"
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện Tập 7 - Vương Hiểu Lỗi full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện Tập 7 - Vương Hiểu Lỗi full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÀO THÁO - THÁNH NHÂN ĐÊ TIỆN Tác giả: Vương Hiểu Lỗi
Dịch giả: Nhiều dịch giả
Công ty phát hành: Alphabooks NXB Văn học & NXB Lao động Ngày xuất bản: 2/2014 - 7/2017 —★—
ebook©vctvegroup
Năm 2019
Hồi thứ 97
Tào Tháo tính kế “gậy ông đập lưng ông”
Hai ẩn sĩ trong núi
Mùa hè năm Kiến An thứ mười một, thiên hạ hỗn loạn đã mười bảy năm trời, những kẻ từng xưng hùng một thời như Viên Thuật, Lã Bố, Công Tôn Toản, Viên Thiệu lần lượt suy bại, duy có Tào Tháo giương ngọn cờ “phụng mệnh thiên tử thảo phạt kẻ bất thần” trở thành bá chủ trung nguyên. Thế nhưng, nhất tướng công thành vạn cốt khô, binh đao nổi lên khắp nơi, máu chảy thành sông, lại thêm thiên tai, bệnh dịch liên miên khiến cho nhân khẩu trong thiên hạ chỉ còn bằng một phần mười so với trước đây, vô số sinh linh phải vùi thây trong khói lửa...
Có điều, chín châu rộng lớn nên cũng có nơi chiến loạn không lan tới được, ví như núi Từ Vô[367] ở quận Hữu Bắc Bình, U Châu, là nơi tiếp giáp giữa quận Hữu Bắc Bình và quận Liêu Tây. Trong lúc trung nguyên xảy ra biến loạn, người Ô Hoàn chiếm cứ quận Liêu Tây, núi Từ Vô được coi là biên giới Hồ - Hán. Phía bắc ngọn núi này còn có Vạn Lý Trường Thành vắt ngang từ đông sang tây.
Trên danh nghĩa, Trường Thành ở U Châu do nhà Tần xây dựng, nhưng thực tế nó được dựng trên nền của Yên Trường Thành thời Chiến Quốc, đã có hơn bốn trăm năm lịch sử. Nay không có người canh gác, lại không được thường xuyên tu bổ nên trông thật hoang tàn, đổ nát. Núi Từ Vô trập trùng, vách đá cheo leo, cây cối rậm rạp, bụi gai um tùm càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, u tịch của Trường Thành. Vào buổi thái bình,
chẳng ai muốn đến nơi hẻo lánh làm gì, nhưng trong thế sự rối ren lúc này, trốn vào rừng sâu núi cao lại có thể tìm được chút an nhàn, yên tĩnh. Nhất là vào giữa mùa hè, tiếng suối chảy róc rách giữa những khe núi hòa với tiếng chim hót ríu rít, vô tình tạo nên khúc nhạc êm tai; trên những mỏm núi đá có nhiều loài hoa dại không tên, đung đưa trong gió, tỏa hương ngào ngạt, khiến cho ngọn núi hiểm trở có phần dịu dàng, nên thơ... Lạ thay, giữa chốn núi rừng âm u đó còn có một ngôi làng, ruộng nương vuông vắn, khói bếp vấn vít, thôn dân sống rất yên bình, tựa như một thế giới khác, hoàn toàn tách biệt với sự chém giết hỗn loạn bên ngoài.
Thôn trang lọt thỏm giữa hai ngọn núi lớn, lối vào thung lũng chỉ có một khe nhỏ nên rất khó phát hiện. Những thửa ruộng nằm rải rác ở chỗ trũng hoặc sườn núi, nhưng khá quy củ. Phía chân núi có những luống rau và cây trái ngay ngắn, còn đáy thung lũng là một dãy nhà tranh, đơn sơ mà ngăn nắp. Giữa các nhà có tiếng gà cục tác, tiếng chó sủa và tiếng trẻ con nô đùa ầm ĩ, người dân trong thôn thảnh thơi lùa dê, bò qua sân. Thậm chí còn có cả tiếng đọc sách oang oang vọng ra từ trường học... Tất nhiên, thôn trang này không phải do tạo hóa ban tặng, mà do một danh sĩ U Châu tên là Điền Trù đã dẫn già trẻ lớn bé trong cả tộc đến gây dựng từng chút một trong suốt những năm ở ẩn. Nếu nhìn kỹ, lối vào thung lũng và trên các đỉnh núi xung quanh đều có không ít trai tráng tay cầm gậy gộc, canh gác nghiêm ngặt, nếu có tên thổ phỉ nào dám bén mảng lại gần, họ sẽ lập tức xông tới liều mạng với chúng.
Đúng lúc ấy, trên con đường nhỏ có một người cưỡi lừa ung dung tiến lại thôn trang. Người này ngoài ba mươi tuổi, tướng mạo khôi ngôi, mình mặc áo vải thô, đầu tết tóc vấn khăn, nhưng vẫn toát lên khí chất anh tuấn. Có lẽ vì đi đường nóng nực, ông ta mở phanh vạt áo trước để lộ phần ngực, làm tôn lên chòm râu dài phất phơ dưới cằm. Tay gõ gậy trúc, miệng nhẩn nha hát, ông ta cưỡi con lừa đen, mũi phớt hồng, hai mắt tròn xoe, nom thật là tiêu dao.
Đám trai tráng canh gác thấy ông ta từ đằng xa chẳng những không cản đường mà còn chạy lại đỡ ông ta xuống lừa:
— Hình tiên sinh về rồi! Ngài đi đường có vất vả lắm không?
Người đó chỉ khẽ gật đầu mỉm cười, đoạn thong thả dắt lừa vào sơn cốc. Ông ta họ Hình, tên Ngung, tự Tử Ngang, người huyện Mạc, Hà Gian, từ nhỏ học rộng biết nhiều, là người nhân nghĩa chính trực, từng được tiến cử làm hiếu liêm. Phụ lão quê nhà còn làm hẳn một bài ca dao về ông, lấy tên là “Hình Tử Ngang đức hạnh vòi vọi”. Nhưng trong buổi thiên hạ hỗn loạn, binh đao không dứt, ông đã bỏ chí làm quan, ngay cả Tư đồ đương triều là Triệu Ôn cũng không vời được. Ông theo danh sĩ U Châu Điền Trù ở ẩn, lấy ruộng vườn làm vui. Thời gian như nước chảy mây trôi, thấm thoát đã mấy năm, nghe nói Viên thị suy bại, Tào Tháo phất lên, thiên hạ có cơ được an định, tâm trí Hình Ngung không còn giữ được sự lãnh đạm nữa vì vậy ông ra ngoài núi nghe ngóng tình hình.
Hình Ngung vừa vào thôn đã có không ít người kéo tới, người hỏi tình hình bên ngoài ra sao, kẻ hỏi mang được thứ gì về, người bưng nước tới mời, còn bọn trẻ thì vây quanh con lừa. Hình Ngung trả lời qua loa, chia cho bọn trẻ mấy cái bánh của người Hồ, rồi tách mọi người ra đi sâu vào trong thôn. Khi đến trước một cái sân có hàng rào tre, ông buộc lừa, giũ bụi, sửa soạn một lượt, rồi mới từ từ đẩy cửa vào:
— Tử Sái huynh! Đệ về rồi đây!
Ông gọi liền hai tiếng, một ẩn sĩ tướng mạo đường bệ bước ra. Người ấy tuổi tầm bốn mươi, thân cao tám thước, vai rộng eo tròn; mặt lớn trán vuông, màu da đen rám; hàng ria vàng khè vắt sang cả mái tai; đôi mắt sáng rực, hốc mắt sâu hoắm, sống mũi đầy đặn, hàm én mày ngài, tai to ngực ưỡn; mình mặc áo xám vải thô, tóc tai tuy lòa xòa nhưng không giấu được vẻ cao quý, kiêu ngạo. Trông thấy Hình Ngung, ông ta không vội đáp lời mà vái chào nghiêm chỉnh - đó chính là Điền Trù, tự Tử Sái, từng làm Tòng sự U Châu.
Điền Trù người huyện Vô Chung, quận Hữu Bắc Bình, cách nơi này không xa. Ông ta nổi tiếng là phú hào một phương, Lưu Ngu - châu mục U Châu tiền nhiệm từng vời làm Tòng sự, tận tụy báo ân triều đình. Khi Đổng Trác vào kinh làm loạn, Lưu
Ngu được triều đình tôn làm Đại tư mã, liền phái Điền Trù đi sứ, tới Trường An yết kiến thiên tử. Khi đó Viên Thiệu và quân Hắc Sơn ở đất Hà Sóc trở mặt với nhau, còn ở Trung Nguyên, Tào Tháo và Viên Thuật cũng đang giao tranh, khắp nơi xảy ra chiến loạn, đường sá tắc nghẽn, Điền Trù phải mang tấu chương vượt ra ngoài biên ải, trải qua muôn ngàn gian nan mới tìm được đường đi. Sau khi từ chối phong thưởng của triều đình, ông trở lại quê mới biết mọi sự đã thay đổi. Lưu Ngu bị Công Tôn Toản giết hại, còn tàn quân của ông ta đều đi theo Viên Thiệu. Điền Trù đến khóc trước mộ Lưu Ngu, lại bị tống vào ngục, may nhờ có các quan châu quận xin với Công Tôn Toản nên giữ được mạng. Sau khi thoát khỏi tù ngục, ông thề với trời nhất định phải báo thù cho Lưu Ngu, bèn dẫn mấy trăm hộ trong gia tộc trốn vào núi Từ Vô, khai hoang làm rẫy, tích trữ lương thảo, đến nay đã hơn chục năm.
— Huynh trưởng gần đây vẫn khỏe chứ? Tiểu đệ có cả bụng chuyện muốn kể với huynh... - Hình Ngung thấy Điền Trù không còn giữ lễ nghi khách sáo nữa, chỉ chực kể hết những điều mắt thấy tai nghe với ông.
Nhưng Điền Trù lại chẳng hề quan tâm đến những thay đổi bên ngoài, chậm rãi nói:
— Hiền đệ vất vả rồi.
Hình Ngung tuôn một tràng:
— Tiểu đệ đã tìm hiểu rõ ràng. Nay Tào Tháo đoạt hết đất của Viên thị, Viên Đàm và Cao Cán lần lượt bị chém đầu, còn bọn Thôi Diễm, Vương Tu, Khiên Chiêu đều đã quy thuận ông ta. Thuế ruộng ở Ký Châu chỉ thu bốn thăng một mẫu, ai ai cũng ca ngợi! Các tướng cũ U Châu như Tiêu Xúc, Trương Nam sau khi đầu hàng đều được phong làm Quan nội hầu, huyện lệnh các nơi giữ nguyên chức vị, người từ quan ở ẩn lũ lượt xuất sĩ, ngay cả tên Diêm Nhu tự xưng là Ô Hoàn hiệu úy cũng quay sang dốc sức cho Tào Tháo...
Điền Trù vẫn thờ ơ sai người nhà đi giết gà làm cơm. Hai người đối ẩm, Hình Ngung hùng hồn đàm luận, vẻ mặt hoan hỉ, trong khi Điền Trù từ đầu đến cuối không nói lời nào, trầm ngâm nhìn ra dãy hàng rào bên ngoài, không biết tâm tư để tận đâu.
— Huynh trưởng có nghe đệ nói không vậy? - Hình Ngung không nhịn được hỏi.
— Sao? Ta vẫn đang nghe...
Hình Ngung thăm dò được rất nhiều chuyện, nên trong lòng đã có dự tính:
— Theo ý hiền đệ, chúng ta nên sớm bỏ ngọn núi hoang này về quê thôi.
— Về quê ư? - Điền Trù lại nhìn ra ngoài sân, ánh mắt đầy vẻ mơ hồ, - Nhớ năm đó, khi Viên Thiệu diệt trừ Công Tôn Toản cũng từng phái thuộc hạ tới mời chúng ta hồi hương, còn muốn trao cho ngu huynh chức duyện thuộc, may là ta không nhận. Giờ đệ thấy gia nghiệp nhà họ Viên sao nào? Nhật nguyệt hữu thường, tinh thần hữu hành[368], sự thịnh suy, thành bại ở đời chỉ như đóa hoa sớm nở tối tàn.
— Huynh trưởng nói sai rồi. Mạnh Tử có câu: “Thiên hạ chi sinh cửu hĩ, nhất loạn nhất trị.”[369] Tào Tháo phụng mệnh thiên tử thảo phạt kẻ bất thần, khác với Viên Thiệu. Nay ông ta đã lấy được Hà Bắc, bốn bề không còn kẻ địch, nếu tiếp tục nam tiến đánh Kinh Châu, rồi lại đoạt được cả Giang Đông thì chẳng bao lâu nữa thiên hạ ắt thái bình! - Hình Ngung giọng tràn đầy hy vọng.
— Thái bình? - Điền Trù cười nhăn nhó. Ban đầu ông dẫn gia quyến vào núi Từ Vô, vốn định chiêu binh mãi mã chống lại Công Tôn Toản. Nhưng do lực mỏng, lại thiếu lương thảo nên phải khai hoang làm rẫy trước. Sau này cục thế bên ngoài ngày càng rối loạn, dân chúng kéo nhau trốn cả vào rừng, Điền Trù thương tình đều cho ở lại, nhân khẩu trong thôn dần lên đến hơn năm ngàn hộ. Riêng cái ăn, cái mặc của chúng nhân đã là cả một vấn đề, nói gì đến hành quân đánh trận? Chớp mắt hơn chục năm đã qua đi, chưa nói đến Công Tôn Toản mà ngay cả cha con Viên Thiệu cũng bại vong, thù của Lưu Ngu biết tìm ai tính sổ? Hùng tâm tráng chí không còn, Điền Trù lòng đã nguội lạnh, người dân trong núi đang an cư lạc nghiệp, không tranh với đời, cớ gì phải quay lại chốn nhiễu nhương đó?
Hình Ngung nhìn thấu tâm tư của Điền Trù, nghiêm giọng bảo:
— Chẳng lẽ Tử Sái huynh chỉ nghĩ đến sự an nhàn trước mắt mà bỏ mặc an nguy của con dân đại Hán đời sau? — Sao cơ? - Mặt Điền Trù chợt hiện lên vẻ sửng sốt, - Sao hiền đệ lại nói thế?
Hình Ngưng ngồi thẳng lưng, chỉ tay về phía đông bắc, nói vỏn vẹn hai từ:
— Ô Hoàn!
Hai từ này như một lời cảnh tỉnh, khiến Điền Trù sực nhớ ra. Người Ô Hoàn vốn là một nhánh của tộc Đông Hồ, sống tại núi Ô Hoàn[370] nên có tên gọi như vậy. Trước kia, bọn họ khuất phục Hung Nô. Năm thứ tư, niên hiệu Nguyên Thú đời Hán Vũ Đế (năm 119 sau Công Nguyên), Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đánh bại Hung Nô, đuổi chúng ra khỏi Mạc Nam, từ đó người Ô Hoàn quay sang thần phục nhà Hán, giúp coi chừng động tĩnh của Hung Nô. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, người Ô Hoàn từng tạo phản một lần, đến khi Quang Vũ Đế trung hưng nhà Hán họ lại quy hàng, dời đến mười quận vùng biên như Liêu Đông, Liêu Tây, Hữu Bắc Bình, sống chung với người Hán. Sau này, nhà Hán liên tục xung đột với người Khương và người Tiên Ti, người Ô Hoàn đứng giữa khi thì làm phản, khi lại quy hàng. Vào cuối thời Linh Đế, họ cấu kết với Thái thú Ngư Dương là Trương Thuần làm phản, bị Công Tôn Toản dẹp yên. Khi Lưu Ngu nhận chức ở U Châu đã chủ trương lung lạc vỗ về, vì thế trung nguyên tuy loạn nhưng người Ô Hoàn vẫn chung sống yên ổn với người Hán. Sau khi Lưu Ngu chết, Viên Thiệu liên kết với thế lực các nơi tiễu trừ Công Tôn Toản, lại càng hậu đãi người Ô Hoàn, không chỉ sắc phong cho thủ lĩnh những bộ lạc lớn làm Thiền vu mà còn cho liên hôn với con gái Viên thị. Do đó, thế lực của họ mới dần lớn mạnh, lại thêm người Tiên Ti ở phương bắc cũng xảy ra nội loạn, nên họ thừa cơ chiếm cả một địa bàn rộng lớn gồm các quận Hữu Bắc Bình, Liêu Tây, Liêu Đông. Nay Hà Bắc thuộc về Tào Tháo, Viên Thượng và Viên Hi nương nhờ người Ô Hoàn, bọn họ đưa binh mã các bộ đến Liêu Tây, lấy danh nghĩa báo thù cho Viên thị mà mượn gió bẻ măng, đốt nhà, giết người, cướp của, cưỡng bức dân lành, tội ác vô số... Nghĩ đến những chuyện đó, trái tim sắt đá của
Điền Trù lại dao động, dù sao ông cũng là con dân đại Hán, từng coi thiên hạ là trách nhiệm của mình kia mà! Hình Ngung nãy giờ vẫn chú ý đến thái độ của Điền Trù, thấy khuôn mặt ông khẽ giật giật mấy cái, liền bồi thêm: — Người Ô Hoàn vốn hung hãn bạo ngược, chỉ có đánh cho bọn chúng chịu khuất phục, bách tính U Châu mới được sống yên ổn, bờ cõi đại Hán mới không còn gì đáng lo! Giả như huynh trưởng đã ở vào cái tuổi thất thập cổ lai hi, tiểu đệ chẳng nói làm gì, nhưng chúng ta đương tuổi tráng niên, giờ kiến công lập nghiệp vẫn chưa muộn. Dốc sức vì nước là bổn phận của kẻ sĩ, chúng ta hiến kế giúp Tào Tháo trừ được mối họa Ô Hoàn, không chỉ ích nước lợi dân, có khi còn kiếm được một chức quan báo ơn triều đình!
Điền Trù nghe Hình Ngung nói có ý muốn bước vào đường sĩ hoạn, ánh mắt lại trở nên u ám. Ông lặng lẽ rót một chén rượu, rồi nói:
— Nhập sĩ làm quan thì bỏ đi. Ngu huynh quen sống an nhàn, không còn ý nghĩ đó nữa...
— Dẫu cho huynh trưởng không nghĩ vì mình, cũng phải nghĩ cho bách tính nơi đây. Họ còn phải chui lủi trong rừng đến khi nào? Người già lúc chết chẳng thể quay về cố hương, còn bọn trẻ giờ không biết gì về thế giới bên ngoài, không thể báo đền quốc ân, tạo phúc cho dân. Huynh dạy chúng đọc sách, hiểu đạo lý phỏng có ích gì? Chúng phải ra ngoài xông pha ngang dọc, không thể cứ nhốt mình cả đời nơi thâm sơn cùng cốc được!
Điền Trù cảm thấy đau khổ. Quả núi này cũng thật kỳ lạ, khi ông mới đến chỉ một lòng muốn trở ra báo thù, nhưng năm tháng qua đi lại bắt đầu cảm thấy lưu luyến, thậm chí còn có phần sợ hãi thiên hạ ngoài kia. Có điều ông cũng hiểu rõ, sớm muộn gì cũng phải chấm dứt cuộc sống này, bởi không một xó xỉnh nào có thể ngăn trở thế giới bên ngoài, sẽ có một ngày ông buộc phải đối diện với hiện thực...
— Hiền đệ nói phải, sớm muộn gì ngày đó cũng đến. Đệ là người giác ngộ trước.
— Huynh đã đồng ý xuống núi? - Hình Ngung dốc hết gan ruột cuối cùng cũng xoay chuyển được Điền Trù, - Nếu vậy, chúng ta mau chóng thu dọn hành lý, ngày mai đi Nghiệp Thành ra mắt Tào công! Sai thôn dân...
— Chớ vội. - Điền Trù xua tay, - Ta vì nghe nói Viên thị ngạo mạn nên mới từ chối lời trưng vời của cha con Viên Thiệu, Viên Thượng. Giờ đây, Tào Tháo binh hùng tướng mạnh, hẳn là cách đối nhân xử thế cũng vậy, chúng ta chớ nên vội.
— Huynh trưởng có thành kiến đó thôi. Viên Bản Sơ ỷ là hào tộc, bốn đời giữ chức Tam công, cát cứ Hà Bắc cho nên tự cao, còn Tào Mạnh Đức là Tư không đương triều, phụng lệnh thiên tử hành sự. Đệ nghe nói ông ta sùng hiền trọng sĩ, ưu ái kỳ tài, huynh đệ ta đi, ngày sau tất được triều đình trọng dụng.
— Triều đình? - Điền Trù cười nhạt, - Thiên hạ ngày nay còn có triều đình nữa sao? Viên Thiệu lúc còn sống đã tự tạo uy phúc dựa vào binh lực, nay Tào Tháo cũng đi tới bước đó. Tự cổ chí kim, chức tước quyền thế là thứ dễ làm con người ta thay lòng đổi dạ nhất, liệu có ai cả đời làm quan luôn nghiêm cẩn giữ mình? Nói ngay như hiền đệ theo ta ẩn cư nhiều năm, ta tưởng đệ không còn màng đến danh lợi, thế sự, nhưng chẳng phải cũng muốn tìm đường tiến thân sao?
Hình Ngung nín lặng.
Trời dần về chiều, sơn cốc thiếu ánh sáng, nhà cửa, ruộng nương đều chìm trong bóng tối mênh mông. Điền Trù hờ hững cầm đũa gõ vào thành chiếc bình sứ, mãi lâu sau mới nói:
— Như vậy đi, làm phiền hiền đệ vất vả chuyến nữa. Đệ đi gặp Tào Tháo trước, xem ông ta là người thế nào, sau khi trở về chúng ta sẽ bàn tiếp. Cổ nhân có câu “Đói cho sạch, rách cho thơm”, nếu Tào Tháo thật sự sùng hiền trọng sĩ, yêu thương bách tính, ngu huynh tất sẽ chủ động đầu quân; nhược bằng ông ta là kẻ kiêu căng bạo ngược, thà ta chết già trong núi, chứ cũng không chịu hiến kế. Trù ta không thể giúp kẻ tàn bạo bất nhân!
Điền Trù chưa nói dứt lời, chợt nghe một hồi sói tru rùng rợn vẳng lại từ phía xa.
— Không ổn rồi! - Ông ta đứng bật dậy, đưa mắt nhìn quanh núi rừng tối như bưng, - Bầy sói tháng trước lại quay trở lại. Mau sai thôn dân đốt đuốc, tập hợp tráng đinh lên núi đuổi sói!
Trong thôn nhốn nháo, không ít thanh niên cầm sẵn gậy gộc. Hình Ngung lắc đầu quầy quậy:
— Ở nơi quái quỷ này, ngày nào cũng phải chống trả hùm sói, biết đến bao giờ mới thôi? Vẫn phải sớm tìm đường rời khỏi đây.
Hình Ngung không nhìn rõ sắc mặt Điền Trù, chỉ nghe giọng nói thâm trầm đáp lại:
— Hùm sói không đáng sợ, lòng người mới thực đáng sợ. Con người sống vì thể diện, đến khi gỡ mặt nạ xuống mới biết còn ác độc hơn cả cầm thú!
Cuộc chiến trên biển
Vùng duyên hải Thanh Châu sóng lớn cuồn cuộn, thủy triều ào ạt. Cuối thu, gió tây thổi mạnh càng làm sóng biển trào dâng dữ dội, có khi chúng xô phải đá ngầm rồi tách thành những ngọn sóng lớn tựa như con giao long cao hàng mấy trượng, gối nhau chồm vào bờ... Thế nhưng, trận chiến trên biển hôm nay còn kinh hoàng hơn cảnh tượng thiên nhiên đó.
Viên Đàm đã chết, nhưng chiến sự ở Thanh Châu vẫn chưa dứt. Thái thú Liêu Đông Công Tôn Khang cũng mang dã tâm chẳng kém gì cha hắn là Công Tôn Độ. Nhân lúc Tào Tháo tiến quân sang phía tây dẹp Cao Cán, hắn sai bộ tướng Liễu Nghị cấu kết với thủ lĩnh hải tặc Quản Thừa, đưa quân vượt biển, mưu cướp Thanh Châu. Dư đảng Khăn Vàng ở Tế Nam thừa cơ cử binh, Thái thú Xương Lự là Xương Bá hết hàng lại phản cũng hùa theo. Mấy cánh quân phản loạn tiếp ứng cho nhau khiến tình hình ngày càng nghiêm trọng, chọc giận đến Tào Tháo. Thế là ông đích thân dẫn đại quân tiên phong, đánh dẹp cả ba cánh quân phản loạn, nay đã dồn được quân chủ lực của Liễu Nghị, Quản Thừa vào ven biển.
Đấy là trận quyết chiến lớn, quân Tào liên tục đắc thắng, khí thế hừng hực, còn quân Liêu Đông cùng đường cũng quyết một phen sống mái. Tướng sĩ hai bên dồn sức đánh nhau, trận thế tựa như hai con rồng lớn quấn chặt lấy nhau. Nhìn qua không phân biệt được trận tuyến, chỉ thấy binh sĩ thi nhau vung đao chém giết, máu phun tung tóe theo gió, cả bãi biển nhuộm màu tang thương. Tiếng kêu gào, tiếng la hét, tiếng binh khí đụng nhau không dứt lẫn với tiếng sóng ngoài khơi như một khúc nhạc bi ai, thống thiết...
