"
Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa Tập 14 - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa Tập 14 - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : TẬP SAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA 14 Tác giả : NHIỀU TÁC GIẢ
Nhà xuất bản : BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA Năm xuất bản : 1956
------------------------
Nguồn sách : Từ Đức Châu
Đánh máy : mopie, thao nguyen, ganbunma, patimiha, minhf@yahoo, chip_mars
Kiểm tra chính tả : Trần Lê Nam,
Tào Thanh Huyền, Nguyễn Thanh Hải
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 19/02/2018
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn CÁC TÁC GIẢ và BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
MỤC LỤC
TỔNG KẾT CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA TRONG MỘT NĂM QUA VÀ ĐỀ ÁN CÔNG TÁC NĂM 1956
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC VĂN SỬ ĐỊA
CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN-SỬ-ĐỊA TRONG MỘT NĂM QUA
1) Việc sưu tầm, phân tích và hệ thống hóa một số tài liệu về lịch sử, văn học và địa lý
2) Việc xuất bản tập san nghiên cứu Văn-Sử-Địa
3) Việc xây dựng những tác phẩm theo chương trình đã định
NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN – SỬ – ĐỊA
ĐỀ ÁN CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA TRONG NĂM 1956
1) Chấn chỉnh bộ máy làm việc của Ban nghiên cứu Văn Sử-Địa
2) Mở rộng phạm vi cộng tác với các cộng tác viên
3) Mở những cuộc tọa đàm để nghiên cứu, thảo luận các vấn đề
4) Thắt chặt việc liên lạc với các nhà công tác văn, sử, địa tại các nước bạn
5) Hoàn thành những tác phẩm đã qui định trong chương trình và đẩy mạnh công tác xuất bản
XÃ HỘI VIỆT-NAM TRONG THẾ KỶ XVIII VÀ NHỮNG PHONG TRÀO NÔNG DÂN KHỞI NGHĨA
ĐÁNH GIÁ CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN VÀ VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN-HUỆ
CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN ĐÃ NỔ RA TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ NÀO ?
Thành bại của Tây-sơn
So sánh Thái-bình-thiên-quốc với Tây-sơn
KẾT LUẬN
NGUYÊN NHÂN THÀNH BẠI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN
GIỚI THIỆU VĂN HỌC VIỆT-NAM THỜI TÂY-SƠN
GIỚI THIỆU NGUYỄN HUY-LƯỢNG VỚI BÀI PHÚ TỤNG TÂY HỒ
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA NÔNG DÂN TÂY-SƠN QUA MỘT ÍT BỨC THƯ CỦA NGƯỜI NGOẠI QUỐC ĐÃ Ở VIỆT-NAM ĐƯƠNG THỜI
TRÍCH THƯ CỦA LƠ ROA (LE ROY) Ở KẺ-VĨNH (NINH-BÌNH) GỬI VỀ PHÁP
TRÍCH THƯ CỦA XÊ-RA (SÉRASD) Ở ĐÀNG-NGOÀI GỬI VỀ PHÁP
TRÍCH THƯ CỦA BÁC-TÉT (BARTETTE) Ở DINH-CÁT (QUẢNG-TRỊ) GỬI VỀ PHÁP
TRÍCH THƯ CỦA LÔNG-GIE (LONGER) Ở DINH-CÁT (QUẢNG-TRỊ) GỬI VỀ PHÁP
TRÍCH THƯ CỦA ĐÚT-XANH (DOUSSAIN) Ở ĐÀNG-TRONG GỬI VỀ PHÁP
MỘT SỐ TÀI LIỆU VỀ VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT THỜI QUANG-TRUNG
MẤY Ý KIẾN VỀ CHUYỆN CỔ TÍCH
Ý KIẾN BẠN ĐỌC : GÓP Ý KIẾN VÀO VẤN ĐỀ « NHỮNG BÀI VĂN CHỮ HÁN DO NGƯỜI VIỆT-NAM VIẾT CÓ ĐƯỢC KỂ VÀO VĂN HỌC SỬ VIỆT-NAM KHÔNG ? »
CẢI CHÍNH
TẬP SAN NGHIÊN CỨU
VĂN SỬ ĐỊA
Bài lai cảo, xin gửi cho : ông Trần Huy-Liệu
TỔNG KẾT CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA TRONG MỘT NĂM QUA VÀ ĐỀ ÁN CÔNG TÁC NĂM 1956
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC VĂN SỬ ĐỊA
TRONG tập san Văn-Sử-Địa số 1, chúng tôi đã viết một bài nhan đề là « Khoa học lịch sử và công tác cách mạng » để nêu rõ tác dụng của khoa học lịch sử đối với cách mạng là rất quan trọng. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật, những người làm cách mạng ngày nay không phải chỉ do tấm lòng yêu nước, tinh thần hăng hái hy sinh là đủ, mà còn phải nắm vững được qui luật lịch sử để nhận rõ phương hướng, định rõ phương châm kỳ cho đạt được mục đích. Cũng như nghiên cứu lịch sử không phải chỉ thấy những biến thiên tình cờ, mà phải thấy rõ những tiến triển tất nhiên của lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Cách mạng cũng là một khoa học. Những lãnh tụ cách mạng trên thế giới như Lê-nin, Sta-lin, Mao Trạch Đông v.v... chẳng những giỏi về cách mạng, mà còn giỏi về lịch sử. Vì hai cái đó liên hệ với nhau. Nếu không nhận rõ được hướng đi của lịch sử thì không thể lãnh đạo cách mạng cho đúng đường. Nói riêng về cách mạng Việt-nam, cũng từ khi có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân tới giờ, cách mạng mới đi vào đường lối khoa học. Hồ Chủ-tịch và các vị lãnh tụ đảng lãnh đạo cách mạng tới thắng lợi ngày nay chính vì đã đi đúng bước đường lịch sử và áp dụng phương pháp khoa học vào cuộc đấu tranh cách mạng.
Khoa học lịch sử chẳng những đề cao nhận thức của
chúng ta, mà còn hâm nóng tình cảm của chúng ta. Thật thế. Tại sao chúng ta có được thắng lợi ngày nay và đương vươn lên một thắng lợi khác ? Chính vì, về căn bản, chúng ta có một tinh thần yêu nước nồng nàn, tin vào lực lượng vĩ đại của dân tộc, kiên quyết đấu tranh cho Tổ quốc được thống nhất và độc lập. Mà, cho được bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự tin dân tộc, trước hết chúng ta cần hiểu rõ công trình sáng tạo của dân tộc ta từ xưa tới nay trong sản xuất để xây dựng đất nước cũng như trong chiến đấu để bảo vệ đất nước. Nó biểu hiện trên lịch sử trường kỳ khai thác từ Mục Nam-quan đến mũi Cà-mau, trường kỳ đấu tranh chống xâm lược hàng nghìn năm của phong kiến Trung-quốc và non một trăm năm của thực dân Pháp. Nó biểu hiện trên những cuộc vùng dậy liên tiếp của nông dân lao động chống giai cấp thống trị áp bức bóc lột từ triều đại này đến triều đại khác. Nó còn biểu hiện trên một nền văn học và nghệ thuật phong phú do bao nhiêu thế hệ lao động chân tay và lao động trí óc bồi đắp nên.
Từ lâu, dưới chế độ phong kiến và thực dân, bọn thống trị theo chính sách ngu dân, đàn áp tinh thần quật khởi của dân tộc làm tiêu ma lòng tự tôn dân tộc, tự tin vào dân tộc. Chúng đã xuyên tạc lịch sử, văn học và địa lý Việt-nam bằng những quan điểm phản khoa học, phản dân tộc, chia rẽ các tầng lớp nhân dân, làm lầm lẫn thù và bạn. Do đó, trên mặt trận đấu tranh về tư tưởng, những cán bộ công tác trong địa hạt khoa học xã hội, đặc biệt là công tác Văn-Sử-Địa, là phải đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác, áp dụng lý luận vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt-nam để vạch rõ quá trình phát triển
của xã hội, nêu cao những cuộc đấu tranh của dân tộc, của nông dân lao động và sự đóng góp của dân tộc vào sự phát triển của xã hội loài người, phối hợp lòng yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả. Bên chỗ nâng cao tinh thần yêu nước, nó còn phải tẩy rửa những nọc độc của đế quốc và phong kiến còn sót lại rất nhiều trong tư tưởng cán bộ cũng như nhân dân.
Như chúng ta đã biết, khoa học lịch sử, văn học và địa lý dựng trên lập trường của chủ nghĩa Mác là một khoa học chiến đấu, do đó những người nghiên cứu nó, công tác trong địa hạt của nó nhất định không phải là những « tiên sinh » ngồi trong « tháp ngà » dở chồng sách cũ để sống với quá khứ, mà phải là những chiến sĩ hăng hái, kiên quyết đứng hàng đầu trong mặt trận tư tưởng để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Vì là một công tác mới, cán bộ phụ trách cũng như cộng tác viên theo phương châm vừa học vừa làm. Phải nói rằng : Có học thì mới làm được, nếu không học thì không làm được. Thật thế, nếu cán bộ công tác Văn-Sử-Địa không được « vũ trang » bằng lý luận Mác – Ăng-ghen – Lê nin – Sta-lin và tư tưởng Mao Trạch-Đông thì chỉ là những kẻ mù quáng sờ mò trong không gian và thời gian, không hiểu đường lối, không biết quy luật, không giải thích được muôn ngàn hiện tượng phiền phức và biến hóa vô cùng. Do đó, nhiệm vụ của những cán bộ công tác Văn-Sử-Địa phụ trách trước Đảng, trước nhân dân là rất quan trọng, nặng nề cũng như sự nỗ lực của nó phải đề lên tới một cao độ.
CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN-SỬ-ĐỊA TRONG
MỘT NĂM QUA
Trong một năm qua, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa đã làm được những gì ? Đến đây, chúng tôi thấy cần phải kể lại từ ngày thành lập ban cho tới nay, nói chung, và từ một năm nay, nói riêng. Trong ba ngành mà Ban nghiên cứu Văn-Sử
Địa phụ trách thì bộ phận lịch sử là trọng tâm. Bộ phận địa lý liên hệ với bộ phận lịch sử. Bộ phận văn học cũng nhằm vào việc xây dựng lịch sử văn học Việt-nam. Do đó, công tác của ba bộ phận đều quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong quá trình công tác, nó có những điều kiện thuận lợi và cũng có những điều kiện khó khăn. Điều kiện thuận lợi chủ yếu là Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa trực thuộc Trung ương, nên được Trung ương trực tiếp chỉ đạo, phê bình, và giúp đỡ những phương tiện cần thiết cho công tác. Điều kiện khó khăn chủ yếu là nhiệm vụ ngày một nặng thêm, công tác ngày một nhiều thêm mà cán bộ thì thiếu, cả số lượng lẫn chất lượng, không theo kịp với nhu cầu. Tuy vậy, với sự cố gắng của một số anh chị em, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa đã đạt được những thành tích cụ thể sau đây :
1) Việc sưu tầm, phân tích và hệ thống hóa một số tài liệu về lịch sử, văn học và địa lý
Muốn xây dựng được một bộ lịch sử Việt-nam, tìm hiểu được quá trình phát triển của dân tộc Việt-nam cũng như quá trình phát triển của xã hội Việt-nam, cần phải có nhiều tài liệu. Những tài liệu đã khai quật được như cổ vật, cổ khí để chứng minh đời sống của xã hội Việt-nam ngày xưa đã rất ít. Các cổ sử còn lại cho chúng ta cũng không đủ. Những ngày
chiến tranh vừa qua, sử liệu và văn liệu của ta bị mất rất nhiều. Trong cuộc phát động quần chúng, cải cách ruộng đất hiện nay, chúng tôi đã thu được một số sách cổ tại một số nhà địa chủ vào hạng danh gia thế phiệt ngày xưa. Nhưng tại những vùng tạm bị chiếm hay đã nổ ra chiến tranh thì những sách vở đã bị thiêu hủy hay mục nát hết. Có một số tủ sách gia đình mà trước đây chúng tôi vẫn chú ý thì đến nay cũng không còn nữa. Trong tình trạng ấy, việc sưu tầm tài liệu đã mất nhiều công phu mà đem lại ít kết quả.
Cũng trong việc sưu tầm sử liệu, chúng ta chẳng phải chỉ nhằm vào sử liệu sẵn có ở trong nước mà còn phải tham khảo sử liệu ở nhiều nước có liên quan với nước ta, nhất là Trung-quốc. Vì mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Trung-Việt, chúng ta muốn nghiên cứu lịch sử Việt-nam từ hàng nghìn năm trước cần phải liên hệ với lịch sử Trung-quốc qua các triều đại, từ những sự kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, cho đến cả những truyện ký, dật sử có dính líu đến người và việc ở Việt-nam... Việc này chúng tôi đã chú ý làm, nhưng phải đẩy mạnh hơn nữa.
Khó hơn là việc sưu tầm những tài liệu về lịch sử cách mạng cận đại Việt-nam, nghĩa là từ hồi thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm nước ta đến Cách mạng tháng Tám. Như chúng ta đã biết, những tài liệu này hầu hết chưa in thành văn, thành sách. Muốn có nó, chúng ta phải tìm ở những văn kiện cách mạng còn giữ được ở những tài liệu của bọn thống trị Pháp còn để lại, ở những câu truyện truyền khẩu cùng những dấu vết còn lại trong dân gian. Trong thời kỳ Pháp thuộc, những tài liệu cách mạng là một thứ « quốc cấm », ai
lưu hành hay tàng trữ đều bị tù tội. Qua những ngày Nhật đảo chính Pháp và đặt quyền thống trị trên đất nước Việt nam, những tài liệu tham khảo về Cách mạng Việt-nam nằm trong hồ-sơ của Pháp đã bị hủy hoại và phân tán hầu hết. Vì vậy sưu tầm những tài liệu cách mạng Việt-nam, nhất là về ngày tháng, địa điểm, sự việc một cách chính xác đòi hỏi rất nhiều công phu tìm tòi, tra cứu, chẳng những tập hợp tài liệu, mà còn phải giám định tài liệu, thẩm tra tài liệu.
Cũng trong việc sưu tầm tài liệu Cách mạng cận đại Việt nam, chúng ta chẳng phải chỉ nhằm vào những tài liệu tìm được ở trong nước, mà còn phải thấy nó ở nhiều nơi liên quan khác. Không kể những tài liệu còn nằm trong tập hồ sơ của bộ thuộc địa nước Pháp, chúng ta có thể tìm thấy nó ở Liên xô trong các viện nghiên cứu về cách mạng thế giới sau Cách mạng tháng Mười ; thấy nó ở Trung-quốc, một nơi có quan hệ mật thiết với các phong trào cách mạng Việt-nam từ đầu thế kỷ thứ 20, nhất là từ sau cuộc đại chiến thứ nhất đến giờ.
Từ những nguồn khác nhau, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa cho đến nay đã sưu tầm, tập hợp được một số tài liệu để cung cấp cho việc biên tập hai bộ lịch sử Việt-nam và lịch sử cách mạng cận đại Việt-nam. Những tài liệu này đã được đối chiếu, thẩm tra một phần lớn để đảm bảo là những tài liệu chính xác.
Bên hai bộ lịch sử kể trên là bộ sử văn học Việt-nam. Chúng tôi đương sưu tầm, nghiên cứu những vốn cũ của dân tộc như thần thoại, cổ tích, ca dao, văn thơ, truyện ký, v.v... Việc sưu tầm này đã gặp nhiều khó khăn, vì những văn chương chính thống của các triều đại cũ đã bị tản mạn nhiều,
còn những văn chương bình dân thì khó tìm ra gốc tích của mỗi tác phẩm, tác giả in dấu của từng thời đại.
Sau khi đã phân loại để hệ thống hóa những tài liệu lịch sử và văn học đã sưu tầm được, chúng tôi đương bắt đầu vào việc nghiên cứu và phân tích từng phần. Một số tài liệu lịch sử cổ đại và cận đại đã hệ thống hóa được, cũng như một số tài liệu văn học bình dân đã phân tích được, chúng tôi đang lần lượt đăng trên tập san Văn-Sử-Địa. Riêng về tài liệu lịch sử Cách mạng cận đại Việt-nam, chúng tôi đã cho xuất bản quyển « Tự phê phán » của nhà chi sĩ Phan Bội-Châu và tập tài liệu tham khảo về lịch sử Cách mạng cận đại Việt-nam đã xuất bản tới quyển thứ 4.
Còn về việc sưu tầm những tài liệu về địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế để chuẩn bị viết quyển Địa lý Việt-nam, chúng tôi coi như mới bắt đầu.
2) Việc xuất bản tập san nghiên cứu Văn-Sử-Địa
Trong khi tiến hành công tác theo chương trình của Ban và góp phần vào việc xây dựng miền Bắc về mặt văn hóa, chúng tôi đã cho xuất bản tập san Văn-Sử-Địa với nhiệm vụ của nó là nghiên cứu, học hỏi, thảo luận những vấn đề có liên quan tới lịch sử, văn học, địa lý và phục vụ kịp thời theo khả năng và cương vị của mình. Hiện nay tập san đã ra tới số 15. Trong đó về lịch sử tập san đã nêu lên những vấn đề như : Dân tộc Việt-nam thành hình từ bao giờ, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Việt-nam ; Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong cuộc khủng hoảng của xã hội phong kiến Việt-nam, sự phát triển của chế độ phong kiến nước ta, vấn đề ruộng đất
trong lịch sử Việt-nam, trong cách mạng Việt-nam và phong trào nông dân trong quá trình chống phong kiến, đánh giá những anh hùng dân tộc trong thời đại phong kiến và những vai trò lịch sử của Trần Quốc-Tuấn, Nguyễn-Huệ, Hồ Quý-Ly, v.v..., tiêu chuẩn phân định thời kỳ lịch sử, phân định giai đoạn lịch sử cận đại Việt-nam, nhận định tính chất những phong trào cách mạng đầu thế kỷ thứ 20, nhận định giai cấp lãnh đạo cách mạng từ cuối đại chiến thứ nhất đến năm 1930... Về văn học, tập san đã nêu lên vai trò của nhân dân lao động trong văn học dân gian, văn học nhân dân của ta ; tìm sử liệu Việt-nam trong ngữ ngôn Việt-nam, quá trình phát triển và thống nhất của tiếng Việt, tìm hiểu giá trị của văn chương cũ, vấn đề chữ viết trong văn học sử Việt-nam, đã nghiên cứu một số tác phẩm vô danh mà trước kia không biết xuất hiện vào thời nào như Phạm-công Cúc-hoa, Nhị độ Mai, Phan-Trần, Trê-cóc v.v... ; đã tìm hiểu và đánh giá văn chương truyện Kiều của Nguyễn Du thơ văn Hồ Xuân-Hương và nhận định những tác giả của nó, sau hết đã đề ra đường lối xây dựng quyển Sử văn học Việt-nam và đề ra vấn đề thảo luận như những văn học bằng chữ Hán do người Việt nam viết ra có đặt vào sử văn học Việt-nam không... Về địa lý, những bài trong tập san đã đả phá thuyết phản động Man-tuýt và những thuyết duy tâm trong khoa học địa lý và cung cấp những tài liệu về khoa học địa lý dựng trên căn bản của chủ nghĩa Mác ; góp ý kiến vào việc vẽ địa đồ và phiên tâm tên đất Việt-nam.
