"
Tập Truyện Của Ông Ivan Pêtơrôvích Benkin Đã Quá Cố - Alexander Pushkin full prc pdf epub azw3 [Truyện ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập Truyện Của Ông Ivan Pêtơrôvích Benkin Đã Quá Cố - Alexander Pushkin full prc pdf epub azw3 [Truyện ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Lời Nhà Xuất Bản:
Phát Súng:
Bão Tuyết:
Ông Chủ Hiệu Đám Ma:
Người Coi Trạm:
Cô Tiểu Thư Nông Dân:
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Lời Nhà Xuất Bản:
Bà Prôxtakôva
Vâng, thưa ông, ông vẫn thích nghe chuyện
từ khi còn nhỏ. Xkôtinin Mitơrôphan giống tôi.
Vị thành niên(1)
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Sau khi đã quyết định xuất bản "Tập truyện vừa của ông I.P.Benkin" mà chúng tôi mang trình độc giả sau đây, chúng tôi muốn đính thêm vào tập truyện một bản tiểu sử, vắn tắt thôi, của tác giả quá cố để thoả mãn một phần nào trí tò mò chính đáng của các bạn đọc vốn yêu chuộng nền văn học nước nhà. Với mục đích ấy chúng tôi định nhờ đến bà Maria Alếchxêépna Tơraphilina, người có họ gần nhất và cũng là người thừa hưởng gia tài của Ivan Pêtơrôvích Benkin; nhưng tiếc thay, bà không thể cung cấp cho chúng tôi được tài liệu nào, vì bà vốn chưa từng được quen biết người đã quá cố. Bà khuyên chúng tôi rằng vấn đề này thì nên hỏi một tiên sinh đáng kính ngày xưa vốn là bạn của Ivan Pêtơrôvích. Chúng tôi liền theo lời khuyên của bà; được ít lâu thì chúng tôi nhận được thư phúc đáp sau đây, đúng như lòng chúng tôi hằng mong đợi. Chúng tôi xin đăng bức thư vào đây, không dám
thay đổi hay bàn thêm lời nào, vì đây quả là một di tích quý giá của một trí tuệ bạt thiệp là của một tình bạn cảm động, mà đồng thời cũng là một tài liệu tiểu sử rất đầy đủ.
Nhà Xuất bản Cầu Vồng
Mátxcơva 1985
Thưa quý ngài.
Ngày 23 tháng này, chúng tôi đã có hân hạnh tiếp đặng bức thư đề ngày 15 mà ngài đã có nhã ý gởi cho chúng tôi. Trong bức thư quý ngài có tỏ ý muốn có một tài liệu cặn kẽ về ngày sinh và ngày qua đời, về thời gian làm việc nhà nước, về hoàn cảnh gia đình cũng như về công việc và tính tình của ông Ivan Pêtơrôvích Benkin đã quá cố, ngày xưa vốn là bạn cố tri và là người láng giềng ở gần ấp chúng tôi. Chúng tôi hết sức vui lòng được chiều theo ý ngài và xin trình để ngài rõ tất cả những điều mà tôi còn nhớ được qua những câu chuyện của người quá cố cũng như những điều quan sát của bản thân chúng tôi.
Ivan Pêtơrôvích Benkin sinh năm 1798 ở thôn Gôriukhinô trong một gia đình quý phái rất mực. Lúc sinh thời cụ thân sinh ra ông ta là đại uý Piốt Ivanôvích Benkin lập gia đình với bà Pêlaghêia Gavrilốpna dòng dõi nhà Tơraphilin. Cụ không phải là người giàu có, nhưng tính vốn cần kiệm và cụ chăm sóc công việc trong điền trang rất khéo léo. Người con trai của cụ thuở bé được học với một ông thầy trợ lễ trong xứ. Có lẽ nhờ ông thầy trợ lễ đáng kính này mà cậu Ivan Pêtơrôvích có được tính ham đọc sách vở và yêu chuộng việc viết lách tiếng Nga. Năm 1815 Ivan Pêtơrôvích sung vào một trung đoàn bộ binh xạ kích (tôi không nhớ số hiệu của trung đoàn) và tòng ngũ trong đó mãi cho đến năm 1823. Hai cụ thân sinh ông mất chỉ cách nhau mấy ngày, khiến ông buộc lòng phải xin giải ngũ và định cư ở thôn Gôriukhinô, quê hương ông.
Bắt tay vào cai quản điền trang, Ivan Pêtơrôvích vốn thiếu kinh nghiệm, lại có tính hay thương người, nên chẳng bao lâu ông ta đã làm cho công việc trong ấp trại bê trễ và để lơi lỏng cái trật tự chặt chẽ mà cụ thân sinh ông đã thiết lập nên. Ông thay đổi người thôn trưởng cũ, một người cần mẫn và đắc lực mà nông dân của ông không bằng lòng (thói họ vẫn thế), rồi giao việc quản lý thôn ấp cho bà quản gia già, được ông rất mực tin cẩn nhờ tài kể chuyện đời xưa. Bà già này có tính lú lẫn không bao giờ phân biệt nổi một tờ giấy bạc hai mươi lăm rúp với tờ năm mươi rúp; nông dân trong làng đều là chỗ thân bằng cố hữu với bà ta, thành thử chả sợ bà tí nào cả; họ bầu nên một viên thôn trưởng mới, lão này dung túng họ và về hùa với họ để lừa dối chủ, đến nỗi Ivan Pêtơrôvích buộc lòng phải bãi bỏ lao dịch, chỉ thu một số địa tô rất nhỏ. Ấy thế mà nông dân vẫn lợi dụng nhược điểm của ông, năm đầu họ nài xin ông một khoản chiếu cố vớ vẩn, rồi đến năm sau hơn hai phần ba số tô họ trả bằng hạt dẻ, bằng quả việt quất và những thứ tương tự như thế; đã vậy lại còn thất thu nữa.
Vốn là chổ bạn bè với cụ cố thân sinh ra Ivan Pêtơrôvích, tôi tự thấy có bổn phận phải góp ý khuyên can ông ta và đã nhiều lần ngỏ ý tự đứng ra khôi phục lại cái trật tự cũ mà ông ta đã để cho suy vi. Với mục đích đó, có lần tôi đã đến nhà ông đòi đưa các sổ sách ra, gọi tên thôn trưởng ăn cắp ấy tới, và trước mặt Ivan Pêtơrôvích tôi liền bắt tay vào xem xét các sổ sách. Vị chủ nhân trẻ tuổi lúc đầu hết sức chăm chú theo dõi tôi; nhưng tính toán một lúc thấy rằng trong hai năm gần đây số nông dân tăng lên gấp bội, số gà vịt và bò ngựa lại hao hụt trông thấy, thì Ivan Pêtơrôvích đã lấy làm thoả mãn với những số lượng đầu tiên ấy và không chịu nghe tôi nói nữa, ngay vào cái lúc mà tôi đã bằng những tìm tòi và những câu hỏi vặn nghiêm khắc của mình làm cho viên thôn trưởng ăn cắp kia hết sức lúng túng không biết đằng nào mà chối cãi nữa, tôi bực bội biết bao khi nghe thấy Ivan Pêtơrôvích ngồi trên ghế mà ngáy to như sấm. Từ đó tôi không can thiệp vào công việc quản lý điền trang của ông ta nữa và (cũng như bản thân ông ta) phó mặc công việc nhà ông cho Thượng đế.
Song le việc trên đây không hề có phương hại gì đến mối quan hệ giữa hai chúng tôi; vì trong khi tôi lấy làm buồn về cái tính nhu nhược và cái thói cẩu thả vô tư thường thấy trong đám thanh niên quý tộc ở nước ta, tôi vẫn thành thật quý mến Ivan Pêtơrôvích; vả lại không thể nào không quý mến một người trẻ tuổi hiền lành và trung hậu như vậy. Về phần mình, Ivan Pêtơrôvích cũng kính nể tuổi tác của tôi và có lòng quyến luyến tôi rất mực. Mãi cho đến cuối đời hầu như là ngày nào ông cũng gặp tôi, thích nghe những lời trò chuyện thô thiển của tôi, mặc dù Ivan Pêtơrôvích với tôi không có gì giống nhau cho lắm về tính tình, tập quán, hay nếp suy nghĩ.
Ivan Pêtơrôvích sống một cuộc sống rất điều độ, tránh mọi sự thái quá; chưa bao giờ tôi thấy ông ngà ngà hơi rượu (ở như địa phương chúng tôi thì điều này có thể xem là một điều kỳ diệu phi thường); đối với nữ giới thì ông ta cũng rất có cảm tình đấy, nhưng bản tính ông ta lại rụt rè, bẽn lẽn như con gái°.
Ngoài những truyện vừa mà ngài có lòng biết đến trong bức thư, Ivan Pêtơrôvích còn để lại nhiều bản thảo viết tay. Một phần các bản thảo đó thì tôi giữ, còn một phần thì được bà quản gia đem sử dụng vào những công việc nội trợ. Chẳng hạn mùa đông năm ngoái tất cả các cửa sổ ở đầu hồi nhà bà ta ở đều được dán bằng phần đầu một cuốn tiểu thuyết mà Ivan Pêtơrôvích viết dở. Những truyện vừa nói trên hình như là thí nghiệm đầu tiên của ông về mặt văn chương. Theo Ivan Pêtơrôvích nói, thì phần lớn những truyện đó đều là những truyện có thật mà ông đã nghe nhiều nhân vật khác nhau kể lại°°. Song hầu hết các tên họ trong truyện đều là do ông đặt bày ra, còn tên các làng các xã thì mượn ở vùng quê chúng tôi, cho nên tên làng tôi cũng có lần được nhắc đến. Sở dĩ như vậy không phải vì Ivan Pêtơrôvích có ác ý gì, mà chỉ vì ông thiếu óc tưởng tượng đó thôi.
Mùa thu năm 1828 Ivan Pêtơrôvích bị cảm hàn, lên cơn sốt nặng và từ trần, mặc dù ông thầy thuốc ở huyện chúng tôi đã cố gắng tận tình vẫn không
sao cứu khỏi. Ông thầy thuốc này là một người chữa bệnh rất giỏi, nhất là các bệnh kinh niên như thể bị lên chai vân vân. Ivan Pêtơrôvích tắt nghỉ trên tay tôi, hưởng thọ ba mươi tuổi và được chôn cất ở nhà thờ làng Gôriukhinô bên cạnh ngôi mộ hai cụ thân sinh của ông.
Sinh thời Ivan Pêtơrôvích là người tầm thước, mắt màu xám, tóc vàng sẫm, mũi thẳng, da mặt trắng, khuôn mặt hơi gầy.
Thưa tiên sinh, đó là tất cả những gì mà tôi còn nhớ lại được về nếp sống, công việc, tính tình và dung mạo của người láng giềng và người bạn đã quá cố của tôi. Nhưng nếu ngài thấy cần sử dụng bức thư của chúng tôi vào một công việc nào đó thì tôi thiết tha cúi xin ngài miễn nhắc đến tên tôi; bởi vì mặc dù tôi rất kính trọng và quý mến các nhà viết văn, nhưng tôi thấy mình không cần thiết phải mang danh hiệu đó, vả chăng tuổi tác như tôi mà làm như vậy thì e khiếm nhã.
Tôi xin có lời trân trọng v.v...
Ngày 16 tháng 11 năm 1830
Thôn Nhênarađôvô
Chúng tôi thấy có bổn phận tôn trọng ý nguyện của người bạn đáng kính của tác giả và xin gởi đến quý tiên sinh lòng biết ơn sâu sắc của chúng tôi về những tài liệu mà chúng tôi đã được cung cấp, và hy vọng rằng công chúng độc giả sẽ quý trọng tấm lòng chân thành và thiện ý của quý tiên sinh.
A.P.
°Tiếp theo là một mẩu chuyện mà chúng tôi xin miễn đăng vào đây vì trộm nghĩ là không cần thiết; song le, chúng tôi cũng xin quả quyết thưa với độc giả rằng mẩu chuyện đó không hề có gì phương hại đến hương hồn Ivan Pêtơrôvích Benkin (Lời chú thích của A.X.Puskin).
°°Quả thật là trong bản viết tay của ông Benkin cứ trên mỗi câu truyện như vậy lại thấy có dòng chữ của tác giả viết: chuyện này tôi nghe một cá nhân nào đó (chức tước hay cấp bậc kèm theo chữ đầu tên họ) kể lại. Chúng tôi xin ghi lại đây để các độc giả hiếu kỳ tham khảo: "Người coi trạm" là do viên quan cửu phẩm A.G.N. kể lại; truyện "Phát súng" là do trung tá I.L.P. kể lại; "Người chủ hiệu đám ma" là do ông quản lý cửa hàng B.V. kể lại, truyện "Bão tuyết" và "Cô tiểu thư" là do cô C.I.T. kể lại (Lời chú của A.X.Puskin).
PHỤ LỤC
Tập truyện vừa của Ivan Pêtơrôvích Benkin đã quá cố được Puskin viết vào mùa thu năm 1830 tại Bônđinô. Thứ tự hoàn thành từng truyện như sau: “Ông chủ hiệu đám ma” viết xong ngày 9 tháng Chín, "Người coi trạm" – 14 tháng Chín, "Cô tiểu thư nông thôn" – 20 tháng Chín, "Phát súng" – 14 tháng Mười, "Bão tuyết" – 20 tháng Mười, Công việc viết lời mở đầu liên kết các truyện vào một chuỗi thống nhất và liên quan với người mà tác giả bịa đặt ra – Benkin, bắt đầu ngay từ mùa thu 1829, khi Puskin phác thảo bức thư của viên địa chủ... gửi cho nhà xuất bản (tác giả tương lai của “các truyện” ở đây mang tên là Piốt Ivanôvích Đ.).
Lần đầu tiên tác phẩm này của Puskin in ở Pêterburg tháng Mười năm 1830 dưới nhan đề “Tập truyện vừa của Ivan Pêtơrôvích Benkin đã quá cố", do A.P. xuất bản".
Chú thích:
(1) Đề từ trích trong vở hài kịch "Vị thành niên" (1782) của nhà văn viết kịch Nga Đ. I. Phônvidin (1745-1792).
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Phát Súng:
Chúng tôi đọ súng
Baratưnxki(1)
Tôi thề sẽ bắn hắn theo đúng luật lệ quyết đấu
(một phát súng của tôi đang dành cho hắn).
Một buổi chiều tối ở doanh trại lộ thiên(2)
I
Chúng tôi đóng quân ở thị trấn X. Sinh hoạt của một sỹ quan trong quân đội thì chẳng còn ai lạ gì nữa. Buổi sáng thao diễn, tập ngựa; trưa ăn ở nhà trung đoàn trưởng hay ở quán rượu của một người Do Thái; chiều tối uống rượu và đánh bài. Ở X. không có một nhà nào mở rộng cửa, chẳng có một cô gái nào đáng để ý. Chúng tôi tụ tập ở nhà nhau, hết nhà này lại sang nhà khác; nơi đây, ngoài những bộ quân phục ra, không còn thấy gì khác nữa.
Trong chúng tôi, chỉ có một người không phải con nhà lính. Y trạc độ ba mươi lăm tuổi, vì thế mà được chúng tôi xem như một ông già. Sự từng trải đã khiến cho y có nhiều ưu thế hơn lũ chúng tôi. Hơn nữa, cái sắc thái đăm chiêu hàng ngày, cái tính tình khe khắt và lối ăn nói độc địa của y có ảnh
hưởng rất mạnh tới đầu óc non trẻ của chúng tôi. Có một cái gì bí ẩn bao phủ lên cuộc đời của y. Y có vẻ là một người Nga, nhưng lại mang một cái tên phản quốc. Ngày trước y phục vụ trong kỵ binh và được xem như là một con người tốt số. Không ai biết nguyên nhân gì đã khiến y xin giải ngũ và đến trú ngụ ở cái thị trấn khốn khổ này; ở đây y sống một cuộc đời vừa nghèo nàn vừa xa xỉ. Y luôn luôn đi bộ, mặc một chiếc áo dài đen đã cũ, nhưng lại sẵn lòng thết đãi rộng rãi tất cả các sỹ quan trong trung đoàn chúng tôi. Thật ra thì bữa ăn ở nhà y thường chỉ là hai hay ba món, do một anh lính về hưu nấu, nhưng rượu sâm-banh thì cứ tha hồ rót như nước sông. Không ai biết gì về tài sản và nguồn thu nhập của anh, nhưng cũng chẳng ai dám hỏi y về những điều ấy. Y có nhiều sách, phần lớn là những sách nói về quân sự và tiểu thuyết nữa. Y vui lòng cho người ta mượn đọc và không bao giờ đòi về, nhưng những sách y mượn của người ta thì y cũng chẳng bao giờ trả lại. Công việc chính của y là tập bắn súng lục. Các bức tường trong phòng y chi chít những lỗ đạn bắn trông như tổ ong. Xa xỉ phẩm duy nhất trong gian nhà nghèo nàn của y là bộ sưu tập rất phong phú những khẩu súng lục. Nghệ thuật bắn súng của y đạt tới mức kỳ diệu, đến nỗi nếu y tỏ ý muốn bắn một quả lê đặt trên mũ cát-két của một kẻ nào đó, thì bất cứ ai trong chúng tôi cũng sẵn sàng đưa đầu ra cho y, không một chút e ngại. Chuyện trò của chúng tôi thường đả động đến những trận quyết đấu. Xinviô (đó là tên của y) không bao giờ xen vào những chuyện ấy. Nếu hỏi y đã có lần nào quyết đấu với ai chưa, thì y trả lời gọn lỏn là có, nhưng không bao giờ đi vào chi tiết, những chuyện ấy hình như làm cho y khó chịu. Chúng tôi đoán rằng trong lương tâm y chắc đã in một hình ảnh một nạn nhân bất hạnh nào đó của tài nghệ bắn súng kinh khủng ấy. Vả lại không một ai có thể nghi ngờ chút nào rằng y là một người nhát gan. Có những kẻ chỉ nhìn bề ngoài thôi cũng đủ khiến cho người ta không thể nào nghi ngờ như thế được. Một biến cố bất ngờ xảy ra khiến cho tất cả chúng tôi đều phải kinh ngạc.
Một hôm, khoảng chừng mười người trong số sỹ quan chúng tôi ăn trưa ở nhà Xinviô. Chúng tôi uống rượu như thường lệ, nghĩa là uống rất nhiều. Sau
bữa ăn, chúng tôi yêu cầu chủ nhân cầm cái một canh bài. Y từ chối rất lâu, vì hầu như y không hề đánh bài bao giờ cả. Nhưng cuối cùng, y cũng bảo đem bài ra, ném lên bài năm mươi rúp và ngồi xuống chia bài. Chúng tôi xúm lại quanh y và canh bạc bắt đầu. Trong lúc đánh bài, Xinviô có một thói quen là hoàn toàn im lặng, không bao giờ cãi cọ, phàn nàn gì hết. Có một nhà con nào tính nhầm, nếu thiếu thì y sẽ chung thêm vào ngay cho đủ, nếu thừa thì y ghi ngay vào đó. Chúng tôi vốn đã quen với điều ấy, nên cứ để mặc y, chẳng ai cản trở gì. Nhưng trong chúng tôi có một sỹ quan mới thuyên chuyển đến đơn vị. Hắn cũng đánh bài và vô ý gắp thừa một góc(3), Xinviô theo thường lại cầm viên phấn ghi số tiền lại cho cân. Viên sỹ quan tưởng rằng y nhầm, bèn lên tiếng phân trần. Xinviô vẫn im lặng cầm cái. Viên sỹ quan không nén nỗi bực tức, bèn lấy bàn chải xoá những chữ ghi mà hắn cho là không đúng. Xinviô thản nhiên lấy phấn ghi lại lần nữa. Viên sỹ quan hăng tiết lên vì hơi rượu, vì canh bạc, vì tiếng cười của các bạn, cho rằng như thế là mình bị xúc phạm cay chua phát khùng lên, vơ lấy cái chân đèn bằng đồng trên bàn, ném vụt vào mặt Xinviô, may mà y nghiêng đầu tránh kịp. Chúng tôi lo lắng, Xinviô đứng dậy, tái mặt đi vì tức giận, mắt nảy lửa, y bảo: "Thưa ngài, mời ngài đi ra, và ngài hãy tạ ơn Chúa rằng việc này đã xảy ra ở đây, trong nhà tôi".
Chúng tôi không còn nghi ngờ gì về hậu quả của việc này và đã xem người bạn mới của chúng tôi như một người chết rồi. Viên sỹ quan đi ra và nói rằng vì sự xúc phạm ấy y sẵn sàng đáp ứng lại ý muốn của chủ nhân cầm cái. Canh bài vẫn tiếp tục thêm mấy phút. Nhưng cảm thấy chủ nhân không còn tâm trí để đánh bài nữa, chúng tôi bèn lần lượt rút lui về nhà mình, vừa đi vừa bàn bạc về chỗ của viên sỹ quan sắp bị khuyết.
Hôm sau trong buổi tập ngựa, chúng tôi đang hỏi nhau xem viên trung uý ấy còn sống không thì thấy hắn dẫn xác đến. Chúng tôi bèn hỏi. Hắn trả lời rằng không nhận được tin tức gì của Xinviô cả. Chúng tôi rất ngạc nhiên, bèn kéo đến nhà Xinviô, thì thấy y đang đứng trong sân, từng phát một, bắn rất
tin vào con bài át dán ở cổng. Y tiếp chúng tôi như thường lệ, và không có lấy một lời nào đả động đến việc xảy ra hôm qua. Ba ngày sau, viên trung uý vẫn cứ sống. Chúng tôi ngạc nhiên đánh dấu hỏi: chả nhẽ Xinviô lại không quyết đấu ư? Xinviô đã không quyết đấu thật. Y bằng lòng nhận một lời xin lỗi rất qua loa và giải hoà.
Việc này đã làm tổn thương rất lớn đến uy tín của y trước bọn trẻ chúng tôi. Đối với thanh niên thì điều khó tha thứ nhất là sự thiếu can đảm, chúng tôi cho rằng lòng can đảm là phẩm chất tối cao của con người và nó có thể xoá nhoà được tất cả mọi điều xấu xa. Nhưng dần dần rồi người ta cũng quên hết và Xinviô lại được nể vì như cũ.
Riêng chỉ có tôi không thể gần gũi y được nữa. Tôi bẩm sinh có một trí tưởng tượng lãng mạng; trước đó tôi lại kẻ gắn bó hơn ai hết đối với cái con người mà cuộc đời có một cái gì bí ẩn, một người mà tôi có cảm tưởng là nhân vật chính của một thiên tiểu thuyết huyền bí nào đó. Y cũng mến tôi; ít nhất là đối với tôi, y cũng bỏ lối nói độc địa thường ngày và chuyện trò hồn nhiên đủ thứ, nghe hết sức thú vị. Nhưng từ sau cái buổi tối tai hai ấy, ý nghĩ rằng danh dự của y đã bị một vết nhơ, mà y lại đành lòng bỏ qua, không chịu rửa sạch, ý nghĩ ấy cứ ám ảnh tôi, khiến tôi không thể đối xử với y như trước được. Tôi thấy xấu hổ khi nhìn y. Xinviô cũng thừa trí thông minh và kinh nghiệm để nhận thấy điều đó và đoán biết nguyên nhân. Hình như điều ấy cũng khiến cho y khổ tâm. Ít nhất thì đã hai lần, tôi thấy y có ý định muốn phân trần với tôi. Nhưng tôi tránh những trường hợp ấy; rồi Xinviô cũng tránh mặt tôi. Từ đó tôi chỉ còn gặp y những khi cùng có mặt các bạn khác, và những chuyện trò cởi mở thành thật trước kia chấm dứt hẳn.
Những kẻ sống bận rộn ở thủ đô không thể hiểu được những xúc cảm rất quen thuộc của dân ở nông thôn hay ở tỉnh lẻ như nỗi mong chờ ngày phát thư chẳng hạn. Ngày thứ ba và ngày thứ sáu, văn phòng trung đoàn chúng tôi chật ních những sỹ quan: kẻ thì đợi nhận tiền bạc, kẻ thì thư, kẻ thì báo chí.
Các bưu kiện thường được mở ngay tại chỗ, những tin tức nhận được đem ra kháo với nhau, và trong văn phòng bày ra một cảnh rất náo nhiệt. Xinviô nhận thư theo địa chỉ của trung đoàn tôi và theo lệ thường vẫn có mặt ở đó. Một hôm vừa nhận được một bức thư, y vội vã bóc niêm với một vẻ sốt ruột lạ lùng. Đọc lướt qua bức thư, mắt y sáng lên long lanh. Các sỹ quan đều bận lo thư từ của mình, chẳng ai để ý. "Thưa các ngài, - Xinviô nói, - hoàn cảnh bắt buộc tôi phải rời khỏi nơi này, không trì hoãn được, tôi đi ngay đêm nay; mong rằng các ngài không từ chối một bữa ăn cuối cùng ở nhà tôi. Tôi chờ đón anh, - y quay sang tôi nói tiếp, - thế nào cũng đến nhé!" Dứt lời, y vội vã đi ngay. Chúng tôi thoả thuận với nhau là sẽ đến tụ tập ở nhà Xinviô, rồi tản mát.