Hình Ngung cùng Tào Tháo đứng trên một cái gò phía tây chiến trường, cảnh chém giết ác liệt hiện ra trước mặt khiến ông hãi hùng. Một văn nhân đã khi nào chứng kiến trận huyết chiến thế này? Bàn tay Hình Ngung đang nắm chặt ướt nhẹp mồ hôi, ông vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lại có phần xúc động. Đó là những cảm xúc lần đầu tiên xuất hiện trong đời ông. Thực ra không riêng gì hôm nay, kể từ khi từ biệt Điền Trù để xuống núi một lần nữa, mỗi ngày với Hình Ngung đều tựa như một giấc mơ.
Ông ta tới Nghiệp Thành trước, do Tào Tháo bận cử binh bên ngoài nên không gặp được. Tuy nhiên, đại công tử Tào Phi giữ trọng trách lưu thủ rất ân cần hiếu khách, đã mở yến tiệc thết đãi, còn tặng tiền bạc, giữ lại mãi hơn nửa tháng mới sai người hộ tống ông đến Thanh Châu.
Đến Thanh Châu, Hình Ngung càng không ngờ tới, quân sư Tuân Du, Tế tửu Quách Gia, Gián nghị đại phu Đổng Chiêu, tham quân Trọng Trường Thống lại dẫn tất cả duyện thuộc xếp hàng nghênh đón, tiếp đãi nồng hậu. Hình Ngung ở trong núi nhiều năm, tưởng rằng người bên ngoài đã quên mất mình từ lâu, nào ngờ Tào doanh vẫn còn nhiều người nhận ra ông, tiếp đón ông bằng lễ thượng khách như trước, khiến ông cảm động muôn phần. Hình Ngung ở trong doanh nhàn rỗi, không phải lo chuyện ăn uống, tiếc là vẫn chưa được ra mắt Tào Tháo. Mãi đến sáng nay, Đổng Chiêu mới chạy tới nói Tào công triệu kiến ông, nên được đưa tới chỗ quan sát trận đánh.
Hình Ngung lấy làm ngạc nhiên khi nhận được sự sắp xếp “chu đáo” của Tam công đương triều, đồng thời cũng cảm nhận được sự tinh tế và càng tỏ ra hứng thú, lúc thì quan sát chiến
trường, lúc lại ghé mắt nhìn vị chủ soái ở bên trái - Tào Tháo mặc áo giáp vàng, khoác hồng bào, đầu đội mũ đâu mâu trang trí những tua đỏ, lưng đeo Thanh Cang bảo kiếm; nhìn lên khuôn mặt, râu dài nhuốm bạc, mặt ít nếp nhăn, màu da trắng trẻo, sống mũi hơi tẹt, nhưng hai hàng lông mày rậm như cánh nhạn và đôi mắt sắc như chim ưng, nom toát lên vẻ thông minh, dũng mãnh.
Bên trái Tào Tháo còn có một vị “khách quý” khác cũng được mời tới chứng kiến trận đánh, nhưng lại mang tâm trạng trái ngược Hình Ngung. Người này tên Âm Phổ, là Tòng sự dưới trướng Ích Châu mục Lưu Chương, nhận lệnh tới Hứa Đô triều kiến thiên tử nhưng thực chất là bái yết Tào Tháo. Từ thời cha Lưu Chương là Lưu Yên, đất Thục cắt đất tự giữ, không qua lại với triều đình, tới nay đã hơn chục năm, ngay cả khi Tào Tháo dời đồ về huyện Hứa, lập lại triều đường cũng không thèm tới chầu. Nhưng tình hình hiện nay đã khác, Lưu Chương không sai người đi sứ không được. Tào Tháo đã thống nhất Hà Bắc, nếu ông ta còn không tỏ chút thành ý mà chọc giận vị Tư không đại nhân này thì chẳng phải chuyện đùa. Tào Tháo tất nhiên không hài lòng với kiểu ôm chân đó, tiếp kiến sứ giả nơi chiến trường chẳng phải một cách để thị uy hay sao? Vì vậy Âm Phổ nãy giờ cứ thấp thỏm bất an, nhìn tướng sĩ quân Tào hăng hái đánh trận mà như ngồi trên nệm gai.
Không ngờ Tào Tháo lại mở miệng trước:
— Tôn sứ thấy khí thế quân ta thế nào?
Âm Phổ liền khoa trương:
— Tào công thống lĩnh quân triều đình, binh sĩ ba quân đều dũng mãnh không gì địch nổi!
— Sao kia? Các ngươi cũng biết lão phu thay mặt triều đình? - Tào Tháo khẽ đưa mắt nhìn ông ta, lạnh lùng hỏi, - Cớ sao khi dời đô, Lưu Chương không phái sứ giả tới? Cớ sao khi xuống hịch thảo phạt Viên Thuật, các ngươi không phái binh tương trợ? Cớ sao khi bị vây khốn ở Quan Độ, tình thế vô cùng nguy ngập, các ngươi không đến? Nay Hà Bắc đã được bình định, Hứa Đô vững chắc thì trong mắt các ngươi lại có triều
đình. Rốt cuộc các ngươi lòng mang xã tắc, lo lắng cho thiên tử hay là sợ quân sĩ trong tay lão phu?
Âm Phổ vừa thẹn vừa sợ, rối rít giải thích:
— Lưu Ích Châu đâu dám khinh mạn triều đình. Chẳng qua đất Thục ở xa, Hán Trung lại có giặc gạo[371] chặn đường, nên mới chậm trễ...
— Hừ! - Tào Tháo chế giễu, - Năm xưa, bọn Mã Đằng, Hàn Toại xâm phạm Trường An, Lưu Yên thông đồng với chúng, gửi năm ngàn quân cho giặc, còn sai hai con là Lưu Phạm, Lưu Đản làm nội ứng. Khi đó, sao không có chuyện giặc gạo chặn đường? Lẽ nào đất Thục có ác quỷ, chỉ cho quân phản loạn đi qua, còn ngăn cản người triều kiến thiên tử?
Chuyện Lưu Yên cấu kết với Mã, Hàn là sự thực, Âm Phổ không dám giảo biện, chỉ thành thật nói:
— Thưa, bây giờ giặc gạo Trương Lỗ chưa âm mưu tạo phản...
— Hay cho câu âm mưu tạo phản! Không biết ai là kẻ âm mưu tạo phản? - Tào Tháo đã sớm điều tra rõ chuyện ở đất Thục, - Trương Lỗ vốn là thuộc hạ của Lưu Yên, được cử đi đánh Thái thú Hán Trung Tô Cố, chiếm địa hạt của ông ta. Nói giặc gạo chặn đường chẳng bằng nói chúng thay Lưu Yên trấn giữ đường vào đất Thục, ngăn chặn quân triều đình. Mấy năm trở lại đây, Trương Lỗ bất hòa với Lưu Chương mới cát cứ Hán Trung, tự dựng uy phúc. Ngươi tưởng rằng lão phu ở tận Trung Nguyên không biết được quỷ kế ấy sao?
Tào Tháo vạch trần chân tướng của Lưu Yên, Âm Phổ không ngồi yên được nữa, run rẩy quỳ sụp xuống: — Bỉ chức không dám cãi lời minh công, có điều lão châu mục qua đời đã nhiều năm, Lưu Ích Châu hiện nay bản tính thuần lương, từ ngày kế nhiệm luôn hậu đãi bách tính, không dám tự ý động binh đao. Lưu Ích Châu phái bỉ chức yết kiến thiên tử, giao hảo với minh công là thành tâm, xin minh công thể lượng! - Âm Phổ nói Lưu Chương bản tính thuần lương là thật, còn chuyện Lưu Chương không dám động binh đao không phải do ông ta tự biết xấu hổ, mà chẳng qua ông ta nhu nhược bất tài, không có bản lĩnh gây sóng tạo gió như cha mình thôi.
— Mấy câu này mới đúng lương tâm... Đứng lên đi! - Tào Tháo giáo huấn Âm Phổ trong khi mắt vẫn nhìn về chiến trường, - Ta chỉ cho các ngươi một con đường sáng. Cổ nhân nói “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan”,[372] chỉ cần Lưu Chương tôn kính triều đình, cùng tiến cùng lui với lão phu thì lo gì không có kết cục tốt đẹp? Sau khi trở về, ngươi hãy thay ta chuyển lời đến hắn, lão phu làm việc công tội phân minh, sẽ không đổ tội của phụ thân hắn lên đầu hắn, miễn sao hắn chịu vâng lệnh triều đình. Đợi đến khi thiên hạ thái bình có thể được cắt đất phân phong, hoặc ít nhất cũng không đến nỗi mất tước hầu. Ta đảm bảo con cháu hắn được hưởng phú quý, cũng đảm bảo tiền đồ của nhân sĩ Thục Trung các ngươi.
— Dạ. - Âm Phổ trịnh trọng đáp lại, - Tại hạ xin ghi nhớ lời này, không phụ lòng ký thác của minh công. - Dứt lời liền cáo từ, không dám nán lại thêm một khắc.
— Đợi đã! - Tào Tháo gọi giật lại, đổi giọng ôn hòa, - Ngươi từ xa đến cũng chẳng dễ dàng gì, lão phu không để ngươi về tay không được. Ta sẽ dâng biểu lên thiên tử, xin phong cho Lưu Chương làm Chấn Uy Tướng quân, huynh trưởng hắn là Lưu Mạo làm Bình Khấu Tướng quân. Ngươi tới Hứa Đô nhận chiếu thư, ấn tín, coi như cũng được vẻ vang khi quay về phục lệnh.
Đúng là sáng nắng chiều mưa, ban nãy Âm Phổ còn bị trách mắng, tưởng khó giữ nổi mạng, thế mà giờ lại được phong thưởng. Mang được hai đại ấn kia về, Lưu Chương há lại không ban thưởng? Âm Phổ sung sướng, vái lạy liên hồi:
— Đa tạ Tào công, tại hạ trở về nhất định khuyên chúa công quy thuận triều đình, thuế khóa lao dịch mãi mãi không dứt...
— Được rồi, được rồi, những lời đó để về nói với Lưu Chương đi. - Tào Tháo xua xua tay đuổi Âm Phổ. Trong lúc hai người họ nói chuyện, Hình Ngung vẫn luôn đứng cạnh quan sát, thấy Âm Phổ hoan hỷ xuống núi, ông ta khẽ gật gù:
— Tào công thật cao minh!
Tào Tháo mỉm cười:
— Sao? Tiên sinh quá khen rồi.
— Tại hạ không có ý xiểm nịnh, minh công quả là một bậc lão thành mưu quốc. - Hình Ngung nói một mạch, - Cha con Lưu Yên, Lưu Chương cát cứ đã lâu, Âm Phổ tới đây há có thể thành tâm? Minh công cố ý nói lời đe nẹt, lại ban chút ơn huệ, luận công luận tội phân minh, chuyện cũ không tính là để cởi bỏ nghi kỵ, khiến người này trở về ca tụng ân đức của triều đình, khiến Lưu Chương quy thuận.
— Ha ha ha!... - Tào Tháo vuốt râu cười khà khà, - Tiên sinh có thể nhìn rõ mẹo nhỏ của lão phu mới chính là cao nhân. — Tại hạ không dám nhận.
— Thực ra Lưu Chương chỉ là một kẻ tầm thường, chẳng có dã tâm gì, cho nên lão phu mới nghĩ cách lôi kéo. Nếu hắn có mưu đồ bất chính, làm loạn thiên hạ, ta đây sẽ chẳng phí lời. Đối với những kẻ ngông cuồng... - Tào Tháo nói nửa chừng bỗng dừng lại, chỉ tay về phía chiến trường.
Lúc này Hình Ngung mới nhận ra trận thế đã có sự thay đổi. Trước thế công mạnh mẽ của quân Tào, quân Liêu Đông liên tục rút lui. Một đội kỵ binh dũng mãnh của Tào quân xông vào giữa chỗ đông nghịt quân địch, không lâu sau đã khiến quân địch tan tác, mất hết đội hình. Có tên hoảng sợ kêu lên:
— Liễu Đô đốc bị giết rồi!
Quân Liêu Đông thấy tướng lĩnh chết trận thì mất ý chí chiến đấu, vứt bỏ cả vũ khí mà tháo chạy. Nhưng muốn trốn đâu có dễ? Quân Tào vung đao múa gươm chia cắt quân Liêu Đông thành từng cụm rồi thả sức chém giết. Phút chốc sắc đỏ loang lổ, máu chảy thành vũng, những cái xác đầu lìa khỏi cổ chồng chất lên nhau. Vòng vây thu hẹp lại cho đến khi quân Tào hợp lại một chỗ, cùng hò hét vang trời: Quân địch đã bị tận diệt!
Hình Ngung toàn thân nhễ nhại mồ hôi, bất giác lẩm bẩm: — Đúng là quân hổ báo!
Tào Tháo vươn người đứng dậy, vỗ vai Hình Ngung lúc này vẫn chưa hết run, nói:
— Chúng ta hồi doanh thôi, mời tiên sinh đi cùng lão phu. Hình Ngung lấy lại hồn vía, vội vàng đứng lên:
— Thảo dân không dám. - Dù sao ông ta cũng chỉ là một thường dân, nào dám sóng hàng với Tam công đương triều. Tào Tháo không phân bua, nắm chặt cổ tay Hình Ngung: — Thường dân quen sống với những tập tục cũ, bậc hào kiệt cứ theo bản tính mà làm. Phép tắc trên đời đâu dành cho chúng ta, tiên sinh là khách quý của lão phu!
Hình Ngung bị nắm đến phát đau, nhưng trong lòng lại vui sướng khấp khởi.
Đãi hiền nạp sĩ
Tào Tháo và Hình Ngung cùng cưỡi ngựa hồi doanh, chúng tướng, duyện thuộc tránh cả sang hai bên. Binh sĩ thắng trận hát vang khúc khải hoàn, chẳng mấy chốc đã về đến đại doanh.
Tào quân giờ đã khác trước, ngoài những bộ hạ cũ ra còn có chúng nhân Hà Bắc mới quy thuận, binh tướng đông như kiến cỏ, quan lại theo hầu Tào Tháo chẳng khác nào một triều đình nhỏ. Chưa kể quan địa phương cũng kéo tới không ít, khiến cho trướng trung quân không đủ chỗ chứa, phải dựng tạm soái đài bên ngoài. Chân đài cao hơn một trượng, bên trái cắm cờ bạch mao, bên phải treo búa hoàng việt, trên đài chỉ có một chỗ ngồi với một soái án.
Tào Tháo nhảy xuống ngựa, bước qua viên môn, lên thẳng trên đài, quay sang dặn dò thân binh:
— Kê thêm chỗ trên soái đài để Hình tiên sinh ngồi! Hình Ngung giật nảy mình, không dám vượt quyền. Gián nghị đại phu Đổng Chiêu bước ra cười ha hả:
— Hình tiên sinh đã tới đây rồi thì cứ thuận theo đi. Mời ngài lên trên nghỉ tạm.
Trọng Trường Thống, Quách Gia cũng tới khuyên, Hình Ngung không từ chối được mới e dè bước lên đài, vái một vòng rồi ngồi xuống cạnh chỗ chủ soái.
Lúc này văn võ toàn doanh đều đứng hầu, ngoài Tào Tháo ra chỉ có một mình ông được ban ngồi, thể diện lớn đến nhường nào! Hình Ngung dần thả lỏng cơ thể, đưa mắt nhìn những thuộc liêu chen chúc phía dưới, trong đó có không ít gương mặt quen thuộc. Bọn Vương Tu, Lý Phu, Lệnh Hồ Thiệu từng ở dưới trướng Viên Thiệu, hay như nhi tử của cố Thượng thư Lư Thực là Lư Dực, đệ đệ của danh sĩ Hà Nội Trương Phạm là Trương Thừa cũng đang xếp hàng. Những nhân vật tên tuổi ở đất Hà Bắc hôm nay đều ở dưới chân ông. Hình Ngung chợt thấy vinh hạnh vô cùng, giấc mộng làm quan lại được dịp trỗi dậy.
Dặn dò xong đâu vào đấy, Tào Tháo ngồi xuống, một viên tướng trung niên râu dài mặt trắng bước ra khỏi hàng, quỳ dâng một cái túi căng tròn:
— Mạt tướng Vu Cấm đã đánh tan quân Đông Hải, chặt đầu phản tặc Xương Hi. Xin dâng thủ cấp của hắn lên chúa công! - Xương Hi là biệt hiệu thổ phỉ của Xương Bá, Vu Cấm gọi thẳng như vậy, đủ thấy hàm ý khinh miệt.
Thân binh nhận thủ cấp, mang lên soái đài, Tào Tháo hé mắt hỏi:
— Lão phu nghe nói Xương Hi cạn kiệt lương thảo nên chủ động xin hàng. Vì sao Văn Tắc không xin lệnh của ta đã tự ý chặt đầu hắn?
Vu Cấm cung kính đáp:
— Chúa công có lệnh, không được tha cho những kẻ đầu hàng sau khi vây thành.
Tào Tháo vân vê chòm râu:
— Lệnh là không tha, nhưng bắt bỏ xe tù cũng đâu phải trái lệnh. Huống hồ, Xương Hi còn là đồng hương Thái Sơn với ngươi. Quân ta vây thành, hắn một mình chạy tới chỗ ngươi đầu hàng, hẳn là nghĩ ngươi sẽ niệm tình đồng hương mà xin lão phu tha mạng. Văn Tắc không nể tình riêng, cố nhiên là tốt, nhưng tiên trảm hậu tấu không sợ người đời nói ông hà khắc, vô tình sao?
Vu Cấm bắt tay thề:
— Chấp hành pháp lệnh chính là tiết tháo của kẻ dưới khi thờ người trên. Mạt tướng sao có thể vì Xương Hi là đồng hương mà đánh mất tiết tháo? Hơn nữa, Xương Hi cứng đầu, đây đã là lần thứ năm hắn tạo phản, nếu lại tiếp tục khoan thứ chẳng giúp hắn nuôi chí làm thổ phỉ? Mạt tướng lo sợ người trong thiên hạ thấy chúa công chấp pháp khoan dung, ngày sau sẽ tùy tiện cử binh tạo phản, đến lúc thất bại lại lũ lượt đầu hàng xin tha mạng. Luẩn quẩn như vậy biết tới khi nào thiên hạ mới an định?
Tào Tháo thừa hiểu đạo lý đó, song một tên Xương Hi tép riu, chỉ có một ngàn tám trăm quân, muốn lấy mạng hắn lúc nào chẳng được, há lại để hắn tạo phản đến lần thứ sáu hay sao? Chẳng qua Tào Tháo muốn tiến gần hơn đến hoàng quyền, nên mới giả vờ biểu dương nhân nghĩa, lung lạc nhân tâm. Ông chỉ muốn giữ lại kẻ đã năm lần tạo phản làm một quân cờ để cho thiên hạ thấy được tấm lòng bao dung của mình mà thôi.
Vu Cấm là võ tướng nhưng vô cùng tinh ý, vừa thấy biểu hiện nhỏ của Tào Tháo đã đoán ngay ra tám chín phần tâm tư chúa công, vội nói lời chu toàn:
— Chúa công nhân ái, độ lượng, ban phát ơn trạch rộng khắp bốn biển, nhưng thiên hạ rộng lớn luôn có những kẻ hồ đồ, ngu xuẩn. Người hiểu phải trái thì cảm kích tấm lòng của chúa công, còn kẻ không biết lý lẽ có lẽ còn nói chúng ta không biết dụng binh, đánh năm lần mà không hàng phục được một tên Xương Bá! Đã vậy, cứ để mạt tướng mang tiếng hà khắc. Chỉ cần chúa công có thể quét sạch loạn lạc, ổn định tứ phương, mạt tướng dù có phải thịt nát xương tan cũng không hối tiếc, nào sợ mấy lời xì xào, trách móc?
Những lời này vừa ca ngợi công đức vừa thể hiện lòng trung, thật khó tin lại được thốt ra từ miệng một võ tướng, Tào Tháo liên tục gật gù:
— Tấm lòng trung thành của Văn Tắc rất đáng khen! Chuyện này không thể trách lão phu khoan dung, cũng không thể trách Văn Tắc hà khắc, có trách thì phải trách Xương Bá hàm hồ, ngu xuẩn. Một mình tới chỗ Văn Tắc xin hàng, há
chẳng phải tự nộp mạng? Giết kẻ tạo phản là việc nên làm, ta ghi công lớn cho Văn Tắc!
Tào Tháo hài lòng nhưng những tướng lĩnh khác nghe xong lại hậm hực khó chịu, họ đều cho rằng Vu Cấm đang xu nịnh. Nói cái gì thịt nát xương tan, không sợ người đời chê trách, lẽ nào ngoài ông ta ra thì không còn trung thần nào nữa? Trương Liêu đứng cạnh Vu Cấm, từng kết giao với Tang Bá, Tôn Quan, Xương Hi, cũng nghĩ Vu Cấm quá nhẫn tâm, thấy ông ta ăn nói hùng hồn, kiếm được công lao lại càng không phục. Trương Liêu bước ra khỏi hàng nói:
— Mạt tướng cũng có tin mừng! Khi nãy mạt tướng đã chém chết Đô đốc quân phản tặc là Liễu Nghị, đầu hắn đang ở đây!
Trương Liêu không tế nhị như Vu Cấm, không bọc thủ cấp lại mà chỉ túm nắm tóc giơ lên cho Tào Tháo xem. Thủ cấp vừa bị chặt vẫn còn nóng, máu nhỏ ròng ròng. Các văn sĩ thấy vậy đều nhíu mắt nhăn mày, có người còn lấy tay áo che mặt, Hình Ngung ngồi phía trên cũng rợn cả người. Nhưng Trương Liêu không thèm để ý, cố ý huơ huơ cái đầu bê bết máu trước mặt Vu Cấm: “Hăng hái tranh công: người ta tới xin hàng, thế mà ông trở mặt vô tình, làm thịt người ta để lập công, còn cái đầu này bị ta chém ngay giữa trận đấy!”
Vu Cấm cười nhăn nhó, hai mắt cụp xuống, không buồn đối lý với Trương Liêu, lặng lẽ lui về hàng. Tào Tháo ngửa mặt lên trời cười lớn:
— Tốt lắm! Vừa rồi quân địch nháo nhác, ta đã đoán được người lập công chính là ngươi. Lão phu nghe nói Liễu Nghị từng xúi cha con Công Tôn Độ tiếm xưng “Liêu Đông vương”, có thể thấy hắn cũng là một tên vô pháp vô thiên. Giết hay lắm, ghi công lớn cho Văn Viễn tướng quân.
— Đa tạ chúa công! - Trương Liêu vẻ mặt hoan hỷ, lại nói, - Tuy Liễu Nghị đã chết, nhưng hải tặc Quản Thừa vẫn chạy thoát, mạt tướng xin đi bắt hắn.
— Khoan đã! - Một viên quan địa phương phía đông Thanh Châu bước ra nói, - Bỉ chức có việc xin bẩm báo.
Tào Tháo liếc mắt nhìn - thì ra là Thái thú Trường Quảng Hà Quỳ, tự Thúc Long. Trường Quảng ban đầu chỉ là một huyện, do bọn Quản Thừa, Liễu Nghị làm loạn nơi đây nên mới phải đổi thành quận để tăng cường cai trị. Việc Hà Quỳ muốn bẩm báo hẳn có liên quan đến bọn phản tặc này.
Quả nhiên, Hà Quỳ thẳng thắn nói:
— Bỉ chức mạo muội xin chúa công tạm dừng việc dụng binh.
— Vì sao?
— Các hòn đảo nhỏ phân bố rải rác, Quản Thừa lại lẩn trốn nhiều năm, nắm rõ địa hình, chỉ e quân ta vội vàng hành động không những không bắt được hắn mà còn đẩy hắn đi gây hại nơi khác. Thứ nữa, quân của Quản Thừa tuy là hải tặc nhưng cũng có không ít ngư dân. Khi Viên Đàm nắm chính sự đã bóc lột sức dân, bức họ không còn đường sống mới phải đi làm hải tặc, xét về tình cũng rất đáng thương. Trong đám thuộc hạ của bỉ chức có một viên quận lại tên là Hoàng Trân, thời trẻ khá thân thiết với Quản Thừa, bỉ chức xin được phái hắn đi du thuyết. Nếu có thể khiến Quản Thừa quy hàng, hải tặc trở lại làm dân thường thì vùng duyên hải tự khắc sẽ yên. - Hà Quỳ nói vẻ nhẹ nhõm nhưng trong lòng bồn chồn lo lắng - ông ta xuất thân là hào tộc Dự Châu, vốn chủ trương phải ưu tiên trọng dụng hào tộc, việc gì có thể tránh được thì cố tránh, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Mặc dù cũng có chút thành tựu nhưng lại trái với ý muốn chế áp cường hào của Tào Tháo. Giờ ông ta còn dám ngang nhiên ngăn cản việc dụng binh, há không lo sợ? Hà Quỳ từng có thời gian làm duyện thuộc trong phủ Tư không, biết rõ Tào Tháo tính dễ nổi giận, kẻ dưới làm việc không được như ý thường bị phạt đánh. Mặt khác, ông ta là danh môn, coi trọng thể diện hơn tính mạng của mình, chẳng đời nào chịu nhục trước người khác, bởi vậy đã thủ sẵn lọ thuốc độc trong ống tay áo. Vạn nhất Tào Tháo hạ lệnh phạt đánh, ông ta sẽ lập tức uống thuốc độc tự vẫn!
Nào ngờ Tào Tháo suy nghĩ một lúc, lại gật đầu khen: — Tấm lòng nhân ái thay! Vậy việc chiêu an giao cho ngươi toàn quyền xử trí.
Hà Quỳ nới lỏng lọ thuốc độc, thở phào nhẹ nhõm: — Bỉ chức tuân lệnh.