Ngoài những bài nghị luận, tập san biên soạn và dịch đăng những bài tham khảo về lịch sử như lịch sử là gì, tác
dụng của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, vấn đề quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến, địa tô phong kiến trong lịch sử Việt-nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 19, một vài vấn đề trong việc bình luận nhân vật lịch sử, học thuyết lịch sử trong tư tưởng Mao Trạch-Đông và việc xây dựng khoa học lịch sử ở các nước bạn, việc đào tạo cán bộ sử học ở Liên-xô, cuộc thảo luận của các nhà sử học Liên-xô về công tác biên tập tạp chí « Vấn đề lịch sử ». Riêng về lịch sử cận đại Việt-nam, tập san đã cung cấp những tài liệu khá phong phú như những kinh doanh của tư sản Việt-nam dưới thời Pháp thuộc, việc đầu tư của tư bản Pháp ở Việt-nam, công cuộc khai thác của thực dân Pháp và sự phát triển của giai cấp công nhân Việt-nam, những cuộc khởi nghĩa và những phong trào cách mạng của nhân dân Việt-nam, quá trình đấu tranh chống xâm lược của các dân tộc miền núi. Về địa lý, có những bài nghiên cứu và tham khảo như địa lý lịch sử, tổng kết cuộc thảo luận vấn đề kinh tế tự nhiên và địa lý kinh tế của bộ biên tập « Vấn đề triết học ở Liên-xô », lý luận chủ quan duy tâm và lý luận địa lý học, Sta-lin và khoa học địa lý, vài nét về khu Hồng-gai – Hải-phòng, v.v... Về văn học, có những bài về khoa học của văn học và những bài về dân ca Việt-nam.
Với phương châm vừa học vừa làm, các anh chị em trong Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa đã cố gắng vận dụng chủ nghĩa Mác để soi sáng vào những vấn đề đương nghiên cứu. Chẳng những thế, trước những cuộc đấu tranh của toàn dân cùng những sự kiện lớn diễn ra trên đất nước như cuộc đấu tranh giành thống nhất, cuộc phát động quần chúng, cải cách
ruộng đất v.v... các người công tác Văn-Sử-Địa, cũng như các ngành các giới khác, đã đứng trên cương vị của mình, nắm vững « lợi khí » của mình để góp sức vào cuộc đấu tranh chung. Trên tập san Văn-Sử-Địa, luôn luôn có những bài xã luận và nghiên cứu hướng vào đó để phục vụ kịp thời.
Cũng đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác, tập san Văn Sử-Địa đã đăng những bài phê bình, đả phá những quan điểm thực dân và phong kiến còn đầy trong các quyển sử dưới thời Pháp thuộc như quyển « Việt-nam sử lược » của Trần Trọng-Kim, những quan điểm thực dân về địa lý Việt nam trong các tác phẩm của Rô-bơ-canh, Gu-ru, những ý kiến sai lầm trong quyển « Văn học sử Việt-nam tiền bán thế kỷ thứ XIX » v.v...
Trong những vấn đề mà tập san Văn-Sử-Địa đưa ra thảo luận thì có mấy vấn đề được các bạn chú ý thảo luận nhiều như : chế độ chiếm hữu nô lệ ở Việt-nam, những văn học bằng chữ Hán do người Việt-nam viết ra có đặt vào văn học sử Việt-nam không. Một vài vấn đề khác cũng có tiếng hưởng ứng như vấn đề thành hình dân tộc Việt-nam, vấn đề tiêu chuẩn phân định thời kỳ lịch sử, vấn đề nhận định tính chất của những phong trào đầu thế kỷ thứ 20, vấn đề phiên âm địa danh... Nhưng cũng còn một số vấn đề khác bị rơi vào chỗ im lặng. Một điều mà tập san Văn-Sử-Địa đã khởi xướng mà không làm liên tục được là việc phê bình thường xuyên những tác phẩm lịch sử và văn học. Sau bài phê bình quyển « Việt-nam sử lược của Trần Trọng-Kim », chúng tôi nhận được nhiều bức thư của các bạn gửi tới tán đồng và khuyến khích, nhưng tiếc rằng việc làm đã không liên tục vì nhiều cớ,
nhưng cớ chính vẫn là do chúng tôi đã không kiên trì được chủ trương của mình đề ra trong khi phải hướng vào nhiều vấn đề khác mà số trang tập san thì có hạn. Cũng sau khi đăng bài « Tìm hiểu truyện Kiều và Nguyễn-Du », chúng tôi nhận được một số ý kiến xung quanh bài này, nhưng phải tạm gác lại, vì thấy rằng trong lúc này chúng ta còn có nhiều vấn đề trọng đại khác sát với cuộc đấu tranh của dân tộc hơn là vấn đề truyện Kiều và Nguyễn-Du.
Một điểm làm cho chúng tôi phấn khởi là ý kiến của bạn đọc góp vào tập san ngày càng nhiều. Trong đó có bạn viết thành bài, có bạn chỉ ngỏ ý kiến trong một bức thư. Có bạn hưởng ứng những vấn đề mà trong tập san đã nêu ra ; có bạn còn đề ra những vấn đề mà phạm vi tập san hiện nay chưa vươn tới như vấn đề ngôn ngữ chẳng hạn. Những ý kiến của các ban hoặc đã đăng hoặc không đăng đều tỏ ra tập san Văn-Sử-Địa đã gần gũi với các bạn, đã đi vào các cán bộ trong bộ đội, giáo giới, tuyên huấn, trí thức, sinh viên và các đoàn thể nhân dân. Một số tài liệu đăng trên tập san còn được tổng cục chính trị bộ quốc phòng tái bản để làm tài liệu nghiên cứu cho các cán bộ.
Phấn khởi hơn nữa là những ngày gần đây, sự liên lạc giữa Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa Việt-nam và các cơ quan lịch sử văn học các nước bạn ngày càng mật thiết. Chúng tôi đã nhận được những tặng phẩm của Viện Hàn lâm khoa học Liên-xô và một số thư tín, tài liệu của nhiều sử gia, văn gia tại Liên-xô, Trung-quốc và các nước bạn gửi tới. Quyển « Tự phê phán » của Phan Bội-Châu bằng chữ nho và bộ « Sơ thảo lược sử Việt-nam » đã được các bạn Trung-quốc đề ra tái bản
tại Trung-quốc. Ngoài những lời khuyến khích, còn có những ý kiến trao đổi, những lời phê bình để đẩy mạnh việc nghiên cứu học tập của chúng tôi.
3) Việc xây dựng những tác phẩm theo chương trình đã định
Theo lệnh Trung ương, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa phải hoàn thành mấy tác phẩm sau đây :
Về lịch sử : Một quyển lịch sử Việt-nam tức Việt-nam thông sử. Một quyển lịch sử cách mạng cận đại Việt-nam (từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt-nam đến Cách mạng tháng Tám).
Về văn học : Một quyển Việt-nam văn học sử.
Về địa lý : Một quyển địa lý Việt-nam.
Cho đến nay, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa vẫn chưa hoàn thành được những tác phẩm kể trên theo hạn định. Về lịch sử, đã làm xong và xuất bản toàn bộ « Sơ thảo lược sử Việt nam ». Nhưng cho được tiến tới quyển Việt-nam thông sử, một số tài liệu cần phải bổ cứu thêm cũng như một số vấn đề cần phải thảo luận thêm. Còn quyển « Lịch sử cách mạng cận đại Việt-nam » thì mặc dầu tài liệu sưu tầm đã tạm đủ, biên soạn mới xong được một phần. Trước khi xuất bản quyển « Lịch sử cách mạng cận đại », Ban đã lần lượt xuất bản những tập tài liệu tham khảo và hiện nay đã tới quyển thứ 4. Về văn học, việc biên soạn quyển « Việt-nam văn học sử » cần phải có sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu ở trong Ban cũng như ở ngoài Ban. Nhiệm vụ của Ban là phải cố gắng xây dựng
một « cái sườn » của nó để trưng cầu ý kiến và đề nghị sự cộng tác của các nhà nghiên cứu. Nhưng cho đến nay, việc xây dựng này vẫn còn đương tiếp tục. Để góp phần tài liệu vào quyển « Việt-nam văn học sử » này, Ban đương trù bị xuất bản quyển « Dân ca Việt-nam ». Về địa lý thì vì thiếu người chuyên trách nên việc biên soạn quyển « Địa lý Việt
nam » vẫn còn ở trong thời kỳ sưu tầm tài liệu và trao đổi ý kiến.
Ngoài những quyển đã quy định trong chương trình, Ban đã xuất bản quyển « Tự phê phán » của nhà chí sĩ Phan Bội Châu để cung cấp tài liệu cho việc nghiên cứu lịch sử cách mạng cận đại. Cũng nhân việc cung cấp tài liệu cho các bạn ở ngoài, Ban đã xuất bản 10 truyện cổ tích Việt-nam.
Nói tóm lại, về chương trình xuất bản, Ban đã không thực hiện được đúng kế hoạch. Sở dĩ có sự chậm trễ như vậy một phần là vì ngoài chương trình đã quy định, Ban còn phải đem khả năng của mình để phục vụ kịp thời những chính sách lớn của nhà nước, và công tác của nhiều ngành, nhiều cơ quan và đoàn thể nhân dân. Nhất là sau khi hòa bình đã trở lại, trong công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh và đấu tranh để thống nhất nước nhà, Ban đã phải đóng góp cụ thể vào việc cung cấp và nghiên cứu tài liệu thuộc về lịch sử, văn học và địa lý. Cũng sau khi hòa bình trở lại, việc giao lưu văn hóa giữa nước ta và các nước bạn ngày càng rộng rãi và mật thiết. Để đáp lại sự đòi hỏi của các bạn tìm hiểu về lịch sử, văn học, địa lý Việt-nam, Ban đã phải cung cấp một số tài liệu theo sở đắc của mình.
Việc biên soạn những tác phẩm kể trên, một phần nữa
còn phải tùy thuộc ở việc sưu tầm tài liệu. Thêm vào đấy là một số vấn đề về lịch sử, về văn học cần được thảo luận trước khi biên soạn để có một nhận định xác đáng hơn.
Hiện nay, sự đòi hỏi có những quyển sách kể trên để phục vụ nhà trường, phục vụ nhân dân đã trở nên rất cấp thiết, Ban hứa sẽ cố gắng hoàn thành theo chỉ thị của Trung ương.
NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN – SỬ – ĐỊA
Trong khi tiến hành công tác, chúng tôi còn có nhiều nhược điểm và mắc nhiều khuyết điểm.
Về tổ chức, theo nghị quyết Trung-ương, một số các đồng chí trong Đảng và ngoài Đảng tham gia Ban nghiên cứu Văn Sử-Địa. Nhưng khi bắt tay vào việc thì vì mỗi người đều có chuyên trách ở các ngành công tác khác, nên trừ những ủy viên có thể trực tiếp làm việc cho Ban được, một số ủy viên khác phần nhiều có danh nghĩa hơn là công tác thực tế. Đã vậy, việc sinh hoạt giữa các ủy viên trong Ban cũng lỏng lẻo nên phần đóng góp của một số ủy viên càng ít ỏi.
Hồi mới thành lập, Ban có mời một số cộng tác viên ở các nơi và định thể lệ cộng tác. Nhưng việc này đã không thể thực hiện được. Phần nhiều cộng tác viên ở các nơi, ngoài công tác chính của mình ra, rất sốt sắng vào việc đóng góp với Ban, nhưng vì thiếu tài liệu nghiên cứu, thiếu phương tiện cần thiết, nhất là không được ở gần nhau để giúp đỡ nhau về học hỏi và xây dựng một ý kiến tập thể, do đó phần cống hiến không được nhiều. Bù vào đó là một số cộng tác viên
mới có đủ điều kiện hơn, nhưng thể lệ cộng tác từ trước vẫn chưa được đem nghiên cứu lại cho sát hoàn cảnh để mở rộng phạm vi và thắt chặt liên lạc giữa Ban với các cộng tác viên.
Ban cũng chưa kiện toàn được bộ máy là việc. Những cán bộ và nhân viên làm việc trong Ban đã thiếu về số lượng, còn kém về chất lượng. Vì người thì ít mà việc thì nhiều, lại không tính trước được những việc đột xuất, do đó Ban chưa có được một kế hoạch làm việc thật sát với từng thời gian ; cũng như cán bộ và nhân viên làm việc cũng chưa được phân công rạch ròi theo từng ngành từng việc nhất định để đẩy mạnh chuyên môn và năng suất. Điều này có ảnh hưởng cho việc thực hiện chương trình theo hạn định. Đã thế, lại không kịp thời tổng kết những kinh nghiệm để đẩy cho công tác tiến lên. Cố nhiên là về phần tổ chức có những khó khăn của khách quan, nhưng cũng vì nhận thức công tác chưa đủ nên trên cơ sở đã có, không thực hiện được một tổ chức hợp lý hơn. Khẩu hiệu vừa học vừa làm vẫn nhắc nhở nhau luôn, nhưng việc bồi dưỡng cán bộ học tập chủ nghĩa Mác để nâng cao trình độ, giữ vững lập trường, đẩy mạnh chuyên môn chưa có một kế hoạch thích đáng và một công phu liên tục, do đó, từ cán bộ sưu tầm nghiên cứu đến cán bộ biên tập, trình độ tiến bộ vẫn không theo kịp với nhiệm vụ đề ra.
Về công tác thì cả ba ngành Văn, Sử, Địa đều không thực hiện được đúng chương trình ; riêng về ngành địa lý lại bị tê liệt hơn cả. Những tài liệu sưu tầm còn thiếu sót. Việc phiên dịch còn chưa có chương trình rõ rệt. Nghiêm trọng hơn nữa là có những chỗ dịch sai nên sử dụng tài liệu cũng sai. Những sách đã xuất bản thì quyển « Sơ thảo lược sử Việt-nam » cần
bổ sung thêm tài liệu, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề và đính chính một vài điểm sai lầm về chi tiết. Về 10 truyện cổ tích Việt-nam, có một vài điểm cần phải đặt lại, nhất là việc trả lại nguyên truyện của Tấm Cám đoạn sau cùng do nhân dân đã kể ra.
Về nội dung 13 số tập san đã xuất bản, mặc dầu những ý kiến đã được xây dựng tập thể và được bạn đọc hoan nghênh nói chung, chúng tôi vẫn nhận thấy có nhiều khuyết điểm. Những bài về dân tộc chưa nắm vững được nghĩa khoa học của hai chữ dân tộc cũng như vấn đề thành hình của dân tộc Việt-nam cần có những tài liệu đầy đủ để vun đắp cho điểm nhận định được vững chắc hơn. Một vài vấn đề khác, khi đặt vấn đề và khi đem tranh luận, tác giả trong khi bênh vực chủ thuyết của mình đã có thái độ vũ đoán. Cũng cần nói rõ rằng : hiện nay còn có một số vấn đề về lịch sử cũng như về văn học, chúng ta còn phải nghiên cứu và thảo luận nhiều. Có vấn đề qua những cuộc thảo luận đã được sáng tỏ thêm. Có vấn đề vẫn phải tiếp tục nghiên cứu và thảo luận nữa. Một điều mà chúng ta đã thấy, tại nước bạn Trung-quốc, có một số vấn đề như nhận định thời kỳ lịch sử của chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, cho đến nay, qua nhiều cuộc thảo luận vẫn chưa giải quyết xong. Những giả thuyết của mấy nhà sử học đề ra, có cái đã đổ, có cái còn cần những tài liệu chứng minh thêm mới mong đứng vững. Việc nghiên cứu lịch sử và văn học ở nước ta, nếu chúng ta càng đi sâu vào thì sẽ càng thấy nhiều vấn đề cần phải xét lại. Do đó, những cuộc tranh luận là rất cần thiết. Điểm đáng chú ý là thái độ của những người tham gia tranh luận cần phải thành khẩn,
khiêm tốn để tìm ra chân lý. Cố nhiên là trong khi trình bầy ý kiến của mình, luận giả cần phải viện đủ mọi tài liệu, mọi lý luận có thể chứng minh cho thuyết của mình là đúng ; nhưng không phải vì thế mà phủ nhận mọi ý kiến của người khác trong khi phải nghiên cứu, thảo luận thêm với một thái độ « thực sự cầu thị ». Cũng như nhận xét một vấn đề gì, chúng ta đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác, vận dụng lý luận của Mác để soi sáng vấn đề, nhưng không phải vì thế mà áp dụng một cách máy móc không đúng với hoàn cảnh cụ thể.
Một điểm nữa là, từ khi hòa bình trở lại, công tác văn, sử, địa vì những nhu cầu cần thiết và cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa, mặc dầu đã có sự đồng tình giúp đỡ của một số nhà văn, nhà sử và nhà địa lý, nhưng chưa đoàn kết rộng rãi được mọi người công tác văn, sử, địa ở trong Đảng cũng như ở ngoài Đảng. Việc này, chúng tôi đã tự phê bình trước các đồng chí Trung ương của bộ Chính trị của Đảng về thái độ cô độc, và hẹp hòi. Cố nhiên là đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác, chúng tôi cần phải dứt khoát về quan điểm duy vật lịch sử, không nhượng bộ trước những kiến giải sai lầm, nhưng chúng tôi nguyện thành thực đoàn kết với tất cả những người công tác trong địa hạt khoa học xã hội để phục vụ nhân dân, hướng theo chiều tiến bộ của khoa học để xây đắp cho nền Văn, Sử, Địa nước nhà.
