"
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện (Tập 4) - Vương Hiểu Lỗi full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện (Tập 4) - Vương Hiểu Lỗi full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân]
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Đoạt lại Duyện Châu, xác định chiến lược quan trọng nhất trong đời
Hồi thứ 49
Tào Tháo quyết định lợi dụng Hoàng đế
Hồi thứ 50
Cướp lại Dự Châu từ tay giặc Khăn Vàng
Hồi thứ 51
Dối trên lừa dưới, gạt rước Hoàng đế
Hồi thứ 52
Độc tiếm quyền hành, nhận giúp Lưu Bị
Hồi thứ 53
Ép Thiên tử ra lệnh chư hầu, mượn Hiến đế chọc đánh Viên Thiệu Hồi thứ 54
Thảo phạt Trương Tú, không đánh mà thắng
Hồi thứ 55
Dục Thủy thua to. Tào Ngang, Điển Vi tử trận
Hồi thứ 56
Viên Thuật xưng đế chọc giận Tào Tháo
Hồi thứ 57
Mượn đao giết người, lừa dụ Lã Bố đánh Viên Thuật
Hồi thứ 58
Trận Kỳ huyện, lập kế giết quan coi lương ổn định quân tâm Hồi thứ 59
Đánh bại Lưu Biểu, đuổi chạy Trương Tú
Hồi thứ 60
Chia quyền binh-chính, chỉ định Tuân Du làm quân sư
Hồi thứ 61
Nễ Hành đánh trống mắng chửi Tào Tháo
Hồi thứ 62
Tào Tháo và Viên Thiệu hoàn toàn trở mặt
Hồi thứ 63
Nội ứng ngầm giúp Tào Tháo, một trận đánh tan Lã Bố Hồi thứ 64
♠ Chú thích ♠
TÀO THÁO - THÁNH NHÂN ĐÊ TIỆN Tác giả: Vương Hiểu Lỗi
Dịch giả: Nhiều dịch giả
Công ty phát hành: Alphabooks
NXB Văn học & NXB Lao động Ngày xuất bản: 2/2014 - 7/2017
—★—
ebook©vctvegroup
Năm 2019
Hồi thứ 49
Tào Tháo quyết định lợi dụng Hoàng đế
Nửa đêm đánh úp Tào doanh
Mùa xuân năm Kiến An thứ nhất (năm 196), Tào Tháo vừa dẹp yên đám phản loạn Lã Bố, Trần Cung, Trương Mạc, lại nhận được chiếu thư của thiên tử, chính thức đảm nhận chức Duyện Châu mục. Tháo càng ý thức được uy vọng của triều đình và thiên tử, liền từ bỏ kế hoạch đánh Lưu Bị, Lã Bố, coi việc giải cứu thiên tử về đông làm nhiệm vụ trọng yếu. Do đó Tào Thào dùng binh lính Dự Châu quét trừ trở ngại khi nghênh đón thánh giá.
Đó là một đêm mùa xuân, bình nguyên mênh mông hoang liêu cô tịch. Trăng tròn vành vạnh như ẩn như hiện giữa ngàn mây, vì tiết trời có vẻ u ám, muôn sao vắng bóng, doanh trại Tào quân như bị bao phủ bởi màn sáng bạc mông lung dưới ánh trăng lạnh lẽo. Tuy đã sang xuân nhưng khí trời thoắt ấm thoắt lạnh. Lệ thường “Mây rằm tháng tám che trăng, Nguyên tiêu tuyết trắng đèn trăng mập mờ”, e rằng một hai ngày tới sẽ có tuyết rơi.
Trong màn đêm u tịch rợn người ấy, binh tướng quân Tào không hề biết rằng đang có một cánh quân bò đến sát gần đại doanh. Chúng chẳng phải quân chính quy, nên không ai mang khôi giáp gì ra hồn, thảy đều khăn lụa quấn đầu, mặc áo vải thô sặc sỡ đủ kiểu. Khí giới toàn đao cùn dùng để đốn củi nhưng người đông vố số. Lũ đó là quần đảng Khăn Vàng ở Dự Châu.
Kể ra dường có chút kỳ lạ, kể từ sau loạn Trung Nguyên, quy mô của
giặc Khăn Vàng ở Dự Châu vốn không lớn đến vậy, chỉ có một vài doanh mạn Cát Pha ở Nhữ Nam. Trong khoảng thời gian này, trước thì bị vó sắt Tây Lương giẫm đạp, sau Viên Thuật phò dựng Tôn Kiên, Viên Thiệu sai phái Châu Ngu, hai bên giành giật địa bàn giao qua chiến lại. Nhân vì binh chiến kéo dài, thành trì quận huyện đều bị phá hủy, hư hại nghiêm trọng, bách tính đào vong di tản, điền địa hoang vắng thê lương, đến cả dư đảng Khăn Vàng cũng tự tìm cách dần rút khỏi đất ấy. Hai năm trước, Viên Thuật thảm bại dưới tay Tào Tháo, bỏ nhà bỏ cửa tháo chạy, không còn khả năng khống chế ở bắc Dự Châu. Sau khi đào thoát đến Thọ Xuân, muốn gây phiền phức cho Tào Tháo, Viên Thuật đã nương theo thế lực Khăn Vàng, cung cấp lương thảo binh mã cho chúng, hòng tìm kế về Dự Châu, rồi lại cổ động bọn thủ lĩnh là Hoàng Thiệu, Lưu Tịch, Hà Nghi, Hà Man cùng hơn vạn binh mã, nhân nội loạn ở Duyện Châu mà chiếm cứ Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, chặn lấy đường Tào Tháo tây tiến và đi xuống phía nam.
Tướng cầm quân tập kích Tào doanh đêm nay chính là tên đầu đảng Khăn Vàng ở Dự Châu - Hoàng Thiệu. Thiệu không liệu được rằng Tào Tháo mới dẹp yên loạn Duyện Châu đã nhanh chóng đánh tới Dự Châu, lại còn kéo theo tất cả binh mã. Vẫn sợ uy của Tào Tháo mấy độ đại phá Khăn Vàng, binh tốt bộ hạ của Hoàng Thiệu dần có ý ly tán. Một khi tình thế như vậy kéo dài, quân Khăn Vàng tự nhiên không đánh cũng sẽ ngói tan gạch vỡ mà tự bại. Để yên lòng quân sĩ, Hoàng Thiệu quyết định đem thân mạo hiểm, đang đêm xuất binh đánh úp Tào doanh.
Nông dân vốn quen mặt trời lên vác cày ra đồng mặt trời lặn về nghỉ ngơi, nay sung quân làm lính tốt thì sợ nhất là dạ chiến. Trước đây, Tào Tháo nhờ có Hoàng Phủ Tung viện trợ nên dẹp Khăn Vàng Thanh Châu thảy đều dựa vào thuật dạ chiến mà giành phần thắng. Để khắc phục yếu điểm này,
Hoàng Thiệu đã hao tổn không biết bao nhiêu tâm tư, ngày đêm thao tập trong thời gian dài, huấn luyện một đội quân chuyên dạ chiến chỉ để đối phó với Tào Tháo. Đúng như Thiệu nghĩ, quan quân tuyệt không thể ngờ Khăn Vàng sẽ đánh úp vào ban đêm, hành động tác chiến như thế không khác gì kỳ binh trên trời rơi xuống.
Trong số các thủ lĩnh Khăn Vàng, Hoàng Thiệu được coi là xuất chúng hơn cả, không những uy vọng lớn, võ nghệ giỏi mà cũng dũng mãnh hơn người. Lần này Thiệu thân chinh dẫn quân tiên phong, đầu quấn khăn lụa, miệng ngậm đao lớn, duy khác sĩ tốt ở chỗ thân mặc giáp trụ mạ vàng. Đây là món bảo bối tùy táng mà Thiệu lột từ xác người chết khi đào trộm mộ chư hầu.
Lúc này, Thiệu đương dẫn đầu đội quân mai phục với năm ngàn người trườn bò tiến dần vào trong. Đại doanh quân Tào càng lúc càng gần, thấy doanh Tào hầu như không chút động tĩnh, Thiệu thầm mừng ra mặt, không chừng đêm nay có thể lấy được thủ cấp Tào Tháo. Nếu không phải miệng đang ngậm đao lớn, có lẽ lúc này Thiệu đã bật cười thành tiếng.
Quân Khăn Vàng nối bước nhau tiến chậm, khi cách đại doanh chưa tới ba chục bước, quân Tào vẫn không có động tĩnh gì, chỉ thấy hai tên lính tuần đêm đang dựa cột viên môn bất động, như đang ngủ quên. Thiệu bấm bụng không bò tiếp nữa, nhả đao ra nắm chắc trong tay rồi nói với người bên cạnh:
— Truyền lệnh, tất cả theo ta hành động, nghe rõ hiệu lệnh của ta. Đây chính là điểm yếu nhất của quân Khăn Vàng. Do tinh kỹ khôi giáp không đủ, trong khi đánh trận rất cần tiêu lệnh chỉ huy rõ ràng, nhất cử nhất động của thống soái sẽ là yếu tố quyết định thắng thua.
Khẩu lệnh khẽ truyền đi, mất một lúc sau mới yên lặng trở lại. Nghĩ rằng quân sĩ đều đã nắm được quân lệnh, Thiệu hốt nhiên giương đại đao xông
lên:
— Theo ta giết!
Theo tiếng hét của Thiệu, quân sĩ liền xông lên viên môn. Sĩ tốt phía sau trông rõ mồn một, từng người từng người nối bước theo nhau giơ đao tiến về phía Tào doanh, tiếng hô giết vang trời kinh thiên động địa. Quen trong tối đã lâu, Thiệu thấy rõ doanh trại Tào Tháo vẫn tối thui, không mảy may động tĩnh gì, hai tên tuần đêm dựa cột viên môn dường đã bị dọa chết khiếp không dám động đậy, cứ đứng đó như chờ chết.
Còn khách khí gì nữa? Hoàng Thiệu lao thẳng về trước rồi xoay người bật lên, ngắm trúng tên lính bên phải, đại đao chém xuống mặt như trời giáng. Chỉ nghe thấy một tiếng “soạt”, Thiệu thảng thốt nhảy bật ra, nhát đao tuột từ trên đầu xuống - Người cỏ!
Hoàng Thiệu còn chưa hiểu chuyện gì, đã thấy đại kích từ rào cách bên đâm tới. Thiệu tức tốc xoay người né nhưng đã muộn, kích đâm trúng vai trái, đại đao rơi khỏi tay. Lúc này sĩ tốt cũng vừa tới, chỉ ngây ra không hiểu vì sao thủ lĩnh lại buông đao.
Mọi người đương lúc chưa biết tiến thoái ra sao, một tràng tiếng hét “giết” đằng đằng sát khí vang lại, Tào doanh đang tối thui bất chợt vô số đèn đuốc giương cao sáng rực, soi rõ như ban ngày. Ngay sau hàng rào không xa, chỉ thấy bên trong doanh trại cung thủ đứng chật như nêm. Hoàng Thiệu sợ đến nỗi không cả dám nhặt đao, chỉ kịp ôm đầu quay người tháo chạy:
— Rút nhanh!
Người sao nhanh bằng tên? Vừa dứt lời, một loạt tên như mưa bay đến, số sĩ tốt Khăn Vàng nãy mới xông lên đã bị tên bắn chết quá nửa. May cho Hoàng Thiệu có mặc theo khôi giáp mà bò trườn dưới đất mới không bị mất mạng, nhưng hai vai cũng trúng mấy mũi tên. Giờ đây khí phách bình tĩnh
kiên cường của chủ tướng dường mất sạch, thần hồn nát thần tính Thiệu chỉ còn biết ôm đầu đội tên mà chạy:
— Chạy nhanh! Chạy nhanh! Trúng mai phục rồi!
