" Tập San Sử Địa Tập 1 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập San Sử Địa Tập 1 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : TẬP SAN SỬ ĐỊA 1 Tác giả : NHÓM GIÁO SƯ, SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM SÀIGÒN CHỦ TRƯƠNG Nhà xuất bản : Nhà sách KHAI TRÍ bảo trợ Năm xuất bản : 1966 ------------------------ Nguồn sách : Thích Đức Châu Đánh máy : LiemNT, wonchou, mopie, Patimiha, chip_mars, inhnn.ictc, Thao nguyen, minhf@yahoo, Ngoc Minh Kiểm tra chính tả : Trịnh Quang Hợp, Trần Thị Thanh Nga, Thiên Sơn, Nguyễn Vân Anh, Tạ Ngọc Mai Quyên, Nguyễn Thị Mai Hường, Thư Võ Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 08/04/2018 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn NHÓM GIÁO SƯ, SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM SÀIGÒN và nhà sách KHAI TRÍ đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC LÁ THƯ TÒA SOẠN VÀI LỜI GIỚI THIỆU CỦA ÔNG KHOA-TRƯỞNG ĐẠI HỌC SƯ-PHẠM SAIGON NHỮNG LỜI THỀ CỦA LÊ-LỢI (VĂN NÔM ĐẦU THẾ-KỈ I5) I. BẢN SAO KIỀU-ĐẠI 2. HAI THỆ-VĂN NÔM Bài A : Lời gọi công thần cùng thề nhớ ơn Lê-Lai Bài B : Lời thề cùng tướng sĩ quân nhân (nôm) 3. XÉT BÀI A 4. XÉT BÀI B 5. XÉT VĂN NÔM VÀ CHỮ NÔM TRONG HAI BÀI A VÀ B ĐÀ LỊCH SỬ... LƯỢC-SỬ CHẾ-ĐỘ XÃ-THÔN Ở VIỆT-NAM : CHẾ-ĐỘ XÃ THÔN TỰ-TRỊ – CÓ NÊN GIỮ LẠI CHẾ-ĐỘ XÃ-THÔN TỰ TRỊ KHÔNG ? ĐẶT VẤN ĐỀ SỰ THÀNH LẬP « XÃ » – SỰ QUẢN-TRỊ « XÃ » QUA CÁC TRIỀU LÝ, TRẦN VÀ LÊ-SƠ XÃ-THÔN TỰ-TRỊ Lược sử chế-độ xã thôn tự trị từ Lê-Thánh-tông trở về sau Tính-cách tự trị của Xã : Cơ-quan thừa hành và Hội-Đồng Xã Cách thi thố uy-quyền của Chính-phủ đối với Xã Chế độ xã thôn dưới thời Pháp-thuộc : Những cuộc cải lương hương chính NHỮNG MỐI LỢI, HẠI CỦA CHẾ-ĐỘ XÃ THÔN TỰ-TRỊ LỢI TỆ HẠI THỬ PHÁC-HỌA NHỮNG NÉT ĐẠI-CƯƠNG VỀ ĐỊA-LÝ HÌNH-THẾ CỦA NAM-PHẦN VIỆT-NAM I. CÁCH CẤU-TẠO CỦA ĐỒNG-BẰNG CHU-THỔ SÔNG CỬU LONG I. Giả-thuyết của một trủng gẫy-sụp (Dépression tectonique) 2. Giả-thuyết của trủng hạ-áp chậm (dépression de subsidence lente) II. CÁC LOẠI HÌNH-THỂ CHÁNH CỦA ĐỒNG-BẰNG CHU-THỔ SÔNG CỬU-LONG I. Miền Tây và Miền Trung-Ương 2. Miền Đông TƯƠNG-QUAN GIỮA SỬ-HỌC VÀ NHÂN-CHỦNG-HỌC TỈNH ĐỊNH-TƯỜNG NGÀY XƯA XÉT LẠI NGUYÊN-NHÂN CỦA CÁC VỤ LOẠN DƯỚI ĐỜI TỰ-ĐỨC ĐẠI-NAM THỰC-LỤC CHÍNH-BIÊN ĐẠI-NAM THỰC-LỤC CHÍNH-BIÊN ĐỆ NHẤT KỶ QUYỂN I. THỰC-LỤC VỀ THẾ-TỔ CAO-HOÀNG-ĐẾ TÂY-THÁI-HẬU CHƯƠNG I. THÂN-THẾ THÁI-HẬU I. Từ-Hy Thái-Hậu uy nghi diễm kiều 2. Gia đình Thái-hậu 3. Địa-vị Từ-Hy sau khi nhập cung GIỚI THIỆU SÁCH BÁO SỬ-ĐỊA HIỆN TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG TRONG SỰ XỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TẠI MIỀN NAM VIỆT-NAM VIỆT-NAM THỜI KHAI SINH VẤN-ĐỀ QUẢN-TRỊ TẬP-SAN SỬ-ĐỊA SỬ-ĐỊA TẬP-SAN SƯU-TẦM KHẢO-CỨU GIÁO-KHOA 22I, Cộng-Hòa – SÀI-GÒN Hộp thư : 380 BAN CHỦ BIÊN : Nguyễn-thế-Anh, Bửu-Cầm, Phan Khoang, Lâm-thanh-Liêm, Phạm-văn-Sơn, Thái-việt-Điểu, Phạm-cao-Dương, Phù-Lang, Quách-thanh-Tâm, Trần-đăng Đại, Phạm-đình-Tiếu, Nguyễn-khắc-Ngữ, Phạm-long-Điền, Trần-anh-Tuấn, Nguyễn-thái-An, Trần-quốc-Giám, Lan-Đài, Nguyễn-sao-Mai. VỚI SỰ CỘNG-TÁC THƯỜNG-XUYÊN CỦA : Hoàng xuân-Hãn, Chen-ching-Ho, Thích-thiện-Ân, Lê-văn-Hảo, Nguyễn-văn-Hầu, Tạ-trọng-Hiệp, Nguyễn-trần-Huân, Phạm văn-Diêu, Bửu-Kế, Nguyễn-khắc-Kham, Trương bửu-Lâm, Lê hữu-Mục, Nguyễn-Phương, Hồ-hữu-Tường, Lê-thọ-Xuân, Ưng-Trình, Nghiêm-Thẩm, Tô-Nam, Bùi-quang-Tung. BAN TRỊ-SỰ : Nguyễn-Nhã, Nguyễn-nhựt-Tấn, Nguyễn ngọc-Trác, Trần-đình-Thọ, Nguyễn-hữu-Phước, Nguyễn-thị Nghĩa, Phạm-thị Bắc-Hà, Huỳnh-thị Kim-Cúc, Phạm-thị Kim Cúc. Thư từ, bài vở, tiền bạc xin gửi : NGUYỄN-NHÃ 22I, Cộng-Hòa – Sài-gòn LÁ THƯ TÒA SOẠN TẠI xứ ta, sách sử địa đã hiếm, tạp chí sử địa lại càng hiếm hơn nếu không nói một cách chua chát là không có. Thời Pháp thuộc, còn có lý do, bây giờ sao lại như thế được ? Trước đây tuy nhằm mục đích không mấy tốt đẹp, một số các tạp chí do người Pháp chủ trương cũng đã để lại những công trình nghiên cứu sử địa giá trị như Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Bulletin d’Ecole Française d’Extrême Orient, Bulletin des Amis du vieux Hue, Bulletin de la Société de Géographie de Hanoi… Trước thực trạng hiện tại, Tập San Sử Địa ra đời với ước mong thúc đẩy sự phát triển ngành sử địa và tiếp tục lần dở những trang lịch sử. Tập San Sử Địa chủ trương nghiên cứu, sưu tầm, giáo khoa và phổ biến. Tập San cố gắng góp nhặt các tài liệu hiện tản mác và có thể đào sâu một vấn đề gì, trình bày theo một chủ đề. Tập San sẽ cố gắng tìm các tài liệu sống, các tài liệu quan sát tại chỗ. Tuy với đường lối khách quan sử học, Tập San không quên sử là nguồn sinh lực tinh thần quốc gia, Tập San sẽ cố gắng khai thác các đề tài có tính cách khơi động lòng tự hào dân tộc như làm sáng tỏ các sự nghiệp của các danh nhân, nhưng sự thực lịch sử luôn được tôn trọng. Tập San mong mỏi được sự hợp tác của mọi người. Tập San không quên cảm tạ sự giúp đỡ quí báu về tài chính của Ông Giám đốc nhà sách Khai Trí và sự khuyến khích của ông Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, cùng tất cả những ai đã giúp đỡ Tập San. Khởi đầu Tập San sẽ ra ba tháng một kỳ, một ngày gần đây Tập San sẽ được ấn hành hai tháng hay một tháng một kỳ khi hoàn cảnh cho phép. Con đường phụng sự còn dài, tập san nguyện cố gắng và bây giờ xin bắt tay vào việc. TẬP SAN SỬ ĐỊA VÀI LỜI GIỚI THIỆU CỦA ÔNG KHOA TRƯỞNG ĐẠI-HỌC SƯ-PHẠM SAIGON CHÚNG tôi rất lấy làm mừng khi thấy một nhóm giáo sư và sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài-gòn dự định ấn hành Tập San Sử Đại với sự cộng tác rộng rãi của các học giả trong và ngoài nước. Sự kiện này phải chăng đã đánh dấu một sự chuyển mình của ngành sử địa ở Việt Nam, muốn vươn mình lên trong cuộc phát huy nền văn hóa. Đó là điều chúng tôi mong mỏi và mong rằng những bậc hữu trách về văn hóa sẽ lưu tâm khuyến khích. Tập San Sử Địa bước đầu chắc chưa có thể làm hài lòng mọi người, nhưng với sự khuyến khích của giới hữu trách và sự hưởng ứng hợp tác của giới học giả xa gần, chúng tôi hy vọng Tập San sớm trở nên có giá trị và sẽ đóng góp một phần nào trong công cuộc xây dựng ngành sử địa. Những người chủ trương một Tập San nghiên cứu như Tập San Sử Địa chắc sẽ phải gặp nhiều khó khăn, nhưng với thiện chí và lòng tin, chúng tôi tin rằng họ sẽ đi đến thành công. Sử địa là một ngành không ai có thể chối cãi là nguồn sinh lực của tinh thần quốc gia. Hơn bao giờ hết, chúng tôi nhận thấy ngành này cần phải được khuyến khích phát triển. Vì thế chúng tôi nhận thấy có bổn phận phải giới thiệu thiện chí của nhóm người chủ trương Tập San và mong có sự trợ giúp cụ thể của giới hữu trách về văn hóa, của những người thiết tha đến ngành này. Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Sài-gòn TRẦN VĂN TẤN NHỮNG LỜI THỀ CỦA LÊ-LỢI (VĂN NÔM ĐẦU THẾ-KỈ I5) HOÀNG-XUÂN-HÃN I. BẢN SAO KIỀU-ĐẠI NĂM I943, theo học-sinh trường Bưởi tản-cư vào Thanh hóa, tôi thường có nhịp tới viếng đền Vua Lê ở thôn Kiều-đại cạnh phía nam tỉnh thành. Đền tuy rộng lớn, có vẻ cổ-kính, có những tượng cổ lớn như hạc cỡi rùa và phổng dâng hương, nhưng hình như đền không có bi kí hoặc bút-tích gì khác đáng kể. Ấy vì ngôi đền nầy nguyên dựng ở Thăng-long, được dời vào đây khoảng đầu đời Gia long. Tuy sự ấy đã làm tôi hơi thất vọng, nhưng tôi vẫn làm quen với « cụ từ » giữ đền nầy. Trải qua nhiều giờ trò chuyện khẩn-thiết dò la, tôi vẫn mong tìm thấy sách tàn giấy cũ gì tự đời Lê sót lại. Một hôm, sau khi phàn-nàn với cụ sự ngày hôm trước tôi đã vất-vả cưỡi xe đạp viếng Lam-sơn mà không thấy giấy mực gì xưa, cụ từ đứng dậy vào nhà trong. Chốc lát cụ mang ra một quyển sách nhỏ, dáng hình không cũ mấy. Cụ trao sách cho tôi vừa bảo đó là một bản sao sách cũ chép sự-tích các vua Lê. Tôi giở sách ra đọc, thấy ở trang đầu có ghi rõ : Bảo-đại lục niên tuế thứ Tân-vị bát nguyệt thập tam nhật thừa sao, nghĩa là vâng lời sao lại ngày I3 tháng 8 năm Bảo-đại thứ 6, Tân vị (I93I). Nhưng không cho biết vâng lời ai. Sau một bài ca tứ-tự đề Lưỡng quốc lập đồng-trụ tự thệ ca nghĩa là bài ca hai nước (Việt và Minh) lập cột đồng và thề cùng nhau, và sau hai bài thơ chữ Hán có tính cách sấm-kí, những trang sau chép chuyện các vua Lê gần như trong sử, nhưng với vài tính-cách gia phổ hơn, ví như chép tên mộ-địa, ngày kị. Khi tôi đã bắt đầu thất vọng, thì vào khoảng tờ hai mươi tám, tôi thấy chép một bài văn thề của Lê-Lợi, rồi liền sau, lại nối hai bài thề nữa cũng của Lê-Lợi nhưng lại bằng chữ nôm. Sau cuối có một bài ngắn nửa chữ nửa nôm, cũng ghi vài câu thề của Lê-Lợi. Tôi sửng-sốt vô cùng băn-khoăn không dứt. Rồi tôi định thần lại đọc kĩ các lời thề ấy. Tôi thấy nó có nhiều đặc điểm có lẽ xác-thực, cho nên tôi bèn sao lại rất kĩ-càng. Sau đây, tôi chỉ xin trình các lời thề của Lê-Lợi, nhất là các bài nôm. Nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự đời Lê-Lợi, và không bị sao lại thất-chân, thì đây là hiện-vật độc-nhất của Việt-ngữ trước nay già 550 năm. Theo thói xưa, văn không có chấm câu. Sau đây, tôi tự phân-tích nghĩa mà chia lời, cách chấm câu của tôi chưa chắc đã khỏi có nơi không đúng. 2. HAI THỆ-VĂN NÔM Bài A : Lời gọi công thần cùng thề nhớ ơn Lê-Lai1 Lê tằng-tôn2đại… Thiên hành hóa…3Thái-tổ Cao hoàng đế chỉ-huy4dạy rằng : Kẻ làm công-thần cùng Trẫm bấy nhiêu ! Chúng bay đã chịu khó nhọc mà được nước ta. Chúng bay đã chịu khó công cùng Trẫm đói khát mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quí. Chúng bay cũng phải nhớ công Lê-Lai5hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm, chẳng có tiếc mình cùng Trẫm, chịu chết thay Trẫm. Công ấy chẳng cả thay ! Trẫm đã táng Lê-Lai ở trong đền Lam, để mai ngày cho con cháu Lê-Lai ở hết lòng cùng con cháu Trẫm. Thế vậy cho kẻo6lòng thương nó. Chúng bay truyền bảo con cháu chúng bay7, chúng đại thần cùng con cháu chúng bay : vì vậy công Lê-Lai ấy chẳng cả thay ! Cho đến con cháu Trẫm, mà quên ơn nhà Lê-Lai thì cho8 trong thảo-điện9nầy nên nước, trong đền nầy nên rừng. Nhược10chúng bay nhớ bằng11lời Trẫm, thì nguyền cho con cháu Trẫm cùng con cháu chúng bay phú quí. Nhược dù ai hay nhớ bằng lời Trẫm, ấy thì thấy kiếm nầy xuống nước thì cho nên rồng. Ai lỗi lời nguyền thì đòng12ấy nên đao. Cho thế chúng bay cùng nhớ bằng lời chư tướng thề. Ti lễ-giám sự đồng-tri-lễ, thần, Nguyễn Đôn phụng sao tống công thần tằng-tôn các chấp nhất đạo13. Bài B : Lời thề cùng tướng sĩ quân nhân (nôm) …Thái-tổ Cao hoàng-đế. Trẫm tính Lê, húy Lợi, đại Thiên hành hóa, phủ trị bang gia14. Vì vậy, Trẫm nguyền chư tướng, hỏa-thủ15, Thiết-đột quân-nhân16đẳng : Hễ kẻ làm công-thần ở cùng Trẫm mà được thiên hạ ! Chưng17sau thiên-hạ thái-bình, thì Trẫm nhớ đến công-thần chư tướng hết lòng sức, danh truyền để muôn đời, vĩnh thùy trúc bạch18; cho chưng sau, con cháu Trẫm cùng con cháu chư tướng đều được hiển vinh, hưởng chưng phúc lộc. Dù bể kia hay cạn, núi nọ hay bằng, thì công ấy, Trẫm chẳng khá quên chư tướng. Dù Trẫm chẳng bằng19lời nguyền ấy vậy, thì truyền cho con cháu trẫm như lời ấy. Trẫm nguyền bằng : Thảo điện nên rừng, điện này nên nước, núi này nên băng20, ấn nầy nên đồng, kiếm này nên sắt. Bằng Trẫm được thiên hạ nhớ công chư tướng, nguyền hiển hách21. Vả lại truyền cho con cháu nhà Trẫm muôn đời bằng như lời nguyền ấy, thì để cho quốc gia trường trị, yên như bàn thạch22; Hoàng-hà như đái, Thái-sơn như lệ23; con cháu nhà Trẫm muôn đời quang đăng bảo điện24. Vì vậy Trẫm phải hết lời cùng chư tướng : hễ đã đi làm công-thần ở cùng Trẫm, đồng tâm hiệp lực, chớ ngại khó khôn25. Hòa26làm việc thiên hạ chẳng những thế ấy ; Trẫm lại cậy27lời nầy : Như trong binh-pháp rằng « nhân nghĩa chi binh, hòa mục vi thượng »28. Nếu có binh nhân nghĩa thì có hòa mục mới khá được hiệu lịnh cho tin. Chữ rằng « Pháp giả thiên hạ công cọng »29. Dù ai chẳng phải, đà có phép trời luật nước. Ai nấy thì cho có hòa mục, cho tin hiệu lịnh, cho nghiêm sửa phép30; hòa làm việc thiên-hạ để công danh muôn đời, thực lộc thiên chung31. Phụng sao * Hai văn-kiện trên đều chép lời bằng nôm Lê-Lợi thề cùng các người phụ-tá ; bài trước nguyền nhớ công Lê-Lai, bài sau nguyền nhớ công các tướng sĩ và công thần. Như tôi đã nói, tôi chỉ được thấy bản sao rất mới (I93I). Vậy câu hỏi mà tất nhiên ta phải nêu ra là những lời ấy thật có hay đã có kẻ bịa ra ; nếu thật có, thì nó có bị sao chép lầm hay là chữa nhiều không ? Hồi tôi ở Thanh-Hóa, tôi đã hỏi « cụ từ » gốc tích những bài này ; Cụ đã trả lời là sao lại của một họ công-thần đời Lê mà con cháu ở huyện Nông-Cống (tôi không chép được tên làng). Cụ lại nói có bài khắc ở đồng hay sắt. Sau hồi ấy, biến loạn giồn-giập, tôi bị bận nhiều việc khác, cho nên đã không tra cứu được thêm. Giá như có kẻ điều tra lại, may chi tìm được gốc-tích rõ ràng, và những nghi-vấn đặt trên kia có lẽ sẽ được trả lời dứt khoát. Khốn nỗi, binh hỏa liên miên trong suốt hai mươi năm nay, vật đổi sao dời, cố lão điêu linh. Dù có điều tra nữa cũng chưa chắc đã tìm ra manh mối. Huống chi ở đất khách, may còn giữ được mấy mảnh tàn biên, tôi chẳng có tham vọng gì hơn là dựa vào nội-dung và hình-thức các bài kia, so sánh với một vài văn