ĐỀ ÁN CÔNG TÁC CỦA BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA TRONG NĂM 1956
Sau khi đã tổng kết công tác của Ban trong năm 1955,
chúng tôi đề ra mấy nét chính sau đây về đề án công tác của Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa trong năm 1956.
1) Chấn chỉnh bộ máy làm việc của Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa
Như trên đã thấy, bộ máy của Ban nghiên cứu Văn-Sử Địa đã không tương xứng với nhiệm vụ và công tác của Ban. Vì vậy, điều cần thiết phải làm ngay là chấn chỉnh bộ máy làm việc của nó bằng việc bổ sung thêm một số cán bộ sưu tầm, phiên dịch, nghiên cứu và biên soạn bằng việc làm theo phương pháp khoa học. Trong ba ngành Văn-Sử-Địa và các địa hạt trong mỗi ngành như cổ sử, cận đại sử, hiện đại sử, văn học phong kiến, văn học nhân dân, địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế v.v… cần phải phân công chuyên trách từng bộ phận theo một kế hoạch cụ thể.
2) Mở rộng phạm vi cộng tác với các cộng tác viên
Cần nghiên cứu lại chế độ cộng tác đối với các cộng tác viên ở gần và ở xa nhằm mục đích mở rộng phạm vi cộng tác của Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa.
3) Mở những cuộc tọa đàm để nghiên cứu, thảo luận các vấn đề
Việc này, khi còn ở Việt-bắc, Ban đã bắt đầu thí nghiệm làm một vài lần, nhưng hoàn cảnh chiến tranh không cho phép tiến hành một cách thuận tiện. Hiện nay, hòa bình trở lại, những điều kiện thuận tiện có nhiều, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa sẽ mở những cuộc tọa đàm gồm có những người
công tác Văn-Sử-Địa hay có quan tâm đến công tác Văn-Sử Địa để nghiên cứu, thảo luận những vấn đề do Ban đề ra.
Ngoài ra còn một số vấn đề về lịch sử chưa được giải quyết dứt khoát, Ban sẽ đề nghị với ban Tuyên Huấn Trung ương triệu tập những cuộc thảo luận để mong có một sự nhận định chung trong việc nghiên cứu cũng như huấn luyện.
4) Thắt chặt việc liên lạc với các nhà công tác văn, sử, địa tại các nước bạn
Hiện nay, việc liên lạc giữa ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa Việt-nam với những viện Hàn-lâm, những cơ quan, những tập đoàn, những cá nhân công tác sử học, văn học tại các nước bạn đã bắt đầu, chúng tôi sẽ cố gắng liên lạc chặt chẽ hơn để trao đổi tài liệu, đẩy mạnh việc học tập các bạn tiền tiến và mở rộng sự quan hệ giữa các nhà công tác khoa học xã hội các nước bạn với các nhà công tác khoa học xã hội ở Việt
nam. Ngoài ra, nếu có điều kiện, chúng tôi cũng chú ý liên lạc với các cơ quan, tập đoàn, cá nhân công tác khoa học xã hội tại các nước khác.
5) Hoàn thành những tác phẩm đã qui định trong chương trình và đẩy mạnh công tác xuất bản
Ngoài tập san Văn-Sử-Địa ra, Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa năm nay sẽ phải hoàn thành những quyển sách mà Trung ương đã đề ra theo hạn định. Ngoài ra, ban sẽ xuất bản trọn tập tài liệu tham khảo về lịch sử cách mạng cận đại Việt-nam và một số tài liệu tham khảo về văn học, sử học khác. Ngoài những tài liệu trong nước, ban sẽ xuất bản một số tài liệu
tham khảo của các nước bạn, nhất là Liên-xô, để giúp chung ta về phương pháp nghiên cứu và quan niệm lịch sử.
Với đề án kể trên, chúng tôi mong sẽ cố gắng thực hiện với sự chung sức của các nhà công tác văn, sử, địa. Đối với nhiệm vụ và nhu cầu của công tác Văn-Sử-Địa, đề án nhỏ trên đây chỉ là tiếp tục những công việc đã làm, đương làm và tạo một điều kiện vươn lên một tiến bộ khác.
TRẦN HUY-LIỆU
Trưởng Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa
XÃ HỘI VIỆT-NAM TRONG THẾ KỶ XVIII VÀ NHỮNG PHONG TRÀO NÔNG DÂN KHỞI NGHĨA
của MINH-TRANH
I. TRONG xã hội phong kiến Việt-nam không có một thời kỳ nào mà cuộc biến động xã hội lại nổ ra sâu sắc rộng rãi và triền miên như thế kỷ thứ 18. Những cuộc nông dân khởi nghĩa kế tiếp nhau bùng lên từ Bắc đến Nam, phong trào này vừa chấm dứt thì phong trào khác đã cuồn cuộn xông lên, rồi từ phạm vi các địa phương cuối cùng phong trào đã lan ra toàn quốc. Đầu thế kỷ 18, phong trào Nguyên Dương-Hùng (1737) đồng thời nổ ra với cuộc bạo động của Lê Duy-Mật (1731-1769). Hai phong trào trên đây chưa lặng sóng thì những cuộc bạo động nông dân do Nguyễn-Tuyển, Nguyễn Cừ và Vũ Trác-Oánh (1739-1741) đã bùng ra ở Hải-dương. Rồi kế đó là cuộc bạo động to lớn do Nguyễn Hữu-Cầu lãnh đạo (1743-1751) tương đối có chủ trương, có tổ chức hơn cả. Danh hiệu « Đông đạo thống quốc bảo dân đại tướng quân » của Nguyễn Hữu-Cầu đã chứng rõ điều đó. Cũng trong thời gian vùng men bể Bắc-bộ không để cho bọn thống trị yên thì ở miền Vĩnh-yên, Sơn-tây, Phú-thọ, Nguyễn Danh-Phương phất cao ngọn cờ khởi nghĩa lấy núi Tam-Đảo làm căn cứ. Đồng thời từ Tuyên-quang, phong trào Hoàng Công-Chất lan ra Sơn-nam (tức Nam-định) tràn vào Thanh-hóa rồi từ Thanh-hóa lại quay lên miền Hưng-hóa kéo dài luôn trong 28 năm trời (1740-1768).
Giai cấp thống trị mà thực tế lúc bấy giờ là tập đoàn phong kiến họ Trịnh về sau còn phải luôn luôn đối phó với các phong trào nông dân kế tiếp như phong trào Thục-Toại ở Quảng-yên, phong trào Nguyễn Kim-Phẩm, Trần Xuân-Trạch ở Sơn-nam (năm 1777) ; Hoàng Văn-Đồng ở Tuyên-quang (1778) rồi đến 1784 phong trào Thiêm-Liêm trên suốt cả một giải từ Quảng-yên đến Nam-định ngày nay.
Tất cả những phong trào nông dân ấy mặc dầu cuối cùng không thành công nhưng ý nghĩa của nó đối với thắng lợi của Tây-Sơn trong việc lật đổ sự thống trị của vua Lê chúa Trịnh và tiêu diệt quân Mãn-Thanh xâm lược thật là to lớn. Phong trào nông dân miền Nam do anh em Tây-Sơn chỉ huy nổ ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Từ căn cứ Qui-Nhơn, cuộc khởi nghĩa tràn ra rất nhanh chóng, lôi cuốn khắp cả miền nam Trung Bộ hiện nay, rồi ùa vào miền Nam dẹp tan quân đội của Nguyễn-Ánh và tiêu diệt bọn can thiệp Xiêm do Nguyễn
Ánh rước về dày xéo đất nước. Sau khi thu được đại thắng ở miền Nam, Tây-Sơn kéo quân ra Bắc, mộ thêm lính và chớp nhoáng phá vỡ tất cả hệ thống quân sự và chính trị của bọn Tôn Sĩ-Nghị và lũ tay sai của chúng. Đại thắng của Nguyễn
Huệ ở miền Bắc căn bản là do đã được tất cả những cuộc nông dân bao động Bắc hà nửa đầu thế kỷ XVIII chuẩn bị cho từ trước. Rồi năm 1789, Nguyễn-Huệ lên ngôi hiệu là Quang Trung.
Những cuộc biến động chính trị ấy đi đôi với những cuộc biến động văn hóa rất đáng chú ý. Trước hết chúng ta thấy việc sử dụng chữ nôm một cách rộng rãi ngay trước khi Nguyễn-Huệ ra lệnh dùng chữ nôm làm thứ chữ chính thức.
Những trước tác bằng chữ nôm thời bấy giờ đã chứa đựng một nội dung từ chỗ chống đối tập đoàn phong kiến thống trị đương thời đi tới chống đối nhiều phương diện của chế độ phong kiến nói chung một cách rất mãnh liệt. Nữ thi sĩ Hồ
Xuân-Hương, với những bài thơ châm biếm mỉa mai diễu cợt lễ giáo phong kiến ; thi sĩ Đặng Trần-Côn và nữ thi sĩ Đoàn Thị-Điểm với tác phẩm « Chinh phụ ngâm » đã ghi lại những tâm tính âm thầm phản kháng cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài ; bài thơ bất hủ của Nguyễn Hữu-Cầu « Chim trong lồng » ca tụng tự do của con người, cho đến những truyện Phạm-Công Cúc-Hoa, Nhị độ Mai, Tiếu lâm và bao nhiêu trước tác khác đã báo hiệu sự xuất hiện Truyện Kiều mà tác giả là nhà đại thi hào Nguyễn-Du, hồi đầu thế kỷ 19. Qua những tác phẩm văn học nói trên, ta thấy xuất hiện chủ nghĩa hiện thực biểu hiện một quan niệm mới về nhân sinh, đó là quan niệm nhân đạo chủ nghĩa. Vấn đề ước muốn của con người, vấn đề tự do, vấn đề luyến ái, vấn đề tình cảm gia đình đã được đặt ra một cách mạnh dạn, thống thiết, sâu sắc và có khi gay gắt nữa. Những vấn đề ấy tuy chưa được giải quyết thỏa đáng, song việc nó được đặt ra cũng chứng tỏ rằng : song song với cuộc biến động về chính trị, một cuộc biến động về văn hóa cũng diễn ra khá mãnh liệt trong thế kỷ thứ 18.
II. Giải thích làm sao tất cả những cuộc biến động to lớn ấy ? Từ trước tới nay, người ta đã tùy theo quan điểm của mỗi giai cấp mà giải thích khác nhau.
Có người cho rằng : vì bấy giờ vận mệnh của vua Lê chúa Trịnh đã suy nên xã hội nước ta mới nên « nông nỗi ấy ». Đó
là quan điểm phong kiến đối với vấn đề. Những người đứng về quan điểm tư sản hình như không cần biết đến các phong trào nông dân miền Bắc, không đếm xỉa đến cơ sở xã hội đương thời và khi nói tới thắng lợi của Tây-Sơn thì chỉ bàn tán về tài của riêng cá nhân Nguyễn-Huệ, nào là tài dụng binh, tài chiến thuật và coi vai trò cá nhân của Nguyễn-Huệ là vai trò duy nhất quyết định. Đó là quan điểm cá nhân anh hùng mà các nhà sử học tư sản thường đã quen dùng để giải thích nhiều hiện tượng xã hội. Gần đây, chúng ta đều đã rõ không thể theo những quan điểm nói trên được và cũng bắt đầu thấy vai trò của nhân dân trong tất cả các cuộc biến động ấy. Nhiều bạn đã giải thích vì nhân dân bị lầm than khổ sở cho nên nổi dậy ; vì nạn sưu cao thuế nặng, vì nạn chiến tranh mà họ khởi nghĩa. Nhưng như thế đã đủ chưa ? Chúng ta còn cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa, phân tích xem trên cơ sở nào đã nổ ra tất cả những cuộc biến động lớn nói trên. Ở đây, chắc các bạn cũng như chúng tôi đều đứng trước một vấn đề cần được giải quyết : đó là vấn đề tài liệu. Quả như vậy, mặc dầu thế kỷ thứ 18 chỉ mới cách chúng ta ngày nay trong khoảng 200 năm nhưng rất nhiều tài liệu quan trọng về thời bấy giờ vẫn chưa tìm kiếm được hoặc chưa sưu tầm được. Cho nên, trong lúc chờ đợi tìm được thêm tài liệu thì, với những tài liệu hiện nay đã có, làm sao chúng ta phân tích được về căn bản tìm hiểu được trong chừng mực tối đa những hiện tượng xã hội thời bấy giờ. Trong bài này, trên cơ sở những tài liệu đã có trong tay hiện nay, chúng tôi cố gắng cùng với các bạn tìm hiểu xã hội nước ta trong thế kỷ XVIII, để giải quyết vấn đề : vì sao hồi bấy giờ lại có một phong
trào nông dân sâu rộng như vậy từ Bắc đến Nam, tại sao Tây-Sơn lại thắng lợi được một thời gian, tại sao lại nảy ra sự chớm nở của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong văn học nước ta thời bấy giờ, và những tư tưởng mới ấy bắt đầu từ một cơ sở như thế nào và có liên quan như thế nào với cuộc biến động chính trị rộng lớn trong xã hội đương thời. Đã có nhiều ý kiến đề cập đến những tác phẩm và những tác giả nước ta hồi thế kỷ 18 trong khi nghiên cứu văn học xưa kia của nước ta. Và trước kia cũng có nhiều ý kiến giải thích những hiện tượng văn học đương thời căn cứ đơn thuần vào tài của các tác giả. Thật ra thì những tư tưởng ấy không có thể tách biệt ra khỏi những cuộc biến động chính trị lúc bấy giờ và những cuộc biến động ấy chính là biểu hiện của những nhân tố mới đang xuất hiện. Muốn hiểu bao nhiêu phong trào nông dân trong thế kỷ XVIII, muốn hiểu thắng lợi của phong trào Tây-Sơn cũng như muốn hiểu những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa hồi bấy giờ, theo ý chúng tôi, chúng ta cần tìm hiểu những nhân tố mới ấy.
Đó là sự xuất hiện mâu thuẫn xã hội chưa hề có trước kia hay nói cho đúng hơn những mâu thuẫn xã hội ở một trình độ mà trước kia chưa hề có. Chúng ta hãy lần lượt phân tích những mâu thuẫn xã hội ấy.
1) Từ sau thế kỷ thứ 15, quốc gia phong kiến tập quyền càng suy yếu. Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều trong thế kỷ XVI (tức chiến tranh giữa họ Mạc và họ Trịnh) chưa hoàn toàn chấm dứt thì tình trạng chiến tranh phong kiến giữa Nguyễn và Trịnh lại nổi lên và kéo dài trong luôn hai thế kỷ. Tính chất phân tán và tính chất tập trung chống chọi lẫn
nhau không phân thắng phụ. Cuộc đấu tranh ấy càng diễn ra sâu sắc và kịch liệt trong thế kỷ XVII và XVIII khi tập đoàn phong kiến họ Nguyễn đã củng cố và phát triển căn cứ của chúng ở phía Nam để lập ra một giang sơn riêng tách ra khỏi sự chi phối của tập đoàn thống trị chúa Trịnh ở phía Bắc. Lãnh thổ đất nước mở rộng thêm ; cơ sở vật chất để thống nhất lãnh thổ ấy không có đầy đủ trong điều kiện một nước nông nghiệp còn lạc hậu, trạng thái lực lượng sản xuất chưa có gì thay đổi về căn bản ; tình hình đó làm cho chính quyền trung ương do tập đoàn thống trị họ Trịnh nắm giữ càng sút kém hơn nhiều nữa. Nội bộ tầng lớp đại phong kiến lủng củng và tranh giành nhau để nắm độc quyền thống trị diễn ra và chiến tranh phong kiến kéo dài. Đó là chưa kể những mâu thuẫn vẫn âm ỹ giữa vua Lê và chúa Trịnh cũng khá trầm trọng lúc bấy giờ.
Bên những mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đại phong kiến ở miền Bắc và miền Nam lại còn những mâu thuẫn giữa tính chất phân tán và tính chất tập trung trong nội bộ lãnh thổ của họ Trịnh và họ Nguyễn. Tình trạng mâu thuẫn ấy gay gắt nhất là ở miền Bắc. Cứ lấy một việc sau này thì đủ rõ :
« Năm Cảnh-trị thứ hai (1664) đời Lê Huyền-Tông, Trịnh Tạc xét thấy tuần ty ở các xứ sách nhiễu tiền gạo của hành khách quá lạm, nên hạ lệnh triệt bỏ và đình chỉ việc thu tiền thuế tuần ty. Lúc ấy 13 sở tuần ty sau này phải triệt bỏ.
1. Chính-đại huyện Tống-sơn
2. Liên-hình huyện Quảng-xương
3. Mộ-Chu huyện Bạch-hạc
4. Lục-đầu huyện Thanh-lâm
5. Vạn-phái (Thanh-lâm)
6. Hoàng-giang (Thư-trì)
7. Thu-mệnh (Thùy-nguyên)
8. Trù-hựu (Bảo-lợi)
9. Ngã-tư (Nga-sơn)
10. Vân-sàng (Yên-khang)
11. Ngã-ba (Đông-lan)
12. Lịch-giang (Gia-hương)
13. Tam-kỳ (Phương-nhãn) »1
Đến thế kỷ XVIII, ta lại luôn luôn thấy những lệnh bỏ thuế hoặc giảm thuế quan ải và thuế đò hoặc lệnh xóa bỏ những sở tuần ty mới mọc lên.
Nhưng những chính sách trên đây vẫn không có tác dụng vì bọn phong kiến các địa phương không chịu tuân lệnh tập đoàn phong kiến trung ương. Uy thế của chúa Trịnh sút kém đến nỗi có những nơi không chịu đóng thuế cho chúa Trịnh và cầm binh chống lại. Chẳng hạn như bọn chủ mỏ ở phía Bắc.
Tập đoàn phong kiến họ Trịnh và họ Nguyễn vơ vét tiền của và sức lực của dân để ném vào cuộc xung đột lẫn nhau ; bọn phong kiến địa phương không chịu tuân lệnh bọn phong kiến trung ương càng bóp nạn dân để mưu súc tích lực lượng làm bá chủ, tình trạng ấy đè lên đầu nhân dân làm cho họ rất thống khổ. Xã hội lúc bấy giờ rối ren với một quy mô không phải trong một địa phương riêng lẻ mà trong cả toàn quốc.
2) Giữa lúc ấy thì những công trường thủ công thành lập việc khai thác mỏ được đẩy mạnh, việc xúc tiếp với chủ nghĩa
tư bản Tây phương, sự xuất hiện những thị trường có tính chất địa-phương rộng rãi hơn trước, tất cả những nhân tố mới này đã làm cho yếu tố tư sản thương mại ở nước ta phát triển lên trong những chừng mực nhất định.