Lúc này thủ lĩnh đã bỏ, sĩ tốt càng thêm một phen hỗn loạn hò nhau tháo chạy.
Còn chạy đâu được nữa? Lúc ấy, từ mé đông bất ngờ xuất hiện một đội binh mã, dẫn đầu chính là Nhạc Tiến; đội khác từ mé tây cũng đuổi giết tới, lãnh binh chính là Vu Cấm; cửa viên môn Tào doanh lập tức mở lớn, tiểu tướng quân Tào Ngang đốc suất cung thủ cũng đuổi đến nơi. Ba mặt giáp kích, quân Khăn Vàng lại phạm sai lầm trước đó, không nghe tướng lệnh, bốn mặt tháo chạy, và thế là chỉ một lát sau thảy đều tan rã. Quân Tào cũng chẳng cần truy kích, chỉ đợi quân địch rối loạn đến trước mũi đao của mình, rồi chém một nhát là coi như xong. Thiệu nóng như ngồi trên lửa, không kịp rút tên, vừa chạy vừa vẫy đám sĩ tốt đang hỗn loạn chạy theo. Lúc này đã rối như tơ vò, còn ai kịp nghe Thiệu chỉ huy nữa.
Nhạc Tiến một mình một ngựa xông vào giữa đám loạn quân, tay vung trường thương, tả xung hữu đột. Vu Cấm lại không vội hạ lệnh cho bộ hạ xông lên giết giặc, cứ phục trên lưng ngựa mà đếm số địch nhân trong đuốc sáng. Không gian lập lòe mờ ảo, thấy một tên không cầm đao thương, mũi tên bám đầy trên hai cánh tay, hò hét vang trời, toàn thân mặc giáp trụ, dưới ánh lửa bộ giáp trụ thi thoảng lại lấp lóe quầng sáng. Vu Cấm thầm mừng rỡ: “Tên này chắc hẳn là đầu mục!” Nghĩ đến đó, Cấm sợ Nhạc Tiến cướp công, liền không hò hét nữa mà đích thân lặng lẽ thúc ngựa đột nhập giữa trận địa, khua đao đánh bạt đám loạn quân, cứ thế nhằm thẳng Hoàng Thiệu sấn tới. Thiệu còn chưa kịp hô hoán thì một viên đại tướng đằng đằng sát khí đã thình lình lao đến. Trong tay không một tấc sắt, hai chân Thiệu đã không còn
tự chủ được nữa quỵ xuống:
— Tướng quân tha mạng! Tôi đầu...
Hoàng Thiệu còn chưa kịp bật ra nốt chữ “hàng”, Vu Cấm đã một dao chém bay thủ cấp, thi thể Thiệu chân tay lập cập đổ xuống, máu vọt láng lai đầy đất. Tên lính ngay cạnh chạy lại định nhặt lấy thủ cấp, Vu Cấm liền đưa đại đao huơ huơ trước mặt rồi lừ mắt lạnh lùng:
— Ngươi dám cướp công của bản tướng quân sao?
— Bẩm không dám! - Tên lính tốt sợ chết khiếp quỳ vội xuống nâng thủ cấp dâng lên.
Vu Cấm ra mặt nghĩa khí nhân nhượng, tay trái nâng thủ cấp, tay phải gí đại đao đâm đâm vào xác Hoàng Thiệu, lật thi thể hắn rồi hô lớn: — Đám giặc Khăn Vàng nghe đây! Thủ lĩnh các ngươi đã chết, còn không mau quy hàng!
Cấm vừa dứt lời, binh tướng quân Tào cũng nhất tề hô theo. Bộ giáp trụ của Thiệu vẫn còn lấp lóe viền sáng, lại thêm tiếng hô vang dậy của Tào quân khiến loạn quân đều nghe rõ. Theo đó tiếng cương đao dồn dập nện xuống đất, đám tàn dư của Hoàng Thiệu thảy đều quy hàng...
Tào Tháo giờ mão lên trướng, Điển Vi, Vương Tất hộ vệ tả hữu, văn đông võ tây lần lượt chia ngồi hai bên. Bên này là Tuân Úc, Trình Dục, Mao Giới, Tiết Đễ, Mãn Sủng chắp tay vào chỗ. Phía kia là huynh đệ Hạ Hầu, huynh đệ Tào thị, Chu Linh, Nhậm Tuấn cũng chắp tay thi lễ. Lần này Tào Tháo dẫn quân tiến vào Dự Châu có thể nói khí thế hàng ngũ tề chỉnh, ngoại trừ để lại bọn Vạn Tiêm, Lã Kiền, Lý Điển trấn tại Duyên Châu, còn lại các tướng lĩnh thiện chiến, kẻ sĩ thiện mưu đều cùng xuất chinh ra trận, và ngay cả thê tử toàn gia quyến, Tào Tháo cũng mang theo cả.
Tào Tháo mỉm cười tỏ ý đáp lễ:
— Mọi người, mời ngồi... Mời ba vị tướng quân lên trướng! Dứt tiếng, Tào Ngang, Vu Cấm, Nhạc Tiến cùng sải bước tiến lên, vừa định quỳ xuống thi lễ, Tháo đã vội huơ tay:
—Các ngươi lao nhọc cả đêm, bất tất phải đa lễ! Các vị, tình hình chiến sự thế nào?
Tào Ngang là nhi tử của Tào Tháo đương nhiên không so đo mấy chuyện này, Nhạc Tiến giết địch máu phơi đầy nội nhưng lại về tay không, duy có Vu Cấm cúi đầu mỉm cười mà rằng:
— Nhờ ân uy anh vũ của tướng quân, mạt tướng may mắn cắt được đầu thủ lĩnh giặc Hoàng Thiệu, đám bộ hạ khiếp sợ ân uy của tướng quân mà thảy đều quy hàng. - Nói đoạn liếc sang Tào Ngang rồi tiếp:
— Người xưa nói, hổ phụ không sinh khuyển tử, trận đêm qua cũng là nhờ tiểu tướng quân chỉ huy đĩnh đạc đích đáng mạt tướng mới đặng thắng. — Ha ha ha... - Tào Tháo biết rõ hắn nịnh bợ nhưng cũng không nhịn được cười lớn:
— Văn Tắc quá khiêm nhường rồi, trận này ghi công ngươi. — Tạ ơn tướng quân! - Vu Cấm rối rít cảm ơn.
Nhạc Tiến trong lòng không vui, rõ ràng mình nỗ lực đánh nhiều hơn Vu Cấm nhưng lại bị hắn cướp công. Nào ngờ Tào Tháo lại quay sang: — Ta xem Văn Khiêm khắp người nhuốm máu, đủ thấy dũng cảm giết địch, cũng phải ghi công này của ngươi.
Vẻ trầm mặc của Nhạc Tiến vụt chốc lộ nét tươi cười:
— Tạ ơn tướng quân!
Còn nhi tử của mình, Tháo tuyệt không nói gì, chỉ vẫy tay ra dấu ngồi
xuống. Có công hay không chỉ là chuyện nhỏ, tôi luyện được một nhân tài, kế tục được sự nghiệp mới là quan trọng.
Tào Ngang tự là Tử Tu, nay mới mười bảy tuổi, là con Lưu thị nhưng được Đinh thị nuôi dưỡng. Thừa hưởng từ mẫu thân nên tướng mạo Tử Ngang thanh tú. Từ nhỏ chăm chỉ đọc sách, thao tập cung mã, cũng từng đọc binh thư do thân phụ soạn ra, nhưng trước đó Tử Ngang chưa từng chính thức kinh qua chiến trận. Không lâu trước có tin rằng, nhi tử của Tôn Kiên thái thú Trường Sa là Tôn Sách ra mở đất Giang Đông. Nghĩ tới Tôn Sách chưa đầy hai mươi tuổi, chỉ lĩnh vài ngàn binh mã, vậy mà đánh bại Thứ sử Dương Châu là Lưu Do, việc này đã kích động Tào Tháo. Vì thế Tào Tháo liền cho Tử Ngang theo cùng, muốn nhân phen này xuất binh, coi như trui rèn con trai thêm.
Ba tướng ai nấy về chỗ, Tháo nhìn quanh trướng, chậm rãi: — Lần này xuất binh, có lẽ chư vị cũng đôi lời khuyên nhủ, ít nhiều ta đều đã nghe. Ta tuyệt không vô duyên vô cớ mà rời Duyện Châu, có ba lý do mà ta chuyển sang Dự Châu. Một là quét sạch dư đảng Khăn Vàng, đảm bảo nghênh giá suôn sẻ; Hai là tỏ rõ thanh thế trước Viên Thuật, để hắn không dám dòm ngó mạn bắc; Ba là hộ tống linh cữu gia phụ và huynh đệ trở về cố hương. - Kỳ thực, còn có lý do thứ tư, nhưng hiện Tào Tháo chưa thể nói ngay.
Công tâm mà nói, chư tướng trong doanh Tào Tháo, nhất là những người thân tín với Tào gia trong lòng đều không muốn nghênh tiếp thánh giá. Với họ lúc này chỉ có Tào Tháo là người đáng để “mã thủ thị chiêm”[142], giờ nếu lại đón thiên tử nữa thì biết nghe ai? Sau này nhất cử nhất động đều phải dâng biểu, nếu tuân theo hoàng mệnh ắt bản thân sẽ bị hạn chế quyền lực, còn không nghe tất phải mang tiếng xấu làm trái chiếu mệnh. Hơn nữa đám
danh sĩ đại thần cũng đều chen vào, người gây rối nhiều hơn, kẻ tranh công rồi cũng lắm hơn.
Tào Tháo thấy sắc mặt vài người không được tốt cho lắm, dường muốn nói lại thôi, mới đưa mắt sang phía Tuân Úc. Úc biết ý, liền đứng dậy vòng tay nói:
— Xưa Tấn Văn Công thâu nạp Chu Tương Vương mà chư hầu theo phục; Cao Tổ mặc áo trắng chịu tang Nghĩa đế để đông phạt mà thiên hạ quy tâm. Từ khi thiên tử chịu sương gió bên ngoài, tướng quân đứng đầu kêu gọi nghĩa binh, những muốn dẹp loạn Sơn Đông nhưng bản thân chưa ra được ngoài quan hữu, còn phải lo sai khiến tướng soái, mạo hiểm cử người đưa tin, tuy bên ngoài gặp hoạn nạn khó khăn nhưng tâm vẫn một lòng hướng về vương thất. Đó âu cũng là chí lớn của tướng quân, muốn cùng chia nỗi đau với thiên hạ. Nay xa giá quay trở về, Lạc Dương cây cỏ hoang tàn, nghĩa sĩ mong mỏi gia quốc trường tồn, trăm họ nhớ xưa mà thêm rầu rĩ. Thực vì lúc này, noi theo chúa thượng cùng trông lòng dân đoái vọng, ấy là đại thuận; lấy đức chí công mà thu phục bậc hùng kiệt, ấy là đại lược; hoằng dương chính nghĩa mà bậc anh tuấn đi theo, ấy là đại đức. Nay tuy thiên hạ còn phát sinh mầm loạn nhưng cũng chẳng thể ngăn trở tướng quân! Nếu không biết định trước, bốn phương tất sinh tâm tranh cướp nghênh giá, bấy giờ có muốn nghênh giá cũng không dễ dàng nữa rồi. - Thảy những đại thuận, đại lược, đại đức Úc đem nói hết, rồi đưa mắt lần lượt quét nhìn mọi người trong trướng, không ai nói một lời nào.