Tôi đến nhà Xinviô đúng giờ đã hẹn và gặp hầu hết các sỹ quan trong trung đoàn của tôi ở đó. Tất cả đồ đạc của y đã gói ghém lại, chỉ còn trơ những bức vách trần trụi lỗ chỗ vết đạn. Chúng tôi ngồi vào bàn; chủ nhân vui vẻ lạ thường, chẳng mấy chốc niềm vui của y lây ra thành niềm vui chung. Nút chai nổ liên tiếp, cốc sủi bọt lách tách không ngừng và chúng tôi đem hết nhiệt tình chúc kẻ lên đường mạnh khoẻ, gặp mọi điều may mắn. Mãn tiệc thì đã nhá nhem tối. Mọi người cầm lấy mũ của mình, Xinviô từ giã khách, nắm lấy tay tôi và giữ lại, chính vào giữa lúc tôi sắp sửa ra về. "Tôi cần phải nói chuyện với anh", - y khẽ bảo tôi. Tôi ở lại.
Khách đã về hết; chỉ còn lại hai người chúng tôi ngồi đối diện nhau, đốt tẩu thuốc, im lặng. Xinviô vẻ mặt tư lự, không còn dấu vết nào của cơn vui bồng bột lúc nảy. Sắc mặt tái xanh, u sầu, cặp mắt sáng long lanh, từ miệng y toả lên làn khói thuốc dày đặc, trông y như quỷ hiện hình vậy. Mấy phút trôi qua và Xinviô phá vỡ sự yên lặng.
- Có thể không bao giờ chúng ta gặp lại nhau nữa, - y nói với tôi, - trước khi chia tay tôi muốn giãi bày với anh một điều. Chắc anh cũng thấy rằng tôi vốn ít quan tâm đến dư luận kẻ khác, nhưng tôi mến anh và cảm thấy rằng tôi
sẽ khổ tâm nếu phải để lại trong anh một ấn tượng thật bất công.
Y ngừng nói, nhét một nhúm thuốc nữa vào tẩu. Tôi im lặng, mắt nhìn xuống đất. Xinviô nói tiếp:
- Anh hẳn lấy làm lạ là tôi đã không bắt tên R. điên say rượu kia đền tội. Anh cũng biết rõ rằng tôi có quyền chọn vũ khí; tính mệnh của hắn đã nằm trong tay tôi, còn về phần tôi, hầu như là không có gì nguy hiểm: tôi có thể quy cho thái độ ôn hoà của tôi như sự thể tất của lượng khoan hồng, nhưng tôi không muốn nói dối. Giá tôi có thể trừng phạt R. và hoàn toàn không có chút nào nguy hiểm đến tính mệnh mình, thì nhất định tôi đã không tha.
Tôi kinh ngạc nhìn Xinviô. Lời thú nhận ấy khiến tôi hết sức bối rối. Xinviô tiếp:
- Đúng như thế, tôi không có quyền mạo hiểm trước cái chết. Sáu năm trước đây tôi đã bị một cái tát, và kẻ thù của tôi vẫn đang sống.
Óc hiếu kỳ kích thích tôi mãnh liệt.
- Anh không quyết đấu với hắn à? - tôi hỏi. - Chắc là hoàn cảnh đã khiến anh với hắn xa nhau phải không?
- Tôi đã quyết đấu với hắn, - Xinviô đáp, - và đây là kỷ niệm của cuộc quyết đấu ấy.
Xinviô rút từ trong hộp giấy ra một cái mũ vải đỏ có tua vàng và có đính lon (thứ mũ mà người Pháp vẫn gọi là bonet de police°); y chụp lên đầu: cái mũ bị một vết đạn xuyên qua phía trên cách trán khoảng độ hơn bốn xăng-ti mét. Xinviô tiếp: - Anh cũng biết rằng trước kia tôi đã tòng ngũ trong một
trung đoàn kỵ binh. Tính tôi anh cũng không lạ gì: tôi có thói cứ muốn hơn thiên hạ, lúc còn trẻ đối với tôi đó cũng là một ham mê không sao cưỡng nổi. Thời chúng tôi thì ngổ ngáo là một cái mốt: tôi là tay ngổ nhất trong đơn vị.
Chúng tôi tự hào với những cơn say rượu: tôi uống rượu còn hơn cá Burtxốp(4) lừng danh, kẻ mà Đênix Đavưđốp(5) đã từng ca ngợi. Các trận quyết đấu luôn luôn xảy ra trong đơn vị: nếu không là đấu thủ thì tôi cũng là người làm chứng, không bao giờ thiếu mặt. Các bạn hữu sùng bái tôi và các viên chỉ huy của tôi (họ luôn luôn bị đổi đi nơi khác) xem tôi như là một tai ách không thể tránh khỏi.
Tôi đang thoải mái (hoặc quay cuồng) tận hưởng vinh quang của mình, thì cấp trên chuyển đến đơn vị chúng tôi một người (tôi không muốn nói tên) trẻ tuổi, giàu có và một thuộc dòng dõi danh gia thế phiệt. Thật trong đời tôi chưa gặp một kẻ nào tốt số và hào hoa đến thế! Anh hãy tưởng tượng xem: trẻ tuổi, thông minh, đẹp trai, vui tính đến điên cuồng, dũng cảm một cách vô tư, con nhà tiếng tăm lừng lẫy, tiền bạc thì hắn không bao giờ đếm mà cũng không bao giờ cạn. Anh thử nghĩ xem ấn tượng của hắn gây ra trong chúng tôi mạnh mẽ đến nhường nào. Ưu thế của tôi bị lung lay. Cảm phục tiếng tăm của tôi, hắn tìm đến kết giao; nhưng tôi tiếp hắn một cách lạnh nhạt và hắn cũng lánh xa tôi không mảy may tiếc rẻ. Tôi đâm ra thù ghét hắn. Lòng ái mộ của trung đoàn và giới phụ nữ đối với hắn đã khiến cho tôi hết sức cay cú. Tôi bèn tìm cách gây sự. Những câu châm chọc của tôi được hắn đáp lại bằng những lời lẽ mà bao giờ tôi cũng thấy là bất ngờ, sắc cạnh và nhất định là dí dỏm hơn của tôi. Hắn thì giễu cợt còn tôi thì cáu kỉnh. Thế rồi một hôm trong buổi khiêu vũ ở nhà một người điền chủ Ba Lan, thấy hắn được tất cả giới phụ nữ chú ý, nhất là nữ chủ nhân, vốn là nhân tình của tôi, tôi liền bỏ nhỏ vào tai hắn một câu sống sượng và lỗ mãng. Hắn phát khùng lên, nện cho tôi một cái tát. Chúng tôi vồ lấy gươm. Các cô, các bà sợ hãi ngất đi. Người ta can chúng tôi ra và ngay đêm ấy chúng tôi hẹn quyết đấu.
Trời vừa hửng sáng. Tôi đã đứng ở chỗ hẹn với ba nguời làm chứng. Tôi hết sức sốt ruột chờ địch thủ đến. Mặt trời lên, nắng xuân toả ấm. Tôi nhìn thấy hắn từ đằng xa. Hắn đi bộ, mặc quân phục, có đeo gươm, kèm theo một người làm chứng. Chúng tôi tiến đến gặp hắn. Hắn tới gần, tay cầm một chiếc
mũ lưỡi trai đựng đầy những quả anh đào. Những người làm chứng đo hai mươi bước làm cự ly giữa chúng tôi. Lẽ ra tôi bắn trước, nhưng làn sóng căm giận trong tôi mãnh liệt đến nỗi tôi không còn tin ở mức chính xác của bàn tay mình nữa và để có thì giờ để trấn tĩnh, tôi nhường hắn bắn trước; đối thủ của tôi không chịu. Chúng tôi bèn bắt thăm, hắn rút được số thứ nhất: xưa nay hắn vẫn là đứa tốt số. Hắn đưa súng lên và bắn trệch. Viên đạn xuyên qua mũ của tôi. Đến lượt tôi bắn. Thế là sinh mệnh của hắn nằm gọn trong tay tôi. Tôi hau háu nhìn hắn, cố tìm cho ra bóng dáng của một nỗi lo âu... Hắn đứng trước mũi súng, chọn trong mũ những quả anh đào chín, ăn và phun hạt ra, hạt bắn tới tận chân tôi. Sự bình thản của hắn khiến tôi tức đến phát điên lên. Tôi thầm nghĩ: tước sinh mệnh của hắn có lợi gì cho tôi, một khi mà chính hắn cũng chẳng tha thiết gì với cái sinh mệnh ấy? Một ý nghĩ độc ác thoáng hiện ra trong óc tôi; tôi hạ súng xuống bảo hắn: "Tôi thấy ngài như đang nghĩ về cái chết, mời ngài cứ về ăn sáng. Tôi không muốn làm phiền ngài". - "Không, ngài có làm phiền tôi tí nào đâu, - hắn đáp, - mời ngài cứ bắn, vả lại ngài muốn thế nào cũng được, phát súng của ngài tuỳ ngài sử dụng. Và tôi luôn luôn sẵn sàng chiều ý ngài". Tôi quay lại những người làm chứng, phân trần rằng giờ đây tôi chưa muốn bắn và cuộc quyết đấu kết thúc.
Tôi xin giải ngũ và lánh về chốn này. Từ đó đến nay, không ngày nào tôi không nghĩ đến việc báo oán. Giờ phút phục thù hôm nay đã đến...
Xinviô rút trong túi bức thư vừa nhận được sáng nay và đưa cho tôi xem. Một kẻ nào đó (hình như là một người đại diện của y) ở Mátxcơva viết thư về cho y viết rằng có một nhân vật cụ thể sắp thành hôn với một thiếu nữ trẻ và xinh đẹp.
- Anh cũng đoán được, - Xinviô nói, - nhân vật cụ thể đó là ai rồi? Tôi đi Mátxcơva đây. Thử xem trước ngày cưới, hắn có đón cái chết một cách dửng dưng như hắn đã đón thuở ấy với những quả anh đào nữa không!
Dứt lời, Xinviô đứng dậy, ném phịch cái mũ xuống sàn rồi đi đi lại lại
trong phòng giống như một con hổ trong chuồng. Tôi ngồi yên nghe Xinviô lòng hồi hộp vì những cảm giác kỳ dị và trái ngược.
Người hầu vào báo là ngựa đã sẵn sàng. Xinviô xiết chặt tay tôi. Chúng ta ôm hôn nhau. Y ngồi lên xe. Trên xe đã chất hai chiếc va-li, một chiếc đựng những khẩu súng lục và một chiếc đựng đồ đạc của y. Chúng tôi từ biệt nhau một lần nữa và chiếc xe ngựa phóng đi.
II
Mấy năm trôi qua, và công việc nhà bắt buộc tôi phải dọn về ở tại một trại ấp khốn khổ thuộc huyện N. Trong khi chăm lo công việc gia đình, tôi vẫn không khỏi âm thầm luyến tiếc quãng đời ồn ào vô tư trước kia. Tôi khổ nhất là phải lủi thủi một mình một bóng vào những buổi tối mùa thu và mùa đông buồn tẻ. Trước bữa ăn trưa, tôi còn có thể giết thì giờ bằng cách này hay cách khác: nói chuyện với viên thôn trưởng, đi xem người làm, đáo qua những bộ phận mới xây dựng; nhưng khi bóng tối trùm xuống thì tôi thật không biết làm gì nữa. Số sách ít ỏi tìm được dưới tủ và trong kho thì tôi đã thuộc lòng như cháo. Tất cả những chuyện mà mụ quản gia Kirilốpna có thể nhớ được thì mụ đã kể đi kể lại cho tôi nghe mãi. Những bài ca của các cô thôn nữ chỉ làm cho tôi thêm buồn. Tôi định uống rượu, nhưng uống rượu thì nhức đầu. Nhưng cũng xin thú thật rằng tôi cũng sợ phải biến thành một tay uống rượu giải sầu hay một con ma men như người ta vẫn thường thấy khá nhiều ở trong huyện tôi. Tôi cũng chẳng có bạn láng giềng nào gần gũi, trừ hai hoặc ba con ma men mà câu chuyện chung quy phần lớn chỉ là tiếng nấc và tiếng thở dài. Thà cô đơn còn hơn.
Cách nhà tôi bốn véc-xta là trại ấp giàu có của nữ bá tước B., nhưng chỉ có mình viên quản lý ở đó, còn nữ bá tước chỉ về thăm trang trại một lần vào năm bà mới lấy chồng và ở lại đó chừng một tháng. Nhưng mùa sang xuân thứ hai trong cuộc đời ẩn vật của tôi thì tôi nghe nói rằng đến mùa hè, nữ bá tước và ông chồng sẽ về trại ấp. Quả nhiên sang đầu tháng Sáu thì họ về.
Việc một kẻ láng giềng giàu có về làng đối với dân ở thôn quê là một biến cố quan trọng. Các nhà địa chủ và gia thuộc của họ bàn luận về việc ấy từ hai tháng trước và cho đến ba năm sau vẫn còn nhắc lại. Về phần tôi, thú thật rằng cái tin có một người phụ nữ láng giềng trẻ đẹp về quê đối với tôi có một tác động rất mạnh. Tôi nóng lòng sốt ruột muốn được gặp mặt, và vì thế ngay chủ nhật đầu tiên, sau khi họ về, xong bữa ăn trưa là tôi đi ngay đến ấp trại để xin báo với các vị ấy rằng tôi là một kẻ láng giềng gần gũi và một kẻ nô bộc trung thành xin ra mắt.
Người hầu đưa thư vào phòng khách của bá tước và đi báo tin. Gian phòng rộng rãi, trang hoàng cực kỳ sang trọng. Dọc tường dựng những tủ đựng đầy sách; trên mỗi tủ có một pho tượng bán thân bằng đồng; phía trên cái lò sưởi bằng cẩm thạch treo một tấm gương soi lớn, sàn phủ nệm xanh, trên nệm có trải thảm. Ở trong cái xó xỉnh nghèo nàn này, đã lâu tôi không nhìn thấy những cảnh giàu có và không còn quen với những cái sang trọng, cho nên tôi bỗng đâm ra rụt rè và đợi bá tước với vẻ nhút nhát sợ sệt, giống như một người ở tỉnh lẻ có được cầu xin phải lên kinh đô đang chờ đợi một vị thượng thư. Cửa mở, và một người đàn ông trạc ba mươi hai tuổi, dung mạo khôi ngô bước vào. Bá tước tiến lại gần tôi, vẻ niềm nở và thân mật. Tôi cố gắng trấn tĩnh và đã toan tự giới thiệu, thì bá tước đã đỡ lời. Chúng tôi cùng ngồi. Lối chuyện trò thoải mái và khả ái của bá tước chẳng mấy chốc đã đánh tan được sự rụt rè vụng dại của tôi. Tôi vừa trở lại bình tĩnh tự nhiên, thì bỗng bá tước phu nhân bước vào và tôi lại đâm ra bối rối hơn trước bội phần. Qủa thực phu nhân là một trang tuyệt sắc. Bá tước giới thiệu tôi với vợ; tôi muốn làm ra vẻ tự nhiên, nhưng càng cố giữ cho mình tự nhiên bao nhiêu, tôi càng cảm thấy mình vụng về bấy nhiêu. Muốn để tôi đủ thì giờ trấn tĩnh và quen dần với buổi gặp mặt ban đầu mới mẻ, họ bèn quay lại nói chuyện với nhau, xử sự cùng tôi như với một bạn láng giềng tốt, không khách sáo câu nệ. Trong khi đó, tôi bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, ngắm nghía các quyển sách và các bức tranh. Về hội hoạ, tôi không phải là tay sành sỏi, nhưng có một
bức tranh đã khiến tôi chú ý. Bức tranh vẽ một phong cảnh nào đó ở Thụy Sĩ. Nhưng cái khiến tôi chú ý không phải là những nét vẽ mà lại là một điều khác: bức tranh đã bị hai viên đạn bắn chồng lên nhau.
- Thật là một phát súng tài tình! - tôi nói to và quay lại phía bá tước.
- Vâng, - bá tước đáp, - thật là một phát súng tuyệt diệu! - Và nói tiếp: - Ông bạn bắn giỏi chứ?
- Cũng không đến nỗi kém! - Tôi đáp, và sung sướng vì thấy câu chuyện rốt cuộc đã động chạm đến một vấn đề tôi rất quen thuộc. - Cách ba mươi bước, tôi không bắn trệch một con bài, tất nhiên là với một khẩu súng đã quen tay!
- Thật không? - Nữ bá tước hỏi vẻ mặt rất chăm chú. - Còn anh, anh bạn của em, cách ba mươi bước anh có bắn trúng được một con bài không?
- Hôm nào chúng ta thử xem, - bá tước trả lời, - trước kia tôi bắn cũng khá, nhưng đã bốn năm rồi, tay tôi không còn cầm đến súng.
- Ồ, - tôi nhấn mạnh, - nếu vậy thì tôi cam đoan rằng cách hai mươi bước thì ngài cũng chẳng bắn trúng được một con bài: với súng lục phải tập luyện hàng ngày kia đấy. Về điều này, tôi đã có kinh nghiệm. Trong trung đoàn chúng tôi thì tôi được xếp vào hàng những tay bắn cừ nhất. Nhưng có lần trọn một tháng tôi không cầm đến súng, vì súng tôi đem đi chữa, đến hôm tôi tập lại, ngài đoán thử xem sự thể như thế nào? Lần đầu tôi bắn trệch bốn phát liền một cái chai để cách có hai mươi lăm bước. Trong đơn vị chúng tôi có một đại uý kỵ binh hóm hỉnh, hay bông đùa. Hôm ấy y tình cờ có mặt ở đấy và bảo tôi: "Này ông bạn, tôi thấy hình như tay bạn kiêng nể cái chai lắm thì phải!" Không nên, thưa ngài, thật không nên lơ là tập luyện, nếu không, thế nào cũng ngượng tay. Tôi đã được gặp một tay thiện xạ cừ khôi; y tập bắn hàng ngày, ít nhất là ba phát trước mỗi bữa ăn. Đối với y thì bắn súng cũng
thành lệ như uống hớp rượu lót dạ vậy.
Bá tước và phu nhân rất hài lòng vì tôi đã bắt chuyện.
- Nhưng y bắn như thế nào? - Bá tước hỏi tôi.
- Thưa ngài như thế này, y thấy một con ruồi đậu trên bức tường, phu nhân cười ư? Thật đấy mà, y thấy một con ruồi đậu trên bức tường, y liền gọi: "Cudơma, súng!" Cudơma mang lại cho y một khẩu súng đã nạp đạn. Y đoành một phát và con ruồi bị cắm sâu vào tường!
- Thật là kỳ diệu! - Bá tước nói. - Thế tên y là gì?
- Thưa ngài, Xinviô!
- Xinviô à! - Bá tước kêu lên, giật bắn người, vụt đứng dậy, - ông biết Xinviô?
- Sao lại không biết, chúng tôi là chỗ quen thân, y được trung đoàn chúng tôi xem như người anh, người bạn. Nhưng đã năm năm rồi, tôi không được tin tức gì của y cả. Nhưng sao ngài lại biết y?
- Tôi biết chứ, biết rất rõ. Y có kể cho ông nghe... nhưng thôi... tôi chắc là không. Y có kể cho ông nghe một sự việc rất ly kỳ không?
- Có phải chuyện cái tát không; thưa ngài có phải chuyện y bị một người nào đó tát trong một buổi khiêu vũ không?
- Thế y có kể cho ông biết tên người ấy không?
- Thưa ngài, không ạ, y không nói. A, thưa ngài, - tôi đoán ra sự thật, liền nói tiếp, - xin lỗi ngài... tôi không biết có phải chính ngài là...
Bá tước đáp với vẻ xúc động lạ thường:
- Chính tôi đấy! Và bức tranh bị đạn kia là kỷ niệm lần gặp gỡ cuối cùng giữa chúng tôi...
- Trời, anh yêu quý ơi, - phu nhân nói, - em van anh, đừng kể, em khiếp lắm.
Bá tước bảo:
- Không, tôi sẽ kể hết, ông khách đây đã biết tôi xúc phạm đến bạn ông ấy thế nào, vậy ông ấy cần biết là Xinviô đã trả thù lại tôi như thế nào chứ.
Bá tước mời tôi ngồi xuống một chiếc ghế bành và tôi nghe câu chuyện sau đây, óc hiếu kỳ bị kích động mãnh liệt.
- Năm năm trước đây tôi cưới vợ. Tháng đầu tiên, tháng trăng mật, tôi sống ở đây, trong trại ấp này. Chính nhà này là nơi tôi đã được sống những giây phút tươi đẹp nhất của đời mình, và cũng là nơi ghi lại một trong những kỷ niệm nặng nề nhất.
Một buổi chiều nọ, chúng tôi cưỡi ngựa cùng đi chơi. Nhưng con ngựa của nhà tôi không hiểu sao đâm ra trái chứng trở nết. Nhà tôi sợ bèn giao ngựa cho tôi dắt và đi bộ về. Tôi về trước. Đến sân tôi thấy một cỗ xe của khách bộ hành; gia nhân cho tôi biết trong phòng khách có một người đang đợi. Người ấy không có nói tên, chỉ bảo là đợi tôi có việc. Tôi vào phòng khách và thấy trong bóng tối, có một người mình đầy bụi bậm, râu ria xồm xoàm, đang đứng cạnh lò sưởi. Tôi tiến lại gần cố gắng nhớ lại nét mặt của y. "Ngài không nhớ ra tôi ư, ngài bá tước?" - Y nói, giọng run lên. "Xinviô!" - Tôi kêu lên, và thú thực tôi cảm thấy tóc trên đầu bỗng dựng ngược trở lên. "Vâng, đúng thế, - y tiếp, - còn một phát súng phần tôi; hôm nay tôi đến cho súng nhả đạn. Ngài sẵn sàng chứ?" Y rút trong túi bên ra một khẩu súng. Tôi đếm mười hai bước và đến đứng ở chỗ kia, trong góc ấy, yêu cầu y bắn nhanh lên, trước khi vợ tôi về đến nhà. Y chần chừ, y đòi thắp đèn. Người ta đốt nến
lên. Tôi khoá cửa, ra lệnh không ai được vào, và một lần nữa yêu cầu y nổ súng. Y rút khẩu súng ra và đưa lên nhắm... Tôi đếm từng giây... Tôi nghĩ đến nàng... Một phút khủng khiếp trôi qua! Xinviô hạ tay xuống. "Ta tiếc
rằng, - y nói, - khẩu súng của ta không phải nạp bằng hạt anh đào... mà chì thì nặng. Ta thấy hình như đây không phải là một trận quyết đấu mà là một vụ ám sát: ta không quen bắn một người không có vũ khí. Chúng ta hãy bắt đầu lại một lần nữa, rút thăm xem ai bắn trước". Đầu óc tôi quay cuồng... Hình như tôi không chịu thì phải... Cuối cùng chúng tôi nạp đạn thêm một khẩu súng nữa; chúng tôi cuộn hai mảnh giấy, y bỏ vào trong mũ lưỡi trai, cái mũ đã bị tôi bắn thủng trước kia, và một lần nữa tôi lại bắt trúng số một. "Chà, bá tước thật là may mắn đến quái gỡ!" - Xinviô nói với một nụ cười chế giễu, nụ cười không bao giờ tôi quên được. Tôi không hiểu lúc ấy tôi như thế nào, làm sao y lại có thể cưỡng ép tôi làm như vậy. Nhưng tôi đã bắn, và bắn trệch vào bức tranh này (bá tước đưa tay chỉ bức tranh bị đạn, mặt ỏ? bừng như lửa, phu nhân thì mặt nhợt nhạt, trắng hơn chiếc khăn mùi-soa đang cầm nơi tay và tôi thì không thể kìm nổi một tiếng kêu vụt thốt lên.)