Từ thế kỷ XVII, ở Thuận-hóa đã xuất hiện những xưởng đúc súng và đúc đại bác ; ở Quảng-ngãi đã thành lập những xưởng đóng thuyền và đúc binh khí của tư nhân (sử cũ chép rằng ở Quảng-ngãi có người tên là Linh trước làm lái trâu, sau giầu có nên đã mở xưởng đóng chiến thuyền và đúc binh khí). Có xưởng lúc bấy giờ đã tập hợp được tới 8.000 công nhân. Ở Bắc, trong thế kỷ thứ XVIII, tất cả các xưởng đúc tiền lẻ tẻ được tập trung lại thành một xưởng trung ương duy nhất ở kinh kỳ. Những công trường thủ công này đã có tính chất tư bản chủ nghĩa hay chưa, đó là điều chúng ta cần nghiên cứu. Song với sự xuất hiện những công trường thủ công tư nhân, chúng ta cũng đã thấy rõ xã hội lúc bấy giờ có những nhân tố mới uy hiếp nghiêm trọng hệ thống phong kiến vẫn ráo riết bám lấy sự tồn tại của nó.
Việc khai mỏ được đẩy lên khá mạnh trong thế kỷ XVIII. Hoàng Văn-Kỳ là chủ mỏ đồng Tụ-long (Tuyên-quang). Cũng ở đây mỏ bạc được khai thác ở Nam-xương và Long-sinh. Nguyễn Đình-Huấn được lệnh khai mỏ đồng ở Sàng-mộc (Thái-nguyên), Nguyễn Phương-Dĩnh là chủ mỏ ở Trình-Lan (Hưng hóa), Nguyễn Danh-Thưởng chủ mỏ ở Hoài-Viễn (Lạng-Sơn). Năm 1761, triều đình phái quan trông coi các xưởng mỏ rồi ủy cho các trọng thần và các quan trấn thủ địa phương mỗi viên phải trông coi một hay hai mỏ. Những viên quan này tùy tiện được xuất vốn riêng thuê người khai thác,
viên quan nào khai thác được bao nhiêu thì được giữ lấy làm của riêng. Năm 1762, Bùi Thế-Khanh được phép chiêu mộ người khai thác mỏ bạc và thiếc ở Thái-nguyên.
Ở miền nam, trong thời gian ấy, việc khai mỏ cũng phát triển, mỏ vàng ở Thuận-hóa, mỏ bạc ở Quảng-nghĩa, mỏ sắt ở Bồ-chính. Bọn quan lại hoặc Hoa kiều được phép xuất vốn riêng ra chiêu tập người làm công tới khai mỏ rồi nộp thuế cho chúa Nguyễn.
Những tiếng xuất vốn và chiêu tập người để khai mỏ mà ta thấy trong các tài liệu sử cũ, hé cho ta thấy sự xuất hiện của tích lũy tư bản trong những mức độ nhất định. Về điểm này, chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm, tìm thêm tài liệu để xét xem những yếu tố tư bản chủ nghĩa đã nảy mầm trong xã hội nước ta lúc bấy giờ chưa và nếu đã, thì ở trình độ như thế nào. Ở đây, với những tài liệu đã có, ta thấy được rằng sự buôn bán kim khí lúc bấy giờ đã phát triển. Qua những tài liệu trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy-Chú và qua Hậu Lê lịch triều tạp chí của Cao-Lãng nói về thuế đồng đỏ, thuế muối, thuế vỏ quế, chúng ta có đủ cơ sở để kết luận rằng : những yếu tố tư sản thương mại đã phát triển mạnh trong xã hội nước ta lúc bấy giờ.
Việc buôn bán trong nước đã được chứng rõ khá nhiều. Riêng việc đặt ra 23 sở tuần ty ở miền Bắc cũng đủ là bằng chứng cụ thể. Việc buôn bán với các tầu buôn Bồ-đào-nha, Tây-ban-nha, Anh, Pháp cũng được đẩy mạnh. Đó là những việc mà chúng ta đều đã biết.
Tình hình phát triển của nội thương và ngoại thương đã
xúc tiến sự thành hình của những thị trường lớn bắt đầu có tính chất dân tộc. Đây là tình hình Hà-nội trong thế kỷ XVII :
« Thành phố Kẻ-chợ (Hà-nội) về bề rộng có thể so sánh với nhiều thành phố châu Á ; về dân số, nó còn đông hơn nhiều thành phố khác, đặc biệt là vào ngày mồng một và rằm tức là ngày phiên chợ lớn hay nhỏ, những ngày mà dân các làng lân cận tới tấp đem vô số hàng hóa đến. Nhiều phố khá rộng chật ních người đến nỗi người ta không còn cảm thấy dễ chịu khi phải chen vai trong đám đông hàng nửa giờ để tiến lên một trăm bước ; ... »2
Và đây là lời linh mục Richard mà Jean Chesnaux đã dẫn chứng thêm :
« Thành phố duy nhất xứng đáng với danh hiệu thành phố là Kẻ chợ hoặc Ka chợ, thủ đô của vương quốc... Phố xá của Kẻ chợ đẹp và rộng, lát gạch từng phần hoặc từng bên một vì cũng có những bên không lát để cho ngựa, voi, xe của vua và súc vật đi... Số thuyền bè nhiều lắm đến nỗi khó mà những thuyền mới đến len vào được... Những sông và những hải cảng lớn nhất của ta (tức châu Âu) như Venise với các thuyền và các tầu của nó, không thể diễn đạt được ý niệm về giao lưu và dân số của sông Kẻ chợ ».
Phải chăng chỉ có Kẻ chợ là thành phố duy nhất xứng đáng với danh hiệu ấy ? Câu tục ngữ của ta : « Thứ nhất Kinh-kỳ, thứ nhì phố Hiến » đã đủ trả lời câu hỏi đó. Đây là chưa kể tới những trung tâm buôn bán ở miền Nam mà chúng ta còn phải nghiên cứu thêm nữa. Ở miền Nam xét qua những thứ thuế đánh vào thương mại, ta cũng thấy sự
buôn bán đã ở trình độ như thế nào : thuế sắt, thuế mắm, thuế muối, thuế yến sào, thuế thuyền, thuế nhập khẩu và xuất khẩu. Sự buôn bán lúc bấy giờ tấp nập nhất là ở Quảng nam đến nỗi những người ngoại quốc tới miền Nam lúc bấy giờ đã gọi giang sơn của tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn là « nước Quảng-nam ».
Tất cả tình hình trên đây chỉ rõ cho ta thấy mực độ phát triển của kinh tế hàng hóa và kinh tế tiền tệ trong xã hội nước ta hồi thế kỷ XVII và XVIII. Tầng lớp tư sản thương mại đã lớn lên, yếu tố tư sản trong lòng kinh tế phong kiến đã mạnh và buộc ngày tập đoàn thống trị họ Trịnh phải ra lệnh xóa bỏ nhiều sở tuần ty, giảm thuế tuần ty. Ở đây, ta lại thấy những mâu thuẫn mới, đó là những mâu thuẫn giữa kinh tế tự nhiên phong kiến với kinh tế hàng hóa tức là nền kinh tế mà nền sản xuất « chuẩn bị một số điều kiện cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa »3. Chúa Trịnh phải thỏa mãn nguyện vọng của tầng lớp nhà buôn, nhưng quyền lực của chúa Trịnh lại quá yếu, do đó những luật lệ của chúa Trịnh không được thi hành triệt để. Chúa Nguyễn với chính sách thuế đánh vào nghề buôn và chính sách quan đồn điền binh dịch, khai khẩn cũng không để cho thương mại phát triển. Vì vậy mà những yếu tố tư sản bị kìm hãm càng xung đột mạnh với tính chất phân tán của chế độ phong kiến đương thời và với sự bất lực của chính quyền trung ương. Những mâu thuẫn trên đây càng tăng thêm sự rối ren trong xã hội lúc bấy giờ.
3) Phong kiến xung đột lẫn nhau, tư sản thương mại đang phát triển xung đột với phong kiến địa phương và phong kiến trung ương, những mâu thuẫn phức tạp ấy cộng
với những mâu thuẫn căn bản của xã hội phong kiến tức mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến chính là cơ sở cho những phong trào nông dân liên tiếp, dai dẳng, sâu sắc và rộng lớn trong thế kỷ thứ XVIII. Đó cũng là cơ sở cho sự phát triển của phong trào văn học mới mà trên kia chúng tôi đã giới thiệu.
Nói về chế độ phong kiến, trong « Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử », Sta-lin kết luận : « Ở đây, tài sản tư hữu tiếp tục tiến triển. Sự bóc lột cũng gần nặng nề như dưới chế độ nô lệ : nó chỉ dịu hơn một chút thôi. Đấu tranh giai cấp giữa những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột là đặc điểm chủ yếu của chế độ phong kiến ».
Trong xã hội phong kiến nước ta, hiện tượng tài sản tư hữu luôn luôn tiến triển đã được chứng thực. Dưới triều Lý (thế kỷ XI, XII), ta đã thấy nói tới việc mua bán ruộng đất, và dưới những triều đại kế tiếp, việc mua bán ruộng đất càng phát triển tùy theo sự phát triển của kinh tế hàng hóa và kinh tế tiền tệ. Trong điều kiện xã hội nước ta thế kỷ XVII và XVIII, kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển khá cao, yêu cầu có tài sản tư hữu lại càng có dịp tăng lên mạnh hơn nữa. Những tầng lớp thị dân trong các phố phường ở Kẻ chợ, phố Hiến, Quảng-nam đã có kinh doanh riêng biệt của họ ; những nhà buôn muối, buôn vỏ quế, buôn đồng có vốn riêng ; những chủ mỏ có tiền và chiếm hữu các mỏ. Sự phát triển của nền kinh tế tư hữu trong giới thủ công và giới tư sản thương mại nhất định càng thúc đẩy yêu cầu đòi quyền tài sản tư hữu trong đại đa số nhân dân tức là nông dân. Nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ càng tiến lên thì yêu cầu ấy lại
càng đặt ra cấp bách. Tập đoàn thống trị họ Trịnh, trước tình hình ấy, đã hạn chế việc cướp ruộng đất của bọn quan lại địa phương (chúa Trịnh cấm bọn quan lại lập trang trại trong địa phương mà họ thống trị), hạn chế bổng lộc của họ nhưng uy lực sút kém của chúa Trịnh không bảo đảm được cho sự thi hành các luật lệ ban ra. Trong lúc ấy thì nông dân bị nạn chiến tranh liên tiếp, bị nạn bóc lột và áp bức của phong kiến địa phương và trung ương, đã không giữ được những tài sản tư hữu sẵn có, lại không thực hiện được những yêu cầu mới của mình. Nhiều nông dân phải bỏ làng đi kiếm kế sinh nhai ở chỗ khác. Những con người sáng tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội ấy không khoanh tay chịu đựng mãi tình trạng xã hội làm cho đời sống của họ điêu đứng. Tình hình ở miền Nam cũng không khác. Tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn từ ngày mưu lập giang sơn riêng, luôn luôn muốn củng cố lực lượng phòng bị : bắt dân đi lính cho chúng, bắt dân xây thành, dựng pháo đài cho chúng. Đó là chưa kể bao nhiêu số người phải sung vào những đội đi khai thác « quan đồn điền » mới cho bọn thống trị. Những người dân ấy phần lớn là tù binh hoặc ở các làng giáp ranh giới của Trịnh – Nguyễn bị bọn chúa Nguyễn xua tới miền Nam để khai khẩn. Trong tình trạng ấy người dân khó mà có được một cuộc sống yên ổn. Sức lao động đã ít, lại không ổn định, không thể bảo đảm một mực sống tối thiểu cho dân, do đó mặc dầu bộ máy thống trị của tập đoàn chúa Nguyễn áp bức như thế nào, nhân dân miền Nam vẫn sẵn sàng nổi dậy. Đó là nói về những người dân Việt. Dân Chàm lại càng ở một trạng thái cực kỳ khổ hơn. Họ bị dồn vào những nơi rừng sâu nhưng họ
không bỏ lỡ những cơ hội có thể vùng lên chống lại bọn chúa Nguyễn.
Những nhà buôn người Việt hoặc Hoa kiều lúc bấy giờ cũng đã tiến hành kinh doanh ở nhiều nơi. Nhưng kinh doanh của họ bị bao nhiêu thứ thuế đè nặng : thuế sắt, thuế muối, thuế mắm, thuế yến sào bằng hiện vật. Bọn quan lại thu thuế của chúa Nguyễn đông vô kể ; thu được càng nhiều thuế, bọn này lại càng được hưởng nhiều lời, do đó mà nạn hà lạm cộng thêm những khoản thuế hiện vật đánh vào nghề buôn không thể làm yên lòng giới thương nhân được.
Ngoài tình trạng ấy, lại còn những nạn hỏa hoạn, nạn đại hạn, nạn chết đói. Cho nên, người nông dân Nam cũng như Bắc, trong điều kiện phát triển mới của xã hội, không những thấy cần phải đấu tranh cho quyền tư hữu tài sản của mình, đồng thời họ cũng cần thấy phải đấu tranh cho quyền sống của con người, quyền hưởng đời sống gia đình êm ấm, quyền tự do cá nhân. Họ phải tìm con đường thoát, tức là con đường khởi nghĩa. Họ càng thấy rõ hơn bọn vua quan phong kiến đương thời là kẻ thù của họ, và lễ giáo phong kiến là thứ lễ giáo đáng mỉa mai, nguyền rủa. Những tác phẩm văn học xuất hiện lúc bấy giờ và thời sau mà tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn-Du chính là bắt nguồn từ tình trạng xã hội ấy, tình trạng mà cuộc đấu tranh giữa nông dân và phong kiến diễn ra quyết liệt trong điều kiện yếu tố tư sản đã phát triển khá mạnh. Cuộc đấu tranh ấy không phải chỉ nổ ra trong những địa phương riêng lẻ rồi bị dập tắt. Điều kiện phát triển mới của xã hội đã là cơ sở cho phong trào từ chỗ riêng lẻ từng địa phương bùng ra lan rộng sang địa phương khác rồi
khắp cả miền Bắc, khắp cả miền Nam và cuối cùng suốt từ Nam đến Bắc. Phải đến thời kỳ mà yếu tố tư sản phát triển đến một mực độ nhất định, các thị trường có tính chất dân tộc đã bắt đầu thành hình, sự giao lưu từ địa phương này sang địa phương khác có những điều kiện tất yếu thì phong trào nông dân mới có thể có một tầm rộng rãi, sâu sắc như thế được. Thời kỳ ấy chính là thời kỳ thế kỷ XVIII của xã hội nước ta.
Cho nên nghiên cứu phong trào nông dân nước ta trong thế kỷ XVIII, đặc biệt là nghiên cứu phong trào Tây-sơn, theo ý chúng tôi, chúng ta không chỉ đơn thuần tìm hiểu những mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến, mà chúng ta còn cần tìm hiểu cả những mâu thuẫn phức tạp khác diễn ra trong một xã hội mà yếu tố tư sản đang lên mạnh trong toàn quốc uy hiếp thẳng vào cả hệ thống phong kiến toàn quốc chứ không phải chỉ uy hiếp một địa phương phong kiến nào đó. Thêm nữa, cũng phải nói rằng : cuộc đấu tranh ấy đã diễn ra trong điều kiện mà toàn bộ hệ thống phong kiến ở nước ta từ Bắc đến Nam đang đồng thời khủng hoảng lớn ; đại phong kiến xung đột với nhau, phong kiến trung ương xung đột với phong kiến địa phương, tập trung xung đột với phân tán và như thế diễn ra không cách nhau xa về thời gian và không gian, mà diễn ra đồng thời trong toàn quốc. Nghiên cứu phong trào nông dân nước ta trong thế kỷ XVIII, chúng tôi thấy cần chú trọng đến tính chất đồng thời và toàn quốc của cuộc khủng hoàng nội bộ phong kiến ấy.
4) Ngoài những mâu thuẫn nói trên đây, cũng cần phải kể đến những mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn phong
kiến ngoại tộc. Giữa lúc phong trào nông dân ở miền Nam đang lên mạnh thì Nguyễn-Ánh cầu cứu bọn phong kiến Xiêm đem quân vào miền Nam chống lại Tây-sơn. Tháng 3 năm 1784, vua Xiêm phái tướng Chát-Xi chỉ huy đạo thủy quân đến Hà-tiên đón Nguyễn-Ánh về Vọng-các. Sau đó 20.000 quân Xiêm huy động trên 300 chiến thuyền dưới sự điều khiển của hai tướng Chiêu-Tăng và Chiêu-Xương tiến vào miền ngày nay là Nam bộ nước ta. Cuộc nội chiến tức thời biến thành cuộc chiến tranh tự vệ chống ngoại xâm. Lại đến mấy năm sau, tình hình giống như vậy tái diễn ra ở miền Bắc. Bọn Lê Chiêu-Thống, trước sự uy hiếp của phong trào nông dân, đã rước 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị về chiếm đóng nhiều tỉnh Bắc-bộ.
Nhân dân Việt-nam sẵn có một truyền thống chống xâm lăng, trước nạn đe dọa của phong kiến ngoại tộc càng cố kết nhau lại. Những tập đoàn phong kiến thống trị ở miền Bắc và miền Nam càng lộ rõ mặt nạ bán nước của chúng. Mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể nhân dân ta và một bên là bọn phong kiến ngoại tộc càng giúp thêm đà cho làn sóng nổi dậy của nông dân từ Bắc đến Nam đang tiến lên quật đổ tập đoàn phong kiến họ Trịnh và họ Nguyễn. Nói đến phong trào nông dân nước ta hồi thế kỷ XVIII, đặc biệt là sự thắng lợi của phong trào Tây-sơn, ta không thể không nói tới những mâu thuẫn trên đây.
*
Tóm lại, trong xã hội phong kiến nước ta hồi thế kỷ XVIII, đã nổ ra những mâu thuẫn xã hội với một quy mô to lớn và với một tính chất mà từ trước đến bây giờ chưa hề có. Tức là
:
- mâu thuẫn trong nội bộ hệ thống phong kiến đồng thời trong phạm vi toàn quốc.
- mâu thuẫn giữa yếu tố tư sản thương mại đang phát triển mạnh với tính chất sản xuất phong kiến cố bám lấy sự tồn tại của nó trong phạm vi toàn quốc.