Tào Tháo thở phào vội lảng chuyện khác:
— Việc cung nghênh thánh giá không thể không làm, chẳng qua là đương lúc cấp bách cần sửa trị Dự Châu. Hoàng Thiệu tuy đã chết nhưng hãy còn bọn Lưu Tịch, Hà Nghi, Hà Man, không biết vị tướng quân nào
nguyện...
Nói chưa dứt lời đã thấy Biện Bỉnh hồ hởi tiến vào:
— Khởi bẩm tướng quân, đại chiến đêm qua bọn Khăn Vàng ô hợp đã gan mật phơi đầy. Hiện có Hà Nghi, Hà Man cử sứ giả đến xin hàng. — Cho hàng! - Tào Tháo vung tay không cần suy nghĩ. - Nhưng ngoài việc bắt chúng nộp khí giới, dâng thành trì, còn phải lập danh sách chúng nhân xin hàng, không cho phép tùy ý di tản sĩ tốt.
— Rõ. - Biện Bỉnh trước báo tin vui, sau báo tin buồn:
— Vẫn còn bọn Lưu Tiết không chịu quy hàng, dẫn quân đào thoát khỏi biên giới nước Lương. Viên Thuật đã phái bộ hạ là Viên Tự tiến vào đóng ở Vũ Bình, Trần Quốc, cứ như muốn giúp bọn Khăn Vàng khuếch trương thanh thế vậy.
Trình Dục cười nhạt một tiếng:
— Viên Công Lộ thật mê muội, không biết tự lượng sức dám đối địch với tướng quân, dựa vào đám quân ô hợp cũng đòi ngăn trở quân tỳ hổ của chúng ta sao? Hà tất phải huy động đại quân, chỉ cần cắt vài quân cử đôi tướng cũng đã có thể thu phục, triệt hạ hoàn toàn bọn Lưu Tịch!
Thấy bọn chúng to gan khiêu khích như vậy, Nhạc Tiến bật dậy: — Mạt tướng xin chia quân tiến về phía trước truy kích Lưu Tịch! Bọn Vu Cấm, Chu Linh, Hạ Hầu Uyên cũng nối nhau đứng lên xin lệnh. — Không vội! - Mắt Tào Tháo lim dim, - Tiểu tử Lưu Tịch có gì đáng
kể, ta thấy Viên Thuật còn chưa cam lòng, muốn lại tranh lấy Dự Châu với ta. Đã đến nước này, chúng ta hãy chơi với hắn một phen. Ta muốn chiếm đoạt toàn bộ Dự Châu, cũng không để hắn có cơ hội nhòm ngó mạn bắc. Hang ổ của Lưu Tịch chẳng phải vẫn ở Ninh Lăng đó sao, trước tiên cứ để
hắn chạy, để xem Viên Thuật có đến cứu hay không? Nếu Thuật dám đến, ta sẽ châm lửa nấu chung bọn chúng một nồi luôn thể! Trừ được mối đại họa này, việc nghênh tiếp thiên tử sẽ thuận lợi hơn nhiều!
Trong trướng ai nấy gật đầu tán thưởng.
Tào Tháo cầm ba thanh lệnh:
— Tào Nhân, Vu Cấm, Nhạc Tiến!
— Có mạt tướng! - Ba tướng rời hàng nhất loạt quỳ xuống nhận lệnh. — Các người chia quân thay nhau tiếp nhận huyện thành Dĩnh Châu, Nhữ Nam. Đối đãi Hà Nghi, Hà Man phải hết sức thận trọng, đề phòng bọn chúng trở mặt mà sinh biến.
— Rõ. - Ba tướng nhận lệnh lui ra.
Tào Tháo còn đang chưa rõ bước tiếp theo nên thế nào, thì bỗng trong quân có tin báo làm cắt ngang mạch suy nghĩ:
— Khởi bẩm tướng quân, có một toán nhân mã từ phía đông nam kéo tới, trước đó bọn chúng đã chém chết Lưu Tịch cùng mang theo hơn trăm đầu giặc Khăn Vàng đến bái yết tướng quân.
Mọi người quay sang nhìn nhau, không ngờ lúc này đột nhiên lại xuất hiện một đám quân hữu. Tào Tháo cười cho là thổ hào nơi đây đến xin theo: — Có bao nhiêu nhân mã, lãnh binh là ai?
Tên lính đó đáp:
— Chỉ có năm trăm binh đinh nhưng khôi giáp sáng choang, tinh kỳ cẩm tú phấp phới rợp trời, trông rất khí thế. Người cầm đầu tự xưng là Vương tử Lương Quốc, tên gọi Lưu Phục, ý muốn nhập doanh cầu kiến.
Gọi là Lương Quốc, song kỳ thực cũng thuộc địa giới Dự Châu, là phong quốc của con trai Hiếu Minh đế Lưu Trang - Lưu Sướng, người anh em cùng
cha khác mẹ với Hiếu Chương đế Lưu Đát. Bấy giờ Lương quốc vốn chỉ có năm huyện, do Lương vương Sướng và Chương đế Lưu Đát tình cảm thân thiết như huynh đệ thủ túc, vì thế bốn huyện Tuy Dương, Bạc, Ninh Lăng, Mông vốn thuộc địa giới Duyện Châu cũng đem phân định về đất của Lương quốc. Sau khi sáp nhập bốn huyện này, Lương Quốc lại trở nên giàu có trù phú nhất trong số các nước chư hầu hồi ấy. Vương vị nước Lương cha truyền con nối thế tập trải sáu đời đến nay là Lương vương Lưu Di. Lưu Phục chính là đích tử của Lương vương Di và vương phi Lý thị, Phục cũng là con trai độc nhất của họ. Lẽ dĩ nhiên Vương tử Phục chính là người sau này sẽ kế thừa vương vị.
Tào Tháo từng nghe phong thanh về Lưu Phục, thoáng chau mày nói với chư tướng:
— Ta không tiện ra ngoài, phiền chư vị hãy xếp hàng ngoài trướng cùng nghênh tiếp... có lời mời Vương tử Phục! - Xem như thế cũng là đã nể mặt dòng dõi tông thất, Tháo trầm giọng nhấn mạnh chữ “có lời”.
Theo quy định của triều đình, gia tộc của các vua chư hầu dù đã có phong ấp nhưng không được phép tùy tiện kết giao với ngoại thần, càng không được phép tự ý chiêu mộ binh lính. Thế mà nay Vương tử Phục tới bái yết Tào Tháo, lại kéo theo năm trăm binh mã, điều này là làm trái với quốc pháp. Nhưng nay thiên hạ đại loạn, đến bản thân thiên tử còn khó chu toàn, nên những quy củ này cũng tự nhiên được cho qua. Huống hồ người ta còn mang đến hơn trăm thủ cấp giặc Khăn Vàng, vậy càng không thể thất lễ. Tào Tháo chỉ ngại mang tiếng, còn đại thể vẫn phải tuân thủ pháp lệnh nên không tiện đích thân ra nghênh tiếp mà cắt cử văn võ xếp hàng nghênh đón. Lễ đón rước gặp mặt như thế nói chung cũng là thỏa đáng.
Dù Tào Tháo không ra ngoài trướng nhưng cũng cung kính đứng dậy,
lặng yên chờ khách từ xa lại. Cùng với hành động thi lễ chào hỏi mấy câu, thấy mọi người xúm quanh một người tuổi trẻ đang khệnh khạng bước đi, trông cứ như quần tinh ủng nguyệt[143]tiến vào.
Lưu Phục tuổi mới ngoài đôi mươi, thân hình cao lớn bệ vệ, mình mặc khôi giáp vảy ngư lân vàng chói, tay trái ôm mũ đâu mâu màu đỏ, tay phải nắm thanh kiếm long tuyền chuôi nạm ngọc, toàn thân toát lên vẻ cao quý xa hoa. Nhìn lên mặt, khuôn mặt khá dài, chòm râu ngắn ngủn, mũi thẳng miệng ngay, môi tựa tô son, tai vành cong lớn, đôi mắt sáng rỡ có thần, lòng đen nhiều lòng trắng ít, mày trái cao mày phải thấp, trên trán có nốt ruồi son tựa chu sa.
Tào Mạnh Đức hít một hơi dài. Thật là quý tướng, vênh váo hung hăng! Lưu Phục tiến vào đại trướng không quỳ không bái, chỉ nhẹ chắp tay: — Tào sứ quân lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ! - Phục tuy là vương tử nhưng
kỳ thực cũng vô quan vô chức, chào hỏi như thế cũng hơi có phần ngạo mạn. Tào Tháo cười đáp:
— Được vương tử tương trợ, giết sạch bọn Khăn Vàng, ấy là Tháo được ưu ái mà kinh sợ vậy.
Lưu Phục lại chẳng hề để ý nói:
— Không phải là ta cố ý giúp đâu, thực sự là đối mặt trực diện, tránh không được nên phải động binh đao thôi. Nào hay bọn giặc Khăn Vàng chẳng chịu nổi mấy kích, mới hai ba hiệp đã chạy cả. Với đám quân ô hợp như thế, đáng lẽ sứ quân phải sớm đun sôi bọn chúng rồi ấy chứ, sao còn cầm cự với chúng cả nửa tháng.
Lời lẽ thật khó nghe, nhưng Tào Tháo ngại ngần trước thân phận của hắn nên không tiện tranh cãi lý luận, chỉ vòng tay đáp:
— Vương tử nói đúng lắm, mau mời ngồi!
— Khỏi cần, tại hạ đến là có việc muốn thương lượng cùng sứ quân. - Lưu Phục rốt cuộc vừa đến lại chuẩn bị đi ngay, - Chẳng hay Tào sứ quân có ý tây tiến nghênh giá?
Tào Tháo giật mình, yếu sự quân cơ như vậy không tiện tiết lộ với người ngoài, nhưng lại thấy vẻ mặt Lưu Phục thành thực nghiêm túc, Tào Tháo liền quay lại hỏi:
— Việc này có liên can tới vương tử chăng?
Lưu Phục phì cười:
— Tại hạ thẳng thắn gặp gỡ sứ quân, không ngại nói thẳng. Nay triều đình suy vi, thiên hạ bất an, ngôi vị thiên tử nhà Hán đã không còn vững. Phụ thân tại hạ thấu được cảnh khổ của lê dân, đau xót muôn phần khi thiên tử bên ngoài sương gió chịu khổ, nên mới lệnh cho tại hạ ra tây nghênh giá, phò tá hoàng thượng, mong thiên hạ sớm an định.
Chỉ dựa vào năm trăm binh mã mà dám lớn tiếng thực không biết xấu hổ, Tào Tháo cười thầm, nhưng cũng phải để người ta chút thể diện, bèn khách khí bảo:
— Vương tử không hổ là con cháu dòng dõi, quả nhiên ôm ấp chí lớn. — Sứ quân không cần khách sáo, tại hạ đến tìm ngài là có việc quan trọng muốn bàn. - Lưu Phục có vẻ không thích ai xun xoe mình. Tào Tháo cảm thấy Phục tuổi trẻ khí thế hừng hực lại giàu sang kiêu căng xấc láo, thì chẳng hề so đo tính toán, chỉ mỉm cười rồi từ tốn rằng: — Chẳng hay vương tử có điều gì chỉ giáo?
— Tại hạ muốn dẫn theo binh mã tiến đến Lạc Dương nhưng Vệ tướng quân Đổng Thừa cùng bộ tướng của Viên Thuật là Trường Nô đang cố thủ
Thành Cao chắc chắn, binh mã không cách nào qua được.
— Sao? - Đây là tin Tào Tháo chưa hề biết.