- Tôi đã bắn, - bá tước nói tiếp, - và lạy chúa, tôi đã bắn trượt; lúc ấy Xinviô (giờ phút này trông y thật khủng khiếp), Xinviô bắt đầu nhắm vào tôi. Bỗng cửa mở toang, Masa chạy vào thét lên, xông đến ôm chầm lấy cổ tôi. Sự có mặt của nàng khiến dũng khí hoàn toàn trở lại với tôi. "Em yêu quý, - tôi bảo nàng, - em không thấy rằng chúng tôi đang đùa với nhau ư? Sao em lại khiếp sợ! Thôi em hãy đi uống cốc nước, rồi trở lại đây với chúng tôi; anh sẽ giới thiệu với em người bạn cũ, một anh bạn chí thân". Masa vẫn chưa tin, nàng quay sang phía Xinviô hỏi: "Ngài hãy nói đi, có phải đúng như nhà tôi bảo không, có phải thật các người đùa với nhau không?" - "Thưa phu nhân, bá tước thì khi nào cũng đùa, - Xinviô nói với nàng, - một lần đùa, ngài đã cho tôi một cái tát, lần đùa khác ngài đã bắn tôi một phát vào mũ này, và vừa rồi đùa, ngài đã bắn hụt tôi, bây giờ đến lượt tôi đùa lại..." Dứt lời, y toan chĩa súng nhằm vào tôi... ngay trước mặt nàng! Masa quỳ sụp xuống ôm chầm lấy chân y. "Đứng lên Masa, như thế là nhục, - tôi điên tiết thét lên, - và
ngươi đừng chế nhạo người đàn bà khốn khổ ấy nữa. Bắn đi, có bắn hay không?" - "Không, - Xinviô trả lời, - ta đã hài lòng, ta đã thấy vẻ bối rối và sợ hãi của ngươi; đã cưỡng ép được nhà ngươi bắn ta, với ta thế là đủ... Ngươi sẽ nhớ ta... Và ta để mặc ngươi cho lương tâm ngươi phán xét". Rồi y đi ra, nhưng đến cửa, y dừng chân, ngoảnh lại nhìn bức tranh bị tôi bắn, nổ một phát vào đó, hầu như không cần nhắm rồi đi khuất. Vợ tôi ngã lăn ra bất tỉnh; mọi người không ai dám giữ y lại, chỉ kinh hoàng đứng nhìn theo; y ra thềm gọi xà ích và đi mất trước khi tôi có thì giờ trấn tĩnh lại".
Bá tước im lặng. Thế là tôi đã biết được cái kết thúc của câu chuyện mà đoạn mở đầu trước kia đã khiến tôi kinh ngạc. Tôi không còn bao giờ gặp lại nhân vật ấy nữa. Người ta đồn rằng trong một cuộc dấy loạn của Alếchxanđrơ Ipxilanti, y đã chỉ huy một đơn vị Etêrixtơ(6) và tử trận ở Xculani(7).
°Mũ cảnh binh ( tiếng Pháp)
PHỤ LỤC
(1) Đề từ thứ nhất trích ở trường ca "Vũ hội" (1828) của nhà thơ Nga E. A. Baratưnxki (1800-1844).
(2) Đề thừ thứ hai trích ở truyện dài "Một buổi chiều tối ở doanh trại lộ thiên" (1822) của nhà thơ Nga A. A. Bextugiép – Marlinxki (1797-1837), người đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống Nga hoàng ngày 14 tháng Chạp năm 1825.
(3) Theo lệ đánh bài, khi nhà con gấp một góc con bài tức là đánh xấp tang, nghĩa là đặt gấp đôi số tiền lên.
(4,5) Burtxốp Alếchxanđrơ Pêtơrôvích (chết năm 1873) - một sỹ quan thuộc trung đoàn khinh kỵ Bêlôruxia, nổi tiếng ngổ ngáo, bạn của nhà thơ
chiến sĩ Đênix Vaxiliêvích Đavưđốp (1784-1839), được Đavưđốp ca ngợi trong bài thơ "Bữa tiệc khinh kỵ" (1804) và hai bài thơ thù tạc ("Gửi Burtxốp"). Đavưđốp là bạn của Puskin. Năm 1812 Đavưđốp đã lãnh đạo một đơn vị quân đội đánh du kích anh dũng chiến đấu cùng với những người nông dân du kích chống lại bọn xâm lược Pháp.
(6) Etêrixtơ - một tổ chức chính trị bí mật của Hy Lạp, thành lập vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX và đặt ra cho mình nhiệm vụ đấu tranh để giải phóng Hy Lạp khỏi ách áp bức của Thổ Nhĩ Kỳ. Ở đây muốn nói đến cuộc khởi nghĩa 1812 do Alếchxanđrơ Ipxilanti (1792-1829) lãnh đạo chống lại ách áp bức Thổ Nhĩ Kỳ.
(7)Xculani - một địa phương nhỏ ở Mônđavia, gần sông Prút. Ngày 29 tháng Sáu năm 1821 một đơn vị nhỏ các chiến sĩ Etêrixtơ đã bị đánh bại khi chiến đấu chống lại quân đội Thổ Nhĩ Kỳ.
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Bão Tuyết:
Ngựa phi qua gò đống,
Giẫm lên tuyết lún sâu...
Đây miếu thờ thượng đế
Đứng bên đường, cô liêu.
.................................
Bỗng bão tuyết bao vây;
Trút ào từng mớ tuyết;
Bóng đen và tiếng rít,
Trên cộ trượt bám xoay;
Tiếng tiên tri rên rỉ
Nói lên nỗi u sầu!
Ngựa dựng bờm dồn bước,
Nhìn xa trong đêm thâu...
Giukốpxki(1)
Vào khoảng cuối năm 1811, một thời đại rất đáng ghi nhớ của chúng ta, có một người trung hậu tên là Gavrila Gavrilôvích R, sống trong một trại ấp riêng của mình ở Nhênarađôvô. Ông nổi tiếng khắp vùng vì lòng hiếu khách và tính niềm nở. Khách trong miền thường lui tới nhà ông, ăn uống, đánh bài bô-stôn mỗi ván năm cô-pếch với bà vợ của ông, bà Praxcôvia Pêtơrốpna; nhưng cũng có một số người đến là để được nhìn cô con gái nhà ấy, cô Maria Gavrilốpna, một thiếu nữ mười bảy tuổi, dáng người thanh tú, nước da hơi xanh. Nàng được xem như là một đám giàu có, và nhiều người đã nhắm nàng hoặc cho mình hoặc cho con trai của mình.
Maria Gavrilốpna được giáo dục bằng những cuốn tiểu thuyết Pháp, và do đó mà rất dễ đắm đuối yêu đương. Đối tượng lọt mắt xanh của nàng là một chuẩn uý nghèo, hồi ấy về nghỉ phép trong làng. Lẽ dĩ nhiên là chàng trai này cũng chia sẻ mối tình tha thiết ấy, nhưng cha mẹ nàng biết tình ý đôi lứa đã cấm con gái mình không được nghĩ đến chàng trai ấy nữa và ông bà đón tiếp chàng còn lạnh nhạt hơn là đối với một viên hội thẩm về hưu.
Cặp uyên ương của chúng ta vẫn thư từ đi lại và hằng ngày vẫn vai kề vai trong rừng thông hay bên cạnh ngôi nhà thờ cổ. Họ thề yêu nhau trọn đời, thở than cho số phận và bàn định với nhau rất nhiều phương kế. Trong khi thư từ và chuyện trò như thế họ đã đi đến lý luận sau đây (âu cũng là lẽ tự nhiên thôi): một khi chúng ta đã không thể sống xa nhau, nếu như ý muốn tàn nhẫn của cha mẹ cản trở hạnh phúc của chúng ta, thì phải chăng là nên vượt qua quyền cha mẹ? Chắc hẳn là ý nghĩ hay ho ấy đã xuất hiện trong trí óc chàng trai trẻ trước, và cũng quyến rũ được trí tưởng tượng đầy chất tiểu thuyết của nàng.
Mùa đông đến đã chấm dứt những cuộc hẹn hò của họ. Nhưng thư từ đi
lại càng chặt hơn. Trong mỗi bức thư Vlađimia Nhicôlaiêvích đều van lơn nàng hãy cố gắn bó với chàng, bí mật kết hôn với nhau, tạm lánh đi ít lâu, rồi sẽ trở về quỳ dưới chân cha mẹ, rốt cục rồi cha mẹ nàng sẽ cảm động trước lòng chung thuỷ dũng cảm của họ: "Thôi, các con hãy lại đây, ngả vào lòng cha mẹ!".
Maria Gavrilốpna ngần ngại mãi; nhiều kế hoạch trốn đi đã bị gạt bỏ. Cuối cùng nàng ưng thuận: đến ngày đã hẹn, nàng sẽ không ăn buổi tối, thác cớ đau đầu lui về phòng riêng. Chị hầu phòng cũng đồng mưu; họ sẽ đi ra vườn qua cửa sau, gần vườn đã có một cộ trượt tuyết chờ sẵn, họ lên cộ đi cách Nhênarađôvô năm véc-xta đến Giađrinô, đi thẳng tới nhà thờ, Vlađimia Nhicôlaiêvích sẽ chờ sẵn ở đấy.
Suốt đêm trước cái ngày quyết định ấy, Maria Gavrilốpna không chợp mắt. Nàng sửa soạn, gói ghém quần áo, viết một bức thư dài cho một tiểu thư đa cảm, bạn nàng, và một bức thư để lại cho cha mẹ. Lời lẽ rất cảm động, nàng từ biệt và xin tha thứ cho tội lỗi của mình đã không đủ sức cưỡng lại mãnh lực của tình yêu say đắm. Bức thư kết thúc rằng giờ phút sung sướng nhất của đời nàng là lúc được khoan hồng trở về quỳ dưới chân của hai thân vô cùng kính mến. Nàng đóng dấu vào hai bức thư, một con dấu của thành Tula(2) khắc hình hai quả tim rực lửa với một dòng chữ thích hợp bên dưới. Nàng lăn ra giường trước khi trời hửng sáng và ngủ thiếp đi. Nhưng những cơn ác mộng cứ chốc chốc cứ khiến nàng giậc mình thức giấc. Khi thì hình như vừa đúng lúc nàng bước lên xe trượt tuyết đi làm lễ cưới, cha nàng đã đến bắt lại, lôi nàng sềnh sệch giữa tuyết, toàn thân đau ê ẩm, rồi ném nàng xuống một cái hầm sâu tối mò vô tận... và nàng bay vụt xuống rất nhanh, tim lịm đi một cách kỳ dị; khi thì nàng thấy Vlađimia nằm sống sượt trên bãi cỏ, tái nhợt, mình đầy máu me. Chàng đang hấp hối, và cất giọng não nuột xé lòng vang bên nàng hãy mau mau làm phép cưới với mình... Những hình ảnh kỳ quái vô nghĩa cứ liên tiếp hiện lên trước mắt nàng. Cuối cùng nàng thức dậy, xanh xao hơn thường ngày và hoá ra đau đầu thực sự. Cha mẹ nàng nhận
thấy con mình có điều gì lo lắng bất an. Ông bà ân cần chăm sóc, và không ngớt hỏi nàng: "Maria yêu dấu, con làm sao thế? Con ốm đấy ư, Maria yêu dấu!" Những câu hỏi cứ như xé tim nàng. Nàng cố gắng làm cho cha mẹ an tâm, nàng gượng vui, nhưng không thể được. Chiều đến. Ý nghĩ rằng đây là
ngày cuối cùng sống giữa gia đình khiến cho lòng nàng thắt lại. Nàng như người sắp chết. Nàng thầm chào mọi người, từ biệt mọi vật xung quanh.
Bữa ăn chiều dọn ra; tim nàng đập mạnh. Giọng run run nàng cáo rằng mình không muốn ăn, xin chào cha mẹ. Hai người ôm hôn con và theo thường lệ làm dấu cầu phúc cho con: suýt nữa thì nàng oà lên khóc. Về phòng riêng, nàng gieo mình trên ghế bành, nước mắt giàn giụa. Chị hầu phòng hết sức an ủi nàng, khuyên nàng bình tĩnh và can đảm. Tất cả đã sẵn sàng. Chỉ nữa giờ nữa thôi, Maria phải vĩnh viễn từ biệt ngôi nhà của cha mẹ, gian phòng riêng và cuộc sống êm ấm của một người thiếu nữ... Ngoài trời đang có bão tuyết; gió rít lên từng hồi, các cánh cửa sổ rung lên, đập bần bật; tất cả đối với nàng hình như là một điều đe doạ buồn thảm. Chẳng mấy chốc trong nhà hoàn toàn im lặng, mọi người đã ngủ yên. Maria trùm khăn san mặt áo khoác ấm, tay xách chiếc hòm con và bước ra cửa sổ. Chị hầu phòng mang theo hai gói áo quần đồ đạc. Cả hai đi ra vườn. Bão tuyết vẫn không dịu bớt; gió thổi vào mặt như cố giữ chân người con gái tội lỗi. Khó khăn lắm họ mới tới được phía cuối vườn. Trên đường một chiếc cộ trượt tuyết đã chờ họ sẵn. Lũ ngựa rét cóng không chịu đứng yên một chỗ; anh xà ích của Vlađimia đi đi lại lại trước càng xe cố kìm những con ngựa đang hăng. Anh ta giúp tiểu thư và cô hầu lên ngồi trên xe, xếp đặt chiếc hòm nhỏ và hai gói đồ, rồi giật cương cho ngựa phóng nhanh đi. Giao phó cô nàng cho sự chăm nom của số mệnh và cho tài năng của người đánh xe, chúng ta hãy quay sang chàng tình nhân trẻ tuổi.
Vlađimia chạy vạy suốt cả ngày hôm ấy. Từ sáng sớm chàng đã tìm đến vị linh mục ở Giađrinô; phải khó khăn lắm mới thuyết phục được ông ấy; rồi chàng chạy đi tìm các người làm chứng trong số những địa chủ quanh đó.
Người thứ nhất mà chàng gặp là một thiếu uý kỵ binh về hưu tên là Đravin tuổi đã bốn mươi. Ông này nhận lời ngay và quả quyết với chàng rằng việc này gợi ông nhớ lại thời xưa cũ cùng những thói ngỗ nghịch của kỵ binh. Ông ta cố giữ Vlađimia ở lại ăn trưa, khuyên chàng cứ giữ vững lòng tin, và bảo đảm rằng việc tìm hai người làm chứng nữa chẳng có gì là khó. Quả đúng như thế, ngay sau bữa ăn thì có thêm Smít, một bác nhân viên trắc địa, có bộ ria mép, mang giày có cựa(3), và một chàng con trai của một viên đại uý cảnh binh, mười sáu tuổi, vừa mới được nhận vào quân khinh kỵ. Không những nhận lời yêu cầu của Vlađimia mà còn thề sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì chàng. Vlađimia phấn khởi ôm họ và trở về nhà sửa soạn nốt những việc cần thiết.
Trời tối đã lâu. Chàng dặn dò anh xà ích Têrenti tâm phúc của mình rất tỉ mỉ chu đáo, cho y đem cỗ xe tam mã đi Nhênarađôvô đón, và ra lệnh thắng chiếc cộ trượt tuyết một ngựa không cần xà ích, một mình chàng đi về phía Giađrinô, nơi mà trong khoảng hai giờ nữa Maria Gavrilốpna sẽ đến. Đường chàng đã quen thuộc đi chỉ mất chừng hai mươi phút thôi.
Nhưng Vlađimia vừa rời khỏi bìa làng ra khỏi cánh đồng, thì trời nổi gió mạnh, một cơn bão tuyết dữ dội ập tới khiến chàng không còn nhìn thấy gì nữa. Chỉ trong một phút con đường bị tuyết phủ hết. Mọi vật xung quanh đã biến mất trong màn sương mù vàng nhạt, bông tuyết trắng bay tới tấp. Bầu trời lẫn lộn với mặt đất. Vlađimia lạc giữa cánh đồng, cố hết sức vẫn không tìm ra được đường cái. Ngựa bước vu vơ trên đồng, chốc chốc lại trèo lên gò cao hay tụt xuống hố; chiếc cộ trượt tuyết luôn luôn nghiêng ngả. Vlađimia ra sức định thần cho khỏi lạc hướng. Nhưng hình như đi đã hơn nửa giờ rồi mà vẫn chưa thấy khu rừng Giađrinô đâu. Chừng mười phút nữa đã trôi qua; khu rừng vẫn không thấy tăm dạng. Vlađimia đang đi giữa một cánh đồng chằng chịt những khe hố. Bão tuyết vẫn không dịu bớt, trời vẫn không sáng sủa lên tí nào. Ngựa đã mệt lử, còn chàng thì đổ mồ hôi hột, mặc dù cứ chốc chốc lại sụt trong tuyết đến tận thắt lưng.
Cuối cùng chàng thấy rằng mình đã lạc. Vlađimia dừng lại: bắt đầu suy nghĩ, tập trung tư tưởng cân nhắc và quyết định đi chếch về phía bên phải. Chàng đánh xe về phía ấy. Ngựa đã mệt lử, bước không vững nữa. Chàng đi đã hơn một giờ rồi. Giađrinô chắc hẳn đã gần. Nhưng chàng đi, đi mãi, cánh đồng vẫn vô tận. Khắp nơi ngổn ngang những đống tuyết, những khe hố. Chiếc xe luôn luôn bị lật nhào và chàng cứ phải luôn luôn dựng nó lại. Thời gian trôi qua; Vlađimia bắt đầu lo lắng.
Rốt cuộc rồi chàng cũng thấy đằng xa có một khối gì hiện ra đen đen. Và chàng tiến về phía ấy. Đến gần thì thấy đó là một khu rừng. "Đội ơn Chúa, - chàng nghĩ thầm, - gần đến rồi đấy". Chàng men theo khu rừng và hy vọng trong chốc lát sẽ gặp con đường quen thuộc hoặc vòng khỏi khu rừng này: nhất định là Giađrinô ở ngay phía sau đây. Một lát sau chàng tìm thấy đường cái và đi xuyên vào trong bóng những cây đã trụi lá. Gió không còn thổi điên cuồng vào đây được nữa; con đường bằng phẳng, ngựa hăng lên và Vlađimia an tâm trở lại.
Nhưng chàng đi, đi mãi, vẫn không thấy Giađrinô; khu rừng vẫn vô tận. Vlađimia kinh hoàng nhận ra rằng mình đang đi giữa một khu rừng lạ. Nỗi thất vọng tràn ngập lòng chàng. Chàng quất túi bụi vào lưng ngựa; con vật khốn khổ rảo bước dấn lên, nhưng chưa được mấy chốc đã kiệt sức, và chỉ mười lăm phút sau, mặc cho chàng đau khổ thôi thúc, nó lại bước từng bước một.
Hàng cây thưa dần và Vlađimia đã ra khỏi khu rừng; làng Giađrinô vẫn không thấy đâu cả. Lúc ấy hẳn đã gần nửa đêm rồi. Nước mắt chàng trào ra; chàng vẫn mò mẫm thúc ngựa đi. Cơn bão dịu dần, mây đã tan hết, trước mắt chàng chạy dài một cánh đồng phủ một thảm bạc gợn sóng. Đêm đã khá quang đãng. Chàng thấy gần đó có một xóm nhỏ độ bốn hay năm nóc nhà. Vlađimia tiến vào nơi ấy. Đến bên một túp nhà nhỏ chàng nhảy xuống, cố chạy lại cửa sổ đưa tay gõ. Vài phút sau cánh cửa sổ bằng gỗ mở ra, một ông
già thò chòm râu bạc ra hỏi. "Ai, cần gì đấy?" - "Về Giađrinô có xa không?" - "Về Giađrinô có xa không à?" - "Vâng, vâng, về Giađrinô có xa không?" - "Không xa lắm chỉ độ mười véc-xta thôi!" Nghe câu trả lời Vlađimia vò đầu bức tóc và lặng người đi như một kẻ bị tuyên án tử hình.
"Anh từ đâu đến?" - ông già hỏi tiếp. Vlađimia không còn đủ tinh thần để đáp lại nữa. "Bác ơi, - chàng nói, - bác có thể cho tôi ngựa đi Giađrinô không?" - "Ngựa nào bây giờ, chúng tôi có đâu" - "Thôi, thế thì ít nhất tôi có thể nhờ một người nào đưa đường được chứ? Tôi sẽ trả tiền công, đòi bao nhiêu cũng được". - "Anh hãy đợi đấy, - ông già vừa đáp lại, vừa hạ cánh cửa xuống, - tôi sẽ cho thằng con tôi đi. Nó sẽ dẫn đường cho anh". Vlađimia đứng đợi. Chưa đầy một phút chàng lại gõ cửa. Cánh cửa sổ mở, chòm râu bạc lại hiện ra. "Anh cần gì đấy?" - "Con bác đâu?" - "Ra ngay đấy, nó đang đi giày mà. Có rét không vào sưởi cho ấm". - "Cám ơn bác, bác giục cậu con nhanh lên cho."
Cửa cọt kẹt mở. Một cậu bé bước ra, tay cầm một cái gậy lớn và đi lên trước, khi thì chỉ lối, khi thì tìm con đường đã bị lấp dưới những đống tuyết. - "Mấy giờ rồi?" - Vlađimia hỏi. "Có lẽ gần sáng rồi đấy", - cậu bé nông dân đáp. Vlađimia chẳng nói chẳng rằng gì nữa.
Gà gáy, và trời ửng sáng thì họ vừa tới Giađrinô. Nhà thờ đóng kín cửa. Vlađimia trả tiền cho cậu bé dẫn đường và đi vào trong sân tìm giáo sĩ. Trong sân không có cỗ xe tam mã nào cả. Tin lành hay tin dữ đang chờ chàng đây!
Nhưng chúng ta hãy quay trở lại cái nhà điền chủ hiền lành ở Nhênarađôvô thử xem xảy ra những chuyện gì?
Chẳng có gì xảy ra cả!
Hai ông bà già ngủ dậy và đi ra phòng khách. Gavrila Gavrilôvích đội mũ vải mềm mặc áo ngắn phơ-la-nen. Praxcôvia Pêtơrốpna mặc áo khoác bông.
Người ta đem ấm trà ra. Ông Gavrila Gavrilôvích bảo con hầu vào hỏi thăm sức khoẻ của Maria Gavrilốpna thế nào, và xem cô có ngủ được không? Con bé ra trả lời rằng cô ngủ không được ngon, bây giờ đã đỡ và cô sắp ra phòng khách. Quả nhiên cửa mở và Maria Gavrilốpna ra chúc sức khoẻ cha mẹ.
"Đầu con bây giờ thế nào, Maria?" - Gavrila Gavrilôvích hỏi. - "Thưa cha, đỡ rồi ạ", - Maria đáp. - "Đúng là hôm qua con bị ngạt vì khói lò sưởi rồi, con ạ", - bà Praxcôvia Pêtơrốpna nói. - "Vâng, thưa mẹ, có lẽ thế đấy ạ".
Ngày ấy trôi qua bình yên vô sự, nhưng tối đến thì Maria bị ốm. Nhà phải lên phố mời thầy thuốc. Chiều hôm sau thầy thuốc đến thì bệnh nhân đang mê sảng. Nàng bị sốt nặng, và trong hai tuần liền bệnh tình trầm trọng tưởng khó lòng qua khỏi.
Trong nhà không ai biết gì về cuộc đi trốn kia cả. Mấy bức thư viết hôm trước nàng đã đốt hết; chị hầu phòng không dám hở môi ra với ai, vì sợ ông chủ nổi cơn thịnh nộ. Ông giáo sĩ, viên thiếu uý kỵ binh về hưu, bác nhân viên trắc địa có bộ ria mép và chàng kỵ binh trẻ tuổi đều kín tiếng, và như thế không phải là vô cớ. Chàng đánh xe Têrenti chẳng hề bao giờ buột miệng lỡ lời ngay cả trong cơn sau rượu. Như thế là điều bí mật kia được giữ kín trong cái số hơn nửa tá những người đồng mưu. Nhưng Maria, trong khi mê sảng không ngớt, đã nói toang điều bí mật của mình ra. Dù rằng những lời của nàng rất khó hiểu, không đâu vào đâu, nhưng mẹ của nàng không rời khỏi giường con một bước, cũng có thể do đó mà biết rằng con gái mình đã say mê đến có thể chết vì Vlađimia Nhicôlaiêvích, và có lẽ tình yêu ấy là nguyên nhân của căn bệnh. Bà hỏi ý kiến chồng cùng vài người láng giềng và cuối cùng tất cả đều thống nhất nhận định rằng âu cái số của Maria Gavrilốpna là như vậy, rằng "trời đã định rồi thì phải chịu", rằng "nghèo không phải là xấu", rằng "lấy người chứ không phải lấy của" vân vân. Trong những trường hợp như thế này, khi người ta đã cùng đường bó tay thì những câu cách ngôn luân lý kia thật là kỳ diệu để người ta tự biện hộ cho mình.
Giữa lúc ấy thì cô gái đã bắt đầu bình phục. Đã lâu người ta không thấy Vlađimia đến nhà Gavrila Gavrilôvích. Chàng sợ cách đón tiếp như mọi khi. Người ta đành phải bắn tin cho chàng cái diễm phúc bất ngờ này: bằng lòng cho chàng cưới. Nhưng ông bà địa chủ này ngạc nhiên biết bao, khi đáp lại sự ân cần mời mọc ấy, họ nhận được bức thư gàn dở của chàng! Chàng nói rõ rằng sẽ không bao giờ bước chân đến nhà họ nữa, và yêu cầu hãy quên con người bất hạnh ấy đi, con người chỉ còn cái chết là điều mong ước độc nhất mà thôi. Và hôm sau họ được tin chàng Vlađimia Nhicôlaiêvích đã gia nhập quân đội. Hồi ấy là vào năm 1812.