kiện khác hoặc sử sách đáng tin mà xét đoán. * 3. XÉT BÀI A Trước hết, đọc hai bài kia, chúng ta liền thấy rằng năm chữ Thái-tổ Cao Hoàng-đế quyết không thể có trong lời của Lê-Lợi, vì miếu hiệu Thái-Tổ, và tôn-hiệu Cao hoàng-đế đều đặt ra sau khi Lê-Lợi mất, cũng như miếu hiệu và tôn-hiệu của tất cả các vua Trung-quốc và ta đời xưa. Sách Toàn-thư chép rằng : « ngày 22 tháng II năm Quí-Sửu I433, đưa về táng ở Lam-sơn tại Vĩnh-lăng ; đặt miếu-hiệu Thái tổ, dâng tôn-hiệu : Thống-thiên Khải-vận Thánh-đức Thần-công Duệ văn Anh-vũ Khoan-minh Dũng-trí Hoằng-nghĩa Chí-minh Đại hiến Cao Hoàng-đế » (quyển I0, tờ 76). Vậy đó là lời của người sao lại, hay là kể chuyện lại. Nhất là trong bài A, câu đầu rõ ràng là lời kẻ sao thêm vào để làm lời mào, ở cuối lại có lời phụ chú nói rõ rằng : Thần, Nguyễn-Đôn phụng sao… Vậy câu mào có lẽ là của Nguyễn-Đôn. Vả lại, tên Nguyễn-Đôn nầy, có trong quốc-sử, và chắc coi về việc lễ. Sách Toàn-thư chép rằng : « ngày I4 tháng 2 năm Bính-thìn I496, trời không mưa, vua (Lê-Thánh-Tông năm Hồng-đức thứ 27) cầu đảo, tự viết tập thơ mình soạn (Xuân-vân thi-tập) thành bốn tờ, sai NGUYỄN-ĐÔN dán lên tường miếu thần (Hoằng-hữu gần Lam-sơn) ». Các vua nối ngôi Thái-tổ đều có nghĩ đến việc biệt đãi con cháu công thần. Nhưng hình như Thái-Tông và Nhân-Tông không thi-thố gì đáng kể. Chỉ có nhịp đại-hạn trong năm Kỉ-tị I449. Nhân Tông sám hối và trong tờ chiếu tỉnh cung (xét lỗi mình), có lời rằng : « Hoặc là con cháu các người có công lao cũ chưa được lục dụng để trả khó nhọc, mà đến thế nầy » (Toàn-thư quyển II, tờ 79). Trái lại đời Lê Thánh-tông, có nhiều sắc chỉ đền công các công thần : cấp thế-điền (ruộng được hưởng đời đời), ban quốc-tính cho các con (Toàn-thư quyển I2 tờ 5, 6, năm Canh-thìn I460) ; sung con cháu công-thần đang tại ngũ vào vệ Cẩm-y hoặc thả cho về (Toàn-thư quyển I3 tờ 43, năm Giáp-thìn I484) ; ban hàm tán-quan (chức quan không làm việc thật) cho con cháu công-thần (Toàn-thư quyển I3 tờ 68, năm Nhâm-tí I492). Trong Thông-sử, thấy ở các chuyện công-thần giúp Thái-tổ, đều chép được gia tặng năm Hồng- Đức thứ I5 (I484). Chính Lê-thánh-tông đã giải oan cho Nguyễn Trãi, ban chức huyện cho con sống sót của Nguyễn-Trãi là Anh-Vũ (Toàn thư quyển I2 tờ I5 năm Giáp-thân I464) và sai tìm di cảo thơ văn của Trãi (Toàn-thư quyển I2 tờ 30, năm Đinh-Hợi I467). Xem vậy thì ta có thể tin rằng nếu có những lời Lê-Lợi thề với công-thần, những lời ấy được nhắc lại và sao lại trong đời Lê-thánh-Tông và được giao cho các tằng-tôn công-thần, tức là nhắc con mình (tằng-tôn Lê-Lợi) phải nhớ lời thề từ bốn thế hệ trước để lại. Bây giờ ta hãy xét đến nội-dung. Chính yếu bài A là chuyện Lê-Lai. Trong chú thích trên tôi đã dẫn Sách Lam-sơn thật-lục theo bản in đời Vĩnh-trị năm I676. Nhưng trong Toàn-thư lại không hề chép chuyện Lê-Lai ; trái lại ở tờ 27 quyển I0 có chép vào khoảng tháng giêng năm Đinh-mùi I427, trong khi đóng doanh ở bến Bồ-đề, vây Vương-Thông trong thành Đông-quan, Lê-Lợi « giết tư-mã Lê-Lai, tịch gia sản, vì Lai cậy có chiến-công nói lời ngạo-mạn ». Lê-Lai nầy là ai ? chắc cũng là một đại công-thần. Trùng tên chăng ? hay là kẻ khắc chữ lầm tên ? Dẫu sao, sự không thấy chuyện Lê-Lai trong chính sử triều Lê có thể gieo ít nhiều mối nghi ngờ trong trí nếu không chứng gì khác xác nhận chuyện Lê Lai. Nếu bản in I676 là đúng nguyên-tác thì ta phải tin Lam sơn thật-lục, vì theo Toàn-thư thì « ngày mồng sáu tháng chạp năm Tân-hợi I43I, vua (Lê-Lợi) sai làm Lam-sơn thật lục. Vua tự viết tựa, kí-hiệu Lam-sơn động-chủ ». Bài tựa ấy còn thấy trong bản viết xưa để ở Nội-các tại Huế (nay ở thư- viện viện Khảo-cổ ở Sài-gòn) đề đúng năm Thuận-thiên thứ 4 (I43I) nhưng tháng là trọng-đông nghĩa là tháng mười một, và xưng đúng là « Lam-sơn động-chủ viết tựa ». Những chứng ấy đáng lẽ khiến ta hoàn toàn tin vào bản Nội-các ấy. Nhưng khốn nỗi, bản ấy đúng y như bản in, chỉ khác là bài tựa của Lê-Lợi thay bài tựa của Duệ Quận-công Hồ-Sĩ-Dương là người mà Tây-vương Trịnh-Tạc sai in lại bản Thật-lục. Mà bản in ấy, theo Lê-quí-Đôn, đã bị « nho-thần phụng mệnh đính chính, chỉ cứ vào sở-kiến lấy ý mà san cải, thêm bớt làm sai sự thật, không đúng là sách trọn vẹn nữa » (Nghệ-văn chí trong Lê-triều thông-sử). Riêng về chuyện Lê-Lai, có lẽ trong nguyên bản có chép chuyện Lê-quí-Đôn trong Lê-triều thông sử ở chuyện Lê-thái-Tổ, có chép chuyện ấy, tuy có hơi khác với Thật-lục. Lời Thông-sử rằng : « …Binh mã nguy khốn lắm. Vua hỏi chư tướng có ai hay bắt chước chuyện Kỉ-Tín xưa. Người thôn Dựng-tú Lê-Lai khảng-khái vâng mệnh, tự nguyện tráo đổi áo, đem quân ra khỏi chỗ ẩn, hô bảo mình là Lê-vương (chúa ?) Lam-sơn. Tướng Minh mừng lắm, họp quân vây lấy. Lai kiệt lực, bị bắt đem về Đông-quan, và bị giết ». Mà thật vậy, đời Lê không ai nghi ngờ gì về việc Lê-Lai, vì Lê-Lai chính-thức là một vị công-thần và một vị linh-thần rất được các đời vua trọng vọng. Nay còn hai kí-tải khác chứng minh sự ấy. Phạm-phi-Kiến (sinh năm I565, đậu tiến-sĩ năm I623) chép chuyện Lê-Lai trong sách Thiên-nam Trung-nghĩa thật-lục với nhiều chi-tiết đáng tin. Lời rằng : « Lê-Lai ở cùng làng với Thái-tổ (Lê-Lợi), cũng cùng dấy binh, giữ chức đại-tư-đồ. Bấy giờ, vua (ban đầu xưng Bình- định-vương nguyên-chủ) ở Lam-sơn, quân còn ít. Người Minh lùng bắt luôn luôn. Vua tự nghĩ rằng thế lẻ-loi không địch nổi, muốn trốn náu tăm tích. Hội tướng tá, vua hỏi rằng : « Ai mà hay lấy thân thay ta, cho ta nhờ đó náu dấu, ngầm họp binh mã để lo nổi quân về sau, thì sẽ được vẻ-vang với nước. Con cháu người ấy nối đời được cất dùng. » « Lai xin gánh lấy việc ấy. Vua bèn vái Trời khấn rằng : « Lê-Lai lấy thân thay chúa. Ngày sau nếu quên công y, thì thề chịu cung điện thành núi rừng, bảo-ấn thành đồng thiếc, thần kiếm thành đao. » « Lai bèn đem binh đến thành Tây (Tây-đô), hô lớn khiêu chiến, tự xưng là Bình-định-vương. Người Minh vây bắt, gia cực hình. Sau vua phong hai con là Bá và Viện làm trung lang-tướng. Khi vua lên ngôi, tặng Lai hiệu Thái-thượng quốc-công nguyên-huân công-thần ; lại ban thụy Trung-dũng đại-vương ; đưa tùng tự ở Thái-miếu. Đến đời Gia-tông (nguyên chú : Dương-hòa năm đầu I635) cấp một trăm mẫu ruộng tế ». (mục Lê-triều trung nghĩa chư thần). Ta nhận thấy rằng Phi-Kiến hẳn đã dùng tài-liệu khác ngoài Lam-sơn thật-lục, như thần-phổ chẳng hạn. Nhưng, về tên các con và các mĩ-tự trong hiệu thần, thì ta sẽ thấy rằng Lê Quí-Đôn sẽ chép khác. Vả Phi-Kiến cũng không kể đến chuyện tráo đổi áo. Lê-Quí-Đôn tuy sống sau Phạm-Phi-Kiến chừng I50 năm, nhưng viết chuyện Lê Lai, trong Đại-Việt thông-sử (quyển 3I), một cách rất rõ ràng hơn và rất đáng tin hơn. Chắc chắn ông đã giao-thiệp với dòng dõi Lê-Lai bấy giờ còn phồn-thịnh ở huyện Hoằng-hóa, xứ Thanh-hóa, và ông đã được đọc gia phổ và tài-liệu khác nữa. Sau khi ta đọc Thông-sử, không những ta phải tin rằng chuyện Lê-Lai hoàn-toàn có thật, mà ta cũng phải nhận rằng lời thề A chắc cũng xác-thật. Sau đây tôi cũng sẽ dịch nguyên-văn của Quí-Đôn. Về đoạn con cháu, thì sẽ ước lược, nhưng cũng sẽ giữ phần chính trong đoạn ấy để tỏ rằng con cháu Lê-Lai đến đời Lê Mạt luôn luôn phát đạt, cho nên chắc đã giữ được nhiều tài-liệu của tổ-tiên cách đó 350 năm. Quí Đôn viết : « Lê-Lai người huyện Lương-giang, sách Đức-giang, thôn Dựng-tú. Cha tên Kiều, nối đời làm phụ-đạo ; sinh hai trai : cả tên Lạn, thứ tên Lai. Lạn theo Thái-tổ khởi nghĩa, có nhiều công-lao. Trong chiến dịch Ất-tị (I425), mất vì việc vua ở Khả lưu quan. Sau được tặng Thái-phó Hiệp trung-hầu ; rồi gia tặng Hiệp quận-công. « LAI, tính cương trực, dung-mạo khác thường ; chí-khí cao rạng. Theo đòi thị-vệ, có nhiều công-lao. Năm Bính-thân (I4I6), vua cùng các tướng thân I8 người, nối tên kết thề, hẹn cùng vui buồn ; Lai có dự (câu nầy rất quan-hệ về sau). Được trao chức Tổng-quản-phủ đô-tổng-quan Quan-nội-hầu. « Năm Mậu-tuất (I4I8), vua mới đầu dựng cờ nghĩa, tướng non, quân ít, bị tướng Minh đánh gấp ở Mường Một ; thoát được, trụ ở cõi xứ Trịnh-cao. Trên đường không tăm người, không bóng khói. Tướng Minh chia quân đóng chặn các nơi hiểm yếu, thế rất bách. Vua hỏi các tướng : « Ai chịu tráo đổi áo thay ta đem quân ra đánh quân giặc, xưng tên hiệu ta như Kỉ Tín đời Hán, cho ta có thể náu dấu nghỉ binh, góp nhặt tướng sĩ để lo nổi dấy về sau ? » « Các tướng đều không dám trả lời. Chỉ mình Lai mạnh bạo nói : « Tôi xin đi. Ngày sau, vua được thiên-hạ thì hãy trả công cho tôi ; vạn đời con cháu sẽ được chịu ơn nước ; đó là nguyện tôi ». Vua thương xót. Lai nói : « Nay quẩn bách như vầy, ngồi giữ đất nguy để vua tôi cùng chết, tôi sợ rằng cũng là vô ích. Nếu làm kế ấy, hoặc có thể nới ra chút ít. Kẻ bầy tôi trung vì nước lại có tiếc gì. » « Vua vái Trời khấn rằng : « Lê-Lai tráo đổi áo có công. Nếu ngày sau Trẫm và con cháu, cùng con cháu các tướng tá công thần không đền công ấy, thì thề rằng : Thảo-điện thành rừng núi, bảo-ấn thành đồng, thần-kiếm thành đao (nguyên thừa chữ binh) ». Lai bèn đem năm trăm quân, hai voi, thẳng tới lũy giặc khiêu chiến. Người Bắc đem hết quân ra đánh. Lai cưỡi phi-mã xông vào trận, hô rằng : Chúa Lam-sơn là ta đây ! Chém và làm bị thương giặc nhiều vô-số. Sức kiệt, bèn bị giặc bắt. Giặc gia cực hình. Giặc bèn lui về thành Tây-đô, phòng bị khá nới. « Vua được thong-thả nghỉ ngơi, súc-giưỡng nhuệ-khí. Đánh trăm trận được cả trăm. Nhờ đó được thiên-hạ. Vua cảm lòng trung của Lai ; trước đó đã sai lén tìm di-hài về táng ở Lam-sơn. Năm đầu đời Thuận-thiên (I428) phong làm công-thần đệ nhất, tặng hiệu Suy-trung Đông-đức Hiệp-mưu Bảo-chính Lũng-nhai công-thần, thiếu-úy, cho thụy Toàn nghĩa. Năm Thuận-thiên thứ hai (I429), tháng chạp, vua sai Nguyễn-Trãi chép hai đạo văn ước-thệ và lời thề chung về Lai cất vào hòm vàng (câu nầy rất quan-hệ về sau). Lại gia phong thái-úy. Năm đầu đời Thái-hòa (I443), tặng Bình chương quân-quốc trọng sự, cho Kim-ngư-đại kim-phù và tước Huyện-thượng-hầu. Khoảng đầu đời Hồng-đức (I470), tặng tước Diên-phúc-hầu. Năm thứ I5 (I484), truy tặng Phúc quốc-công. Sau gia phong Trung-túc-vương. « Lai sinh ba trai : cả tên Lư, thứ tên Lộ, cuối tên Lâm, đều có tài nghệ. Năm Ất-tị (I425), vây thành Nghệ-an, Lư cùng các tướng chia nhau đánh các xứ, mất tại trận. Được tặng thái-úy (I428). Đời Hồng-đức, tặng Kiến-tiết-hầu (I484). Sau gia tặng Kiến quận-công. « Lộ, thì trong chiến dịch ở sách Ba-lẫm, ải Kình-lọng, đã phát phục-binh phá quân Trần-trí, được thăng Tả-trung-quân tổng-đốc chư quân-sự. Năm Giáp-thìn (I424), theo vua đánh châu Trà-lân, dự trận Bồ-liệp, phá quân Phương Chính và Sư Hữu. Được thăng Thái-bảo. Tháng mười năm ấy, bị trúng tên lạc mà chết. Được tặng thái-úy (I428). Đời Hồng-đức, tặng Chiêu-công-hầu. Sau gia tặng Chiêu quận-công. « Lâm theo vua dẹp giặc Ngô có công, khi thưởng các người thuộc Thiết-đột hỏa thủ (bản sao cũng lầm ra thứ-thủ như trong bài B) có công ở Lũng-nhai, được trao Trung-lãng đại phu Câu-lưu vệ tướng-quân, tước thượng-trí-tự, hiệu Suy trung Đồng-đức Hiệp-mưu Bảo-chính công-thần. Năm Thuận thiên thứ ba (I430) làm tiên-phong đi đánh Ai-lao, phá được quân giặc, đuổi đến động Hông-di, trúng mũi nhọn tẩm thuốc độc mà chết. Tặng thiếu-úy. Đầu năm Quang-thuận (I460), vì con là Nậm có công truất Nghi-dân lập Thánh-tông nên Lâm được tặng đô-đốc. Rồi gia-tặng Trung-lễ-hầu (I484) rồi thái-úy Trung quốc-công, ban thụy Uy-vũ. Lộ sinh ba trai, Tích, Tung, Dũng, đều có công phong hầu, Tích cũng sinh ba trai : Liệp, Ngạp, Quị : đều nối tước ». Lâm sinh Nậm, là một đại-thần đời Lê Thánh-Tông. Lê Quí Đôn chép chuyện Nậm rất kĩ. Sau đây tôi sẽ lược dịch : Lê Nậm là cháu Lê Lai, rất thông-minh. Văn võ kiêm toàn. Khi trẻ, nhà nghèo, dời tới ở xã Duy tinh huyện Thuần Hữu (nay huyện Hậu-Lộc tỉnh Thanh-hóa). Năm Thiệu-bình thứ 6 (I439) được ấm phong chức cận-thị chính chưởng, thăng chức thiểm-tri nội-mật-viện sự (I445). Theo Lê Thụ đi đánh Chiêm-thành. Thăng làm an-vũ phó-sứ ở Tây-đạo (I448), rồi thăng làm tuyên-ủy đại sứ trấn An-bang (Quảng yên). Tháng I0 năm Kỉ-mão (I459). Nghi-Dân giết vua Nhân tông, cướp ngôi. Bấy giờ Nậm làm Xa-kị-vệ đồng-tổng-tri chư quân-sự-vụ họp cùng các đại thần bỏ Nghi-dân và lập Thánh Tông. Từ đó Nậm được cực-kì trọng dụng về cả văn lẫn võ. Thăng Đình-thượng-hầu (I460), cho quốc-tính, dự tham triều-chính. Theo vua đánh Chiêm-thành (I470), rồi lại trở lại làm phó tướng-quân dẹp Chiêm thành lần thứ hai (I47I). Năm Hồng-đức thứ I0 (I479) cầm quân đi đánh Bồn-man, đuổi chúa Sầm Công đến sông Tràng-sa giáp biên-giới Diến điện. Được phong Tinh-quốc-công, rồi mất (I485). Nậm sinh mười lăm trai. Trai thứ tư tên Khủng tử trận ở Chiêm-thành, tặng thái bảo Thuần quận-công. Đời Cảnh hưng, dòng họ hơn trăm đinh còn ở thôn Ngọc thuộc huyện Hoằng-hóa (Thanh-hóa). Con thứ hai là Chí cũng có công trong chiến dịch Chiêm-thành, rất được Thánh-tông yêu. Làm quan đến thái-bảo Quình-quận-công, tặng Hoài-quốc-công. Chí sinh năm trai. Dòng họ có nhiều người làm đến thái-bảo tước quận-công, như Công-Thái, Công-Từ giúp Trang-Tông và Trịnh Kiểm, Công-Trừng, Công-Giới giúp Thần-tông và Trịnh-Tráng, đều được phong mĩ-hiệu công thần. Cuối chuyện Lê Lai