Lưu Phục bực dọc:
— Vốn nghĩ Đổng Thừa là cựu tướng của Đổng Trác, có ý thoán nghịch; Viên Thuật dụng binh cẩn trọng, lại không vì hoàng thất. Hai tên ác đồ này hùng cứ một phương, rõ ràng có ý bắt chẹt thiên tử để độc chiếm quyền bính trong triều. Vậy nên tại hạ muốn liên hợp cùng sứ quân công phá Thành Cao, tiến đến Lạc Dương cần vương cứu giá.
Tuy Tào Tháo vờ phô diễn vậy nhưng thực lòng chẳng coi Vương tử Phục ra gì. Tào Tháo đang suy tính đến dụng ý của Đổng Thừa, Viên Thuật. Nghĩ ngợi hồi lâu Tháo mới đáp lại:
— Việc tiến lấy Thành Cao bản quan cũng đương trù tính. Dẫu sao vương tử cũng là lá ngọc cành vàng, việc chinh chiến quá ư hung hiểm, nhược bằng có mệnh hệ gì bản quan không gánh vác nổi. Chi bằng vương tử hãy xuất binh quay về, bảo vệ Lương vương mới là việc nên làm.
Lưu Phục cảm thấy Tào Tháo có vẻ xem thường mình. Đúng là tuổi trẻ chưa biết nông sâu, không hề nể nang nhún người hỏi Tào Tháo: — Sứ quân đang giữ chức quan gì?
Tào Tháo không biết Phục có dụng ý gì, chỉ ngẩng đầu cười: — Vương Tử hỏi cặn kẽ chi vậy, bản quan được đương kim thiên tử nhận mệnh giữ chức Duyện Châu mục. - Tháo cố ý nhấn mạnh “thiên tử nhận mệnh” tỏ ý là danh chính ngôn thuận.
Nào ngờ Lưu Phục chỉ cười nhạt:
— Đất đai của Lương Quốc thuộc Dự Châu, không thuộc Duyện Châu mục quản! Việc thu binh hay không là việc của tại hạ.
Văn võ trong trướng nghe hai câu đoạn thảy đều kinh sợ, lo rằng Tào Tháo sẽ nổi trận lôi đình. Mọi người đều im lặng, không ai dám nói lời nào, chỉ hướng mắt nhìn về phía Tào Tháo, thấy mặt Tháo sa sầm biến sắc đỏ lựng. Triều đình thừa nhận Lưu Bị đang ở Từ Châu là thứ sử Dự Châu, xét về lý ông ta tuyệt không có tư cách nhúng tay vào việc của Dự Châu. Nhưng giờ đây không phải lúc có thể dùng lý lẽ mà nói chuyện. Tào Tháo đang rất muốn cho tên tiểu tử không biết trời cao đất dày là gì này chết ngay tại đây, nhưng dẫu sao Vương tử Phục kia vẫn mang họ Lưu, dòng dõi hoàng tộc. Nếu lúc này lại giết hại tông thất, đại sự phụng nghênh thiên tử sẽ khó thành.
Rút kinh nghiệm từ bài học giết chết Biên Nhượng, Tào Tháo cố gắng kiềm chế lửa giận, quay lại cười lớn:
— Chẳng qua bản quan chỉ là lấy lẽ thiệt hơn mà phân giải, nghĩ đến sự chu toàn của vương tử mà thôi, nghe hay không tùy vương tử định đoạt, hà tất phải nói lời quá quắt như thế. Những điều này là nói với bản quan, giả thử nói với bọn Viên Thuật thì ta e tính mạng vương tử khó toàn.
Lưu Phục nhướng nhướng mày trái lên một chút:
— Từ lúc ta vào đại doanh, sinh tử đã giao phó cả cho sứ quân. Người ta kết giao được với nhau là bởi ý chí hòa hợp, tại hạ cảm thấy sứ quân là nhân vật như thế, mới dám nói thẳng chẳng nể. Nếu là bọn ngu muội Viên Thuật thì đâu đáng để tại hạ đi giảng lý lẽ với chúng.
— Ồ? - Tào Tháo bỗng cảm thấy vị vương tử này thật thú vị, đường chí hướng chỉ muốn phò tá hoàng đế vãn hồi nhà Hán.
Tào Tháo nhìn Lưu Phục, Lưu Phục cũng nhìn Tào Tháo, cả hai nhìn nhau hồi lâu rồi cùng ngửa mặt lên trời cười lớn.
Lưu Phục cười dứt liền vòng tay:
— Nếu sứ quân không chê, chúng ta có thể cùng rong ruổi chăng? Tào Tháo cũng không chối từ nữa:
— Nếu vương tử không từ khó nhọc mà chịu giúp đỡ, hạ quan mong còn không được nữa là.
— Được! - Lưu Phục vui vẻ gật đầu, - Năm trăm binh mã của ta... — Cùng hạ trại bên đại doanh của ta.
— Còn lương thảo?
— Tào mỗ cung cấp.
— Sau khi việc thành công?
— Biểu tấu triều đình tấn phong vương tử quan chức. - Tào Tháo liền hỏi liền đáp, thảy đều ưng thuận.
Lưu Phục bấy giờ mới bỏ thái độ ngang ngạnh bất kham, lùi hai bước cung kính vòng thay thi đại lễ mà rằng:
— Mạt tướng Lưu Phục về sau xin ra sức khuyển mã.
— Ta với túc hạ như bằng hữu, không phải như trên dưới. - Tào Tháo vòng qua soái án, đỡ Lưu Phục dậy.
— Quân binh hiện vẫn đợi ở bên ngoài, mạt tướng cho thu xếp trước, mọi việc giải quyết đâu đấy sẽ tới nghe sứ quân sai khiến sau. - Lưu Phục lại thi lễ lần nữa rồi quay người sải bước đi ra.
Văn võ trong trướng ngơ ngác nhìn nhau. Hạ Hầu Uyên không nhịn được nữa quát lên:
— Chỉ dựa vào năm trăm tên mà cũng dám nói hợp binh sao? Tên tiểu tử này thật ngông cuồng quá mức, một tên tử đệ thế gia thì có bản lĩnh gì chứ? — Thân phận chính là bản lĩnh của hắn. - Tào Tháo khẽ vuốt chòm râu, - Thân phận thế tử con vua chư hầu, nếu đem so với năm trăm binh mã chẳng
lợi hại lắm sao?
Hạ Hầu Uyên cười nhạt:
— Thiên hạ này đã đại loạn, đừng nói một tên vương tử, ngay cả phượng tử long tôn, con phượng cháu rồng, cũng là cái thá gì chứ? — Diệu Tài chớ nói hàm hồ! - Trước mặt tất cả mọi người Tào Tháo không muốn bàn nhiều đến việc này bèn vung tay rằng, - Văn Nhược, Trọng Đức ở lại, những người khác hãy lui cả ra!
Mọi người vâng dạ lui ra. Đợi khi trong đại trướng chỉ còn Tuân Úc, Trình Dục hai người, Tào Tháo mới nói vẻ tư lự:
— Còn chưa nhìn thấu được Vương tử Phục là thù hay bạn, vả lại năm trăm binh mã cũng không gây được sóng gió gì. Nhưng Viên Công Lộ một mặt giả bộ tiến binh vào Trần Quốc, mặt khác lại phái Trường Nô thông đồng với Đổng Thừa chốt giữ Thành Cao, có phải hắn muốn chuyển thiên tử đi trước chúng ta một bước không?
— Tướng quân hà tất phải lo lắng nhiều. - Trình Dục khẽ cười, - Viên Công Lộ, hắn không có ý cần vương.
— Làm sao biết được?
— Cái chết của thái phó Mã Mật Đê chính là minh chứng.
Ba năm trước, thành Trường An bị Lý Thôi, Quách Dĩ công phá, triều đình Tây kinh cắt cử thái phó Mã Mật Đê và thái bộc Triệu Kỳ mang cờ tiết mao vỗ về Quan Đông. Không hiểu vì sao, lão thần Mã Mật Đê đến chỗ Viên Thuật liền lưu lại không đi nữa. Trước đó không lâu, Viên Thuật cướp mất cờ tiết mao thiên tử từ tay Mã Mật Đê, khiến lão sống dở chết dở. Tào Tháo khi còn làm nghị lang đã từng cộng sự với Mã Mật Đê, nên cũng thấy thương cảm trước cái chết của ông ta. Hôm nay nghe Trình Dục nhắc đến chuyện
này liền vội hỏi:
— Trọng Đức nói vậy là có ý gì?
Trình Dục chậm rãi đáp:
— Mã Mật Đê là trung thần nhà Hán, sở dĩ chịu nương nhờ chỗ Viên Thuật ba năm, tại hạ đoán ông ta muốn du thuyết Viên Thuật cần vương hộ giá. Nhưng kết quả là... Viên Thuật không những không theo, còn cướp mất phù tiết khiến ông ta phẫn nộ mà chết, đủ thấy Viên Công Lộ không hề có ý nghênh giá.
— Suy nghĩ như vậy rất có lý... - Tháo gật gật đầu, - Hắn đã không chịu nghênh giá, vậy hà tất phải ngăn trở người khác? Vô duyên vô cớ thọc chân vào làm gì?
— Tướng quân, việc này tướng quân nên nghiên cứu kỹ lưỡng tâm kế của Viên Công Lộ! - Trình Dục cười khà khà đứng dậy, - Viên Thuật ra sức chèo kéo thân sĩ ở Giang Hoài, bức tử sứ thần nhà Hán Mã Mật Đê, đòi lấy ngọc tỷ truyền quốc từ tôn gia, rốt cuộc hắn muốn làm gì?
— Làm hoàng đế chăng, mơ tưởng hão huyền! - Tào Tháo hừ một tiếng giọng khinh miệt.
— Đúng vậy, nhưng nếu có người rước được thánh giá về chấn chỉnh lại triều đình, nhân sĩ sẽ quy tâm về với nhà Hán, liệu hắn còn làm hoàng đế được nữa không?
Mắt Tào Tháo chợt sắng lên:
— Lẽ nào hắn muốn...
— Không sai! - Trinh Dục gật gật đầu, - Hắn muốn ngăn trở bất kỳ ai tiếp cận hoàng đế, nghĩ đủ mọi cách để khiến thiên tử chết trong đám loạn quân, chớ quên rằng hoàng đế tuổi còn trẻ và chưa có người nối dõi, vạn nhất
rồng về biển lớn, huyết thống trực hệ hoàng gia rất có thể sẽ đoạn tuyệt. Lúc đó thiên hạ vô chủ, Viên Thuật chẳng kiêng sợ gì cứ thế nẫng ngọc tỷ truyền quốc mà đăng cơ lên ngôi báu.
— Lòng dạ lang sói, đáng trời tru đất diệt! - Tào Tháo vỗ mạnh soái án, - Xem ra chúng ta phải nhanh chóng hành động. Văn Nhược, ngươi nói xem? Khi Trình Dục mổ xẻ phân tích, Tuân Úc chỉ cúi đầu trầm ngâm không nói một lời. Đó cũng là điểm khác biệt lớn nhất giữa Tuân Úc và các mưu sĩ khác, Úc chỉ nói đạo lý đại nghĩa, trước sau như một đúng theo tôn chỉ “phi lễ vật ngôn”[144], xưa nay chưa từng bàn những chuyện âm mưu quỷ kế. Lúc này nghe Tào Tháo hỏi mới ngẩng đầu lên, nhưng lại không nhắc chuyện Viên Thuật:
— Nay Vệ tướng quân Đổng Thừa và chư tướng đám giặc Bạch Ba cùng khống chế thiên tử, ông ta và Viên Công Lộ chẳng có lý do gì để hợp mưu tính kế. Chi bằng tướng quân hãy thử tận dụng Đổng Thừa, biết đâu ông ta lại nhường đường cho ta.