Maria bình phục đã lâu mà người ta vẫn không dám cho nàng biết tin ấy. Nàng cũng không hề đả động đến Vlađimia. Vài tháng sau đọc thấy tên chàng trong số những chiến sĩ xuất sắc bị thương nặng ở trận Bôrôđinô(4), nàng ngã lăn ra bất tỉnh, người ta sợ nàng lại bị sốt như lần trước. Nhưng nhờ ơn Chúa, cơn bất tỉnh ấy không đem đến hậu quả gì đáng ngại.
Một nỗi đau thương khác lại đến với nàng: ông Gavrila Gavrilôvích tạ thế để lại cho nàng quyền thừa hưởng gia tài. Nhưng gia tài đâu an ủi được nàng; nàng chân thành chia sẻ nỗi buồn của bà mẹ đau khổ, và thề rằng sẽ không bao giờ xa người mẹ; hai mẹ con từ giã Nhênarađôvô, nơi gợi nhiều kỷ niệm đau buồn và đến ở trại ấp X.
Ở đây cũng thế, các chàng trai chưa vợ cứ vây quanh lấy cô gái chưa chồng xinh đẹp và giàu có, nhưng nàng chẳng hề ban cho ai một mảy may hy vọng nào. Có đôi lúc bà mẹ khuyên nàng hãy chọn lấy bạn trăm năm. Nhưng Maria Gavrilốpna lắc đầu, và tư lự đăm chiêu. Vlađimia không còn nữa: chàng đã qua đời ở Mátxcơva vài hôm trước khi quân Pháp tràn vào đó. Kỷ niệm của chàng đối với nàng thật là thiêng liêng; ít nhất nàng cũng giữ gìn lại tất cả những gì có thể nhắc nhở đến chàng: những cuốn sách mà chàng đã đọc, những bức hoạ, những bản nhạc, những bài thơ chàng viết cho nàng. Láng giềng biết chuyện ấy đều khâm phục lòng chung thuỷ của nàng, và họ
tò mò chờ đợi xem nhân vật nào rốt cục sẽ thắng được lòng chung thuỷ u buồn của nàng Áctêmixa(5) trinh bạch này.
Giữa lúc ấy thì chiến tranh kết thúc thắng lợi. Các trung đoàn của chúng ta từ ngoại quốc trở về. Nhân dân xô ra đứng đón. Âm nhạc cử những bài mới thu lượm được trong chiến tranh: " Vive Henri-Quatre"(6), những bài van-xơ vùng Tirôn(7), những khúc điệu trích trong nhạc kịch Giôcôngđơ(8). Các sĩ quan khi nhập ngũ là những thanh niên mới lớn, giờ đây trở về đã trưởng thành trong chinh chiến, ngực đầy huân chương. Quân lính trong khi chuyện trò vui vẻ với nhau thỉnh thoảng lại chêm vào những tiếng Đức hay tiếng Pháp. Thật là một thời đại đáng ghi nhớ! Một thời đại vinh quang và phấn khởi! Nói đến hai tiếng "Tổ quốc" trái tim người Nga xúc động mạnh mẽ biết bao! Những giọt lệ tái hợp sao mà đằm thắm! Trong chúng ta lòng tự hào dân tộc và tình yêu đối với Nga hoàng chan hoà mật thiết đến nhường nào. Đối với Hoàng đế, giờ phút này cũng thật là tuyệt diệu!
Những người phụ nữ, những người phụ nữ Nga, lúc này thật là kiều diễm vô song. Vẻ lạnh lùng thường ngày của họ biến đâu hết! Nỗi hân hoan của họ thật là chân thành nồng nhiệt khi đón đoàn quân chiến thắng mà hét to: hoan hô!
Và mũ tung lên trời!(9)
Ai là sĩ quan lúc ấy mà không thừa nhận rằng họ đã nhận được nơi phụ nữ Nga những phần thưởng quý báu nhất?...
Giữa thời kỳ huy hoàng ấy, Maria Gavrilốpna đang sống với mẹ ở vùng quê N. và không thấy được ở hai kinh đô người ta đón mừng đoàn quân khải hoàn như thế nào. Nhưng có lẽ ở các huyện và các thôn xóm nỗi hân hoan chung lại còn mãnh liệt hơn nữa kia. Một sỹ quan mà về ở nơi đây thì thật là cả một cuộc khải hoàn quang vinh rất mực, và bên cạnh anh ta thì chàng tình nhân nào mặc thường phục cũng phải lu mờ.
Chúng tôi cũng đã nói rằng, mặc dù Maria Gavrilốpna lạnh nhạt, nàng vẫn cứ luôn luôn bị những chàng rắp ranh bắn sẻ bao vây như trước. Nhưng tất cả bọn này đều đánh bài rút lui, khi trong toà nhà của nhà xuất hiện đại tá kỵ binh bị thương Burmin, với huân chương Thánh Ghêoócghi trên khung áo, với nước da "tai tái hay hay" như các cô vùng ấy thường nói. Chàng trạc độ hai mươi sáu tuổi. Chàng về nghỉ trong trại ấp của mình bên cạnh trại ấp của Maria Gavrilốpna. Maria Gavrilốpna đối với chàng cũng có con mắt rất biệt đãi. Gần chàng thì vẻ tư lự đăm chiêu thường ngày của nàng bỗng hoá thành linh hoạt. Không có thể nói rằng nàng làm duyên làm dáng với chàng, nhưng một nhà thơ, giá thấy hành vi của nàng như thế, hắn sẽ nói rằng:
Se amor non è, che dunque?... (Đó là cái gì, nếu chẳng phải là tình yêu - tiếng Ý)(10)
Quả thật Burmin là một chàng trai rất dễ thương. Chàng có được cái loại trí tuệ xưa nay rất dễ được lòng nữ giới: một trí tuệ lịch thiệp và tinh tế, không một chút kiêu kỳ và hóm hỉnh một cách vô tâm. Trước Maria Gavrilốpna tư cách của chàng rất bình dị và tự nhiên. Nhưng dường như tâm hồn và con mắt theo dõi sát mọi lời nói việc làm của nàng. Tính nết của chàng trông thì điềm đạm và khiêm nhường, nhưng tiếng đồn lại nói chắc rằng một thời chàng đã từng là một tay ăn chơi đáng sợ; nhưng điều ấy cũng chẳng làm tổn hại gì cho chàng trước con mắt của Maria Gavrilốpna; nàng (cũng như các bà trẻ tuổi nói chung) vui lòng bỏ qua những trò phóng túng vốn là biểu hiện chung của tính táo bạo và sôi nổi.
Nhưng kích thích óc hiếu kỳ và trí tưởng tượng của nàng hơn tất cả (hơn cả cái tính nết dịu dàng, hơn cả lối trò chuyện hấp dẫn, hơn cả nước da tai tái hay hay, hơn cả cánh tay quấn băng) là không hiểu tại sao chàng kỵ binh trẻ tuổi ấy đến nay vẫn lặng thinh không ngỏ lời. Nàng không thể phủ nhận một điều là nàng rất được chàng quý chuộng. Chắc hẳn với trí thông minh và với kinh nghiệm của mình chàng cũng nhận thấy rằng, đối với chàng thì nàng có
một sự biệt đãi: thế thì vì lẽ gì mà đến bây giờ nàng vẫn chưa thấy chàng quỳ dưới chân nàng, chưa được nghe lời thổ lộ tình yêu của chàng? Cái gì đã kìm giữ chàng lại? Phải chăng đó là tính rụt rè vốn gắn liền với một tình yêu chân thực, hay đó là tính kiêu kỳ, lối làm điệu của một tay chim gái lõi đời? Đối
với nàng đó cả là một điều bí hiểm. Suy nghĩ kỹ, nàng cho rằng tính rụt rè là nguyên nhân duy nhất, và nàng quyết định sẽ khuyến khích cho chàng thêm mạnh dạng bằng cách tỏ ra ân cần hơn nữa, và tuỳ trường hợp, sẽ tỏ ra âu yếm nữa là khác. Nàng rắp tâm đón cái kết cục hết sức bất ngờ và rất nóng lòng chờ đợi giây phút nên thơ mà chàng sẽ thổ lộ tình yêu. Một điều bí mật dù thuộc loại nào, đối với trái tim phụ nữ bao giờ cũng vẫn là một điều day dứt nặng nề. Cuộc tấn công của nàng đã đem lại kết quả như mong muốn: ít nhất thì Burmin cũng trở nên rất tư lự đăm chiêu, và cặp mắt đen của chàng nhìn nàng nảy lửa, đến nỗi có thể tin rằng cái giây phút quyết định đã gần lắm rồi. Những người láng giềng bàn đến đám cưới, xem như đó là một việc đã xuôi, và bà Praxcôvia Pêtơrốpna phúc hậu sung sướng vì con gái mình đã chọn được kẻ xứng đôi vừa lứa.
Một hôm bà cụ ngồi một mình trong phòng khách, đang bói bài, thì Burmin bước vào và hỏi ngay đến Maria Gavrilốpna. "Em nó ở sau vườn ấy, - bà cụ trả lời, - cậu ra đó mà tìm, tôi đợi hai người ở đấy nhé!" Burmin đi ra, bà cụ làm dấu thánh giá và nghĩ rằng: "May ra ngày hôm nay việc ấy sẽ thành".
Burmin nhìn thấy Maria Gavrilốpna bên bờ ao, dưới gốc liễu, mặc chiếc áo trắng, tay cầm quyển sách đúng điệu là một nhân vật tiểu thuyết. Sau mấy câu hỏi han, Maria Gavrilốpna cố ý lặng yên không nói nữa để tăng thêm cái lúng túng của đôi bên và tạo ra một tình thế mà hoạ chăng chỉ có một lời thổ lộ tình yêu đột ngột và quyết định mới có thể gỡ ra được. Sự việc diễn ra đúng như thế: Burmin cảm thấy tình thế khó xử của mình, đã thổ lộ rằng từ lâu chàng đã nhiều lần tìm dịp để cởi mở tâm tình với nàng và cầu xin nàng lưu ý trong giây phút. Maria Gavrilốpna xếp sách lại mắt nhìn xuống, tỏ vẻ
ưng thuận.
"Tôi yêu em, - Burmin nói, - tôi yêu em đắm đuối..." (Maria Gavrilốpna đỏ mặt và cúi thấp hơn nữa). "Tôi đã hành động dại dột khi buông mình theo một thói quen đằm thắm, thói quen hàng ngày nhìn em và nghe em nói..." (Maria Gavrilốpna nhớ lại bức thư đầu của St. -Preux.)(11) "Giờ đây cưỡng lại định mệnh thì đã muộn rồi, kỷ niệm về em, hình dáng kiều diễm và tuyệt thế của em từ nay sẽ là nỗi giày vò và là niềm an ủi của riêng tôi. Nhưng tôi còn phải làm tròn nhiệm vụ đau khổ, thổ lộ với em một điều thầm kín rất đáng sợ, và đặt ra giữa đôi ta một trở ngại không thể nào vượt qua được..." - "Trở ngại ấy mãi mãi vẫn cứ có, - nàng vội vã ngắt lời chàng, - tôi không bao giờ có thể làm vợ anh được..." - "Tôi biết, - chàng sẽ sàng đáp lại, - tôi biết trước kia em đã yêu, nhưng người ấy đã chết và ba năm xót thương... Maria Gavrilốpna dịu hiền và yêu dấu ơi, em chớ gạt mất của tôi niềm an ủi cuối cùng: ý nghĩ rằng em sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi, nếu như... Em đừng nói, thể lòng Chúa, em đừng nói. Em xé nát lòng tôi mất. Vâng, tôi biết, tôi cảm thấy rằng em có thể kết duyên với tôi, nhưng tôi là một kẻ vô phúc... tôi đã cưới vợ!"
Maria Gavrilốpna nhìn chàng kinh ngạc.
- Tôi đã cưới vợ, - Burmin nói tiếp, - tôi cưới vợ đã bốn năm, nhưng tôi không biết vợ tôi là ai, nàng ở đâu, và không biết giờ đây có bao giờ tôi còn gặp lại được nàng nữa không!
- Anh nói gì thế? - Maria Gavrilốpna. - Kỳ lạ quá! Anh nói tiếp đi; tôi sẽ nói sau... thôi, anh hãy nói tiếp đi, tôi van anh.
- Đầu năm 1812, - Burmin nói, - tôi đi gấp về Vinna, nơi trung đoàn chúng tôi đóng quân. Tới một trạm nào đó thì trời đã quá chiều, tôi ra lệnh thắng cương ngựa gấp, bỗng một cơn bão tuyết dữ dội nổi lên, người trưởng trạm và gã đánh xe khuyên tôi hãy nán đợi. Tôi đã nghe họ, nhưng rồi một
nỗi bồn chồn vô cớ tràn ngập lòng tôi; hình như có một cái gì thôi thúc tôi. Trong khi ấy bão tuyết vẫn không dịu bớt; tôi không chờ đợi được nữa, lại ra lệnh thắng ngựa đi và đi ngay giữa bão tuyết. Gã đánh xe nảy ra ý đi trên sông, như thế sẽ rút ngắn được đường chừng ba véc-xta. Hai bên bờ đều tuyết phủ. Gã đánh xe đã đi qua chỗ cần phải bắt tiếp lên đường cái, và thế là chúng tôi lạc giữa một chốn lạ. Bão tuyết vẫn không lặng; tôi thấy có ánh lửa bèn ra lệnh đi về phía ấy. Chúng tôi vào một làng. Nhà thờ bằng gỗ ở làng ấy có ánh sáng, cửa nhà thờ mở sẵn, trong sân có nhiều cộ trượt tuyết. Trên thềm cao có người đi đi lại lại. "Về phía này, về phía này!" - có tiếng gọi. Tôi bảo gã đánh xe tiến về phía ấy. "May quá! Anh bị chậm ở đâu thế? - có người nói với tôi. - Cô dâu bị ngất; linh mục chẳng biết xử trí ra sao cả; chúng tôi sắp sửa ra về. Vào nhanh lên thôi!" Tôi không nói gì cả, nhảy xuống cộ và đi vào. Nhà thờ mờ mờ trong ánh sáng của hai hay ba ngọn nến. Một cô gái ngồi trên chiếc ghế trong một góc tối. Một chị phụ nữ khác đang xoa hai bên thái dương của cô kia. "Nhờ ơn Chúa, - chị này nói, - anh phải vất vả quá nhỉ. Suýt tí nữa thì anh giết chết cô tôi". Vị linh mục già đến bên tôi hỏi: "Anh cho bắt đầu đi chứ". - "Vâng, vâng cha cứ bắt đầu, bắt đầu đi!", - tôi trả lời bâng quơ. Họ đỡ cô gái đứng dậy. Tôi thấy nàng cũng khá xinh... Thật là một trò đùa vô nghĩa và không thể tha thứ được... Tôi đứng bên cạnh nàng trước bàn thờ. Linh mục thì vội vã; ba người đàn ông và chị người hầu đỡ cô dâu và chỉ lo săn sóc có một mình cô ấy. Người ta làm phép cưới cho chúng tôi. "Hãy hôn nhau đi", - họ bảo chúng tôi. Và vợ tôi quay khuôn mặt tái xanh sang phía tôi. Tôi toan hôn nàng... Nàng vụt kêu lên: "Trời ơi! Không phải chàng! Không phải chàng!" - và ngã lăn ra bất tỉnh. Những người làm chứng nhìn tôi bằng cặp mắt kinh hoàng. Tôi quay ngoắt lại bước ra khỏi nhà thờ, chẳng bị ai tìm cách giữ lại, tôi chạy đến xe nhảy lên và ra lệnh: "Đi! Đi!"
- Lạy Chúa, - Maria Gavrilốpna kêu lên, - thế anh không biết sau đó người vợ khốn khổ của anh ra sao ư?
- Tôi không biết, - Burmin đáp, - tôi không biết tên làng tôi cưới vợ là gì,
không nhớ ra cái trạm tôi khởi hành. Lúc ấy tôi cũng chẳng quan tâm gì mấy tới tầm nghiêm trọng của trò đùa tội lỗi ấy, cho nên ra khỏi nhà thờ là tôi ngủ quên và đến sáng hôm sau thức dậy thì đã thấy đi quá ba trạm rồi. Người cần vụ của tôi đã hi sinh ở mặt trận... thế là tôi không còn hy vọng gì tìm lại
người ấy, người mà tôi đã dẫn vào một trò đùa cay đắng và giờ đây nàng cũng đang phải trả giá một cách cay đắng...
- Lạy Chúa! Trời ơi, - Maria Gavrilốpna vừa nói vừa nắm lấy tay chàng, - người ấy là anh đấy ư, thế mà anh không nhận ra em ư?
Burmin tái mặt đi... và quỳ sụp xuống chân nàng...
PHỤ LỤC
(1) Đề từ trích trong bài hát ba-lát "Xvétlana" (1813) của nhà thơ Nga V. A.Giukốpxki (1785-1852).
(2) Con dấu (hay một cạnh của chiếc nhẫn mặt đá quý) được dùng để chỉ người chủ con dấu đóng trên bức thư (tức là người gửi bức thư đó). Tula - một thành phố phía nam Matxcơva, nổi tiếng về sản xuất những đồ dùng bằng kim loại.
(3) Giày có cựa – giày có lắp một mũi nhọn ở phía sau như cựa gà, của kỵ binh để thúc vào hông ngựa.
(4) Trận Bôrôđinô - trận thắng lớn của quân Nga trong cuộc kháng chiến chống Napôlêông ngày 26 tháng Tám năm 1912 do Kutudốp chỉ huy. Xem cả chú thích 28 ở truyện "Rôxlavliép".
(5) Áctêmixa - hoàng hậu, vợ vua Mápdôn ở xứ Galiacarơnát nổi tiến về lòng chung thuỷ với chồng là Mápdôn (thế kỷ IV trước công nguyên), bà đã dựng cho người chồng quá cố một lăng tẩm, thời xưa được coi là một trong "bảy kỳ quan thế giới".
(6) Vive Henri-Quatre ("Hoàng đế Ăngri Đệ tứ vạn tuế") - các đoạn trích trong vở hài kịch "Chuyến đi săn của Ăngri Đệ tứ" (1774) của Sáclơ Côlê (1709-1783).
(7) Tirôn - một vùng trên dãy Anpơ thuộc đất Áo
(8) Đây là nói đến vở nhạc hài kịch nổi tiếng "Giôcôngđơ, hay là người phiêu lưu" của nhạc sĩ Pháp Nicôlô Iduarđơ (1775-1818) rất được hoan nghênh hồi năm 1814.
(9) Trích từ vở kịch hài hước "Nỗi khổ vì trí tuệ" của A.X.Gribôiêđốp (1795-1829), nhà viết kịch và nhà ngoại gia Nga nổi tiếng.
(10) Câu thơ này trích trong bài xô-nê thứ XXXII của nhà đại thi haoÝ Phranxétxcô Pêtơrarca (1304-1374).
(11) Những lời nói của Burminh giống như lời thú nhận tình yêu của St.- Preux (Xanh Prơ) - nhân vật trong tiểu thuyết "Nàng Giulia, hay Êlôidơ mới" (1761) của Giăng Giắc Rútxô (1712-1778) - nhà văn và nhà triết học khai sáng lỗi lạc của Pháp. - 71.
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Ông Chủ Hiệu Đám Ma:
Ngày ngày vẫn chưa thấy ư những chiếc
quan tài,
Và những đầu bạc phơ của vũ trụ già cỗi?
Đergiavin(1)
Những đồ vặt vãnh cuối cùng của bác chủ hiệu đám ma Ađrian Prôkhôrốp đã chất lên trên chiếc xe đòn và cặp ngựa gầy còm ì ạch kéo chuyển thứ tư từ phố Baxmannaia về phố Nikítxkaia(2), nơi bác đã dọn cả nhà mình đến. Bác đóng cửa hiệu lại, treo lên cánh cửa một tấm biển đề: "Nhà bán hay cho thuê", rồi đi bộ về chỗ ở mới. Gần đến ngôi nhà nhỏ màu vàng, - ngôi nhà này đã quyến rũ trí tưởng tượng của bác từ lâu, và cuối cùng bác đã tậu nó với một món tiền khá lớn, - bác chủ hiệu già này ngạc nhiên cảm thấy lòng mình không được vui. Bước qua ngưỡng cửa, đi vào trong gian nhà đang bề bộn ngổn ngang, bác nhớ tiếc túp nhà cũ hư nát, nơi mà suốt mười tám năm qua bác đã giữ được một trật tự rất nghiêm ngặt; bác rầy la hai cô con gái và chị đầy tớ làm ăn chậm chạp, và tự mình bắt tay vào giúp đỡ họ. Trong chốc lát, nhà đã gọn gàng ngăn nắp. Chiếc tủ thờ có tượng thánh, tủ chén bát, cái bàn, đi-văng và giường nằm đều đã yên vị ở những góc dành cho nó trong phòng sau, ở nhà bếp và nhà khách thì xếp các sản phẩm của chủ nhân:
những chiếc quan tài đủ các màu sắc, và đủ các cỡ, cả cái tủ chứa mũ áo đám ma và những cây đuốc nữa. Trên cửa hàng, treo một tấm biển có vẽ hình thần Amua béo tốt tay cầm một cây đuốc chúc ngược xuống(3), bên cạnh có đề mấy dòng chữ: "Ở đây bán áo quan loại gỗ mộc và loại gỗ sơn, cũng có cho thuê và sửa chữa quan tài cũ"(4). Các cô con gái đã về buồng riêng. Ađrian dạo quanh nhà, rồi đến ngồi bên cửa sổ vào bảo đun ấm xa-mô-va.
Độc giả có học thức cao rộng chắc cũng biết rằng Sếchxpia(5) và Uôntơ Scốt(6) đã tả những phu đào huyệt là những con người vui tính và hay bông đùa, để thế tương phản ấy đập mạnh vào trí tưởng tượng của chúng ta. Vì tôn trọng sự thực, chúng tôi không thể bắt chước các văn hào ấy mà buộc phải thú nhận là tính tình của bác chủ hiệu này hoàn toàn phù hợp với cái nghề ảm đạm của bác ấy. Ađrian Prôkhôrốp thường đăm chiêu và tư lự. Thảng hoặc bác có lên tiếng chăng thì chỉ để rầy la các cô con gái, khi bất chợt bắt được họ đang rỗi rãi lẳng lơ nhìn khách qua đường bên cửa sổ, hoặc để nâng cao giá hàng của mình lên với những kẻ bất hạnh (cũng có khi là may mắn) cần dùng đến thứ hàng ấy. Và đây, Ađrian ngồi bên cửa sổ, bác đã uống đến chén trà thứ bảy, và vẫn như thường lệ, đang đắm chìm trong những ý nghĩ buồn bực của mình. Bác đang nghĩ đến trận mưa rào trước đây một tuần đã đón đường đám ma của viên đại tá hồi hưu ở cửa ô. Bao nhiêu áo tang bị nhăn nhúm, bao nhiêu mũ bị quăn cả lên. Bác thấy trước những phí tổn không thể nào tránh khỏi, vì mớ báo tang dự trữ lâu ngày ấy đã trở về với bác trong một tình trạng thảm hại. Bác trông mong vào mụ nhà buôn già Tơriukhina để bù lại chỗ tổn thất ấy: mụ này ngắc ngoải đã gần một năm nay rồi. Nhưng mụ Tơriukhina có chết thì lại chết ở phố Radơgulai, và Prôkhôlốp lo lắng những kẻ thừa kế gia tài mặc dầu đã hứa hẹn trước vẫn sẽ không chịu đi xa như thế này để tìm mình và họ sẽ thuê luôn nhà thầu gần đó.
Bỗng ba tiếng gõ cửa theo kiểu hội tam điểm(7) đến cắt dòng tư tưởng của bác.
Bác chủ hiệu hỏi: "Ai đấy?". Cửa mở, một người bước vào: chỉ mới thoạt nhìn ai cũng biết đó là một tay thợ thủ công người Đức; nét mặt vui vẻ, người Đức đến gần bác chủ hiệu. "Xin lỗi bác, ông bạn láng giềng thân mến, - bác ta nói tiếng Nga với cái giọng lơ lớ của người ngoại quốc mà cho đến nay ai nghe cũng phải bật cười, - tôi đến quấy rầy bác thế này thật không phải. Tôi nóng lòng muốn làm quen với bác. Tôi làm thợ giày tên là Gốtlíp Suntxơ, ở bên kia đường, nơi ngôi nhà nhỏ kia kìa, đối diện ngay với cửa sổ bác đấy mà. Ngày mai tôi có việc làm lễ mừng đám cưới bạc(8) của chúng tôi, xin mời bác và hai cô sang tham dự bữa cơm thân mật". Lời mời được tiếp nhận vui vẻ. Bác chủ hiệu đám ma mời người thợ giày ngồi xuống uống chén trà; nhờ tính tình cởi mở của Gốtlít Suntxơ nên chẳng mấy chốc họ đã chuyện trò thân mật. Ađrian hỏi: "Dạo này bác buôn bán ra sao?" Suntxơ đáp: "Ôi chà chà, cũng nhì nhằng vậy thôi. Chẳng có gì đáng phàn nàn. Thực ra dù sau hàng của tôi cũng không thể như hàng của bác được, người sống không có giày mang cũng xong; chứ người chết mà không có quan tài thì không thể sống được". Ađrian nói: "Có thế thực, người sống không tiền mua giày, nói thì bác đừng giận, chứ họ đi chân đất cũng được, còn người chết nghèo kiết dù không có tiền trả cũng được người ta bố thí cho chiếc quan tài". Cứ như thế, chuyện trò kéo dài hồi lâu; cuối cùng người thợ giày đứng dậy cáo từ và một lần nữa nhắc lại với bác chủ hiệu đám ma lời mời của mình.
