm, ngay cả khi không có ai nghe, ngay cả khi họ ở trong thế giới tưởng tượng của chiếc giường. Một câu chuyện kể trước khi ngủ, trong đó các chi tiết rất quan trọng và phải được thêm vào mọi lần, và điều này với sự miễn cưỡng thuyết phục, ngại ngùng, cười khúc khích, bẩn thỉu, dơ bẩn. Và không những anh là kẻ háo hức và biết ơn. Cô cũng vậy. Háo hức để làm vui lòng và kích thích anh, để kích thích bản thân cô. Biết ơn vì mỗi lần nó vẫn còn hiệu lực. Và trong một phần tâm trí của cô đó là sự thật, cô thấy ông già thô lổ, vết u ông tạo ra trong tấm ga, nằm liệt giường thực sự, gần như không nói được nhưng thông thạo ngôn ngữ ký hiệu, cho thấy mong muốn của ông, cố gắng dùng cùi chỏ thúc giục và lấy ngón tay ra dấu cô đồng lõa, vào các màn táo bạo bắt buộc và thân mật. (Sự từ chối của cô là một điều cần thiết, nhưng cũng có lẽ kỳ lạ, vì Clark hơi thất vọng.) Thỉnh thoảng một hình ảnh thoáng hiện mà cô phải búa xuống, vì sợ nó làm hỏng tất cả mọi chuyện. Cô sẽ nghĩ đến cơ thể thực sự mập mờ được tấm ga đắp lại, bị thuốc mê và teo lại mỗi ngày trên chiếc giường bệnh viện thuê, thoáng thấy chỉ một vài lần khi bà Jamieson hoặc người y tá đến thăm đã quên đóng cửa. Bản thân cô không bao giờ thực sự đến gần ông hơn như vậy. Trong thực tế, cô đã sợ hải đi đến nhà Jamieson, nhưng cô cần tiền, và cô cảm thấy tội nghiệp cho bà Jamieson, người có vẻ rất bị ám ảnh và hoang mang, như thể bà đang đi trong giấc ngủ. Một hoặc hai lần Carla đã phá lên và làm cái gì đó thực sự ngớ ngẩn chỉ để thư giản bầu không khí. Điều mà cô hay làm khi những người lần đầu cưỡi ngựa vụng về và sợ hải cảm thấy bị mất mặt. Cô cũng hay thử như vậy khi Clark bị kẹt trong tâm trạng của anh. Nó không làm được gì cho anh nữa. Nhưng câu chuyện về ông Jamieson thì được, một cách dứt khoát. Không có cách nào để tránh những vũng nước trên đường hoặc cỏ cao ướt sũng dọc theo đó, hoặc cà rốt hoang dại gần đây đã trổ hoa. Nhưng không khí thật ấm áp, đủ để cô không cảm thấy lạnh. Quần áo của cô đã thấm nước như thể bởi chính mồ hôi của cô hay những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt với cơn mưa phùn. Nước mắt cô từ từ cạn dần với thời gian. Cô không có gì để lau mũi - khăn giấy bây giờ đã ướt sũng - nên cô cúi xuống và xì ra trong một vũng nước. Cô ngẩng đầu lên và cố gắng phát ra một tiếng huýt gió rung động, kéo dài ra, tín hiệu của cô - của Clark nữa - cho Flora. Cô chờ vài phút và sau đó gọi tên Flora. Cô lập đi lập lại, huýt gió và goi tên, huýt gió và goi tên. Flora không trả lời. Ở nhà, không có gì để Sylvia làm ngoại trừ mở cửa sổ. Và suy nghĩ - với một sự háo hức mất bình tĩnh mà không thực sự khiến bà ngạc nhiên - làm thế nào bà có thể sớm gặp Carla. Tất cả các thiết bị cho căn bệnh đã được