— Hừ! - Tào Tháo mỉm cười khinh miệt, - Đổng Thừa là cái thá gì, khi xưa cũng chỉ là tên tiểu tướng vô danh dưới trướng Đổng Trác. Khi ta cùng Từ Vinh, Hồ Chẩn, Dương Định uống rượu trên sảnh, hắn còn phải chống kiếm giữ cửa bên ngoài! Kẻ như thế há xứng dựng nha mở phủ làm Vệ tướng quân?
— Người ta có lúc này lúc khác. - Tuân Úc lắc lắc đầu, - Quan nội quan ngoại vẫn chưa có tin gì, biết đâu bọn Đổng Thừa lập được đại công cũng còn chưa biết. Theo ngu ý của tại hạ, sứ quân chưa cần vội tiến quân lấy Thành Cao, tốt nhất cứ phái người về triều đình thăm dò động tĩnh, biết địch biết ta sau đó định đoạt cũng chưa muộn.
— Cũng phải. - Tào Tháo nghĩ một hồi, - Hay là cử Vương Tất đi một
chuyến, không chỉ nghe ngóng tình hình, nhân tiện còn có thể liên lạc với bọn Đổng Chiêu, Chung Do, Lưu Mạo, nhờ họ cũng giúp ta nghĩ cách xem sao.
Tuân Úc lại nói thêm:
— Sứ quân đã chính thức nhận chức Duyện Châu mục, có thể soạn một tờ biểu tạ ơn, giao cho Vương Tất mang đi, tiện thể thử thăm dò phản ứng của quần thần trong triều thế nào?
— Cách này được, đêm nay ta sẽ thảo tờ biểu. - Tào Tháo đứng dậy vặn người vẻ uể oải, - Trong khoảng thời gian Vương Tất vào kinh lần này, chúng ta xuống phía nam nhổ cái gai Viên Tự nước Trần. Viên Công Lộ đã không có ý tốt, ta cũng sẽ dạy hắn một bài học, đuổi hết thế lực của bọn chúng ra khỏi Dự Châu!
— Chúng ta đánh Viên Tự, có cần dẫn theo Lưu Phục không? - Trinh Dục hỏi.
— Tiểu tử này là người thông minh, rất biết nghe lời. Có một vị vương tử trong quân doanh, cũng sẽ tỏ rõ việc chúng ta trung thành với triều đình nhà Hán, âu cũng là việc hay. Sau khi quân binh đến nước Trần, vẫn có thể lợi dụng Vương tử Phục lôi kéo quan hệ với Trần vương. Ngày sau chúng ta cung nghênh rước thiên tử về đông, chưa biết chừng còn có chỗ cần dùng đến Vương tử Phục! - Cặp mắt Tào Tháo chợt lóe sáng, - Người đa lễ không đáng trách, cảm phiền nhị vị quá bộ sang doanh coi như ra mắt Lưu Phục luôn, nhân thể xem xem nguồn gốc năm trăm binh mã ấy ra sao?
— Rõ! - Tuân Úc, Trình Dục lĩnh mệnh lui ra.
Kỳ thực Tào Tháo cũng định nhân dịp này chuẩn bị một bản tấu chương chỉn chu cẩn thận, nhưng thấy Trình Dục đã ra khỏi trướng, Tuân Úc hãy còn dềnh dàng chấn chỉnh áo mũ y quan, bèn hỏi ngay:
— Văn Nhược, ngươi còn có điều muốn nói?
Tuân Úc dừng tay, quay lại ngồi lên ghế:
— Tướng quân, có phải tướng quân đang muốn dời quân phủ đến Dự Châu?
Tào Tháo giật mình:
— Văn Nhược sao lại hỏi thế?
Tuân Úc cười gượng:
— Chư tướng giặc Khăn Vàng không được tính là đại địch, còn nếu đích thân tướng quân, mà dù tướng quân có đích thân đi thật thì hà tất phải dẫn theo toàn bộ các tướng lĩnh, rồi lại đưa cả gia quyến theo. Còn nữa, mục đích tướng quân lôi kéo đám dòng dõi tông thất Dự Châu là Lưu Phục ra sao? Tại hạ sớm đã đoán được!
Nói đến đó, thấy trong trướng không còn ai khác nữa, cuối cùng Tào Tháo mới thổ lộ thực tình:
— Hầy dà... Duy có Văn Nhược là người nhìn xa trông rộng. Duyện Châu đổ nát xập xệ, cách xa thiên tử, lại còn bị Viên Thiệu chiếm mất đông quận, thực tế thì chẳng thể lấy đó làm gốc được. Lần xuất binh này là giả, kỳ thực là muốn tìm cơ hội để chuyển đến Dự Châu. Sở dĩ chưa thể nói rõ ràng là còn sợ mọi người phản đối đấy thôi!
Việc này tuyệt không thể để lọt ra ngoài, bởi thế lực của phe cánh Duyện Châu trong Tào doanh còn rất lớn. Nếu chẳng may lúc này Tào Tháo để lộ ra rồi lại kêu gọi bọn họ rời bỏ quê hương bản quán mà chuyển tới Dự Châu thì chắc chắn sự phản đối sẽ vang trời dậy đất, chưa biết chừng còn giẫm theo vết xe đổ của phản loạn Trần Cung.
Tuân Úc vân vê chòm râu:
— Có việc này lại không phải là giả... Hiện giờ những người dưới trướng sứ quân mà xuất thân ở Duyện Châu đã chiếm tới bảy, tám phần mười. Văn có Mao Hiếu Tiên, Tiết Hiếu Uy, Mãn Bá Ninh; võ có Văn Tắc, Nhạc Văn Khiêm, lại còn Điển Vi ngày ngày theo ngài. Còn cả đám chưa từng tòng quân như Vạn Tiềm, Từ Đà, Lý Chỉnh, Lý Điển, Lã Kiền lần này càng khỏi phải nói, bọn họ thậm chí còn chưa từng bước tới đất Duyện Châu. Ban nãy trước mặt Trình Dục tại hạ không tiện nói, bởi Dục cũng là người Duyện Châu đó thôi.
— Ngoài việc cung nghênh thiên tử, có việc khác còn quan trọng hơn đó là phải nghĩ cách chia cắt quyền lực tại Duyện Châu. - Tháo miết miết đôi lông mày, - Ta là người Bái Quốc, Văn Nhược là người Dĩnh Xuyên, chúng ta đều xuất thân Dự Châu, duy chỉ có ngươi giúp được ta việc này!
— Tại hạ cũng không giúp nổi, việc này quá khó. - Tuân Úc cứ lắc đầu mãi, - Từ ngày loạn lạc tới nay, danh sĩ Dự Châu chúng ta lưu vong luân lạc khắp nơi, muốn tập trung lại phải đâu chuyện dễ? Sứ quân nghĩ xem, chẳng phải tại hạ và sứ quân đều đã từng gửi mình ở đất Hà Bắc đó sao? Lúc đầu để rời xa Viên Thiệu, chúng ta đã hao tổn quá nhiều tâm cơ. Hiện giờ tại hạ chỉ có thể còn sức đến đâu sẽ gắng sức tới đó. Đêm nay sẽ thảo một phong thư gửi đến Hà Bắc, thỉnh hai vị huynh trưởng là Tuân Diễn, Tuân Thẩm về, và nếu thuận lợi, sẽ tìm cách đưa cả Quách Gia cùng về. Nhưng đó là nếu họ thuận tình nguyện ý, còn Viên Thiệu có buông cho họ đi hay không lại là chuyện khác!
— Hầy dà... - Tào Tháo bặm môi vẻ khó khăn, - Thiên hạ rộng lớn như thế, sao lại chỉ cho ta hai sự lựa chọn là Duyện Châu và Dự Châu, đều là những mảnh đất tàn bại bất kham, bốn bề là địch, không ai có thể giúp ta một tay sao?
— Giúp được ngài chỉ có đương kim thiên tử. - Tuân Úc khẽ giọng, - Nếu có chiếu mệnh của thiên tử trong tay, sứ quân muốn chiêu mộ ai đều được ngay! Chỉ cần khôi phục lại được triều đình, thù trong giặc ngoài đều có thể tháo gỡ vẹn toàn.
Tào Tháo nắm lấy tay Tuân Úc:
— Hay! Chúng ta không còn đường lui nữa, đập búa dìm thuyền cũng phải chiến đấu đến cùng, nhất định phải nghênh rước thiên tử về Dự Châu. Tuân Úc lại nhắc:
— Tấu biểu tạ ơn sứ quân phải trù tính cho thật kỹ!
— Ngươi yên tâm. - Tào Tháo chăm chú nhìn bút mực trên soái án, - Ta sẽ khiến long nhan hoàng thượng hoàn toàn mãn nguyện!
— Còn nữa, ngài tính để Vương Tất tìm ai nghe ngóng tin tức? Đinh Xung hay Lưu Mạo?
— Đều không phải, Đinh Xung hiện là cận thần hộ giá, Lưu Mạo tuổi tác đã cao, bọn họ đều không thích hợp. - Tào Tháo lim dim đôi mắt, - Nghe nói Trương Dương đã phái Đổng Chiêu diện kiến thiên tử, hắn làm chức nghị lang ngay bên hoàng đế, lúc đầu đều nhờ hắn tương trợ mà Vương Tất mới qua được đất Hà Nội. Lại thêm dù Đổng Chiêu chưa từng gặp chúng ta, song lại chịu giúp, hẳn là muốn đầu quân theo ta. Vậy hãy để Vương Tất tìm hắn hỏi kế, Đổng Chiêu chắc sẽ dốc toàn lực mà giúp.
Tuân Úc trầm lặng không nói. Ông ta không thích Đổng Chiêu, làm quan triều đình, ăn lộc của Trương Dương, nhưng lại giúp việc cho Tào Tháo. Khổng Tử từng nói, “không phải tiên tổ nhà mình mà “thờ”, ấy là xiểm nịnh vậy!”
Âm mưu của Đổng Chiêu
Vương Tất vâng mệnh Tào Tháo, không dám dẫn ai theo, một mình ôm chặt tấu biểu đơn thương độc mã qua ải Thành Cao. Qua mấy thành hoang ở Lạc Dương rồi cứ nhằm hướng tây mà đi, chưa tới bảy ngày đã kịp đến An Ấp là nơi thiên tử đang tạm nương náu, nhưng cảnh tượng đập vào mắt lại khiến người ta kinh hoàng rùng rợn.
An Ấp chẳng qua chỉ là huyện nhỏ, cũng bị quân Tây Lương hoành hành cướp bóc, khắp nơi toàn là tường vách đổ nát. Trăm họ xung quanh đã hoặc bỏ chạy hoặc sơ tán, đồng ruộng hoang tàn không người thu hoạch, chỉ còn lại vua tôi gặp nạn lưu lại nơi đây cực khổ qua ngày.
Vì ngôi miếu trong huyện tàn tạ xơ xác, hoàng đế Lưu Hiệp chỉ có thể dẫn theo Phục hoàng hậu, Đổng quý nhân cùng trốn trong tòa trạch viện hoang vu. Khi hoàng đế triều hội, văn võ cũng đành phải ngồi giữa khoảng sân trống huếch trống hoác, đám quân binh hiếu kỳ trèo cả lên tường mà ngó vào nói cười chỉ trỏ, không còn ra thể thống gì nữa.