Hôm sau, đúng mười hai giờ trưa, bác chủ hiệu đám ma và các cô con gái ra khỏi cửa ngôi nhà mới, sang nhà láng giềng. Tôi sẽ không tả cái áo ca-phơ tan Nga của Ađrian Prôkhôrốp và trang phục theo kiểu châu Âu của các cô Akulina và Đaria (và như vậy là đã vi phạm một thói quen của các nhà viết tiểu thuyết thời nay). Nhưng tôi thiết tưởng cũng nên nói thêm rằng hai cô đều đội mũ vàng, đi giày đỏ, những thứ như các cô cũng dùng đến trong những dịp long trọng.
Căn nhà nhỏ của bác thợ giày đã đầy khách, phần đông là những thợ thủ công người Đức cùng đi với vợ và những người thợ phụ. Về phía viên chức
Nga thì duy nhất chỉ có một viên cảnh binh, người dân tộc Tsukhônét(9) tên là Urơcô, mặc dù chức tước nhỏ mọn, vẫn được chủ nhân tiếp đón nồng hậu. Trong hai mươi lăm năm trời, với chức tước ấy, bác đã phục vụ trung thành
và thật thà cũng như bác phu trạm của Pôgôrenxki(10). Khói lửa năm 1812 (khi quân Napôlêông vào Mátxcơva) tàn phá đệ nhất kinh đô(11), đã triệt hạ cả chiếc trạm gác màu vàng của bác. Nhưng lập tức, ngay sau khi kẻ thù bị đánh đuổi, trên địa điểm cũ lại xuất hiện một trạm gác mới, màu xám, với những cây cột trắng theo kiểu Đôriđa(12), và Urơcô lại đi đi lại lại bên cạnh cái trạm gác ấy, tay cầm lưỡi tầm sét, mình mặc áo giáp(13). Bác quen biết được hầu hết những người Đức ở gần cửa ô Nhikítxki, và trong bọn đó còn đến ở lại nhà bác từ tối chủ nhật đến sáng thứ hai nữa là khác. Ađrian làm quen ngay với bác này, một kẻ mà chóng hay chầy thì cũng có lúc cũng sẽ cần đến; và khi khách khứa an toạ thì hai người cùng ngồi bên nhau. Ông Suntxơ, bà Luyda Suntxơ cùng cô con gái, cô Lốtsen, tuổi vừa mười bảy cùng ngồi vào bàn ăn tiếp khách, vừa mời mọc vừa giúp chị đầu bếp phục vụ. Rượu bia rót tràn trề. Urơcô một mình ăn bằng bốn người, Ađrian cũng không chịu kém; các cô con gái thì còn giữ nết; chuyện trò bằng tiếng Đức càng lâu càng náo nhiệt. Bỗng chủ nhân yêu cầu mọi người chú ý và mở một chai rượu đang nguyên xi, cất cao giọng bằng tiếng Nga: "Chúc sức khoẻ Luyda vợ hiền của tôi!" Rượu sâm-banh trào bọt ra. Chủ nhân âu yếm hôn lên khuôn mặt hồng hào của bà vợ trạc độ bốn mươi ngồi bên cạnh, tất cả khách khứa ầm ĩ cạn chén chúc sức khoẻ bà Luyda. "Chúc sức khoẻ tất cả các vị khách thân mến của tôi!" - chủ nhân tuyên bố, tay mở chai rượu thứ hai, khách khứa cám ơn chủ nhân, rồi lại cạn chén. Những lời chúc sức khoẻ bắt đầu như thế và cứ như nối tiếp nhau: họ uống chúc sức khoẻ từng người, chúc sức khoẻ Mátxcơva, chúc sức khoẻ cả một tá những thành phố nhỏ ở Đức, chúc sức khoẻ các phường hội nói chung, rồi mỗi phường hội nói riêng, chúc sức khoẻ các thợ cả, rồi chúc sức khoẻ các thợ phụ. Ađrian tha hồ ăn uống và cao hứng đến mức bác ta cũng đề nghị nâng cốc bằng một câu khôi hài. Bỗng trong hàng khách dự tiệc, bác thợ làm bánh to béo nâng cốc và lớn tiếng:
"Chúc sức khoẻ tất cả những người dùng hàng của chúng ta, unserer Kundleute °!". Cũng như mọi lần trước, đề nghị này được mọi người vui vẻ đồng thanh hưởng ứng. Khách bắt đầu chúc lẫn nhau, bác thợ may chúc bác thợ giày, bác thợ giày chúc bác thợ may, bác hàng bánh chúc cả hai người, tất cả mọi người chúc bác hàng bánh và cứ thế tiếp tục mãi. Giữa những lời chúc tụng lẫn nhau ấy, Urơcô quay sang ông bạn bên cạnh hét to: "Thế nào đây? Bác cũng phải nâng cốc chúc sức khoẻ các người chết của bác chứ!" Mọi người phá lên cười. Nhưng bác chủ hiệu đám ma cho rằng họ mỉa mình và sa sầm nét mặt. Cũng chẳng ai để ý đến điều đó, khách tiếp tục ăn uống, và khi họ đứng dậy thì hồi chuông lễ buổi chiều đã vang lên.
Khách tản mát ra về thì đã quá muộn, phần đông ngà ngà say. Bác hàng bánh to béo và anh thợ đóng sách, khuôn mặt " trông như một bìa da láng hồng"(14) vừa khoát tay dắt Urơcô về trạm gác vừa suy ngẫm về câu tục ngữ Nga trong trường hợp này: "Nợ đời có vay có trả". Bác chủ hiệu đám ma ra về, vừa say vừa cáu: "Thực ra là thế nào hả? - Bác lớn tiếng suy luận như vậy, - nghề của ta đây không lương thiện bằng các nghề khác hay sao? chủ hiệu đám ma có phải là anh em của đao phủ đâu? tụi dị giáo ấy cười cái gì? Chủ hiệu đám ma có phải là thằng hề của ngày lễ Nô-en đâu? Ta định mời chúng ăn mừng nhà mới, thết đãi cho ra hồn: nhưng đã vậy thì thôi! Ta sẽ mời khách dùng hàng của ta, ta sẽ mời những người chết chính giáo". - "Sao thế hả ông? - Chị đày tớ đang cởi giày cho bác hỏi, - ông nói nhảm nhí gì vậy? Hãy làm dấu đi! Mời người chết về ăn mừng nhà mới? Ý muốn gì quái gỡ thế!" - "Thế đấy, nói có trời, - Ađrian nói tiếp, - ta sẽ mời và ngay ngày mai đấy! Các ngài hãy đến cho kịp thời, hỡi các ân nhân của tôi, mời các ngài chiều mai đến dự tiệc ở nhà tôi, nhà tôi có gì tôi sẽ đem thết đãi các ngài hết". Dứt lời bác vào giường nằm và trong chốc lát đã ngáy khò khò.
Ngoài sân còn tối mịt, người ta đã đánh thức Ađrian dậy. Mụ lái buôn Tơriukhina đã chết ngay đêm hôm ấy, lão quản lý của mụ cho người phi ngựa cấp báo với Ađrian tin này. Bác chủ hiệu đám ma tặng người đưa tin mười
cô-pếch làm quà uống rượu rồi vội vã mặc áo quần, thuê xe và đi ngay đến Radơgulai. Trước cửa nhà người chết, cảnh sát đã đứng sẵn, bọn lái buôn láo nháo như lũ quạ đánh hơi được xác chết. Kẻ quá cố nằm trên một chiếc bàn, vàng ệu như sáp, nhưng hãy còn chưa trương phình lên. Xung quanh mụ, họ hàng, láng giềng, gia thuộc chen chúc. Các cửa sổ đều mở toang, nến thắp sáng trưng; các linh mục đang cầu kinh. Ađrian lại gần người cháu mụ Tơriukhina, một chàng lái buôn trẻ tuổi, mặc áo lễ rất hợp thời trang, trình bày với y rằng: áo quan, nến, vải phủ quan tài và mọi thứ cần dùng cho tang lễ đều được đưa đến tức khắc, tất cả đều chu tất. Anh chàng thừa kế ấy lơ đễnh cám ơn bác và nói rằng y không mặc cả, hoàn toàn tin cậy vào lương tâm của bác. Bác chủ hiệu đám ma theo thói quen thề rằng sẽ không lấy thừa một đồng nào; bác trao đổi một cái liếc nhìn đầy ý nghĩa đối với viên quản lý và chạy đi lo liệu công việc cần thiết. Suốt ngày bác chạy đi chạy về giữa Radơgulai và cửa ô Nhikítxki; đến chiều xong mọi việc, bác không thuê xe nữa, đi bộ về nhà. Đêm ấy sáng trăng. Bác chủ hiệu đám ma khoan khoái về đến cửa ô Nhikítxki. Gần đến nhà thờ Mừng Chúa thăng thiên, bác cảnh binh Urơcô quen biết của chúng ta cất tiếng hô "đứng lại" nhưng nhận ra bác chủ hiệu đám ma, bèn chúc bác về ngủ ngon giấc. Khuya rồi. Bác chủ hiệu đám ma đã về gần đến nhà. Bỗng bác thấy hình như có ai đi tới trước cổng, mở cánh cửa ra và lẫn biến vào trong. "Như thế là thế nào? - Ađrian thầm nghĩ. - Ai có việc cần đến mình bây giờ nhỉ? Hay một tên ăn trộm muốn vào cuỗm cái gì của mình? Hay lũ tình nhân nào đến tìm mấy con bé mất nết? Chắc là triệu bất tường rồi đây!" Và bác đã nghĩ đến việc gọi ông bạn Urơcô đến. Ngay lúc ấy, một người nữa đến gần bên cửa sắp bước vào, nhưng thấy chủ nhân đang chạy lại, thì dừng chân, cất chiếc mũ ba góc xuống chào. Ađrian thấy một gã hình như quen quen, nhưng không kịp chú ý nhìn kỹ. "Ông đến nhà tôi à? - Ađrian vừa nói vừa thở hổn hển. - Mời ông chiếu cố quá bộ vào nhà". - "Đừng khách sáo nữa bác ạ, - người kia đáp lại giọng trầm trầm, - xin mời bác vào trước và chỉ đường cho khách!" Ađrian có khách sáo bao giờ đâu. Cửa đã mở, bác leo lên cầu thang, và người kia nối gót theo sau. Ađrian
nghe như trong nhà có nhiều bước chân người. "Ma quỷ gì thế!" - bác nghĩ thầm và bước vội vào phòng... Cặp giò bác khuỵu xuống. Gian phòng chật ních những người chết. Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, chiếu lên những khuôn mặt vàng ệu xanh nhợt của họ, những cái mồm sâu hoắm, những con mắt đục nhờ nhờ hé mở, những lỗ mũi toang hoác... Ađrian khiếp sợ nhận ra họ là tất cả những người mà bác đã đưa đi chôn và cùng vào với bác chính là viên đại tá mà bác đưa đám hôm có trận mưa rào. Tất cả bọn họ, đàn bà và đàn ông xúm quanh bác chào hỏi và chúc mừng, chỉ trừ một con ma nghèo kiết vừa mới được chôn bố thí, lúng túng và thẹn thùng vì rách rưới không đến gần, thủ phận đứng ở một góc. Mọi người khác đều ăn mặc chỉnh tề: những người đàn bà đội mũ mềm có dải lụa, những người chết có chức tước thắng cả một bộ sắc phục, nhưng râu ria không cạo, bọn lái buôn thì khoác áo ca-phơ-tan ngày lễ. "Thấy không, bác Prôkhôrốp, - viên đại tá thay mặt đám khách lương thiện nói, - theo lời mời của bác, tất cả chúng tôi đều trỗi dậy. Còn lại chăng ở nhà là những kẻ đã ruỗng nát chỉ còn bộ xương không có da, nhưng kia, tuy thế, trong số đó vẫn có một người không cầm lòng được, - anh ta muốn đến thăm bác quá chừng..." Ngay lúc ấy một bộ xương thấp bé rẽ đám đông tiến đến gần Ađrian. Chiếc sọ dừa mỉm cười thân mật với bác chủ hiệu. Nhưng miếng giẻ dạ xanh màu lá cây và màu đỏ, những mảnh vải rách treo lủng lẳng trên người y như đính trên ngọn sào và bộ xương ống chân va lộc cộc vào đôi ủng kếch sù như cặp chày giã trong cối. "Bác không nhận ra tôi ư, bác Prôkhôrốp, - bộ xương nói, - bác không nhớ viên đội vệ binh hưu trí Piốt Pêtơrôvích Curinkin, người bác bán chiếc quan tài đầu tiên năm 1799, chiếc quan tài bằng gỗ thông mà bác bảo là gỗ sồi ấy mà?" Dứt lời bộ xương dang hai cánh tay xương xẩu ôm lấy bác, còn Ađrian thì cố hết sức hét lên và đẩy bộ xương ra. Piốt Pêtơrôvích lảo đảo ngã rụi xuống, vỡ vụn thành từng mảnh. Tiếng rì rầm bất bình nổi lên giữa đám người chết; tất cả đều đứng ra bảo vệ danh dự cho bạn họ, họ xông vào Ađrian mà nguyền rủa và đe dọa, còn bác chủ nhà khốn khổ ù tai vì những tiếng la ó của họ, thấy ngột ngạt, hồn vía lên mây, ngã quỵ trên những mảnh xương tàn của viên đội hưu trí và ngất đi.
Mặt trời rọi đã lâu vào giường của bác chủ hiệu đám ma nằm. Cuối cùng bác mở mắt ra và thấy trước mặt mình chị đày tớ đang thổi lửa trong ấm xa mô-va. Bác sợ hãi nhớ lại những biến cố đêm qua. Tơriukhina, viên đại tá, viên đội Curinkin mờ mờ hiện ra trong trí tưởng tượng của bác. Bác yên lặng chờ chị đày tớ nói chuyện về những biến cố đêm qua.
- Ông Ađrian Prôkhôvôvích ngủ say quá đi mất, - Acxinhia vừa nói vừa trao cho bác chiếc áo khoác dài. – Ông thợ may bên cạnh có ghé thăm ông, và bác cảnh binh đến báo với ông rằng hôm nay là ngày lễ thánh của bác ấy, nhưng ông ngủ say quá, chúng tôi không muốn đánh thức dậy..
- Có ai đến đây hỏi tôi về việc làm ma cho bà Tơriukhina không? - Làm ma à? Bà ấy chết rồi ư?
- Ô, cái con này! Đầu óc để đâu, chẳng phải chiều hôm qua chính mày giúp tao lo đám ma cho mụ ấy ư?
- Ông nói gì thế? Ông mất trí rồi ư? Hay là rượu hôm qua chưa tỉnh? Đám ma nào chiều hôm qua? Hôm qua ông ăn tiệc cả ngày bên nhà người Đức ấy, lúc trở về say khướt ra, ông lăn vào giường ngủ cho mãi đến tận giờ này, bây giờ đã quá buổi cầu kinh rồi đấy.
- Thật thế ư? – bác chủ hiệu đám ma vui mừng nói.
- Đúng thật như thế đấy, - chị đày tớ đáp.
- A, nếu thế thì pha trà nhanh đi, rồi đi gọi các cô lại nhé!
°Các khách hàng của chúng ta! ( tiếng Đức)
PHỤ LỤC
(1) Đề từ trích trong bài tụng ca "Thác nước" (1794) của nhà thơ Nga
G.R.Đergiavin (1743-1816).
(2) Hai phố ở hai đầu khác nhau của Mátxcơva thời ấy.
(3) Thần Amua cầm một cây đuốc chúc ngược xuống là biểu tượng của sự chết chóc.
(4) Ở Nga ngày xưa, những nhà nghèo, khi có người chết, không có đủ tiền mua quan tài tốt, họ thuê một quan tài loại tốt để hoàn thi hài trong khi người ta phúng viếng. Rồi lúc đem chôn thì dùng quan tài xấu hơn.
(5),(6) Sếchxpia Uyliam (1564-1616) - nhà thơ và nhà soạn kịch Anh vĩ đại, Uôntơ Scốt (1771-1832) - nhà văn Anh viết nhiều tiểu thuyết lịch sử. Ở đây Puskin muốn nói tới hình tượng những người phu đào huyệt trong vở bi kịch "Hămlét" của Sếchxpia và trong tiểu thuyết "Cô dân xứ Lamécmua" của Uôntơ Scốt.
(7) Hội tam điểm là một tổ chức theo chủ nghĩa thần bí tồn tại vào nửa cuối thế kỷ thứ XVIII. Hội này đặt cho mình mục tiêu phục hồi mặt đạo đức của loài người. Ba tiếng gõ cửa là một trong những nghi thức của hội viên hội tam điểm. Ở đây cách gọi ba tiếng gõ cửa "theo kiểu hội tam điểm" được dùng theo nghĩa pha trò.
(8) Ở nước Nga đám cưới bạc là lễ mừng kỷ niệm 25 năm ngày thành hôn. Đám cưới vàng là kỷ niệm 50 năm ngày thành hôn.
(9) Người Phần Lan ở vùng Ban Tích.
(10) Viên phu trạm về hưu Ônúphrích - nhân vật trong truyện "Cô hàng kẹo ở Lêphoóctôvô" (1825) của Antôni Pôgôrenxki (A.A.Pêrốpxki, 1787- 1836).
(11) Chỉ việc Napôlêông chiếm Mátxcơva, kinh thành tự thiêu huỷ năm
1812.
(12) Kiểu Đôriđa - một trong ba kiểu kiến trúc chủ yếu cổ Hy Lạp (các loại bố cục kiến trúc). Các công trình xây dựng theo kiểu Đôriđa nổi bật bởi tính hàm súc, giản dị và nghiêm trang về đường nét.
(13) Trích trong truyện cổ tích bằng thơ "Mụ ngốc Pakhômốpna" của A.E.Idơmailốp (1779-1831).
(14) Câu trích không thật đúng theo hài kịch "Tay khoác lác" (1786) của Ia.B.Knhiagiơnhin (1742-1791).
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Người Coi Trạm:
Viên chức vào hạng bét
Độc tài trạm giao thông
Công tước Viademxki(1)
Thử hỏi ai là kẻ chưa từng nguyền rủa những người coi trạm, ai là kẻ chưa từng chửi bới họ? Ai mà chả có lần, trong một phút giận dữ, đã đòi cho được quyển sổ tai hại để ghi vào đó những lời than phiền bất lợi về một sự xúc phạm, một thái độ lỗ mãng hay một điều sai hẹn? Ai là người chưa từng xem họ như những ác ôn giữa giống người, như là lũ thơ lại(2) hiện hình, hay ít nhất cũng như những tên kẻ cướp ở Murôm(3)? Nhưng chúng ta phải công bằng một chút, hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh của họ, và có thể, chúng ta sẽ xét đoán về họ một cách khoan dung độ lượng hơn. Vậy người coi trạm là gì? Đó là kẻ bị đày ải thực sự ở bậc thang thứ mười bốn, may lắm cũng chỉ nhờ vào thứ bậc ấy mà thoát khỏi những cái đấm đá, nhưng không phải lúc nào cũng thoát được đâu (điều này thì tôi để tuỳ lương tâm độc giả xét lấy). Thế thì những con người mà công tước Viademxki vẫn gọi đùa là nhà độc tài ấy, cương vị của họ ra sao? Đó không phải là khổ sai thực sự ư? Cả đêm lẫn ngày chẳng lúc nào được yên. Mọi nỗi bực tức chất chứa trong cuộc hành trình buồn chán của mình, khách lữ hành đều trút cả lên đầu người coi trạm. Trời xấu, đường sá gập ghềnh, người đánh xe cứng đầu cứng cổ, lũ ngựa không
chịu kéo - tất cả đều là lỗi của người coi trạm. Bước vào chỗ ở nghèo nàn của y, khách đi đường nhìn y như nhìn một kẻ thù; may mắn thay, nếu y tống tiễn được nhanh chóng người khách không cầu mà đến ấy; nhưng nếu rủi không có ngựa?... Lạy Chúa! Bao nhiêu lời nguyền rủa, doạ nạt trút xuống đầu y. Giữa trời mưa lầy lội, y vẫn phải chạy vạy khắp các nhà; giữa bão táp, giá băng cắt thịt, y vẫn phải bước ra ngoài phòng đệm, chỉ cốt được yên thân một phút, thoát khỏi những tiếng la ó, những cái xô đẩy của khách đi đường đang cơn thịnh nộ. Một vị tướng đến; người coi trạm run rẩy dâng ngay hai cỗ xe cuối cùng, trong đó có cả cỗ xe chạy công văn hoả tốc. Vị tướng ra đi không có lấy một lời cảm ơn! Và năm phút sau lại có tiếng nhạc ngựa!... Và viên sĩ quan liên lạc(4) ném lên bàn cho y một tờ lộ trình!... Hãy xét cho đến nơi đến chốn mọi nguồn cơn ấy, thì nỗi tức giận sẽ tiêu tan và lòng ta sẽ chan chứa một mối thông cảm chân thành. Xin thêm vài dòng nữa; trong suốt hai mươi năm trời, tôi đã đi ngang về dọc khắp nước Nga, đã thông thuộc hầu hết các đường trạm, đã biết vài thế hệ những người đánh xe; ít có những người coi trạm mà tôi không quen mặt, và cũng hiếm những người không có việc liên quan tới tôi; những chuyện lý thú lượm lặt được dọc đường tôi sẽ cho xuất bản một ngày gần đây; trong khi chờ đợi, tôi chỉ cần nói rằng dư luận chung quan niệm về tầng lớp những người coi trạm một cách thật là sai lệch. Những người coi trạm bị vu khống quá chừng ấy, nói chung, là những con người bình lặng, bản tính vốn ân cần, dễ chan hoà, chỉ có những ước vọng khiêm tốn về danh vị và không hề tham lam quá độ. Trong những chuyện trò của họ (thứ chuyện trò mà quý ngài hành khách vẫn không thèm lưu ý) có thể rút ra nhiều điều thú vị và bổ ích. Riêng tôi, thú thật là tôi thích những chuyện trò ấy hơn là lời lẽ của các ngài quan chức bậc sáu di chuyển vì công vụ.
Cũng chẳng khó khăn gì mà không đoán ra rằng tôi có những người bạn thân ở tầng lớp coi trạm đáng kính ấy. Quả thật ký ức tôi còn trân trọng hình ảnh của một người trong số đó. Trước đây, hoàn cảnh đã khiến cho chúng tôi gần gũi nhau và giờ đây, chính đó là người tôi muốn đem ra nói chuyện cùng độc giả thân mến.
Tháng Năm năm 1816, tôi có dịp qua tỉnh X. theo con đường trạm, đường trạm ấy ngày nay đã bỏ rồi. Tôi ở cấp bậc thấp nên đi xe thư và nhận trả phần tiền hai con ngựa. Do đó mà đối với tôi, những người coi trạm chẳng có gì vì nể, và thường thường tôi cứ phải đấu tranh gay go để giành lấy những gì mà tôi cho là quyền lợi chính đáng của mình. Còn trẻ trung và xốc nổi, tôi công phẫn vì thái độ luồn cúi và hèn nhát của những người coi trạm khi người này đem cỗ tam mã dành phần tôi thắng ngay vào chiếc xe lớn của một vị đại thần quyền quý. Và cũng như thế, trong một thời gian khá lâu, tôi không thể nào quen được với việc người hầu hay bắt bẻ bỏ sót tôi trong bữa tiệc của viên tổng đốc. Ngày nay, việc này hay việc kia, đối với tôi hình như cũng là điều tự nhiên thôi. Thật vậy, sự thể sẽ ra sao, nếu thay thế vào quy tắc phổ biến: cấp bậc tôn trọng lấy cấp bậc, ta đem áp dụng một quy tắc khác, chẳng hạn như: trí tuệ tôn trọng lấy trí tuệ? Bao nhiêu cuộc bàn cãi sẽ nổ ra! Và những người hầu còn biết ai là người mình cần phải phục dịch trước tiên? Nhưng thôi, hãy trở về với câu chuyện tôi đang kể.