và Lê Nậm, Quí-Đôn chép : « Đời Hi tông, Chính-hòa năm thứ I3 (I692), sai quan lưu-thủ Nguyễn Thì-Vân, theo nền cũ ở thôn nhà, dựng từ đường thờ Trung túc-vương Lê-Lai, cấp ruộng tế để nêu công-huân cũ. Nay, đinh trong họ rất nhiều… Chế mệnh ban cho Nậm tước Đình thượng-hầu hiện còn. » Sau khi đọc Thông-sử, ta thấy hiển nhiên rằng chuyện Lê Lai hi-sinh để Lê Lợi có thể trốn tránh trong cơn quẩn-bách là chuyện thật, mặc dầu Toàn-thư, theo bản ngày nay còn đã bỏ sót. Vả về đời Lê Lợi, bản Toàn-thư hiện còn chép chuyện năm thì nhiều, năm thì ít, khiến ta có thể nghĩ rằng hoặc vì tài liệu đã mất nhiều trước đời Lê Thánh-tông, hoặc sử-thần cẩu-thả, hoặc bản đời sau khắc lại bớt xén nhiều. Ta cũng phải nhận rằng Lê Lợi đã từng thề với Lê Lai rằng đời đời phải trả công Lê Lai. Những câu thề chép trong Thật lục và Thông-sử, phần lớn rõ ràng là lời dịch những câu nôm trong bài A. Vậy ta cũng phải tin rằng, sau khi đuổi sạch ngoại xâm và lên ngôi vua, Lê Lợi đã nhắc lại lời thề xưa và bảo các công-thần cùng thề sẽ không quên ơn Lê Lai và sẽ nhủ bảo con cháu điều ấy. Được nhận là xác-thật, bài thề A khẳng-định thêm một vài sự-kiện lịch-sử. Câu « Lê Lai hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm », xác-nhận chuyện đổi áo. Câu « Trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam » chứng thực sự Lê Lợi sai lén tìm di hài Lai về táng ở Lam-sơn mà ta thấy chép trong Thông-sử. Ta chớ lấy làm lạ sự lời thề kia đã chép bằng nôm, khác với những lời thề thấy trong các sử sách đã kê trên. Tuy lời khác nhau, nhưng ý phù-hợp. Thề với nhau đây là một việc gần như riêng giữa những kẻ cùng chung gian khổ, sống với xác thịt nhiều hơn với lý-trí. Họ lại là phần lớn là kẻ vũ-biền ít học, ít quen chữ nghĩa văn hoa. Cho nên lời thề với nhau là lời nói thường ngày, tự trong tâm mà ra, chứ không phải do từ-hàn trau chuốt. Quả vậy, ta hãy đọc lại hai bài thề trên, ta sẽ thấy rằng giọng văn cục-mịch, ý tứ rườm-rà, không phân minh gãy-gọn ; nghe ra y như lời nói chuyện hằng ngày giữa đám thường-dân, chứ không có tính-cách văn-chương một tí nào. Chính vì tính-cách nôm-na quê-kịch ấy mà ta lại càng nên tin rằng bài thề A không phải bởi người đời sau bịa đặt ra ; vì nếu có kẻ bịa đặt thì ắt đã đem lời đẹp để tô điểm câu chuyện. Còn như sử sách, thì vì tính-cách công, cho nên dẫu nguyên-văn sử-liệu viết bằng nôm, sử-gia cũng dịch ra chữ Hán để ra chiều nghiêm-nghị. Người ta ngày nay thường lặp lại một sự suy-đoán sai, là chỉ có đời Tây-sơn mới dùng chữ nôm một cách chính-thức. Thật ra, với những di-văn còn thấy, đời Lê rất thường dùng văn nôm trong thư-văn hoặc công-văn. Tôi sẽ có dịp đem nhiều chứng về điều đó. Hẵng đưa ra một chuyện. Năm Hồng-đức thứ hai, Tân-mão (I47I), khi Lê Thánh-tông thân-chinh đánh Chiêm-thành, đến cõi địch, « vua thân chế chiến-sách bình Chiêm… Sợ tướng-sĩ chưa hiểu, sai Nguyễn Thế-Mĩ dịch ra quốc-ngữ để ban ra mà dạy » (Toàn thư quyển I2, tờ 6I). Đó là vì trường-hợp thiết thực đối với quân-nhân tướng-sĩ mà dùng quốc-ngữ. Kết-luận đoạn nầy là có nhiều phần chắc rằng bài A nhắc đúng lời Lê-Lợi đã thề trước mặt các công-thần về việc báo ơn Lê-Lai và đã bắt mọi người thề theo. Sự thề chung ấy xẩy ra năm nào ? Câu « cùng Trẫm đói khát mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quí » buộc ta phải đoán vào khoảng sau khi Lê Lợi lên ngôi vua và đã ban thưởng cho các công-thần. Toàn-thư chép vào khoảng tháng ba năm đầu đời Thuận thiên, Mậu-tuất, I428 : « Vua đại hội các tướng, các bầy tôi văn vũ lớn bé, định việc ban thưởng, theo công cao thấp mà định cấp bậc... » (quyển I0, tờ 57). Lúc bấy giờ Lê Lợi còn ở doanh Bồ-đề trên sông Lô, đối ngạn với thành Đông-quan. Rằm tháng tư, Lê Lợi mới xưng đế. Sau khi lên ngôi ít ngày, liền truy tặng cháu điệt, Lê Thạch, chết trận năm Tân sửu I42I, mĩ-hiệu Trung-vũ Đại-vương và phối-tự ở tẩm miếu (Toàn-thư quyển I0, tờ 58). Thông-sử cũng chép y như thế (chuyện Lê Thạch), và, như trên đã kê, lại chép rằng năm ấy cũng phong Lê Lai mĩ-hiệu Lũng-nhai công-thần, ban hàm thiếu-úy, thụy Toàn-nghĩa. Khá chắc rằng lúc bấy giờ, Lê Lợi nhắc lại lời thề với Lê Lai và bảo các tướng tá và công-thần cùng thề. Sau đó, như Thông-sử đã chép, vua sai Nguyễn Trãi chép thệ-văn và cất vào hòm vàng. Vậy tôi đoán rằng bài A chép lời Lê Lợi thề năm Mậu-tuất I428. 4. XÉT BÀI B Nội dung bài B không liên quan đến sự kiện lịch-sử gì đặc biệt. Phần đầu, Lê Lợi thề sẽ nhớ ơn các người phò tá đã ra công giúp mình và hẹn sẽ dặn con cháu nối lời thề ấy. Những câu thề nầy tương tự với những câu thề ta đã thấy trong bài A và trong sách Lam-Sơn thật-lục (xem chú thích bài A). Trong bản sao Kiều-đại, còn có một bài nữa chép những lời thề gần như vậy. Tôi sẽ gọi nó là bài D trong phụ trương sau. Bài ấy có tính cách kì-quặc, nửa nôm nửa chữ như trong phần nhiều văn nôm xưa. Phần chữ Hán lại viết rất « nôm-na », tỏ rằng kẻ viết mấy câu nầy ít chữ Hán. Trong bản sao lại hình như đã sót chữ sót câu. Về lời thề có : « Thánh-tổ minh-thệ thư son khoán sắt, chỉ núi thề non nguyền thiên-hạ. Vái... Hoàng thiên, Hậu-thổ, Hoàng-hà như đái, Thái-sơn như lệ, bất cảm tư ngôn (?) » Tuy bài nầy không đáng được người ta chú ý và sao chép lại, nhưng đã có kẻ còn giữ lại, thì hình như sự ấy tỏ nó có tư cách lịch-sử và xác thực chăng ? Vả chăng những chữ Thánh tổ thấy trong bài ấy thường được dùng bởi Lê-Thánh-tông để trỏ Lê-Lợi (xem bài Lam-sơn Lương-thủy phú còn chép trong Thiên-nam dư-hạ-tập). Vậy kẻ viết bài D có lẽ ở vào đời Lê Thánh-tông. Lại thêm, trong câu đầu, có ghi một địa điểm « xứ Điều-thị, huyện Lương, phủ Thiên quan » mà tôi không thấy chép trong sử. Sự ấy khiến tôi nghĩ rằng bài D nầy có gốc chân thật, chứ không phải do một kẻ nào hoàn toàn bịa ra. Nay tôi hãy quay lại bài B. Đoạn dưới bài nầy là lời Lê-Lợi khuyên tướng sĩ phải hòa mục với nhau, phải tin hiệu-lịnh và phải theo pháp luật cho nghiêm. Mục-đích chính của bài này là chỗ ấy, còn lời hứa hẹn ngày sau thưởng công chỉ là cái mồi để nhử mà thôi. So sánh với kí-tải trong sách Toàn-thư, ta thấy rằng trong thời kì kháng chiến, Lê-Lợi đã để ý nhiều đến sự chỉnh-huấn tướng-sĩ, hoặc hiểu-dụ, hoặc khích-lệ nhân-dân bền lòng hăng hái chống giặc. Trong năm Đinh-vị I427, thế quân Minh đã nao-núng. Tuy vậy theo sách Toàn thư, Lê-Lợi hiểu-thị tướng hiệu quân-nhân các xứ Nghệ-an, Tân-bình, Thuận hóa rằng : « Ta dấy nghĩa-binh ở đất bay, nay sắp thành công. Mong chúng bay thủy chung một lòng, vàng đá một tiết, để cho vẹn nghĩa vua tôi cha con. Ta biết rằng chúng bay đều là những kẻ sĩ yêu nước. Nhân buổi trước, đời các vua Hưng khánh (Trần Giản-định), Trùng-quang, luống mang hư danh, làm không được thưởng. Ấy vì chính-trị bởi nhiều cửa mà ra ; đại thần không biết đến, cho nên chúng bay luống phí sức như thế. Nay, thiên-hạ nhất thống. Ta cùng chúng bay, nghĩa như cha con. Mong hết thảy một lòng thu lại đất nước ta. Từ xưa, các tướng văn vũ được phong hầu, phỏng như chúng bay, không khác. Chỉnh lại đội ngũ bay, luyện quân-nhân bay. Khi nào dẹp yên giặc tàn, sẽ chia đôi, một nửa về làm ruộng. Nay trời giao (mệnh) cho ta, dung mệnh thì phá giặc, sống mà được thưởng công. Không nghe mệnh thì chết không thành việc gì. Mỗi đội hãy viết một bản, ngày đọc hai ba bận, để quân-nhân biết đó ». (tờ 32, tháng 4 năm Đinh-vị I427). Cũng cùng khi ấy, ban Mười điều Quân-hiến cho tướng hiệu quân nhân : « I) Làm ồn-ào trong quân. 2) Trong quân sợ-hãi vô cớ, nói bậy về họa phúc khiến dao-động quân-tình. 3) Trong trận, nghe tiếng trống, thấy cờ chỉ mà giả vờ không nghe không thấy, chần chừ không chịu tiến. 4) Trong trận, thấy hiệu cờ và nghe tiếng la bảo dừng quân mà không dừng. 5) Nghe tiếng chiêng bảo lùi quân mà cưỡng không lùi. 6) Phòng trực không chăm, hoặc ngủ say không giữ, lìa ngũ trốn về. 7) Mê nữ-sắc, phóng dục với đàn vợ mà không làm việc quân. 8) Lấy tiền mà thả quân-nhân và che giấu không biên vào sổ quân. 9) Lấy sự thích ghét riêng mà điên đảo công tội của người. I0) Đối với quân (ăn ở) không hòa ; gian ác trộm cắp. Mười điều kể trên, phạm đến thì chém ». (tờ 33, tháng I0 năm Đinh-vị I427). Tháng ấy Lê Lợi ban ba điều răn các quan văn võ : « chớ vô-tình, chớ dối-trá, chớ gian tham » (tờ 34). Tháng mười một, sau khi giết Liễu Thăng (20 tháng 9) bắt Hoàng Phúc và Thôi Tụ (I5 tháng I0), Lê Lợi vẫn đem sáu điều dụ tướng hiệu quân-nhân : « Hễ làm tôi con thờ vua phải hết lòng trung ; hễ ở trong quân phải giữ chính-trực, chớ làm việc gian trái ; hễ lâm trận đánh giặc bắt tù giết giặc, chớ tranh công nhau ; hễ ở với quân nhân, nếu ai gian ngược làm xằng, nên bắt mà trị tội, nhưng bay cũng coi chừng mà răn kiêng kẻo tội đến mình ; hễ là bầy tôi thị-vệ thì chớ cậy được thương yêu mà lăng ngược kẻ khác ; hễ ra làm việc lập công thì phải đem thân mình đi trước, để kẻ dưới thấy mà bắt chước ». (tờ 43). Ý chừng sau mười năm kháng chiến, tuy được nhiều trận, nhưng những thành kiên-cố như Đông-quan, Cổ-lộng, Chí linh vẫn vững, mà quân dân chịu đói khổ nhiều bề, có khi chán nản. Cho đến những vệ quân Thiết-đột, mũi giùi nhọn bực nhất mà cũng sờn lòng. Tháng 4 năm ấy, Lê Lợi dụ các tướng hiệu quân nhân của mười bốn vệ quân ấy rằng : « Hay đồng tâm liều mạng để phá giặc, đó là sức của chúng bay. Còn như vạch mưu, xếp đặt, cơm áo, thăng thưởng thì ở tại ta. Chúng bay chớ sợ cần lao, chớ lo nghèo thiếu. Thấy vợ con ta nghèo thiếu, thì vợ con chúng bay nghèo thiếu. Mong chúng bay một lòng đánh giặc. Chớ sinh phiền não » (tháng 4 năm Đinh-vị I427, Toàn-thư quyển I0, tờ 32). Xem những chứng dẫn trên đây, ta thấy rõ rằng quả nhiên Lê Lợi rất chăm-chú đến vận động tinh-thần tâm-lý của tướng hiệu quân nhân. Vì đó, những lời thề và dụ trong bài B rất hợp với tư-tưởng và hành động của Lê Lợi. Cho đến câu dặn trong bài ấy « cho có hòa mục » thoắt nghe thấy lạ, thì bây giờ không lạ nữa. Lê Lợi muốn nói chớ tranh nhau công như trong điều thứ ba trong sáu điều dụ trên đây. Kết luận đoạn nầy là ta có thể tin rằng bài B chép thật lời Lê Lợi. Vả câu « chưng sau thiên-hạ thái bình » tỏ rằng lời ấy nói trong thời kháng chiến. Giọng chung cả bài rất có thể hợp với bối cảnh của những lời chép trong Toàn-thư, và khiến ta có thể nghĩ rằng thời-gian của lời thề nầy là khoảng đầu năm Đinh vị (I427). 5. XÉT VĂN NÔM VÀ CHỮ NÔM TRONG HAI BÀI A VÀ B Tuy bút-pháp hai bài nôm trên nầy cao thấp hơi khác, nhưng giọng nôm ấy gần giọng nói chuyện. Toàn bài A có thể chỉ là ghi những câu nói thường, không có ý trau giồi xếp đặt. Những giới-từ mà, thì, cho được dùng luôn luôn. Trái với bài A, bài B có tính-cách công-văn. Vì vậy, tuy văn không hoa-lệ, nhưng cũng có vẻ trau chuốt ít nhiều. Trước hết có dùng lối « nói chữ », nghĩa là trong câu nôm, chêm cả một câu Hán văn, thường là những câu sáo-ngữ, tục-ngữ hoặc rút trong những sách có tiếng. Ví dụ : Đại Thiên hành-hóa ; phủ trị bang gia ; vĩnh thùy trúc bạch ; Quốc gia trường trị, yên như bàn thạch ; Hoàng-hà như đái, Thái-sơn như lệ ; quang đăng bảo điện ; Nhân nghĩa chi binh hòa mục vi thượng ; Pháp giả thiên hạ công cọng và cuối cùng Thực lộc thiên chung. Những câu Hán-văn nầy càng chứng rằng bài B nguyên thật viết bằng lời nôm, vì nếu đó chỉ là lời dịch thì không lẽ gì các câu ấy lại để nguyên văn. Sau nữa, lối dùng chữ chưng ở hai chỗ trong thành-ngữ chưng sau cũng là lối « nói chữ » ngày xưa, vì đó là dịch thành ngữ Hán-văn ư hậu. Cuối cùng, cú-pháp trong bài B gọn gàng phân-minh hơn trong bài A. Tuy vậy, những giới-từ mà cho và nhất là thì được dùng nhiều. Một điều không khỏi làm ta ngạc-nhiên là từ-ngữ trong hai bài trên rất gần từ-ngữ ngày nay, trừ một số ít thành-ngữ cũ hoặc một vài tiếng dùng với nghĩa cổ ; ví dụ Mai ngày, Nhược dù, Bằng lời, Cả Hòa, Khôn. Những tiếng cổ thường thấy trong những văn thơ đời sau, như tong (trong), ca (ở), mữa (chớ) thì trong bản sao nầy không thấy. Về phương-diện nầy, theo kinh-nghiệm, tôi nhận thấy, qua các tài liệu xưa mà tôi đã được đọc, hình như Việt-ngữ thông thường ít biến chuyển hơn Việt-ngữ dùng trong thi văn. Vì vậy, sự văn trong hai bài trên không có vẻ xưa không phải là phản-chứng đối với tính xác-thật của nó. Xét đến chữ nôm trong hai bài kia, tôi cũng thấy lối viết nôm trong bản sao Kiều-đại không có vẻ xưa, hay lạ. Chỉ có chữ rày (bài A cột 3) là khác thường, vì có chữ lời ở trên đầu. Nhưng đó có thể chỉ bởi kẻ sao lại lầm mà thôi. Hai tiếng Rày và Lời (quốc-ngữ cũ viết Lờy) đều viết với chữ Lệ đọc lầy (nay ta nói : lề). Nói tóm lại, xét từ-ngữ và cấu-tự nôm trong hai bài A và B, ta nhận thấy với hình-thức trong bản sao Kiều-đại, hai bài không có tích-cách đặc-biệt gì là xưa lắm. Nhưng cũng không có chứng gì tỏ rằng nó chỉ là những bài người ta bịa đặt ra đời sau. Trái lại xét nội-dung thì hai bài ấy rất có thể đã chép lại lời thật của Lê Lợi. Nhưng chắc không khỏi có những tiếng xưa bị đổi mới, hoặc những chữ nôm xưa bị chữa lại trong nhiều đợt sao chép qua năm trăm năm nay. (Kỳ sau tiếp) ĐÀ LỊCH SỬ... NGUYỄN-PHƯƠNG « THỰC ra, lịch sử không phải là một cái gì máy móc, nghĩa là có thể dựa vào đó mà tính toán trước được nó sẽ xẩy ra những gì, nhưng cái đà lịch sử