Coi như hoàng đế còn có nơi mà ở, chứ đám đại thần Tây kinh tùy tòng theo đến lại thảm thê hơn nữa. Căn bản chẳng tìm được căn nhà nào có thể che mưa chắn gió, họ chỉ còn biết dẫn gia quyến núp dưới lều bạt, trông không khác gì đám nạn dân chạy loạn. Vì lương thực không đủ nên quan viên dưới bậc công khanh đều phải tự tìm thức ăn, lương thực, và điều đó cũng có nghĩa họ phải bất đắc dĩ tự tay đào rau rừng, hái quả dại ăn cho qua bữa. Mấy lão thư lại chưa từng chịu khổ như thế bao giờ, nếu không đói gần chết cũng lả đi bên những bức tường đổ nát. Tệ hơn là, lương thảo của mấy lộ binh mã tham gia cứu giá cũng không còn đủ, tất cả đều phải tự tìm cách lấp đầy cái bụng rỗng lâu nay. Mấy lộ binh mã kia đều có giặc Bạch Ba, đám
Tây Lương cũ và cả người hung Nô vốn ban đầu đều là phường trộm cướp, nay chỉ cần lương thực là coi như còn giữ được mạng sống, đã xung vào trong quân rồi thì bất kể quan hay dân, chỉ cần hễ có ai dám cướp miếng ăn của chúng là chúng sẵn sàng vung đao chém giết. Bởi vậy đám quan lại dưới thượng thư có nhiều người bị bỏ mạng trong tay đám quân binh ấy.
Dù phải chịu tình cảnh gian nan như vậy, nhưng đa số quan lại và ngay cả hoàng đế vẫn còn cảm thấy may mắn, vì dù có ăn đói mặc khổ ở An Ấp, cũng còn hơn bị hãm trong tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ. Từ khi Trường An bị chiếm đóng lần thứ hai đến nay, bọn Lý, Quách tự tung tự tác hoành hành không khác gì lũ súc sinh. Hết Mã Đằng, Hàn Toại ở Tây Lương đến đánh úp, bọn Lý, Quách vây khốn Trường An bao ngày, sau lại vì nội bộ bọn chúng mâu thuẫn mà Lý Thôi giết Phàn Trù, Quách Dĩ quay giáo đánh Lý Thôi.
Trước tình thế Lý Thôi một mực chèn ép làm khó hoàng đế, Quách Dĩ cũng không chịu kém bắt bớ công khanh quần thần, bọn chúng tranh giành đấu đá đã mấy phen giao chiến hết trong lại ngoài thành Trường An, thậm chí cung nỏ còn bắn cả vào xe ngựa của hoàng đế. Danh tướng một thời là Chu Tuấn ra hòa giải cũng không kết quả gì, cuối cùng phải chịu sống dở chết dở. May sao còn có mưu sách của bọn Thái úy Dương Bưu, Thái phó Hàn Dung, Thị trung Dương Kỳ cùng Quang lộc đại phu Giả Hủ tranh tối tranh sáng, cuối cùng hoàng đế cũng may mắn thoát khỏi tay hai tên thổ phỉ ấy, lật đật dắt díu nhau cùng chạy về đông.
Đường đi gian nan là vậy, lại thêm binh ít lương thiếu, rồi binh mã bọn Lý, Quách lại sắp đuổi đến nơi, thảy đều phải dựa vào bộ tướng cũ của Đổng Trác là Dương Định, Đổng Thừa, Dương Phụng ra sức chống đỡ. Dù thế, quân hộ giá vẫn càng đánh nhiều càng bại lắm, đám triều thần trung nghĩa
như Vệ úy Sĩ Tôn Thụy, Đại trưởng thu Miêu Tự, Quang lộc huân Đặng Tuyền, Thiếu phủ Điền Phân, Đại tư nông Trương Nghĩa, Thị trung Chu Triển, Bộ binh hiệu úy Ngụy Kiệt, Xạ thanh hiệu úy Thư Tuấn cũng lần lượt phải chiến tử, đến cả Hậu tướng quân Dương Định lúc đầu còn trung thành đi theo hộ giá cũng sợ hãi vì binh tình biến loạn, bỏ cả hoàng đế quay đầu tháo chạy.
Trước tình thế còn chưa biết xoay sở ra sao, hoàng đế Lưu Hiệp chỉ còn cách kêu gọi, hiệu triệu đám thủ lĩnh quân Bạch Ba là Hàn Tiêm, Lý Nhạc, Hồ Tài cùng đám Tả hiền vương Hung Nô lưu vong là Khứ Ti dẫn quân đến cứu giá, cố gắng lắm mới đến được huyện Thiểm, rồi lại mượn một chiếc thuyền qua sông. Thánh giá còn sót lại chỉ duy chiếc xe bò chạy đến Trường An thì dừng chân, sau rồi mới tới Hà Nội, được Thái thú Trương Dương ra sức giúp đỡ, tới lúc này mới thoát hẳn sự truy đuổi của bọn Lý, Quách.
Suốt dọc đường, các lộ binh mã cứu giá dần nảy sinh mâu thuẫn, đám quân Bạch Ba cùng bộ tướng cũ của Đổng Trác cứ tranh chấp mãi không thôi, Hàn Tiêm và Đổng Thừa luôn đổ tiếng ác cho nhau. Hoàng đế thương nghị với quần thần, chỉ còn cách gia phong ban thưởng hậu hĩnh để vỗ về chúng, bèn phong Trương Dương làm Đại tư mã, Hàn Tiêm làm Đại tướng quân, Dương Phụng làm Xa kỵ tướng quân, Đổng Thừa làm Vệ tướng quân, ban cho các chức tước được phép mở phủ thuộc hàng tam công trở lên hết lượt đâu đấy cho bọn chúng, bấy giờ mới yên.
Vương Tất tẩn ngẩn hồi lâu giữa đống tường vách đổ nát, trông khắp bốn phía đều là đám quan lại mặt vàng da bủng xanh xao, người nào người nấy áo rách vá chằng vá đụp đang ngồi khâu lại, ngọc ngà cùng lụa là trên người đều đã bị bọn quân binh cướp sạch, trong tay chỉ còn cây cày cái cuốc, có người còn dùng cả cái hốt để đào rau dại, thực chẳng khác nào một đám ăn
mày. Vả lại giữa thành trì hoang phế đổ nát này, đâu đâu cũng thấy lều bạt to nhỏ muôn hình vạn trạng đủ màu đủ sắc, quân lính lẫn với quan viên, hôi thối bẩn thỉu bốc lên nồng nặc, chẳng còn phân biệt được ai với ai nữa.
Trước tình cảnh như vậy, tấu biểu biết dâng lên đâu, biết đi đâu tìm bọn Đổng Chiêu bây giờ? Đầu óc Vương Tất vẫn còn nhạy bén nhanh nhẹn, liền nghĩ ngay tới chỗ góc sân nơi hoàng thượng tạm náu mà chờ, nhất định sẽ có quan viên lai vãng, chưa biết chừng có cơ hội gặp lại bọn Đổng Chiêu. Vương Tất vốn không biết “hành cung” ở đâu, nhưng dưới mũi có mồm, hỏi dăm ba câu kiểu gì cũng tìm được nơi cần đến.
Góc “hành cung” trông thê thảm lại không hề nhỏ, nhưng tường ngoài đã bị phá đổ, không có cổng lớn, nhiều chỗ phải dùng ván gỗ, gốc cây bịt lại. Quanh “tường vách cung điện” chắp vá ấy lại có không ít quân lính đứng canh gác. Chỉ nực cười là đám người này chẳng hề có chút khí phách thần thái hai quân nam bắc, năm doanh bảy trại của quân canh gì cả, rõ ràng là một đám quân hổ lốn. Có tên mặc khôi giáp, có kẻ vận áo vải bông, có tên mặc áo vải bố, lại có kẻ mặc áo lông thú, thoáng nhìn biết ngay không phải người Hán. Đám binh đinh này thuộc các phái khác nhau, luôn sợ người khác độc chiếm hoàng thượng nên chỗ nào chỗ nấy đứng lẫn lộn nhau, cảm giác như kẻ nào cũng muốn chiếm quyền làm quân cấm vệ. Vì không có sự quản hạt thống nhất, binh lương lại đang thiếu thốn, tên nào tên nấy uể oải rệu rã, đứng tròn trách nhiệm, trọn nghĩa vụ, đúng vị trí lại chẳng được mấy tên, đa phần đều đứng đâm đao ném gạch hay dựa người vào đoạn tường đổ mà ngủ gật, có tên còn đục lỗ trên tường dòm ngó vào bên trong.
Vương Tất nhìn qua liền biết bọn này không phải người tốt nên cũng chẳng dám đi qua mà chuốc thêm phiền phức, vội lao sang phía cổng lớn tìm gốc cây khô mà dựa, thi thoảng lại để ý động tĩnh, quan sát kỹ mấy người ra
vào qua lại.
Cứ thế hơn nửa canh giờ trôi qua, bỗng nghe thấy tiếng hô lớn: — Bãi triều!
Tiếp đó, cả đám người nhốn nháo xuất hiện phía cổng lớn. Thế nhưng đám đó đâu giống các trọng thần chốn triều đình? Theo quy chế triều đình, thời tiết thế nào quan lại mặc triều phục tương ứng quy định rõ ràng, thế mà sao lúc này triều phục xuân hạ thu đông màu gì cũng có, có người vá chằng vá đụp, có người đuôi áo nát tua rua, có người quần áo bẩn thỉu không nhận ra màu gì nữa. Tất cả quan viên ai nấy mặt mũi xanh xao, râu ria xồm xoàm, ra khỏi sân chầu cũng chẳng hàn huyên trò chuyện gì, chỉ lặng lẽ cúi đầu nghĩ đến bữa ăn trước mắt. Một vài lão thần được quân binh dìu ra, râu ria rung rung, đi bước nọ lại xẹo bước kia liêu xa liêu xiêu.
Vương Tất dướn cổ cố tìm lấy một khuôn mặt thân quen, nhưng nhìn ai cũng thấy mặt mày lờ đờ lạ hoắc lạ huơ, người quen tìm không thấy, mắt đã hoa cả lên. Vương Tất định bụng qua hỏi thăm nhưng lại sợ hỏi nhầm người sẽ nhỡ hết đại sự, đang lúc hoang mang chợt thấy Đổng Chiêu thư thả đi ra.
Không phải mắt Vương Tất tốt mà do Đổng Chiêu quá thu hút. Người khác thì quần áo lam lũ, nhưng duy có Đổng Chiêu ăn mặc chỉnh tề, mình vận triều phục màu xanh, đầu đội mũ thông thiên, khoác áo bào đen, tay cầm hốt ngà ngắn, chân đi hài đế cao. Kỳ thực đó cũng chỉ là sắc phục của chức quan Tán trật nghị lang lương sáu trăm thạch thường thường bậc trung, thuộc hàng thấp bé trong triều, nhưng giữa đám đại thần đang hồn xiêu phách lạc lại chẳng khác nào hạc giữa bầy gà.
Đổng Chiêu tuổi chừng bốn mươi, khuôn mặt đầy đặn trắng trẻo ung dung, không hề có vẻ gì giống chết đói. Dù Chiêu ngũ quan ngay ngắn đoan chính nhưng tướng mạo lại chẳng có vẻ gì xuất chúng, duy có hàng ria là
rậm rạp chênh vênh trông như hình chữ “nhất”, bộ râu phía dưới cũng dày mượt tươi tốt, thoáng nhìn là biết đã được cắt tỉa cẩn thận. Lúc này trông Chiêu đường đường chính chính không nhìn ngang liếc dọc, hai tay nâng hốt ngà, bước đi chậm rãi không như đi giữa đám binh bại ở góc sân, mà giống đang bước từ tốn trên thềm ngọc nơi tẩm điện nguy nga. Chiêu đi đến đâu, bọn binh đinh hộ vệ đều lũ lượt khom lưng gật đầu tựa hồ đều biết rằng Chiêu từ chỗ Trương Dương tới, không ai dám tự rước vạ vào thân.