Hôm ấy là một ngày oi bức. Còn cách trạm N. ba véc-xta thì trời bắt đầu mưa đổ hột, và một phút sau thì một trận mưa rào xối cho chúng tôi ướt như chuột lột. Đến trạm, việc đầu tiên là thay quần áo cho nhanh và việc thứ hai là bảo pha trà. - "Này, Đunhia! - bác coi trạm lớn tiếng gọi, - soạn đốt ấm xa mô-xa và đi lấy kem nhé". Bác vừa dứt lời thì từ sau vách ngăn một thiếu nữ độ mười bốn tuổi đi ra, rảo bước về phía phòng đệm. Sắc đẹp của cô bé làm tôi choáng người. - "Con gái của bác đấy à?" - tôi hỏi người coi trạm. - "Vâng, con gái tôi đấy! - bác ta đáp lại với một vẻ hãnh diện, - cháu rất ngoan và nhanh nhẹn, giống hệt mẹ nó lúc sinh thời". Rồi bác bắt đầu vào sổ giấy lộ trình của tôi, còn tôi thì chú ý ngắm những bức tranh trang trí trong ngôi nhà đạm bạc, nhưng tươm tất. Mấy bức tranh kể lại chuyện "Đứa con hư": bức thứ nhất vẻ một cụ già đội mũ chụp, mặc chiếc áo khoác ngủ, từ biệt một thanh niên có vẻ sốt ruột đang vội vàng nhận lấy lời ban chúc của cha cùng với một túi bạc đầy. Trong bức thứ hai, đời sống hư hỏng trác táng của chàng thanh niên được vẻ nên với những đường nét sắc sảo: y ngồi bên một cái bàn
giữa đám bạn bè dối trá và những người đàn bà trơ trẽn. Bức tiếp theo vẽ người thanh niên khốn cùng rách rưới, đầu đội mũ ba góc, đang chăn mấy con lợn và chia thức ăn với chúng; mặt y lộ rõ vẻ buồn sâu sắc và lòng hối hận. Cuối cùng là cảnh anh chàng trở về với người cha; ông già phúc hậu vẫn chiếc mũ và cái áo ấy, niềm nở ra đón chàng: đứa con hư hỏng đang quỳ trước mặt cha; phía hậu cảnh, người ta thấy chú đầu bếp đang thịt một con bê béo mập và người anh đang hỏi đày tớ về duyên cớ của bữa tiệc mừng. Dưới mỗi bức tranh tôi đọc được những câu thơ hoạ cảnh bằng tiếng Đức. Đến ngày nay, ký ức của tôi còn giữ nguyên tất cả những thứ ấy, cùng chậu hoa phụng tiên, chiếc giường với chiếc màn cửa sặc sỡ và những đồ vật khác ở quanh tôi hồi ấy. Tôi cũng còn thấy rõ như đang ở trước mặt tôi, người chủ nhà ấy trạc độ năm mươi, tươi tắn nhanh nhẹn trong chiếc áo hơi dài màu xanh lá cây với ba tấm mề-đay mà dây đeo đã bạc màu.
Tôi chưa kịp thanh toán xong tiền nong với người đánh xe trạm trước, thì Đunhia đã trở về với ấm xa-mô-va. Chỉ liếc nhìn tôi đến lần thứ hai là cô bé yểu điệu đã nhận thấy tác động của nàng đối với tôi: cặp mắt to và xanh của cô nhìn xuống; tôi bắt chuyện, nàng đáp lại không chút e thẹn như một cô gái lịch duyệt. Tôi mời người cha một cốc rượu pun-sờ; trao cho Đunhia một chén trà, và cả ba chúng tôi chuyện trò như những người quen biết nhau từ đời nảo đời nào.
Ngựa sẵn sàng đã lâu, nhưng tôi vẫn chưa muốn rời người coi trạm và cô con gái của bác ta. Cuối cùng tôi cũng đành phải từ biệt họ; người cha chúc tôi đi đường mạnh khoẻ, và cô gái tiễn tôi ra tận xe. Trong phòng đệm, tôi dừng lại và xin phép ôm hôn nàng; Đunhia không từ chối... Kể từ khi tôi làm việc đó, tôi cũng đã từng hôn nhiều lần, nhưng chưa có chiếc hôn nào để lại trong tôi một kỷ niệm lâu dài và êm đềm đến thế.
Mấy năm trôi qua, tôi lại có dịp đi trên con đường trạm ấy, trở lại những chốn cũ ấy. Tôi nhớ đến cô gái con bác coi trạm già và thấy lòng vui thích
khi nghĩ rằng mình sẽ được gặp nàng một lần nữa. Nhưng tôi lại tự nhủ có thể bác coi trạm già ấy đã đổi đi nơi khác; chắc là Đunhia đã lấy chồng. Tôi thoáng có ý nghĩ rằng bác ta hay cô gái kia đã chết, và tôi tiến gần tới trạm N. với một mối linh cảm buồn rầu.
Ngựa dừng lại trước ngôi trạm nhỏ bé. Vào phòng tôi nhận ra ngay những bức tranh kể lại câu chuyện đứa con hư hỏng; cái bàn và chiếc giường vẫn nguyên chỗ cũ; nhưng bên cửa sổ không còn thấy những đoá hoa như xưa, tất cả xung quanh đều đượm một vẻ tàn tạ và bừa bãi. Bác coi trạm già đang nằm ngủ, mình đắp chiếc áo lông tu-lúp; tiếng chân tôi bước vào đã đánh thức bác; bác đã choàng dậy... Đúng là bác Xamxôn Vưrin; nhưng sao già đi nhiều quá! Trong lúc bác vào sổ giấy lộ trình của tôi, tôi ngắm nhìn mái tóc bạc, những nếp nhăn in sâu trên khuôn mặt từ lâu không cạo, cái lưng còng của bác, tôi không khỏi lạ lùng sửng sốt: thời gian ba hay bốn năm đã có thể biến đổi một người đàn ông cường tráng thành một cụ già lọm khọm như thế ư? Tôi hỏi: "Bác không nhận ra tôi à? Tôi với bác là chỗ quen biết cũ đây mà?" - "Vâng, có thể như thế đấy, - bác cau có đáp lại, - con đường lớn lắm, tôi đã gặp bao nhiêu khách đi về". - "Đunhia của bác vẫn mạnh khoẻ chứ?" - tôi hỏi tiếp. Ông già cau mặt. "Ồ, có trời biết được", - bác trả lời. - "Thế nghĩa là cô ấy lấy chồng rồi?" - tôi lại hỏi. Ông già làm ra vẻ như không nghe, và tiếp tục lẩm bẩm đọc tờ lộ trình của tôi. Tôi không hỏi nữa và bảo pha trà. Trí tò mò bắt đầu day dứt tôi, và tôi hy vọng rằng một cốc rượu pun-sờ sẽ làm cho ông bạn già của tôi cởi mở hơn.
Tôi đã không lầm: ông già chẳng từ chối cốc rượu mời. Tôi để ý thấy rượu mạnh đã xoá dần vẻ cau có của ông. Sang cốc thứ hai ông bắt đầu nói nhiều; ông đã nhớ ra tôi, hoặc làm ra vẻ như đã nhớ ra, và tôi biết được câu chuyện của ông, một câu chuyện đã làm tôi chú ý và xúc động mãnh liệt.
- "Thế ra ông có biết con Đunhia nhà tôi? - ông ta bắt đầu. - Ai mà không biết con bé kia chứ? Chao, Đunhia! Đunhia! Thật là một con bé khó ai bì kịp!
Mọi khách đi qua đều trầm trồ khen ngợi chẳng hề ai chê bai nó. Các bà phu nhân làm quà cho nó hoặc chiếc khăn mùi-soa, hoặc đôi hoa tay. Các khách nam giới thì cố ý dừng lại để ăn bữa trưa hoặc bữa tối, nhưng kỳ thực chỉ là
để nhìn nó được lâu hơn. Các vị công hầu, dù cơn thịnh nộ đến thế nào chăng nữa, trước mặt nó cũng dịu ngay xuống và ăn nói với tôi rất ôn tồn. Ông có biết không? Ngay các giao thông viên hoả tốc, các sĩ quan liên lạc cũng trò chuyện với nó hàng nửa giờ. Việc nhà, việc cửa đều một tay nó lo liệu: cần sắp đặt nấu nướng gì nó làm đâu ra đấy cả. Còn tôi một lão già ngu ngốc, tôi cũng để tâm đến nó, có khi tôi cũng nở ruột nở gan về nó nữa; đâu có phải tôi không thương yêu Đunhia, tôi không nâng niu con gái rượu của tôi; đâu có phải là cuộc sống ở đây không xứng đáng với nó? Không! Con người ta dù cầu khẩn thế nào cũng không tránh được tai hoạ, số trời đã định thì không ai thoát khỏi". - Rồi ông ta kể cho tôi rõ chi tiết câu chuyện đau buồn của mình. - Ba năm về trước, một buổi chiều mùa đông, giữa lúc bác coi trạm đang kẻ dòng quyển sổ mới, và sau vách ngăn, cô con gái đang ngồi khâu chiếc áo của mình, thì một cỗ xe tam mã đến, một người khách đầu đội chiếc mũ lông kiểu Tséckétxơ, khoác áo ca-pốt nhà binh, choàng khăn san bước vào phòng đòi lấy ngựa. Bao nhiêu ngựa đều đã cho đi hết rồi. Được báo như thế khách lập tức to tiếng và giơ cao chiếc roi da lên, nhưng Đunhia đã quen với những cảnh ấy, liền từ sau vách ngăn chạy ra, dịu dàng hỏi khách: "Thưa ngài, ngài có cần xơi gì không ạ?" Sự xuất hiện của Đunhia đã có tác dụng như thường lệ. Trận lôi đình của khách tiêu tan ngay; khách bằng lòng chờ ngựa và bảo dọn bữa ăn tối. Sau khi khách đã cất cái mũ lông ướt sũng, tháo chiếc khăn san và cởi áo ca-pốt mới thấy rõ đó là một sĩ quan khinh kỵ trẻ tuổi dáng người cân đối, hàng ria mép đen tỉa nhỏ. Anh chàng ngồi xuống, chuyện trò vui vẻ cùng bác coi trạm và cô con gái. Bữa ăn chiều đã dọn xong. Giữa lúc ấy có ngựa về. Bác coi trạm không kịp cho ngựa ăn, bảo thắng ngay vào xe của khách; nhưng khi trở vào, bác thấy chàng trai trẻ sóng sượt trên ghế dài, gần như bất tỉnh nhân sự. Chàng thấy khó chịu và nhức đầu quá, không thể đi được nữa... Biết làm sao đây! Bác coi trạm nhường chiếc giường của mình
cho khách, và định bụng rằng nếu bệnh nhân không thuyên giảm thì sáng sớm hôm sau phải cho người đi mời thầy thuốc ở S.
Hôm sau chàng khinh kỵ càng ốm nặng. Gia nhân của chàng phải phóng ngựa lên phố mời thầy thuốc. Đunhia buộc vào đầu chàng một chiếc khăn tẩm giấm và ngồi ngay cạnh giường khâu vá. Trước mặt bác coi trạm thì bệnh nhân rên rỉ, hầu như không nói được một tiếng nào, nhưng chàng lại uống những hai cốc cà-phê và vừa rên vừa bảo cứ dọn bữa ăn trưa. Đunhia không rời chàng một bước. Chàng luôn mồm đòi uống và Đunhia bưng cho chàng cốc nước chanh tự tay nàng pha lấy. Bệnh nhân chỉ nhắp môi, và mỗi lần trao lại cốc, để tỏ ý cảm ơn, bàn tay yếu ớt của chàng lại nắm chặt lấy tay nàng. Vào khoảng giờ ăn trưa thì thầy thuốc đến. Ông ta bắt mạch người ốm và trao đổi với chàng bằng tiếng Đức, rồi giải thích bằng tiếng Nga rằng chỉ cần để khách yên tĩnh là khỏi thôi và sau hai hôm là có thể lên đường. Chàng khinh kỵ trẻ trả cho ông ta hai mươi lăm đồng rúp tiền khám bệnh và mời ở lại ăn trưa; thầy thuốc nhận lời; cả hai ăn uống rất ngon lành, cạn hết một chai rượu vang và chia tay, đôi bên đều rất hài lòng.
Một ngày nữa trôi qua, chàng khinh kỵ đã hoàn toàn bình phục. Anh chàng cực kỳ vui vẻ, luôn mồm nói đùa khi thì với Đunhia, khi thì với bác coi trạm; huýt sáo, chuyện trò với khách, ghi giấy lộ trình của họ vào sổ, được lòng bác coi trạm tới mức sớm ngày thứ ba bác rất lưu luyến khi phải từ biệt người khách đáng yêu ấy. Hôm ấy là ngày chủ nhật; Đunhia sửa soạn đi xem lễ. Xe của chàng khinh kỵ đã đánh ra. Chàng từ giã bác coi trạm và trả tiền trọ, tiền ăn cho bác rất hậu; chàng chào Đunhia và tình nguyện chở nàng đến nhà thờ ở cuối làng. Đunhia đang phân vân. Cha nàng bảo: "Con sợ gì kia chứ, ngài đây không phải là con sói, ngài có ăn thịt con đâu mà sợ? Hãy đi nhờ xe ngài đến nhà thờ con ạ". Đunhia ngồi lên xe bên cạnh chàng sĩ quan khinh kỵ, người hầu nhảy lên chỗ mình, anh đánh xe huýt lên một tiếng và mấy con ngựa phóng đi.
Bác coi trạm khốn khổ kia không hiểu làm sao tự mình lại có thể cho Đunhia cùng đi với chàng khinh kỵ, cái gì làm cho mình mê muội đi và lý trí mình để đâu? Chưa được nửa giờ, tim bác bắt đầu thắt quặn và nỗi lo âu giày vò tâm can đến nỗi bác không làm sao chịu được nữa, bác liền ra nhà thờ. Đến nơi bác thấy người đi xem lễ đã tản mát ra về, mà ở trên sân nhà thờ vẫn không thấy Đunhia đâu, trên bậc thềm cũng không có. Bác vội vã đi vào thánh đường, linh mục đang từ điện thờ bước xuống; người trợ lễ đang tắt các ngọn nến, trong một góc hai bà già đang còn cầu nguyện nhưng Đunhia thì không thấy tăm dạng. Người bố khốn khổ mãi mới dám đánh bạo hỏi người trợ lễ xem Đunhia có đi xem lễ không. Người ấy trả lời là cô ta không đến. Bác coi trạm như người dở sống dở chết trở về. Chỉ còn một hy vọng cuối cùng: Đunhia đang ít tuổi nhẹ dạ, có thể lại muốn đi chơi một chuyến đến tận trạm sau thăm bà mẹ đỡ đầu ở đó. Trong tâm trạng lo âu quằn quại, bác chờ cỗ xe trở về, cỗ xe mà bác đã trót để cho con gái ra đi. Người đánh xe vẫn bặt tăm. Cuối cùng, mãi đến chiều tối anh ta mới trở về, chỉ có một mình, say tuý luý, với một cái tin chết điếng: "Đến trạm sau, Đunhia đã tiếp tục đi luôn với chàng khinh kỵ"
Ông già không chịu nổi vì bất hạnh ấy, ngã lăn ra ngay trên chiếc giường mà hôm trước anh chàng trai trẻ bịp bợm kia đã nằm. Giờ đây bác coi trạm mới nghĩ lại những việc đã qua và vỡ lẽ ra rằng cái trò đau ốm kia hoàn toàn là vờ vịt cả. Ông già bị một trận sốt ly bì. Họ chở bác đến S. và chỉ định một người khác tạm thế cho ông. Người chữa cho bác lại cũng chính là viên thầy thuốc đã được mời chữa cho chàng khinh kỵ trước kia. Viên thầy thuốc quả quyết với bác rằng anh chàng thanh niên ấy chẳng bệnh tật gì cả, và ngay bấy giờ ông đã đoán được dụng ý hiểm độc của hắn, nhưng không dám nói vì ông sợ chiếc roi da. Không biết người Đức ấy nói thật hay chỉ là muốn khoe rằng mình có con mắt tin đời, nhưng điều ông ta nói cũng chẳng an ủi gì được cho bệnh nhân khốn khổ. Vừa mới bình phục thì bác đã xin chủ sự bưu vụ ở S. cho nghỉ phép hai tháng, và không hở với ai một lời về ý định của mình, bác cuốc bộ lên đường đi tìm con gái. Xem lại sổ, bác được biết rằng người đó là
đại uý khinh kỵ Minxki đi từ Xmôlenxcơ đến Pêterburg. Người đánh xe chở y đi đã kể lại rằng Đunhia khóc suốt dọc đường, mặc dù nàng đi là tự nguyện. Bác coi trạm nghĩ: "Có thể ta lại dắt được con cừu lạc của ta trở về!" Với ý nghĩ ấy bác đi đến Pêterburg, nghỉ lại ở chỗ đóng quân của trung đoàn Idơmailốp(5), trong nhà một hạ sỹ quan hồi hưu, bạn đồng ngũ trước kia và bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình. Chẳng bao lâu bác được biết rằng đại uý Minxki ở tại khách sạn Đêmutốp(6). Bác coi trạm quyết định đến gặp y.
Từ sáng sớm, bác đã đến tiền sảnh và nhờ vào bẩm với đại uý rằng có một người lính già xin yết kiến. Người lính hầu đang lau một chiếc ủng lồng trong cốt, bảo rằng: "Ngài đang ngủ và không tiếp ai trước mười một giờ". Bác coi trạm bỏ đi và trở lại đúng giờ đã định. Minxki đầu đội mũ chụp đỏ, mặc áo choàng ngủ, thân hành ra đón bác. "Nào, người anh em, cần gì đấy?" - y hỏi. Tim ông già đập mạnh, nước mắt trào ra và giọng rung rung chỉ nói được mấy lời: "Bẩm quan lớn!... xin ngài hãy vì Chúa mà sinh phúc..." Minxki liếc nhìn bác rất nhanh, mặt y đỏ bừng, y chụp lấy tay bác, kéo vào phòng mình, đóng kín cửa lại. "Bẩm quan lớn, - ông già nói tiếp, - dù sao việc cũng đã lỡ rồi; ít nhất cũng xin ngài trở con Đunhia tội nghiệp lại cho tôi. Bây giờ ngài đã thoả thích với nó rồi, xin ngài đừng đẩy nó đến chỗ tàn tạ làm gì". - "Việc đã qua, ta không bàn trở lại, - chàng trai trả lời, vẻ hết sức bối rối, - tôi có lỗi với lão, tôi mong lão bỏ qua cho; nhưng chớ có nghĩ rằng tôi có thể rời bỏ Đunhia, nàng sẽ được sung sướng, tôi lấy danh dự mà nói với lão như thế. Lão đem nàng về làm gì nào? Nàng yêu tôi; nàng không còn quen với cảnh sống trước kia nữa rồi. Việc đã xảy ra, lão cũng như Đunhia, sẽ không thể nào quên được đâu". Nói đoạn, Minxki chuồi vào ống tay áo của bác một vật gì đó; y mở cửa ra, và người coi trạm chưa kịp trấn tĩnh thì đã thấy mình đang đứng ở giữa đường.
Bác đứng đờ ra đấy hồi lâu, cuối cùng thấy trong tay áo mình có cuộn giấy; bác rút ra, mở xem thấy mấy tờ giấy bạc năm rúp và mười rúp nhàu nát. Nước mắt bác lại trào ra, những giọt nước mắt phẫn uất! Bác vò nát mấy tờ
giấy bạc ném xuống đất, xéo dưới gót chân, rồi bỏ đi... Được mấy bước, bác dừng chân, suy nghĩ... và quay trở lại... nhưng mấy tờ giấy bạc không còn đó nữa. Một anh chàng trai trẻ ăn mặc bảnh bao thấy bác, bèn chạy nhanh đến một cỗ xe cho thuê, nhảy vội lên và thét: "Đi đi!..." Bác coi trạm không buồn đuổi theo. Bác quyết định sẽ trở về trạm sở, nhưng bác lại muốn nhìn thấy cô con gái Đunhia đáng thương của mình dù chỉ một lần nữa thôi cũng được. Vì thế, hai hôm sau bác trở lại chỗ Minxki; người lính hầu lạnh lùng bảo rằng quan lớn không tiếp ai cả, lấy người ẩy bác ra khỏi nhà và đóng sầm cửa ngay trước mũi bác. Bác coi trạm đứng lặng một lúc, rồi bỏ đi.
Cũng ngay ngày hôm ấy, vào buổi chiều, sau khi xem lễ ở nhà thờ "Tất cả những người đau khổ", bác đi dọc đường phố Lichâynaia. Bỗng một chiếc xe ngựa sang trọng vụt qua, và bác coi trạm nhận ra Minxki. Chiếc xe dừng bánh trước cổng một ngôi nhà ba tầng và gã kỵ binh bước nhanh lên bậc thềm. Một ý nghĩ bất ngờ chợt loé lên trong trí óc người coi trạm. Bác quay trở lại, đến gần anh đánh xe, hỏi: "Ông bạn ơi, ngựa này có phải của ngài Minxki không?" - "Phải đấy, - anh đánh xe đáp, - nhưng bác muốn gì?" - "May quá, ngài Minxki có bảo tôi đem đến cho cô Đunhia một lá thư nhỏ, nhưng tôi quên mất không nhớ nhà cô Đunhia ở đâu cả?" - "Ồ, ở đây chứ đâu, trên gác hai ấy. Nhưng bác và thư đến chậm rồi; bây giờ thì chính ông ấy đã đến đây với cô ta". - "Không cần, - bác coi trạm trả lời, lòng hồi hộp không sao tả xiết, - cám ơn anh đã chỉ bảo cho, nhưng việc tôi, tôi phải làm". Dứt lời, bác bước ngay lên cầu thang.
Cửa đóng kín; bác gõ cửa, mấy giây chờ đợi đối với bác thật là nặng nề. Tiếng chìa khoá lách cách, có người mở cửa. - "Có cô Ápđôchia Xamxônốpna° ở đây phải không ạ?" - bác hỏi. - "Phải, ở đây, - cô hầu gái trẻ tuổi đáp, - bác cần hỏi việc gì?" Bác coi trạm không trả lời, bước vào phòng. "Ấy chớ, chớ! - cô hầu gái gọi với theo. - Ápđôchia Xamxônốpna đang bận khách". Nhưng bác coi trạm không nghe, cứ đi thẳng. Qua hai gian phòng tối, đến phòng thứ ba thì thấy có đèn. Bác đến gần cái cửa đang mở và dừng lại.
Trong gian phòng bày biện sang trọng, Minxki đang ngồi tư lự. Đunhia phục sức lộng lẫy theo thời trang ngồi trên tay vịn của ghế bành trông như một nữ kỵ mã trên chiếc yên ngựa kiểu Anh(7) của mình. Nàng đang âu yếm nhìn Minxki, mân mê quấn món tóc quăn đen nhánh của chàng vào mấy ngón tay óng ánh kim cương. Tội nghiệp cho bác coi trạm! Chưa bao giờ bác thấy con gái của bác xinh đẹp đến thế; bác ngẩng mặt nhìn. "Ai đấy?" - Đunhia cất tiếng hỏi, không ngẩng mặt nhìn. Bác vẫn im lặng. Không nghe tiếng trả lời; Đunhia ngẩng đầu... và thét lên một tiếng, ngã lăn ra trên tấm thảm. Minxki hoảng hốt vội chạy đến đỡ nàng, nhưng bỗng nhìn ra cửa, thấy người coi trạm già, y bỏ Đunhia, xông về phía bác, run lên vì tức giận. "Ngươi cần gì? - y nghiến răng hỏi, - tại sao ngươi cứ theo ta khắp nơi như đồ trộm cướp? hay là người muốn ám sát ta? Cút đi!" - và bàn tay khoẻ mạnh của y túm lấy cổ áo ông già, tống ra cầu thang.
Bác trở về chỗ trọ. Người bạn khuyên bác đi kiện; nhưng bác coi trạm suy đi tính lại, đành phó mặc trời, và quyết định rút lui. Hai ngày sau bác từ giã Pêterburg trở về trạm sở tiếp tục làm nhiệm vụ của mình. "Thế là đã ba năm rồi, - bác kết luận, - tôi sống không có Đunhia và cũng biệt vô âm tín về nó. Nó còn sống hay không, chỉ có Chúa mới biết. Lường sao cho hết được việc đời. Nó không phải là người đầu tiên cũng phải là kẻ cuối cùng bị bọn phóng đãng qua đường quyến rũ, giữ một ít lâu, rồi ruồng bỏ. Ở Pêterburg có rất nhiều những cô ả, hôm nay sống trong nhung lụa, ngày mai đã thấy ra quét đường cùng với lũ người khốn cùng rách mướp(8). Đôi khi nghĩ rằng Đunhia sẽ có ngày lâm vào cảnh ấy, thì dù biết là mang tội với Chúa, tôi vẫn mong cho nó chết đi còn hơn..."