là cái đà nguyên nhân đem đến kết quả, và đà đó mạnh như vũ bão. Đà đó, nó đang tiến lên oai hùng, như sức lực của cả nhân loại dồn lại từ bao nhiêu thế kỷ, và bây giờ đây, đang đẩy hiện tại vào bước đường tương lai ! ».32 Và nếu lịch sử chung có cái đà chung, gọi là đà lịch sử như thế, thì lịch sử riêng của một quốc gia cũng phải có một cái đà riêng, nó thúc đẩy, nó hướng dẫn, nó làm cho hiện tại có một lý do và một ý nghĩa, cùng làm cho tương lai thành một hy vọng và một dự trù. Thiết tưởng lịch sử Việt-nam không nằm ra ngoài con đường thường đó. Nói chung là vậy, chứ đi vào thực tế, hỏi đà lịch sử Việt Nam như thế nào ? Đà đang tiến, hay đà đang lùi ? Hay chỉ là cái đà đặt ngang không dẫn về đâu ? Muốn biết cái đà của lịch-sử Việt-Nam trong thực tế, tất phải dựa vào lịch sử thực tế của Việt-Nam. Chỉ cái đà của lịch sử thực tế – nghĩa là lịch sử thuật lại như thực-sự việc đã xảy ra – mới có một bổ ích cho hiện tại và một mối lợi cho tương lai. Nó giống như phóng trình của một khối đá đang lăn. Thấy khối đá, tức là hiện tại, và biết phóng trình của nó, tức là quá khứ, người ta đoán được nó sẽ lăn về đâu, tức là tương lai. Sao thấy và biết được như thế lại là có ích, có lợi ? Là vì, thấy và biết như thế, người ta có thể hoặc là tránh đi, khi tránh là tốt hơn, hay là ngăn chận, khi ngăn chận là một việc có thể làm và cần thiết, hay quý hơn cả, là điều khiển nó, khi có đủ khả năng và phương tiện để điều khiển. Cưỡi lên được trên sức mạnh của một cái đà để điều khiển nó, bao giờ cũng là một việc hữu ích, không nhiều thì ít, không tích cực thì cũng tiêu cực. Nhân tiện nên ghi nhận rằng chỉ có thứ lịch sử thực tế nầy mới làm nên được cái đà có một sức mạnh nào, còn các thứ lịch sử tiểu thuyết hóa, hay dệt bằng hoang không, tưởng tượng, không bao giờ có hiệu quả đặt đà, và bởi đó đã không có ích gì mà còn có hại, vì nó làm cho những ai bám vào nó phải hỏng chân, dễ bị vật vờ không biết bạt về đâu. Dựa vào lịch sử thực tế của Việt-nam, người ta nhận rõ được cái đà mở mang lãnh thổ, như cuộc nam tiến chẳng hạn, nhưng đồng thời người ta cũng có thể thấy được cái đà cũng có gốc rễ, như cái đà kháng chiến mãnh liệt chống lại Trung hoa. Cả hai đều thuộc về một loại gọi là đà bành trướng, bành trướng về chiều rộng ngang và bành trướng về chiều sâu hay nói với hình ảnh, Việt nam giống như một cây đang lên vừa sum sê cành lá, vừa đâm sâu rễ xuống lòng đất. Trong bài nầy chúng tôi muốn nói đến cái đà thứ hai, tức là sức chống cự Trung hoa của dân tộc Việt nam. Trên nền tảng của lịch sử chúng ta thấy rằng, kể từ khi Việt nam độc lập, cứ một quảng thời gian khá dài, lối hai ba trăm năm, Trung hoa lại sang xâm lấn Việt nam một lần. Lần thứ nhất xảy ra dưới thời nhà Tống, năm 98I, lần thứ hai dưới thời nhà Nguyên, năm I285-I288, lần thứ ba dưới thời nhà Minh năm I407-27, lần thứ tư dưới thời nhà Thanh, năm I788-I789. Nhưng cũng trên nền tảng đó, chúng ta lại thấy rằng, hễ mỗi lần Bắc quân kéo qua, dù cho đông đảo đến đâu, dù được chỉ huy bởi những cấp tướng cao tài đến bậc nào, dù giấu lý do xâm lược dưới hình thức nào, là mỗi lần người Việt nam, không chóng thì chầy đã cầm cự, phản kháng, khiến cho lực lượng phương Bắc khi ra đi oai hùng bao nhiêu thì khi rút về lại tơi bời, nhục nhã, bấy nhiêu. Và nói người Bắc bại, cũng là nói người Nam thắng. Có khi họ thắng với Lê Hoàn, có khi với Trần Khánh Dư, Trần Quốc Tuấn, có khi với Lê Lợi, cũng có khi với Quang Trung. Nhưng dù với ai, bao giờ cũng là người Việt nam chiến thắng. Nhìn vào hiện tượng vừa nói, chúng ta nhận được rằng đó chỉ là một sự kiện nhưng có hai mặt : Bắc là xâm lăng thua lỗ, Nam là kháng chiến vẻ vang. Nếu xâm lăng là một lực lượng, thì kháng chiến cũng là một lực lượng. Sự đối chọi của hai lực lượng bao giờ cũng là một thử thách đòi hỏi hai bên nhiều tiêu tổn. Cả hai phải cố gắng cả sức lẫn trí, cả hai phải liều cả sinh mạng lẫn của cải. Nhưng tiêu tổn mà thất bại mới là uổng phí, còn tiêu tổn mà thành công không thể là không có lợi. Phải chăng mỗi lần chiến thắng Bắc quân là mỗi lần quốc gia Việt nam đã cứng vững thêm ? Quả thế, người Việt nam, cứ mỗi lần bị lực lượng Trung hoa lay chuyển, là mỗi lần họ thêm lòng tin tưởng vào vận mệnh đất nước, họ lai láng hòa đồng trong tiếng gọi núi sông. Và lòng tin tưởng đó, sức hòa đồng đó, càng mãnh liệt hơn, khi sức lay chuyển bị ngã thua càng lớn hơn. Như vậy, qua lịch sử gần một nghìn năm lập quốc, sau bốn lần bị thử thách ác liệt mà bao giờ cũng phải thắng, hỏi dân Việt nam đã có thể tự hào rằng trong tương lai họ sẽ khải thắng mãi chưa ? Cái đà kháng chiến vẻ vang họ đạt được kia có bảo đảm bao nhiêu đối với vận mệnh đất nước họ ? để đi đến một câu trả lời hữu ích, chúng ta thử phân tích từng yếu tố. Đã nói rằng « tiêu tổn mà thất bại là uổng phí », vậy tại sao Trung hoa đành uổng phí lần nầy rồi lần khác mà vẫn không bỏ mộng xâm chiếm Việt nam ? Họ đeo đuổi như vậy, chắc chắn là vì họ vẫn thấy có hy vọng chiến thắng. Hỏi cái gì đã nuôi hy vọng họ ? Sở dĩ họ hăng hái mỗi lần đem lực lượng vượt biên giới qua đất nước chúng ta, đó là vì một số lý do, mà đứng đầu là sự gần gũi về mặt địa lý. Không ai chối cãi sự Trung hoa là lân bang phía Bắc của Việt nam. Gần gũi tạo nên dễ dàng trên đường qua lại để thân thiện, cũng như qua lại để xâm lăng. Địa lý còn cho thấy điều nầy là diện tích hai nước cách biệt nhau đến mấy mươi lần. Một diện tích lớn đã là một lực lượng không nhiều thì ít, và lực lượng tự nó vẫn muốn bành trướng. Rồi khuynh hướng muốn bành trướng đó lại được gia tăng bởi sự kiện nhân chủng. Dầu muốn dầu không, người Việt nam giống người Trung hoa, và nói cho đúng hơn, thuộc về cùng một gốc với người Trung hoa. Nhờ đó người Trung hoa rất dễ dàng trở thành người Việt nam. Chỉ cần họ bằng lòng làm dân Việt nam và nói được tiếng Việt, là rất khó mà phân biệt được họ với những người Việt nam chính cống khác. Chẳng thế mà nhà Trần đã là một triều đại Việt nam, và Việt nam thuần túy. Ông tổ của Trần Cảnh lúc đầu còn ở Phúc Kiến sau mới di cư sang làng Tức mặc. Ông tên là Kinh, « Kinh sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa »33, cha của Trần Thái tổ. Thấy người Trung hoa dễ thành Việt nam như thế, các nhà cầm quyền Trung hoa không khỏi nghĩ rằng hiện tượng đó có thể trở ngược lại, nghĩa là người Việt nam cũng dễ dàng hóa thành Trung hoa... Không hay, nước dễ chảy xuôi, không chảy ngược. Vì có lý do tâm lý kẻ mạnh. Trung hoa có lực lượng không phải chỉ bởi vì họ có một diện tích địa lý bao la. Họ mạnh bởi chính sức mạnh về người, về của, về nhân tài. Những khi sức mạnh nầy trở thành đồng tiền, dư thừa, cùng một lúc tham tâm vô đáy vùng dậy – và ai đâu lại không có tham tâm ? – thì khuynh hướng của họ là muốn xâm lăng theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Và đối với Trung hoa hỏi mồi nào ngon cùng dễ ăn cho bằng Việt nam ? Những lần họ xua quân xâm lăng chúng ta đều là những lần họ có tâm trạng như vừa nói, nhất là vào năm I284-I285. Sau hết, phải nói đến cái lý do đáng sợ nhất cho người Việt-Nam đó là nội trạng của Việt-Nam. Cả mấy lần Bắc xâm, trừ dưới thời nhà Nguyên, đều đã được chính hoàn cảnh Việt Nam mở đường. Đó là những lần Việt-Nam suy yếu vì sự kiện ấu Chúa quyền thần hoặc thay ngôi đổi chủ. Tấm gương thượng bất chính thường gây nên chia rẽ, hận thù trong cấp lãnh đạo, và cơ cực, hỗn độn trong dân gian. Mà hễ sự đổ nát, xáo trộn của Việt-Nam càng tàn tệ, thì lòng thèm khát của Thiên triều càng gia tăng. Đó là tình trạng của thời Lê Hoàn thoán đoạt ngôi vị của nhà Đinh, thời Lê Quý Ly tiêu diệt nhà Trần, thời Tây sơn hoành hành ở thủ đô Đại Việt. Và lịch sử cho biết rằng đó cũng là thời nhà Tống, hay nhà Minh, hay nhà Thanh, đem quân đội đến. Tuy nhiên, giữa những cảnh trạng thê thảm nhất của tình thế, người Việt-Nam dù có cảm thấy buồn tủi, lầm than, vẫn không bao giờ chán nản, hoặc mất tin tưởng. Không chóng thì chầy, tùy trường hợp « thượng bất chính » của nội bộ Việt-Nam, nhỏ hay lớn, người Việt-Nam đã đứng dậy một khi họ nhận rõ được nguy cơ của xã tắc, và đã đứng dậy là họ thắng. Chúng ta đã thấy họ đứng dậy, cương quyết và hăng say, vào cuối năm Giáp thân, năm thứ sáu hiệu Thiệu Bảo đời Trần Nhân Tông (I284). Sử gia chép, với lòng tự hào lộ ra đầu nét bút : « Thập nhị nguyệt... Thượng hoàng triệu thiên hạ phụ lão hội vu Diên hồng giai, tứ thực, vấn kế. Giai viết : Chiến. Vạn nhân đồng thanh như xuất nhất khẩu »34. Dịch : Tháng chạp... Thượng hoàng (tức Trần Thánh Tông) triệu tập những người lớn tuổi trong nước lại ở trước điện Diên hồng, cho ăn tiệc để hỏi kế. Tất cả đều nói : Đánh. Muôn người rập một tiếng như thốt ra bởi một miệng vậy. Kết quả nầy là bởi đâu ? Là bởi bấy giờ trong nước vua tôi đoàn tụ, trên dưới thuận hòa. Kết quả nầy còn là bởi sự vô lý hiển nhiên của việc nhà Nguyên xâm lấn. Các lần khác, Trung-hoa còn vớ được một vài lý do, mặc dầu mong manh, để can thiệp vào nội tình Việt-Nam, chứ lần nầy không. Tất cả động cơ xúi giục Thoát Hoan và bè lũ kéo quân đến, chỉ là để thỏa mãn tham tâm chinh phục. Mà tham tâm nầy, lúc đó, mạnh mẽ biết dường nào. Lúc đó, tiếng hí của ngựa Hồ chẳng những đã xô đổ hết cả sức đối địch trên toàn lãnh thổ Trung hoa để Nguyên Thế tổ có thể tuyên bố « Thiên hạ nhất thống », mà còn rung chuyển cả thế giới. Nhưng, trước sức mạnh cuồng bạo nầy, phụ lão và triều đình Đại việt không nao núng. Nếu không bao giờ vận mệnh Việt nam nguy ngập cho bằng, thì cũng không bao giờ toàn dân đoàn kết cho bằng. Và Nguyên quân tan nát hai lần liên tiếp... Và đất nước Việt nam đã hào hùng càng hào hùng thêm... Để lĩnh hội tất cả sự vẻ vang của lần đại thắng nầy, chúng ta hãy đọc một đoạn sử của chính người Trung hoa chép. Đây là lời của Bắc sử : « Nguyên Thế tổ tức giận vì Chiêm thành phản phúc bất thường, bèn hạ chiếu phong cho con là Thoát Hoan làm Trấn nam vương, có Lý Hằng giúp, để tiến đánh. Vua lại cho rằng An nam thông đồng với Chiêm thành, nên ra lệnh cho quân đội giả mượn đường An nam mà đi. Vua An nam là Trần Nhật Hằng nói rằng từ nước ông qua Chiêm thành đường thủy đường bộ đều không tiện, rồi chia quân ra các đạo để chống giữ. Thoát Hoan đến phía Bắc sông Phú lương, đánh lớn với Nhật Hằng và phá được. Nhật Hằng trốn chạy không rõ về đâu. Binh Giao Chỉ tuy bại, nhưng thế càng ngày càng mạnh, còn giữa quân Trung quốc thì bệnh tật xuất phát, bèn nghĩ đến việc rút về. Bây giờ binh Giao Chỉ đuổi đánh, Lý Hằng trúng tên độc chết. Thoát Hoan thoát được. Năm Bính Tuất (I286), vua xuống chiếu bãi việc chinh phục Nhật bản để cất đại quân đi đánh An nam... năm Đinh hợi (I287), Nguyên thế tổ lại xuống chiếu cho Thoát Hoan, cùng bọn A Bát Xích, Phàn Tiếp, sang đánh An nam, cả thủy lẫn bộ. Quân Nguyên thắng I7 trận rồi đi sâu vào nội địa. Vua An nam là Nhật Hằng bỏ thành ra biển. A Bát Xích nói : « Địch bỏ sào huyệt trốn đi xa, là có ý đợi chúng ta mệt đã mới đánh. Tướng sĩ ta đều người Bắc, trong buổi xuân hạ giao thời chướng khí sẽ nổi lên, đã không đánh được giặc mà lương thực cũng sẽ cùng kiệt. Vậy không thể ở lại lâu hơn ». Nhưng bấy giờ Nhật Hằng sai sứ đến xin hàng để triều đình, các tướng đều tin là thật. Chẳng hay đợi mãi không thấy ai đến hàng, mà tướng sĩ phần nhiều đã bị bệnh không đánh được nữa. Lúc đó mới lo việc rút. Nhật Hằng tụ quân ba chục vạn cắt đường về của Thoát Hoan, binh sĩ ông phải vừa đánh vừa đi, đụng độ mỗi ngày đến mươi lần. Địch chiếm các chỗ hiểm yếu bắn tên độc ra. Binh sĩ thì chưa băng bó xong thương tích đã phải chống cự. Phàn Tiếp, A Bát Xích đều chết. Thoát Hoan theo đường rẽ mà về. Nguyên Thế tổ thấy Thoát Hoan vô công bắt đi làm trấn thủ Dương châu, suốt đời không cho gặp nữa ! ».35 Ngợi khen tinh thần kháng chiến của người Việt-nam, thiết tưởng không ai thành công hơn tác giả của đoạn sử vừa trích. Các lần kháng Tống, kháng Thanh, kết quả cũng không kém gì, nhưng hai lần nầy người dân không phải không gặp khó khăn. Họ đứng trước cảnh tượng thay ngôi đổi chúa và lòng trung quân của họ se lại. Ngoài ra, Lê Hoàn, với những mẩu chuyện thầm vụng chuyên chế ở chỗ cung triều, không phải là một người không đáng trách. Còn Nguyễn Huệ, đối với đại đa số dân Đại Việt, vẫn còn như một người chưa quen biết. Dầu vậy, họ đã xếp lại một bên tất cả những bất đồng nhỏ hẹp để chung lo việc lớn. Lòng trung quân đã nhường chỗ cho lòng ái quốc. Đứng trước nạn mất còn của đất nước, họ đã cùng với những cấp chỉ huy của họ thét lên rằng đất nước của họ phải còn, thế là lực lượng xâm lăng tan rã. Theo Tống sử thì sau khi quân Tống thua trận ở Đại cồ Việt, Tống Thái tông đã « xuống chiếu giết Lưu Trừng và Giả Thật, ngay trong trại quân, cùng bắt Tôn Toàn Hưng hạ ngục »36. Đó là số phận những tướng lãnh sống sót, chưa nói đến một số khác bị Việt quân bắt hoặc tử trận. Về cuộc xuất quân của Tôn Sĩ Nghị năm I788-I789, Hoàng Lê Nhất Thống chí tóm tắt rằng : « Khi quan Tổng đốc chạy trốn về bắc, trong lúc vội vã không thu kịp đồ đạc, rồi đến địa đầu Phượng nhãn lại được tin tướng Tây sơn là Đắc lộc hầu theo đông đạo kéo quân đến chận, lần nữa hết sức hốt hoảng, trong người mang theo được