Thấy Chiêu chầm chậm tách khỏi đám đông, cách bọn binh đinh một khoảng khá xa, lúc này Vương Tất mới chắp tay vái mà rằng: — Đổng đại nhân lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ?
Đổng Chiêu khẽ cười, ngước mắt lên rồi lại lập tức nhìn xuống, nhỏ giọng:
— Là ngươi ư, sao lại tới được An Ấp này?
— Phụng mệnh sứ quân nhà tại hạ, đến đây dâng biểu tạ ơn. — Ồ! - Đổng Chiêu buột miệng đáp.
— Ngoài ra, còn có việc muốn... - Vương Tất liếc nhìn, thấy xung quanh không có ai mới tiến sát gần thêm một bước rồi hạ giọng xuống nữa, - Đổng Thừa câu kết với Viên Thuật chiếm giữ ải hiểm, không cho binh mã của sứ quân nhà tại hạ tây tiến nghênh giá. Đại nhân có cách nào phá được ải này để binh mã chúng tôi qua chăng?
Đổng Chiêu chợt dừng bước rồi lại đi tiếp, chậm rãi mà rằng: — Ngươi theo ta, có gì qua chỗ ta hãy nói.
— Thưa vâng. Vương Tất vâng một tiếng rồi khép nép đi sát Đổng Chiêu.
Nhìn theo bộ dạng khoan thai đường bệ không nhanh không chậm,
Vương Tất thầm nghĩ đến lai lịch của Đổng chiêu: Chiêu tự là Công Nhân, sinh ở Định Đào, Tế Âm, vì là nhân sĩ Duyện Châu nên ông ta cũng đặc biệt ưu ái trước việc Tào Tháo nắm giữ Duyện Châu. Kỳ thực Chiêu theo đường sĩ hoạn khá sớm, buổi đầu bình định Khăn Vàng, khi danh thần tiên triều Giả Tông nhận chức Thứ sử Ký Châu thì Chiêu đã lãnh nhận chức Huyện trưởng Ảnh Đào, cũng nổi tiếng là thanh liêm. Sau này khi thiên hạ biến loạn, Chiêu đi theo nương dựa Viên Thiệu, làm đến Thái thú Cự Lộc. Bấy giờ quân Hắc Sơn thừa lúc Viên Thiệu và Công Tôn Toản giao chiến mà đánh phá Nghiệp Thành, giết được thái thú Ngụy Quận là Lật Thành, Viên Thiệu sau khi dẹp yên liền cho Chiêu tiếp nhận làm Thái thú Ngụy Quận. Khi ấy Ngụy Quận là căn cứ địa của Viên Thiệu, có thể giao một chức trọng yếu như vậy cho Đổng Chiêu, đủ thấy Viên Thiệu coi trọng Đổng Chiêu thế nào. Nhưng cũng chính mối quan hệ hòa hợp đến nhường ấy mà bỗng nhiên xuất hiện rạn nứt. Em ruột Đổng Chiêu là Đổng Phóng phục tùng dưới trướng Trương Mạc, cũng vì chuyện của Lã Bố mà Viên Thiệu và Trương Mạc mới nảy sinh bất đồng, hai nhà dần đối đầu như kẻ thù, Đổng Chiêu thấy hơi bất an, cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện hai người tâm phúc khi xưa là Lưu Huân, Trương Đạo chết chỗ Viên Thiệu lại thấy không lạnh mà run. Thế là Chiêu thêu dệt nên một câu chuyện, nói là thay Viên Thiệu đến Tây kinh bái yết thiên tử, nhưng kỳ thực lại quay đầu chạy theo Trương Dương thái thú Hà Nội.
Trương Dương là kẻ cũng chẳng làm được trò trống gì, đã chẳng giỏi binh pháp lại không có mưu lược, nhưng được cái ăn ở đối đãi rất tử tế và biết cách dung nạp người khác nên Đổng Chiêu đành tạm lưu lại dưới trướng cho qua những ngày lỡ dở. Mãi đến khi Vương Tất phụng mệnh Tào Tháo đến Tây kinh dâng biểu, giữa đường bị Trương Dương bắt giữ. Đổng Chiêu tuy chưa từng gặp qua Tào Tháo nhưng thường dùng lời tốt nói cho, không
những để Vương Tất dễ dàng đi qua, còn khiến Trương Dương và Tào Tháo cùng phái sứ giả qua lại kết thành đồng minh. Sau này, thiên tử thoát khỏi truy binh đến được An Ấp, Đổng Chiêu lại thay mặt Trương Dương tới bái yết và được nhận mệnh làm Nghị lang. Xét ra, Chiêu có ba thân phận, vừa chính thức là đại thần triều đình, vừa là thuộc hạ của Trương Dương, hơn nữa còn là đại diện của Tào Tháo nơi triều đường. Ba thân phận ấy đều do chính tay Đổng Chiêu tạo dựng nên, theo cách nói của người xưa có thể gọi đó là con thỏ quỷ quyệt có ba hang nấp, thêm nữa hắn cũng lắm mưu nhiều kế, có nhiều đường để lựa chọn mà đi. Đổng Chiêu chắc chắn là người thông minh, đã kinh qua hơn hai mươi năm chốn quan trường tự nhiên hiểu được nên đi đường nào. Có điều Chiêu luôn cẩn thận, làm những việc cần phải làm và cực kỳ kiệm lời.
Nhờ người giúp đỡ đương nhiên phải giữ khách khí, Vương Tất thấy Chiêu trước sau chẳng nói chẳng rằng đành phải lên tiếng để phá vỡ sự im lặng:
— Đổng đại nhân ở đây có quen không? Hẳn là phải chịu khổ một chút? — Cũng tạm, được lĩnh lều bạt gậy gỗ để dựng chỗ ăn nghỉ. Thế này mà gọi là chỗ ăn nghỉ gì chứ, đến bước đường này còn văn vẻ được sao! Vương Tất muốn cười lại không dám, hỏi tiếp:
— Lương thực còn đủ dùng chăng?
Đổng Chiêu gật gật đầu:
— Lúc đầu Trương Dương cũng cho ta không ít lương thực, rồi ta phân phát cho các đại thần, giờ cũng như mọi người ăn rau rừng quả dại thôi. Vương Tất nhìn khuôn mặt đẫy đà của Đổng Chiêu, đâu giống người phải ăn rau rừng quả dại để lấp đầy bụng chứ! Đổng Chiêu căn bản không thèm nhìn sang, bởi thừa biết hắn không tin:
— Ngươi không tin? Không giấu gì ngươi, cho dù có sơn hào hải vị ta cũng không ăn, ta vốn ăn chay hai mươi năm nay rồi.
— Hả?! - Vương Tất kinh ngạc, - Hai mươi năm... đều ăn chay sao? — Ngươi không hiểu phép dưỡng sinh đâu. - Đồng Chiêu vừa nói vừa thong thả đi về trước, - Đem măng non rau dại nấu thành canh, ninh nhừ, thứ này ngon hơn tất thảy.
Vương Tất xuất thân nghèo khó sau này sung quân làm lính, luôn thích uống rượu ăn thịt, nên chỉ nghĩ đến thứ gì màu xanh đã thấy buồn nôn. Tựa hồ Đổng Chiêu đang cố tìm chủ đề mình yêu thích, nên mở lời rằng: — Năm xưa ta từng gặp Trương Trọng Cảnh ở Nam Dương, có cùng ông ấy nghiên cứu đạo để tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Con người ta nếu biết cách dưỡng sinh, không để tà phong xâm nhập làm tổn hại kinh lạc, nguyên khí trong ngũ tạng được lưu thông điều hòa như thế sẽ không sinh bệnh. Ăn nhạt bớt, ăn ít đi, nên ăn chay, và ăn chín là rất có lợi... người ăn thanh đạm sẽ tốt cho thận; ăn ít sẽ không tổn thương tỳ vị; ăn chay có thể kiềm chế được hỏa trong can vị. Còn ăn chín thì từ khi loài người biết lấy lửa nấu chín thức ăn, người ta đều ăn chín uống sôi mà không hề ăn sống hay uống lạnh, đó chính là đạo của thuật trường sinh. Không tin ngươi cứ thử xem, lấy ngũ cốc nấu với rau rừng thành canh, món ấy còn hơn cả thuốc tiên của Thần Nông thị. - Chiêu cứ nói cứ nói rồi cười, trên khuôn mặt luôn tỏ vẻ thận trọng còn thoáng lộ sự đắc ý, - Dù mọi người đều nói rằng: “Đại trượng phu cần văn võ song toàn tạo công dựng nghiệp”, nhưng thể chất là căn bản của mọi sự, không thể không thận trọng!
Vương Tất lại chẳng mấy để tâm nghe Đổng Chiêu cứ nói mãi về đạo dưỡng sinh kia, nhưng lại không tiện cắt ngang, cứ cúi đầu lắng nghe, rồi đi theo Chiêu về phía trước. Đổng Chiêu bước đi khoan thai, mãi hồi lâu mới
đưa Vương Tất đến “nơi ăn chốn nghỉ”. Tuy đến là nhờ vào ân tình với Trương Dương, nhưng Đổng Chiêu cũng chỉ ở trong một cái lều, một chiếc chõng, một chiếc án, hai chiếc ghế, có thêm một hòm giấy bút mực nghiên, bấy nhiêu được xem là toàn bộ gia sản rồi. Ngoài ra còn một lão bộc chăm nom sớm tối.
Đổng Chiêu vừa vào trong lều liền vẫy lão bộc ra ngoài, cẩn thận buông rèm, tự tay kéo ghế mời Vương Tất ngồi. Vương Tất đã đến nửa buổi rồi, mà mãi vẫn chưa bàn đến chính sự, nên chẳng còn có tâm tư nào ngồi nữa:
— Đổng đại nhân, ngài hà tất phải khách sáo thế, chúng ta bắt đầu bàn đại sự được chăng, hay là ngài có cách gì?
— Chớ vội chớ vội! Để ta rót nước mời ngươi. - Đổng Chiêu nói một hồi rồi cầm hai chiếc bát lớn, vòng tay qua ôm chiếc vò, vừa rót nước vừa nói, - Đây không phải nước thường đâu, mà là ngâm bán hạ, hậu phác[145] đấy, hợp với thang của Trương Trọng Cảnh, có thể khỏe tỳ vị mà phòng bệnh tật.
Vương Tất cố nhịn nhìn Chiêu đang dập dình đổ nước xong mới khẩn khoản:
— Đại nhân, tại hạ từ xa đến đây thực không hề dễ dàng, dám mong đại nhân giúp đỡ.
Đổng Chiêu không đáp lời, chầm chậm ngồi xuống nhấp một ngụm nước:
— Tấu biểu của Tào Duyện Châu để đâu, có thể để ta xem được chăng? Vương Tất thoáng chút do dự nhưng vẫn cười khà khà:
— Việc này có gì không được? Lần trước nếu không có ngài tương trợ, đại nhân nhà tại hạ đâu được thụ phong chức Duyện Châu mục! - Nói đoạn rút tấu biểu trong người ra giao cho Chiêu.
Đổng chiêu cung kính mở túi gấm mở cuộn thẻ tre ra xem:
“Vào triều lĩnh chức cấm mục, rời ra chinh phạt đại quân. Hạ thần đời đời chịu ân trạch to lớn, được ban thưởng hậu hĩnh nhận mệnh của triều đình, thực không dám tiếc mạng. Liền đem giáp dày giáo nhọn, binh cường tướng mạnh xông pha, thuận thiên mệnh thảo nghịch tặc. Tuy dốc sức diệt bọn ngoan cố, gắng san bằng đám thổ phỉ, nhưng nay vẫn chưa thể ca khúc khải hoàn. Thần thấy muôn phần hổ thẹn, tuy chưa có chút công lao, nhưng vẫn được ân sủng bổng lộc hậu hĩnh. Không mà thành có, nào khác cành mềm không chịu được hoa lớn, tiếng tâm chẳng xứng với thực lực, chỉ e người trong thiên hạ chê cười. Đương khi hổ thẹn vì nhận mệnh vinh hiển, thật khiến thần cảm thấy tiến thoái rối bời, lúng túng hoảng sợ...”