Câu chuyện của người bạn coi trạm già của tôi là như thế ấy, một câu chuyện luôn bị ngắt quãng vì những giọt nước mắt mà bác lấy ống tay áo gạt khéo đi giống như nhân vật Têrentích(9) cần mẫn trong bài ca tuyệt tác của Đmitơriép. Những giọt nước mắt này nhỏ ra một phần cũng vì sự kích thích của năm cốc rượu pun-sờ mà bác đã nốc cạn trong khi kể chuyện; nhưng dù
sao vẫn làm cho tim tôi xúc động mãnh liệt. Sau khi từ biệt, tôi vẫn còn nhớ mãi bác coi trạm già và rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ đến cô Đunhia đáng thương...
Vừa rồi đi ngang qua vùng X. tôi sực nhớ tới ông bạn cũ; tôi được biết rằng ngôi trạm do bác ấy trông nom, ngày nay đã bãi bỏ rồi. Nhưng khi tôi hỏi: "Bác coi trạm già còn sống không?", - thì không một ai trả lời cho thoả đáng, tôi quyết định tới thăm chốn quen thuộc ấy, và thuê ngựa tư về làng N.
Hôm ấy đang trong tiết thu. Mây xám phủ kín bầu trời; gió lạnh thổi qua những cánh đồng đã gặt, cuốn theo những chiếc lá đỏ, vàng của cây cối bên đường. Tôi đến làng khi trời đã ngả về chiều và dừng lại trước túp nhà trạm cũ. Một người đàn bà to béo ra phòng đệm (nơi xưa kia đã có lần Đunhia hôn
tôi), nghe tôi hỏi, bà ta trả lời rằng bác coi trạm già đã mất hơn một năm nay, nhà này bây giờ một người nấu rượu bia đến ở và bà ta là vợ của người ấy. Tôi tiếc cuộc hành trình vô ích và bảy đồng rúp chi tiêu uổng phí. "Bác ta vì sao mà chết thế?" - tôi hỏi vợ người hàng rượu. "Vì uống rượu nhiều quá", - bà ta đáp lại. "Họ an táng bác ấy ở đâu thế nhỉ?" - "Ở ven rìa làng, bên cạnh mộ bà vợ của ông ấy". - "Có thể giúp tôi đến viếng mộ bác ấy không?" - "Sao lại không? Này, Vanhia, thôi đừng nghịch con mèo nữa. Mày đưa ông ấy ra nghĩa trang và chỉ cho ông mộ của bác coi trạm nhé!"
Bà ta vừa dứt lời, một em bé rách rưới, tóc hoe, chột mắt chạy đến bên tôi và lập tức đưa tôi ra nghĩa trang.
Dọc đường tôi hỏi chú bé:
- Cháu có biết bác coi trạm ấy không?
- Sao lại không? Ông ấy vẫn dạy chúng cháu khoét sáo và (mong Chúa cứu vớt linh hồn ông) đôi lúc ông ở quán rượu ra, chúng cháu vẫn bu theo vòi: "Ông ơi ông, hạt dẻ nào!" - thế là ông phân phát hạt dẻ cho chúng cháu. Ông vẫn đùa với chúng cháu đấy.
- Thế hành khách có ai nhớ đến bác ta không?
- Bây giờ thì ở đây ít người qua lại; hoạ hoằn chỉ có ông bồi thẩm thỉnh thoảng về đây. Nhưng ông ấy không hơi đâu mà nghĩ đến người chết. Mùa hè vừa rồi có một bà phu nhân đi qua đây, bà có hỏi thăm ông coi trạm và viếng mộ ông ấy.
Tôi tò mò hỏi:
- Phu nhân nào thế?
- Một phu nhân rất đẹp, - chú bé đáp, - đi một cỗ xe sáu ngựa kéo, với ba cậu ấm, một người vú và một con chó nhỏ đen; khi nghe nói ông coi trạm chết, bà ấy khóc và bảo mấy cậu con rằng: "Các con ngồi đây cho ngoan nhé, mẹ đi ra nghĩa trang". Cháu đã toan tình nguyện đưa đường, nhưng bà bảo: "Ta biết lối đi rồi". Bà cho cháu năm đồng xu bằng bạc, bà ấy tốt quá!...
Chúng tôi đã đến nghĩa trang, một cái bãi trơ trụi, không rào giậu, không một bóng cây, chỉ lơ thơ mấy chiếc thánh giá bằng gỗ. Xưa nay tôi chưa thấy một nghĩa trang nào ảm đạm thê lương đến thế.
- Đây là mộ ông coi trạm già, - chú bé vừa bước tới vừa chỉ một nấm cát có trồng một cây thánh giá mang tượng thánh bằng đồng.
- Bà phu nhân có đến đây à? - tôi hỏi.
- Vâng, đến đây, - em Vanhia đáp; - cháu đứng đằng xa nhìn. Bà ấy sụp xuống đấy nằm mãi một hồi lâu. Sau đó bà vào trong làng gặp linh mục trao một món tiền, rồi ra đi, lại cho cháu một đồng xu năm nữa - bà ấy tốt quá!
Tôi cũng thế, tôi cho em bé một đồng xu năm và không tiếc cuộc hành trình cũng như bảy đồng rúp tiêu phí nữa.
°Ápđôchia tức là Đunhia (Đunhia là tên gọi âu yếm)
PHỤ LỤC
(1) Đề từ trích không thật đúng theo bài thơ "Thư trạm" (1825) của nhà thơ Nga P.A.Viademxki (1792-1878). Bảng phân loại về cấp bậc của Piốt I chia toàn bộ giới quan chức dân sự ra thành mười bốn ngạch bậc, viên chức đăng lục là thuộc bậc thấp nhất, bậc thứ mười bốn.
(2) Bọn thơ lại ở nước Nga trước thời Piốt I nổi tiếng về chuyện ăn của đút và hối lộ. -
(3) Rừng cây ở vùng Murôm (thuộc Vlađimia) trên bờ phải sông Ôca là chỗ trốn tránh của bọn côn đồ trộm cướp.
(4) Người đưa thư từ công văn.
(5) Ý nói vùng ngoại vi của Pêterburg, nơi có doanh trại của trung đoàn Idơmailốp.
(6) Khách sạn loại sang ở Pêterburg trên bờ sông Môika, không xa đại lộ Nhépxki; bản thân Puskin cũng đã nhiều lần trọ ở đó.
(7) Phụ nữ cưỡi ngựa thường có kiểu yên riêng, ngồi vắt hai chân sang một bên. -
(8) Chỉ những người say rượu lúc đêm khuya ngoài đường phố bị bắt buộc phải gác đường cho đến sáng dưới sự giám sát của cảnh sát và phu quét đường.
(9) Têrentích - người hầu nô lệ, nhân vật trong bài thơ "Thầy đội kỵ binh về hưu" (1791) của I.I.Đmitơriép.
TẬP TRUYỆN CỦA ÔNG IVAN PÊTƠRÔVÍCH BENKIN ĐÃ QUÁ CỐ
Alexander Pushkin
www.dtv-ebook.com
Nguyễn Duy Bình Dịch
Cô Tiểu Thư Nông Dân:
Em xinh, em mặc áo nào cũng xinh
Boócđanôvích(1)
Trang viên của Ivan Pêtơrôvích Bêrêxtốp ở vào trong những tỉnh xa xôi của chúng ta. Thuở còn trẻ lão tòng ngũ trong quân cận vệ, đến đầu năm 1797 hồi hưu(2), trở về trại ấp riêng của mình và từ bấy giờ không rời khỏi nơi ấy nữa. Lão kết hôn với một phụ nữ quý tộc nghèo, bà tao chết kỳ ở cữ, giữa lúc lão đang đi săn. Chẳng bao lâu công việc trại ấp đã làm cho lão khuây khoả. Lão cho xây nhà theo bản đồ án thiết kế tự vẽ lấy, dựng lên một xưởng dệt dạ trong trại ấp của mình, tăng lợi nhuận lên gấp ba lần, và bắt đầu tự cho mình là kẻ thông minh nhất trong vùng. Về ý nghĩ này của lão thì những bạn láng giềng cũng không ai phản đối; họ vẫn thường cùng gia đình và đem cả chó nữa đến nhà lão ăn uống. Ngày thường lão mặc áo nhung ngắn, ngày hội lão khoác chiếc áo lễ bằng dạ do nhà lão dệt ra. Lão tự tay ghi lấy những khoảng chi tiêu và chẳng đọc gì hết ngoài tập "Tin tức của Pháp viện tối cao"(3). Nói chung, mọi người đều yêu mến lão, mặc dù họ vẫn cho là lão hợm mình. Không giao hảo với lão thì chỉ có Grigôri Ivanôvích Murômxki, kẻ láng giềng gần nhất. Lão này là một tay quý tộc Nga chính cống. Lão đã vung phí hết phần lớn gia tài ở Mát-xcơ-va, và đến khi goá vợ lão về ở cái trại ấp cuối
cùng còn sót lại. Nơi đây, lão cũng tiếp tục vung phí, nhưng lại theo một cách thức khác. Lão chăm bón một khu vườn theo kiểu Anh và đã ném vào đấy gần hết các khoản thu nhập còn lại. Lũ giữ ngựa nhà lão ăn mặc theo kiểu giô-kề° bên Anh. Con gái lão cũng có một người đàn bà Anh chăm nom. Đồng ruộng của lão cũng trồng trọt theo kiểu Anh:
Nhưng với cách trồng lạ, lúa mì Nga không mọc(4), và mặc dù đã giảm bớt các khoản chi tiêu đi khá nhiều, thu nhập của lão Grigôri Ivanôvích cũng vẫn không tăng thêm lên được. Và tuy ở thôn quê mà lão vẫn tìm được cách chồng chất thêm những món nợ mới. Tuy vậy, người ta vẫn không thể xem lão như là một người ngốc vì lão là người đầu tiên trong các địa chủ của tỉnh đã đem trại ấp mình giao cho Hội đồng giám hộ trông nom(5), một hành động mà thời ấy người ta cho là khó hiểu và táo bạo. Trong số những người chê bai lão này thì Bêrêxtốp là người tỏ ra khe khắt nhất. Thù ghét mọi sự canh tân là một nét đặc biệt trong bản tính của Bêrêxtốp. Lão không thể nào giữ được bình tĩnh khi nói đến thói sùng Anh của kẻ láng giềng và luôn luôn tìm dịp chỉ trích thói ấy. Những khi đưa khách đi xem các trại ấp, hễ khách có khen ngợi cách quản lý của lão, thì lão cười ranh mãnh trả lời: "Thưa vâng, ở nhà tôi không phải như ở nhà ông láng giềng Grigôri Ivanôvích. Tội gì mà lại phá sản theo lối Anh! Tốt hơn là hãy no đủ theo lối Nga là được rồi". Những lời lẽ châm chọc tương tự như thế, được các ngài láng giềng sốt sắng đem đến tai Grigôri Ivanôvích với những lời bổ sung và giải thích thêm. Cũng giống hệt như các nhà báo của chúng ta, lão sùng Anh này không thể kiên nhẫn chịu đựng những lời phê bình. Lão phát khùng lên và mệnh danh các nhà phê bình ác khẩu kia là đồ quê mùa, đồ gấu.
Quan hệ giữa hai trại ấp đang trong tình trạng ấy thì con trai lão Bêrêxtốp về làng. Anh chàng này đã từng học qua trường đại học X. và có nguyện vọng muốn tòng ngũ. Nhưng cha chàng không đồng ý. Mà phục vụ trong hàng văn quan thì chàng trai trẻ này tự cảm thấy là hoàn toàn không có khả năng. Hai cha con chẳng ai chịu ai, và chàng Alếchxây trong khi chờ đợi vẫn
bình tĩnh sống cuộc đời quý tộc nông thôn, để sẵn bộ ria(6) để chờ dịp.
Alếchxây quả là một thanh niên tuấn tú. Nếu cái thân hình cân đối của chàng mà không được bỏ trong bộ quân phục, nếu đáng lẽ xuất hiện trên mình ngựa mà chàng đem lại tuổi trẻ gò lưng trên bàn giấy văn phòng thì thật là đáng tiếc. Nhìn thấy chàng đi săn, luôn luôn phóng ngựa ở hàng đầu, chẳng thèm để ý đến đường sá, những người láng giềng đều nhất trí bảo rằng anh chàng này chẳng bao giờ trở nên một ông chánh văn phòng cho ra hồn được. Các cô tiểu thư để mắt đến chàng, có những cô còn nhìn chàng mê mệt nữa là khác. Nhưng Alếchxây ít lưu ý đến họ, và họ đoán rằng sở dĩ chàng lãnh đạm chắc là chàng đã có nhân tình, nhân ngãi ở đâu rồi. Quả có như thế, họ đã chuyền tay nhau một địa chỉ chép lại từ một bức thư mà chàng đã gửi đi: Gửi Akulina Pêtơrốpna Kurốtskina ở Mátxcơva, trước tu viện Alếchxêépxki, nhà bác thợ đồng Xavêliép, trân trọng nhờ chuyển thư này. A.N.R.
Trong số độc giả của tôi, có nhiều bạn không sống ở nông thôn, các bạn ấy chắc không hình dung được cái duyên dáng của các cô tiểu thư ở các huyện! Được nuôi nấng giáo dục giữa bầu không khí trong lành, dưới bóng những cây lá ở trong vườn nhà, những hiểu biết về thế giới và cuộc đời họ chỉ thu lượm được từ trong sách vở. Tâm trạng cô tịnh, tính tự do và thói quen đọc sách đã làm cho các cô ấy sớm có những tình cảm, những nỗi niềm say đắm rất xa lạ đối với những giai nhân thành thị vốn hay lơ đãng của chúng ta. Đối với các tiểu thư này thì tiếng nhạc ngựa là cả một cuộc phiêu lưu ly kỳ, một chuyến đến thăm một thành phố gần ở đâu đấy đã là cả một biến cố đáng ghi nhớ trong đời, một buổi viếng thăm của một người khách sẽ ghi lại trong họ một kỷ niệm lâu dài, có khi là vĩnh viễn. Chắc hẳn là bất cứ ai cũng có thể sẵn sàng chế giễu những điều kỳ quặc ấy của họ, nhưng những lời giễu cợt của một người quan sát nông cạn không thể nào xoá mờ được những phẩm chất căn bản của họ, mà chủ yếu là cái đặc điểm tính cách, cái nhân cách độc đáo (individualité) mà Giăng-Pôn(7) cho rằng hễ thiếu cái đó là không có cái vĩ đại của con người nữa. Có thể là ở các thủ đô thì phụ nữ được hấp thụ một
nền giáo dục tốt hơn; nhưng tập quán của giới thượng lưu nhanh chóng san bằng mọi cá tính làm cho tâm hồn họ cũng rập khuôn với nhau giống như những chiếc mũ cùng một thời trang vậy. Điều này nói lên hẳn chắc không phải là để lên án hay chỉ trích, nhưng, như một nhà bình luận xưa đã nói: nota nostra manet.
Alếchxây đã gieo vào đám các cô tiểu thư của chúng ta một ấn tượng như thế nào thì cũng dễ hiểu thôi. Chàng là kẻ đầu tiên xuất hiện trước các cô ấy với vẻ u sầu và chán chường, là người đầu tiên nói với các cô ấy về những hạnh phúc đã tiêu tan và tuổi xuân của mình đã tàn tạ; nhất là chàng lại đeo một chiếc nhẫn đen có khắc hình một cái đầu lâu. Tất cả những điều này đều cực kỳ mới lạ đối với cái tỉnh ấy. Các cô tiểu thư cứ phát cuồng lên vì chàng.
Hầu hạ Lida thì có chị Naxchia; chị này lớn hơn Lida vài tuổi, nhưng tính cũng lại nông nổi hệt cô chủ. Lida rất mến chị ta, thổ lộ với chị tất cả mọi điều bí mật và thường cùng chị ta bàn bạc những trò tinh nghịch của mình. Tóm lại trong trại ấp Prilútsinô, Naxchia là một nhân vật quan trọng hơn bất cứ người thị tỳ tâm phúc nào trong bi kịch Pháp.
- Hôm nay xin phép cô cho tôi đi ăn cơm khách, - một hôm Naxchia vừa mặc áo cho Lida vừa nói.
- Được, nhưng ở đâu?
- Ở Tughilôvô, nhà Bêrêxtốp. Hôm nay bên ấy ăn mừng ngày lễ thánh của vợ anh đầu bếp ở nhà họ, và chị ta đến mời chúng tôi tới ăn trưa.
Lida nói:
- A, chủ nhà thì hục hặc với nhau, còn tôi tớ thì tiệc tùng với nhau thế đấy. Naxchia đáp:
- Nhưng việc chúng tôi thì có quan hệ gì đến các ông chủ, hơn nữa, tôi là người hầu của cô, chứ có phải là của ông nhà đâu. Mà cô thì nhât định không có xích mích gì với cậu Bêrêxtốp trẻ tuổi chứ; các cụ sẽ cứ mặc kệ họ cãi nhau; nếu họ lấy đó làm điều thích thú.
- Naxchia, hãy cố mà nhìn rõ xem Alếchxây Bêrêxtốp ra sao, trông anh ta như thế nào, rồi về kể lại cho ta nghe tường tận nhé.
Naxchia nhận lời, và Lida suốt ngày sốt ruột chờ đợi chị ta về. Chiều tối, Naxchia mới ló mặt ra; chị vừa bước vào phòng vừa nói với nàng:
- Ô, Lidavêta Grigôriépna, tôi đã thấy chàng thanh niên Bêrêxtốp rồi, tha hồ mà ngắm; suốt ngày chúng tôi cùng vui chung mà lại.
- Thế nào? Nào kể đi, kể tuần tự có đầu có đũa nhé.
- Thưa cô, thế nay này, chúng tôi đi, tôi, Anhixia Êgôrốpna, Nhênhila, Đunhia...
- Được, được, ta biết rồi. Nhưng rồi sao?
- Thưa cô, để tôi kể tuần tự cho có đầu có đũa! Chúng tôi đến dự bữa ăn trưa. Gian phòng chật ních những người, nào gia nhân nhà Cônbin, gia nhân nhà Dakhariép, mụ quản gia và các cô con gái, người nhà Khlupin...
- Thôi! Còn Bêrêxtốp?
- Khoan đã, thưa cô. Chúng tôi ngồi cả vào bàn, mụ quản gia ngồi ở hàng đầu, tôi ngồi bên cạnh mụ... các cô con gái của mụ thì cứ vênh mặt lên, nhưng tôi chả thèm đếm xỉa gì đến chúng...
- Chao ôi, Naxchia, chán cho mày quá, sao nhiều chi tiết miên man vô tận thế!
- Vâng, nhưng sao cô sốt ruột quá chừng thế! Rồi chúng tôi rời khỏi bàn ăn... chúng tôi ngồi suốt ba giờ đấy, bữa ăn thịnh soạn lắm: bánh mật, bánh kem xanh đỏ và rằn rện... Và rồi chúng tôi rời khỏi bàn ăn, ra vườn chơi trò đuổi bắt nhau, thì công tử hiện ra.
- Nào, thế nào? Có thực đúng là chàng ta đẹp thật không?
- Đẹp lạ lùng, có thể nói là một trang thanh niên tuấn tú. Dáng người cân đối, cao, đôi má hồng hào...
- Thật không? Thế mà ta tưởng rằng da mặt chàng ta tái xanh kia đấy. Thế là thế nào? Mày trông chàng ta thế nào? Buồn rầu chứ? Có vẻ tư lự chứ gì?
- Cô nói gì vậy? Thật trong đời tôi chưa thấy một người nào táo tợn như thế. Cậu ta nảy ra ý kiến chơi đuổi bắt với chúng tôi kia đấy.
- Chạy chơi đuổi bắt với các người. Đâu có thể như thế được!
- Rất có thể như thế đấy! Cậu ta bày ra chuyện này nữa chứ! Hễ bắt được thì ôm hôn.
- Mặc kệ này, Naxchia ơi, mày nói dối!
- Mặc kệ cô, tôi không nói dối. Tôi phải cố hết sức mới bứt khỏi tay cậu ta. Suốt ngày cậu ấy chơi đùa với chúng tôi như thế đấy.
- Thế sao họ bảo Bêrêxtốp chẳng có người yêu và chẳng để mắt đến ai cả?
- Cái đó thì tôi không biết, chứ cậu ta cứ nhìn tôi chằm chặp ấy, nhìn cả Tanhia, con gái ông quản gia, nhìn cả Pasa, đày tớ gái ông Cônbin nữa, nói của đáng tội, cậu ta cũng chẳng làm cho ai phật ý, anh chàng thật đến hay!
- Lạ thật! Thế mày có nghe người trong nhà nói về chàng như thế nào không?
- Họ nói công tử thật là tuyệt diệu, rất hảo tâm, rất vui tính. Chỉ có một điều không tốt là cậu thích chạy theo các cô gái quá chừng. Nhưng theo tôi, điều ấy chưa phải là tai hoạ gì: lâu rồi cũng phải đằm tính lại.
- Sao mà ta muốn thấy mặt chàng quá đi mất! - Lida thở dài nói.
- Thưa cô, điều ấy có gì là khó khăn? Tughilôvô ở gần ta, chỉ chừng ba véc-xta: cô cứ dạo về phía ấy, hay phóng ngựa đi chơi, nhất định là cô sẽ gặp. Ngày nào cậu ấy cũng xách súng đi săn từ sáng sớm.
- Nhưng không được, như thế không tốt. Bêrêxtốp có thể tưởng rằng tao chạy theo chàng. Hơn nữa, hai ông bố đang xích mích ta cũng không nên làm quen với chàng... A, Naxchia! Ngươi có biết không? Ta sẽ cải trang làm một cô gái nhà quê!
- Ồ, đúng đấy. Cô hãy mặc một chiếc áo sơ-mi vải thô, một chiếc áo xa ra-phan và mạnh dạn đi bộ đến Tughilôvô. Tôi cam đoan rằng nhất định Bêrêxtốp sẽ chẳng để cho cô thoát đâu.
- Ừ, mà tiếng vùng này ta nói thạo lắm. Này, Naxchia, Naxchia yêu mến ơi! Sáng kiến này thật tuyệt diệu! - Và Lida đi ngủ, định bụng sẽ thi hành bằng được cái ý định tinh nghịch ấy.
Ngay ngày hôm sau nàng bắt tay vào thực hiện kế hoạch. Nàng cho người ra tiệm tạp hoá mua vải thô, vải xanh Tầu, khuy đồng. Với sự giúp đỡ của Naxchia, nàng cắt áo sơ-mi và xa-ra-phan, huy động tất cả các chị đày tớ gái may, đến chiều hôm ấy mọi việc đã chuẩn bị xong. Lida mặc thử áo mới ngắm mình trước gương soi mà thú nhận rằng chưa bao giờ nàng thấy mình xinh đến thế! Nàng lập tức đi dượt lại vai trò của mình, vừa đi vừa chào cúi sát người, chốc chốc lại lắc lư cái đầu như con mèo đất(9), nàng nói theo giọng gái nhà quê, vừa cười vừa lấy ống tay áo che mặt. Naxchia hoàn toàn
tán thưởng tài cô tiểu thư của mình. Duy chỉ còn một điều khó khăn: nàng thử đi chân đất qua qua lại lại trong sân, ngọn cỏ đâm gót chân mịn màng của nàng đau quá, cát và sỏi đối với nàng hình như không sao chịu nổi. Naxchia lại giúp nàng: chị đo bàn chân Lida, chạy ra đồng tìm gã chăn cừu Tơrôphim và đặt cho gã tết đôi giày vỏ cây theo kích thước ấy. Hôm sau trời vừa tờ mờ sáng Lida đã dậy. Cả nhà vẫn đang ngủ. Naxchia ra cửa đón gã chăn cừu. Tiếng tù và vang lên và đàn cừu vùng thôn dã lần lượt đi qua trước cổng nhà lãnh chủ. Tơrôphim đến gần Naxchia, đưa cho chị đôi giày xinh xắn nhiều màu và nhận năm mươi cô-pếch tiền thưởng. Lida lặng lẽ cải trang làm thôn nữ, thì thầm dặn dò Naxchia về cách đối phó với mụ Giếcxơn, rồi ra cửa sau, băng qua vườn rau, chạy ra đồng.
Lida cuống quýt hỏi: "Ngài bảo gì, vì Chúa, xin ngài chớ có đến. Nếu ở nhà biết rằng tôi nói chuyện với công tử một mình ở trong rừng thì sẽ khổ thân tôi; cha tôi, ông thợ rèn Vaxili sẽ đánh chết tôi thôi". - "Nhưng thế nào tôi cũng phải gặp cô lần nữa". - "Thế thì có hôm tôi còn đến hái nấm ở đây kia mà". - "Bao giờ mới được chứ?" - "Thôi thì mai cũng được". - "Cô Akulina xinh đẹp ơi, tôi muốn ôm hôn cô quá, nhưng tôi không dám. Thế là sáng mai đúng giờ này, thật chứ?" - "Vâng, vâng". - "Nhưng nếu cô nói dối tôi thì sao?" - "Tôi không nói dối". - "Cô thề đi!" - "Vâng, giờ này ngày mai, xin thần thánh chứng giám cho, tôi sẽ đến đây".