Những việc cần xử lý chỉ có vậy, mọi người không nói gì nữa, Tào Tháo nhìn khắp quần liêu văn võ, nói vẻ sâu xa: — Nay Liễu Nghị, Xương Hi đã bị chém đầu, việc chiêu an Quản Thừa đã được bàn định. Còn bọn Tang Bá, Tôn Quan, quân ta cũng đã tiến vào Tế Nam, không lâu nữa sẽ bình định được. Đợi khi Thanh Châu ổn định, có thể dâng tấu xin phế bỏ tám nước chư hầu! - Tào Tháo đã có ý soán ngôi nhà Hán, ngoài việc phải mau chóng thống nhất thiên hạ thì phế bỏ tám nước chư hầu cũng là bước đi không thể thiếu. Lần trước ông kể tên tám quận quốc là Phế Tề, Bắc Hải, Phụ Lăng, Hạ Bì, Thường Sơn, Cam Lăng, Tể Bắc, Bình Nguyên, ngoài mặt không ai dám nói gì nhưng lại lén bàn ra tán vào. Hôm nay thấy ông chủ động nhắc lại chuyện này, mọi người chỉ cúi đầu lẳng lặng mà nghe.
Tào Tháo tỏ vẻ chân thành, nói giọng ôn hòa:
— Gần đây trong triều đều có người bàn luận, nói rằng lão phu phế bỏ tám nước chư hầu là có dụng ý khác. Bậc quân tử luôn thẳng thắn, vô tư, kẻ tiểu nhân thường hay lo lắng, ưu sầu. Dù có người không hiểu, lão phu vẫn quyết ý làm. Xưa, Quang Vũ Đế phong vua chư hầu là để hậu đãi tôn thất, muốn họ bảo vệ xung quanh triều đình, an định bách tính. Vì vậy, quan đứng đầu quận quốc không gọi là “Thái thú” mà gọi là “Tướng quốc”, thể hiện ý nghĩa họ sẽ giúp vua chư hầu xử lý chính vụ... Từ khi xảy ra loạn Khăn Vàng, các chư hầu tôn thất không đứng ra cứu nước mà còn rụt cổ lo sợ. Ban đầu Trương Giác tạo phản, Thường Sơn vương Lưu Hạo, Hạ Bì vương Lưu Ý bỏ mặc xã tắc mà chạy trốn, làm trò cười cho thiên hạ! Như thế còn xứng được cắt đất phân phong hay sao? Còn có những vua chư hầu qua đời đã lâu, thiên hạ loạn lạc không tìm được con cháu kế tục, cũng nên phế bỏ. Không phải cố hương của thiên tử mà vẫn xưng là quận quốc, thậm chí nuôi một đống quan viên vô dụng bất tài, chẳng lãng phí tài lực của quốc gia sao!
Nói đến đây, Tào Tháo thấy những lý do mình đưa ra đã đầy đủ, lại bắt đầu hạ giọng:
— Tất nhiên, có phế thì cũng phải có lập. Mấy hôm trước ta phái người đi nghe ngóng, đã tìm được con trai của cố Lang Gia vương Lưu Dung trong dân gian, tên là Lưu Hi. Người này không phải trưởng tử của Lưu Dung nhưng kính cẩn giữ lễ, tấm lòng độ lượng, lão phu đã dâng biểu lên triều đình cho ông ta nhận chức Lang Gia vương, khôi phục quận quốc, kế thừa tổ nghiệp. Người trong thiên hạ có thể thấy, Tào mỗ công chính vô tư, không có ý tiếm quyền! - Việc này còn có ẩn tình, Tào Tháo phế bỏ tám nước chư hầu cùng một lúc, nếu không dựng tạm một chư hầu vương mang ý nghĩa tượng trưng, chỉ e sẽ gây ra nhiều thị phi. Vả lại, năm xưa ông phụng mệnh nghênh đón thiên tử tới huyện Hứa, cố Thị trung Lưu Mạc có nhiều công giúp sức. Lang Gia vương Lưu Dung là huynh trưởng của Lưu Mạc, Lưu Hi lại là cháu ruột của Lưu Mạc, làm vậy coi như có chút báo ân. Nếu đổi lại là nước khác, Tào Tháo há có thiện ý?
Hình Ngung chưa từng làm quan trong triều nên không nhìn ra ẩn tình, cứ nghĩ rằng Tào Tháo công chính nghiêm minh, không sợ thị phi. Liên hệ với những gì mắt thấy tai nghe trong những ngày vừa qua, ông ta càng cho rằng Tào Tháo là bậc lương đống của nước nhà, có uy có đức, trí dũng song toàn, bèn hạ quyết tâm dốc sức tương trợ, thầm cười Điền Trù quá thận trọng, kêu ông tới thăm dò đúng là thừa...
Tào Tháo vừa đi vừa nói rành rọt, vờ như vô tình dừng lại trước mặt quân sư Tuân Du, cao giọng nói:
— Người nên phế thì phải phế, người nên lập thì phải lập, đó là đạo lý muôn đời không đổi. Khi nào nên làm gì, trong lòng lão phu đều có tính toán. Mong rằng chư vị có thể hiểu được, chớ phụ tình nghĩa chúng ta cùng chinh chiến bao năm... Bãi trướng. - Tào Tháo nói nửa ngày, chỉ có mấy câu cuối mới thật lòng.
Chúng quan văn võ ai về doanh nấy, Tuân Du cũng cúi đầu rời đi. Tào Tháo nhìn bóng lưng ông ta mà thở dài. Tuân Úc năm xưa cùng ông dựng nghiệp, thế mà giờ lại là thế lực lớn nhất trong triều phản đối việc ông lên ngôi hoàng đế. Tuân Du là cháu họ của Tuân Úc, giữ chức quân sư rất có uy vọng, ông không thể không lôi kéo... Ngẩn ngơ giây lát, Tào Tháo mới sực
nhớ ra trên soái đài còn có người! Ông quay lại thì Hình Ngung đã bước xuống dưới từ lúc nào, cúi đầu thi lễ:
— Minh công liệu kế tất thắng, sùng hiền kính sĩ, thưởng phạt sáng suốt, khiến tại hạ mở rộng tầm mắt. Thật không hổ là danh tướng lương thần đương triều.
— Tiên sinh đâu cần quá khen như vậy? Lão phu thực không dám nhận. - Tào Tháo liên tục xua tay.
Hình Ngung bội phục sát đất, càng cảm động trước lễ mạo của Tào Tháo, vì vậy quyết định nói ra chủ ý của mình: — Thực không dám giấu, lần này tại hạ tới đây không chỉ muốn ra mắt minh công, mà còn vì chuyện đánh dẹp quân Ô Hoàn.
— Vậy sao? Thật trùng hợp! - Tào Tháo vuốt chòm râu, - Lão phu cũng có ý đó, nhưng người Ô Hoàn và Viên Thượng đóng quân ở Liễu Thành, cách huyện Vô Chung sáu trăm dặm, núi non hiểm trở. Quân ta tuy đông nhưng không có đường vận lương, lại không thông thuộc địa hình, biết phải tiến quân ra sao? Nếu có người dẫn đường thì tốt...
Hình Ngung lùi lại hai bước, vái một vái dài:
— Minh công không chê, tại hạ xin dẫn đường!
Sao lại có chuyện trùng hợp đến thế? Đúng lúc Tào Tháo cần người dẫn đường thì lại có kẻ đứng ra đảm đương? Hình Ngung thực sự mắc bẫy của Tào Tháo!
Mấu chốt nằm ở nửa tháng Hình Ngung nán lại Nghiệp Thành. Tào Tháo không ở Nghiệp Thành, trên danh nghĩa Tào Phi phụ trách lưu thủ, nhưng kỳ thực quân vụ do hiệu úy Tuân Diễn cai quản, còn chính vụ có Trưởng sử Thôi Diễm xử lý, Tào Phi chỉ ngồi trấn, chẳng phải động vào việc gì. Từ lâu đã được nghe nói về “Hình Tử Ngang đức hạnh vòi vọi”, nhân dịp Hình Ngung đến Nghiệp Thành, Tào Phi muốn thể hiện mình biết quý trọng người tài, nên mới tiếp đãi ân cần. Không ngờ ông ta ở lâu, Tào Phi dần dần phát hiện ra Hình Ngung còn có mục đích khác, lại thêm bọn Lưu Trinh, Nguyễn Vũ khéo chuyện trò dẫn dắt, nghe Hình Ngung có nhắc tới người Ô Hoàn, Tào Phi liền đoán ngay ra ý đồ.
Tào Phi ngầm đưa tin tới Tào doanh. Tào Tháo và Đổng Chiêu bàn kế, sắp xếp tỉ mỉ. Thế nên, khi Hình Ngung tới mới có chuyện quan viên xếp hàng nghênh đón, còn được quan sát quân uy, bước lên soái đài. Bằng không với chút tiếng tăm của mình, Hình Ngung há lại có được vinh hạnh như vậy? Ngay đến soái đài cũng vừa mới được Đổng Chiêu dựng trước đó một ngày để giúp Tào Tháo thu phục người dẫn đường đánh Ô Hoàn.
Tào Tháo bỏ bao tâm sức cuối cùng cũng thành công, mặc dù ngoài miệng ông vẫn tảng lờ, nhưng lại lấy hai tay đỡ Hình Ngung dậy:
— Ây dà! Không ngờ xa tận chân trời lại gần ngay trước mắt, tiên sinh biết đường đi Liễu Thành sao? Ngài chịu dẫn đường, lão phu cầu còn không được.
— Tại hạ ở núi Từ Vô nhiều năm, đã sớm tìm hiểu đường đi lối lại. Nếu dẫn quân theo hướng tây, qua Lệnh Chi, Phì Như rồi men theo đường nhỏ ven biển thì có thể tới được Liễu Thành. Minh công có binh hùng tướng mạnh, lại khoan dung độ lượng, phá Ô Hoàn tất dễ như trở bàn tay.
— Chuyện này mà thành là đều nhờ công của tiên sinh! — Không dám, - Hình Ngung lại nói, - Tại hạ biết chút ít về đường đi, muốn khắc chế quân địch còn phải cần đến một người. Tòng sự U Châu là Điền Trù năm xưa cùng tại hạ ở ẩn trong núi, ông ấy không chỉ thông thuộc địa hình mà còn biết rõ phong tục tập quán và tình hình của người Ô Hoàn như lòng bàn tay. Nếu được ông ấy giúp sức thì còn hơn mười lần tại hạ! Thực không dám giấu, lần này chính ông ấy sai tại hạ đi bái kiến minh công! - Hình Ngung nhất thời cao hứng đã bán đứng Điền Trù.
— Tốt quá! - Tào Tháo cười lớn, - Chẳng hay đó chính là Điền Tử Sái vượt ngàn dặm biên ải dâng tấu lên thiên tử? Lão phu ngưỡng mộ đại danh của ông ấy đã lâu, nghe nói cha con Viên Thiệu nhiều lần trưng vời mà không được, ta phải làm sao mới vời được ông ấy xuống núi?
Hình Ngung vỗ ngực nói:
— Cứ giao cho tại hạ.
— Vậy xin nhờ tiên sinh! - Tất cả đều như ý Tào Tháo, thật không uổng công tính toán.
Đổng Chiêu đứng bên cạnh dường như cho rằng Tào Tháo còn chưa đủ ân cần, bèn nhắc khéo:
— Chúa công định khoản đãi Hình tiên sinh như thế nào? Câu này khiến Tào Tháo sực tỉnh, vui vẻ nói:
— Mở tiệc tại trướng trung quân, lão phu phải đích thân kính rượu tiên sinh.
Đổng Chiêu phụ họa:
— Hình tiên sinh không biết đó thôi, chúa công đã ban lệnh cấm rượu. Nhân vì ngài tới mới phá lệ, ngài chớ phụ hậu ý! Đi nào, chúng ta vừa uống rượu vừa bàn bạc việc dụng binh.
Tào Tháo và Đổng Chiêu kẻ tung người hứng, khiến Hình Ngung ngây ngất.
Ba người cười nói đi vào đại trướng, hiệu sự Triệu Đạt chạy lại, ghé sát tai Tào Tháo thì thầm:
— Bẩm chúa công, Lư Hồng gửi mật báo nói rằng mấy ngày trước Thị ngự sử Trần Quần xin triều đình cải cách hình luật. Hình luật là điển lễ quan trọng của quốc gia, há có thể nói đổi là đổi? Trong này có âm mưu gì chống đối ngài chăng? Chúa công nhất định phải xem xét. - Hiệu sự có nhiệm vụ giám sát hành vi và lời nói của bách quan, sau đó ngầm báo lại với Tào Tháo. Triệu Đạt chạy từ Hứa Đô tới đêm qua, nghe nói đã bãi trướng bèn vội đến tìm ông.
Tào Tháo không thèm để ý đến Triệu Đạt, tự tay vén màn trướng mời Đổng Chiêu và Hình Ngung vào trước, rồi mới xoay người nói:
— Ngươi nhầm rồi, chính lão phu căn dặn Trần Quần đề cập chuyện cải cách hình luật.
Triệu Đạt thầm giật mình - hiệu sự hành sự bí ẩn, thế mà cũng không phát hiện ra được sự sắp xếp của Tào Tháo. Song hắn không dám hỏi nhiều, thành thực bẩm báo:
— Trần Quần dâng tấu xin bàn nghị chuyện này, nhưng Tuân Lệnh quân lấy lý do hiện không phải lúc thích hợp để nói mà gạt đi. Không biết tin tức rò rỉ thế nào, Khổng Dung đột nhiên nhắc lại trong buổi triều, cãi nhau ầm ĩ với Hy Lự ngay
trên điện, khiến Tuân Lệnh quân phải vội vàng cho sớm bãi triều.
Thị ngự sử Trần Quần vốn là bạn vong niên của Thái trung đại phu Khổng Dung, nhưng từ khi ông ta được Tào Tháo vời làm duyện thuộc, tình cảm dần xa cách. Còn Khổng Dung và Quang lộc đại phu Hy Lự xưa nay luôn bất hòa, hai người họ một người là đệ tử của học giả uyên thâm, còn một người là hậu duệ của thánh nhân[373], chẳng ai ưa ai.
Tào Tháo nghe xong không nổi giận, còn có chút hả hê: — Hay lắm! Cứ để bọn họ cãi nhau. Làm ầm chuyện ấy lên chẳng còn ai rảnh rỗi xen vào việc của lão phu nữa. Các ngươi không cần bận tâm, sau này tự khắc sẽ hiểu.
Tào Tháo không cho xen vào, Triệu Đạt còn biết nói gì? Hắn lùi lại phía sau thi lễ:
— Chúa công mưu tính sâu xa, biết hết chân tơ kẽ tóc, chúng tại hạ chỉ khéo lo trời sập... - Nói xong định cáo lui. — Khoan! - Tào Tháo gọi hắn lại, - Ta nói cho ngươi biết một việc. Hôm qua, ta đã nhận mệnh Cao Nhu làm Thích gian Lệnh sử, sau này ngươi và Lư Hồng là thuộc hạ của hắn, nhưng những chuyện cơ yếu vẫn phải trực tiếp bẩm báo với ta như trước.
Triệu Đạt không vui - Tào Tháo từng hứa hẹn với hắn và Lư Hồng, ai tận tâm làm việc sẽ được thăng làm Thích gian Lệnh sử, giờ Cao Nhu được ngồi vào vị trí đó, há lại không tức? Nhưng Triệu Đạt là kẻ mặt người dạ thú, không dám tỏ vẻ bực bội trước mặt Tào Tháo, chỉ nói giọng mỉa mai:
— Thuộc hạ xin tuân theo lời dặn của chúa công, sau này theo Cao Lệnh sử dốc sức phụng sự triều đình.
— Ngươi nói gì? - Tào Tháo lừ mắt nhìn hắn.
Triệu Đạt biết mình lỡ lời, vội chữa lại:
— Là dốc sức phụng sự chúa công ạ.
— Ừ, vậy mới đúng. Ngươi gửi thư cho Lư Hồng, bảo hắn để mắt tới Khổng Dung... - Tào Tháo nói đến đây, thấy Quách Gia dẫn Hoa Đà đi tới, liền nuốt vào những lời định nói. Quách Gia thì không sao, nhưng Hoa Đà vẫn chưa đủ tin cậy.
Quách Gia vái chào, miệng mủm mỉm cười:
— Bẩm chúa công, thê tử của Hoa Đà tiên sinh đổ bệnh, cần ông ấy về chữa trị. Nhưng ngài biết đấy, ông ấy là người thật thà, ngại mở miệng với ngài. Cho nên, ông ấy nhờ tại hạ nói giúp, xin chúa công cho phép ông ấy về thăm nhà.
Tào Tháo bật cười:
— Có gì phải ngại? Mấy năm qua, tiên sinh lập được không ít công lao, đến bệnh đau đầu của lão phu cũng chữa được, người nhà đổ bệnh lẽ nào lại bỏ mặc? Ta tặng tiên sinh một khoản lộ phí, đợi khi bệnh tình của tôn phu nhân thuyên giảm hãy trở lại làm việc.
— Đa tạ Tào công! - Hoa Đà cung kính thi lễ.
Tào Tháo nắm cổ tay Hoa Đà, nói nhỏ:
— Tiên sinh kê thuốc cho ta và nội nhân tốt lắm, Biện thị lại có thai rồi. Thật không ngờ nàng ta đã ngoài bốn mươi tuổi mà còn có thể sinh nở. Đúng là trâu già sinh nghé! Tiên sinh đi sớm về sớm, lão phu không thể thiếu ông được. - Dứt lời lại quay sang nói với Quách Gia, - Ngươi tới đúng lúc lắm, hãy cùng chúng ta uống rượu.
Quách Gia từ chối:
— Hai ngày nay thuộc hạ không được khỏe, có Công Nhân hầu rượu chúa công là được rồi.
Tào Tháo cũng nhận ra Quách Gia gần đây gầy đi nhiều, nhưng không quá để tâm:
— Không uống rượu thì tới góp vui cũng được.
— Thuộc hạ thực sự không thể đi được vì phải về nghĩ kế sách dụng binh nữa.
— Ây dà! Không phải ngươi thích đến những chỗ đông vui, náo nhiệt nhất ư? Sao tự nhiên lại đổi tính nết thế? - Tào Tháo nói đùa, - Người tự dưng giở quẻ là báo hiệu sắp chết, ngươi hãy cẩn thận đấy! Ha ha ha!... - Đoạn cười ha hả bước vào trong trướng.
Hoa Đà có chút áy náy:
— Đại ân đại đức của Phụng Hiếu, lão hủ đời này kiếp này không dám quên! - Vừa nói vừa vái một vái dài.
Triệu Đạt vẫn đang đứng cạnh, Quách Gia sợ hắn nhìn ra sơ hở, bèn cố nặn ra nụ cười:
— Chuyện nhỏ này có đáng gì, tiên sinh mau thu dọn đồ đạc. Qua mấy ngày nữa, trời trở lạnh lại không đi được. — Ây dà... - Hoa Đà run run nói, - Sau khi lão hủ đi rồi... Phụng Hiếu nhớ phải bảo trọng! - Rồi quay đầu rời đi. Triệu Đạt cảm thấy khó hiểu:
— Lão ta có chuyện gì nhỉ? Thi lễ mà lại rớm lệ, còn đòi xem bệnh cho người khác. Ta thấy lão có vấn đề! Quách Gia vội lấp liếm:
— Hừ! Một tên y lại thì hiểu gì chuyện đời. Chẳng qua ta giúp ông ta nói vài câu tốt đẹp, nên ông ta coi ta là ân nhân. — Có lẽ do ta làm hiệu sự đã lâu, nhìn ai cũng thấy có vấn đề.
— Ý ngươi là ta cũng có vấn đề? - Quách Gia lườm hắn. — Không dám, không dám, hiền đệ tài giỏi nhường nào! - Triệu Đạt biết Quách Gia được Tào Tháo trọng dụng, không dám chọc giận, - Ai cũng nói hiền đệ là cao nhân, có chuyện này ngu huynh muốn được thỉnh giáo. Tên Cao Nhu mới nhận chức Thích gian Lệnh sử có lai lịch thế nào mà được chúa công ưu ái vậy?
— Ưu ái? - Quách Gia lắc đầu cười nhăn nhó, - Có gì ưu ái, ta thấy chúa công cố ý chỉnh đốn hắn đấy chứ? Cao Nhu là tòng đệ của Cao Cán, ngày trước ta và chúa công đánh Hà Bắc suýt nữa bại trong tay Cao Cán, chúa công há lại không ghi hận? Chúa công cho hắn làm Thích gian Lệnh sử, trên danh nghĩa là cấp trên của các ngươi, nhưng lại chẳng có thực quyền. Xét về những chuyện thất đức mà các ngươi làm, người ngoài vẫn phải đặt các ngươi lên trên hắn. Ngộ nhỡ đắc tội với các ngươi, liệu có được yên thân không? - Quách Gia xem thường Triệu Đạt, nói toàn giọng khinh miệt.
Nhưng Triệu Đạt đã chai mặt, không thèm để ý:
— Nói như vậy, sau này ta nên hầu hạ Cao Lệnh sử thật tốt nhỉ? Ha ha...
— Ngươi bớt làm những chuyện thất đức đi!
Triệu Đạt che miệng cười:
— Ngu huynh chẳng có công lao đáng kể, mong gì được thăng quan phát tài? Ban nãy ta thấy Hoa Đà có biểu hiện lạ lắm, có khả năng một đi không trở lại. Nếu lão ta thật sự trốn mất, hiền đệ há chẳng bị liên lụy? Ta giúp hiền đệ sai vài tên theo dõi hắn. Hiền đệ thấy sao?
Triệu Đạt vốn định lấy lòng Quách Gia, nào ngờ Quách Gia trừng mắt quát:
— Hỗn xược! Con chó dại nhà ngươi chớ có cắn càn! Chớ có mở miệng ra là gọi ta một tiếng, hai tiếng “hiền đệ”, ta và ngươi không có giao tình! Còn dám nhiều lời, ta nói chúa công lột da ngươi! Khụ khụ khụ...
— Dạ dạ dạ. - Triệu Đạt thấy Quách Gia giận đến mức ho sặc sụa, liền cúi đầu chạy mất - hắn thà đắc tội với cha mình còn hơn làm mếch lòng Quách Gia!
Hồi thứ 98
Ra sức dẹp bỏ dị nghị, Tào Tháo viễn chinh Ô Hoàn
Thông đường vận lương
Tào Tháo đối đãi với Hình Ngung bằng lễ thượng khách, chỉ mất vài ngày đã khiến ông ta thành tâm thành ý muốn dốc sức cho mình. Thấy cũng sắp tới lúc quan trọng, ông liền chính thức nhận mệnh Hình Ngung làm Tòng sự Ký Châu, cấp cho mười thân binh, còn đích thân viết một đạo sắc lệnh, sai ông ta trở về mời Điền Trù.
Lại nói, Điền Trù nhờ Hình Ngung đi dò xét đức hạnh của Tào Tháo, nào ngờ mang được cả sắc lệnh của Tư không về. Ông ta thầm trách Hình Ngung hành sự qua quýt, nhưng cũng chỉ biết nhận lệnh tới Tào doanh. Tào Tháo nghe danh Điền Trù đã lâu, đãi ngộ ông ta còn hơn cả Hình Ngung.
Muốn tiến quân lên phía bắc, trước hết cần giải quyết vấn đề quân lương, đất U, Yên không cung cấp đủ mà phải điều động lương thảo từ Trung Nguyên tiếp tế cho đại quân. Tào Tháo theo kế của Đổng Chiêu, tập hợp quân dân đào kênh dẫn nước từ sông Đà vào sông Cô, đặt tên là kênh Bình Lỗ; lại đào một con kênh khác nối cửa sông Câu với sông Lộ, đặt tên là kênh Tuyền Châu. Không những có thể vận chuyển lương thảo mà còn kết nối Trung Nguyên với Hà Bắc, Liêu Đông bằng đường thủy, tăng cường sự cai trị.
Hà Quỳ thuận lợi chiêu hàng hải tặc Quản Thừa, dưới sự giúp sức của Trương Liêu, Nhạc Tiến, ông ta lại tiếp tục tiêu diệt được cường hào Vương Doanh gây rối Liêu Đông. Trong khi đó, Hạ Hầu Uyên hợp quân với các tướng Tang Bá, Tôn Quan,
Ngô Đôn ở Tế Nam, đánh tan đám giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu luôn lén lút cướp phá của dân. Đến đây, quân Khăn Vàng nổi lên từ năm Trung Bình thứ nhất (tức năm 184 sau Công Nguyên) cùng với tàn quân của chúng hoàn toàn bị diệt. Chiến sự ở Thanh Châu dần chấm dứt, các nước chư hầu như Bắc Hải, Bình Nguyên, Phụ Lăng lũ lượt cải tổ. Tào Tháo đóng quân tại huyện Thuần Vu mấy tháng, giải quyết ổn thỏa những việc còn lại sau chiến sự, sau đó lệnh cho tướng sĩ ba quân quay về Nghiệp Thành tĩnh dưỡng, còn ông dẫn một đám thân tín, duyện thuộc đi thị sát công trình kênh đào. Để đào xong hai con kênh trong một thời gian ngắn không hề dễ dàng, Đổng Chiêu chủ động xin phụ trách toàn bộ việc này, điều Hà Đê Yết giả Viên Mẫn cùng tới bàn bạc, đồng thời trưng dụng dân chúng tại các quận huyện ven sông đi lao dịch. Mùa đông đến, gió lạnh buốt xương mà công trình vẫn tiến hành không chút nơi lỏng...