- mâu thuẫn căn bản trong lòng hệ thống phong kiến với một quy mô toàn quốc và sâu sắc : giữa nông dân đã có ý thức khá cao trong việc đòi quyền tư hữu tài sản.
- mâu thuẫn giữa đoàn thể nhân dân với phong kiến ngoại tộc can thiệp vào nội trị nước ta và nô dịch nước ta.
Đó phải chăng là cơ sở đã quyết định tính chất rộng rãi và sâu sắc của các phong trào nông dân nước ta hồi bấy giờ và đó phải chăng là cơ sở cho sự thắng lợi của phong trào Tây sơn ?
III. Nghiên cứu xã hội và phong trào nông dân nước ta hồi thế kỷ XVIII chúng ta cũng cần tìm hiểu xem những lực lượng xã hội nào đã tham gia các phong trào nông dân lúc bấy giờ. Tất nhiên lực lượng chủ yếu chỉ có thể là nông dân nhưng xét cho kỹ cũng có thể thấy thêm rằng lực lượng ấy không phải duy chỉ có nông dân tham gia mà thôi.
Nói riêng về nông dân thì ở đây, một điều rõ rệt là tham gia phong trào gồm có cả nông dân miền đồng bằng (Hải dương, Sơn-nam, Hưng-yên), miền ven bể (Quảng-yên), và miền Núi (Hưng-hóa, Tuyên-quang, Lạng-sơn), và cả miền Tây-sơn, (Bình-định) nữa.
Ngoài lực lượng nông dân ra, còn có các tầng lớp khác : tầng lớp nhà buôn, tầng lớp trí thức. Đó là chúng ta chưa có đủ tài liệu để chứng rõ tầng lớp tiểu thủ công và từng lớp nghèo ở thành thị đã tham gia phong trào trong những chừng mực như thế nào.
Riêng về tầng lớp nhà buôn thì ta thấy sự có mặt của nhiều người tiêu biểu trong đó có Nguyễn Hữu-Chỉnh. Nguyễn Hữu-Chỉnh xuất thân ở một gia đình buôn nước mắm miền Bắc Trung bộ ngày nay, rồi vì chống với chúa Trịnh, đã tích cực giúp Tây-sơn khi kéo quân ra Bắc. Phong trào Nguyễn Hữu-Cầu ở miền Quảng-yên rồi kế tiếp đó là các phong trào Thục-Toại, phong trào Thiêm-Liêm cũng ở miền ven bể chỉ cho ta thấy lực lượng bạo động, ngoài những nông dân đánh cá, còn có thể có những tầng lớp nhà buôn trên các ghe thuyền vẫn vào ra ở cửa bể Vân-đồn. Ngay đến giòng giõi anh em Tây-sơn cũng còn là vấn đề chúng ta cần nghiên cứu thêm nữa. Phải chăng họ xuất thân trong một gia đình nông dân ? Tài liệu sau này của Jean Chesnaux (Giăng Sê-Nô) trong « Góp vào lịch sử dân tộc Việt-nam » (Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne) do Editions sociales ở Pa-ri xuất bản năm 1955 rất đáng cho chúng ta chú ý :
« Theo tài liệu về giòng giõi Tây-sơn mà các cố đạo hoặc nhà du lịch người Anh tên là Barrow (đã đến thăm Quốc gia Tây-sơn năm 1793) thì Nhạc là một nhà buôn giàu có trước khi ông ta xung chức giữ kho trong tỉnh của ông ta và trước khi (theo những nguồn tài liệu thiên về chúa Nguyễn) ông ta bị cách chức vì tiêu tiền quĩ. Người ta còn kể rằng ba anh em Tây-sơn xuất thân trong một gia đình buôn cau. Bọn nhà
buôn giàu có ở Qui-nhơn, như Nguyễn-Thông cũng được coi như là những người đã trợ cấp cho phong trào ngay từ lúc đầu... ».
Thợ mỏ có lẽ cũng đã tham gia khá nhiều phong trào chẳng hạn như phong trào Hoàng Văn-Đồng, người quản lĩnh mỏ Tụ-long (Tuyên-quang) hoặc những phong trào chống thuế trong những mỏ mà chủ là Hoa kiều ở phía bắc.
Tiêu biểu cho tầng lớp trí thức đương thời là người đã cầm đầu phong trào nông dân miền Quảng-yên trong suốt 28 năm. Đó là Nguyễn Hữu-Cầu, người đã tự xưng là « Đông Đạo thống thống quốc bảo dân đại tướng quân ». Chủ trương của Nguyễn Hữu-Cầu là đem quân đến đâu thì đều lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Viên đại tướng quân tự nhận mình và phong trào mình lãnh đạo là bảo vệ dân (bảo dân) có thể gợi cho ta thấy sự xuất hiện một tư tưởng mới trong xã hội đương thời, đó là tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng. Ngày nay, chúng ta chưa có đủ tài liệu để đi sâu vào các phong trào nông dân thời bấy giờ, đặc biệt như phong trào Nguyễn Hữu-Cầu hoặc phong trào Tây-Sơn, song những bài thơ và những bài hịch của lãnh tụ các phong trào này đã chỉ rõ tính chất nhân dân của các phong trào nói trên.
Còn về những tầng lớp phong kiến thất thế đã tham gia phong trào nông dân mưu lợi dụng nông dân để khôi phục địa vị của mình như phong trào Lê Duy-Mật thì đó cũng là điều dễ hiểu. Tóm lại, vấn đề những lực lượng đã tham gia các phong trào nông dân ở nước ta hồi thế kỷ XVIII cũng cần đặt ra và cần giải quyết. Vì đó là những vấn đề sẽ giúp chúng ta nhận thức chính xác hơn xã hội đương thời và cả tính chất
của những cuộc bạo động to lớn nổ ra hồi bấy giờ. Ở đây chúng tôi thấy chưa có thể kết luận được và những tài liệu tên đây chỉ mong góp vào việc gợi thêm để chúng ta cùng nhau nghiên cứu mà thôi.
*
IV. Những cuộc nông dân bạo động ở bất cứ nước nào cũng vậy không thể sâu rộng được nếu lực lượng bạo động chỉ có đơn thuần là nông dân. Phải có sức ủng hộ và sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân khác nữa thì phong trào nông dân mới có thể duy trì lâu dài được. Trong các cuộc nông dân bạo động ở miền Bắc đầu thế kỷ XVIII, có những cuộc bạo động đã kéo dài hàng hai chục năm, ba chục năm và hơn nữa. Đó là những phong trào quy mô chưa thể ví được với phong trào Tây-sơn. Phong trào Tây-sơn đã vùng lên đoạt hết đại thắng này đến đại thắng khác, và cuối cùng đã quật đổ cả hai tập đoàn phong kiến, họ Trịnh và họ Nguyễn, tiêu diệt quân Xiêm can thiệp và quân Mãn Thanh xâm lược, làm chủ đất nước từ Nam đến Bắc. Muốn hiểu vì sao lại có được thắng lợi ấy, theo ý chúng tôi không thể chỉ hiểu riêng có tài của Nguyễn-Huệ, cũng không thể chỉ tìm xem tình trạng suy yếu của Trịnh, Nguyễn như thế nào, mà cần phải nghiên cứu cơ sở của thắng lợi vĩ đại ấy trong lịch sử. Phong trào nông dân rộng lớn hồi thế kỷ XVIII lại đi song song với sự xuất hiện những mầm mống của một luồng tư tưởng mới, đó là tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa. Không thể chỉ giải thích sự xuất hiện những tác phẩm văn học chứa đựng một nội dung tư tưởng nhân đạo lần đầu tiên trong lịch sử nước ta qua tài liệu của các tác giả. Vấn đề căn bản là phải
tìm hiểu những nguyên nhân xã hội gốc rễ của tư tưởng những tác phẩm ấy.
Những nguyên nhân xã hội gốc rễ ấy phải xét trong trạng thái phát triển của nền sản xuất xã hội đương thời, phải xét trong quan hệ giai cấp đương thời, trong những nhân tố mới. Bài này mới chỉ là gợi vấn đề. Còn giải quyết cụ thể như thế nào chúng ta cần cùng nhau nghiên cứu sâu hơn nữa.
MINH-TRANH
ĐÁNH GIÁ CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN VÀ VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN-HUỆ
của TRẦN HUY-LIỆU
TỪ khi cách mạng Việt-nam dưới quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, ánh sáng của chủ nghĩa Mác cũng bắt đầu chiếu vào khoa học lịch sử Việt-nam. Một sự kiện lịch sử được nhiều nhà nghiên cứu sử học cho đến các huấn luyện viên trong các lớp huấn luyện cán bộ, các giáo sư dạy ở các trường chú ý khai thác, phát triển..., đó là cuộc Cách mạng Tây-sơn. Không kể những sử gia bồi bút cho phong kiến nhà Nguyễn trước kia đã gọi Tây-sơn là « giặc », ngay đến Trần Trọng-Kim, tác giả quyển Việt-nam sử lược cũng chỉ đánh giá Tây-sơn được một câu tương đối tiến bộ là : « lấy công lý mà suy thì ông Nguyễn-Huệ là một ông vua cũng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Thái-Tổ mà nhà Tây-sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và Lê vậy ». Quan niệm của Trần Trọng-Kim có chỗ thoát là biết suy theo « công lý » một phần nào để đặt lại địa vị của Nguyễn-Huệ và Tây-sơn ; nhưng cái « công lý » của nhà sử học duy tâm và đứng trên lập trường phong kiến ấy, cũng như bao nhiêu sử gia khác, làm thế nào thấy được cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện ra trong sự kiện lịch sử lớn lao ấy, làm thế nào nhận được chính nghĩa và khí thế mãnh liệt của những người nông dân lao động vươn mình lên làm đổ vỡ cả cơ đồ phong kiến và đánh bại quân ngoại xâm thất điên bát đảo đã biểu hiện trong cuộc cách mạng Tây-sơn ấy.
Trái lại, một số người khác đã thấy Nguyễn-Huệ ở trong cuộc nông dân đấu tranh chống phong kiến, chống ngoại xâm, nhưng về tài liệu, đã không chịu tìm tòi nghiên cứu cẩn thận để tìm ra sự thật lịch sử ; về quan điểm, lại buộc Nguyễn-Huệ phải thoát hẳn ra ngoài khuôn sáo phong kiến và làm cái việc cải cách ruộng đất như chúng ta đương làm bây giờ. Quan điểm này tự nhận là duy vật, mà thực ra là duy tâm, vì nó đã không căn cứ vào điều kiện thực tế của lịch sử : sức sản xuất, giai cấp lãnh đạo cách mạng để nhận rõ bước tiến triển của lịch sử. Thật thế, có người đã nói dựng đứng lên rằng Tây-sơn đã chia ruộng đất cho dân cày ; có người lại trách Nguyễn-Huệ từ áo vải khoác áo hoàng bào, nhập tịch vào làng phong kiến. Nếu Nguyễn-Huệ còn sống chắc sẽ phải vái dài mà nói với những người ấy rằng : các ngài yêu tôi lắm, săn sóc đến tôi lắm, nhưng thật ra chưa biết rõ tôi, yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau !
Biên tập số đặc san này, chúng tôi cố gắng sưu tầm những tài liệu về lịch sử cách mạng Tây-sơn. Một điểm đáng ghi là : những tài liệu về Tây-sơn phần nhiều bị bọn phong kiến nhà Nguyễn sau này tiêu hủy đi, hòng làm cho ảnh hưởng của Tây-sơn không được lan rộng và truyền lại đời sau. Tuy vậy, với những tài liệu hiện có, chúng ta vẫn có thể phân tích, tổng hợp để mong vươn lên một nhận thức đúng. Nhận thức đúng nghĩa là thấy rõ bước tiến triển của xã hội Việt-nam bấy giờ, đặt cuộc Cách mạng Tây-sơn và Nguyễn
Huệ vào đúng vị trí lịch sử của nó.
CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN ĐÃ NỔ RA TRONG ĐIỀU
KIỆN LỊCH SỬ NÀO ?
Trong một bài trên đây, đồng chí Minh-Tranh đã nhận định xã hội Việt-nam trong thế kỷ 18 và những phong trào nông dân khởi nghĩa. Về kinh tế thì kinh tế hàng hóa, kinh tế tiền tệ đã phát triển, thị trường dân tộc đã xuất hiện, yếu tố tư sản, nói rõ hơn là yếu tố tư sản thương mại đương làm rung chuyển cả hệ thống phong kiến toàn quốc. Về chính trị và xã hội, thì, cuộc chiến tranh liên miên giữa phong kiến trung ương với các phong kiến địa phương, giữa các tập đoàn phong kiến như Lê-Trịnh, Trịnh-Mạc, Trịnh-Nguyễn từ hơn hai trăm năm đã làm cho lực lượng phong kiến ngày càng suy nhược. Nhất là cuộc khởi nghĩa liên tiếp của nông dân đã đánh dấu một mực độ mâu thuẫn cực kỳ sâu sắc giữa giai cấp nông dân với giai cấp thống trị hồi ấy ; nhiều lần sức quật khởi của nông dân đã làm lung lay cả triều đình phong kiến. Chúng ta có thể nói rằng : xã hội Việt-nam trong thời kỳ Tây-sơn khởi nghĩa, những mâu thuẫn xã hội chứa chất, bành trướng, xung đột nhau đã lên tới cao độ để nổ ra một cái gì kinh thiên động địa làm thay đổi cả cục diện trong nước.
Nhận định về giai đoạn lịch sử này, từ trước nhiều sử gia có những quan niệm khác nhau vì lập trường khác nhau. Tác giả quyển « Việt-nam lịch sử giáo trình » thì cho rằng : « Sự sụp đổ của họ Nguyễn ở Đường trong và của họ Trịnh, họ Lê ở Đường ngoài là cuộc qui kết của lịch trình suy đốn của xã hội Việt-nam bắt đầu từ cuộc soán đoạt của họ Mạc »4và « cuộc khởi nghĩa Tây-sơn xuất hiện vào giữa lúc ở Đường trong cũng như Đường ngoài, dân tộc ta đi đến chỗ suy đốn
hết sức »5hay « …đương khi dân tộc ta suy đồi, đốn tỏa đến cùng ! »6. Sự thực thì cái mà tác giả Việt-nam lịch sử giáo trình cho là suy đốn, là suy đồi, là đốn tỏa hết sức ấy là những suy đốn, suy đồi, đốn tỏa của hệ thống phong kiến, chớ đâu phải là của dân tộc Việt-nam ? Đành rằng : trong một thời kỳ toàn thịnh nào đó, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhân dân chưa đi đến sâu sắc hay trước nạn ngoại xâm đe dọa, bọn thống trị biết dựa vào nhân dân để chống giặc giữ nước thì giai cấp thống trị bấy giờ được coi là đại biểu của dân tộc. Nhưng một khi giai cấp thống trị đã chia rẽ, suy đốn, trở nên hoàn toàn phản động trước nhân dân, thì, trên bước đường tiến triển của dân tộc, sức phản động ấy phải bị đánh lùi xuống để cho dân tộc tiến lên. Điểm lại, dân tộc Việt-nam cũng như xã hội Việt-nam hồi ấy chẳng những không suy đốn, mà lại đương tiến bộ gấp rút về mọi phương diện : kinh tế tư sản thương mại phát triển, phong trào đấu tranh chống phong kiến thống trị của nông dân sôi nổi, chữ nôm có một địa vị trong văn học Việt-nam. Những yếu tố ấy chẳng những làm nổ ra cuộc Cách mạng Tây-sơn, thống nhất đất nước, mà còn đẩy mạnh sự thành hình của dân tộc Việt nam trong khi hệ thống phong kiến đương tan rã, chủ nghĩa tư bản đương phát sinh và phát triển. Nếu không nhận thấy bước tiến bộ gấp rút của thời đại thì sẽ cũng không thấy được nét vĩ đại của cuộc Cách mạng Tây-sơn.
Tuy vậy, nhận định về giai đoạn lịch sử này, còn mấy điểm nữa mà chúng ta phải đi sâu hơn mới mong giải quyết dứt khoát được vấn đề là lực lượng của tư bản thương mại và tính chất của phong trào nông dân hồi ấy. Một vài người đã
dẫn ra Nguyễn Hữu-Chỉnh, xuất thân trong một gia đình phú thương, và Huyền-khê, một tay giàu lớn ở Qui-nhơn đã giúp Tây-sơn về tài chính để mộ thêm quân, sắm thêm khí giới để đi đến kết luận là « giai cấp phú thương liên minh với nông dân để hành động »7. Ở đây, chúng ta còn phải tìm tài liệu thêm để nghiên cứu được kỹ hơn. Một điểm mà chúng ta phải có một nhận định dứt khoát là : nhìn vào vai trò lãnh đạo của mỗi phong trào, chúng ta không nên chỉ nhìn vào thành phần của một vài người tham gia lãnh đạo rồi đoán định tính chất và đường lối của phong trào, mà điều căn bản là phải nhìn vào động lực chính của phong trào và ý thức hệ của những người lãnh đạo ; đi sâu hơn nữa, là phải căn cứ vào tình hình kinh tế và xã hội hiện tại để biết nhu cầu của cách mạng và tính chất của cách mạng. Lấy một ví dụ : từ trước, những phong trào nông dân ở nước ta, những phần tử lãnh đạo cũng có đủ cả thổ hào, trí thức... hay một cuộc cách mạng nông dân to lớn ở Trung-quốc là Thái-bình-thiên-quốc thì thành phần lãnh đạo lại là trí thức, thương nhân. Có điều là bất cứ ở tầng lớp nào, họ về căn bản vẫn nằm trong ý thức hệ phong kiến nên đường lối của họ vẫn là đường lối phong kiến. Chỉ khi nào một giai cấp mới đã thành hình với ý thức hệ của nó mà họ là đại biểu thì sự có mặt của họ trong việc lãnh đạo phong trào mới làm chuyển biến đường lối cũ, để theo một đường lối mới.
Theo chỗ tôi nhận, thì xã hội Việt-nam trong thế kỷ thứ 18 mặc dầu kinh tế hàng hóa đã phát triển tới một mực nào, nhưng tầng lớp thương nhân chưa đủ thành một giai cấp với ý thức chính trị của nó.