gì phải vất lại tất cả giữa đường, lo thoát lấy thân. Vì vậy những vật Thanh đế ban cho ông, như sắc thư, cờ hiệu, quân ấn, đều bị người Tây sơn lượm được đem về »37. Nếu vị tổng tư lệnh mà điêu đứng đến thế, hỏi số phận binh sĩ còn đến thế nào ? Trường hợp kháng Minh cần phải chú trọng cách riêng, không phải chỉ vì tính cách lâu dài của nó, mà còn vì chính sự xuất hiện của người lãnh đạo, Lê-Lợi. Trong lần nầy, tinh thần quốc gia chậm tỉnh thức trong đám đông, đến nỗi Trung quốc đã có thể tổ chức lại nền thống trị giống như khi Việt-Nam chưa độc lập và qua một thời gian hai mươi năm trường. Chúng ta nghĩ sao về hiện-tượng đó ? Trước hết không thể nói được rằng dân Việt-Nam có một lúc nào đó đã đành chấp nhận quyền đô hộ của phương Bắc. Xét cho đến nơi thì trong thời gian nhà Minh làm chủ Đại ngu, chỉ có bốn năm, kể từ tháng chạp năm Quý tị (23-I2-I4I3 đến 2I-I-I4I4, lúc Trùng Quang để bị bắt, cho đến ngày 2 tháng Giêng năm Mậu-Tuất (7-2-I4I8), ngày Lê-Lợi công khai khởi nghĩa, là không có những hoạt động kháng chiến qui mô, nhưng không phải là không có hoạt động nào. Chẳng hạn, tháng 9 năm Bính-Thân (I4I6), binh sĩ đã nổi dậy ở huyện Tân an và bị Trương Phụ dẹp tắt. Điều quan hệ là tìm cho biết tại sao sức kháng chiến chậm đạt kết quả. Lý do đầu tiên là sự độc ác của những kẻ cầm quyền Việt Nam lúc bấy giờ. Lòng độc ác của Lê hay Hồ Quý Ly đối với nhà Trần, nhân dân có lẽ không ai mà không biết. Xây đắp quyền thế nhờ mưu chước hơn là nhờ thực tài. Quý Ly đã ngược đãi một cách phũ phàng cấp trên của ông. Ông đã lừa đảo Trần Nghệ-tông, ông đã giết Trần Thuận-tông, ông đã cướp ngôi Trần Thiếu đế. Những hành động về loại đó đủ để làm cho sĩ phu kinh thị, nhân tâm ly tán. Hơn thế nữa, họ Hồ không kiêng nể gì toàn dân. Ông đã xướng xuất nhiều cải cách mà người thời đó gớm ghét, ví dụ tăng thuế gấp đôi, gấp ba, lập ra tiền giấy để thâu của, kiểm tra lúa gạo để mua ép với tiền giấy. Ngày nay, nghe tiếng lập ra tiền giấy, có người tưởng rằng cũng có hệ thống giống như trong thế kỷ hai mươi nên vội khen là một sáng kiến cách mạng. Nhưng người thời đó biết rõ hơn : tiền giấy mà không bảo đảm, chỉ là một mưu mô cướp của. Vì thế không ai lạ gì, khi quân Minh sắp kéo qua, và Quý Ly cùng Hàn Thương triệu tập các an phủ sứ về kinh để bàn kế nên hòa hay nên chiến. Tả Tướng quốc Đăng đã không ngần ngại nói lên sự thật nầy : « Thần không sợ chiến, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi »38. Mà lòng dân đã không theo thật, và lòng dân không theo là hỏng hết. Họ không theo, không phải là họ không yêu nước, nhưng là để chứng rằng họ không chấp nhận những nhà lãnh đạo bất nghĩa, bất nhân. Cấp lãnh đạo nầy còn tỏ ra hèn nhát, kém mưu, vô trách nhiệm, đó là lý do thứ hai. Tháng I0 năm Quý-vị (I403), có một số nhà sư Việt, trước kia đã được gửi sang Trung-Quốc, nay làm sứ nhà Minh trở về do thám tình hình, và nhân tiện cho thân thuộc biết phải tự vệ làm sao phòng khi quân Minh xâm lấn, họ Hồ đã không lợi dụng được bọn thân thuộc đó để nhờ các nhà sư gây ảnh hưởng nơi Minh triều, lại đem họ giết đi, khiến các sứ giả mang hận thù đối với Đại ngu. Lại thấy nhà Minh mạnh, họ Hồ sợ sệt đem mồi đến đút. Thật vậy, đầu năm Ất-dậu (I405), nhà Minh đòi lấy vùng Lộc-châu của Lạng-sơn, Quý Ly liền đặt quan Hành khiển Hoàng Hồi Khanh làm cát địa sứ, cắt 59 thôn giao cho. Tháng tư năm Bính-tuất (I406), lấy cớ đem Trần Thiêm Bình về nước, Minh để cho một đạo quân nhỏ sang. Nhờ bố trí sẵn, Hồ xạ chận đường Minh quân, bắt được một số. Đáng lẽ Quý Ly dùng những người đó làm giá đổi lấy hòa bình, thì không, ông đem họ phân tháp vào Nghệ-an, rồi sai sứ sang Minh cầu hòa. Như vậy, nào có lạ gì khi thấy Minh triều giữ sứ lại và cất đại quân đi xâm chiếm. Rồi, vào cuối năm, địch đến thật, thì cha con họ Hồ, mặc dầu đã chuẩn bị lâu, nhất là ở Đa-bang, cũng phải thất bại trận nầy đến trận khác. Quân của Trương Phụ lấy Việt-trì ngày 2 tháng chạp, ngày 9 tháng đó, viên tướng ở đồn Mộc phàm, Nguyễn Công Khôi, còn « phương dĩ nữ sắc tự ngu »39, nên để bị địch tấn công không kịp trở. Thế là, 3 ngày sau, chính thành Đa-bang thất thủ (ngày I2 tháng chạp, tức ngày 20 tháng I, I407). Từ đó Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương lưu lạc để không lâu sau bị giặt bắt, cha ở cửa Chỉ-chỉ ngày II tháng 5 năm Bính-tị (I6-6-I407), và con, ngày hôm sau, ở núi Thiên-cẩm, tại Kỳ-la. Dân thù ghét cấp lãnh đạo, rồi chính cấp lãnh đạo thiếu can đảm và chủ bại, thế đã đủ cho vận nước ngửa nghiêng. Đang lúc đó, nếu lực lượng xâm lăng khôn khéo nữa, là đà trôi xuôi tất có thể phóng xa. Mà nhà Minh, trong mưu mô thôn tính Đại ngu, đã tỏ ra rất khôn khéo, khôn khéo đến ranh mãnh. Lợi dụng thế yếu của nhà Hồ, họ mạnh mẽ phô trương danh nghĩa phò Trần. Vừa đến nơi là họ lấy những miếng ván nhỏ, viết vào trên đó cả tội ác của Quý Ly, cả chủ trương khôi phục triều đại chính thống của họ rồi thả xuống sông cho trôi về vùng đông dân cư ở châu thổ. Vì đã bị đàn áp quá, dân chúng dễ dàng tin theo những lời lẽ đượm mầu chính nghĩa. Sau, khi đã làm chủ được tình hình về mặt quân sự, họ bày trò mua lòng quan lại và sĩ phu. Được mơn trớn, các quan Đại ngu đã tuyên bố dòng dõi nhà Trần không còn và yêu cầu nhà Minh cai trị. Để cho giới Nho học bằng lòng, họ đã xây Văn miếu, xây đền Xã tắc, lập học hiệu, tuyển người vào Quốc tử giám. Đồng thời với những hoạt động đầy hậu ý lừa bịp đó, họ lại tổ chức một hệ thống kiểm soát chặt chẽ, nào là phân chia phủ huyện theo lối Trung-quốc, nào là lập hộ thiếp, nào là kiểm tra dân đinh. Họ ru ngủ để dễ đặt kềm kẹp vào, và một khi kềm kẹp đặt xong, người mình tỉnh dậy muốn gỡ đi thật là một việc khó. Sau hết, phong trào kháng chiến chậm thành công, còn tại nguyên do nầy nữa, là những kẻ đứng ra lãnh đạo kháng chiến thiếu uy tín và khả năng. Ai cũng biết lòng dân có theo, mới làm gì được. Mà lòng dân là một tiềm lực cần phải kích động dậy. Tiềm lực đó lại tản mạn, cần phải được tập trung. Sự tập trung nầy, bình thời, đã buộc phải có một sức thu hút khá lớn mới thành, huống hồ là khi kẻ thù đã giăng bủa chướng ngại khắp nơi. Bởi đó, những động cơ thông thường thế tất không có hiệu lực. Vậy mà các nhân vật như Trần Ngỗi, Trần Quý Khách không thể tung ra gì khác ngoài những động cơ thông thường. Nêu lên trước mặt quốc dân, tất cả giá trị của họ chỉ là sự đồng huyết thống với một dòng họ đế vương đã bị mai một một cách oan ức. Bị oan mà tìm cách minh oan không phải không có người hưởng ứng. Nhưng tiếng minh oan sau bảy năm bị tắc nghẽn, tự nó đã yếu ớt, huống hồ càng không thể trở thành tiếng gọi đàn. Hơn nữa, nó còn bị gìm đi giữa bao nhiêu tiếng gào thét khác của một địch thủ nắm ưu thế. Cho nên, không bao lâu, tiếng minh oan đã tỏ ra ấp úng, và Giản định đế bị Trương Phụ bắt vào tháng 7 năm Kỷ-sửu (II tháng 8 đến 8 tháng 9, I409). Trùng Quang đế cũng diễn lại cùng một màn và cũng bị bắt vào tháng chạp năm Quý-tị (23 tháng I2, I4I3 đến 2I tháng I, I4I4). Nhưng, với thời gian, lớp nhung lừa bịp bọc ngoài bàn tay sắt của chính sách đô hộ đã bị mòn thủng, để lộ ra cả tính chất bạo tàn bỉ ổi của nó. Nào là người Minh bắt phu đi các công trường lọc vàng bạc, vào núi tìm voi trắng, xuống biển mò hạt trai, nào là họ giữ độc quyền bán muối, đòi thuế má nặng nề. Họ lại bắt dân thay đổi y phục, cùng thu thập di sản văn hóa đem về Trung-hoa, nhất là bắt lính, ở vùng bắc mỗi hộ ba đinh, ở vùng trung mỗi hộ hai. Chẹt chân, dân Đại ngu phải hả miệng. Nhưng miệng hả để than trách kêu gào còn có phần dễ, chứ chân đã bị chèn chẹt chặt trong xiềng xích ngoại bang, muốn rút ra, tất phải nát thịt trầy xương. Và Lê Lợi đã liều thân gánh vác công việc rút thoát nầy cho đồng bào. Biết công việc cần phải lâu dài, ông một lòng kiên quyết. Khởi nghĩa tự Lam sơn, ông liền phải trốn tránh giữa muôn nghìn gian khổ rồi lại trở về Lam sơn. Lần thứ nhất, ngày 4 tháng 4, năm Mậu-tuất (9-6-I4I8), ông trở về nhờ sự xả thân của Lê Lai, lần thứ hai, vào tháng 7 năm đó, nhờ quân Minh đợi lâu ngày phải rút đi, lần thứ ba, ngày 7 tháng 4 năm Quý-mão (I6-5-I423) nhờ điều đình. Kinh nghiệm của năm năm tranh đấu cho thấy rằng Lam sơn không phải là địa lợi, ông không ngần ngại dời vào Nghệ-an. Quả thế, đúng như kế hoạch, tại Nghệ-an, dân đón rước ông, địch thua và đầu hàng ông, ông vây lấy lực lượng địch trong thành để tiện việc tuyên dương thanh thế. Rồi thấy một số dân sở dĩ lừng khừng, không chịu ủng hộ công cuộc giải phóng, chỉ vì chưa thấy rõ chính nghĩa của việc ông làm, ông liền đặt một người họ Trần lên làm vua. Tại Nghệ-an, vào tháng II năm Ất-tỵ (I425), nghĩa là đang khi chuẩn bị tấn công Đông quan và cố nhiên là lúc cần đến sự nâng đỡ của đại chúng nhất, ông cho Trần Tung lên ngôi, lấy hiệu là Thiên Khánh, đóng ở Ngọc ma. Không cần phải nói là sau cử chỉ khôn khéo đó, sĩ phu khắp nơi hăng hái giúp ông. Dầu vậy, đã không tự mãn, ông luôn luôn cẩn thận, dùng mọi mưu lược để chiến thắng. Trước sức cứu viện khổng lồ của địch đang kéo tới, tướng sĩ giục ông đánh Đông quan rồi hẳn trở lại đương đầu với sức cứu viện. Lê Lợi không nghe. Ông thừa biết Đông quan thành trì kiên cố. Nếu đánh, lỡ mà chiến cuộc kéo dài, tất sẽ bị địch thúc cả đàng trước lẫn đàng sau. Và khi ông định đánh lực lượng cứu viện trước, ông còn biết phân biệt. Liễu Thăng, từ Quảng tây sang, còn trẻ, rất hăng, tất sẽ có nhiều sơ hở. Ông truyền cho tướng sĩ sẵn sàng để thừa cơ, và cơ hội đã đến thật với trận Chi lăng oanh liệt. Còn Mộc Thạnh già, tất cẩn thận và tiến chậm, lệnh của ông cho các thủ hạ chận đường Vân-nam và khoan đánh, hẳn kỹ lưỡng dò tình hình. Kết quả là chưa đánh Mộc Thạnh đã chạy, vì nghe tin Liễu Thăng thua. Cũng thế, không đánh mà Đông quan cũng hàng. Sự xuất hiện của Lê-Lợi trên chiến trường Việt-Nam là sự xuất hiện của một vị cứu tinh kiên gan, khôn khéo, và can đảm, mưu lược. Nhờ kiên gan, khôn khéo, ông đã kích động và qui tụ được tiềm lực kháng chiến của nhân dân, nhờ can đảm, mưu lược, ông đã toàn thắng được giặc mạnh. Nhưng sự xuất hiện của Lê-Lợi không phải nói lên chỉ có thế. Nó còn chứng minh tính cách tự tồn cố hữu của quốc gia Việt-Nam. Quả thế, Lê-Lợi chính là sản nhi của tinh thần kháng chiến luôn luôn hoạt động trong mọi người dân Việt. Ông không phải như các vị anh hùng khác đã chống đánh Trung-hoa. Khi nhà Tống kéo quân sang, Lê-Hoàn đã là Thập đạo tướng quân. Khi Thác Hoan, Ô Mã Nhi ồ ạt đến, Trần Quốc Tuấn đã là Hưng Đạo vương, Trần Khánh Dư đã là Nhân Huệ vương. Khi Tôn Sĩ Nhị vào Thăng long với Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã là Quang Trung cai trị một phần đất nước. Các vị này đã là những nhà lãnh đạo mang nặng nợ cơm áo với non sông. Chứ Lê-Lợi thì không. Khi quân Minh đặt nền đô hộ, ông chỉ là một nạn nhân như muôn nghìn nạn nhân khác ở các xóm làng miền duyên sơn hay châu thổ. Cái làm cho ông nổi dậy, không phải trách nhiệm hiện tại đối với vua hay đối với dân, mà chính là ý chí quật cường của một quốc gia độc lập. Ý chí nầy đã thúc đẩy ông, đã nâng đỡ ông, đã uốn nắn ông, đã đem ông lên đài khải thắng. Là vì quốc gia Việt-nam phải khải thắng để tự tồn và trường tồn. Để nói lên sự đặc biệt của vai trò Lê-Lợi, thủ hạ ông, trước khi tiến ra Đông quan, đã xưng ông là Đại Thiên Hành Hóa. Họ có ý nêu lên rằng ông không dựa vào uy thế của một triều đại nào, mà dựa vào chính mệnh Trời, để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng, đúng hơn, có lẽ phải xưng ông là Đại Việt Hành Hóa, vì nơi ông đã thể hiện tất cả tính cách bất khuất của nước non nhà. Đến đây chúng ta đã gặp được những yếu tố cần thiết để trả lời câu hỏi đặt ra trên, ý rằng : Lịch sử có cung cấp cho Việt-nam cái đà khải thắng mãi không ? Nếu với Lê Hoàn, với Trần Khánh Dư, Trần Quốc Tuấn, với Nguyễn Huệ, chúng ta đã có thể nói có, thì với Lê Lợi chúng ta càng có thể chắc chắn như vậy. Lịch sử Việt-nam là lịch sử có chiều rộng lại có chiều sâu. Vì cây Việt-nam không phải chỉ xanh hoa tốt lá, mà còn mập gốc, chắc rễ. Kết luận về thời khai sinh của Việt nam, chúng tôi đã viết : « Nền độc lập của cổ Việt đã được hoàn thành trong êm đẹp của thời bình nên nước Việt-nam chẳng khác gì một quả chín rụng ra khỏi cây mẹ để tự sống một cuộc đời riêng, mang đầy đủ sinh lực trong chính mình » 40. Khi một cây đã mang đầy đủ sinh lực trong chính mình, và đã có gốc mập rễ sâu, thì một cành có thể bị gẫy, và, vạn nhất, thân cây có thể bị đốn, nhưng cây không sao chết được. Tự gốc nó, người ta sẽ thấy mầm nẩy lên và cây sống lại… Trở lên là ôn cố… Nhưng ôn cố cốt để tri tân… Ngày mai của Việt-nam như thế nào ? Muốn biết, cứ đem cái đà lịch sử vừa phân tích so sánh với thực trạng ngày nay, ở Trung-hoa… ở Việt-nam… Một điều có thể chắc được, là nếu các nhà lãnh đạo hiện thời nắm chặt dây cương lịch sử, thì chẳng những Việt-nam sẽ thắng, mà còn thắng trong những điều kiện vẻ vang nhất. NGUYỄN-PHƯƠNG LƯỢC-SỬ CHẾ-ĐỘ XÃ-THÔN Ở VIỆT NAM : CHẾ-ĐỘ XÃ-THÔN TỰ-TRỊ – CÓ NÊN GIỮ LẠI CHẾ-ĐỘ XÃ-THÔN TỰ-TRỊ KHÔNG ? PHAN-KHOANG ĐẶT VẤN ĐỀ BẤT cứ ở nước nào, xã thôn là nền móng của quốc gia. Làng có yên, nước mới trị, còn sự tổ chức ở đơn-vị cơ bản này đã không thích đáng thì xã hội lộn-xộn từ chỗ gốc rễ, guồng máy cai trị chung không thể điều hành đều-đặn để đem lại sự bình ổn cần thiết cho sự phát triển quốc-gia. Vậy quản-trị xã thôn là một vấn-đề quan trọng thế mà từ trước đến nay, trừ hạng người hữu trách, chúng ta ít ai lưu tâm đến. Đó là một sự lãng quên, hoặc một sự ngộ nhận đáng trách. Hiện nay trong công cuộc cải tạo, kiến thiết lại quốc-gia, thiết tưởng vấn-đề quản-trị xã thôn là một trong những vấn-đề căn-bản cần phải được nghiên cứu kỹ-lưỡng. Cơ-cấu quốc-gia của ta xưa kia có một đặc-điểm là gồm hai bậc ; làng và nước, tuy làng ở trong phạm-vi của nước, nhưng nước không được xâm phạm đến quyền hạn của làng. Làng có tư cách « pháp-nhân », và do dân làng quản-trị, chính quyền không can dự đến. Vậy con người có hai trường sở để hoạt động : làng và nước, người có tài-năng, có sáng kiến nếu không đem mà dùng được ở quốc-gia thì đem dùng ở làng, để kiến thiết, để mở mang, để làm cho làng thịnh vượng. Với chế-độ xã thôn tự trị, dân chúng đều được trực-tiếp tham dự công việc của làng, tự mình sắp đặt, trị lý, nên gây cho người dân cái tinh thần tự trí, tinh thần trách nhiệm. Về phương-diện chính-trị, người ta nhận thấy ở đây một sự dung hòa khéo-léo giữa chính-sách trung-ương tập quyền và địa-phương phân quyền. Phải có một chính phủ trung ương mạnh-mẽ để giữ vững nền thống nhất lãnh thổ, nên chính-sách tập quyền là cần thiết. Nhưng nếu tập quyền thái quá thì khắc nghiệt và có thể sinh ra nhiều tai hại, vì vậy tổ tiên ta đã dùng sự phân quyền, nhưng chỉ phân quyền ở cấp xã mà thôi, còn từ Huyện, Phủ (quận) trở lên thì triệt để trực thuộc chính-quyền trung-ương. Như vậy, chính-sách trung ương tập quyền và địa-phương phân quyền hợp tác chặt-chẽ, không một bên nào được hà lạm, thái quá, để giữ sự quân bình cho quốc-gia, sự quân-bình ấy biểu hiện ở khắp các ngành sanh hoạt của dân tộc. « Phép vua thua lệ làng », pháp-luật của triều-đình và tục lệ của nhân-dân phải cùng được tịnh trọng thì lý xứng hợp, tình thỏa thuê, công tư trọn vẹn. Đó phải chăng là triết-lý thực hiện lẽ quân-bình, cái mạch sống của dân tộc Việt-nam trải qua mấy chục thế-kỷ nay. Chế-độ khôn ngoan ấy đã gây được nhiều ảnh-hưởng tốt, đồng thời, vì không biết cải cách, canh tân theo thời gian, nó cũng đã làm phát sinh nhiều tệ hại, nhiều tập quán hủ lậu làm cản trở phần nào sự tiến bộ của nhân-dân. Nhưng những biến-cố sau I945 đã khiến nhiều phong-tục đồi bại ấy bị bài trừ tận gốc rễ. Trong công cuộc kiến thiết lại xã thôn của Chính-phủ Cộng-hòa từ mươi năm lại đây, vì nước nhà đương ở trong tình-trạng chiến tranh, nên cũng chỉ nhắm đến hiệu-lực giai-đoạn mà thôi. Mai đây hòa bình trở lại, khi kiến thiết lại một cách vĩnh-viễn ắt một vấn-đề sẽ được đặt ra ; có nên giữ lại tinh-thần và chế-độ xã-thôn tự trị, nghĩa là địa phương phân quyền ở cấp xã như xưa không, hay là tập trung triệt-để vào chính-quyền trung-ương ? Nếu để cho xã thôn tự trị, thì phải tổ-chức thế nào ? Để giúp phần nào những vị muốn tìm câu trả lời, chúng tôi xin trình bày nguyên đầu và lược-sử của chế-độ xã thôn, chế-độ xã thôn tự-trị, những đặc tính và những ưu điểm, khuyết điểm nhận thấy ở nó qua kinh-nghiệm của thời-gian để quí-vị tiện bề nghiên cứu. SỰ THÀNH LẬP « XÃ » – SỰ QUẢN-TRỊ « XÃ » QUA CÁC TRIỀU LÝ, TRẦN VÀ LÊ-SƠ Ở Việt-nam, đơn-vị hành-chánh Xã (làng) ra đời từ bao giờ ? Trong ba thời-kỳ Bắc-thuộc dài hơn I000 năm, chúng ta không biết rõ khu vực hành-chánh thấp nhất gọi là gì. Có lẽ cũng theo chế độ nhà Hán truyền sang, rồi thay đổi ít nhiều mà thôi. Đời Hán, ở Tàu, trong dân-gian, I0 nhà gọi là lý, I0 lý gọi là đình, I0 đình gọi là hương, không thấy có danh từ « Xã ». Vả lại, các nhà ấy thường là người trong một « họ » (tộc), dính-dáng nhau vì huyết thống, chứ không phải như ở Việt-nam, dân trong một xã « làng » là người dưng kết đoàn với nhau vì sống chung trên một khu đất mà thôi. Sử chép rằng dưới thời đô-hộ của nhà Đường, nhân bên Tàu có loạn, uy quyền không ra đến ngoài, ở nước ta dân chúng cử Khúc-thừa-Dụ lên làm Tiết-độ-sứ (906), nhà Đường suy yếu, không thể ngăn cấm được, cũng phải thuận y. Khúc thừa-Dụ làm Tiết-độ-sứ được một năm thì mất (907), con là Khúc-Hạo lên thay chức cha, lập ra Lộ, Phủ, Huyện, Châu, Xã, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má. Vậy « xã », đơn-vị hành-chính cơ-bản, ra đời từ lúc ấy. Qua đời Ngô thu hồi độc lập, rồi đến đời Đinh, Tiền Lê, tài liệu không cho chúng ta biết cách phân chia khu vực hành chính thế nào, nhưng chúng ta có thể đoán rằng ấy là những triều-đại ngắn ngủi, lại phải bận về việc đánh dẹp, nên ắt cũng giữ sự sắp đặt hành-chính địa-phương của Khúc-Hạo, chứ không thay đổi. Nhà Đinh đặt thập đạt quân ; Nhà Tiền-Lê chia I0 đạo làm lộ, phủ, châu. Đến đời Lý, nền độc lập đã vững chãi, an-ninh, trật tự đã phục hồi, nhà nước mới lo sắp đặt lại việc hành chính. Đời vua Lý Thái tổ ; Thuận Thiên năm I (I0I0) chia I0 đạo làm 24 lộ, còn Hoan-châu, Ái-châu là đất biên-viễn nên đặt làm trại. Không thấy nói khu-vực hành-chính thấp nhất gọi là gì ; có lẽ cũng là Xã như cũ. Đời vua Lý Thái-tông, năm thứ 3 (I04I), lại đặt ra Giáp. Mọi tập-hợp gồm I5 người dân gọi là Giáp, trong ấy lựa một người cầm đầu gọi là Quản-Giáp chịu trách nhiệm về việc hành-chính và thuế má trong Giáp mình. Quản-Giáp không phải là công-chức đại diện của chính-quyền mà là một tư-nhân chọn trong dân chúng của Giáp. Có lẽ dưới triều Lý, tiểu-tổ hành-chính vẫn là Xã như trước, nhưng vì để nhẹ việc thu thuế và kiểm soát nhân dân, Thái-tông chia nó ra làm nhiều Giáp, nhưng vẫn thống thuộc Xã. Đời Trần, sự phân chia khu-vực hành-chính của triều trước được sửa đổi hoàn toàn ; nước chia làm I2 Lộ, Lộ chia làm nhiều Phủ hoặc Châu chia ra làm Xã. Lộ do chức An phủ sứ cai trị, Phủ có tri-phủ, Châu có thông-phán cầm đầu. Xã có Xã-quan gọi là Xã-chính, Xã-giám cầm đầu, và thường hai xã hoặc ba, bốn xã hợp lại làm một, viên Đại Tư-xã hoặc Tiểu Tư-xã cai trị. Đại Tư xã phải là quan ngũ phẩm trở lên, còn Tiểu tư-xã là quan lục phẩm trở xuống. Vậy xã chính, Xã giám, Đại Tư-xã, Tiểu Tư-xã đều là công chức, do Triều-đình bổ nhiệm. Sự tổ-chức ấy áp dụng cho đến đời vua Thuận-tông vị vua cuối cùng triều Trần. Bấy giờ Hồ-quí-Ly mưu toan việc soán đoạt cải tổ việc cai trị, đặt lại quan chức để tiện bổ nhiệm những người tay chân, vây cánh của mình. Năm thứ I0 đời vua Thuận-tông (I398) nước chia ra làm Trấn và Lộ ; Trấn, Lộ chia ra làm Phủ, Phủ chia ra làm Châu, Châu chia ra làm Huyện. Ở dưới huyện, các tập-hợp hai ba bốn làng cùng các chức Đại, Tiểu Tư-xã đều bãi bỏ. Chức Xã-chính, Xã-giám không bỏ, vậy là tiểu-tổ xã vẫn còn. Xã-chính, Xã-giám vẫn là chức quan thay mặt chính-quyền, còn Quản-giáp là người tư-nhân trong giáp lựa chọn ra. Nhà Minh dẹp nhà Hồ, đặt nền Đô hộ thì sửa đổi hoàn toàn nền hành-chính. Nước chia làm I7 Phủ và 5 Châu ; Phủ, Châu chia ra làm Lý (tức làng), mỗi lý có II giáp, mỗi giáp I0 hộ (nhà), nơi phủ-lỵ chia ra từng Phường. Vùng ngoại-ô của phủ-lỵ gọi là Tương. Lý có Lý-trưởng, Giáp có Giáp-thủ cầm đầu đều do nhà cầm quyền lựa người trong lý, trong giáp bổ nhiệm. Cuộc đô-hộ của nhà Minh chấm dứt, vua Lê Thái-tổ lên ngôi rồi bãi bỏ hết các chế-độ nhà Minh mà sắp đặt lại nền hành-chính ; nước chia làm 5 Đạo, mỗi đạo có quan Hành khiển cai trị. Đạo chia ra làm Phủ, Lộ, Trấn, Châu và Xã. Đạo, ngoài quan Hành-khiển còn có chức Chính Tuyên-phủ-sứ, Phó Tuyên-phủ-sứ. Phủ thì đặt Tri-phủ, Lộ thì đặt An-phủ-sứ, Trấn thì đặt Trấn-phủ-sứ, Châu thì đặt Phòng-ngự-sứ, Huyện thì Chuyển-vận-sứ và Tuần-sát-sứ, Xã thì đặt Xã-quan. Vậy tiểu-tổ hành-chính vẫn là Xã. Xã chia làm 3 hạng, Xã có I00 người trở lên gọi là đại Xã thì đặt 3 xã-quan, có 50 người trở lên gọi là trung-xã, đặt 2 xã-quan ; có I0 người trở lên gọi là tiểu-xã, đặt I xã-quan. Đời vua Lê-thánh-Tông, nền hành-chính lại hoàn toàn thay đổi. Ban đầu, vua chia nước làm I2 Đạo Thừa-tuyên, mỗi Đạo có Đô-ti coi việc binh, do Chánh Đô-tổng-binh, Phó Đô-tổng-binh cầm đầu ; Thừa-ti coi việc hành-chính, có Chính Thừa-chính-sứ và Phó Thừa-chính-sứ cầm đầu ; Hiến-ti coi việc Hình, có Hiến-sát cầm đầu. Sau, lấy đất Quảng-nam của Chiêm-thành, chia nước làm I3 Xứ, mỗi Xứ chia làm nhiều Phủ, Phủ chia làm nhiều Huyện, Châu ; Huyện chia làm nhiều Xã, Xã gồm nhiều Thôn (xóm). Nơi phủ-lỵ chia ra Phường ngoại-ô phủ-lỵ gọi là Hương ; còn Châu là đất-đai của dân thiểu-số thì chia ra làm Trang, Sách, Động, Nguyên, Trưởng. XÃ-THÔN TỰ-TRỊ Lược sử chế-độ xã thôn tự trị từ Lê-Thánh-tông trở về sau Đời vua Lê-thánh-tông, năm thứ bảy (I467). Ban hành một cuộc cải-cách quan trọng trong chế-độ xã thôn : chức xã-quan bãi bỏ, và đặt chức Xã-trưởng để thay thế. Số Xã trưởng nhiều ít tùy theo làng lớn, nhỏ ; làng có hơn 500 hộ (nhà) thì có 5 Xã-trưởng, làng có hơn 200 hộ thì có 4 Xã trưởng, làng có hơn I00 hộ thì có 2 Xã-trưởng. Trái với chức Xã-quan do Chính-quyền bổ-nhiệm, chức Xã-trưởng do dân chúng trong Xã lựa chọn bầu lên. – Việc lựa chọn Xã-trưởng được nhà vua xuống Dụ đặt điều-lệ : Những người bà con, thông-gia không được cùng làm Xã-trưởng trong một Xã ; nên chọn những người có ít nhiều học-thức, như Sinh-đồ, Giám-sinh, Lại (người đã giúp việc quan ở các nha môn) v.v… cựu binh-sĩ cũng được chọn làm Xã-trưởng, nhưng phải có ít nhiều học-thức đủ làm việc ; những người quá 30 tuổi, tính hạnh tốt, con nhà danh-giá cũng có thể được chọn làm Xã trưởng ; quan chức vì bất cẩn, để dân chọn người vô-lại làm Xã-trưởng thì bị gián, nếu ấy là vì hối lộ, hoặc vị tình thì bị phạt nặng hơn nữa. Sách Hồng-đức thiện-chính-thư có chép : « Các làng bàu Xã-trưởng, phải kén chọn cho được người, theo lệ thì có Xã chính, Xã-sử và Xã-tư mỗi người giữ một việc ; bàu ai phải là người có tuổi-tác, đức-hạnh, không được bàu người xằng bậy, mượn việc công làm việc tư, kết hợp bè đảng, làm tổn thương phong hóa… ». Như vậy thì chức Xã-trưởng gồm đến ba người là Xã-chính, Xã-sử, Xã-tư, cũng như đời Trần. Xã quan có hai người là Xã-chính, Xã-giám, và tuy để dân-chúng lựa chọn Xã-trưởng, nhưng quan địa-phương phải để ý đừng để hạng người xằng-bậy dùng bè đảng, dùng tư-tình để được lựa chọn. Dầu sao, việc dân chúng lựa bàu Xã-trưởng mở đầu một giai-đoạn mới-mẻ trong việc quản-trị xã-thôn. Chế-độ xã thôn tư trị bắt đầu từ đó, gây ra một đặc điểm trong sự sinh hoạt của người Việt-nam ở trong làng mạc và cho nền hành chính của nước nhà. Chế-độ nói trên áp dụng cho đến cuối nhà Lê và trong 65 năm trị vì của nhà Mạc, vì bận đánh dẹp nên có lẽ cũng không có gì thay đổi. Sau khi dứt nhà Mạc, phục hưng nhà Lê, chúa Trịnh vẫn giữ sự phân chia khu-vực hành-chính cũ. Còn chức Xã trưởng, thì lựa chọn cách thế nào ? Lịch-triều Hiến-chương chép : « …Sau thời trung hưng khoảng năm Vĩnh-thọ (Lê Thần-tông) có lệnh bảo các Châu, Huyện chọn hạng người nho-sinh, sinh-đồ đặt làm chức Xã trưởng, Xã-sử, Xã-tư để trông nom việc làng, khám xét, kiện tụng… Đến năm Cảnh-trị (Lê Huyền-tông) lại sai chọn con em nhà tử tế đặt làm Xã-trưởng, để dạy dổ nhân dân, ba năm một lần xét cộng việc làm, nếu tốt thì được thăng làm quan chức ở huyện… Từ năm Long-đức (Lê Thần-tông), Vĩnh-hựu (Lê Ý-tông, I735-I739) trở về sau, việc đặt Xã-trưởng để mặc dân các Xã… ». Xem đó thì đời Lê trung-hưng, có lẽ là vì tình hình các làng mạc chưa ổn định, nên phải sai quan địa phương chọn người địa phương mà đặt làm Xã-trưởng. Dầu vậy, Xã-trưởng vẫn là người dân trong xã, chứ không phải là một chức quan do triều đình bổ đến. Đến đời Vĩnh-hựu trở về sau thì Xã-trưởng mới trở lại do dân bàu cử. Ở Nam-hà, ban đầu các chúa Nguyễn cũng theo như cách tổ-chức ở Bắc-hà, nhưng sau khi chúa Nguyễn-phúc-Nguyên chống đánh với chúa Trịnh thì mọi việc chính-trị đều sắp đặt lại như một nước độc lập. Đến chúa Nguyễn-phúc-Khoát (Võ vương) thu được toàn bộ đất đai Gia-Định rồi (I744) thì chia Nam-hà làm I2 Dinh, Dinh chia ra Phủ, Phủ chia ra Huyện, Huyện chia ra Xã. Dinh có chức Trấn-thủ cai trị, chức Cai-bạ coi việc tài-chính, chức Ký-lục giữ việc hình án. Phủ thì đặt Tri-phủ, Huyện có Tri-huyện. Không biết cách lựa chọn Xã trưởng thế nào, nhưng chắc cũng không khác gì cách áp dụng ở Bắc từ thời Lê trung-hưng, nghĩa là do quan địa phương chọn người trong hạt cử lên, hoặc do dân bàu, chứ không phải Xã-quan. Đời Tây-sơn, Dinh đổi tên gọi là Trấn, Trấn chia ra Huyện, tiểu-tổ hành-chính vẫn là Xã. Giữa Huyện và Xã, có đặt thêm một khu-vực gọi là Tổng, gồm nhiều Xã, do chức Tổng trưởng cầm đầu, làm liên lạc giữa chính-quyền các Xã trưởng. Vua Gia-long lên ngôi rồi chia nước làm 23 Trấn và 4 Dinh. Từ Thanh-hóa-ngoại (Ninh-bình) trở ra gọi là Bắc thành, chia làm II Trấn, từ Bình-thuận trở vào gọi là Gia định-thành, chia làm 5 Trấn khoảng giữa, tức là đất Trung Việt ngày nay, từ Thanh-hóa vào đến Bình-thuận, chia làm 6 Trấn và 4 Dinh. Bốn Dinh thuộc đất Kinh-kỳ là Quảng-đức (tức tỉnh Thừa-thiên bây giờ), Quảng-trị, Quảng-bình, Quảng-nam, còn 6 khu-vực kia gọi là Trấn, ở các Trấn thì đặt chức Trấn-thủ ; các Dinh có chức Lưu-thủ coi việc cai trị, chức Cai-bạ, chức Ký-lục phụ tá. Ở Bắc-thành, Gia-định thành, mỗi nơi có đặt chức