tháo gỡ. Căn phòng trước đó là phòng ngủ của Sylvia và chồng và sau này làm phòng chết của ông đã được dọn sạch và thu xếp nhìn như không có chuyện gì đã từng xảy ra trong đó. Carla đã giúp tất cả những việc ấy trong vài ngày điên cuồng giữa buổi hoả táng và chuyến đi Hy Lạp. Tất cả quần áo Leon đã từng mặc và một vài cái ông chưa đụng tới, kể cả những món quà tặng của chị em ông chưa bao giờ được lấy ra khỏi bao, đã được chất đống ở băng ghế sau của chiếc xe và chở đến Tiệm Tiết Kiệm. Thuốc, đồ cạo râu, hộp lon chưa mở nước uống thuốc bổ đã kéo dài ông thật lâu, bánh mè dòn mà có một thời gian ông từng ăn cả chục cái, chai nhựa đầy kem dưỡng đã giúp cho lưng dễ chịu, tấm da cừu mà ông đã nằm lên trên - tất cả đã được vứt vào túi nhựa để chở đi đổ rác, và Carla không hỏi một điều gì. Cô không bao giờ nói: "Có thể một người nào sử dụng được", hoặc chỉ nguyên thùng lon hộp chưa mở. Khi Sylvia nói,"Tôi hối tiếc đã mang những bộ quần áo đến thị trấn. Tôi tiếc tôi đã không đốt cháy tất cả trong lò đốt," Carla đã không để lộ một ngạc nhiên nào hết. Họ làm sạch lò nướng, cọ lau tủ, chùi sạch bức tường và cửa sổ. Một ngày Sylvia ngồi trong phòng khách xem qua tất cả những lá thư chia buồn bà đã nhận được. (Không có sự tích tụ giấy tờ, ghi chú cần được giải quyết, như một nhà văn có thể để lại, không có công việc chưa hoàn thành hoặc bản thảo nguệch ngoạc. Ông có nói với bà, cả tháng trước, rằng ông đã vứt bỏ tất cả mọi thứ. Và không hối tiếc.) Bức tường phía nam dốc xuống của ngôi nhà được xây cất với nhiều cửa sổ lớn. Sylvia nhìn lên, ngạc nhiên bởi ánh sáng mặt trời ướt át tỏa ra - hoặc có thể ngạc nhiên bởi bóng dáng của Carla, chân trần, tay trần, leo trên cao một cái thang, khuôn mặt kiên quyết dưới một vòm tóc xoăn cứng như cỏ dại quá ngắn để bím. Cô đang mạnh mẽ phun nước và lau kính. Khi thấy Sylvia nhìn, cô dừng lại và vung hai cánh tay ra như thể cô bị dang ra ở đó, với một bộ mặt ngớ ngẩn kỳ cục. Cả hai đều bắt đầu cười. Sylvia cảm thấy tiếng cười này chạy dài khắp người bà như một dòng suối vui tươi. Bà trở lại đọc các lá thư trong khi Carla tiếp tục lau chùi. Bà quyết định tất cả những lời chia buồn này - thật tình hoặc chiếu lệ, khen tặng và hối tiếc - có thể theo con đường của tấm da cừu và bánh mè dòn. Khi bà nghe Carla lấy thang xuống, nghe tiếng giày ống trên sàn ván, bà đột nhiên cảm thấy ngại ngùng. Bà vẫn ngồi nơi đó đầu cúi xuống khi Carla bước vào phòng và đi qua phía sau bà để đến nhà bếp cất thùng và khăn trở lại dưới bồn rửa chén. Carla khó dừng lại, cô nhanh như một con chim, nhưng cô cũng ghé qua thả một nụ hôn trên đầu cúi xuống của Sylvia. Sau đó, cô tiếp tục đi vừa huýt sáo một cái gì đó cho riêng cô. Nụ hôn đó đã ở trong tâm trí của Sylvia từ bao