Thế nhưng cũng không tránh được những cơn bão tuyết, trời đất bao la trắng xóa. Khi thì gió lớn gào thét, dựng lên những tảng băng cao vạn trượng; khi thì tịch mịch không một tiếng động, chỉ có những bông tuyết rơi lả tả bốn bề. Trận tuyết này khiến công trình đã phải dừng lại ba ngày, không biết khi nào tuyết mới tạnh. Tào Tháo đã cho đổi vải trong quân trướng bằng da trâu, lại bắc thêm mấy chậu than nhưng vẫn không thấy ấm. Trong khi đó, Điền Trù và Hình Ngung đứng hầu hai bên tả hữu, ở Hà Bắc nhiều năm vốn quen với kiểu thời tiết này, nên khi khoác áo lông cừu được Tào Tháo ban tặng, ngồi bên chậu than, người nóng đến sắp chảy mồ hôi.
Tào Tháo cuốn chặt áo lông cừu, bất giác than thở: — Quách Gia, Trương Tú đều ngã bệnh, ông trời chết tiệt! Sớm biết thế này, ta đã không cho Hoa Đà về thăm nhà. Hình Ngung an ủi:
— Họ không hợp thời tiết ở đây, chỉ cần tĩnh dưỡng vài ngày sẽ khỏe lại thôi. Chúa công chớ lo lắng quá. - Chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, Hình Ngung đã hoàn toàn trở thành người của Tào doanh, ngay bản thân ông ta cũng không hiểu được vì sao mình lại thay đổi nhanh đến vậy.
— Chỉ mong được như lời ngươi nói. - Tào Tháo thở dài, cúi xuống nhìn tấm da dê trên soái án - đó là bản vẽ công trình kênh đào Bình Lỗ, Tuyền Châu. Do tuyết rơi nhiều nên buộc phải tạm dừng. Nếu theo tiến độ trước đó cũng phải mất ít nhất hai tháng nữa mới có thể hoàn thành, quá trình vận lương lại bị chậm thêm một thời gian, kéo theo cả kế hoạch đánh Ô Hoàn cũng phải trì hoãn. Mà kế hoạch đánh Ô Hoàn bị hoãn lại có nghĩa là các bước nam tiến đánh Kinh Châu, đoạt lấy Giang Đông, thống nhất thiên hạ, kế đến là lên ngôi cửu ngũ cũng đều bị trì hoãn, Tào Tháo há không sốt ruột? Thế nhưng có nóng vội cũng làm gì được ông trời, tuyết vẫn cứ rơi thì chỉ có thể ngồi chờ thôi.
Điền Trù ngồi một bên không nói không rằng, chỉ cầm cái que gảy gảy than, như thể không nghe thấy màn đối đáp vừa rồi. Tào Tháo liếc nhìn ông ta, trong lòng đầy nghi hoặc: cùng là ẩn sĩ, sao tính khí hai người bọn họ lại khác nhau như vậy? Lôi kéo Hình Ngung như nước đổ thành sông, còn Điền Trù đến giờ vẫn tỏ ra thờ ơ, chớ nói là thành tâm thành ý đi theo, đến một tiếng “chúa công” cũng chưa từng gọi, dường như trước mặt ông ta có một bức tường thành vô hình, không tài nào vượt qua được. Điều này khiến Tào Tháo nhớ đến Giả Hủ, nhưng Giả Hủ mang tiếng gây họa cho đất nước mới buộc phải thận trọng e dè, Điền Trù đâu có gánh nặng nào, sao lại cự tuyệt từ xa như vậy?
— Chúa công đang nghĩ gì vậy? - Hình Ngung thấy Tào Tháo có vẻ trầm tư liền hỏi.
— Ây dà. - Tào Tháo mỉm cười, nghĩ một đằng nói một nẻo, - Lão phu đang nghĩ, tình hình hiện nay ở ba quận Ô Hoàn như thế nào? Ta chưa giao đấu với người Ô Hoàn lần nào, xin hai vị giải thích giúp.
Hình Ngung cũng cười:
— Thuộc hạ không biết nhiều bằng Tử Sái huynh, vẫn phải nhờ Tử Sái huynh tháo gỡ nghi hoặc cho chúa công. - Hình Ngung cũng nhận ra Điền Trù quá lạnh nhạt với Tào Tháo, cố ý đưa đẩy cho ông ta nói.
— Vậy cảm phiền Điền tiên sinh. - Tào Tháo rất khách khí.
— Không dám. - Điền Trù chỉ chắp tay qua loa, chẳng thèm nhìn Tào Tháo, - Người Ô Hoàn và Tiên Ti đều là những bộ lạc thuộc dân tộc Đông Hồ[374], vốn không phải bộ tộc lớn gì. Triều trước, Thiền vu Hung Nô Mặc Đốn đánh bại Đông Hồ, một nhánh của họ rút về núi Tiên Ti đổi tên là tộc Tiên Ti, còn nhánh khác rút về núi Ô Hoàn đổi tên là tộc Ô Hoàn, đều lấy tên theo ngọn núi cư trú. - Ông ta vừa khều than, vừa nói một mạch, - Người Ô Hoàn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, chủ yếu sống bằng việc săn bắn. Họ chăn thả gia súc men theo những nơi có đồng cỏ và nguồn nước, không ở một chỗ cố định. Căng vải làm nhà, cửa quay hướng đông đón ánh mặt trời, coi trọng thần linh. Ăn thịt uống sữa, dệt lông cừu làm áo. Sau này, triều đình muốn chống lại Hung Nô, bèn cho phép bọn họ vào gần quan nội, nên phong tục tập quán đã thay đổi, nhưng bản tính hung dữ thì vẫn vậy. Họ quý trọng người trẻ, khinh dễ người già, khi tức giận có thể giết cha, giết huynh đệ, song không khi nào giết mẹ, thủ lĩnh bộ lạc đều là kẻ dũng mãnh, hiếu chiến.
Tào Tháo chế giễu:
— Đúng là bọn mọi rợ không có luân lý, đạo đức. Điền Trù gật đầu:
— Hiện nay, thủ lĩnh người Ô Hoàn ở các quận đều giỏi đánh trận, có điều bọn họ tự ý chiến đấu không có trận thế, dựa vào quân của minh công thì không khó để phá tan được họ. Thủ lĩnh người Ô Hoàn ở quận Thượng Cốc là Nan Lâu, có hơn chín ngàn lều dân. Thủ lĩnh người Ô Hoàn ở quận Bắc Bình là Ô Diên, cũng có hơn tám trăm bộ chúng, tự xưng là “Hãn Lỗ vương”, theo Viên Thượng bỏ trốn. Còn có quận Liêu Tây...
— Chính là Ô Diên được người Ô Hoàn ở Liêu Tây chứa chấp cùng với huynh đệ Viên thị sao? - Tào Tháo cắt lời. — Đúng vậy. Thủ lĩnh người Ô Hoàn ở Liêu Tây có thực lực mạnh nhất, tuy chỉ có khoảng năm ngàn lều dân, ít hơn so với Nan Lâu nhưng đều là những tên dũng mãnh. Kẻ hai mươi năm trước cấu kết với phản thần Trương Thuần làm loạn cũng chính là thủ lĩnh người Ô Hoàn ở Liêu Tây, Khâu Lực Cư. Ban đầu hắn tự xưng là “Di Thiên An Định vương”, dẫn quân ở ba quận Ô Hoàn đánh bốn châu Thanh, Từ, U, Ký, tàn sát vô số
con dân đại Hán ta, khiến triều đình phải phái Công Tôn Toản đi đánh dẹp. - Nói đến Công Tôn Toản, đôi mắt ưu sầu của Điền Trù rực lên, đến nay ông ta vẫn không quên được mối thù của Lưu Ngu.
— Là Công Tôn Bá Khuê ư, - Tào Tháo tỏ vẻ thương tiếc, - Ông ta từng là một dũng tướng, tay cầm hai cây trường thương, dẫn ba ngàn kỵ binh xông pha chiến trường, được người Hồ gọi là “Bạch mã tướng quân”. Đáng tiếc sau này lại đi vào con đường cùng binh mãi võ...
Điền Trù không thích nghe người khác nói tốt về Công Tôn Toản, Tào Tháo chưa nói hết đã cướp lời:
— Cuộc phản loạn đó do chúa công Lưu Ngu nhà tại hạ chiêu mộ dũng sĩ hành thích Trương Thuần nên mới dập tắt được, đâu phải công lao của Công Tôn Toản.
Tào Tháo nghe ông ta gọi Lưu Ngu là “chúa công nhà tại hạ” trước mặt mình, trong lòng không vui nhưng chỉ biết cười trừ.
Điền Trù không biết mình thất thố, bình thản nói tiếp: — Lưu Ngu đối đãi khoan dung, nhân ái với dân tộc thiểu số, khiến Khâu Lực Cư tự nguyện bỏ việc xưng vương, những năm sau người Hồ và người Hán không xảy ra xung đột nào lớn. Hồi tại hạ mới đến núi Từ Vô, cũng bị người Ô Hoàn quấy nhiễu, tại hạ đã đánh một trận với họ. Về sau, bọn họ biết được tại hạ là thuộc hạ cũ của Lưu Ngu, lại có thù với Công Tôn Toản, bèn thay đổi thái độ, còn mang gia súc tới đổi lấy lương thực, hai bên chung sống yên ổn. Sau khi Khâu Lực Cư chết, trên danh nghĩa con trai hắn là Lâu Ban thống lĩnh bộ lạc, nhưng Lâu Ban còn nhỏ, nên cháu hắn là Đạp Đốn lại nắm thực quyền. Đạp Đốn dũng mãnh, lại có mưu lược, cai quản người Ô Hoàn ở cả ba quận Hữu Bắc Bình, Liêu Tây, Liêu Đông, giống như Đại thiền vu. Năm xưa, Viên Thiệu gặp lúc nguy ngập đã liên thủ với Đạp Đốn, đánh bại Công Tôn Toản. Sau đó, để báo đáp bọn họ, Viên Thiệu giả mạo chỉ dụ phong cho Đạp Đốn, Nan Lâu, Tô Bộc Diên làm Thiền vu, ban mui xe, cờ bạch mao để trợ uy, còn gả con gái nhà họ Viên cho người Ô Hoàn. Hỏng là hỏng bởi Viên Thiệu, muốn vỗ về cũng phải có giới hạn, phải
dùng cả ân và uy với người Hồ, chỉ phong thưởng thôi thì sẽ nuôi thêm dã tâm của Đạp Đốn.
Tào Tháo có thể hiểu được tâm tư của Viên Thiệu: “Viên Thiệu muốn củng cố hậu phương để tiêu diệt ta trước, rồi mới từ từ thu phục bọn mọi rợ kia, nhưng nào ngờ hắn lại thất bại trong trận Quan Độ.” Tào Tháo nghĩ vậy, song lại đón ý của Điền Trù:
— Viên Thiệu vì chút ơn nhỏ mà hại nước... Ban nãy tiên sinh có nhắc tới Tô Bộc Diên, thủ lĩnh người Ô Hoàn ở Liêu Đông, người này có quan hệ với Công Tôn thị chăng?
— Tô Bộc Diên xưng là “Tiễu vương”, thống lĩnh bộ lạc ở Liêu Đông, nhưng thực ra hắn đã bị Công Tôn Độ đuổi ra Liêu Đông, phải phụ thuộc Đạp Đốn. Công Tôn Độ lúc còn sống từng đông tiến đánh Cao Câu Ly[375], tây phạt Ô Hoàn, mở rộng địa bàn, vang danh biên thùy, tự xưng là Liêu Đông vương, Bình Châu mục, đến Đạp Đốn cũng phải nể hắn ba phần, Tô Bộc Diên là cái gì chứ
Tào Tháo tỏ vẻ vui mừng:
— Lần trước Công Tôn Khang vượt biển xâm phạm, mất cả chì lẫn chài. Ta sợ hắn cấu kết với người Ô Hoàn sẽ rút dây động rừng. Giờ nghe tiên sinh nói vậy thì chẳng còn lo lắng gì nữa, chỉ cần đánh tan quân Ô Hoàn, Công Tôn Khang không đáng lo.
Điền Trù vẫn còn chút tình cảm với cha con Công Tôn Độ: — Những năm gần đây, người Hán chúng ta tranh quyền đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, còn Công Tôn Độ làm vua đất này, mở rộng bờ cõi. Tuy hắn hung hãn bá đạo, tâm địa bất chính, nhưng cũng không làm mất mặt người Hán chúng ta! Trên địa bàn của Đạp Đốn hiện còn hơn mười vạn người Hán chịu ách nô dịch của người Hồ, minh công nhất định phải đánh bại bọn chúng để giải cứu con dân đại Hán ta!
Tào Tháo và Điền Trù đều muốn thu phục người Ô Hoàn, nhưng xuất phát từ những mục đích khác nhau. Điền Trù muốn giải trừ mối lo vùng biên cương phía bắc, xả hận cho người Hán; còn Tào Tháo cố nhiên cũng có ý này, song nghiêng về ý muốn truy sát Viên Thượng, Viên Hi, ngăn chặn những thế lực
còn sót lại của Viên thị ngóc đầu dậy. Đúng như Điền Trù nói, ba quận Ô Hoàn có hơn mười vạn người Hán cùng với những thổ hào U Châu đã theo Viên thị bỏ trốn, nếu sau này bọn họ bị huynh đệ Viên thị xúi giục, cộng thêm sự giúp đỡ của người Ô Hoàn thì không thể coi thường được. Tào Tháo trầm ngâm một lát, lại điềm nhiên nói:
— Ta định phái bộ tướng đi thay, nay xem ra phải đích thân ra trận. Xin nhờ hai vị giúp sức!
Hình Ngung chắp tay vái:
— Thuộc hạ dù có phải nhảy vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không từ.
Còn Điền Trù chỉ nói qua loa:
— Thảo dân sẽ dốc sức.
Tào Tháo hơi khó chịu nhưng vẫn cố nhẫn nhịn, lấy việc năm xưa mình từng thu phục được Quan Vũ, Trương Liêu làm niềm tin: “Cứ chờ xem! Ngươi không chịu gọi ta là chúa công, ta sẽ khiến ngươi phải cúi đầu trước ta! Sớm muộn gì ngươi cũng phải ngoan ngoãn quỳ dưới gối ta giống như Hình Ngung!”
Đúng lúc này, thân binh ở ngoài bẩm tấu:
— Độ Liêu tướng quân Tiên Vu Phụ cầu kiến.
— Cho vào. - Tào Tháo điều ông ta từ quận Vô Chung tới. Màn trướng được vén lên, Tiên Vu Phụ bước vào trong mang theo một luồng gió lạnh:
— Mạt tướng bái kiến Tào công!
— Quận Vô Chung có động tĩnh gì của người Ô Hoàn không? - Đây là điều Tào Tháo quan tâm nhất hiện giờ. — Trước mắt thì chưa có gì, thời tiết giá rét, mặt đất đóng băng, bọn chúng sẽ không dám tới quấy nhiễu lúc này. — Chắc hẳn bọn chúng đã biết chuyện chúng ta đào kênh vận lương, các ngươi tuyệt đối không được lơ là cảnh giác. — Mạt tướng hiểu rõ! Mạt tướng đã phái thuộc hạ đi tuần tra, nếu phát hiện ra người Ô Hoàn sẽ lập tức đưa thư đến doanh trại.
— Tốt lắm, ngươi hãy tạm ở lại chỗ ta. - Tào Tháo gật đầu hài lòng, - Ngươi đi đường ngược gió hứng tuyết, cực khổ lắm
không?
— Minh công lao lực vì nước, không quản nắng mưa, mạt tướng sao dám kêu khổ? - Tiên Vu Phụ rất biết ăn nói, - Lúc này tuyết đã rơi thưa hơn.
— Thật sao? - Tào Tháo nghe nói tuyết đã bớt dày, liền đứng bật dậy, - Ta đi xem thử!
Tiên Vu Phụ tranh vén màn trướng, không khiến thân binh phải động tay. Bên ngoài, quả nhiên tuyết đã ngớt rất nhiều, tuy chưa tạnh hẳn nhưng chỉ còn lất phất vài bông tuyết, bầu trời dần sáng sủa. Tào Tháo kéo chặt áo lông cừu, bước ra khỏi đại trướng, Hình Ngung và Điền Trù cũng theo ra ngoài.
Tuyết lớn nhuộm đất trời thành một màu trắng xóa, nhìn ngút tầm mắt, những ngọn núi xa xa và doanh trướng ở gần đều bị tuyết bao phủ. Những thân cây khẳng khiu trơ trụi như được khảm ngọc rung rinh trước gió. Tào Tháo sống quá nửa đời người nhưng chưa từng trông thấy cảnh tuyết rơi ở đất Yên Triệu, nên cảm thấy rất thích thú. Ông hít một hơi khí lạnh, tinh thần phấn chấn hẳn lên, bước một mạch qua viên môn tới chỗ kênh đào.
— Những chỗ lồi lõm đều bị tuyết lấp lên, chúa công xin hãy cẩn thận! - Hứa Chử lập cập dẫn binh sĩ đuổi theo. Tào Tháo xua xua tay:
— Các ngươi đi lùi lại, chớ làm mất hứng của lão phu. - Dứt lời, ông một tay dắt Hình Ngung còn tay kia định dắt Điền Trù, nhưng ông ta lại khéo tránh ra. Tào Tháo cũng không cưỡng ép làm gì, nhìn phong cảnh xung quanh, ngâm rằng, - “Gió bấc thổi mấy luồng vi vút; Mưa tuyết vừa bay trút tơi bời; Cùng ta thân ái những người; Dắt tay về hẳn, mau rời khỏi đây.”[376]
Quân doanh đóng ở gần bờ sông, xung quanh là lều trại của những người lao dịch. Đám người Tào Tháo đi được một quãng thì trông thấy Đổng Chiêu và Viên Mẫn mặc áo tơi đứng trước một gò đất nhỏ, trên người hứng không ít tuyết. Hai người họ khoa chân múa tay như đang bàn bạc chuyện gì đó.
— Công Nhân! - Tào Tháo đứng mãi đằng xa gọi, còn nói đùa, - Lão phu suýt nữa không nhận ra các ngươi, còn tưởng là
hai lão nông phu cục mịch!
Đổng Chiêu tháo nón lá xuống, để lộ vẻ mặt nặng nề, chẳng có tâm tư đùa bỡn:
— Chúa công, trận tuyết này làm hỏng đại sự của chúng ta rồi.
— Sao thế?
Đổng Chiêu chỉ tay về phía xa:
— Ngài nhìn xem, kênh rạch đều lấp đầy tuyết, bên dưới còn lớp băng dày, thời tiết giá lạnh có thể khắc phục được, chứ mặt sông đóng băng thì không có cách nào vận chuyển đá ở hạ lưu lên, phải dùng gia súc kéo hai ba ngày. - Đào kênh không đơn giản là khơi dòng dẫn nước, mà còn phải dùng đá kè lòng kênh, nếu không khi xả nước, đất cát sẽ sụt xuống làm tắc dòng chảy.
— Chúng ta đã tạm nghỉ ba ngày, không thể trì hoãn thêm nữa. - Tào Tháo mất hết hứng thú, - Lập tức truyền lệnh thi công tiếp, sai bách tính đục băng nhất định phải thông lòng sông!
Đục băng? Nói thì nghe hay lắm, thật sự làm mới khó. Làm việc trên mặt băng trong điều kiện giá rét, ngược gió, chỉ cần một chút bất cẩn là có thể bị tụt xuống sông băng. Vả lại không phải đục một lần là xong, với thời tiết này chỉ vài canh giờ sau lòng sông lại đóng băng, dân công phải liên tục khuấy nước, nếu nước đóng băng thì phải đục lại. Lăn lộn trong cái lạnh, bách tính làm sao chịu nổi? Mọi người đưa mắt nhìn nhau định can gián, nhưng Tào Tháo giành nói:
— Ta biết các vị muốn nói gì, con kênh này liên quan đến việc quân không thể kéo dài được. Lão phu sẽ đứng đây giám sát!
Quân lệnh truyền xuống, không lâu sau bách tính lục tục chui ra khỏi lều. Đất U, Yên nghèo đói, nhiều người không có nổi tấm da dê chống lạnh, phải quấn những lớp vải rách bên ngoài, chân bện giày cỏ rất dày, cho nên đi lại không tiện, loạng chà loạng choạng tiến lại bãi sông. Việc đục băng cần một lượng lớn dùi, đục, trong quân không có đủ; nhưng tướng lĩnh cũng không thể cho bách tính mượn đao, thương, kiếm, kích
được, vì sợ binh khí hoen rỉ, và cũng sợ bọn họ làm loạn. Phần đông lao dịch phải lấy đá đập, có những người tay rớm máu mà vẫn phải ra sức khoắng cọc gỗ, giành giật sự sống trên mặt băng.
Ông trời cũng thật biết trêu đùa, tuyết rơi ba ngày liền, không tạnh sớm hơn cũng không muộn hơn, lại chọn đúng lúc này. Tuyết vừa ngừng, gió lại nổi lên như dao cắt vào mặt, dù có quấn thêm lượt vải nữa cũng chẳng chống được cái lạnh, bách tính liêu xiêu nhưng cũng không dám lên bờ tránh gió - binh sĩ đang cầm roi da canh chừng bọn họ! Ai chịu được tội?
Điền Trù đau lòng, lại thấy Tào Tháo hờ hững nhìn mặt sông như thể thảy đều là chuyện đương nhiên, không nhịn được buột miệng nói:
— Tào công, nên hoãn đào kênh lại mấy ngày!
Tào Tháo xưa nay thực thi pháp lệnh nghiêm minh, một khi đã hạ lệnh thì nhất quyết không thay đổi. Có điều hiếm khi Điền Trù chủ động can gián, nên ông nói lảng sang chuyện khác:
— Ở đây gió lớn, mời Điền tiên sinh về trướng nghỉ ngơi. Điền Trù nhận được câu trả lời qua quýt, liền tranh biện: — Tại hạ thực không đành lòng nhìn dân chúng chịu khổ.
Cổ nhân có câu: “Nhân nãi nhân chi an trạch, nghĩa nãi nhân chính lộ.”[377] Minh công coi việc bảo vệ bách tính trong thiên hạ là chí nguyện của mình, sao có thể rời bỏ con đường chính đạo? - Điền Trù đã nói tránh, nhưng có khác nào chỉ trích Tào Tháo là kẻ bất nhân bất nghĩa?
Tào Tháo vẫn cười bảo:
— Tiên sinh dạy rất phải. Nhưng việc có phân ra nặng nhẹ, thong thả và cấp bách, lẽ nào ngài không muốn sớm đánh dẹp quân Ô Hoàn, giải cứu dân nô dịch sao?
— Thế nhưng...
Tào Tháo nói lý lẽ:
— Lão phu không cố tình làm khổ bách tính. Từ khi ta đánh bại Viên thị, tiếp quản Hà Bắc đã giảm thuế khóa, trừng trị nghiêm khắc những kẻ thôn tính ruộng đất, đối tốt với lê dân trăm họ hơn cả cha con Viên thị. Nay bọn họ đi đào kênh là thực hiện nghĩa vụ lao dịch của triều đình, không làm ở đây
cũng phải làm chỗ khác, chỉ có thể trách số họ chẳng ra gì. Vả lại, không phá Ô Hoàn, không diệt Viên Thượng, ngày sau khó tránh khỏi nạn binh đao. Nay họ dốc sức làm việc, không chỉ vì lão phu mà còn vì cuộc sống của chính mình, chịu khổ một giờ đổi lấy sự yên ổn muôn đời sau, há chẳng tốt sao?
Tào Tháo đem bản thân ra so với cha con Viên thị đã suy bại, chẳng phải là lươn ngắn lại chê trạch dài? Điền Trù muốn nói nữa, nhưng Hình Ngung chen ngang:
— Chúa công cũng vì nghĩ cho chiến sự, thà đau ngắn còn hơn đau dài thôi.
Điền Trù giật mình nhìn sang Hình Ngung như thể chưa từng quen biết.
Đột nhiên có tiếng kêu vang lên, một mảng băng gần đó nứt ra, có người không kịp tránh, rơi tõm xuống khe - nước lạnh xối vào khiến anh ta không vùng vẫy được, chỉ biết gào cổ kêu cứu. Mặt sông bỗng chốc trở nên hỗn loạn, dân chúng hốt hoảng trốn chạy, có kẻ định chạy lên bờ, binh sĩ trông coi vung roi xua đuổi, nên hầu hết lại chen chân quay trở lại; nhưng vẫn có mấy thiếu niên nhân lúc hỗn loạn đã chui ra ngoài, cắm cổ chạy về phía xa... Tào Tháo cau có quay đầu, phân phó Đổng Chiêu:
— Mau truyền lệnh, kẻ nào dám trốn lao dịch, giết ngay không cần bàn cãi. Bắt mấy tên vừa trốn về chém đầu thị chúng, ta xem còn kẻ nào dám bỏ trốn! Không thông được sông băng, đừng ai mong được nghỉ!
Điền Trù run rẩy, đoạn sông trước mặt còn thế này, cả con sông dài mấy chục dặm đều đang thi công, biết bao nhiêu người dân vô tội phải chịu khổ!
Đúng lúc ấy, thân binh bẩm báo:
— Từ Châu Thứ sử Tang Bá và ba vị tướng quân Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ cầu kiến.
Tào Tháo ngạc nhiên nói:
— Lão phu chưa triệu kiến bọn họ mà.
Hứa Chử hỏi:
— Họ có mang theo binh lính không?
Năm xưa, khi sắp xảy ra trận Quan Độ, Tào Tháo muốn sớm ổn định vùng duyên hải Thanh, Từ nên đã cho phép bọn Tang Bá, Tôn Quan, Doãn Lễ được phép tự trị. Bọn họ dốc sức cho Tào doanh, nhưng binh mã dưới quyền không thuộc sự điều động trực tiếp của Tào Tháo, địa bàn quản hạt cũng không do quan lại triều đình quản lý. Cho nên, có thể nói bọn họ là người ngoài so với quân chính quy của Tào doanh, không thể không đề phòng.