Tổng-trấn thay mặt nhà vua trong nom các Trấn. Trấn và Dinh chia ra Phủ, Phủ chia ra Huyện, Châu ; Huyện, Châu chia ra Xã-Chức. Xã-trưởng làng lớn có Phó Xã-trưởng phụ giúp. Xã-trưởng và Phó Xã-trưởng đều do dân trong Xã lựa chọn bàu lên. Bên cạnh, còn có chức Hương trưởng coi việc hành-chính và kiểm soát lại mọi việc trong xã, Hương-mục coi về của-cải của xã, đường sá, cầu cống trong xã, và Trùm-trưởng coi việc tuần phòng. Vua Minh-mạng thi hành chính-sách trung-ương tập quyền, bỏ hai chức Tổng-trấn ở Bắc-thành và Gia-định thành, đổi tên Trấn là Tỉnh. Tỉnh lớn có chức Tổng-đốc, Tỉnh nhỏ có chức Tuần-vũ cai trị, bên cạnh có chức Bố-chính coi việc hộ, và Án-sát coi việc hình. Nhưng ở các Xã, vẫn để nguyên cách dân lựa chọn Xã-trưởng như cũ, chỉ đổi tên Xã trưởng là Lý-trưởng mà thôi. Khu-vực Tổng được đặt lại. Các danh-mục này được giữ mãi về sau, cho đến thời Pháp-thuộc, rồi các Hương-chức phụ tá Lý-trưởng được đặt thêm với tên gọi và nhiệm-vụ mới để ứng phó với nhiệm-vụ mới. Xem trên, ta thấy rằng trong các khu-vực hành chính đặt ra từ trước, Xã là đơn-vị vẫn tồn tại mãi, trải qua các sự thay đổi về hành-chính của các triều-đại. Tính-cách tự trị của Xã : Cơ-quan thừa hành và Hội Đồng Xã Từ khi chức Xã-trưởng do dân bàu cử, chứ không phải do chính-quyền bổ nhiệm nữa, Xã có tính-cách tự trị và sự tự trị ấy lần lần rộng-rãi. Sách sử không cho chúng ta biết Xã-được có pháp-nhân tư-cách từ triều-đại nào, cũng như bên cạnh Xã-trưởng và Hương-chức là cơ-quan thừa-hành, Hội-đồng Xã (Hội-đồng Hào-mục) ra đời từ lúc nào. Hội-đồng Hào-mục mới là cơ-quan điều khiển việc làng, định đoạt mọi việc về tài-sản, chi thu, quân cấp công điền, tế tự, tuần phòng… nghĩa là những việc riêng của làng, không dính dáng gì đến chính-quyền, còn Xã-trưởng, hương-chức thì chỉ là hạng chức việc đứng trung gian giữa chính-quyền và xã-dân, thi hành mệnh-lệnh của chính-quyền, thu thuế đốc sưu, và thi hành các quyết nghị của Hội-đồng Hào-mục mà thôi. Cũng chắc rằng ban đầu, các người già cả, các quan lại về hưu, các người khoa-giáp, trí-thức, cựu Xã-trưởng, cựu Hương-chức v.v… nghĩa là hạng người đàn anh, hiểu biết hơn ở trong làng, tự nhiên thấy có bổn phận chăm sóc việc chung của địa-phương mình, rồi lần lần họ tổ-chức thành Hội-đồng, ai có đủ tư-cách nào đó thì có quyền sung vào để định đoạt các việc hưng lợi trừ hại cho làng mình. Còn thành phần, ngôi thứ trong Hội-đồng, cũng tùy tục lệ mỗi làng ấn định, thường người phẩm hàm cao hơn cả, nếu không có phẩm hàm thì người cựu Tổng, Lý, Hương-chức tuổi tác hơn cả, chủ tọa Hội đồng gọi là Tiên-chỉ, người phẩm hàm hoặc tuổi tác kế đó giữ ngôi Thứ-chỉ để thay thế Tiên-chỉ khi ông này vắng mặt. Về sau, nhân-dân đông thêm, việc xã-thôn càng phức tạp, thường xẩy ra sự tranh giành, mới có minh-văn của chính- phủ ấn định. Vậy thì Hội-đồng không nhất định gồm bao nhiêu người, ai có đủ tư-cách ấn định thì được sung vào, chính-quyền không có quyền gì đến vấn đề ấy. Và trái với Xã-trưởng và Hương-chức phục dịch trong một kỳ-hạn 3 hoặc 5 năm (sau đó, muốn làm việc nữa phải được bàu cử), lại các viên-chức trong Hội-đồng Hào-mục tham dự Hội-đồng vĩnh viễn. Tất cả nhân viên Hội-đồng Hào-mục và Xã-trưởng, Hương-chức đều làm việc không lương. Chức Xã-trưởng được dân bàu từ đời Lê-Thánh-tông, nhưng có lẽ Xã đã có vô hình nhân cách và ít nhiều quyền tự trị trước đó nữa. Có lẽ từ khi Xã ra đời (đời Khúc Hạo) nhân dân trong khu vực ấy, vì là bà con, là lân cận, sống chung trên một mảnh đất, coi nhau như thuộc một đoàn thể, phải chung nhau sắp đặt mọi việc liên quan đến đoàn thể như việc canh phòng, việc tương tư tương trợ v.v… nên đã có khuynh hướng tự trị. Rồi chính-quyền thấy rằng khuynh hướng ấy tiện lợi cho cuộc an ninh chung chứ không hại gì, nên để nó phát-triển và mặc nhiên cho nó có tư cách pháp-nhân. Đến đời Quang-thuận, nhà vua thấy rằng Xã đủ tư cách để tự trị, nên cho phép dân các xã tự lựa chọn người ra làm Xã-trưởng. Với điều kiện này, Xã mới có tính-cách tự-trị đầy đủ. Xã có thổ-vũ riêng, và dẫu trong ấy có phần đất chưa trưng khẩn, cũng vẫn lo bảo tồn lấy để dân làng có chỗ khuếch trương về sau. Xã có tài-sản riêng, gồm Động-sản và bất động sản, có quyền bán, cầm nó, và mua tậu động-sản và bất động-sản khác. Xã có tư-pháp riêng. Những sự tranh giành, xung đột giữa nhân-dân trong làng cũng như những vụ vi phạm hương-ước đều được ban Lý, Hương thỏa xử, trừng trị, những trường-hợp quan trọng phải trình lên Hội-đồng Hào-mục. Ở đây, trong sự xử đoán, ngoài lý, người ta còn kể đến tình, đến luân-lý, đạo-đức, đến thuần-phong, mỹ-tục, và những kẻ tương tranh, dầu hơn hay thua kiện đều nhận được những bài học có ích cho mình. Kẻ thua kiện, kẻ phạm lỗi chỉ bị phạt một món tiền vạ, hoặc một mâm trầu rượu để xin lỗi, hoặc một tờ xin hưu nại, nhưng sự trừng phạt thực hành trước sự tai nghe mắt thấy của bà con, của láng-diềng, nên khiến họ đau khổ hơn là lao tù của nhà nước nữa. Xã có tục lệ riêng về sự bảo vệ sơn lâm, ao hồ, ruộng nương, mùa màng, và về các lễ hôn-nhân, ma chay, tế tự, sự tương tư tương trợ khi tai họa xảy đến cho một hay nhiều dân làng. Xã có thờ phụng riêng, thờ Phúc-thần và những nhân-vật đã có công-đức với xã mình. Xã có một đội tuần đinh riêng để giữ gìn an-ninh, phòng ngữ trộm cướp cho dân làng. Sự tuần phòng được tổ chức nghiêm nhặt ; sự điều khiển và thù lao các tuần đinh cùng sự đóng góp sương túc của các điền chủ, nghiệp chủ cũng mỗi làng mỗi khác. Thể-lệ và tập tục về các tổ-chức nói trên đều được định rõ trong hương-ước nó đối với dân trong làng cũng như hiến pháp đối với dân trong nước vậy. Cũng có điều không ghi trong hương-ước, nhưng đã thực hành lâu ngày thành ra tập- tục, truyền tự đời nọ đến đời kia, thì dân làng cũng phải tuân theo như đã ghi trong Hương-ước. Cách thi thố uy-quyền của Chính-phủ đối với Xã Nhiều người cho rằng Xã được quyền tự trị quá rộng rãi đến nỗi « phép vua thua lệ làng », như thế xã đối với quốc gia chẳng khác nào một nước trong một nước. Không phải như thế, Xã hưởng một sự tự-trị rộng rãi, chứ không phải độc lập đối với chính quyền, vì phải tuân theo pháp-luật chung cho cả nước. Tuy chức Xã-trưởng hoặc Lý-trưởng do dân làng bàu lên, các Hương-chức do Hội-đồng Hào-mục cử ra nhưng đều phải do chính-quyền cấp bằng thừa nhận, và khi có sự tranh tụng về việc bàu cử thì cũng do chính-quyền phân xử. Chính quyền lại có thể tưởng lệ, khiển trách hoặc bãi dịch họ để trừng phạt. Với cách ấy, chính-quyền kiểm soát được xã một cách dễ-dàng. Kiểm soát mà thôi, chứ không thể nghĩ đến việc điều khiển, vì Hội-đồng Hào-mục hoàn-toàn độc lập đối với chính quyền, các nhân-viên trong Hội-đồng này không do chính-quyền cấp bằng, thưởng, phạt, họ là chủ-nhân trong làng họ ; làng có việc giao thiệp với chính-quyền thì đã có Lý trưởng thay mặt. Chế độ xã thôn dưới thời Pháp-thuộc : Những cuộc cải lương hương chính Đến Việt-nam, trông thấy sự tổ-chức và trước cách tự-trị của xã thôn chúng ta, một viên cai-trị cao cấp Pháp đã viết : « Làng là một tổ-chức đầy đủ, rất toàn thiện, đến nỗi hễ sửa sang lại một tí là e sẽ làm hư-hại sự điều hòa của toàn thể. Chúng ta không có lợi gì mà đá động trực tiếp hoặc gián tiếp đến một cơ quan mà nó đã là một lợi khí cai-trị mầu nhiệm, miễn là để nó y nguyên và bảo tồn mọi hình-thức của nó ». Họ khen ngợi tổ-chức xã thôn Việt-nam là vì nhận thấy các tiện ích này ; Công việc hành-chính xã thôn này rất giản dị mà không tốn kém gì của công quĩ cả. Chánh, Phó-tổng, Lý trưởng, Hương-chức không phải là công-chức, vì do dân bầu lên, nên không phải trả lương bổng. Thu thuế, đốc sưu, lấy lính, các việc ấy ở các nước khác, Chính-phủ phải phái nhân viên ra làm, tốn kém nhiều lắm, còn ở đây thì đã có Lý, Hương lo liệu chu đáo mà không công. Lại còn những việc tranh tụng vặt-vãnh giữa dân-gian, vấn-đề an-ninh ở các làng mạc là những vấn-đề thường phức-tạp, khó khăn và tốn kém ở các nước khác, nhưng ở đây đã có các xã thôn lo liệu đầy đủ, không phiền đến chính quyền. Viên cai trị cao cấp ấy có mấy lời nhận xét như trên kia là vì chỉ nhìn đến khía cạnh tốt của chế-độ xã thôn, khía cạnh ấy thuận lợi cho công-cuộc cai trị chung, chứ bên trong lũy tre xanh, như ta sẽ thấy sau đây, chế độ ấy cũng đã gây bao nhiêu tệ hại, bao nhiêu phong tục hủ lậu, nó đã cản trở phần nào sự tiến bộ của người dân quê. Vì có những nhận xét như trên, nên trong giai đoạn đầu tiên, lúc người Pháp mới đến, phong trào chống Pháp còn mạnh, trong nước loạn lạc, họ không dám đá động gì đến tổ chức xã thôn của ta đã đành, mà đến khi cuộc bình-định đã xong, nhà cầm quyền Pháp cũng giữ-gìn hình thức và tinh thần của tổ-chức xã-thôn sẵn có, chỉ thay đổi đôi phần ở Nam-Việt là thuộc-địa của họ mà thôi. Ở Nam-Việt, mãi đến năm I904, nghĩa là hơn 40 năm sau khi người Pháp đến, mới có sự cải-cách trong tổ-chức hành chính xã. Theo cải-cách này, mỗi làng có một ban Hội-tề, gồm II người là Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Quản, Thủ bộ, Hương Thân, Xã-trưởng, Hương-hào đều do ban Hội-tề lựa người cử lên khi có khuyết ; và khi có sự tranh tụng thì do quan cai trị đầu tỉnh giải quyết. Năm I927, thêm vào ban Hội-tề chức Chánh Lục-bộ (giữ hộ-tịch), và buộc mọi sự lựa chọn nhân viên ban Hội-tề phải được quan cai trị tỉnh chuẩn y. Nghĩa là quyền lựa chọn vẫn để cho làng, nhưng sự kiểm-soát của chính-quyền chặt-chẽ hơn. Mỗi nhân-viên ban Hội-tề giữ một chức-vụ riêng, như Hương Cả là Chủ-tịch, Hương Chủ là Phó Chủ-tịch và giữ công quĩ, Hương sư xem xét công việc làm của Hương chức khác, Hương Trưởng trông nom việc học, Hương Chánh thỏa xử các việc tranh chấp trong nhân-dân và cố-vấn cho Hương Thân, Hương Giáo là thư-ký của ban Hội-tề, lập biên bản các cuộc hội-nghị, Hương Quản coi việc cảnh-sát hành-chính và tư-pháp, tuần phòng đường sá, cầu cống, Thủ-bộ giữ thuế bộ, địa-bộ và sổ sách của làng, còn Hương Thân, Xã-trưởng, Hương-hào là ba nhân viên chấp hành, làm môi-giới giữa làng và chính quyền. Xã-trưởng giữ triện cũng như Lý-trưởng ở Trung, Bắc-Việt, thu thuế khóa. Dưới các Hương chức ấy còn những nhân viên hạ cấp như Phó-xã, Phó-lý, Lý-trưởng, Biện-lại, cai-tuần v.v… Như vậy, trong xã ở Nam-Việt, cơ quan thừa hành và Hội- đồng xã không phân biệt rõ-ràng như ở Bắc, Trung-Việt. Ở Bắc-Việt, thấy việc hương-chính theo lề lối xưa lâu ngày đã gây nhiều mối tệ như nạn cường hào nhũng nhiễu, những tập tục hủ lậu, nên năm I92I, phủ Thống-sứ đã thực hành một cuộc cải cách mà người ta gọi là « cải-lương hương-chính ». Cuộc cải cách này chú trọng hai việc cốt yếu là thành lập Hương-hội thay thế Hội-đồng Hào-mục, và đặt sổ chi thu cho làng. Trái với Hội-đồng Hào-mục, Hương-hội gồm những tộc-biểu do các tộc bàu ra, trong một nhiệm kỳ 3 năm, và ứng-cử-viên không cần phải có phẩm hàm gì. Hương hội tự cử ra một Chánh Hương-hội và một Phó Hương-hội, hai chức này cũng như là Tiên-chỉ, Thứ-chỉ trước kia, cuộc cải cách này đã đem lại những kết quả không tốt. Vì hạng người có danh vọng trong làng sợ mất thể diện, không chịu ra ứng cử, thành ra Hương-hội chỉ gồm những người trẻ mỏ, không biết việc, lại không được dân tín phục. Để cứu vãn tình trạng ấy, năm I927 ở Bắc việt, Chính phủ bảo hộ phải đổi qui chế xã-thôn một lần nữa. Hương-hội vẫn giữ lại, nhưng bên cạnh đặt thêm Hội-đồng Kỳ-mục là cơ-quan kiểm soát tối cao của làng. Hội-đồng Kỳ-mục gồm những người có phẩm hàm, có bằng cấp, cựu Tổng, Lý, và nhiệm-kỳ vĩnh-viễn y như Hội-đồng Hào-mục trước kia. Ấy là vì người ta nhận thấy cần phải phục hồi một phần nào chế-độ cũ, một chế-độ đã ăn sâu vào tập tục các xã thôn lâu ngày rồi nên không thể vội-vàng bãi bỏ ngay đi được. Nhưng Hội đồng Kỳ mục là những người có danh vọng, có uy tín, nên ở nhiều làng, họ không ở trong phạm-vi của nhiệm-vụ kiểm soát, mà lấn sang công việc định-đoạt, quản trị việc làng. Năm I94I, qui-chế xã-thôn Bắc-việt lại được sửa đổi một lần nữa. Có lẽ lý-do cuộc sửa đổi qui chế xã-thôn lần này là cuộc thế-chiến thứ II, chứ không phải để cải thiện nội tình các làng mạc. Theo sự cải cách này, thì Xã chỉ có một Hội đồng quản trị là Hội-đồng Kỳ-hào, gồm những người có phẩm hàm hoặc đẳng cấp, hoặc đã làm Chánh Tổng, Lý, Hương trong ba năm ; trong Hội-đồng này lấy phẩm hàm cao thấp mà định ngôi thứ, và ghế Chủ-tịch dành cho người có phẩm hàm cao hơn hết. Những Hội-đồng đông quá 20 người có thể ủy quyền cho một ban thường-trực 7 người. Vậy Hội-đồng Kỳ-hào này chẳng khác gì Hội-đồng Hào-mục trước kia, chỉ khác là sự kiểm soát của Chính-quyền chặc-chẽ hơn, vì danh sách các viên chức và những sự thay đổi, thêm bớt trong Hội đồng phải trình lên nhà cầm quyền biết. Cách tuyển cử Lý trưởng, Phó Lý vẫn y như cũ, dưới hai chức này còn có một Chưởng-bộ, một Hộ-lại, một Thư-ký, một Thủ-quĩ, một Trưởng-tuần. Ở Trung-việt, việc quản trị xã thôn vẫn theo lề lối cũ cho đến các qui chế ban hành thời Thành-thái, thời Khải-định. Qua các qui chế ấy, người ta thấy bên cạnh ban Lý, Hương là cơ quan thừa hành, có một Hội-đồng Hào-mục như đã nói trên kia, trong đó hạng chức sắc, miễn sai, miễn diêu, đều được quyền tham dự. Lý-trưởng vẫn do dân bàu, và giúp Lý trưởng