giờ. Nó không có nghĩa gì đặc biệt. Nó có nghĩa Vui lên. Hoặc Gần xong rồi. Nó có nghĩa họ là những người bạn tốt đã cùng vượt qua rất nhiều việc phiền muộn với nhau. Hoặc có thể chỉ là mặt trời đã xuất hiện. Là Carla đang nghĩ đến việc trở về nhà với các con ngựa của cô. Tuy nhiên, Sylvia thấy đó như một hoa tươi sáng, những cánh hoa nở rộng bên trong bà với sức nhiệt hỗn loạn, như một chớp nhoáng của thời kỳ mãn kinh. Bà cũng thường có một cô sinh viên đặc biệt trong lớp thực vật học - với một trí thông minh, cống hiến và tính ích kỷ khó chịu, hoặc ngay cả với niềm đam mê thành thật cho thế giới thiên nhiên, gợi lại thời trẻ của bà. Những cô gái đó bám xung quanh bà một cách quá đáng, hy vọng một sự thân mật họ không thể - trong hầu hết trường hợp - tưởng tượng, và chẳng bao lâu họ làm cho bà bực mình. Carla không giống như họ. Nếu cô có giống bất cứ ai trong cuộc sống của Sylvia, nó sẽ phải là vài cô gái bà đã quen biết ở trung học - những người tươi sáng nhưng không bao giờ quá tươi sáng, các vận động viên đơn giản, nhưng không cạnh tranh quá sức, hăng hái nhưng không hay nổi giận. Vui vẻ một cách tự nhiên. "Nơi mà tôi đến với hai người bạn già, ngôi làng này rất nhỏ, ngôi làng thật bé tí xíu này, vậy đó, đó là một nơi mà rất thỉnh thoảng xe buýt du lịch mới dừng lại, cũng giống như nó đã đi lạc, và du khách sẽ bước xuống nhìn xung quanh và họ hoàn toàn hoang mang vì họ không ở bất cứ nơi nào. Không có gì để mua hết." Sylvia đang kể chuyện về nước Hy Lạp. Carla đang ngồi cách bà một vài bước. Cô gái tay chân to lớn, không tự nhiên, mắt sáng chói cuối cùng đang ngồi đó, trong căn phòng đã được cô lấp đầy với những suy nghĩ. Cô mỉm cười yếu ớt, gật đầu một cách muộn màng. "Và lúc đầu," Sylvia nói,"lúc đầu tôi cũng hoang mang. Trời rất nóng. Nhưng ánh sáng đúng như họ nói. Thật tuyệt vời. Và sau đó tôi tìm ra cái gì để làm, và chỉ có vài điều đơn giản nhưng có thể bận cả ngày. Bạn đi bộ nửa dặm xuống con đường để mua dầu và một nửa dặm theo hướng khác để mua bánh mì hoặc rượu vang, và đó là buổi sáng, và bạn dùng bữa ăn trưa dưới bóng cây và sau khi ăn trưa trời quá nóng để làm bất cứ điều gì ngoài đóng cửa sổ lại và nằm trên giường và có thể đọc sách. Lúc đầu, bạn đọc. Và sau đó trời quá nóng, thậm chí bạn không muốn đọc nữa. Tại sao đọc? Một lát sau bạn nhận thấy bóng tối dài hơn và bạn ngồi dậy để đi bơi. "Ồ," bà ngắt lời mình. "Ồ, tôi quên mất." Bà nhảy lên và đi lấy món quà mà bà đã mang về, mà trong thực tế bà đã không quên gì hết. Bà không muốn đưa cho Carla ngay lập tức, bà muốn thời điểm đến một cách tự nhiên hơn, và trong khi bà đang nói bà đã nghĩ trước đến lúc bà có thể đề cập đến biển, đi bơi. Và nói, cũng như bây giờ bà nói,"Bơi nhắc tôi nhớ về cái này bởi