Tại thế giới lúc ấy, tư bản chủ nghĩa đương phát triển và nổ ra những cuộc cách mạng tư sản ở Âu châu, cùng với cuộc giao lưu của tư bản thương mại từ Âu-châu tỏa đi các nơi, thế tất có ảnh hưởng một phần nào vào xã hội Việt-nam trong khi kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển. Nhưng những mâu thuẫn chứa chấp trong xã hội bấy giờ, mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến vẫn là chính. Do đó, động lực chính của cuộc Tây-sơn khởi nghĩa vẫn là nông dân. Tây-sơn khởi nghĩa là điểm cao chót của phong trào nông dân sau Nguyễn Cừ, Nguyễn-Tuyển, Nguyễn Danh-Phương, Nguyễn Hữu-Cầu v.v... và người lãnh đạo của nó mặc dầu chống phong kiến, nhưng vẫn thuộc ý thức hệ phong kiến. Nó có khác với những cuộc khởi nghĩa trước là nó nổ ra vào lúc hệ thống phong kiến đang tan rã và mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến đương gay gắt nhất nên lan ra rất nhanh và rất gọn. Nhưng nhận thức phong trào nông dân hồi đó phải thế nào cho đúng ? Cũng trong mục « nông dân bạo động », tác giả quyển Việt-nam lịch sử giáo trình, sau khi đã nhắc đến những « giặc Ninh-xá », « giặc Ngân-già » v.v..., rồi đi đến kết luận : « những thủ lãnh thì phần nhiều là nông dân đều là những người dã tâm, chỉ muốn thừa cơ để lập công danh, mà những người nghèo khổ đi theo thì cũng chỉ lấy những sự cướp bóc làm thỏa mãn ». Sự thực có như thế không ? Trước hết, chúng ta phải nhận rằng : sự mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến là một hiện thực thường xuyên. Sự mâu thuẫn ấy nhịp nhàng tới một mức độ nào đó thì nổ ra cuộc cách mạng nông dân. Không ai chối cãi rằng : từ trước, những kẻ cầm đầu nông dân đều đứng trước hai kết quả « được làm vua,
thua làm giặc ». Nhưng mỗi lần vùng dậy của nông dân đều làm cho bọn phong kiến thống trị phải thay đổi ít nhiều chính sách và thúc đẩy cho sức sản xuất tiến lên. Người nông dân trong thời đại phong kiến tham gia các cuộc khởi nghĩa cố nhiên chưa thể có một ý thức rõ rệt là đánh đổ một chế độ này để thay vào một chế độ khác ; nhưng ít ra họ căm thù và kiên quyết chống đối với những kẻ nào, những chính lệnh nào đã trực tiếp áp bức họ và mong có những nhà cầm quyền khác với chính lệnh khác dễ chịu hơn. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn-Huệ, Nguyễn-Nhạc cũng như của Nguyễn Hữu-Cầu hay bao nhiêu cuộc nông dân khởi nghĩa khác có những việc « lấy của nhà giầu cho nhà nghèo » thì đều được nhận là « nghĩa cử », vì nó là chính nghĩa, là công bằng, là hợp lý. Tại sao bọn phong kiến bóc lột nông dân đến cùng cực thì sự bóc lột đó được coi là « hợp pháp », còn việc nghĩa cử như lấy của nhà giầu (của bóc lột) cho người nghèo (người bị bóc lột) thì lại cho đó là « cướp bóc » ? Chúng ta không thể đòi ở những người nông dân dưới thời đại phong kiến một ý thức giai cấp, một đường lối chính trị như người nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Nhưng chúng ta cũng không thể nhận định những phong trào nông dân trước kia chỉ là những cuộc cướp bóc và làm đà cho bọn thủ lĩnh có dã tâm nhẩy lên ngai vàng. Nếu quan niệm lệch lạc như vậy thì sẽ không đánh giá được đúng những cuộc quật khởi của nông dân thất bại hay thành công và sẽ cho những cuộc nổi dậy ấy là không nghĩa lý gì cả. Chẳng thế mà trong một tập bản thảo lưu hành giữa một số nhà nghiên cứu sử Việt-nam, một ông bạn tôi cũng đã viết : « Quang-Trung không làm cách
mạng. Nông dân theo Quang-Trung cũng không thành một đội quân cách mạng. Họ chỉ giúp một người, một họ bước lên ngôi báu. Cuộc khởi nghĩa của Tây-sơn không phải là một cuộc nông dân cách mạng. Nó chỉ là một việc chiếm ngôi, cướp quyền, một cuộc khuynh đảo chính quyền đương có để thay vào một chính quyền với hình thức và ý thức như xưa ». Cái ý nghĩa cách mạng mà tác giả nói đây tất nhiên là đánh đổ chế độ cũ để thay vào một chế độ mới tốt đẹp hơn. Chỉ vì thấy Quang-Trung trở lại làm vua nên tác giả đã phủ nhận cả giá trị vĩ đại của phong trào nông dân, mà chỉ cho là một việc chiếm ngôi, cướp quyền, một cuộc khuynh đảo chính quyền đương có thể thay vào một chính quyền khác với hình thức và ý thức như xưa. Trong số tập san này, các bạn đọc sẽ thấy những ảnh hưởng và thành tích cụ thể của cuộc Tây-sơn khởi nghĩa về mọi phương diện chính trị, quân sự, văn học thế nào. Ở đây, chúng tôi chỉ đề nghị xét lại nhận thức kể trên. Cố nhiên chúng ta không thể thỏa mãn và cũng không thể đòi hỏi một cuộc cách mạng nổ ra ở Việt-nam vào thế kỷ thứ 18 đã hoàn thành được cái sứ mạng của lịch sử là đánh đổ chế độ xã hội này để thay vào một chế độ xã hội khác nếu chúng ta nhìn rõ tình hình giai cấp và tương quan giữa các giai cấp bấy giờ. Nông dân căm thù phong kiến và luôn luôn nổi dậy chống đối với phong kiến, nhưng nông dân không thể tự mình lãnh đạo để chuyển sang một chế độ khác được. Chỉ có giai cấp tư sản, nếu có, lãnh đạo nhân dân nói chung, và nông dân nói riêng, làm cách mạng đánh đổ phong kiến, theo kiểu cách mạng tư sản dân chủ 1789 ở Pháp, thì mới có thể thay đổi chế độ phong kiến bằng chế độ tư sản. Nhưng sự
thực, xã hội Việt-nam trong thế kỷ 18 chưa phải như xã hội nước Pháp thời bấy giờ, kinh tế tư sản chưa có cơ sở để dựng lên một chế độ xã hội mới, giai cấp tư sản chưa thành hình để đóng vai trò lãnh đạo cách mạng đánh đổ phong kiến. Những thủ lĩnh của phong trào nông dân hồi ấy, ngoài thành phần nông dân ra, cũng trộn lộn cả trí thức, thương nhân, hoàng tộc v.v..., họ có nhân danh nông dân để nổi dậy chống bọn thống trị hay không không kể, nhưng động lực của nó vẫn là nông dân. Họ có thể làm mưa làm bão được đến mực độ nào cũng vẫn là do lực lượng của nông dân. Nguyễn-Huệ là một nông dân ở ấp Tây-sơn hay một tài liệu nào đó lại chứng minh Nguyễn-Huệ xuất thân trong một gia đình thương nhân thì phong trào Tây-sơn cũng vẫn là phong trào nông dân và là tuyệt đỉnh của các phong trào nông dân trong thế kỷ 18. Nếu đã nhận rõ bối cảnh lịch sử bấy giờ là như thế thì chúng ta sẽ không lấy làm lạ Nguyễn-Huệ đánh đổ Lê, Trịnh, Nguyễn rồi lại làm Hoàng đế và trào đại Tây-sơn vẫn nằm trong chế độ phong kiến. Ông bạn Nguyễn Bách-Khoa trong mục « Tây-sơn khởi nghĩa » trong quyển « tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công-Trứ » đã bảo bọn thủ lĩnh không thi hành sự phân chia ruộng đất là nhiệm vụ chủ yếu của mỗi cuộc cách mạng nông dân. Nhưng ông không nghĩ đến vai trò của giai cấp lãnh đạo cách mạng ; ngay cả đến việc chia ruộng đất cho nông dân cũng không phải nhiệm-vụ của một cuộc cách-mạng nông-dân. Buộc cuộc khởi nghĩa Tây-sơn phải làm cái nhiệm vụ cách mạng tư sản dân chủ, trong đó có vấn đề chia ruộng đất cho nông dân, là không nhìn rõ bối cảnh lịch sử, là không thấy bước đi của lịch sử.
Bên những mâu thuẫn nội tại trong thời kỳ Tây-sơn khởi nghĩa đã nói ở trên, còn một mâu thuẫn nữa là mâu thuẫn dân tộc, giữa nước Việt-nam bé nhỏ với giai cấp phong kiến thống trị ở Trung-quốc bấy giờ. Như chúng ta đã thấy, cuộc Tây-sơn khởi nghĩa nổ ra giữa mấy mâu thuẫn xã hội Việt nam đương gay gắt, mà mâu thuẫn chính là giữa nông dân với phong kiến. Nhưng sau khi đánh ngả các tập đoàn phong kiến trong nước rồi thì một mâu thuẫn khác nổi lên bao trùm
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt-nam mà nông dân là lực lượng chính, do Tây-sơn lãnh đạo với sức ngoại xâm và tôi tớ của chúng là bọn phong kiến bán nước. Đến đây, cuộc Tây sơn khởi nghĩa chẳng những là một lực lượng chống phong kiến, mà còn là một lực lượng cứu quốc. Bên màu sắc giai cấp của nó nổi bật lên màu sắc dân tộc, mặc dầu thực chất của nó vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp. Cũng do đó, giá trị của cuộc Cách mạng Tây-sơn được đề cao lên một bậc mà Nguyễn-Huệ từ một thủ lĩnh phong trào nông dân trở nên một đại anh hùng của dân tộc.
Thành bại của Tây-sơn8
Sau khi đã nhận rõ những mâu thuẫn xã hội ở nước ta trong thế kỷ thứ 18, chúng ta có thể nắm chắc được những điều kiện thành công của cuộc Cách mạng Tây-sơn. Cũng sau khi nhận rõ những điều kiện hạn chế của lịch sử, chúng ta càng không ngạc nhiên về kết quả thất bại của Cách mạng Tây-sơn.
Từ một lực lượng nông dân dâng lên cao độ, những lãnh tụ Tây-sơn chỉ trong một thời gian ngắn đã đánh đổ những
tập đoàn phong kiến ở miền Nam cũng như miền Bắc. Lực lượng nông dân mà chúng ta nói đây chẳng phải chỉ thấy ở đội quân trung kiên của nó tại ấp Tây-sơn và xung quanh là hạt Bình-định ; chúng ta phải thấy nó ở khắp trong nước và cả một quá trình đấu tranh từ trước. Song song với lực lượng dâng lên của nông dân là sự chia rẽ, suy đồi của giai cấp phong kiến. Có người hỏi sao Nguyễn-Cừ, Nguyễn-Tuyển, Nguyễn Danh-Phương, Nguyễn Hữu-Cầu v.v... không thành công mà Tây-sơn lại thành công ? Chúng ta có thể trả lời gọn gàng rằng : Nguyễn-Cừ, Nguyễn-Tuyển, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu-Cầu chưa thành công là vì lúc ấy lực lượng nông dân nói chung chưa tập trung đến cao độ và các tập đoàn phong kiến mặc dầu chia rẽ, chiến tranh lẫn nhau, nhưng chưa phải đã đến mức độ suy đồi và gay gắt nhất. Nói như thế không phải tách rời những phong trào nông dân từ trước với cuộc Tây-sơn khởi nghĩa, mà nó là cả một quá trình liên tục có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng trước những tập đoàn phong kiến đương nắm chính quyền từ Nam đến Bắc nếu lực lượng nông dân không liên kết được với những tầng lớp khác trong nhân dân thì chưa phải đã thành công được dễ dàng và mau chóng. Cuộc Tây-sơn khởi nghĩa, như chúng ta đã biết, không bị cô độc. Nó có sức ủng hộ trực tiếp của thương dân, của phú hào, của trí thức, của dân tộc thiểu số và cả của Hoa kiều. Nó còn có sức dự trữ ở toàn quốc là lực lượng nông dân và đám nho sĩ bất mãn với bọn phong kiến thống trị đương thời. Nguyễn Hữu-Chỉnh từ Bắc vào Nam đã báo cáo cho Tây-sơn biết « tình hình Bắc-hà » và « nhân tâm Bắc-hà ». Tình hình và nhân tâm Bắc-hà mà Nguyễn
Hữu-Chỉnh nói đây tất nhiên là sự chia rẽ, suy đồi của bọn thống trị và nỗi oán giận của nhân dân, trong đó có cả đám nho sĩ bất đắc chí. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng : cuộc thắng lợi mau chóng của Tây-sơn cũng như tài bách chiến bách thắng của Nguyễn-Huệ do ở thao lược quân sự một phần, nhưng căn bản vẫn là điều kiện chính trị. Nếu không có sự oán ghét của nhân dân đối với bọn phong kiến Nam Bắc, hoặc ủng hộ nghĩa quân, hoặc làm thất bại đối phương, hoặc chỉ ít mang thái độ trung lập thì không thể nổi bật lên vị anh hùng Nguyễn-Huệ và thắng lợi vĩ đại của Tây
sơn !...
Nhưng cái chỗ mà chúng ta chú ý là công cuộc kiến thiết của Tây-sơn. Từ một lực lượng nông dân nổi lên chấp chính, nó đã có những gì khác với những triều đại phong kiến khác ? Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy bộ máy thống trị của Tây
sơn vẫn đặt trên cơ sở phong kiến và người phục vụ cho nó vẫn là những thành phần phong kiến. Chúng ta cũng không đòi triều chính Tây-sơn phải giải quyết vấn đề cơ bản là chia ruộng đất cho dân cày một khi chúng ta đã nhận rõ điều kiện lịch sử và giai cấp lãnh đạo cách mạng lúc ấy. Tuy vậy, dưới triều đại Tây-sơn, một triều đại mới nổi lên từ phong trào nông dân và trong thời đại tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở thế giới, vẫn có những đặc điểm tiến bộ của nó.
Đặc điểm thứ nhất là chính sách tăng gia sản xuất bằng cách bắt buộc mọi người ở nông thôn phải chăm lo nông nghiệp, cày cấy những ruộng công và ruộng tư bỏ hoang, cho nhân dân lưu vong được có phần ruộng đất cày cấy và đánh lại thuế ruộng cho công bằng hơn.
Đặc điểm thứ hai là chấn hưng công thương nghiệp bằng cách miễn thuế điệu9cho nhân dân miền Bắc mở rộng việc buôn bán với Trung-quốc10và các nhà buôn phương Tây.
Đặc điểm thứ ba là chú ý xây dựng một nền văn học dân tộc bằng việc phổ biến chữ nôm dùng chữ nôm vào việc thi cử và những văn kiện chính thức của nhà nước và phiên dịch những kinh truyện chữ Hán ra chữ nôm.
Mấy việc trên đây, mặc dầu chưa giải quyết triệt để, nhưng đã đáp ứng được một phần nhu cầu cấp thiết của nhân dân trong khi dân cày thiếu ruộng, dân buôn cần mở rộng thị trường, văn học dân tộc và nhân dân cần được phát triển.
Sau khi đã đạp đổ những tập đoàn phong kiến cả cũ lẫn mới, Nguyễn-Huệ còn đưa sự nghiệp Tây-sơn lên đến tuyệt đích của nó là phá tan quân ngoại xâm Mãn-thanh và tôi tớ của chúng là bọn phong kiến nhà Lê, làm cho tổ quốc được độc lập và thống nhất. Một điểm đáng ghi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta từ mấy nghìn năm rằng đây là một trận đại thắng chẳng những chấm dứt cuộc xâm lược của phong kiến Mãn-thanh, mà còn chấm dứt luôn cả cuộc xâm lược trường kỳ của phong kiến Trung-quốc, kẻ thù của nhân dân Việt-nam cũng như nhân dân Trung-quốc. Ở đây chúng tôi còn muốn nhấn mạnh vào vai trò lịch sử của Nguyễn-Huệ. Nếu chúng ta đã nhận thấy những điều kiện thời cơ và nhân hòa đẩy cho cuộc Tây-sơn khởi nghĩa đến thắng lợi, chúng ta cũng cần nhận thấy vai trò quyết định của nó là Nguyễn-Huệ. Thật thế, với tinh thần quả cảm và hành binh thần tốc, vị anh hùng bách chiến bách thắng Nguyễn-Huệ đã đập tan cơ đồ
của họ Nguyễn ở phương Nam, chúa Trịnh ở ngoài Bắc, đã tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm và 20 vạn quân Mãn-thanh ngoại xâm. Ở Nguyễn-Huệ, chúng ta thấy tiêu biểu cho một tinh thần quật khởi của nông dân và tinh thần bất khuất của dân tộc. Đọc lịch sử Nguyễn-Huệ là đọc lịch sử Tây-sơn khởi nghĩa, lịch sử chống phong kiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt-nam nửa cuối thế kỷ 18. Chúng ta chẳng những thấy Nguyễn-Huệ ở bài thơ khóc chồng của Ngọc-Hân công chúa, chúng ta còn thấy Nguyễn-Huệ ở lời bịa đặt của bọn sử thần trào Nguyễn khi nói về cái chết của Nguyễn Huệ. Quyển Nam sử liệt truyện khảo cứu của Lê Thúc-Thông đã viết : « năm Nhâm-tý tháng 7, Nguyễn-Huệ đang ngồi, thấy ông lão đầu trắng ở trên không xuống, mắng rằng sao mày phá hoại lăng tẩm ta, rồi lấy gậy đập vào trán Nguyễn-Huệ. Do đó Nguyễn-Huệ cảm bệnh chết… » Thì ra, bọn cha con vua tôi Nguyễn-Ánh đã rước quân Xiêm, quân Pháp về giày xéo đất nước vẫn không làm gì được Nguyễn-Huệ khi còn sống, chúng phải đợi sau khi Nguyễn-Huệ chết, mới cần đến một vị thần tưởng tượng để bịa chuyện trả thù một cách hèn nhát…
Cũng cần nói thêm rằng Nguyễn-Huệ sở dĩ làm nên được sự nghiệp lớn lao với tài bách chiến bách thắng ấy, chính vì ông đã biết đem tài sức hướng theo ý chí của nhân dân. Trái lại, nếu tài sức ấy đi ngược với ý chí của nhân dân thì nhất định bị thất bại. Mà ý chí của nhân dân đây là sự căm thù của giai cấp, của dân tộc đối với bọn phong kiến bán nước và giặc ngoại xâm, là nguyện vọng tha thiết của mọi người đối với nền độc lập và thống nhất đất nước, là sức chống chọi ngày càng mãnh liệt giữa những mâu thuẫn xã hội : nông dân với
phong kiến, kinh tế hàng hóa với hệ thống phong kiến. Hoặc có ý thức hoặc chưa có ý thức, Nguyễn-Huệ đã vận dụng được ý chí chung của toàn dân, điều kiện thuận lợi của lịch sử để làm thay đổi thời cục, đem lại kết quả vĩ đại.
*
Nhưng rồi Nguyễn-Huệ chết, Tây-sơn cũng thất bại trước cuộc phản công của phong kiến nhà Nguyễn, có tư bản Pháp giúp sức. Như chúng ta đã thấy, mặc dầu từ phong trào nông dân nổi dậy, vì điều kiện lịch sử, Tây-sơn vẫn không thoát được ra ngoài chế độ phong kiến. Đã không dựa được vào nông dân, lại bị phong kiến phản động cấu kết với tư bản ngoại xâm chống lại, cuộc cách mạng Tây-sơn bị thất bại cũng là một bước tất nhiên của lịch sử.
So sánh Thái-bình-thiên-quốc với Tây-sơn
Để có một nhận thức cho đúng cuộc cách mạng Tây-sơn mà có người đã ví như cuộc cách mạng Thái-bình thiên-quốc ở Trung-quốc, chúng tôi đem so sánh hai cuộc cách mạng này những điểm giống nhau và khác nhau, Trước hết, nó giống nhau ở chỗ cả hai đều là cuộc nổi dậy của nông dân và là đỉnh cao chót của phong trào nông dân kế tiếp từ trước. Cuộc vận động của Thái-bình-thiên-quốc (1850-1864) phát sinh do ở chính quyền chuyên chế của phong kiến Mãn thanh, cộng với sự xâm nhập của tư bản ngoại quốc đã đàn áp và bóc lột nhân dân Trung-quốc, nhất là nông dân, chèn ép tư bản dân tộc nên ý nghĩa của nó không những chống phong kiến, mà còn giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng Tây-sơn (1771-1802) nổ ra, bên chỗ đã đánh đổ các tập
đoàn phong kiến, còn đánh tan quân ngoại xâm để đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước. Những người lãnh đạo của Thái-bình-thiên-quốc là những phần tử trí thức (Hồng Tú Toàn, Phùng Văn-Sơn, Trần Nhật-Cương) và phú nông (Thạch Đạt-Khai), thương nhân (Vi Xương-Huy), nhưng giai cấp cơ bản tham gia cách mạng là nông dân. Những người lãnh đạo của Tây-sơn là trung, phú nông (Nguyễn-Huệ, Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Lữ) và có cả thổ hào (Nguyễn-Thung), trí thức (Huyền-Khê) giúp sức, nhưng giai cấp cơ bản vẫn là nông dân lao động. Quân Thái-bình đi đến đâu đốt văn tự ruộng đất và văn tự vay nợ đến đấy. Quân Tây-sơn đi đến đâu đem tài sản lấy được của bọn thống trị phân phối cho các gia đình nông dân.
Trở lên trên là những điểm giống nhau hay gần giống nhau của hai phong trào cách mạng. Nhưng về vấn đề ruộng đất thì chủ trương của Thái-bình-thiên-quốc đã triệt để hơn chủ trương của Tây-sơn. Nếu chính sách trong chiếu khuyến nông của Nguyễn-Huệ mới có cái kết quả là dành một phần ruộng đất cho dân lưu vong thì trái lại, chế độ ruộng đất của Thái-bình-thiên-quốc đã nêu lên mấy nguyên tắc chính là : « ruộng thiên hạ, người thiên hạ cày. Chỗ này không đủ thì dời đi chỗ khác. Chỗ mất mùa thì dời đến chỗ được mùa. Cốt sao có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc, có tiền cùng tiêu. Không chỗ nào không đều nhau. Không người nào không no ấm »… Trên nguyên tắc ấy, chính cương cụ thể của Thái-bình-thiên-quốc không những chủ trương tịch thu ruộng đất tài sản của bọn địa chủ, mà còn đối với những ruộng đất tài sản của các chùa miếu bị bọn thổ hào, thân sĩ chiếm đoạt
cũng quy vào của công. Ngoài ra, chính cương còn công nhận quyền nam nữ bình đẳng, cấm nuôi tỳ thiếp, bỏ chế độ nô lệ v.v… Chúng ta thấy ở đây điểm khác nhau là cuộc Tây-sơn khởi nghĩa, mặc dầu là cuộc cách mạng nông dân, vẫn nằm trong phạm vi phong kiến. Còn Thái-bình thiên-quốc cũng là cuộc cách mạng nông dân, nhưng đã mang tính chất dân chủ tư sản. Nhất là tư tưởng chia đều ruộng đất thì lại còn là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tại sao cùng là cuộc cách mạng nông dân mà mức độ tính chất lại khác nhau như vậy ? Chính vì điều kiện lịch sử của hai phong trào có chỗ khác nhau. Sau cuộc chiến tranh thuốc phiện, Trung-quốc đã trở thành một xứ bán phong kiến bán thực dân. Giai cấp địa chủ phong kiến cấu kết với thế lực tư bản nước ngoài đã chèn ép sức phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trong nước. Yêu cầu cấp thiết của cách mạng đề ra là phải đánh đổ giai cấp phong kiến thống trị và thế lực tư bản ngoại quốc để giải phóng dân tộc và thực hiện cải cách dân chủ. Thái-bình-thiên-quốc là màn đầu của cuộc vận động cách mạng tư sản dân chủ. Còn cuộc Cách mạng Tây-sơn ở Việt-nam, trước Thái-bình-thiên quốc hơn nửa thế kỷ, trạng thái xã hội mặc dầu đã xuất hiện ra mâu thuẫn giữa kinh tế thương nghiệp với quan hệ phong kiến, nhưng chưa phải đã đến mức sản xuất tư bản chủ nghĩa bị kìm hãm trong hệ thống phong kiến, cần phải giải thoát. Yêu cầu của cách mạng đề ra chưa phải đánh đổ giai cấp phong kiến và chế độ chiếm đoạt ruộng đất của nó cũng như nông dân cần có ruộng đất, nhưng tự mình không thể có một chính sách điền địa rõ rệt.
Nhưng rồi Thái-bình-thiên-quốc thất bại cũng như Tây-
sơn đã thất bại. Các sử gia Trung-quốc cắt nghĩa nguyên nhân chủ yếu của cuộc thất bại của Thái-bình-thiên-quốc là không có giai cấp lãnh đạo vững mạnh làm trung tâm. Vì lúc ấy, xã hội Trung-quốc chưa có giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, hơn nữa, chưa có chính đảng của giai cấp tư sản hay giai cấp vô sản để lãnh đạo cách mạng. Còn nông dân thì căn bản là lạc hậu, bảo thủ, riêng lẻ, vô tổ chức, nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp tư sản (như cuộc cách mạng nước Pháp) hay giai cấp vô sản (như cuộc cách mạng nước Nga) thì vấn đề ruộng đất không thể đề ra giải quyết được. Tìm nguyên nhân chủ yếu về thất bại của Thái-bình-thiên-quốc, chúng tôi thấy cũng là nguyên nhân chủ yếu về thất bại của cuộc cách mạng Tây-sơn mặc dầu điều kiện xã hội có chỗ khác nhau. Cũng do nguyên nhân chủ yếu này mà còn nảy ra nhiều nguyên nhân khác.
KẾT LUẬN
Đến đây, chúng tôi thấy đã đánh giá được cuộc Cách mạng Tây-sơn bằng việc nhận định rõ tính chất của nó, điều kiện lịch sử của nó. Dẫu sao, cuộc Cách mạng Tây-sơn đã ghi những chữ lớn trong lịch sử đấu tranh chống phong kiến và chống ngoại xâm của nhân dân ta. Tây-sơn bị sụp đổ bởi phong kiến nhà Nguyễn dựa vào tư bản Pháp, nhưng sau Tây-sơn, phong trào nông dân vẫn kế tiếp nổi dậy làm cho nền tảng phong kiến nhà Nguyễn luôn luôn bị rung động cho tới khi mất nước. Sau đó, thực dân Pháp lại câu kết với bọn phong kiến địa chủ đàn áp và bóc lột nhân dân ta. Nhân dân ta mà đại đa số là nông dân lại kế tiếp đấu tranh với thực
dân và phong kiến qua các thời kỳ. Cho đến ngày nay, miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, dân cày đã được chia ruộng. Nhưng ở miền Nam, nhân dân ta vẫn còn phải sống dưới ách áp bức của đế quốc Mỹ và bọn địa chủ phong kiến mà đại biểu của nó là Ngô Đình-Diệm. Như thế nghĩa là cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chống phong kiến của nhân dân ta vẫn tiếp diễn từ trước Nguyễn-Huệ, sau Nguyễn-Huệ cho tới ngày nay. Giai cấp nông dân Việt-nam trong thế kỷ thứ 19 chưa có một giai cấp tiền tiến lãnh đạo nên không thể chuyển cuộc Cách mạng Tây-sơn thành cuộc cách mạng tư sản dân chủ, nhưng ngày nay giai cấp nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đã trở nên chủ lực quân của cách mạng, cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất, hoàn thành cách mạng tháng Tám và đưa Kháng chiến đến thắng lợi. Những cuộc cách mạng nông dân trong thời đại phong kiến, kết quả của nó vẫn chỉ là đánh đổ một triều đại phong kiến này để đưa lên một triều đại phong kiến khác và vấn đề ruộng đất vẫn chung quy không giải quyết được, thì, ngày nay dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nông dân miền Bắc đương đánh đổ toàn bộ giai cấp phong kiến địa chủ, đã có ruộng cày và sẽ dần dần tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm trận Đống-đa, một trận đã biểu dương lực lượng vĩ đại của nông dân Việt-nam trong việc đánh giặc cứu nước, đã chấm dứt cuộc xâm lăng của phong kiến Trung-quốc, năm nay nhằm vào lúc nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chủ-tịch và Chính phủ, đương nỗ lực xây dựng miền Bắc, hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất đợt 5, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thống nhất tổ quốc, chúng ta vô cùng phấn khởi
nhắc đến sự nghiệp của ông cha ta ngày trước và công cuộc đương tiến hành hiện nay. Năm 1789, lịch sử quang vinh của dân tộc ta đã ghi trận Đống-đa, chấm dứt cuộc xâm lược của Mãn-thanh. Năm 1954, lịch sử quang vinh của dân tộc ta lại ghi trận Điện Biên-phủ, đánh bại thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, dựng lại hòa bình. Năm 1956, chúng ta lại đương đánh trận Điện-biên-phủ trên mặt trận đấu tranh chống phong kiến, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ từ nghìn năm trước. Bè lũ Ngô Đình-Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đương chia cắt đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa của Mỹ và huênh hoang hô khẩu hiệu « bắc tiến ». Nhưng lịch sử đã cho biết những tên bán nước phản dân, dựa vào ngoại địch như Lê Chiêu-Thống kết quả sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Dựa vào sức mạnh của nông dân, Nguyễn-Huệ đã đem lại độc lập và thống nhất cho tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, tập hợp mọi lực lượng của dân tộc trong Mặt trận Tổ-quốc trên cơ sở công nông liên minh, chúng ta đã thắng và sẽ thắng !
TRẦN HUY LIỆU
2-1956
NGUYÊN NHÂN THÀNH BẠI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TÂY-SƠN
của NGUYỄN LƯƠNG-BÍCH
CÁCH mạng Tây-sơn là một cuộc cách mạng nông dân vĩ đại trong thời phong kiến Việt-nam, có thể kể vào, hàng những cuộc cách mạng nông dân lớn trên lịch sử thế giới. Trong hai chục năm, Cách mạng Tây-sơn đã lần lượt đánh đổ bốn năm tập đoàn phong kiến mới cũ, phá tan hai cuộc xâm lăng và can thiệp của ngoại địch. Dưới đây, chúng tôi thử phân tích một vài nguyên nhân về thành bại ấy, mong góp phần vào việc đánh giá cuộc cách mạng này và người lãnh tụ của phong trào.
Những yếu tố kinh tế, xã hội, làm cơ sở cho phong trào Tây-sơn và những phong trào nông dân khác trong thế kỷ 18, đã quyết định sự bùng nổ của các phong trào, tạo điều kiện cho nó phát triển và giới hạn thành công của nó, thì trong số này đã có bài bàn đến. Ở đây, chúng tôi chỉ nói đến những nguyên nhân riêng biệt của phong trào Tây-sơn, về thành công cũng như về thất bại.
Trong quá trình tranh đấu trên 20 năm Cách mạng Tây sơn đã có nhiều thành tích về kinh tế, chính trị, văn hóa và đã thành công đặc biệt về mặt quân sự. Những thắng lợi ấy, Cách mạng Tây-sơn đã có được là bởi mấy nguyên nhân chủ yếu sau đây.
Nguyên nhân thắng lợi thứ nhất là Cách mạng Tây-sơn đã
nổ ra trong một hoàn cảnh mà giai cấp phong kiến Việt-nam đã suy yếu đến cực độ. Trạng thái phát triển và những mâu thuẫn xã hội làm cho giai cấp phong kiến Việt-nam đương thời phải suy yếu, trong bài bàn về xã hội Việt-nam ở thế kỷ 18, ông Minh-Tranh đã phân tích kỹ, chúng tôi không trở lại mà chỉ nêu thêm một vài hiện tượng để chứng minh cụ thể cho sự suy yếu ấy.
Ở trong Nam, cuối thế kỷ 18, chế độ phong kiến nhà Nguyễn hết sức thối nát. Ở trong Nam, chúa Nguyễn, Phúc Thuấn và tên quyền thần Trương Phúc-Loan thả sức đàn áp bóc lột nhân dân. Bọn quan lại bóp nặn của dân, ăn chơi xa xỉ, « xem bạc vàng như đất »11. Bọn phú hào đúc lậu tiền đồng rất mỏng, tung ra thị trường để vơ vét tài sản của nhân dân, làm cho hàng hóa cao vọt lên, sinh hoạt đắt đỏ, dân nghèo càng thêm đói khổ. Quân sự thì đớn hèn. Ở ngoài Bắc, loạn băng đảng, loạn kiêu binh nổ ra. Trong triều đình Lê
Trịnh, vua chúa quan quân đánh đổ lẫn nhau. Tình hình suy yếu của giai cấp phong kiến ở cả trong Nam ngoài Bắc như thể đã là điều kiện thuận lợi cho Cách mạng Tây-sơn chiến thắng dễ dàng.
Nguyên nhân thắng lợi thứ hai là Cách mạng Tây-sơn nổ ra giữa lúc quảng đại quần chúng nông dân đương sôi sục căm thù các tập đoàn phong kiến thống trị Nguyễn-Trịnh-Lê.
Ở thế kỷ 18, với chính thể thối nát của các triều đình Nguyễn, Trịnh, Lê, với những chính sách bóc lột tàn tệ của bọn vua chúa quan lại, với những nạn lụt lội đói kém liên tiếp xảy ra mà không được bảo vệ, chăm sóc, nhân dân Việt-nam
khắp từ Nam chí Bắc đều bị đói khổ, và căm hờn bọn phong kiến thống trị. Ở miền Bắc, những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra liên tiếp khắp các miền. Năm 1737, nông dân Sơn tây, Thái-nguyên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của nhà sư Nguyễn Dương-Hưng. Trong hơn 30 năm, từ 1738 đến 1769, nông dân các miền Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-tây, Phú-thọ ủng hộ và tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Duy-Mật. Năm 1738 ở Hải-dương bùng nổ hai cuộc khởi nghĩa : một do Vũ Trác-Oánh lãnh đạo, một do Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyền lãnh đạo. Cũng năm ấy, ở Nam-định bùng nổ cuộc khởi nghĩa Vũ Đình-Dung và ở Hưng-yên bùng nổ cuộc khởi nghĩa Hoàng Văn-Chất. Năm 1740, hai cuộc khởi nghĩa của nông dân Vĩnh-yên bùng nổ : một do Nguyễn Danh-Phương lãnh đạo, một do Tề lãnh đạo. Năm 1743, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu-Cầu lan tràn khắp các tỉnh miền bể. Đồng thời với phong trào Tây-sơn, ở ngoài Bắc, nông dân Bắc-ninh cũng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Sử-Thục, nông dân vùng ven bể khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Thiêm-Liêm. Bấy nhiêu cuộc khởi nghĩa đã nổi lên đánh phá khắp các tỉnh Bắc Hà, làm cho chính quyền bọn Lê, Trịnh, lung lay đến tận gốc. Những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ ấy, tuy bản thân nó không thành công, nhưng nó đã dọn đường cho sự thành công dễ dàng của phong trào Tây-sơn, một khi tiến ra Bắc. Ở trong Nam, không có cuộc khởi nghĩa lớn, nhưng những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ đã nổ ra và đã chung đúc lại phong trào Tây-sơn bùng nổ nhằm đúng lúc nông dân đang sôi sục căm hờn giai cấp thống trị, phù hợp với nguyện vọng đấu tranh của nhân dân cả nước cho nên nó đã lớn mạnh, đủ điều kiện quật ngã mọi
tập đoàn phong kiến ở trong nước cũng như quân xâm lược ở ngoài nước.
Nguyên nhân thắng lợi thứ ba là Cách mạng Tây-sơn đã đoàn kết được các tầng lớp nhân dân và các thành phần dân tộc.
Ngay từ khi mới khởi nghĩa, địa bàn hoạt động chỉ mới trong phạm vi nhỏ hẹp của miền núi rừng Qui-nhơn, Cách mạng Tây-sơn cũng có một khả năng đoàn kết, thu hút được đông đảo từng lớp nhân dân và thành phần dân tộc tham gia. Trong hàng ngũ nghĩa quân, đã có cả người đa số và người thiểu số. Những đội quân người Thượng « cởi trần trùng trục, đầu quấn khăn đỏ, cổ đeo tầu vàng lá bạc, tay cầm khiên và đại đao » đã là những đội quân đánh rất hăng và gan dạ. Những thổ hào như Nguyễn Thung, những lãnh tụ các toán quân lẻ tẻ ở quanh vùng đó như thủ lĩnh Lía, Nhưng-Huy, Tứ Lình cũng theo về. Thương gia cũng tích cực ủng hộ phong trào, như Huyền-Khê, một người giàu lớn ở Qui-nhơn đã giúp đỡ nghĩa quân về mặt tài chính, lương thực. Cách mạng Tây sơn còn lôi cuốn được cả những người Hoa kiều ở miền Nam
lúc ấy, tập hợp thành những đơn vị chiến đấu, dưới sự chỉ huy của Lý Tài và Tập Đình. Những lãnh tụ Tây-sơn liên kết được với người Chiêm-thành : nữ chúa Chiêm đã từng đem quân tới đóng ở Thạch-thành để làm thế ỷ giốc cho nghĩa quân Tây-sơn trong trận đầu tiên đánh quân Nguyễn ở thành Qui-nhơn.