Đôi lứa thanh niên chia tay nhau, Lida ra khỏi khu rừng, băng qua cánh đồng, lọt vào khu vườn nhà, ba chân bốn cẳng chạy nhanh vào trong trại, ở đây Naxchia đang đợi nàng. Nàng thay áo quần, lơ đễnh trả lời những câu hỏi sốt ruột của cô đày tớ gái tâm phúc, rồi đi vào phòng khách. Bàn ăn đã bày sẵn, bữa ăn sáng đã dọn xong, và mụ Giếcxơn, mặt trét phấn, mình bó trong chiếc áo thắt lưng ong, đang cắt bánh thành từng lát mỏng. Cha nàng ngợi khen cuộc dạo chơi buổi sáng của con gái. "Không có gì làm cho người ta mạnh khoẻ hơn là dậy sớm" - lão nói. Rồi lão dẫn ra một số ví dụ về những người sống lâu, rút từ trong các tạp chí Anh, và nhận xét rằng tất cả những
người sống lâu ngoài trăm tuổi đều không uống rượu mạnh, vào mùa đông cũng như mùa hè đều dậy từ sớm tinh sương. Lida không nghe cha nói gì. Nàng đang ôn lại trong trí tất cả những tình tiết trong cuộc gặp gỡ buổi sáng sớm, tất cả những câu chuyện trò giữa Akulina với người đi săn trẻ tuổi và lương tâm nàng bắt đầu bứt rứt. Nàng biện hộ cho mình rằng câu chuyện giữa hai người chẳng có gì vượt ra ngoài điều đoan chính, rằng trò tinh nghịch ấy chẳng đem đến hậu quả gì; nhưng vô hiệu, tiếng trách móc của lương tâm nàng vẫn to hơn tiếng nói của lý trí. Điều làm cho nàng lo lắng hơn cả là đã trót hứa với Bêrêxtốp ngày mai sẽ gặp nhau, nàng toan dứt khoát không giữ lời thề trịnh trọng của mình. Nhưng Alếchxây mà đợi nàng không được thì có thể sẽ đi vào trong làng tìm cô con gái của bác thợ rèn Vaxili, cô Akulina thực, béo núc ních, mặt rỗ chằng chịt và như thế chàng ta sẽ khám phá ra được trò tinh nghịch nông nổi của nàng mất. Ý nghĩ ấy khiến cho Lida sợ hãi, và nàng quyết định sáng hôm sau sẽ lại đóng vai Akulina đến cánh rừng nọ.
Về phần mình, Alếchxây đã mê mẩn cả tâm thần, suốt ngày chàng nghĩ đến cô gái mới quen biết; ban đêm bóng dáng người đẹp, nước da bánh mật ấy ám ảnh chàng ngay cả trong các giấc ngủ. Bình minh vừa mới hé, chàng đã mặt áo quần xong. Không kịp để thì giờ nạp đạn vào súng, chàng đi ra đồng với con chó Sbôga trung thành, và chạy đến chốn hẹn hò gặp gỡ. Gần nửa giờ đã trôi qua, nửa giờ chờ đợi khiến chàng sốt ruột không sao chịu nổi. Cuối cùng thấy giữa lùm cây thấp thoáng bóng xa-ra-phan xanh, chàng vội lao tới đón nàng Akulina đáng yêu. Nàng mỉm cười đáp lại vẻ hân hoan chen lẫn lòng biết ơn của chàng. Nhưng bỗng Alếchxây nhận thấy trên khuôn mặt nàng có nét buồn và lo âu. Chàng muốn biết rõ nguyên nhân. Lida thú nhận rằng nàng thấy hành vi của mình quá nhẹ dạ và nàng lấy làm hối hận, rằng lần này nàng không muốn lỗi hẹn nhưng buổi gặp gỡ này sẽ là buổi cuối cùng và nàng xin chàng thôi cho, từ nay chấm dứt việc làm quen chẳng đưa lại một điều gì tốt đẹp cho hai người cả. Lẽ dĩ nhiên là tất cả những điều ấy, nàng đều nói theo lời lẽ của một cô gái nhà quê; nhưng những ý nghĩ và tình cảm khác thường của một cô thôn nữ chất phác khiến Alếchxây kinh ngạc. Chàng sử
dụng tất cả cái tài hùng biện của mình để làm cho Akulina từ bỏ ý định ấy; chàng quả quyết với nàng rằng những ước nguyện của chàng rất trong sạch, hứa hẹn rằng sẽ không để xảy ra một điều gì khiến nàng phải ân hận, sẽ hoàn toàn chiều theo ý nàng và van xin nàng đừng tước mất niềm vui duy nhất của chàng là được gặp nàng dù chỉ hai ngày một lần hay mỗi tuần hai lần. Lý lẽ của chàng là lời lẽ của tình yêu say đắm chân thành và trong giây phút ấy Bêrếxtốp quả đã say mê nàng thật sự. Lida im lặng nghe chàng nói. Cuối cùng nàng bảo: "Anh hãy hứa với tôi rằng không bao giờ anh vào trong làng tìm tôi hay hỏi han gì thêm về tôi. Anh phải hứa là sẽ không tìm cách nào khác để gặp tôi ngoài những buổi mà tôi đã hẹn". - Alếchxây toan viện thánh thần ra thề, nhưng nàng đã mỉm cười ngăn chàng lại: "Tôi không cần lời thề, chỉ lời hứa của anh thôi cũng đủ rồi". Sau đó họ cùng trò chuyện thân mật, cùng dạo chơi trong rừng cho đến lúc Lida bảo chàng là đã đến lúc phải về. Họ chia tay nhau và khi Alếchxây đứng lại một mình chàng không thể hiểu được vì sao một cô gái chất phác ở thôn quê, chỉ mới có hai lần gặp gỡ mà đã có thể chi phối được mình như thế. Mối quan hệ với Akulina đối với chàng có đủ cái sức quyến rũ của một điều gì mới lạ và dù rằng lời giao hẹn của cô thôn nữ lạ lùng này làm cho chàng khổ tâm, nhưng trong đầu óc chàng không hề có ý định là mình sẽ thất tín. Nói cho thật ra, Alếchxây dù có chiếc nhẫn thảm khốc, dù có những quan hệ thư từ bí ẩn, dù có cái vẻ thất vọng ưu sầu, chàng vẫn là một thanh niên tốt và nồng nhiệt, có một tấm lòng trong sáng, có thể rung động với cái hồn nhiên.
Nếu tôi chỉ làm theo ý thích riêng, thì nhất định tôi sẽ miêu tả chi tiết những cuộc hẹn hò của đôi thanh niên, nỗi niềm quyến luyến và tin cậy ngày càng tăng giữa hai người, những câu trò chuyện và những việc khác nữa; nhưng tôi biết rằng phần đông các độc giả sẽ không đồng tình với sở thích của tôi. Những chi tiết ấy, nói chung sẽ có vẻ hư cấu quá mức; vì vậy tôi xin bỏ qua và nói tóm tắt là đầy chưa hai tháng mà Alếchxây đã đắm say ngây ngất và Lida cũng không phải là dửng dưng đối với chàng, tuy nàng lặng lẽ ít nói hơn. Cả đôi bên đều sung sướng với hiện tại mà ít nghĩ đến tương lai.
Thỉnh thoảng trong trí họ cũng thoáng có ý nghĩ về việc kết nghĩa trăm năm, nhưng chẳng ai nói với ai cả. Lý do cũng rõ ràng thôi: dù Alếchxây thấy quyến luyến nàng Akulina xinh đẹp của mình đến thế nào chăng nữa, chàng vẫn luôn luôn nhớ rằng có sự cách biệt giữa mình với cô thôn nữ nghèo hèn; còn Lida thì biết rõ mối hiềm khích giữa cha nàng với cha Bêrêxtốp và không dám hy vọng rằng đôi bên sẽ hoà giải. Hơn nữa, lòng tự ái của nàng được kích thích bởi một ước mong lãng mạn thầm kín là làm sao rốt cuộc được nhìn thấy nhà quý tộc Tughilôvô quỳ dưới chân người con gái bác thợ rèn ở Prilútsinô. Bỗng một việc quan trọng xảy ra suýt nữa làm mối quan hệ giữa hai người thay đổi hẳn.
Một buổi sáng, trời lạnh, quang đãng (cũng như rất nhiều buổi sáng mùa thu ở nước ta) Ivan Pêtơrôvích cưỡi ngựa dạo chơi; như thường lệ, lão đem theo ba cặp chó săn, người giám mã và mấy đứa trẻ con nông nô cầm mõ. Cũng trong buổi sáng ấy, Grigôri Ivanôvích Murômxki thích cảnh trời đẹp, ra lệnh thắng ngựa và phóng nước kiệu dạo quanh khu trại ấp kiểu Anh của mình. Đến khu rừng, lão gặp ông láng giềng, hiên ngang trên mình ngựa, mặc áo khoác ngắn lót da cáo, chực đón một con thỏ đang bị lũ trẻ la ó, đánh mõ đuổi ra khỏi lùm cây. Giá Grigôri Ivannôvích có thể biết trước rằng sẽ có cuộc chạm trán này thì nhất định lão ta đã quay ngoắt sang lối khác; nhưng lão ta hoàn toàn vô tình đi về phía Bêrêxtốp và đột nhiên thấy mình đứng trước mặt kẻ láng giềng chỉ cách một tầm súng ngắn. Không còn có cách nào khác. Murômxki, như một người Âu có học thức, liền thúc ngựa đến trước mặt đối phương, nhã nhặn nghiêng mình chào, Bêrêxtốp, cũng đáp lễ rất sốt sắng, giống như một con gấu bị xích cúi chào quý vị khán giả theo lệnh của viên quản trò. Vừa ngay lúc ấy, con thỏ nhảy phóc khỏi bụi cây và chạy ra cánh đồng. Bêrêxtốp và tên giám mã gào hết gân cổ, thả chó ra và phóng ngựa lao theo vết thỏ chạy. Ngựa của Murômxki vốn chẳng hề đi săn bao giờ, nó sợ hãi lồng lên. Murômxki vốn tự hào là một tay kỵ mã kiệt xuất, buông cương cho ngựa phóng, mừng thầm được dịp thoát khỏi cuộc chuyện trò miễn cưỡng. Nhưng con ngựa phi đến một cái hố bất ngờ không thấy trước,
vụt nhảy sang một bên và Murômxki bị hất khỏi yên ngựa. Bị ngã khá đau trên mặt đất giá băng, lão nằm nguyền rủa con ngựa của mình. Con vật như đã hoàn hồn, cảm thấy trên yên không còn có người, lập tức dừng lại. Ivan Pêtơrôvích phi ngựa đến hỏi thăm lão có bị thương không. Giữa lúc ấy tên giám mã đang túm dây cương dắt cổ con ngựa phạm tội kia lại. Họ đỡ cho
Murômxki trèo lên yên và Bêrêxtốp mời lão về nhà mình. Murômxki không thể chối từ vì cảm thấy mình đã bị hàm ơn. Và như thế là Bêrêxtốp trở về một cách vinh quang, tóm cổ được con thỏ và dẫn theo mình cả kẻ đối phương bị thương, gần như bị bắt làm tù binh vậy.
Hai kẻ láng giềng ăn sáng, chuyện trò khá thân mật. Murômxki yêu cầu Bêrêxtốp cho mọi chiếc xe ngựa, và thú nhận là mình bị ngã đau không thể cưỡi ngựa về đến nhà được. Bêrêxtốp tiễn lão ra tận thềm, và Murômxki trước khi lên đường nhất định đòi cho được Bêrêxtốp phải hứa danh dự là hôm sau sẽ đến dự một bữa ăn thân mật ở Prilútsinô, (cả Alếchxây Ivanôvích nữa). Thế là mối hiềm khích xưa cũ bắt rễ khá sâu sắc, hình như sẵn sàng chấm dứt nhờ cái nhát gan của con ngựa.
Lida chạy ra đón Grigôri Ivanôvích, nàng ngạc nhiên hỏi: "Làm sao thế này? Vì sao cha lại đi khập khiễng thế? Ngựa của cha đâu? Xe nhà ai thế này?".
Lida về phòng và thuật lại câu chuyện cho Naxchia nghe. Cả hai bàn tính mãi về cuộc thăm viếng ngày mai. Alếchxây sẽ nghĩ gì nếu chàng nhận ra rằng cô tiểu thư con nhà thi lễ này chính là cô ả Akulina của chàng? Chàng sẽ nghĩ như thế nào về hạnh kiểm, tính tình nết na và sự chín chắn của nàng. Mặc khác, Lida lại rất thích nhìn xem cuộc gặp gỡ bất ngờ này sẽ đem đến cho anh chàng một cảm tưởng như thế nào... Bỗng một ý nghĩ thoáng nảy ra. Nàng lập tức nói với Naxchia; cả hai lấy làm khoái chá về phát kiến mới của nàng và họ nhất định sẽ thực hiện.
Hôm sau, sau bữa ăn sáng, Grigôri Ivanôvích hỏ con gái có phải là vẫn
giữ ý định lánh mặt cha con Bêrêxtốp không. Lida đáp: "Cha ơi, nếu đã là ý cha muốn, thì con sẽ tiếp họ, nhưng cha phải đồng ý là dù con có xuất hiện trước mặt họ như thế nào, con có làm gì chăng nữa, thì cha cũng đừng quở mắng con và tỏ vẻ gì ngạc nhiên hay phật ý". Grigôri Ivanôvích vừa cười vừa nói: "Lại những trò tinh nghịch gì đây nữa rồi, thôi được, được, đồng ý, ranh con mắt huyền của cha muốn gì cứ tuỳ tiện". Dứt lời lão hôn lên trán con gái và Lida liền chạy đi sửa soạn.
Đúng hai giờ chiều, một chiếc xe lục mã tiến vào trong sân và lăn bánh một vòng quanh bãi cỏ dày rậm xanh biếc. Lão già Bêrêxtốp bước lên thềm, có hai tên người nhà của Murômxki theo đỡ. Cậu con trai cưỡi ngựa đến ngay sau lão và theo vào phòng ăn. Bữa ăn đã dọn sẵn. Murômxki đón các láng giềng của mình hết sức ân cần, đề nghị với họ, trước khi vào bàn ăn hãy đi thăm vườn và chỗ nuôi gia súc, đưa họ đi theo con đường rải cát, quét sạch, giữ gìn rất chu đáo. Lão Bêrêxtốp trong bụng phàn nàn về nỗi phí sức, phí thì giờ vì cái trò cầu kỳ vô vị ấy, nhưng vì phép lịch sự nên im lặng. Con trai lão thì cũng chẳng đồng tình với sự phật ý của ông bố hay tính toán so đo, mà cũng chẳng phục gì lão sùng Anh đầy tự ái; chàng sốt ruột chờ đợi sự xuất hiện của cô con gái của chủ nhân; chàng đã nghe nói đến cô tiểu thư này khá nhiều; như chúng ta đã biết, quả tim của chàng đã bị chiếm rồi, nhưng một cô tiểu thư son trẻ như vậy vẫn có quyền chi phối trí tưởng tượng của chàng.
Mọi người ngồi vào bàn ăn. Alếchxây tiếp tục đóng vai trò lơ đễnh và trầm ngâm. Lida làm duyên làm dáng, nói lí nhí qua kẻ răng, giọng uốn éo như hát, và chỉ nói tiếng Pháp. Cha nàng luôn luôn liếc nhìn Lida và không hiểu con gái mình định giở trò như vậy để làm gì. Nhưng lão thấy rằng tất cả những trò ấy rất lý thú. Mụ Giếcxơn thì cáu tiết, ngậm tăm. Chỉ có Ivan Pêtơrôvích là cứ như ở nhà, ăn gấp đôi ngày thường, uống thả sức, luôn luôn chuyện trò thân mật và cười ha hả rất tự nhiên.
Ăn xong mọi người đứng dậy; khách ra về; và bấy giờ Grigôri Ivanôvích
mới tha hồ cười thoả thuê và hỏi: "Con định giở trò ra với họ để làm gì thế? Nhưng mà này, con biết không? Đánh phấn thế mà hợp với con ấy nhé, cha không đi sâu vào những điều bí ẩn trong cách trang sức của nữ giới, nhưng
cha mà như con thì cha cũng đánh phấn, cố nhiên là đừng đánh nhiều quá, đánh phơn phớt thôi". Trò đùa thành công khiến Lida mừng quýnh. Nàng ôm hôn cha và hứa sẽ suy nghĩ về lời khuyên đó, rồi nàng chạy đi xoa dịu mụ Giếcxơn bấy giờ đang cáu; phải khẩn khoản mãi mụ mới chịu mở cửa phòng và nghe lời thanh minh của nàng: Lida thấy xấu hổ, phải ra mắt những người khách lạ với nước da đen đủi của mình; nàng không dám hỏi xin mụ... nàng tin chắc rằng cô Giếcxơn tốt bụng và đáng yêu sẽ tha thứ cho nàng... và vân vân... Mụ Giếcxơn yên tâm, tin rằng Lida không có ý định chế giễu mụ, mụ bình tĩnh lại, hôn Lida, và để đánh dấu sự hoà giải, mụ tặng nàng hộp phấn Anh mà Lida cầm lấy với một thái độ biết ơn chân thành.
Độc giả cũng đoán biết được rằng sáng sớm ngày hôm sau, không chút chậm trễ, Lida đã có mặt ở chỗ hẹn trong khóm rừng. "Hôm qua công tử mời cơm ở nhà tiểu thư của chúng tôi phải không? - nàng lập tức hỏi Alếchxây, - công tử thấy tiểu thư thế nào?" Alếchxây trả lời rằng chàng không để ý đến cô ta. Lida nói: "Rõ đáng tiếc!" Alếchxây hỏi: "Tại sao thế?" "À, tôi muốn hỏi xem công tử xem có đúng như người ta nói không?" - "Người ta nói gì?" - "Người ta nói tôi giống tiểu thư, có đúng không anh?" - "Nhảm nhí quá đi mất! Trước mặt em, cô ấy chỉ là một con quái vật". - "Ôi, sau công tử lại nói quá đáng thế? Tiểu thư của chúng tôi trắng trẻo là thế, thanh lịch là thế! Tôi làm sao mà sánh được với tiểu thư". Alếchxây thề rằng nàng đẹp hơn tất cả các cô tiểu thư trắng trẻo nhất trên đời, và để cho nàng hoàn toàn yên tâm, chàng bắt đầu miêu tả cô tiểu thư của nàng bằng những nét rất hài hước khiến cho Lida cười như nắc nẻ. "Tuy thế, - nàng thở dài nói, - mặc dù tiểu thư cũng có buồn cười thật, nhưng dù sao trước mặt tiểu thư thì tôi chỉ là một đứa ngu ngốc mù chữ". Alếchxây nói: "Ô, việc ấy có gì là đáng buồn đâu? Nếu em muốn thì tôi sẽ dạy cho em biết đọc và biết viết ngay thôi". Lida nói: "Ừ nhỉ, việc gì không cố gắng học thực sự xem sao". - "Được lắm, cô nàng xinh
đẹp ơi, ta bắt đầu ngay bây giờ nhé!" Hai người ngồi lại. Alếchxây rút trong túi ra một cây bút chì và một cuốn sổ tay, Akulina học thuộc chữ cái nhanh chóng lạ thường, Alếchxây không thể không thán phục trí thông minh cùa nàng. Đến sáng hôm sau nàng đã muốn thử tập viết, ban đầu thì cây bút không chịu nghe theo ý nàng, nhưng sau mấy phút nàng đã tô được những nét chữ khá rõ. Alếchxây bảo: "Thật là phi thường, thế là chúng ta học có kết quả nhanh hơn là theo phương pháp Lencátxtơ đấy"(11). Qủa nhiên sang buổi học thứ ba, Akulina đã có thể đánh vần được truyện "Natalia, cô con gái nhà quý tộc"(12). Trong khi đọc, nàng thỉnh thoảng ngừng lại nhận xét mấy câu khiến cho Alếchxây rất đỗi kinh ngạc, và nàng viết đầy trang giấy những câu cách ngôn rút từ trong truyện ra.
Một tuần lễ sau, họ đã có thể thư từ qua lại với nhau. Phòng bưu vụ được thành lập trong một gốc cây sồi già. Naxchia bí mật làm nhiệm vụ đưa thư. Alếchxây mang đến đó những tập thư viết chữ to như con gà mái và nhận được những dòng chữ nguệch ngoạc của người yêu viết trên mảnh giấy thô màu xanh. Akulina hình như đã quen với những lời lẽ ý nhị hơn và trí tuệ ngày càng được mở mang và trao dồi thêm một cách rõ ràng trông thấy.
Trong lúc ấy thì tình quen biết mới đây giữa Ivan Pêtơrôvích Bêrêxtốp và Grigôri Ivanôvích Murômxki ngày một thắt chặt thêm và chẳng bao lâu đã trở thành tình bạn thân thiết. Số là Murômxki thường vẫn nghĩ rằng hễ Ivan Pêtơrôvích qua đời thì tất cả tài sản sẽ chuyển sang tay Alếchxây, và như thế thì Alếchxây sẽ trở thành một trong những kẻ giàu có nhất tỉnh, và không có lý do gì lại không gả Lida cho chàng ta. Về phía mình cũng thế, lão già Bêrêxtốp tuy có nhận thấy lão láng giềng của mình cũng có rồ dại ít nhiều (hay nói theo lời của lão ta là mắc bệnh sùng Anh ngu ngốc), nhưng cũng không phủ nhận rằng lão này có nhiều phẩm chất đặc biệt, chẳng hạn như là tài tháo vát hiếm có; Grigôri Ivanôvích là người có họ gần với bá tước Prônxki, một người quyền quý và có thế lực, bá tước sẽ có thể giúp ích rất nhiều cho Alếchxây và chắc hẳn là Murômxki (theo như Ivan Pêtơrôvích
nghĩ) sẽ vui mừng khi thấy có dịp gả con gái mình một cách có lợi. Từ đó hai lão già cứ luôn luôn ngẫm nghĩ về việc ấy, rồi cuối cùng họ cũng trao đổi ý kiến với nhau, ôm hôn nhau và hứa hẹn sẽ chăm lo thu xếp cho ổn thoả, rồi mỗi người bắt tay lo lắng chu tất về phần mình. Một khó khăn đối với Murômxki là làm sao khuyên Lida nhanh chóng làm thân với Alếchxây, kẻ mà từ sau bữa ăn đáng ghi nhớ kia, nàng chẳng hề gặp lại lần nào nữa. Hình như đôi bên cũng chẳng thích gì nhau lắm; dù sao thì Alếchxây cũng chẳng hề trở lại đất Prilútsinô, và cứ mỗi lần Ivan Pêtơrôvích có lòng chiếu cố đến chơi thăm là Lida vội lánh mặt chạy vào buồng. Nhưng Grigôri Ivanôvích nghĩ rằng nếu ngày nào Alếchxây cũng đến nhà mình, thì rồi Lida sẽ phải say mê nó. Đó là lẽ thường của tạo vật. Thời gian sẽ dàn xếp cho mọi việc ổn thoả.
Ivan Pêtơrôvích thì ít băn khoăn hơn, lão tin chắc rằng dự định của mình thế nào cũng thành công. Ngay buổi chiều lão gọi con trai vào phòng, châm tẩu thuốc hút, rồi sau mấy phút yên lặng, lão nói: "Thế nào đấy con, Alếchxây, sao lâu nay không thấy con nói gì đến việc tòng ngũ nữa. Hay là bộ quân phục khinh kỵ không còn quyến rũ con nữa!..." Alếchxây lễ phép trả lời: "Không, thưa cha, con thấy cha không thích con nhập ngũ vào quân khinh kỵ; bổn phận con là phải vâng là cha". Ivan Pêtơrôvích nói: "Tốt, ta thấy con là một đứa con ngoan; ta rất hài lòng; chính ta cũng chẳng muốn cưỡng ép con; ta sẽ không bắt buộc con phải đi vào chính giới vội... Nhưng trong khi chờ đợi, ta có ý định cưới vợ cho con".
- Cưới ai thế, thưa cha? – Alếchxây sửng sốt hỏi.
- Cưới cô Lida, con gái Grigôri Ivanôvíc Murômxki, - Ivan Pêtơrôvích trả lời, - đám này thật là có một không hai đấy, đúng không nào?
- Thưa cha, con chưa nghĩ đến việc hôn nhân.
- Con chưa nghĩ, nhưng ta đã nghĩ cho con, đã suy đi nghĩ lại mãi rồi đấy.
"""