vì nó là một bản sao nhỏ, cô biết, đó là bản sao nhỏ của con ngựa họ tìm thấy dưới đáy biển. Đúc bằng đồng. Họ đào vét nó lên, sau tất cả thời gian này. Nó phải có từ thế kỷ thứ hai trước Chúa." Khi Carla đi vào và nhìn quanh để tìm công việc làm, Sylvia nói: "Ồ, cô hãy ngồi xuống một chút, tôi không có ai để nói chuyện từ lúc tôi về. Cô vui lòng." Carla ngồi xuống trên cạnh một chiếc ghế, chân mở ra, tay để giữa hai đầu gối, vẻ hơi hoang vắng. Như để tỏ một lịch sự nào đó cô đã hỏi: "Bà thấy Hy Lạp thế nào?" Bây giờ cô đang đứng, cô chưa mở ra hết con ngựa bọc trong khăn giấy nhàu nát. "Người ta cho biết nó tượng trưng một con ngựa đua," Sylvia nói. "Chạy vòng cuối, nỗ lực cuối cùng của nó trong một cuộc đua. Người cởi, cũng vậy, cậu bé, cô có thể thấy cậu ta thúc con ngựa đến sức cùng của nó." Bà không có nói là cậu bé đã làm bà nghĩ đến Carla, và bây giờ bà không có thể nói lý do tại sao. Cậu ta chỉ khoảng mười hay mười một tuổi. Có lẽ sức mạnh và sự thanh tao của cánh tay nắm lấy dây cương, hoặc những nếp nhăn trên vầng trán trẻ, nét tập trung và nỗ lực đã phản ảnh một cách nào đó Carla đang lau sạch các cửa sổ lớn mùa xuân vừa rồi. Đôi chân khỏe mạnh trong chiếc quần ngắn, bờ vai rộng, những lần quét lớn trên kiến, và sau đó cách cô đã dang rộng mình ra như một trò đùa, mời mộc hoặc thậm chí buộc cho Sylvia phải cười. "Tôi có thể thấy," Carla nói, bây giờ ngắm nhìn kỹ càng bức tượng nhỏ bằng đồng màu xanh lá cây. "Cảm ơn bà rất nhiều." "Không có chi. Chúng ta dùng cà phê nhe? Tôi vừa mới pha. Cà phê ở Hy Lạp khá mạnh, một chút mạnh hơn vị tôi thích, nhưng bánh mì thật là tuyệt. Và quả sung chín, chúng đáng ngạc nhiên. Cô ngồi xuống một chút nữa, cô vui lòng. Cô nên dừng tôi lại không nói tiếp tục như vậy. Ở đây thì sao? Cuộc sống ở đây thế nào?" "Gần như lúc nào trời cũng mưa." "Tôi có thể thấy điều đó. Tôi thấy đã mưa nhiều", Sylvia nói từ nhà bếp ở cuối căn phòng lớn. Vừa rót cà phê, bà quyết định giữ im lặng về món quà kia mà bà đã mang về. Nó không có tốn tiền bà (con ngựa đã tốn quá nhiều tiền mà cô gái khó có thể đoán được), nó chỉ là một viên đá nhỏ xinh đẹp màu trắng hồng nhạt bà đã nhặt dọc đường. "Đây là cho Carla", bà đã nói với Maggie bạn của bà, đang đi bên cạnh. "Tôi biết đó là ngớ ngẩn. Tôi chỉ muốn cô ấy có một mảnh nhỏ của vùng đất này." Bà đã đề cập về Carla cho Maggie, và Soraya, người bạn kia của bà ở đó, kể với họ làm sao sự hiện diện của cô gái đã mang đến ý nghĩa càng ngày càng nhiều hơn đối với bà, làm sao một sợi dây không thể diễn tả được có vẻ như liên kết họ lại với nhau, và đã an ủi bà trong những tháng khủng khiếp của mùa xuân vừa qua. "Chỉ là để nhìn thấy một người - một người thật tươi và đầy đủ sức khỏe bước vào trong nhà." Maggie