Trong 20 năm chiến đấu, vào Nam ra Bắc, quân Tây-sơn luôn luôn tranh thủ được sự đồng tình của quần chúng nhân dân, nó là những bảo đảm chắc chắn cho những thắng lợi của
phong trào. Trong cuộc xuất quân đánh Trịnh ở Thuận-hóa, quân Tây-sơn trong mấy tiếng đồng hồ, đã tiêu diệt hàng vạn quân Trịnh. Có được thắng lợi mau chóng ấy một phần là nhờ sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ của nhân dân : nhân dân đã tự bố trí khắp các ngả để chặn đường đón giết quân Trịnh. Trong trận đánh quân Mãn-thanh, nếu không có sự đồng tình của nhân dân thì quân Tây-sơn không thể nào, chỉ trên chặng đường hành quân, dùng chân lại mươi ngày ở một chỗ, mà đã tuyển mộ được một số lính mới đông tới hàng vạn người. Trên mặt trận Ngọc-hồi, quân Tây-sơn được nhân dân đem cờ biển, biểu ngữ12và cỗ bàn bánh trái tới úy lạo quân sĩ. Để đáp lại tình dân và không muốn phiền dân, nghĩa quân hoàn lại dân tất cả cỗ bàn bánh trái mà chỉ xin nhận một thứ bánh chưng là quà tết trong dịp ấy13. Trong trận đại phá quân Thanh, sự hợp tác chiến đấu của nhân dân đã góp một phần không nhỏ vào chiến thắng. Một đoạn thư sau đây của Nguyễn-Huệ gửi cho vua nhà Thanh có thể cho chúng ta biết sơ qua sự tham gia giết giặc bắt giặc của quần chúng nhân dân đương thời. Trong thư Nguyễn-Huệ đã thuật lại :
« …Quân Sĩ-Nghị xông vào đánh, vừa mới giao phong đã tan vỡ, chạy trốn khắp ngả, xô đè lên nhau mà chết. Thây xác đầy nội nghẽn sông. Những quân chạy trốn ra được các thôn xã ngoài thành lại bị nhân dân đánh giết hầu hết… Ngay khi vào thành, tôi đã ra lệnh cho nhân dân không giết bọn bại binh mà chỉ bắt chúng đem nộp cho nhà nước. Số quân Thanh do nhân dân đem nộp tới đô thành hiện nay là hơn 800 người… »
Sự ủng hộ của nhân dân và khả năng đoàn kết của cách
mạng Tây-sơn đã quyết định sự thắng lợi của phong trào, đã làm cho Cách mạng Tây-sơn lớn mạnh hơn tất cả những phong trào đấu tranh của nông dân Việt-nam từ trước.
Nguyên nhân thắng lợi thứ tư là quân đội Tây-sơn được sự chỉ huy tài tình của vị anh hùng Nguyễn Huệ. Anh hùng Nguyễn Huệ đã thu phục được nhân tâm, giữ vững được tình quân tướng đoàn kết nhất trí cho nên quân đội Tây-sơn kỷ luật nghiêm chỉnh, anh dũng, đi đến đâu cũng được nhân dân yêu mến. Một người cố đạo Âu-châu, kẻ không ưa gì Cách mạng Tây-sơn, khi viết sách thuật lại sự nghiệp Tây-sơn cũng phải nhận ra rằng nhân dân Việt-nam bấy giờ tham gia Cách mạng Tây-sơn đều gan dạ, hùng dũng một người đương nổi mười người, đánh đâu thắng đấy14. Mỗi khi tác chiến, Nguyễn Huệ đều tỏ ra là một tướng chỉ huy rất thận trọng, bao giờ cũng nghiên cứu kỹ địch tình, trận địa, rồi mới đánh, cho nên lúc nào cũng chủ động chiến trường, đánh đâu được đấy, ít tổn xương máu quân sĩ mà thắng lợi cực kỳ mau lẹ. Chiến thuật của quân Tây-sơn biến hóa lạ thường, quân địch không biết đâu mà lường, khiếp sợ, chưa đánh đã chạy. Tôn Sĩ-Nghị, trước khi đưa quân vào bờ cõi Việt-nam đã chuẩn bị và huấn luyện quân lính phương lược đối phó với chiến thuật của quân Tây-sơn. Một vài điểm sau đây trong bản quân lệnh của Tôn Sĩ-Nghị cho ta biết được đại khái sự e dè của quân tướng nhà Thanh đối với chiến thuật của quân Tây-sơn như thế nào :
1) Ở ngoài ải (chỉ nước Việt-nam) có non cao núi hiểm địa thế vốn dễ mai phục ; trước nên bạt bỏ đá núi, đốn phát rừng nứa, khiến cho trông ra quang đãng, có thể phóng tâm
tiến lên. Nếu thấy ở đâu có đất mới lởm chởm thì càng để ý kẻo mưu chước quỷ quyệt.
2) Người Nam khi ra trận hay dùng voi. Voi không phải là món người Thanh quen thạo : hễ gặp voi thường cứ chạy tránh trước. Không biết rằng sức voi dẫu lớn, chung qui vẫn là con vật có huyết khí, không thể đương nổi với đồ dẫn hỏa của ta. Vậy hễ thấy voi ra trận, nếu xa thì bắn bằng súng nếu gần thì trị bằng dao và cung, khiến voi bị thương, đau phải chạy quay lại, rồi tự giày đạp lẫn nhau. Quân ta (Thanh) thừa cơ ấy mà tấn công, tất thắng không còn nghi ngờ gì nữa.
3) Quân Nam toàn dùng cái ống phun thuốc làm lợi khí gọi là « hỏa hổ ». Khi hai quân giáp nhau, quân Nam tất phải trước dùng thứ đồ ấy để đốt cháy quần áo người ta khiến cho phải lui. Nhưng so với súng pháo của chúng ta thì hỏa hổ kém xa lắm. Hiện ta đã chế sẵn được vài trăm cái mộc bằng da trâu sống. Nếu thấy quân Nam bắn hỏa hổ thì quân ta một tay cầm mộc để đỡ lửa, một tay cầm dao để chém bừa…
Nhưng mặc dầu quân Thanh đã có kế hoạch đối phó, quân Tây-sơn vẫn lợi dụng địa hình địa vật, dùng lối đánh thần tốc, luôn luôn vây hãm quân địch, hỏa hổ của nghĩa quân vẫn là một lợi khí xung địch, đoàn quân voi của nghĩa quân vẫn dầy séo hàng vạn quân địch.
Anh hùng Nguyễn Huệ không những là một tướng chỉ huy có tài, mà còn dũng cảm, kiên quyết, luôn luôn dẫn đầu tướng sĩ ngoài mặt trận. Một hình ảnh điển hình của tinh thần dũng cảm ấy mà người ta thường nhắc lại là trong trận đánh
ở Ngọc-hồi Nguyễn Huệ buộc khăn vàng vào cổ, xông pha chiến đấu, xuốt từ sáng cho đến buổi chiều, khi ca khúc khải hoàn tiến vào Thăng-long, thì chiếc chiến bào màu hồng của Nguyễn Huệ đã nhuộm mùi khói đạn của giặc mà trở thành màu đen cháy. Quyết tâm và tinh thần dũng cảm của Nguyễn Huệ đã tỏa ra và ảnh hưởng trong toàn thể quân đội của Nguyễn Huệ. Do đấy, quân của Nguyễn Huệ đánh đâu thắng đấy, khác hẳn với các toán quân của Nguyễn Nhạc Nguyễn Lữ.
*
Có được những yếu tố trên, Cách mạng Tây-sơn đã oanh liệt chiến thắng thù trong giặc ngoài, liên tiếp trong mấy chục năm. Nhưng cuối cùng nó vẫn thất bại. Sự thất bại ấy không phải vì những lý do quân sự, mà chính vì lý do chính trị.
Cách mạng Tây-sơn không có một đường lối chính trị thoát ra ngoài đường lối chính trị phong kiến. Chính quyền Tây-sơn là một chính quyền phong kiến. Những lãnh tụ nghĩa quân cũng xưng vương xưng đế, cũng đặt quan lại, cũng phong chức tước, cũng ban cấp ruộng đất bổng lộc. Cách mạng Tây-sơn tuy lật đổ những thế lực phong kiến đương thống trị lúc ấy, nhưng vẫn duy trì chế độ phong kiến, vẫn mở đường sống cho giai cấp phong kiến. Cách mạng Tây-sơn vẫn thu dùng những tướng tá của chúa Trịnh, chúa Nguyễn, khôi phục địa vị cho bọn quan lại Lê, Trịnh ở khắp trong triều ngoài trấn. Các thổ hào địa phương vẫn được nắm quyền thống trị như xưa. Vì thế mà quyền bính trong nước lại hoàn toàn vào tay giai cấp phong kiến như cũ. Chúng lại âm mưu
làm rối xã hội, phá tan thành quả của cuộc cách mạng nông dân. Trong khi Nguyễn Huệ còn sống, trước uy thế lớn lao của vị anh hùng vĩ đại ấy, chúng chưa dám công khai tích cực phá hoại chính quyền. Nhưng một khi người anh hùng chết đi, thì bọn chúng lập tức dở trò phá hoại. Bọn quyền thần Bùi Đắc-Tuyên, Vũ Văn-Dũng, Trần Quang-Diệu, Trần Văn-Kỷ hãm hại lẫn nhau, gây một lợi thế cho cuộc phản công của phong kiến nhà Nguyễn.
Nguyên nhân thất bại thứ hai của cuộc cách mạng Tây sơn là không giải quyết được vấn đề quyền lợi cơ bản của nông dân, tức không đem lại ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất vẫn còn, nguyên vẹn trong tay giai cấp phong kiến địa chủ. Chính vì thế mà bọn phong kiến địa chủ miền Nam như Đỗ Thanh-Nhân, Chu Văn-Tiếp, Võ Tánh vẫn có đủ uy thế, đủ phương tiện, đủ tiền của để mộ lính, trữ lương cho Nguyễn Ánh đánh lại nông dân cách mạng. Chính vì thế mà vùng Hà
tiên, địa bàn của tên chúa đất Mạc Thiên-Tứ không hề bị sứt mẻ và trở thành một ổ hoạt động mạnh mẽ của bọn giáo sĩ và tư bản Pháp công khai giúp Nguyễn Ánh, dọn đường sẵn cho cuộc xâm lược sau này. Cách mạng Tây-sơn không giành lại ruộng đất trong tay giai cấp phong kiến địa chủ chia cho nông dân tức là Cách mạng Tây-sơn đã tự mình tiếp sức sống cho giai cấp phong kiến địa chủ, tự mình bồi dưỡng lực lượng cho chúng để đánh lại mình. Đường lối sai lầm ấy của Cách mạng Tây-sơn chính là nhược điểm chung của mọi phong trào nông dân trên thế giới. Vấn đề ruộng đất chỉ đến khi cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo mới được giải quyết triệt để. Chỉ khi ấy nông dân mới giành lại được
ruộng đất, mới được thực sự giải phóng. Và cũng chỉ khi ấy giai cấp phong kiến mới bị hoàn toàn tiêu diệt, chế độ phong kiến mới được xoá bỏ hết vết tích.
Nguyên nhân thất bại thứ ba là ở chỗ tinh thần cách mạng không triệt để của những người lãnh tụ Tây-sơn, mặc dầu họ đã chiến đấu thật kiên quyết, thật dũng cảm. Tinh thần ấy không những đã biểu lộ trong những đường lối chính trị như đã nói ở trên là những điều khách quan vượt ra ngoài khả năng giai cấp của họ, mà còn thể hiện ra ở rất nhiều hành động chủ quan của họ nữa.
Những nhà lãnh tụ Tây-sơn không nhìn thấy sự cần thiết phải tiêu diệt toàn bộ giai cấp phong kiến mà chỉ nhằm đánh đuổi một vài cá nhân đứng đầu trong từng tập đoàn phong kiến. Nguyễn Huệ bốn lần vào Nam đánh Nguyễn Ánh, nhưng cả bốn lần, sau khi đánh tan quân Nguyễn Ánh thì lại rút về ngay Trung-bộ bỏ mặc cho bọn phong kiến miền Nam và Nguyễn Ánh vẫn ngấm ngầm hoạt động được. Cho nên, sau này, trong khi Nguyễn Huệ đương đánh phá quân Thanh xâm lược ở miền Bắc, thì Nguyễn Ánh đem quân can thiệp Pháp về đánh cướp miền Nam. Trong khi Nguyễn Huệ đương ngự trị ở miền Bắc, thì Nguyễn Ánh cũng đương đặt lại ách thống trị của chúng ở miền Nam. Cũng như ở miền Nam, Nguyễn Huệ ba lần đem quân ra Bắc rồi lần nào cũng giao lại chính quyền miền Bắc cho bọn phong kiến nắm giữ. Do đó, từ Trịnh Bổng, Trịnh Lệ, đến Nguyễn Hữu-Chỉnh, Vũ Văn-Nhậm, những tập đoàn phong kiến mới cũ nối tiếp nhau gây lại vây cánh chống lại cách mạng Tây-sơn. Chính vì thế chính quyền Tây-sơn không có cơ sở vững chắc ở miền Bắc, gây thuận lợi cho bọn
phong kiến miền Bắc nổi lên quấy rối, làm hậu thuẫn cho bọn phong kiến miền Nam đánh đổ Tây-sơn và chiếm lại miền Nam đánh đổ Tây-sơn và chiếm lại miền Bắc sau này.
*
Trên đây là mấy nhận định sơ lược về nguyên nhân thành bại của phong trào Cách mạng Tây-sơn. Mặc dầu không đưa cuộc đấu tranh của quảng đại quần chúng nhân dân tới đích, Cách mạng Tây-sơn, với những thành công rực rỡ của nó, cũng đã có nhiều tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam và đã chứng tỏ rõ rệt khả năng đấu tranh cách mạng của giai cấp nông dân Việt-nam. Cái khả năng ấy, được tổ chức chặt chẽ, được giác ngộ, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhất định sẽ là một lực lượng vĩ đại, đánh đổ đế quốc và phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày.
NGUYỄN LƯƠNG-BÍCH
GIỚI THIỆU VĂN HỌC VIỆT-NAM THỜI TÂY-SƠN
của D. M.
CHỮ Hán được chính thức dùng làm thứ chữ thi cử từ nhà Hậu Lý. Từ đó, giai cấp phong kiến Việt-nam đua nhau học chữ Hán, dùng chữ Hán để trước thư lập ngôn. Đến thế kỷ 14 và thế kỷ 15, nhận thấy việc dùng chữ Hán làm thứ chữ chính thức của dân tộc là một trở lực cho việc phổ biến giáo dục và xây dựng nền học thuật Việt-nam, Hồ Quí-Ly đã có ý định dùng chữ nôm thay cho chữ Hán. Các sắc, chiếu của triều đình thời ấy gửi đi các lộ đã được viết bằng chữ nôm. Kế hoạch của Hồ Quí-Ly đang thực hiện, thì bị quân xâm lược của phong kiến nhà Minh đánh đổ. Từ ấy chữ Hán lại được đưa lên địa vị độc tôn như trước. Giai cấp phong kiến Việt nam thiết tha với chữ Hán là vì sự dùng thứ này làm thứ chữ chính thức của dân tộc là một cách để hạn chế sự học của nhân dân.
Đến thế kỷ 17 và thế kỷ 18, kinh tế thương nghiệp ở Việt-nam đã phát triển, sự giao thông giữa miền này và miền khác cũng đã dễ dàng và tiện lợi hơn trước. Trong việc giao tế xã hội cũng như trong việc trước thư lập ngôn, người ta cảm thấy sự bất tiện của chữ Hán và thấy rằng cần phải có một chữ văn tự khác khả dĩ cho phép người ta được dễ dàng hơn trong việc diễn đạt tư tưởng và cảm tình. Thứ văn tự cần thiết trong hoàn cảnh ấy là chữ nôm. Vì vậy trong khi nhà nước phong kiến vẫn dùng chữ Hán làm thứ chữ chính thức
thì dân gian đã dùng chữ nôm làm phương tiện thư từ giao thiệp với nhau, và nhất là đã dùng chữ nôm một cách rộng rãi để trước thư lập ngôn. Các tác phẩm văn học ra đời trong khoảng thời gian này hầu hết là những tác phẩm bằng chữ nôm.
Khi anh em Nguyễn-Huệ, xuất thân là những người áo vải, những người giàu óc thực tế « học tập chỉ ở sự nghe trông »15, lãnh đạo nông dân đứng lên đánh đổ chế độ phong kiến chúa Nguyễn, hẳn họ đã nhận rõ hơn ai hết những bất tiện của việc dùng chữ Hán trong công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách. Cho nên Nguyễn-Huệ đã can đảm và sáng suốt dùng chữ nôm trong những việc quan trọng về quân sự và chính trị. Tương truyền rằng năm 1780 khi kéo quân ra Bắc đánh họ Trịnh, Nguyễn-Huệ đã cử Nguyễn Hữu Chỉnh làm một bài hịch bằng chữ nôm kể tội họ Trịnh trong đó có câu :
« Vả bây giờ thần nịnh chúa hôn, gương bình trị lòng trên ắt muốn. Lại gặp lúc bình kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả phải ra ».
Năm 1788, sau khi ra Thăng-Long giết Vũ Văn-Nhậm, Chính Bình Vương Nguyễn-Huệ trở về đến đất Nghệ-an tự viết một bức thư bằng chữ nôm gửi cho La-sơn phu tử Nguyễn-Thiệp để giục Thiệp xúc tiến công tác xây dựng kinh đô ở Nghệ-an. Bức thư ấy viết bằng chữ son trong có câu :
« Ngày trước ủy cho Phu tử về Nghệ-an tưởng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự, sao về tới đó chưa thấy đặng việc gì ? »
"""