có Phó Lý-trưởng và ngũ Hương là Hương bộ (giữ bộ điền thổ, bộ sinh tử, giá thú), Hương-bổn (coi tài-chính), Hương-kiểm (tuần phòng), Hương-mục (coi đường sá, cầu cống) và Hương dịch (liên lạc) ; ngũ Hương do Hội-đồng Hào mục cử lên. Năm I942, một đạo Dụ minh định thành phần và quyền hạn của Hội-đồng Hào-mục, hạng người có phẩm hàm, có bằng cấp, cựu Tổng, Lý đều được tham dự. Hội-đồng Hào mục có thể ủy quyền cho một ban thường-trực. Qua các điều khoản của Dụ năm I942, người ta nhận thấy trong khi thừa nhận quyền quản trị xã sẵn có của Hội-đồng Hào-mục, Chính-phủ muốn thi thố quyền hành rộng rãi hơn trong việc bàu cử Lý, Hương cũng như muốn kiểm soát việc xã thôn chặt-chẽ hơn trước. Dù sao, các công-cuộc cải cách nói trên đã không đem lại kết quả tốt : trong các xã thôn còn đầy dẫy những phong-tục hủ lậu của những bọn cường hào nhũng lạm. Ấy là vì Hội đồng Kỳ-mục, hoặc Hào-mục, cơ quan quản-trị tối cao, vẫn là những người cũ kỹ, không theo kịp đà tiến hóa của thời đại, nên không biết cải cách việc xã thôn cho xứng hợp, còn dân gian thì nhiều tập-tục đã ăn sâu vào não họ quá lâu rồi. Ở Trung-Việt, tình-cảnh ở xã thôn tương đối không quá phức tạp, chứ ở Bắc-Việt thì thật là khó-khăn ! Còn ở Nam-Việt, trước năm I945, trải qua các cuộc cải-cách, nhiều làng nhỏ đã kết hợp thành làng lớn nên có phương tiện về tài-chính, về nhân-sự để phát triển ; họ lại không có những tập-tục về hương ẩm, ngôi thứ, khao vọng v.v… nên xã thôn không đến nỗi mục nát như ở Trung, Bắc, nhưng hình như họ không có được cái tinh-thần tự trị như ở hai nơi kia, vì để chính-quyền can thiệp quá nhiều vào nội tình các xã. Trở lên là nói về tình-hình các xã trước năm I945. NHỮNG MỐI LỢI, HẠI CỦA CHẾ-ĐỘ XÃ THÔN TỰ-TRỊ Chế-độ xã thôn tự-trị, từ 5 thế-kỷ nay, đã đem lại cho nước Việt-Nam nhiều điều lợi ích, cũng như nhiều điều tệ hại. LỢI a) Gây tinh-thần dân-chủ, tinh-thần trách-nhiệm. – Với chế-độ ấy, người dân nào cũng được dự vào việc công của làng mình. Dẫu người mộc-nột, dốt nát nhất, cũng được dự bàu Lý-trưởng, và trước mặt ban Lý, Hương, trước mặt Hội đồng Hào-mục, trong những cuộc hội họp ở đình, cũng được ăn nói, bày tỏ những thắc-mắc, những ý nguyện của mình. Nhân viên trong Hội-đồng Hào-mục và các Lý, Hương được toàn quyền sắp đặt, trị lý việc làng mình, hưng lợi, trừ hại, lo sao cho làng mình được yên ổn, thịnh vượng, chẳng khác gì Quốc-hội và Chính-phủ sắp đặt, trị lý việc nước, lo lắng cho nước được phát đạt, vẻ vang. Mỗi người tự thấy có một trách nhiệm, và mình là quan hệ đến sự thịnh, suy của làng. Và còn có điều khác với Quốc-hội, với Chính-phủ là Hội-đồng Hào-mục giữ nhiệm-vụ vĩnh-viễn, các Lý, Hương sau khi thối dịch sẽ sung vào Hội-đồng Hào-mục, vậy sự thịnh, suy của làng do mình gây nên, mình sẽ hưởng thụ hoặc chịu đựng suốt đời, và qua đến đời con cháu nữa, cho nên cái tinh-thần trách-nhiệm càng tha thiết biết chừng nào ! b) Gây tinh-thần đoàn kết. – Sống dưới những phong tục, tập-quán, ước-lệ chung, cùng vui những cái vui chung, cùng lo những cái lo chung, nhân dân một làng ràng buộc nhau bởi những dây vô hình mà bền chặc. Đình làng là nhà thờ chung, là nơi mọi người gặp gỡ để cúng tế, để yến ẩm, hội hè, cũng như bàn luận việc chung, nên tiêu biểu một mối thân thiện, thiêng liêng, nó gắn liền tất cả dân chúng. Giây đoàn kết ấy càng chặc-chẽ thêm với những hội lập ra để cứu trợ, giúp đỡ lẫn nhau, hỷ hạ với nhau như họ Hiếu, họ Hỹ. Vậy ở thôn quê, bên cạnh gia-đình, làng là một đoàn-thể rất vững chãi. c) Duy-trì đạo-đức và thuần-phong mỹ-tục. – Dưới nóc một ngôi đình, nhân dân một làng đã cảm thấy mình ràng buộc lẫn nhau bởi một sợi dây tinh thần, thì vinh của một người là vinh chung, tất cả dân làng được hưởng, nhục của một người là nhục chung, cả làng phải chịu. – Vì vậy, ai nấy phải lo giữ gìn nết hạnh, sợ cả làng phải mang tiếng xấu vì mình. Nhân-dân một làng sống chung nhau đời này qua đời khác, và những việc làm của một người sẽ được đồng hương nhắc nhở, phẩm bình mãi mãi về sau, ở đời con, đời cháu họ, khiến con cháu được tiếng thơm lây hay phải mang tiếng xấu thừa vì hành-vi của ông cha. Cho nên ai nấy cũng gắng làm việc tốt, tránh việc bậy để khỏi di xú cho hậu-duệ. Lý-trưởng do dân bàu, Hương-chức do Hội-đồng Hào-mục cử lên, nên hạng người nhắm các chức-vụ ấy phải lo giữ gìn tính-hạnh để được tiếng tốt của dư luận. Các ý-niệm vừa kể là những sức mạnh duy-trì đạo-đức luân-lý, thuần-phong mỹ-tục ở các làng mạc một cách rất có hiệu quả. – Vì vậy, ở Việt-nam, đã từ lâu rồi, nói đến thuần phong mỹ-tục, đến tín, nghĩa, hiếu, đễ và bao nhiêu đức-tính khác, ắt phải tìm ở thôn quê mới trông thấy thật sự, chứ ở thành-thị thì chỉ thấy trên giấy tờ, nghe trên cửa miệng mà thôi. – Và cái đặc-sắc ấy ở thôn quê cũng là do chế-độ xã thôn kia mà có được vậy. – Và chính nhờ hạng dân quê ấy làm nền móng dân-tộc mà Xã-hội Việt-nam còn có gì là bền vững, là trong sạch ngày nay. d) Hạng người có năng-lực, sáng kiến có chỗ hoạt động. – Với quyền tự-do ấy, làng khéo trị lý, khéo tổ-chức thì dân làng được hưởng lợi ích, làng để công việc hỗn độn, ăn tiêu công quĩ thì dân làng phải chịu thiệt hại. – Vì thế, xưa kia, người dân quê, ngoài việc gia-đình ra, coi việc làng là việc hệ trọng nhất, để hết tâm lực vào đấy, cũng như người cổ Hy-Lạp đối với việc thị-bang của họ vậy. « Hương đảng, tiểu Triều-đình », vì ở đó cũng có ngôi thứ, có trách-nhiệm, và ai nấy đều hết lòng mưu lo hưng lợi, trừ hại cho dân làng cũng như ở Triều-đình, trăm quan văn võ đều mưu lo hưng lợi trừ hại cho nước vậy. – Người ta đã thấy nhiều làng nhờ có người khá ra xướng suất việc công mà làng phát đạt : công quĩ tăng gia, tài nguyên khai thác, đường sá, cầu cống, chợ búa, trường học mở mang, nhân dân có việc làm ăn, nhẹ phần đảm phụ, kẻ nghèo khó được nâng đỡ, kẻ gặp tai nạn được cứu trợ v.v… Nên câu châm-ngôn của kẻ sĩ thời ấy là « tấn vi quan, thối vi hương », nghĩa là được ra làm quan để phò trợ, dắt dẫn nhân dân trong nước càng hay, nếu không làm quan được thì lui về làm việc làng để phò trợ, dắt dẫn dân trong làng, cả hai cũng là đem năng-lực phục-vụ nhân dân, chỉ bên rộng, bên hẹp mà thôi. Nhờ quan niệm ấy mà thời xưa, hạng người có năng-lực, có khí-thức, muốn hoạt động, có chỗ đem nó ra thi thố. Làm việc làng, Hội-đồng Hào-mục không có tiền thù lao đã đành, mà Lý, Hương cũng không có lương bổng. Trừ số bút-chỉ-điền, và ở những làng giàu, dân đông, món trợ cấp xe cộ của công bổn, món tiền thu theo lệ khi chứng thực giấy tờ mua bán động sản, bất động sản, Lý, Hương không được quyền lợi vật-chất gì khác. Vậy không kể hạng sâu mọt làm những chuyện phù thu lạm bổ, ta có thể nói rằng họ phải hy sinh, nhất là Lý, Hương làng nghèo, vì họ phải thường lui tới nha môn, tiếp xúc với chính quyền, nên phải tốn thì giờ, bỏ công việc làm ăn, xuất tiền lưng ra tiêu phí. Thế mà các chức-vụ Lý-trưởng, Hương-chức vẫn được dân làng ham chuộng, nhiều khi tranh giành nhau kịch liệt nữa. – Vì sao ? Đó là một điểm chúng ta nên để ý. Trước hết, danh vọng là lý-do chánh ; được liệt vào hạng đàn anh của dân, được một chỗ ngồi trên dân trong những buổi hội-hợp, tế tự ở đình trung, cái tên gọi ông Lý, ông Hương, được dự Hội-đồng Hào-mục là Hội-đồng tối cao quản trị việc làm sau khi làm việc mãn nhiệm-kỳ một cách thanh thỏa. – Nhưng ngoài các lý-do ấy, cũng nên nhận rằng ý thức bổn phận và ý-thức danh dự là hai động-cơ đã thúc đẩy trong nhiều trường-hợp. – Nghĩa là cũng có nhiều người ý thức trách nhiệm đối với đoàn-thể, đối với quê hương, thấy rằng việc làng là việc chung của dân làng, ai có đủ tư-cách thì phải thay phiên nhau mà gánh vác. Và ra làm việc làng để làm việc tốt đẹp cho làng, ích lợi cho dân thì không chỉ mình được danh giá mà còn để lại tiếng thơm cho con cháu về sau nữa. – Vả, được dân-chúng tín nhiệm bàu lên, Hội-đồng Hào-mục xét đủ tài, đức cử ra, ấy chẳng là một danh-dự đó sao ? Sự ý thức bổn phận ấy đáng quí, và sự cầu danh dự ấy cũng hơn sự trọng lợi lộc một bậc cao. – Nếu Lý, Hương được trả lương bổng thì hai quan-niệm tốt đẹp ấy sẽ không còn, người ta chỉ vì lợi mà làm việc, những người có thể làm Lý, Hương chỉ lấy cặp mắt vụ lợi mà nhìn việc làng, rồi ai nấy vì lợi mà giành nhau mãi mãi. TỆ HẠI Bên cạnh các lợi ích ấy, chế-độ xã tự trị cũng đã đem lại không biết bao tệ hại cho nhiều làng. a) Cường hào nhũng nhiễu. – Tuy chế-độ ấy không thể làm thiệt hại gì sự thống nhất quốc-gia, nhưng ở những làng xa xôi, hoặc ở những làng không có người khá, bọn Hào, Lý vì được quyền hành rộng rãi, lắm khi tác oai tác phúc quá đáng, nhũng nhiễu, làm khổ, hại dân lành không ít. Cái họa cường hào là một nhọt lở ở các xã thôn Việt-nam từ lâu đời, chính nhờ chế-độ tự trị mà nhọt mới lở thối trình độ ấy. b) Tranh giành ngôi thứ. – Cái tệ hại ngôi thứ cũng không nhỏ. – « Hương đảng, tiểu triều đình », « một miếng thịt làng bằng một sàng thịt chợ », các câu tục ngữ ấy vì hiểu sai ý nghĩa, rồi vì tranh nhau một chỗ ngồi ở chốn đình trung, giành nhau cái đầu, cái nọng con heo « thần huệ », cùng việc khao, việc vọng v.v… mà đã gây ra biết bao vụ xô-xát, kiện tụng, làm cho những kẻ đương sự phải vong gia, thất thố, thù oán đời đời. Trước con mắt con người thời đại này, các ý tưởng ấy thật là ti tiện, nên nó đã tự nhiên phai lạt lâu năm rồi. c) Hạn chế sự sinh hoạt, thu hẹp nhãn-quan người dân.– Làng đã như là một nước nhỏ, có phong tục, tập quán, lệ-luật riêng, nên người dân làng này khi đến làng khác cảm thấy như đến một xứ lạ. – Vì vậy, họ ít muốn đi đâu xa, rồi quen lần với thói « an thổ, trọng thiên », dẫu nghèo cực cũng không chịu đi nơi khác làm ăn, sợ mang tiếng « tha phương cầu thực ». – Đã sống mãi trong lũy tre làng, nhãn quan họ không vượt ra ngoài ngôi đình, cái chợ, nên đối với việc trong tỉnh, trong nước, mang nhiên không hiểu biết gì đến. PHAN-KHOANG THỬ PHÁC-HỌA NHỮNG NÉT ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỊA-LÝ HÌNH-THẾ CỦA NAM-PHẦN VIỆT-NAM LÂM-THANH-LIÊM Nam-phần Việt-Nam, miền trù-phú nhất của Việt-Nam Cộng-Hòa, là nơi tập-trung gần 60% dân-số quốc-gia41, trên một diện-tích 70.000 cây-số vuông42. Sự gia-tăng thiên nhiên về nhân-văn hiện nay rất nhanh-chóng, được chứng minh bằng những thống-kê sau đây43: - I928 : 4.300.000 người. - I96I : 8.500.000 người (mật-độ # I25 người/km2). - Saigon – Chợ-lớn : trên I.500.000 người. Chính Nam-Phần Việt-Nam nuôi sống trực-tiếp hay gián tiếp, ít nhất 80% dân-chúng nông-thôn. Sự trù-phú của miền nầy là nhờ cách cấu-tạo của địa-thế nhờ những điều-kiện khí-hậu, sông-ngòi v.v… đặc-biệt thuận lợi cho sự phát-triển nông-nghiệp. I. CÁCH CẤU-TẠO CỦA ĐỒNG-BẰNG CHU-THỔ SÔNG CỬU-LONG Nam-phần Việt-Nam nằm ở cuối đầu bán-đảo Đông Dương giữa hai vĩ-độ (Latitudes) 8030 và II040 (Bắc Vĩ-Độ). Chiều dài nhất, từ vịnh Thái-Lan đến ranh-giới của miền Nam Trung-Phần, theo đường thẳng chim bay, đo được 500 km và chiều ngang, chỗ rộng nhất, vào khoảng 350 km. Giữa 2 dãy sơn-khối, núi Đậu-Khấu44và dãy Trường-Sơn 45, là một địa-thế trủng được nhiều lớp Thủy-tra-thạch và phù-sa sông-ngòi (cũ và mới) lấp phẳng. Các lớp nham-thạch nầy nằm xếp-tầng đều-đều, hơi nghiêng từ Đông sang Tây. Một câu hỏi được đặt ra : Trủng nầy, nằm chắn ngang 2 sơn-khối, thuộc loại địa-thế gì ? Có hai giả-thuyết : I. Giả-thuyết của một trủng gẫy-sụp (Dépression tectonique) Có thể đồng-bằng chu-thổ sông Cửu-Long thuộc một trủng gẫy-sụp, do địa-động theo chiều thẳng-đứng46 (mouvements tectoniques verticaux) ở cuối thời đệ nhất kỷ nguyên (ÈRE PRIMAIRE), làm cho phần chính giữa của nền thạch Hoa-Cương (Socle granitique) bị sụp xuống và đồng thời, hai bên (Núi Đậu-Khấu và dãy Trường-Sơn) được nâng lên cao. Kế-tiếp, Biển đệ-nhị kỷ nguyên (Mer Secondaire) xâm nhập vào trủng-sụp, biến trủng nầy thành một cái Vịnh. Vịnh được thủy tra-thạch (đá Grès crétacé) và phù-sa sông ngòi (Cửu-Long, Đồng-Nai…) lấp phẳng dần, tạo-thành đồng-bằng chu-thổ Nam-Phần. Nếu giả-thuyết nầy đúng thì chỗ tiếp-xúc giữa đồng bằng, núi Đậu-Khấu (phía Tây) và dãy Trường-Sơn (phía Đông) phải là một địa-thế có nhiều Phay (Failles). Nhưng nếu ta giải-thích trủng-sụp nầy được cấu-tạo vào cuối đệ nhất kỷ-nguyên, thì ta lại gặp một vấn-đề nan-giải : đó là tầng thủy-tra-thạch Grès nằm phủ lên trên thạch Hoa Cương của núi Cardamomes. Đá Grès nầy được cấu-tạo ở giai-đoạn địa chất CRÉTACÉ (cuối đệ nhị kỷ-nguyên). Nếu cho rằng trủng-sụp đã xuất hiện ở thời đệ-nhất kỷ-nguyên và đồng-thời núi Đậu-Khấu được nâng cao, thì chúng ta không thể nào giải-thích được sự hiện-diện của lớp đá Grès Crétacé rất dày đến vài trăm thước, vì vào cuối đệ nhất kỷ-nguyên, vùng Đậu-Khấu đã nhô lên khỏi mặt biển và do đó, biển đệ nhị kỷ-nguyên không thể nào để lại lớp thủy-tra-thạch nầy trên núi Đậu-Khấu được. Vì lý do trên, tác-giả bác bỏ giả-thuyết của trủng-sụp. 2. Giả-thuyết của trủng hạ-áp chậm (dépression de subsidence lente) Đồng bằng chu-thổ Cửu-Long có thể tương-ứng với một địa-thế trủng hạ-áp thật chậm47vào cuối đệ nhất kỷ nguyên. Bị biển đệ nhị kỷ-nguyên xâm-nhập vào, trủng hạ áp ấy biến thành một cái vịnh rộng lớn, khá sâu, chạy dài đến khỏi vùng Battambang của Cam-bốt. """