và Soraya đã cười một cách tử tế nhưng khó chịu. "Luôn luôn là một cô gái", Soraya nói, vừa căng đôi tay nặng nề rạm nắng một cách lười biếng, và Maggie nói: "Một lúc nào đó chúng ta đều đến giai đoạn này. Phải lòng một cô gái." Sylvia đã tức tối bởi từ ngữ - phải lòng. "Có lẽ bởi vì Leon và tôi không bao giờ có con", bà nói. "Thật là ngu ngốc. Tình mẫu tử đặt không đúng chỗ." Các bạn của bà nói chuyện cùng một lúc, gợi ra trong những cách hơi khác nhau một cái gì đó có thể là ngu ngốc nhưng sau cùng, đó là tình thương. Nhưng hôm nay, cô gái không giống như Carla mà Sylvia đã nhớ, hoàn toàn không có tinh thần sáng sủa bình tĩnh, con người trẻ vô tư và hào phóng mà bà đã nghĩ đến lúc ở Hy Lạp. Cô hầu như không quan tâm đến món quà của cô. Gần như ủ rũ khi cô đưa tay ra nhận lấy tách cà phê của mình. "Có một thứ tôi nghĩ cô có thể thích rất nhiều," Sylvia nói một cách hăng hái. "Mấy con dê. Chúng nó rất nhỏ ngay cả khi hoàn toàn tăng trưởng. Vài con có đốm và vài con màu trắng, và chúng chạy nhảy xung quanh trên những tảng đá giống như - giống như hồn ma của nơi đó." Bà cười một cách gượng gạo, bà không thể ngăn mình lại. "Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu chúng có những vòng hoa trên sừng. Con dê nhỏ của cô thế nào? Tôi quên tên của nó." Carla nói: "Flora". “Flora.” "Nó bỏ đi rồi." "Bỏ đi? Cô có bán nó không?" "Nó biến mất. Chúng tôi không biết ở đâu." "Ồ, tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi. Nhưng có một hy vọng nào nó sẽ trở về không?" Không có câu trả lời. Sylvia nhìn thẳng vào cô gái, một điều cho đến nay bà gần như không có thể làm được, và thấy đôi mắt cô đầy nước mắt, khuôn mặt cô toàn lốm đốm - trong thực tế nó trông bẩn thỉu - và cô có vẻ tràn ngập nổi phiền muộn. Cô không làm gì để tránh cái nhìn của Sylvia. Cô khép đôi môi chặt trên hàm răng và nhắm mắt lại đu đưa cả người từ trước ra sau như muốn rú lên trong im lặng, và sau đó, thật kinh hoàng, cô đã rú lên. Cô rú lên khóc, nghẽn thở và nước mắt ràn rụa trên má và mũi chảy và cô bắt đầu nhìn xung quanh vội vàng tìm cái gì đó để lau mặt. Sylvia chạy lấy cả nắm khăn giấy Kleenex. "Cô đừng lo lắng, cô đang ở đây, đây rồi, không sao," bà nói, nghĩ rằng có lẽ điều cần làm là ôm cô gái vào lòng. Nhưng bà không ước muốn làm cử chỉ đó chút nào, và có thể làm cho mọi việc càng tệ hơn. Cô gái có thể cảm thấy không tốt chút nào nếu Sylvia muốn làm một hành động như vậy, trong thực tế bà thật là hoảng sợ bởi sự kiện ồn ào này. Carla nói cái gì đó, nói cái gì đó tương tự một lần nữa. "Khủng khiếp", cô nói. "Khủng khiếp". "Không, không có. Tất cả chúng ta đôi khi phải khóc. Không sao, cô đừng lo lắng." "Thật khủng khiếp." Và Sylvia không thể nào không cảm thấy, với màn trình diễn đau