Thân binh trả lời:
— Họ không đem theo binh lính, nhưng lại đưa ba bốn cỗ xe đến. Hình như chở gia quyến.
Trong lúc mấy người Tào Tháo nói chuyện, bốn người Tang Bá đã tới bờ sông, họ đều không mặc áo giáp, không đeo bội kiếm, chỉ cưỡi độc chiến mã. Tang Bá thân cao ngựa lớn, mắt dữ râu hùm; Tôn Quan to béo lực lưỡng, bụng lớn mười vi[378]; Ngô Đôn mặt như mai cua, ngũ quan xấu xí; còn Doãn Lễ mặt chằng chịt những vết sẹo vẫn còn đỏ lòm, nom rất đáng sợ. Trông tướng mạo, cử chỉ của bốn tướng chẳng có vẻ gì lương thiện. Điền Trù, Hình Ngung không biết Tào doanh còn có đám người này, nhìn bọn họ tiến gần lại mà tim đập chân run.
— Tiểu nhân Tôn Anh Tử xin bái kiến Tào công! - Tôn Quan thật thà nhất, quỳ ngay xuống nền tuyết, dập đầu lia lịa, ba người Tang Bá cũng vội hành lễ.
Tào Tháo phất tay áo:
— Tang Nô Khấu, Tôn Anh Tử, Ngô Ảm Nô, Doãn Lô Nhi, lão phu nhớ không nhầm chứ? Ha ha ha!...
Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ cũng cười một tràng, nhưng Tang Bá lại cảm thấy bất an: “Đến giờ Tào Tháo vẫn nhớ biệt hiệu thổ phỉ của bọn ta!”
— Thanh Châu vừa mới bình định, còn rất nhiều việc chờ các ngươi. Cớ sao lại chạy đến đây?
Vẫn là Tôn Quan cướp lời nói:
— Lão ngài đối tốt với chúng tiểu nhân, mấy năm nay không được gặp ngài, tiểu nhân muốn đến thăm. - Câu này là thật, năm đó Tào Tháo nhận mệnh Tôn Quan làm Bắc Hải tướng, còn phong cho huynh trưởng của hắn là Tôn Khang làm
Thái thú Thành Dương, một nhà có đến hai quận tướng, quả là ân huệ không nhỏ.
— Ây dà, giữa lúc giá rét thế này mà chạy đến thăm lão phu, vất vả cho các ngươi rồi! - Tào Tháo vẻ mặt tươi cười. Nhưng Tang Bá lại nói:
— Thực không dám giấu, ngoài việc đến thăm ngài, mạt tướng còn có thỉnh cầu hơi quá.
— Cứ nói chớ ngại.
— Chúng tại hạ vốn là hạng thổ phỉ, sống trên lưỡi đao, vợ con đi theo phải chịu không ít khổ sở. Nghe nói Tào công dựng phủ đệ ở Nghiệp Thành, gia quyến của nhiều tướng lĩnh trong quân đều rời đến ở. Chúng tại hạ cũng muốn đưa người nhà qua đó, để đám đàn bà được hưởng chút phú quý, còn bọn trẻ cũng được đọc sách, khỏi phải mù chữ như chúng tại hạ. Xin Tào công nể tình. - Tang Bá cúi đầu khom lưng, mỉm cười đon đả, chẳng hợp với dáng người cường tráng chút nào.
Tào Tháo há lại không biết trong lòng bọn họ nghĩ gì, ông cười nói:
— Các ngươi xả thân trên chiến trường, tận trung báo quốc, hà tất phải làm vậy? Thôi được, năm xưa Tiêu Hà phái đệ tử đi hầu hạ Cao Tổ, Cao Tổ không cự tuyệt, Cảnh Thuần tự đốt hết nhà cửa để đi theo Quang Vũ Đế, Quang Vũ Đế cũng không trách ý tốt của ông ta. Lão phu không thể sửa được cách làm của tiền nhân, vậy sẽ y cho các ngươi!
Lời này của Tào Tháo hù dọa được hai người. Các tướng Từ Châu đều xuất thân từ thổ phỉ, chỉ có Tang Bá biết chút ít sử sách. Hắn ta nghe Tào Tháo nhắc tới chuyện của Tiêu Hà, biết là tâm tư của mình đã bị nhìn thấu. Năm xưa, Lưu Bang giằng co với Hạng Vũ tại Thành Cao, điều Tiêu Hà ở lại Quan Trung chiêu mộ binh sĩ, vận chuyển lương thảo. Về sau, Lưu Bang nghi kỵ Tiêu Hà nắm giữ quá nhiều quyền bính sẽ tạo phản, mấy lần sai người về dò xét, khiến Tiêu Hà vô cùng bất an. Có mưu sĩ hiến kế cho Tiêu Hà, đưa con cháu nhà Tiêu thị tới Thành Cao để hầu hạ Lưu Bang, trên thực tế là làm con tin, từ đó Lưu Bang mới không còn nghi ngờ gì nữa. Nay Tang Bá chẳng học theo kế ấy sao? Tào Tháo cắt đất Thanh Châu, Từ
Châu cho bọn họ tự cai trị, gần như không chịu sự quản chế của triều đình, bọn họ há có thể yên tâm khi nắm quyền bính trong tay? Hơn nữa, bọn họ còn có quan hệ thân thiết với Xương Bá, giờ hắn bị giết vì tội mưu phản, liệu Tào Tháo có truy cứu chuyện trước kia không? Đám người này tuy cục cằn thô lỗ nhưng cũng biết sợ người ta không tin tưởng mình. Tang Bá đỏ bừng mặt, quay đầu nhìn Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ - Ba tên bỉ phu ấy vẫn chẳng biết Tào Tháo ám chỉ điều gì, cứ cười nhăn răng!
Còn một người nữa cũng khẽ giật mình là Điền Trù. Ông ta không có ý tiến vào đường sĩ hoạn, chẳng qua là bất đắc dĩ phải tới đây. Tào Tháo công nhiên so sánh mình với Lưu Bang, Lưu Tú, mặt không biến sắc, tim không đập mạnh, còn phải hỏi ông ta có dã tâm nhường nào?
Tào Tháo vân vê chòm râu, nói lời sâu xa:
— Trung thành nhân nghĩa chỉ trong lòng mới hiểu. Cần gì phải nói thành lời? Chỉ cần các ngươi toàn tâm toàn ý với lão phu, những điều khác ta sẽ chăm lo thay các ngươi. Có một số việc không phải đợi nói ra rồi mới giúp chu toàn. - Thu hồi vùng duyên hải Thanh, Từ là chuyện sớm muộn, chỉ có điều bọn Tang Bá có ảnh hưởng rất lớn ở đây, nếu đột ngột thay đàn đổi dây tất dẫn đến rối loạn. Cho nên Tào Tháo mới đi từng bước một chứ không muốn làm thẳng một lèo.
Tôn Quan không hiểu hai người họ suy tính điều gì, ngây ngô nói:
— Tào công chấp thuận là tốt rồi. Tiểu nhân còn sợ vợ con không hiểu phép tắc, sẽ bị người trong thành ghét bỏ kia! — Há có thể thế được? - Tào Tháo vỗ vai Tôn Quan, - Các ngươi lập công trong việc bình định Thanh Châu, nay ta gia phong các ngươi làm Đình hầu. Tấn phong Tang Bá làm Uy Lỗ Tướng quân, lĩnh chức Thứ sử Từ Châu như cũ. Còn Tôn Quan tấn phong làm Thiên Tướng quân, kiêm chức Thứ sử Thanh Châu.
— Đa tạ Tào công! - Bốn người cùng tạ ơn lần nữa. Tào Tháo tay trái kéo Tôn Quan, tay phải dắt Tang Bá:
— Ngoài này lạnh quá, chúng ta quay về trướng nói chuyện. Trước tiên, cứ để gia quyến ở tạm trong doanh chịu khổ ít bữa, rồi ta sẽ đưa họ tới Nghiệp Thành. Các ngươi ở Thanh Châu không cần bận tâm... - Lời này còn chưa dứt, chợt thấy phía sau gò núi có một bóng người vụt qua.
Bọn Hứa Chử, Tôn Quan nhanh tay lẹ mắt lập tức xông tới, bảy tám bàn tay to lớn cùng ấn kẻ kia ngã dúi dụi. Doãn Lễ túm tóc hắn, lớn tiếng quát:
— Thích khách từ đâu tới! Thành thật khai ra!
Người kia quần áo tả tơi, mặt mũi nhem nhuốc, nhưng tuổi cũng không lớn, xem chừng chưa tới hai mươi. Hắn bị đám võ nhân dữ tợn này tóm được, các khớp xương trên người kêu răng rắc, sợ đến hồn vía lên mây, chỉ biết kêu xin thảm thiết, chẳng nói được gì.
— Thả hắn ra. - Tào Tháo bình tĩnh nói, - Hắn không dám giở trò gì đâu.
Bọn Hứa Chử buông tay ra, kẻ đó úp mặt xuống đất, run rẩy nói:
— Thảo dân là người đi đục băng... Xin Tào công tha mạng. - Thì ra hắn trốn lao dịch, thoát được đám binh lính, vòng tới chỗ Tào Tháo. Ban nãy chúng nhân mãi trò chuyện, giờ mới để ý trên bãi sông cũng có mười mấy người đang bị trói. Hầu hết là người bỏ trốn bị bắt lại, đợi chém đầu thị chúng.
— Tiểu tử ngươi ranh mãnh hơn chúng, biết chạy đến chỗ ta tự thú tìm đường sống đấy nhỉ? - Tào Tháo cười nhạt, - Tiếc là lão phu thực thi pháp lệnh nghiêm minh, ta đã truyền lệnh chém đầu, không có lý gì giữ lại mạng của ngươi!
Người kia dập đầu lia lịa như gà mổ thóc:
— Lão ngài từ bi hỷ xả, xin hãy tha mạng cho thảo dân. Thảo dân xin đi đục băng, không dám bỏ trốn nữa! — Sớm biết vậy hà tất ban đầu phải làm thế. - Tào Tháo cười khẩy, - Muộn rồi...
Người kia nghe vậy, nước mắt chảy ròng ròng, không biết làm thế nào mới được, lết đến ôm chân Tào Tháo, run bần bật. Làm việc ở nơi giá rét như thế này, dẫu không bị chết cóng thì ngón chân, ngón tay cũng cứng đờ cả lại! Còn bỏ trốn mà bị bắt
về thì lập tức đầu lìa khỏi cổ, cách nào cũng chết, đâu còn đường sống?
Điền Trù thực sự không nhịn nổi nữa:
— Minh công không thể làm vậy! Lẽ nào ngài chưa nghe đến phép tam kiệm[379]? Dân lấy nhà mình ra khảo xét, người hiền lấy quốc gia ra khảo xét, còn thánh nhân lấy thiên hạ ra khảo xét chính mình. Minh công làm việc không tiếc sức dân, thử hỏi bách tính sao có thể ủng hộ ngài? Ngài làm thế này có khác gì vua Kiệt, vua Trụ và Tần Thủy Hoàng tàn bạo?
Tào Tháo muốn nhanh được việc, thấy hơi ghét ông ta, song vẫn phải nén giận bảo:
— Thi công xong sớm mới khởi binh được, không giết người này sao lập được uy? Lão phu cũng có nỗi khổ tâm riêng. Điền Trù lại nói:
— Đấng quân tử làm điều thiện, không chỉ tùy tiện chiều theo ý mình. Xưa, bậc đại trí biết tính cái lợi hại, được mất của thiên hạ để quyền biến kẻ khác. Chẳng lẽ ngài cứ muốn so đo với tiểu dân? Người này đã tự thú, minh công còn không thể tha tội cho hắn sao? Thử hỏi đạo lý tình người ở đâu! Ngài không sợ đánh mất nhân tâm trong thiên hạ ư? Xin minh công suy xét lại về cái lợi hại, được mất!
Tào Tháo nghe ông ta nói xong, cơn giận bốc lên nhưng vẫn không thể trở mặt. Việc đánh Ô Hoàn còn phải trông cậy vào ông ta kia mà! Tào Tháo hậm hực phất tay áo, đạp kẻ kia một cái, gằn giọng nói:
— Thả ngươi nghĩa là ta tự phá vỡ quân lệnh, còn giết ngươi lại có người không nỡ. Ngươi mau cút đi cho ta! Cút thật xa, trốn thật kỹ vào. Ta sẽ tiếp tục phái người đi bắt những kẻ bỏ trốn, nếu ngươi bị bắt lại thì sẽ bị chém đầu ngay tức khắc!
Điền Trù định nói nữa, Tào Tháo giơ tay ngăn lại: — Đủ rồi! Ta đã nể mặt tiên sinh, chẳng lẽ tiên sinh vẫn muốn nói ta là kẻ độc đoán chuyên quyền? Ta mời tiên sinh tới bàn việc đánh Ô Hoàn, mong tiên sinh để tâm đến việc dụng binh ra sao. - Dứt lời, Tào Tháo hất tay về phía bãi sông. Binh lính cùng vung đại đao, mười mấy người trốn lao dịch lập tức mất đầu, máu phọt ra nhuộm đỏ một bãi tuyết.
Dân chúng im thít, không dám bỏ chạy nữa, chỉ biết chấp nhận số phận bi ai. Điền Trù sợ đến vỡ mật. Còn Tào Tháo lại cười nhạt:
— Bách tính trong thiên hạ tựa như dòng nước, ngăn lại thì đứng im, còn khơi mở thì chảy đi! Quyền sinh quyền sát nằm trong tay lão phu, lão phu muốn họ thế nào, họ phải thế đó! Ngày mai tuyết tan bớt, chúng ta phải khởi hành về Nghiệp Thành, há có thể vì mấy kẻ phàm dân mà làm mất thì giờ! - Nói đoạn Tào Tháo dẫn chúng tướng trở về doanh trại.
Gã trai may mắn thoát chết quỳ rạp dưới đất, khóc lóc một hồi, rồi thẫn thờ đứng dậy. Tào Tháo bảo hắn chạy trốn, nhưng biết trốn đi đâu được? Trở về nhà quan binh tới lục soát là bị tóm ngay, còn không về nhà thì đi đâu? Hắn ăn mặc phong phanh trong tiết trời rét căm căm này, chẳng chạy được bao xa đã chết cóng rồi. Thiên hạ rộng lớn mà khó có chỗ dung thân!
Điền Trù thương cảm:
— Tiểu huynh đệ, ngươi...
— Hừ! - Ánh mắt ngấn lệ của thanh niên đó bỗng chất chứa thù hận, - Chớ có vờ vĩnh! Đám quan lại các ông đều cùng một giuộc. Ông trời ơi! Can qua đẩy con người ta vào chỗ chết, không có can qua cũng bị đẩy vào chỗ chết, ông không để cho bách tính một con đường sống sao! - Hắn điên cuồng bỏ chạy cùng với tiếng khóc uất hận, chớp mắt đã mất hút giữa vùng tuyết mênh mông.
Điền Trù vẫn đứng ngây ra. Ông ta đã quen với khí hậu nơi đây, nhưng lúc này cũng cảm thấy lạnh thấu xương, toàn thân run rẩy.
Động viên xuất chinh
Xuân về, vạn vật hồi sinh, mở đầu cho một năm mới lại đến. Sau hai cơn mưa lất phất, bầu trời trở lại trong xanh, cỏ cây mơn mởn, những nụ hoa chúm chím hé nở, còn muôn thú hốt hoảng trốn cả vào hang. Mùa xuân là thời điểm thích hợp để
đi săn. Cách Nghiệp Thành hơn mười dặm về phía bắc có một khu rừng rộng, chim thú tụ tập, cây cối rậm rạp, kẻ đi săn qua lại như vịt. Có điều hôm nay hơi lạ, hơn ba trăm binh sĩ bảo vệ nghiêm ngặt khu rừng này, chỉ cho vài người là tử đệ, thân tín của Tào thị quần thảo bên trong.
Một bên là những thiếu niên thân quý như Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực, Tào Chân, Tào Hưu, Hạ Hầu Thượng, mình mặc quân phục, tay cầm cung tên, hăng hái săn bắn. Còn một bên bọn Nguyễn Vũ, Lưu Trinh, Từ Cán, Ứng Sướng nói cười phụ họa, là những ký thất trong Tào phủ, tuổi còn khá trẻ, ngoài múa bút vẩy mực ra thì chẳng có việc gì làm, nên phần lớn thời gian đều tụ tập cùng với các công tử.
— Huynh trưởng săn được bao nhiêu dã thú? - Tào Chương còn ít tuổi nhưng đã có tinh thần thượng võ, tính hay tranh giành, hiếu thắng. Đã vậy lại có dáng người cao lớn, chẳng giống phụ thân mình chút nào.
Tào Phi gác cung, ghì ngựa nói:
— Mười bốn con.
— Ít hơn đệ một con! Ha ha ha!... - Tào Chương đắc ý cười ha hả, - Còn tam đệ thì sao?
Tào Thực thua kém các huynh về mặt cưỡi ngựa bắn cung, cũng không coi điều này là tài, chỉ cười đáp:
— Tiểu đệ bắn được bảy con thôi, nhị ca vui duyên mới, thời vận tốt, đệ làm sao bì với huynh được.
Tào Chương lấy con gái của Tôn Bí - đường huynh của Tôn Quyền, mới làm lễ hợp cẩn mấy hôm trước nên Tào Thực lấy ra trêu đùa. Tào Chương càng tỏ ra đắc ý, lại hỏi bọn Tào Chân:
— Còn các đệ?
Tào Chân, Tào Hưu, Hạ Hầu Thượng cũng giỏi săn bắn nhưng không dám vượt mặt công tử Tào gia, đều xua tay nói: — Tử Văn tinh thông cung mã, chúng đệ không sánh kịp. — Ha ha ha!... Luận về thuật cung mã, các đệ đều không bằng ta! - Tào Chương cười khoái trá, - Không xứng lắp yên, dắt ngựa cho ta.
Tào Phi dù sao cũng là đại ca, thấy Tào Chương ngông cuồng như vậy, trong lòng không vui:
— Đệ chớ vội đắc ý, hai ta chỉ hơn kém một con, có bản lĩnh thì tỉ thí lần nữa!
Tào Chương không tranh đua với kẻ khác thì ăn cơm không thấy ngon, nghe vậy còn cầu mà chẳng được: — Tỉ thí thì tỉ thí! - Vừa dứt lời liền nghe thấy một tiếng chim kêu trên đầu. Đúng lúc có con nhạn lẻ bầy bay qua. Tào Chương mừng rỡ, chỉ tay lên trời, nói, - Chúng ta thi bắn nhạn, xem ai có thể... Huynh chơi xấu!
Tào Phi không đợi đệ đệ nói hết câu đã giương cung phóng một mũi tên về phía con nhạn. Chớ nói là bắn rơi con nhạn, đến cọng lông cũng chưa chạm vào được, đúng là quá kém! Tào Chương bực bội nhưng phì cười:
— Huynh chơi xấu, không bắn trúng là đáng đời lắm. Hai chúng ta cùng nhau...
— Tiên hạ thủ vi cường! - Tào Phi không thèm nghe Tào Chương lải nhải, đoạn thúc ngựa chạy luôn.
— Huynh lại chơi xấu! Đợi đệ đã! - Tào Chương vội quất ngựa đuổi theo. Bọn Tào Thực, Nguyễn Vũ thấy hai người họ tranh giành như thế thì không nhịn được cười.
Nháy mắt Tào Chương đã đuổi kịp Tào Phi. Trong rừng cành cây rậm rạp, dây leo chằng chịt, khiến họ không bắn được tên mà phải chạy ra ngoài bìa rừng. Tào Chương nhanh hơn huynh trưởng một bước, quay đầu lại thấy áo Tào Phi mắc vào những chạc cây, gỡ mãi không ra, cười nói:
— Tiểu đệ thắng chắc rồi! - Đoạn cài tên giương cung định bắn. Bỗng một mũi tên bay tới từ phía đông, con nhạn kêu lên một tiếng thảm thiết rồi rớt xuống.
Tào Chương, Tào Phi ai nấy đều kinh ngạc, đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy ai ngoài những tên lính canh, bọn chúng sao dám giành vật săn với công tử? Một lúc sau mới thấy một kẻ cưỡi ngựa chạy lại từ mé đông. Người này chừng ngoài hai mươi tuổi, vóc người bình thường, khuôn mặt đen sì, tay trái cầm cung, tay phải khiển mã, hình như là một quan võ. Điều kỳ lạ là người này mặc quân phục nhà Hán nhưng lại để tóc dài,
cưỡi ngựa trần. Tào Chương thầm giật mình: mũi tên bắn đi một lúc lâu như thế mà người này mới chạy đến nơi, hẳn là hắn phải ở xa hơn một trăm năm mươi bước. Thuật bắn cung thật cao cường hiếm thấy!
Không biết quan tướng đó có nhận ra chư vị công tử không mà ngạo nghễ vươn cánh tay dài như tay vượn xách con nhạn đi mất, chẳng thèm nhìn hai huynh đệ Tào thị lấy một cái. Tên lính đội trưởng là Chu Thước - tâm phúc của Tào Phi, thấy vậy bèn ra oai nói:
— Khốn kiếp! Không coi công tử ra gì, để tại hạ bắt hắn về đây, đánh cho hai trăm roi!
— Ngươi có bản lĩnh ấy sao? - Tào Phi cười nhạt, - Đại nhân không chấp kẻ tiểu nhân, hà tất phải nổi giận với hắn. Đúng lúc này, lại có hơn trăm con ngựa ầm ầm chạy lại từ mé đông nhưng không có người quản. Trong buổi chiến loạn có càng nhiều ngựa càng tốt, quân Tào tuy đông nhưng lại thiếu ngựa. Chu Thước sáng mắt lên:
— Tại hạ đi cướp mấy con ngựa dâng lên công tử. Nhưng hắn nào kịp ra tay? Tiểu tướng ban nãy đút hai ngón tay vào miệng, đàn ngựa nghe tiếng huýt sáo, đồng loạt hí vang, bốn vó xoay chuyển chạy theo. Huynh đệ Tào thị cảm thấy con ngựa mình đang cưỡi cũng rục rịch nhúc nhích, may mà còn nắm chắc dây cương không thì hẳn chúng cũng phóng theo tiếng huýt sáo đó! Tào Chương càng tỏ ra kinh ngạc: — Hóa ra đều là hắn ta mang đến, trên đời còn có người chăn ngựa kiểu này sao?
Lúc này bọn Tào Thực, Nguyễn Vũ cũng đã ra khỏi cánh rừng, Hạ Hầu Thượng nói:
— Hôm nay chúa công bàn việc ở mạc phủ, tướng lĩnh các bộ đều tới tham gia, có lẽ hắn phụng lệnh dâng ngựa. Câu nói này đánh động bốn vị ký thất, nhất là Từ Cán, ông ta mới được vời vào mạc phủ sau khi Thanh Châu được bình định, kinh lịch ít nhất, thành thử phải hành sự thận trọng: — Các công tử đã ra ngoài nửa ngày, nên sớm quay về thôi. Đám lính này do chúng ta tự ý điều động, nếu để chúa công biết được sẽ không hay!
Binh lính canh chừng khu rừng không phải là gia binh trong Tào phủ mà đều là người trong quân doanh, Chu Thước có ý xu nịnh nên điều tới. Chu Thước nhờ có quan hệ tốt với Tào Phi mà được thăng làm Giả tư mã[380], cũng khá lớn gan:
— Đám mọt sách các ông đã có công tử làm chỗ dựa, còn sợ cái gì?
Tào Phi cũng nói:
— Đúng vậy! Ta với nhị đệ còn chưa phân thắng bại, phải đi săn thêm lượt nữa. - Dù sao ba huynh đệ đều ở cả đây, dẫu có phạm lỗi cũng phạm lỗi chung, có gì phải lo lắng? Tào Chương hào hứng nói:
— Đi nào! Đệ phải cho huynh thua một cách tâm phục khẩu phục.
Hai huynh đệ thúc ngựa quay lại khu rừng săn trĩ, săn thỏ. Tào Phi không đuổi kịp đệ đệ, còn bị thua lớn hơn lần trước, buồn bực ném cây cung đi:
— Ây dà! Hai lần ta đều thua đệ, không chịu phục cũng không được!
Tào Chương vẫn muốn đi săn tiếp, nhưng mọi người liên tục khuyên bảo mới từ biệt Chu Thước quay về. Đám người cười cười nói nói, chẳng mấy chốc đã tới cửa bắc, còn chưa kịp vào thành thì đã thấy một vị quan ăn mặc chỉnh tề lao ra từ trong thành.
Hạ Hầu Thượng tinh mắt nhất, từ rất xa đã nhận ra là Lưu Đại:
— Lưu Trưởng sử, có chuyện gì mà vội vậy?
— Bỉ chức xin vấn an các vị công tử. - Lưu Đại ghì ngựa, chắp tay hành lễ, vẻ mặt hớn hở, - Chúa công ban sắc lệnh, sai bỉ chức thông báo khắp ba quân nên phải tới hành dinh một chuyến.
Lưu Trinh khôi hài, tiến lại túm râu Lưu Đại:
— Huynh có gì chuyện vui mà như được liếm mật ong thế? Lưu Đại mặt mày rạng rỡ:
— Chúa công nói, mấy năm qua tôi ở bên cạnh ngài chịu nhiều vất vả, giờ muốn cho tôi ra ngoài lĩnh binh. Sau này
chuyện trong phủ không cần bỉ chức lo nữa, nếu đánh trận lập chút công lao, chưa biết chừng còn kiếm được chức Đình hầu đấy!