khổ này, cô gái làm cho mình bình thường hơn, giống một trong những học sinh mắt sũng nước trong văn phòng của Sylvia. Vài người khóc về điểm của họ, nhưng đó thường là chiến thuật, một chút rên rỉ ngắn gọn không thuyết phục được. Những vụ nước chảy thực sự, bất thường hơn, sẽ xảy ra với một cái gì đó liên quan đến tình yêu, hoặc cha mẹ, hoặc mang thai. "Đó không phải vì con dê của cô, phải không?" "Không. Không." "Tốt hơn cô nên uống một ly nước," Sylvia nói. Bà dành thời gian để nước chảy cho lạnh, cố gắng suy nghĩ cái gì khác bà nên làm hay nói, và khi bà trở ra với ly nước Carla đã bình tĩnh lại. "Bây giờ. Bây giờ," Sylvia nói trong khi cô đang uống nước. "Cô có đỡ hơn không?" "Có." "Không phải là con dê. Vậy là chuyện gì?" Carla nói: "Tôi không thể chịu đựng được nữa." Cái gì làm cô không thể chịu đựng được? Hóa ra là người chồng. Anh ta lúc nào cũng điên lên với cô. Anh hành động như thể anh ghét cô. Không có gì cô có thể làm đúng, không có gì cô có thể nói. Sống với anh làm cho cô điên được. Đôi khi cô nghĩ cô đã bị điên. Đôi khi cô nghĩ anh ta bị điên. "Anh ta có làm tổn thương cô không, Carla?" Không. Anh không có tổn thương cô về thể chất. Nhưng anh ghét cô. Anh xem thường cô. Anh không thể chịu đựng được khi cô khóc và cô không thể không khóc vì anh rất điên. Cô không biết phải làm gì. "Có lẽ cô biết phải làm gì," Sylvia nói. "Bỏ đi? Tôi sẽ đi nếu có thể." Carla bắt đầu kêu khóc một lần nữa. "Tôi sẽ cho bất cứ cái gì để bỏ đi. Tôi không thể. Tôi không có tiền. Tôi không có bất cứ nơi nào trên thế giới này để đi." "Tốt. Suy nghĩ đi. Đó có phải là hoàn toàn đúng không?" Sylvia đưa ra lời cố vấn tốt nhất. "Cô không có cha mẹ sao? Cô có nói cho tôi biết cô lớn lên ở Kingston mà? Cô không có một gia đình ở đó à?" Cha mẹ cô đã chuyển đến British Columbia. Họ ghét Clark. Họ không quan tâm nếu cô sống hay chết. Còn anh chị em? Một người anh lớn hơn chín tuổi. Anh đã lấy vợ và ở Toronto. Anh cũng không quan tâm. Anh không thích Clark. Vợ anh là một người hợm hĩnh. "Cô đã bao giờ nghĩ đến Chổ Nương Thân của Phụ Nữ chưa?" "Họ không muốn tôi đến đó, ngoại trừ khi tôi bị đánh đập. Và tất cả mọi người sẽ tìm ra và nó sẽ có hại cho kinh doanh của chúng tôi." Sylvia mỉm cười dịu dàng. "Đây có phải là lúc để nghĩ về điều đó không?" Sau đó, Carla cười thật. "Tôi biết," cô nói,"Tôi điên." "Nghe đây," Sylvia nói. "Hãy nghe tôi. Nếu cô có tiền để đi, cô sẽ đi không? Cô sẽ đi đâu? Cô sẽ làm gì?" "Tôi sẽ đi Toronto", Carla trả lời khá sẵn sàng. "Nhưng tôi sẽ không đến gần anh của tôi. Tôi sẽ đi đến một nhà trọ hoặc một cái gì đó và tôi sẽ tìm một việc làm trong một chuồng cưỡi ngựa." "Cô nghĩ cô có thể làm điều đó?" "Tôi đang làm việc tại một chuồng cưỡi ngựa mùa hè tôi đã gặp """