Lưu Trinh ngạc nhiên hỏi:
— Mấy năm trước, chúa công phụng lệnh thiên tử thống lĩnh binh mã ở Hứa Đô, nay ngài ấy đuổi hết các vị tướng quân, trưởng sử, chủ bạ đi thì ai thay các huynh làm việc?
— Chúa công không nói, tôi cũng không dám hỏi... Ây dà, dù sao trong lòng ngài ấy cũng có tính toán cả rồi! Tào Thực nhìn chằm chằm sắc lệnh trong tay Lưu Đại: — Có thể cho bọn ta xem qua sắc lệnh không?
— Công tử đã mở lời thì có gì không được? - Lưu Đại vừa nói vừa mở sắc lệnh, tự dâng lên cho họ xem.
Ta khởi binh trừ loạn, đến nay đã mười chín năm, lần nào xuất chinh cũng giành thắng lợi, hả phải công lao của mình ta? Ấy là nhờ sự phò giúp của hiền tài trí sĩ cùng văn võ bá quan. Nay, thiên hạ chưa yên định được cả, ta đương nhiên muốn cùng hiền sĩ đại phu chung sức bình định, nhưng một mình hưởng công lao, ta sao yên lòng được! Xưa, Triệu Xa, Đậu Anh làm tướng, được thưởng ngàn vàng, đem chia hết cho mọi người chỉ trong chốc lát, cho nên mới lập được đại công, lưu danh muôn đời. Ta đọc đến chuyện đó, rất ái mộ cách đối nhân của họ. Ta cùng vời chư tướng, sĩ đại phu lo việc quân, may nhờ có các bậc hiền nhân không tiếc kế hay, chúng sĩ không tiếc sức lực, mới có thể giải trừ nguy biến, bình định phản loạn, thế mà chỉ mình ta được thưởng lớn, ấp phong ba vạn hộ. Nghĩ đến nghĩa khí của Đậu Anh khi chia vàng, nay ta cũng muốn phân phát số thuế được hưởng cho bộ thuộc của chư tướng và những người từng đồn trú ở đất Trần, Sái để đáp tạ công lao của chúng nhân. Còn con côi của người chết vì phải đi lao dịch đều được tặng thuế khóa, thóc lúa. Năm nào sung túc, ta và mọi người sẽ cùng chia thưởng thuế má đã thu được.
Tào Phi đọc xong mủm mỉm cười:
— Lão ngài nảy sinh lòng tốt, muốn chia của cải cho chúng tướng, hiếm khi hào phóng như vậy!
Tào Tháo lĩnh tước Vũ Bình hầu, đất phong ngoài huyện Vũ Bình, còn có ba huyện Dương Hạ, Chá, Khổ. Dù vậy, Tào gia sinh hoạt vẫn rất tiết kiệm, chớ nói là vàng bạc, châu ngọc, ngay đến vật dụng trong nhà cũng không hề chạm khắc, chẳng bằng bọn Tào Hồng, Lưu Huân, Hứa Du.
Tào Chương nói:
— Phụ thân có tiền không nỡ dùng cho mình, lại thưởng cho chúng tướng, đó là sự độ lượng mà chỉ Mạnh Thường Quân mới có... Không đúng, không đúng! Mạnh Thường Quân nào sánh được với phụ thân của chúng ta.
Còn Tào Thực lại lắc đầu quầy quậy:
— E là phụ thân không chỉ đơn giản muốn phân phát tiền tài cho chúng tướng. Tám phần là có nhiều dị nghị về việc viễn chinh Ô Hoàn, nên người ban chút ân huệ để mua chuộc nhân tâm thôi.
Lưu Đại liếc nhìn Tào Thực: “Tam công tử thật thông minh, cũng chính vì chuyện đánh Ô Hoàn mà ban nãy còn có một hồi tranh cãi nảy lửa!”
Từ Cán vẫn lo ngay ngáy:
— Phải mau chóng về thôi, mấy người chúng tại hạ đều có việc. Mặc dù hôm nay không phải trực ban, nhưng quân nghị quan trọng, chư vị công tử vắng mặt thì không sao, nhưng chúng tại hạ không thể đắc tội được!
Nguyễn Vũ, Ứng Sướng đều gật đầu.
— Được rồi... Lưu Trưởng sử được thăng quan, hôm khác nhớ phải mời bọn ta tới làm khách đấy! - Tào Phi nói đùa, dẫn mọi người ruổi ngựa vào thành, đi qua các con phố đến thẳng phủ châu mục, cất ngựa rồi chạy vội vào đại sảnh.
Họ vừa bước qua cổng trong đã thấy Tân Tỵ ôm một chồng công văn đi tới.
— Tá Trị! Phụ thân có hỏi gì bọn ta không? - Tào Phi vồ vập hỏi.
Hồi Tân Tỵ phản bội Viên thị, quy hàng Tào Tháo mấy chục mạng người trong nhà đều bị Thẩm Phối hại, Tào Phi thường xuyên hỏi han vỗ về, vì vậy có quan hệ rất tốt. Nghe Tào Phi hỏi vậy, ông ta ghé sát tai nói:
— Lão ngài đang nổi giận, các vị hãy cẩn thận!
Tào Phi lúc này mới biết sợ, vội sửa sang lại mũ áo, dẫn các đệ đệ tiến vào trong sân, cúi đầu bước lên sảnh, chẳng dám ngước mắt lên, chỉ lờ mờ nhận ra các mưu sĩ Tuân Du, Tuân Diễn, Hứa Du ngồi ở mé đông, còn Trương Liêu, Vu Cấm cùng với các tướng trung quân như Sử Hoán, Hàn Hạo ngồi ở mé tây, đang tranh luận với Tào Tháo. Tào Phi định trốn vào giữa đám người, nhưng vừa bước qua ngưỡng cửa đã nghe thấy tiếng quát nghiêm nghị của phụ thân:
— Ba đồ bỏ đi các ngươi, cút ra ngoài quỳ cho ta! Chưa kịp hỏi gì đã bị mắng phủ đầu!
Gần đây, thế lực của Tào Tháo lớn mạnh, tính khí ông càng trở nên nóng nảy, huynh đệ Tào Phi không dám cãi lại, lấm lét lui ra ngoài hành lang, quỳ ngay ngắn. Bọn Tào Chân nghĩ bụng, con ruột còn bị phạt, con nuôi lại thoát được tội sao? Họ chẳng biết làm sao, lại không dám hỏi, cũng ra ngoài quỳ theo. Bọn Lưu Trinh, Từ Cán thì nhanh trí hơn, nhân lúc ầm ĩ đã lẻn đến chỗ đám quan lại, cúi đầu lần vào trong, coi như thoát nạn.
Cũng khó trách Tào Tháo lại tức giận, hóa ra quần liêu đang can gián ông vì chuyến viễn chinh. Đánh Ô Hoàn không đơn giản như Tào Tháo nghĩ, mặc dù ông đã có sự chuẩn bị, nhưng gần đến ngày xuất binh hầu hết tướng sĩ lại không muốn ra trận. Họ đánh trận ở Trung Nguyên, trên vì công danh, dưới vì vợ con, còn vượt nghìn trùng xa xôi liều mạng với người Hồ, thử hỏi có ai tình nguyện? Đến cả những kẻ hiếu chiến như Vu Cấm, Trương Liêu cũng viện cớ từ chối, khiến Tào Tháo bất đắc dĩ mới phải hạ sắc lệnh ban phát của cải cho chúng nhân nhằm mua chuộc nhân tâm, thúc đẩy chiến sự. Bầu không khí vừa mới lắng xuống đôi chút, Hình Ngung lại chạy tới bẩm báo, Điền Trù đã nhận lời dẫn đường đột nhiên lại từ quan bỏ đi. Còn chưa xuất quân, người dẫn đường đã bội ước, bọn Tuân Du, Tuân Diễn, Thôi Diễm lại được thể tiếp tục can ngăn, Tào Tháo rất phẫn nộ.
Thôi Diễm là một văn nhân, nhưng giọng nói vang tựa chuông đồng:
— Chúa công điều quân ra biên ải, nhỡ có sai sót gì thì làm sao? Xin ngài lấy Trung Nguyên làm trọng, chớ hành động khinh suất. - Ông ta nói thẳng thừng, không thèm để ý sắc mặt người nào.
Tào Tháo nén giận, tranh biện với ông ta:
— Kênh vận lương đã đào xong, há lại từ bỏ giữa chừng? Hứa Du cũng ra sức phản đối:
— Nghe lời ta đi Tào A Man, sao ngài cố chấp vậy? Để mọi người nghỉ ngơi một thời gian, sau này tiến quân cũng chưa muộn. Tướng sĩ ba quân đánh trận nhiều năm mệt mỏi lắm rồi! Tào Tháo nóng lòng nói:
— Nghỉ ngơi vào lúc này chẳng bằng bình định thiên hạ, sớm ngày hưởng thái bình!
Tuân Diễn vội vàng tiếp lời:
— Viên Thượng chỉ là bại trận đào vong, trong khi người Ô Hoàn lại tham lam vô tình, liệu hắn có thể sai khiến bọn chúng không? Nay ngài điều quân viễn chinh, nếu Lưu Biểu nhân lúc Trung Nguyên trống không mà phái Lưu Bị tập kích Hứa Đô. Khi đó đại quân đang giằng co với địch, không thể hồi kinh ứng cứu thì hối hận cũng không kịp! - Câu này có tình có lý, đến Tuân Du cũng phải gật đầu.
Tuân Diễn nói đúng điểm yếu, Tào Tháo đang không biết đối lại thế nào thì Quách Gia đứng một bên nói xen vào: — Hữu Nhược nghĩ quá nhiều rồi. Chúa công mặc dù uy danh lừng lẫy thiên hạ, nhưng người Hồ ỷ ở xa tất không phòng bị. Quân ta nhân đó bất ngờ tấn công, có thể đánh tan bọn chúng. Viên Thiệu có ơn với người Ô Hoàn, Viên Thượng, Viên Hi vẫn còn có dư đảng. Nay bách tính bốn châu Thanh, Ký, U, Tịnh quy thuận chúng ta do sợ uy thế chứ chưa được nhận ơn huệ. Nếu lại bỏ việc đánh Viên Thượng mà nam tiến, Viên Thượng hẳn sẽ mượn sức người Ô Hoàn để chiêu nạp những kẻ nguyện bán mạng cho hắn. Mà một khi người Ô Hoàn nổi dậy, bách tính đều sẽ hưởng ứng, Đạp Đốn nếu có ý nhòm ngó, chỉ e đất Thanh, Ký không còn thuộc về chúa công nữa, khụ khụ... - Ông ta lấy hơi nói tiếp, - Còn Lưu Biểu ở Kinh Châu, bất quá là một tên khoác lác. Hắn tự biết mình không có khả năng
sai khiến được Lưu Bị, nếu trọng dụng Lưu Bị thì lại lo không khống chế được; còn khinh bạc Lưu Bị thì Lưu Bị chẳng dốc sức cho hắn. Vì thế, chúng ta cứ việc dốc toàn lực đánh Ô Hoàn, Tào công không có gì phải lo lắng cả.
— Phụng Hiếu nói chí phải. - Những lời ấy nói đúng ý Tào Tháo, - Các ngươi không biết câu “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc” sao?
Mọi người chưa kịp bác lại, Lưu Đại đã quay về:
— Khải bẩm chúa công, sắc lệnh đã được ban xuống. Hiện có Hộ Ô Hoàn hiệu úy Diêm Nhu áp tải chiến mã của U Châu đến, tại hạ dẫn ngài ấy tới gặp chúa công.
— Cho hắn vào! Diêm Nhu ở biên cương nhiều năm, chúng ta hãy thử nghe ý kiến của hắn xem sao. - Tào Tháo lại tránh tranh luận với quần liêu.
Lát sau, một viên tiểu tướng ăn vận lạ lùng bước vào sân, huynh đệ Tào Phi quỳ ở hành lang ngước đầu nhìn lên. Thì ra chính là người ban nãy bắn rơi con nhạn.
Diêm Nhu cũng sửng sốt. Tào Chương tính tình nóng nảy, buột miệng nói:
— Đều tại tên tiểu tử nhà ngươi! Nếu ngươi không cướp mất con nhạn đó, bọn ta đâu phải tỉ thí thêm một vòng nữa, để rồi về muộn bị phụ thân phạt quỳ ở đây. Tất cả đều do ngươi hại!
Phụ thân? Diêm Nhu sợ đến nỗi tay chân cứng đờ, giờ mới vỡ lẽ họ là công tử Tào gia, nào dám đắc tội, vội thi lễ: — Hóa ra các vị là công tử. Tại hạ đã mạo phạm, mạo phạm. - Vẻ ngạo nghễ lúc trước của Diêm Nhu tan hoàn toàn biến mất, còn tự vả vào miệng mình hai cái.
Tào Chương cười nói:
— Ngươi đúng là một tên nịnh bợ! Chớ bày trò ở đây nữa, còn không mau nghĩ cách giúp bọn ta đi.
— Dạ dạ dạ! Công tử đợi một lát, mạt tướng sẽ giải vây cho các ngài. - Diêm Nhu vén áo bước lên sảnh đường. Tào Tháo thoáng thấy hắn thì thầm ở bên ngoài, nhưng không biết nói gì, niềm nở bảo:
— Tiểu tướng quân tặng ngựa gì cho lão phu vậy? Diêm Nhu vẻ mặt tươi cười:
— Mạt tướng dâng lên chúa công ba trăm con ngựa tốt, đều do người Tiên Ti thuần dưỡng, rất béo và khỏe. Mạt tướng đã giao lại cho Biện Tư mã.
— Vất vả rồi, lão phu phải cảm tạ ngươi...
Tào Tháo chưa nói hết câu, Diêm Nhu đã quỳ sụp xuống: — Minh công nếu muốn ban ân huệ cho mạt tướng, thì xin ngài miễn tội cho các công tử đang phải chịu phạt. — Ngươi đã gặp chúng rồi?
— Mạt tướng trên đường đi qua phía đông thành, có gặp các vị công tử, còn cùng bắn nhạn nữa.
— Trùng hợp vậy. - Tào Tháo nói vọng ra bên ngoài, - Mấy tên vô dụng các ngươi vào cả đây!
Huynh đệ Tào Phi mặt mũi lấm lét bước vào nhận lỗi: — Nhi tử biết sai rồi.
Tào Tháo gằn giọng nói:
— Ta giới thiệu với các ngươi, vị này là Hộ Ô Hoàn hiệu úy Diêm Nhu, thiếu niên anh dũng, tiếng tăm lẫy lừng! Nếu không nể mặt hắn, hôm nay ta phải phạt các ngươi quỳ đến tối! Lũ ham chơi các ngươi, liệu liệu mà học hỏi người ta đi!
Diêm Nhu mới ngoài hai mươi tuổi, nhưng cũng là một kỳ nhân thời loạn. Hắn là nhân sĩ U Châu, thuở nhỏ phụ mẫu mất sớm, lưu lạc khắp nơi, bị người Tiên Ti bắt làm nô lệ. Thế nhưng, Diêm Nhu thông minh lanh lợi, biết đối nhân xử thế, không chỉ biết tiếng Hồ mà còn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, dần trở nên thân thiết với thủ lĩnh người Tiên Ti, Ô Hoàn. Trong lúc thiên hạ hỗn loạn, hắn xúi giục người Tiên Ti giết chết Ô Hoàn hiệu úy Hình Cử do triều đình nhận mệnh, ủng hộ hắn mới tí tuổi đầu lên thay. Từ đó, Diêm Nhu dẫn dắt một đội quân ô hợp gồm cả người Hồ và người Hán, giúp người Tiên Ti cướp phá người Hán, sau đó hỗ trợ Viên Thiệu đánh Công Tôn Toản, rồi lại theo Tào Tháo đánh Viên Thượng. Trong chục năm qua, hắn lật mặt như cắt, cứ gió chiều nào theo chiều ấy! Tào Tháo thấy Diêm Nhu là một tướng tài, không tính toán chuyện trước kia, cho hắn tiếp tục làm Ô Hoàn hiệu úy.
Huynh đệ Tào Phi liên tục cảm tạ, Tào Chương tùy tiện nói: — Tiểu tử nhà ngươi cũng có bản lĩnh đấy, bắn trúng chim ở cách xa hơn trăm bước, đúng là thần tiễn!
Diêm Nhu chưa kịp đáp lời, Thôi Diễm đã xen vào: — Pháp ngôn có câu: “Tu thân dĩ vi cung, kiểu tư dĩ vi thi, khứ nghĩa di vi đích. Điện nhi hậu phát, phát tất trung hĩ.”[381] Nếu các công tử có thể lấy việc tu thân và lấy nhân hiếu làm gốc, ngày sau ắt làm nên thành tựu.
Mọi người nghe vậy đều kinh sợ: con cái Tào Tháo có tốt xấu thế nào cũng đâu tới lượt ông quản! Nhưng Thôi Diễm không chịu được cái gai trong mắt, cứ muốn xía vào. Không ngờ Tào Tháo còn đồng tình với ông ta:
— Thôi Trưởng sử nói rất đúng, các ngươi hãy học đạo làm người cho tốt vào!
Diêm Nhu rất hiểu chuyện, vội hòa giải:
— Thực ra các công tử đều rất oai dũng, ban nãy mạt tướng tận mắt trông thấy các công tử bắn trăm phát trăm trúng, vị nào cũng ngang sức mạt tướng. Phụ tử Tào công quả là hào kiệt đời nay!
— Đúng vậy, đúng vậy, phụ tử anh hùng... - Không ít người ngoài miệng đều hùa theo, nhưng trong bụng cười thầm: khá khen tên tiểu tử dẻo miệng, giỏi nịnh nọt, thảo nào tuổi còn trẻ đã được làm Ô Hoàn hiệu úy!
Tào Tháo thừa biết Diêm Nhu phỉnh nịnh, nhưng vẫn vui vẻ nói:
— Chớ khen bọn chúng, chúng sao sánh được với ngươi? Lão phu có được đứa con như ngươi thì tốt biết mấy. Đó chỉ là câu nói khách sáo, nào ngờ Diêm Nhu thuận nước dong thuyền:
— Nếu minh công coi mạt tướng như con, thì mạt tướng cũng sẽ coi minh công như cha! Ngày sau mạt tướng nhất định hiếu kính với ngài như với phụ thân mình, ngài để mạt tướng trấn giữ biên cương, còn gì không yên tâm? - Diêm Nhu nói nịnh nhưng trong lòng lại thầm tính toán, hắn cát cứ nhiều năm
mà không phải người của Tào doanh, nên phải kéo gần quan hệ mới mong đứng vững được!
Quần liêu nghe hắn nịnh bợ lộ liễu, không nhịn được tặc lưỡi, nhưng Tào Tháo lại vui vẻ đón nhận:
— Ngươi sàn sàn tuổi chúng, coi ngươi là nhi tử cũng được. Ta đang muốn hỏi ngươi, lão phu có ý muốn đánh Ô Hoàn, ngươi thấy việc này thế nào?
Bọn Tuân Diễn nghe ông hỏi vậy, trong lòng đều chán nản: tên giảo hoạt này không tán thành mới lạ!
Quả nhiên, Diêm Nhu ra sức ca ngợi:
— Tào công anh minh! Ô Hoàn gây hại đã lâu, tại hạ thân là Hộ Ô Hoàn hiệu úy sớm đã muốn thảo phạt bọn chúng, tiếc là binh mã không đủ, lại gánh trọng trách triều đình giao phó. - Hắn chỉ là tên hiệu úy tép riu, triều đình nào có giao phó điều gì? Diêm Nhu diễn trò xu nịnh, còn lắc đầu thở dài như thật, - Minh công có lẽ không biết, Liêu Tây là đất nhiều ngựa, người Ô Hoàn lại giỏi thuần dưỡng, nếu chúng ta có thể khuất phục tộc này, để bọn họ chăn ngựa cho Trung Nguyên, tại hạ tin rằng quân kỵ của ta ắt có thể tung hoành khắp thiên hạ.
Diêm Nhu ít nói nhưng câu nào cũng chạm vào tâm khảm Tào Tháo, lại đưa ra thêm một lý do để viễn chinh. Tào Tháo mừng rỡ, hỏi các mưu sĩ:
— Các ngươi nghe thấy chưa? Đây chính là lời của Ô Hoàn hiệu úy.
Tham quân Trọng Trường Thống bước ra khỏi hàng can gián:
— Chúa công há vì cái lợi nhỏ mà...
Tào Tháo bực bội quát:
— Ngươi là một văn nhân, hiểu gì việc quân mà dám nói năng tùy tiện.
Trọng Trường Thống nghẹt thở, mặt mũi đỏ bừng. Kỳ thực, Tào Tháo trách mắng Trọng Trường Thống không chỉ vì ông ta ngăn cản việc dụng binh, mà chủ yếu do ông ta được bọn Tuân Úc tiến cử.
Suốt buổi tranh luận mới chỉ có một mình Quách Gia tán thành dụng binh, giờ có thêm một tên Diêm Nhu nữa, Lâu Khuê
từ đầu đến cuối không nói gì, thấy Tào Tháo kiên quyết như vậy, đành thở dài nói:
— Cũng được, tại hạ theo ngài đi Liêu Tây một chuyến vậy. — Được, vẫn là lão bằng hữu hiểu ta. - Tào Tháo thấy Lâu Khuê đã đồng ý, lại quay sang nhìn Hứa Du. Nhưng Hứa Du chẳng nói chẳng rằng quay mặt đi chỗ khác. Ông ta không muốn tới nơi xa xôi chịu khổ đây mà. Tào Tháo không hài lòng, nhưng nghĩ đến giao tình trước đây, không tiện nói nặng lời trước mặt chúng nhân, chỉ hỏi Hình Ngung, - Điền tiên sinh đã
đi rồi, một mình tiên sinh có thể dẫn đường được không? Hình Ngung quả quyết:
— Tại hạ thuộc làu đường đi lối lại, tuyệt sẽ không có sai sót.
Sử Hoán vẫn thấy việc này không ổn, muốn tiếp tục can gián, nhưng Hàn Hạo kéo tay áo ông ta, khẽ nói: — Nay, binh lực quân ta hùng mạnh, lừng lẫy bốn biển, đánh đâu thắng đó. Không nhân lúc này mà trừ họa trong thiên hạ, tất tạo thành nỗi lo ngày sau. Chúa công uy vũ, liệu kế như thần, tướng lĩnh trung quân chúng ta chớ nên ngăn cản nữa. Hàn Hạo nói giọng vừa phải, nhưng Tào Tháo vẫn nghe được rõ ràng, nên rất hài lòng:
— Hàn Hạo, Sử Hoán nghe lệnh.
— Có mạt tướng! - Hai tướng vội bước lên phía trước một bước.
— Các ngươi dẫn dắt trung quân có nhiều công lao, nay tấn phong một bậc. Hàn Hạo làm Trung hộ quân, Sử Hoán làm Trung lĩnh quân[382], được phép bổ nhiệm các chức Trưởng sử, Tư mã, thay lão phu xử lý công chuyện trong doanh. Nếu như lần này thắng trận, ta sẽ dâng tấu đề bạt các ngươi làm Đình hầu! - Hai chức vị đó vô cùng quan trọng, từ trước tới nay mọi việc trong trung quân đều do Tào Tháo tự mình sai phái, nay lại ủy thác hết cho Hàn Hạo và Sử Hoán, còn cho phép bọn họ nhận mệnh chức quan dưới quyền. Điều này không chỉ thể hiện sự tín nhiệm mà còn là một vinh dự lớn lao dành cho họ.
Chúng tướng nhanh chóng nhận ra, chỉ cần ủng hộ việc viễn chinh sẽ lập tức được thăng quan tấn chức, còn ai muốn
phản đối nữa? Vu Cấm là người đầu tiên bước ra khỏi hàng, lời lẽ hoàn toàn trái ngược với thái độ lúc nãy:
— Chúa công đã quyết ý, mạt tướng nguyện làm tiên phong.
Trương Liêu cũng nói:
— Mạt tướng nguyện xông vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng quyết không từ!
Tiếp đến bọn Nhạc Tiến, Chu Linh, Từ Hoảng, Lý Điển, Trình Dục cũng rối rít xin được xuất chinh.
— Được, được lắm. - Tào Tháo gật gù, đoạn cầm bút viết gì đó, đến khi chúng tướng dứt lời, ông ném cho kí thất Trần Lâm, - Ngươi tuyên đọc thay lão phu.
— Dạ. - Trần Lâm nhận sắc lệnh, đọc dõng dạc, - Võ lực cao siêu, mưu tính cẩn mật, trung hậu thuần nhất, biết giữ tiết nghĩa. Mỗi khi lâm trận, thường làm tướng soái, phấn sức xông vào gian khó, không có chỗ kiên cố nào không phá được, lại thường tự tay thúc trống, không biết mỏi mệt. Mỗi khi nhận lệnh chinh phạt, thống lĩnh toàn quân, vỗ về bộ hạ, trên dưới hòa thuận, khiến họ tuân theo mệnh lệnh, không có sai phạm, đối diện quân địch mà quả quyết dứt khoát, chẳng sai sót gì. Luận công xét thưởng, nên ban thêm ân sủng vẻ vang.
Chúng tướng đang suy đoán xem ai được đánh giá cao như vậy, thì Tào Tháo đứng dậy nói:
— Vu Văn Tắc, Nhạc Văn Khiêm, Trương Văn Viễn nghe sắc phong!
— Có mạt tướng! - Ba tướng cùng quỳ xuống.
— Ba người các ngươi nhiều lần thắng trận, chiến công hiển hách, từ nay ta tấn phong Vu Cấm làm Uy Vũ Tướng quân, Nhạc Tiến làm Chiết Xung Tướng quân, Trương Liêu làm Đăng Khấu Tướng quân, đứng đầu chúng tướng! - Việc phong quan vốn phải dâng biểu lên triều đình, nhưng lúc này Tào Tháo tự ý quyết định, chẳng thèm ăn nói giả cách.
Ba võ nhân này đâu có nghĩ nhiều như vậy, trong mắt họ trước nay chỉ có Tào Tháo, nào có thiên tử:
— Mạt tướng xin xung phong đi đầu, không phụ sự kỳ vọng của chúa công! - Nhưng cũng từ đây, sự tranh đấu nội bộ giữa
ba tướng ngày càng gay gắt.
Người được phong thưởng muốn tiến thêm trên con đường tiến thân, còn kẻ chưa thụ phong lại ấm ức không phục. Chu Linh vốn không ưa Vu Cấm, lại cũng có nhiều công lao, tức đến nỗi nghiến răng nghiến lợi. Lý Điển cũng phật ý nhưng lòng dạ thâm sâu, không thể hiện ra nét mặt, chỉ thầm nghĩ: “Tôi theo ngài cử binh từ lúc còn chưa đến tuổi nhược quán, khi dẹp loạn Duyện Châu, Lý thị có công đánh đuổi Lã Bố, mấy năm sau này lại cùng Nhạc Tiến hợp lực chiến đấu, kẻ tám lạng người nửa cân. Tôi dâng lương thực trong trận Quan Độ, giải vòng vây ở gò Bác Vọng, đưa quân vượt bến Lê Dương, dựa vào đâu Nhạc Tiến được phong thưởng, còn tôi thì không? Chẳng lẽ vì Lý gia có công lao quá lớn ư?...”
Chúng tướng đều đã ủng hộ Tào Tháo, các mưu sĩ đành chịu bó tay, Tào Tháo liếc nhìn Tuân Diễn:
— Hưu Nhược, ngươi làm Đô đốc ở Hà Bắc quá vất vả, phải lo lắng nhiều việc, khó tránh khỏi có những chuyện suy nghĩ không được chu toàn. Ta thấy ngươi cũng nên nghỉ ngơi, từ nay chuyển làm Lưu phủ tham quân, đỡ phải lao lực.
Tuân Diễn thót tim: vậy chẳng phải là muốn đoạt binh quyền của ta sao?
Tuân Du vội nói lời khuyên ngăn:
— Hưu Nhược coi việc quân ở Hà Bắc mấy năm nay, xe nhẹ quen đường cả rồi, tướng sĩ đều tín phục ông ấy. Nay chúa công muốn xuất chinh mà lại đổi chức vị này, lấy ai trông coi quân vụ?
— Ta lo việc này! - Từ ngoài sảnh đường bỗng vọng vào một giọng nói cao vút. Mọi người quay lại nhìn, một viên tướng trung tuổi, chòm râu lốm đốm bạc tiến vào. Ông ta dáng người không cao, tướng mạo dữ tợn, con mắt bên trái được che lại bằng miếng vải đen, còn con mắt bên phải sắc lạnh khiến người khác khiếp sợ. Đó chính là Kiến Vũ Tướng quân Hạ Hầu Đôn.
Ai cũng biết Hạ Hầu Đôn có thân phận ngang hàng Tào Tháo, ông ta làm tổng đốc quân vụ Hà Bắc, kẻ nào dám không phục? Tuân Du cảm thấy kinh ngạc, mấy ngày trước quân báo còn nói Hạ Hầu Đôn đang ở Tịnh Châu, sao ông ta lại thình lình
có mặt ở Nghiệp Thành rồi? Tuân Du thấy Tào Tháo chẳng có chút ngạc nhiên nào. Thì ra việc này được sắp đặt từ trước, ông ta đã sớm muốn đoạt hết binh quyền của Tuân Diễn.
Tuân Diễn và Tuân Du đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai nói gì nhưng đều hiểu cùng một ý: Sóng ngầm đang từ từ dâng lên, Tuân Úc bị nghi kỵ khiến cả gia tộc Tuân thị đều chịu liên lụy, Tào Tháo đang từng bước loại bỏ tầm ảnh hưởng của nhà họ Tuân.
— Nguyên Nhượng, đi đường vất vả rồi. - Tào Tháo mỉm cười đắc ý.
Hạ Hầu Đôn cũng cười nói:
— Mạt tướng nhận lệnh há có thể nói là vất vả? - Ông ta vốn đóng quân ở Hứa Đô, sau khi diệt được Cao Cán, Tào Tháo lại vội vàng đưa quân đánh Thanh Châu, nên đã điều ông ta đến Tịnh Châu cùng Thứ sử Lương Tập mới nhận chức xử lý hậu chiến. Vài tháng sau, Tào Tháo lại bí mật triệu ông ta tới Nghiệp Thành. Hạ Hầu Đôn chạy tới chạy lui cũng không nhàn nhã gì.
— Tốt lắm! Ta tấn phong ngươi làm Phục Ba Tướng quân, thêm một ngàn tám trăm hộ thực ấp, lĩnh chức Hà Nam doãn, có quyền tùy nghi hành sự, không phải câu nệ phép tắc. Khi ta không ở Hà Bắc, tất cả quân vụ do ngươi xử lý, không có biến cố gì hệ trọng thì không cần bẩm báo lại với ta.
Hạ Hầu Đôn là Cao An Hương hầu, ấp phong chỉ có bảy trăm hộ, nay được hưởng đến tận hai ngàn năm trăm hộ, thành người có tước vị cao nhất chỉ sau Tào Tháo. Ông ta ở Nghiệp Thành mà lĩnh chức Hà Nam doãn, nghĩa là dù không ở Hứa Đô, quân vụ ở kinh sư vẫn do ông ta tiếp quản. Câu “có quyền tùy nghi hành sự, không cần câu nệ phép tắc” còn cho thấy ông ta được phép tiền trảm hậu tấu, khi xử lý những việc cấp bách không phải để ý đến pháp lệnh của quốc gia. Đủ thấy người Tào Tháo tin cậy nhất vẫn là Hạ Hầu Đôn, cùng với việc nảy sinh mâu thuẫn với Tuân Úc, Tào Tháo càng coi trọng ông ta hơn.
Hạ Hầu Đôn chắp tay nói:
— Mạt tướng nhận chức trách, nhưng xin từ chối tước vị
— Tước vị không cao thì dân không kính, bổng lộc không hậu thì dân không tin. Ta dựng uy tín cho ngươi để sau này ngươi làm việc được thuận lợi hơn, chớ có từ chối.
— Nếu vậy... Mạt tướng xin tiếp nhận. - Hạ Hầu Đôn chắp tay khấu tạ.
— Giữa chúng ta đâu cần hành lễ. - Tào Tháo xua xua tay, nhìn một lượt các mưu sĩ, - Các vị còn muốn nói gì nữa không? - Chuyện đã tới nước này còn nói gì được? Tuân Du, Trọng Trường Thống, Tuân Diễn, Thôi Diễm đều cúi gằm mặt. - Mọi người không có ý kiến gì khác, vậy quân sư và Phụng Hiếu theo quân nghe sai phái, Hình tiên sinh dẫn đường, Diêm Nhu làm tiên phong. Toàn quân nghỉ ngơi một ngày rồi nhổ trại xuất chinh!
Vậy là tháng hai năm Kiến An thứ mười hai, Tào Tháo kiên quyết viễn chinh trong khi vẫn còn nhiều dị nghị. Tám vạn đại quân hừng hực khí thế bắt đầu xuất phát từ Nghiệp Thành, kỵ binh đi trước bộ binh theo sau, đao thương tựa bông lau, kiếm kích tựa rừng đay, xe chở quân nhu nhiều vô số kể. Đến địa bàn của một dân tộc khác, phong thổ không giống với Trung Nguyên, tất cả lều trại khí giới quân Tào cần dùng đều được chuẩn bị đầy đủ từ trước. Cả đội quân rầm rộ hành quân dài đến mấy dặm, trận thế rất uy vũ, nhưng điều này cũng làm chậm quá trình tiến quân. Tướng sĩ ba quân lặn lội trên con đường đầy cát bụi mất ba tháng mà mới đến được huyện Dương, thuộc địa phận U Châu - chưa được nửa đường, vẫn còn cách Liễu Thành rất xa.
Quách Gia lần thứ hai hiến kế:
— Dụng binh quý ở chỗ thần tốc. Nay ta tiến quân từ ngàn dặm, quân dụng quá nhiều, khó giành được lợi thế, huống hồ quân địch biết tin tất bố trí phòng bị. Chi bằng bỏ quân nhu lại, để bộ binh nhẹ nhàng ngày đêm lên đường, bất ngờ đánh úp.
Tào Tháo theo kế ấy, chọn ra hai vạn quân tinh nhuệ, gồm cả đội hổ báo kỵ trung quân tới trước huyện Vô Chung là biên giới của người Hồ, Hán.
Hồi thứ 99
Trương Tú và Quách Gia đoản mệnh, Tào Tháo mất liền hai ái tướng
Vô Chung chặn đường
Tào Tháo nghe theo lời Quách Gia, sắp xếp khinh binh gấp rút hành quân nhưng vẫn gặp phải chuyện ngoài ý muốn. Người ta thường nói đất Yên Triệu bốn mùa rõ rệt, có thể ngắm hoa vào mùa xuân, thưởng trăng vào mùa thu, nghe tiếng côn trùng kêu mùa hè và xem tuyết rơi mùa đông. Nhưng không phải ai cũng thích nghi được với kiểu khí hậu này. Mùa xuân thời tiết đẹp nhưng hay có bão cát, nhuộm vàng cả đất trời. Mùa thu khí trời mát mẻ, song lại sợ những cơn mưa mang theo hơi lạnh, khiến không khí ẩm ướt và lạnh buốt như ở trong hầm băng. Mùa đông, khi không có tuyết thì gió thổi vù vù, lạnh thấu xương tủy, còn một khi tuyết rơi lại phủ kín các ngọn núi, chặn mọi ngả đường. Khó chịu nhất là vào mùa hè, đất Yên Triệu nóng nực khô hạn, trời nóng như đổ lửa, trên mặt đất chằng chịt vết rạn, nhưng hễ đổ mưa là sấm chớp lại kéo đến ầm ầm, mưa xối xả không ngớt, như thể sông thiên hà bị vỡ, khiến nước trên trời trút hết xuống nhân gian.
Vậy mà Tào Tháo lại phải hứng trọn những cơn mưa lớn trong mùa hè năm nay, từ khi rời khỏi huyện Dịch hầu như chưa có ngày nào hửng nắng. Từ đám quan viên, binh lính cho đến cả Tào Tháo đều ướt sũng. Trải qua bao vất vả, quân Tào mới đến được huyện Vô Chung, nhưng lại không thể đi tiếp - bởi vì qua phía đông chính là địa bàn của người Ô Hoàn, quân Tào có thể chạm trán kẻ địch bất cứ lúc nào, hiện giờ binh sĩ ai cũng mệt mỏi nhếch nhác, quân doanh biến thành đầm lầy, nên phải
dời vào huyện thành nghỉ ngơi ít ngày, lấy lại tinh thần rồi mới ra ứng chiến được. Vả lại, mưa lớn khiến nước sông dâng cao, còn phải tìm hiểu xem đường sá có bị tắc nghẽn không, việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy có phải hoãn lại không. Tào Tháo tạm lấy dinh huyện Vô Chung làm trướng trung quân, phái người đi tìm hiểu tình hình quanh vùng.
— Thuộc hạ liệu việc không được chu toàn, xin chúa công trách phạt! - Hình Ngung phụng lệnh xem xét đường đi vừa quay trở về, quỳ ngay ngắn trước mặt Tào Tháo, - Lũ quét bất ngờ, nước biển tràn bờ, đường ven biển ở phía đông núi Từ Vô lầy lội bùn nhão, e là phải đợi nước rút mới đi qua được.
Tào Tháo cau mặt nhíu mày, buồn bực đi đi lại lại, nhưng không trách ông ta. Có điều, Lâu Khuê đứng cạnh lại trừng mắt nhìn:
— Hình Tử Ngang, trước lúc xuất chinh ông khoác lác thế nào? Ông nói mình nắm rõ từng đường núi đường sông, sao khi tới nơi lại không đi được?
Hình Ngung biết mình đuối lý, chỉ nhẹ nhàng nói: — Gần chục năm qua, nơi này hiếm khi có mưa, năm nay bỗng nhiên mưa lớn, khiến cho sông ngòi xung quanh tràn bờ, tại hạ làm sao ngờ được? Xin Lâu Tư mã hiểu cho. Lâu Khuê vẫn không chịu bỏ qua:
— Ông sống ở đây bao nhiêu năm, lại làm người dẫn đường, thế mà có mỗi việc này cũng không lường trước được. Thật đáng xấu hổ! Nếu ta mà là ông đã khiêm nhường một chút, chẳng có bản lĩnh gì ghê gớm thì chớ kéo căng cung...
— Tử Bá! Chớ nói nữa. - Tào Tháo đứng lại vân vê đầu lông mày, lúc này ông cũng chẳng buồn oán giận Hình Ngung, vẫy tay tỏ ý bảo ông ta đứng lên, - Phải đợi bao lâu cho nước rút?
— Nhanh thì mất mười ngày đến nửa tháng, chậm thì... - Hình Ngung nuốt nước bọt, - Nếu vẫn mưa tiếp như thế này, hai ba tháng nữa cũng khó nói.
— Phải đợi hai ba tháng nữa ư? - Tào Tháo bước ra cửa nhìn cơn mưa lớn, thất thần hồi lâu, bỗng quay người lại nói, - Không thể trì hoãn thêm, nếu đợi hai tháng thì khi quân ta tới
được Liễu Thành đã vào mùa đông. Ngày mai xuất phát, dù có lội nước cũng phải đến được Liễu Thành!
Hình Ngung rùng mình: lội nước suốt chặng đường dài mấy trăm dặm, thử hỏi tướng sĩ ba quân phải chịu khổ nhường nào? Nhưng cũng tại ông ta tính toán không chu toàn, là người có lỗi trước, nên không dám ngăn cản, chỉ biết im thít. Người ở ẩn vốn giữ mình trong sạch, không chịu khuất phục trước quyền thế, nhưng một khi dấn thân vào con đường sĩ hoạn, tiết tháo trước kia sẽ dần bị bào mòn. Cũng giống như con chim đeo vàng khi đang bay, tuy rằng từ trên người có lấp lánh nhưng lại chẳng thể đập cánh bay cao được.
— Làm vậy được không? - Lâu Khuê cũng thấy việc này không ổn, - Miễn cưỡng tiến quân, binh sĩ mệt mỏi, ngộ nhỡ gặp phải quân địch chẳng nguy hiểm hay sao?
— Lão phu biết là nguy hiểm. Nhưng nước ngập đường đi, quân ta gặp bất lợi thì quân địch cũng thế. Huống hồ quân ta mới bình định Thanh Châu sĩ khí đang hăng, quân tiên phong đi trước đại quân theo sau, người Ô Hoàn chưa chắc dám khinh phạm. Bất luận thế nào cũng phải tới được Liễu Thành trước khi mùa đông đến. Nếu còn kéo dài, giữa đường gặp tuyết lớn, thì việc chinh phạt lại phải lùi lại... - Tào Tháo ngại nói thẳng ra, huynh đệ Viên Thượng chỉ là mối lo bé xíu, điều khiến ông thực sự sợ là để lỡ mất kế hoạch thảo phạt Kinh Châu, tiêu diệt Giang Đông và tiếp đến là nhất thống thiên hạ, lên ngôi chí tôn.
Quân sư Tuân Du nãy giờ chỉ lặng lẽ đứng nghe, ông ta biết Tào Tháo nghi kỵ người nhà họ Tuân nên không muốn nói những lời mất hứng, nhưng thấy Tào Tháo vẫn một mực muốn tiến quân thì không nhịn được nữa:
— Chúa công đích thân viễn chinh vốn đã không nên, nay tuyệt đối không thể đi vào chỗ nguy hiểm. Viên thị bất quá là đám tro tàn, khó có thể bùng cháy, lùi việc dụng binh lại một năm đã sao? Mọi việc đều không thể nóng lòng cầu thành được!
Mọi việc đều không thể nóng lòng cầu thành được. Tào Tháo ngẫm kỹ câu này, đoạn quay sang nhìn chằm chằm Tuân Du:
— Quân sư nói “nóng lòng cầu thành” là chỉ việc thảo phạt Ô Hoàn, hay còn có ý gì khác?
Bầu không khí trên khách đường lập tức đặc quánh lại, ai cũng hiểu Tào Tháo ám chỉ điều gì. Tuân Du chỉ thuận miệng nói vậy, không hề có ý chế giễu ông vội vã muốn cướp thiên hạ của nhà Hán, chẳng ngờ lại dẫn tới sự nghi kỵ lớn như thế, hốt hoảng giải thích:
— Tại hạ chỉ nói về việc dụng binh, không có ý khác. — Hừ! - Tào Tháo nào chịu nghe ông ta giải thích, - Có ý khác cũng không sao, lão phu nói cho ngươi biết, ta nóng lòng cầu thành đấy. Lão phu đã hơn năm mươi tuổi, có những việc không thể không vội! Quyền hành trong thiên hạ đều trong tay ta, việc ta muốn làm ai dám ngăn cản? Quân sư ơi quân sư, ông phải hiểu cho rõ!
Trong lòng Tuân Du đau như dao cứa, thực không biết phải đối lại thế nào, đành cúi đầu nhẫn nhịn. Hình Ngung và Lâu Khuê không ngờ Tào Tháo lại đối xử khắc bạc với người tận tâm tận lực phò tá mình bao năm qua, muốn giúp quân sư giảng hòa, nhưng không biết mở miệng ra sao về chủ đề sâu kín này, sợ nói sai Tào Tháo lại giận lây sang mình, nên đều đứng im. Đúng lúc đó, chợt nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, bọn Tiên Vu Phụ, Trương Tú, Diêm Nhu nói cười rôm rả quanh một người mình mặc áo tơi đang bước vào khách đường, chính là Điền Trù.
— Điền tiên sinh! - Tào Tháo ném chuyện của Tuân Du sang một bên, lấy lại tinh thần.
— Thảo dân bái kiến minh công. - Điền Trù tháo nón lá, cúi người thi lễ, nhưng vẫn xưng là thảo dân, tỏ ý xa cách. Tào Tháo không vui, cười nhăn nhó:
— Tiên sinh thật đúng lúc. Lần trước tiên sinh từ quan hẳn là vì không muốn làm thuộc hạ của lão phu, nay ta dâng tấu lên triều đình tiến cử ông làm hiếu liêm, giữ chức Huyện lệnh huyện Điều. Chức Huyện lệnh này do triều đình sắc phong, thiên tử nhận mệnh, ông vừa lòng rồi chứ?
— Đa tạ hậu ý của minh công, nhưng thảo dân tính khí buông thả, kiến thức nông cạn, không dám khinh mạn triều
đình, xin minh công lượng thứ. - Câu nói khách sáo của Điền Trù cũng toát lên vẻ lạnh nhạt, - Thảo dân quay lại không phải vì còn lưu luyến đường sĩ hoạn, mà chỉ muốn dẫn đường cho ngài.
Những ngày vừa qua, hành quân gian khổ khiến Tào Tháo rất bực bội, hôm qua Quách Gia bệnh nặng, nằm liệt trên giường, ban nãy ông lại còn to tiếng với Tuân Du, bao chuyện phiền muộn dồn cả lại. Lúc này thấy Điền Trù vẫn cố chấp không chịu nghe theo sự sắp đặt của mình, cơn giận trong lòng ông vọt lên đến tận họng, chỉ chực thốt ra từ “giết”, nhưng nghe Điền Trù nói nguyện ý dẫn đường, ông lại vội nuốt giận:
— Sao? Tiên sinh có cách ứng phó những con đường bị ngập nước đó ư?
Điền Trù lắc đầu:
— Theo đường đó tới Liễu Thành, phải đi về phía tây núi Từ Vô, qua các huyện Lệnh Chi, Phì Như, đều là vùng chiêm trũng. Khi lũ dâng, chớ nói là xe ngựa không đi qua được, mà những chỗ nước sâu cũng không thể chèo thuyền. Nếu minh công vẫn muốn đi theo đường đó, e là còn khó hơn lên trời...
Hình Ngung sực tỉnh:
— Lẽ nào huynh trưởng còn biết đường khác?
— Đúng vậy. - Điền Trù thong dong nói, - Vào triều trước, trị sở quận Bắc Bình không đặt ở huyện Vô Chung, mà ở thành Bình Cương. Theo người già kể lại, ở đó có một sơn đạo dẫn thẳng tới Liễu Thành.
— Thành Bình Cương? - Tào Tháo tỏ ra vô cùng kinh ngạc, - Chính là nơi nhà Hán từng giao chiến với quân Hung Nô? Ta chỉ nghe nói đến địa danh này trong sử sách, các quận huyện nằm trong địa phận quản hạt của U Châu hiện nay đều không có nơi nào như thế, rốt cuộc Bình Cương nằm ở đâu? Chẳng lẽ ở quan ngoại?
— Không sai. - Điền Trù chỉ tay về hướng đông bắc, - Ra khỏi cửa sau núi Từ Vô, đi theo hướng đông bắc tới ải Lô Long, thuộc Trường Thành, sau đó đi tiếp khoảng hai trăm dặm là tới thành Bình Cương. Qua Bình Cương, vượt núi Bạch Lang là đến được Liễu Thành, gần hơn đi dọc theo đường biển.
Hình Ngung liên tục giậm chân:
— Đệ sống ở núi Từ Vô bao năm mà không biết con đường này.
— Việc này cũng không thể trách đệ được. Thành Bình Cương bị bỏ hoang từ thời Vương Mãng tới nay đã hơn hai trăm năm. Trước kia, ta cũng tưởng rằng con đường này bị chặn mất từ lâu, nhưng hai năm trước có mấy vị người Tiên Ti đi ra từ sau núi chúng ta, nên ta mới biết cổ đạo vẫn thông suốt, chẳng qua đường đi gồ ghề, lại bị cỏ lấp thôi. - Điền Trù vừa nói vừa chắp tay với Tào Tháo, - Nếu minh công muốn tiến quân theo đường này, thảo dân nguyện dẫn đường cho ngài.
Ông ta nói rất dễ nghe, nhưng mọi người lũ lượt lắc đầu: ra khỏi ải Lô Long không còn là địa phận của nhà Hán, liệu có gặp nguy hiểm gì không? Nếu đụng phải bộ lạc Tiên Ti du mục, há chẳng không trừ được sói còn mời hổ đến sao? Huống chi, con đường này đã bị bỏ hoang hơn hai trăm năm, ngộ nhỡ bị tắc nghẽn giữa đường, lại phải băng đèo vượt núi đến Liễu Thành, thì chỉ cần một chút sai sót binh mã sẽ bị lạc giữa núi rừng trùng điệp. Đến lúc đó, tiến lui đều khó.
Điền Trù đoán ra chúng nhân lo nghĩ điều gì, lại giải thích tiếp:
— Cổ đạo mặc dù hoang vắng nhưng gần hơn trăm dặm so với đường ven biển. Các bộ lạc Tiên Ti đang bị cuốn vào cuộc tranh đấu nội loạn, thảo dân nghĩ bọn họ chẳng hơi đâu quấy nhiễu chúng ta. Hơn nữa, đại quân của minh công đến được đây, chắc chắn người Ô Hoàn đã nhận được tin. Đạp Đốn tất bố trí binh mã ở đất Lệnh Chi, Phì Như để đề phòng quân ta, cho nên đợi khi nước rút quân ta cũng chưa chắc đánh thắng được. So với việc liều đánh, chi bằng chúng ta đưa tin ra ngoài, nói rằng nước lũ đã chặn mất đường đi rồi giả vờ lui binh, nhằm lung lạc quân địch, người Ô Hoàn tưởng thật không phòng bị nữa. Trong khi đó, chúng ta âm thầm điều binh ra biên ải, đánh úp quân địch, có thể dễ dàng bắt được Đạp Đốn.
— Đúng là diệu kế! - Tim Tào Tháo đập mạnh.
Điền Trù đảo mắt nhìn hết lượt chúng nhân, thấy phần lớn tướng lĩnh vẫn nhăn mặt nhíu mày, liền chắp tay vái một vòng:
— Thảo dân chỉ biết dẫn đường, còn việc quân vẫn phải xin chư vị tự định đoạt. Quân vụ bí mật, một thường dân như tại hạ không tiện xen vào, thảo dân xin lánh sang phòng bên đợi lệnh sai phái. - Ông ta vẫn coi mình là người ngoài Tào doanh, dứt lời định bỏ đi.
Hình Ngung níu tay ông ta:
— Tiểu đệ đương không có kế gì khả thi, xin đa tạ huynh trưởng đã giúp giải vây.
Không ngờ Điền Trù khẽ hất tay Hình Ngung ra:
— Ta không đến vì công danh lợi lộc, cũng không đến vì tình nghĩa trước đây giữa hai ta, mà chỉ vì muốn sớm nhìn thấy ngày quân triều đình đánh bại Đạp Đốn, cứu hàng chục vạn đồng bào khỏi cảnh lầm than. - Nói xong bèn hiên ngang bỏ đi.
Điền Trù đi khỏi, chúng nhân lại bắt đầu ồn ào. Lâu Khuê tranh nói trước:
— Kế này có vẻ rất hay nhưng chứa nhiều hung hiểm, chúa công thân chinh ngoại phiên đã là dấn thân vào nguy hiểm, không thể mạo hiểm thêm nữa!
Khiên Chiêu cũng nói:
— Bỉ chức là người U Châu, nhưng cũng chỉ nghe được những lời truyền miệng về thành Bình Cương, dẫu cho con đường còn thông suốt thì cũng đã bị bụi gai chắn hết lối đi. Huống hồ, núi Bạch Lang là hiểm địa, xin chúa công nghĩ kỹ.
Tới cả Hứa Chử cũng lên tiếng:
— Lời nói của tên họ Điền đó có đáng tin không? Hắn ta đã chối làm quan, liệu có cấu kết với quân địch không? Mỗi người nói một câu, không ai nguyện theo kế của Điền Trù, còn Tuân Du vừa bị mắng một trận, lúc này không dám nói gì nữa, nhưng cũng lắc đầu quầy quậy.
Mặc dù mọi người ra sức phản đối, Tào Tháo vẫn hứng thú với kế hoạch này. Tất nhiên là có mạo hiểm, nhưng nếu có thể đánh đòn bất ngờ khi quân địch không phòng bị, tiêu diệt huynh đệ Viên Thượng và Đạp Đốn cùng một mẻ, nói không chừng không cần mất tên lính nào cũng chiếm được Liễu Thành! Tuy vậy, ông lại lo lắng, có ai nguyện theo ông mạo hiểm như vậy? Giữa lúc ồn ào, một giọng nói oang oang cất lên:
— Thuộc hạ nghĩ chúa công có thể thử làm theo kế ấy! - Quách Gia lẳng lặng bước vào giữa đám người từ lúc nào. — Phụng Hiếu, đã khỏe lại chưa? - Tào Tháo rất quan tâm đến Quách Gia.
— Thuộc hạ hèn kém, trong người khó chịu đã nhiều ngày, nay dính chút nước mưa lại khỏe ra. - Quách Gia vỗ ngực cười khà khà, - Chúng ta nói vào việc chính thôi. Những lời Điền tiên sinh vừa nói, thuộc hạ đều nghe cả rồi, thuộc hạ thấy kế này khả thi.
— Khả thi chỗ nào? - Mọi người nhao nhao hỏi.
— Tam lược có câu: “Năng phù thiên hạ chi nguy giả, tắc cứ thiên hạ chi an. Năng trừ thiên hạ chi ưu giả, tắc hưởng thiên hạ chi lạc. Năng cứu thiên hạ chi họa giả, tắc hoạch thiên hạ chi phúc.”[383] Người Ô Hoàn tàn phá Bắc Châu không chỉ mới một ngày, chúa công diệt trừ bọn họ không những dẹp mối lo cho phương bắc, quan trọng hơn còn tạo phúc cho con dân đại Hán. Nay có diệu kế giúp chúa công lập nên công lao bất hủ, há lại không thử làm theo? - Quách Gia tránh nói đến những nguy hiểm có thể gặp phải ở quan ngoại, chỉ nhắc lại mục đích đánh Ô Hoàn là để tạo phúc cho dân. Nhưng kỳ thực những lời có vẻ tầm thường ấy lại ngầm nhắc nhở Tào Tháo nên nắm lấy cơ hội tích góp công đức cho ngày khiến “thiên hạ yên ổn” sau này.
Vậy là nút thắt đã được tháo gỡ, hai đầu lông mày của Tào Tháo dãn ra. Ông trải trăm trận đánh, lẽ nào không biết chuyến đi lần này vô cùng nguy hiểm, mọi người nói đi nói lại chẳng phải đều vì điều đó sao? Nhưng Tào Tháo đâu cần người khác phân tích cặn kẽ về cái lợi, cái hại, thứ ông cần lúc này là một tiếng nói đồng thuận, giúp mình ổn định nhân tâm. Dù sao chuyện viễn chinh Ô Hoàn ngay từ đầu đã vấp phải nhiều tranh cãi, chuyến đi liều lĩnh sắp tới càng cần có người đứng lên hô hào. Chung quy, vẫn chỉ có Quách Gia luôn biết Tào Tháo cần gì.
Lâu Khuê vẫn chưa hiểu ý:
— Nhưng ở quan ngoại có bất trắc...
Quách Gia không cho ông ta nói hết câu:
— Quan ngoại mặc dù có nguy hiểm, nhưng cũng không ngăn được binh mã uy vũ của ta! Tại hạ tin rằng Điền Trù một lòng trung thành, càng tin vào tài dụng binh của chúa công. Đường sá đang bị ngập úng không đi qua được, đợi đường khô cũng chẳng giải quyết được gì, cứ thử một phen. Nếu thực sự không đi được thì lui về cũng chưa muộn.
Nói vậy chứ trung quân làm sao có thể xoành xoạch đổi hướng tiến quân, một khi đã đi vào cổ đạo thì không dễ quay ra. Ai cũng biết Quách Gia chỉ nói mấy lời an ủi.
— Đúng vậy! - Tào Tháo tiếp lời, - Các ngươi còn nhớ trận Quan Độ chứ? Cứ thử làm thì luôn có một tia hy vọng, còn không thử làm vĩnh viễn chẳng có phần thắng! Ý ta đã quyết, không cần nhiều lời, ba ngày sau theo Điền Trù vào núi. Ai nguyện làm tiên phong mở đường cho lão phu?
Chúng tướng nhìn nhau dò xét, tất cả đều im thin thít, mãi một lúc sau mới có một giọng nói trầm thấp cất lên: — Mạt tướng xin lĩnh ấn tiên phong.
Mọi người đưa mắt lại nhìn. Người xin lệnh là Trương Tú, mấy ngày nay ông ta đổ bệnh chưa khỏi, hốc mắt vẫn còn hõm sâu. Nhưng Tào Tháo không để ý nhiều, tiến lại cầm tay ông ta, giơ lên cao:
— Trương tướng quân mang bệnh xuất chinh, anh hùng biết bao! Còn những kẻ thân thể tráng kiện thì sao? Chúng tướng ai nấy đều hiếu chiến, bị ông nói khích, không thể do dự được nữa, chắp tay nói:
— Mạt tướng dù có phải nhảy vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng quyết không từ!
Các tướng lĩnh đã gật đầu tán thành, đám tham mưu, duyện thuộc còn biết làm sao? Lâu Khuê vuốt vuốt chòm râu: — Thôi được! Đã tới tận đây rồi thì cứ đi theo ngài vậy. Bằng hữu cũ là ta đây cũng nghĩa khí đấy chứ?
Bọn Khiên Chiêu cũng đành nghe theo.
Lúc này Tào Tháo mới hé môi cười:
— Khiên Chiêu nghe lệnh! Lập tức sai người dựng bảng gỗ bên đường, bên trên viết rằng: “Giờ đang là mùa hè nóng nực, đường sá tắc nghẽn. Quân ta tạm lùi lại tới mùa thu, mùa đông
mới tiếp tục tiến binh.” Viết bảng dựng khắp các ngả đường lớn nhỏ, sao cho quân xích hầu của Ô Hoàn nhìn thấy thật rõ. — Dạ.
Khiên Chiêu nhận mệnh rời đi, còn chưa bước xuống dưới thềm đã trông thấy một quan tướng trung tuổi, tướng mạo anh tuấn tiến vào sảnh đường:
— Thuộc hạ Đồn điền đô úy Đổng Tự tham kiến chúa công! — Hả? - Tào Tháo thoáng giật mình, - Quân lương tới rồi sao? Cả đoạn đường nước lũ dâng cao, có thuyền nào bị lật không?
Đổng Tự chắp tay thưa:
— Thuyền chở quân lương đều đã đến nơi. Nếu thiếu một chiếc, xin chúa công lấy đầu thuộc hạ!
— Tốt lắm, ta sẽ kiểm lại. - Tào Tháo vui mừng, chợt để ý thấy lưng ông ta thắt đai trắng, - Nhà ngươi có tang sao? Trong lúc cư tang vẫn không quên việc nước, tự mình áp tải lương thảo, đúng là hiếm có!
Đổng Tự ngượng ngùng nói:
— Thực không dám giấu, nội tử nhà thuộc hạ mới mất. Lời này vừa dứt, tất cả chúng nhân đều cười phá lên: Trên đời chỉ có chuyện để tang cha, để tang mẹ, làm gì có ai để tang vợ bao giờ?
Đổng Tự nói lý:
— Không phải tại hạ làm chuyện vớ vẩn đâu, do người đời không hiểu lý lẽ đó thôi! Đàn bà phải mặc áo gai để tang chồng như chở tang cha mẹ, vậy sao khi vợ chết, nam nhân lại không được phép lưu luyến? Chỉ cần đeo một dải khăn trắng cũng được mà!
Nghe ông ta nói ra đạo lý lớn lao ấy, ai cũng không nhịn được cười.
— Vớ vẩn! - Tào Tháo cũng cảm thấy nực cười, nhưng che miệng giáo huấn, - Làm vậy là trái với cương thường! Thời nay không nói làm gì, nếu là lúc thái bình, lễ giáo nghiêm khắc, dải khăn này có thể hủy cả tiền đồ của ngươi. Mau cởi ra đi!
Đổng Tự cúi xuống tháo đai, miệng vẫn lầm rầm:
— Hiền thê ơi hiền thê, ta đang ở cửa công, thân bất do kỷ, không thể nghĩ nhiều cho nàng được.
Tào Tháo nhìn dáng vẻ kỳ cục của ông ta, bảo:
— Ngươi đúng là si tình... Đại trượng phu lo gì không lấy được vợ? Vì sự si tình của ngươi, lão phu sẽ tìm giúp ngươi một cô vợ tài mạo vẹn toàn.
— Đâu chỉ chuyện cưới vợ, sự sống chết, vinh nhục của tại hạ sau này cũng xin nhờ cả vào chúa công! - Đổng Tự lanh lợi mượn gió bỏ buồm.
— Bớt nói nịnh đi. - Tào Tháo nghiêm mặt, - Cách huyện thành hai mươi dặm về phía đông có ngọn núi Từ Vô, ở đó có một sơn trại, đợi khi trời tối ngươi hãy sai người qua tặng ít lương thực.
— Tặng người trong núi? - Đổng Tự không hiểu ý này. — Điền tiên sinh ẩn cư tại núi Từ Vô là bằng hữu của ta. Ngươi mang tặng lương thực, nếu có ai hỏi thì nói là phụng lệnh cứu tế thôn dân. Còn những chuyện khác ngươi không cần lo, lúc nào đi lão phu sẽ nói cho ngươi biết.
— Dạ. - Đổng Tự lĩnh mệnh.
Tào Tháo dò xét từng người trên khách đường:
— Các ngươi cũng về nghỉ đi. Tranh thủ mấy ngày này mà nghỉ ngơi dưỡng sức, lấy lại tinh thần cho ta!
Chúng tướng vâng dạ, ai doanh nấy đi ra, chỉ còn Tuân Du và Quách Gia ở lại.
— Công Đạt... - Tào Tháo liếc mắt nhìn Tuân Du, thấy ông ta đầy vẻ lo lắng, ủy khuất, biết vừa nãy mình đã nói quá lời, bèn bảo, - Quân ta liên tục gặp trở ngại, vì vậy trong lòng lão phu buồn bực không vui, ngươi chớ để bụng những lời vừa rồi. Đoạn đường phía trước nhiều gian khổ, đừng đi theo nữa. Hãy ở lại giả thế lui binh, lung lạc quân địch, mặt khác phải kịp thời gửi quân báo cho ta. Mấy ngày nữa, đại quân ở phía sau đến nơi, ngươi còn vất vả nhiều đấy! - Dứt lời, ông cầm chiếc áo tơi đi tìm Điền Trù, bàn bạc cặn kẽ việc tiến quân.
Tuân Du nhìn theo bóng Tào Tháo, thẫn thờ thở dài. Xem ra những ngày tháng yên ổn đã hết, sau này ông không thể thành tâm thành ý với Tào Tháo nữa. Những năm qua đi theo
Tào Tháo, Tuân Du đã hiểu rõ tính cách của ông, một khi quyết ý làm việc gì thì ai cũng đừng hòng ngăn cản. Nếu ông ta vẫn cứ giữ đạo trung với vua, sớm muộn cũng bị Tào Tháo coi là cái gai trong mắt. Khi đó, dù có đem hết những ân nghĩa trước kia và công lao hãn mã ra, e là cũng không đỡ nổi lưỡi đao của đồ tể! Nhưng nếu vứt bỏ lời thề trung thành với Hán thất thì lúc nhắm mắt xuôi tay ông còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông nhà họ Tuân? Kỳ thực, Tào Tháo có được uy thế như ngày hôm nay cũng nhờ nhiều vào công lao của ông, chính ông bày mưu tính kế cho Tào Tháo thắng hết trận này đến trận khác. Lẽ nào ông chịu muôn ngàn khổ ải chỉ để giúp người ta đào mộ chôn thiên hạ của nhà Hán hay sao! Rốt cuộc nên đi con đường nào đây... Tuân Du phiền muộn, quay sang nhìn Quách Gia, lẩm bẩm nói:
— Phụng Hiếu, xem ra ta phải nhường lại vị trí quân sư cho ông rồi.
— Không đâu, vị trí ấy mãi mãi là của Công Đạt huynh. - Quách Gia lắc đầu, cười nhăn nhó, - Nói thật lòng, trước kia lão đệ cũng từng có ý muốn tranh giành vị trí quân sư của huynh, nhưng giờ đây... Ây dà! Lão đệ muốn khuyên huynh một câu, thiên hạ sớm muộn gì cũng thuộc về Tào gia, huynh và Lệnh quân có giữ gìn tiết tháo cũng vô dụng. Chúa công không phải Chu Vũ Vương, hai vị chẳng thể làm Bá Di, Thúc Tề[384] được... Khụ khụ!... Bình tĩnh mà xét, nếu không có Tào Mạnh Đức, triều đình sớm đã chẳng còn. Cho nên, dù ngài ấy lên làm hoàng đế, cũng có gì trái nghịch? Khụ khụ khụ!... - Ông ta hít mấy hơi thật sâu, nén cơn ho lại, nhủ đi nhủ lại, - “Năng phù thiên hạ chi nguy giả, tắc cứ thiên hạ chi an. Năng trừ thiên hạ chi ưu giả, tắc hưởng thiên hạ chi lạc. Năng cứu thiên hạ chi họa giả, tắc hoạch thiên hạ chi phúc...”
Tuân Du lúc thì gật đầu lúc lại lắc đầu, càng nghĩ càng phiền não, sau cùng chỉ biết thở dài sườn sượt, cầm tập quân báo dày cộp. Bất luận là vì Tào thị hay vì Hán thất, cũng đều không được để lỡ việc quân. Nhưng nếu không thể khôi phục thiên hạ nhà Hán, đánh trận còn có ý nghĩa gì với ông? Thật là tiến thoái lưỡng nan.
Khổ nơi quan ngoại
Tháng bảy năm Kiến An thứ mười hai (năm 207 sau Công Nguyên), dưới sự dẫn đường của Điền Trù và Hình Ngung, Tào Tháo lên núi Từ Vô, qua ải Lô Long, bắt đầu con đường viễn chinh đầy rẫy nguy hiểm. Tướng lĩnh theo quân có Kiên Trung Tướng quân Trương Tú, Đãng Khấu Tướng quân Trương Liêu, Hoành Dã Tướng quân Từ Hoảng, Độ Liêu Tướng quân Tiên Vu Phụ, Thiên Lương quân Trương Cáp, Ô Hoàn hiệu úy Diêm Nhu, cùng với những tướng hiệu thân tín như Hứa Chử, Tào Thuần, Hàn Hạo, Sử Hoán, Quân sư tế tửu Quách Gia, Quân tư mã Lâu Khuê, và Quân mưu duyện Khiên Chiêu là người gốc U Châu làm tham mưu.
Tuy mọi người đã chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi xuất phát, nhưng bước vào hành trình mới biết con đường này gian lao hơn nhiều so với tưởng tượng. Ải Lô Long đặt tại nơi xung yếu giữa sơn cốc, làm chỗ đồn trú, phòng ngự Hung Nô dưới thời tiền Hán. Mặc dù những năm qua xảy ra nội loạn, nơi đây đã bị bỏ hoang nhưng tòa thành trông vẫn rất đồ sộ. Tường thành cao ba trượng, chạy dọc hai bên vách núi cheo leo là cửa ải quan trọng trấn giữ Trường Thành. Phía bắc ải Lô Long có các dãy núi trập trùng nối dài vô tận, khiến người ta nhìn mà kinh hãi. Con đường mà Điền Trù nói là hẻm nhỏ ngoằn ngoèo nằm giữa khe núi, còn bị bụi gai chắn hết lối đi, binh sĩ phải dùng đao phạt bụi rậm nhích từng bước, gặp quãng sông sâu còn phải dựng cầu tạm.
Khi đến huyện Dịch, Tào Tháo đã bỏ đại đội binh mã lại phía sau để đẩy nhanh tốc độ tiến quân, đến khi quyết định đổi hướng đi qua ải Lô Long, ông lại chỉ chọn ra đội quân tinh nhuệ nhất, tính cả quân vận lương thảo và quân nhu mới được hơn ba vạn người. Dù vậy, bọn họ cũng khó có thể vung vẩy chân tay khi đi trên cổ đạo, vì lối đi quá cao và hẹp, chỉ đủ cho một người qua, binh sĩ người trước kéo người sau, cả đội quân trải dài đến năm sáu dặm. Vả lại, đường đi quanh co chứ không thẳng tắp, trước hết quân Tào phải đi theo hướng tây bắc, vòng
qua những ngọn núi hiểm trở tới địa phận huyện Bạch Đàn, sau đó mới chuyển hướng đông bắc tới thành Bình Cương. Điền Trù, Hình Ngung đi trước dẫn đường, đội quân của Trương Tú làm tiên phong, mở đường, bắc cầu. Tiên Vu Phụ, Diêm Nhu và các bộ tướng khác theo sát phía sau; Tào Tháo dẫn tướng hiệu thân tín, đội hổ báo kỵ và mấy vị tham mưu đi giữa. Còn ba đại tướng Trương Liêu, Từ Hoảng, Trương Cáp đi sau cùng, bởi họ là quân chủ lực, phải đảm bảo sức lực để khi lâm trận còn đổi vị trí. Ngoài ra, còn có Đồn điền đô úy Đổng Tự tạm dừng chân ở núi Từ Vô, phân công thuộc hạ và những thôn dân thông thuộc đường đi chuyển từng xe lương thực, quân nhu vào trong quân, mặt khác nhận quân báo của Tuân Du rồi gửi cho Tào Tháo, xích hầu chạy tới chạy lui như con thoi giữa núi rừng. Lần này mọi việc đều được bố trí hết sức cẩn thận, nhưng tiến độ hành quân rất chậm, có khi một ngày cũng không đi được hai mươi dặm đường, chỉ có thể bền bỉ tiến quân. Đường đi gian lao là một chuyện, thời tiết quái dị còn đáng sợ hơn. Mấy ngày đầu, trời lúc mưa lúc tạnh, quần áo của binh sĩ thấm đẫm nước mưa và mồ hôi dính chặt vào người, khiến cả người ướt át, rất khó chịu. Con đường vốn gập ghềnh khó đi, lại bị mưa xối, bùn đất lầy lội, trơn chuồi chuội. Ít ngày sau bước sang mùa thu, trời không mưa nữa nhưng lại chuyển nắng gay gắt, đất ẩm bốc hơi tạo thành màn sương trắng xóa. Tướng sĩ bữa trước hứng mưa, trên người ai cũng dính một lớp bùn nhão, lúc này lại khô cong, trông rất nhếch nhác, bẩn thỉu. Đến tối, quân Tào không thể đóng trại giữa con đường hẹp, chỉ tìm được bãi đất rộng hơn một chút, dựng tạm mấy cái lều cho các tướng quân chui vào, còn đám binh lính bình thường đều phơi gió nằm sương, tay ôm binh khí, đầu gối lên cành cây khô, còn phải đề phòng trùng độc cắn, người ngợm ngứa ngáy khó chịu, trằn trọc mãi không yên... Cứ đi quanh co hơn mười ngày, một trưa nọ, quân tiên phong đột nhiên dừng lại.
— Sao vậy? Sao binh mã không đi tiếp? - Tào Tháo mấy ngày nay bị muỗi rừng hành hạ, phải bỏ mũ đâu mâu, quấn tạm mảnh vải lên đầu, che kín cả khuôn mặt. Mới vào đầu thu, khí trời nóng nực, ông cởi áo giáp, chỉ mặc mỗi bộ áo dài vải thô, chân xỏ giày cỏ, trông hơi buồn cười.
Quách Gia đi cạnh nhưng không cưỡi ngựa, chống một cây gậy trúc, uể oải nói:
— Có lẽ lại có con sông chặn đường... - Nói xong, ông ta ngửa cổ nhìn bầu trời. Dưới ánh mặt trời nóng như thiêu, thế mà ông lại rét run như thể vừa từ sông băng lên. Mấy ngày nay Quách Gia đã hết ho, nhưng đau tức ngực, chẳng thể thở mạnh được, chân tay rã rượi, cơ hồ xương khớp đều bị khí lạnh đông cứng. Mỗi bước đi đều khó nhọc như có một bàn tay thò ra từ lòng đất tóm lấy chân ông.
Lâu Khuê đã quen bôn ba ngược xuôi, không hề cảm thấy mệt nhọc, còn kéo vạt áo làm quạt, nói đùa rằng: — Mạnh Đức, lão bằng hữu này coi như đã theo ngài lên thuyền giặc! Ba dặm một ngọn núi, năm dặm một con sông, không biết Điền Trù định dẫn chúng ta tới đâu nữa. Bảo là ở hướng đông bắc mà lại đi về phía tây bắc, còn chẳng tìm được thành Bình Cương, nói gì Liễu Thành.
Chưa dứt lời đã thấy Điền Trù huơ tay chạy lại từ đằng trước, quần áo ông ta bị chạc cây, bụi gai chọc thủng, rách tả tơi. Ông ta vừa chạy vừa hét lên như điên dại:
— Sông Nhu! Chúng ta đã đến sông Nhu!
Chúng nhân nghe thấy câu này phấn chấn hẳn lên - sông Nhu thuộc địa phận huyện Bạch Đàn thời tiền Hán, nay là địa bàn sinh sống của bộ lạc Tiên Ti. Đến đây mới được già nửa đường, nhưng vượt qua sông Nhu có thể rẽ theo hướng đông bắc, sau đó đi thẳng đến Bình Cương mà không gặp trở ngại gì. Tào Tháo chắp tay lên trán cầu khấn:
— Trời xanh không phụ Tháo ta, cuối cùng cũng sắp thoát khỏi sơn lĩnh.
Điền Trù hổn hển chạy tới trước mặt chúng nhân, vui sướng chỉ tay về phía xa:
— Các ngài mau nghe đi! Có thấy tiếng nước chảy không? Ta cũng lần đầu tiên tới chỗ này, suối chảy róc rách hòa với tiếng chim hót! Hay quá... - Ông ta nhắm mắt, dang hai cánh tay, hít đầy lồng ngực không khí nơi núi rừng, nở nụ cười sung sướng, chẳng hợp với thân hình cao lớn, quê mùa của mình chút nào.
Tào Tháo, Lâu Khuê đâu được thanh thoát như ẩn sĩ, hai người ôm vai nhau, cười ha hả. Còn Quách Gia cũng bắt chước dáng vẻ nhắm mắt, lắng nghe của Điền Trù - hình như có tiếng nước chảy thật, róc ra róc rách rất vui tai, nhưng âm thanh đó lại khiến ông cảm thấy lạnh lẽo hơn, khó chịu hơn, như thể con sông không đổ ra biển khơi mà đang xối thẳng khí lạnh vào tâm can ông. Một hồi sau, âm thanh âm càng lúc càng to, phút chốc dòng nước chảy róc rách biến thành ngàn vạn con sông băng ào ạt ập tới! Quách Gia chợt thấy ngực mình đau thắt, cả người lạnh ngắt, choàng mở mắt ngước nhìn lên trời, mong tìm được chút ánh nắng có thể sưởi ấm cho mình, nhưng lại thấy những hai mặt trời, bốn mặt trời, tám mặt trời... vô số mặt trời bay lượn trước mắt. Ông hoa cả mắt, buông thõng cây gậy, ngã lăn ra đường.
— Phụng Hiếu!... Phụng Hiếu!...
Quách Gia từ từ mở mắt ra, thấy Tào Tháo, Lâu Khuê đều vây quanh mình, vẻ mặt lo lắng. Ông cố trấn tĩnh, nặn ra một nụ cười trong lúc lòng rối như tơ vò:
— Không sao... Chắc là tại tìm được đường đi nên ta vui quá ấy mà.
Điền Trù cởi áo ra, định quạt cho ông bớt nóng, nhưng ông ngăn lại:
— Đừng... Ta lạnh...
— Lạnh? - Tào Tháo thử sờ trán ông, - Người ngươi nóng lắm, sao lại thấy lạnh?
— Không sao... Thuộc hạ chỉ không hợp thời tiết thôi. - Quách Gia ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng hiểu rõ: “Đột ngột đổ bệnh tức là ngày chết đang đến gần. E rằng ta không gượng được đến khi tới Liễu Thành.”
Tào Tháo buồn rầu đứng dậy:
— Gần đây nhiều người đổ bệnh, hẳn là do thời tiết kỳ quái này gây ra. Nhắc nhở mọi người chuẩn bị nhiều nước uống, chớ ăn quả dại bừa bãi, không biết chừng có độc. Nước suối quá lạnh cũng không tốt, sẽ hại đến phổi. Các tướng sĩ đều đã vất vả, ở lại đây nghỉ ngơi nửa ngày, sai người làm cầu tạm, ngày mai đi tiếp.
"""