— Tuyệt thay! Tuyệt thay! - Đổng Chiêu vuốt vuốt chòm râu gật gù, - Tấu biểu tuy viết không dài, nhưng lại dùng từ vô cùng kín kẽ. Đầu tiên thể hiện rõ tâm chí chưa quên hoàng ân, thứ nữa trình bày việc chinh thảo là thuận ý trời mà hợp lòng người; tiếp đến lại khiêm nhượng mà không ngạo mạn... Tào Mạnh Đức quả thật phi phàm, không những tinh thông binh pháp, giỏi chuyện chinh phạt, lựa từ chọn câu cũng thật xuất chúng! - Chiêu xem đi xem lại ca ngợi mãi không thôi, cũng chẳng vội cuộn tẩu biểu lại mà thuận tay để trên án kỷ luôn.
Vương Tất không muốn nghe ông ta nói những lời thừa thãi ấy nữa, vội giục:
— Đổng đại nhân, tấu biểu ngài cũng đã xem qua, rốt cuộc xử trí thế nào, xin ngài cứ nói!
— Ngươi vội gì chứ? - Đổng Chiêu chẳng buồn nhìn Vương Tất lấy một
cái, cứ chăm chăm vào tấu biểu, hai tay đan nhau.
Vương Tất thấy ông ta chưa tỏ thái độ gì liền ngồi xuống xem động tĩnh. Mãi hồi lâu Đổng Chiêu mới thôi đan tay, từ tốn ngồi xuống, bưng bát lên nhấp một ngụm nước mà rằng:
— Việc qua Hà Nam không thể vội vã. Hiện nay thế lực mấy nhà tranh giành cấu xé đấu đá lẫn nhau, nếu không thể yên ổn được, thì dù Tào sứ quân có đưa quân tiến đánh Thành Cao cũng chẳng thể thao túng triều chính.
Vương Tất nghe xong lạnh người, đợi tên chậm như rùa bò này cả ngày trời, cuối cùng cũng phải thốt một câu:
— Đổng đại nhần à, tại hạ biết ngài rất khó xử, nhưng việc này không còn cách nào khác nữa sao?
— Ngươi chớ vội... Đại để hiện nay có thể chia đám hộ giá thành năm phe cánh, chúng ta cần phân biệt lợi hại mà hành động. - Đổng Chiêu đung đưa bát nước trong tay, tiếp tục thao thao, - Trước tiên là Trương Dương, hiện ông ta đồn trú trong huyện Dã Vương, đang bận phái người tu sửa hoàng cung Lạc Dương. Chẳng qua ông ta cũng vô tình mà vào được nơi triều đường, chỉ là cứu vãn tình thế nhất thời, huống hồ cũng đã hòa thuận với Tào sứ quân rồi, dù ông ta có không giúp đỡ cũng không đến nỗi gây thêm phiền nhiễu cho Tào sứ quân được. Lại có Tả hiền vương của Hung Nô là Khứ Ti, đến lúc này ông ta một là ra sức vì triều đình nhà Hán, hai là vì nội loạn bộ tộc mà phải lưu vong bên ngoài, nên phe Hung Nô cũng không có vấn đề gì lớn.
Nói đến đó Chiêu bỗng ngẩng đầu lên, đi thẳng vào chuyện trọng tâm: — Phiền phức nhất là ở hai phe phía sau kia. Phe thứ ba là Hàn Tiêm giặc Bạch Ba, hiện giờ binh mã của hắn là nhiều nhất, vì có công hộ giá nên được thụ phong làm Đại tướng quân, kiêm lĩnh chức Tư lệ hiệu úy, hắn
không những tham dự triều chính mà còn đồn trú quân mã với bọn đồng đảng là Lý Nhạc, Hồ Tài ở Hà Đông. Phe thứ tư là Đổng Thừa - bộ tướng cũ của Đổng Trác, người này tự xưng là cháu họ của Vĩnh Lạc thái hậu, chớ thấy hắn binh thưa mã ít mà coi thường, hắn được thiên tử sủng ái, lại thêm quan hệ giữa hắn với quốc trượng Phục Hoàn cũng rất tốt, hoàng thượng còn phải gọi hắn là quốc cữu, còn nạp con gái hắn làm quý nhân. Hiện tại hai phe này có thực quyền nhất, bất luận thế nào đều sẽ phản đối Tào sứ quân đến ăn chung miếng bánh, nhưng hay ở chỗ là mâu thuẫn giữa bọn chúng lại là lớn nhất.
Vương Tất đã không còn đủ kiên nhẫn được nữa, tỏ vẻ hằm hằm: — Nói cả ngày trời, vẫn chẳng thấy ai có thể giúp sứ quân chúng tôi sao? — Không phải không phải. Có thể giúp được, ta thấy chỉ có phe cuối
cùng - Dương Phụng! - Đổng Chiêu uống cạn nước, đặt bát lên bàn, - Dương Phụng này có hai thân phận, năm xưa hắn cũng là tướng soái của giặc Bạch Ba, sau này mới theo về làm tướng dưới trướng Đổng Trác, hai phe này cũng có chút quan hệ, nhưng chẳng phe nào coi hắn là người phe mình, cho nên chỉ còn cách tự lập sơn trại mà làm đầu lĩnh. Luận về thực lực, hắn không bằng Hàn Tiêm, bàn về sự sủng ái của thiên tử, hắn chẳng sánh được với Đổng Thừa, cho nên muốn làm nên sự nghiệp ắt phải tìm tới ngoại viện, Tào sứ quân không ngại thì hãy tạm liên hợp cùng Dương Phụng, để giữ chân, khống chế hai phe kia.
— Chủ ý gì vậy, thế chẳng phải là đi may áo cưới cho người sao? - Vương Tất nhìn Chiêu bằng ánh mắt coi thường.
— Lúc này giúp người khác chính là giúp mình, lôi kéo thêm bằng hữu là bớt đi được một kẻ địch. Trương Dương, Khứ Ti đã không vấn đề gì rồi thì kéo thêm Dương Phụng sẽ có thể chuyên tâm mà đối phó với Đổng Thừa,
Hàn Tiêm. Chỉ cần giữa bọn chúng xuất hiện kẻ thù chung thì mọi việc coi như xong.
Vương Tất dường đã hiểu ra đôi chút:
— Ý của ngài là...
Mắt Đổng Chiêu chợt sáng lên nhìn Tất:
— Trước tiên hãy lôi kéo Dương Phụng, rồi sau đó tùy cơ tranh thủ một trong hai phe Đổng Thừa, Hàn Tiêm. Lúc đó Tào Duyện Châu đã có thể liên minh bằng hữu với thế lực cả bốn phe để mà lĩnh binh tiến đóng Hà Nam. Trên danh nghĩa là thay họ đối phó với kẻ địch chung, nhưng thực tế chỉ cần vào được Hà Nam, với tài trí của Tào Duyện Châu, sẽ chẳng cần mất chút sức nào đã có thể thâu phục được tất thảy bọn chúng. Ngươi yên tâm đi, còn đủ thời gian. Cái huyện An Ấp bé xíu này không phải là nơi rồng ẩn, qua vài ngày nữa thánh giá nhất định sẽ quay về Lạc Dương. Trên con đường này, chỉ cần bất ngờ xảy ra chút biến cố gì, kêu Tào Duyện Châu cứ bình tĩnh chờ đợi thời cơ nữa thôi.
— Được! - Vương Tất vỗ đùi, - Tại hạ dâng biểu xong sẽ cấp tốc quay về, bẩm báo với sứ quân chúng tại hạ để ngài nhanh chóng liên lạc với Dương Phụng.
Đổng Chiêu lắc đầu:
— Việc này nên làm sớm, chớ có để chậm trễ, ngươi đi đi về về sẽ làm lỡ thời gian. Chi bằng hãy lập tức lên ngựa sang thẳng Lương huyện bái yết Dương Phụng, tỏ rõ thành ý kết liên minh, giải quyết việc xong xuôi rồi tiền trảm hậu tấu.
— Trông ngài nói kìa, đại sự như vậy sao tại hạ dám tự quyết được? Hơn nữa, không có văn thư của sứ quân, sao Dương Phụng có thể tin lời tại hạ nói chứ?
Cánh mũi Đổng Chiêu khẽ lay động một hồi, trên khuôn mặt trắng trẻo to béo toát lên vẻ khinh miệt:
— Vương chủ bạ, phải chăng ngươi không dám đi?
Vương Tất như ăn phải ớt cay, sợ nhất là bị người khác coi thường, lập tức nhíu mày:
— Đại nhân xem thường Vương Tất thế sao? Tại hạ nếm mật nằm gai một mình đến Tây kinh còn chẳng sợ, gặp Dương Phụng thì có gì chứ? Chẳng qua là không có thư tín gì của sứ quân, sợ rằng uổng công chuyến đi này thôi!
Đổng Chiêu cười nhạt:
— Nếu lúc này có một bức thư của Tào Duyện Châu thì sao? — Vậy thì tại hạ dám đi!
— Lời này thật chứ?
— Thật! - Vương Tất đã hơi sốt ruột.
Đổng Chiêu vuốt vuốt bộ râu:
— Vậy ta thay Tào sứ quân viết bức thư cho Dương Phụng, ngươi thấy thế nào?
— Ý ngài là... thư ngụy tạo?!
Nói viết là viết, Đổng Chiêu mở quyển thẻ tre còn trắng, lướt qua nét chữ trên tấu biểu của Tào Tháo một lượt rồi múa bút viết liền. Thấy Vương Tất hạ bút có lực, nét chữ rắn rỏi, như khuôn như đúc với chữ Tào Tháo, nhìn mà giật mình toát mồ hôi hột. Hay ở chỗ chính là Đổng Chiêu sớm đã thảo sẵn ý trong đầu, không cần thêm ít bớt nhiều, chỉ đặt bút là viết một mạch, câu cú chữ nghĩa tỏ thông rõ nghĩa, thấu tình đạt lý, chẳng mấy chốc bức thư giả mạo đã viết xong. Đổng Chiêu bất ngờ đứng dậy, tựa hồ sức lực toàn thân
đều tập trung cả ở cổ tay, bút đi như rồng rắn, hạ một hàng lạc khoản “Duyện Châu Mục Tào Tháo”.
— Tiếc là không có ấn... nhưng thư mà không đóng ấn càng tỏ vẻ khiêm tốn nhún nhường. - Đổng Chiêu nói đoạn, rồi đọc lại một lượt từ đầu đến cuối, sau mới quay sang nói với Vương Tất, - Này, ngươi xem được không? Vương Tất không dám cầm lên, dướn người nghiêng đầu mà đọc:
Ta sớm nghe danh mến nghĩa tướng quân, luôn muốn tỏ bày lòng trung. Nay, tướng quân muôn gian vạn khó, hộ tống thiên tử về chốn cựu đô, công lao phò tá, cái thế vô song, lời nào kể xiết. Thế mà hiện giờ, giặc giã khắp nơi chẳng tuân vương pháp, nhiễu loạn Trung Nguyên thiên hạ chẳng yên. Bậc quân chủ là vô cùng trọng yếu, muôn sự đều nhờ đại thần phò tá. Hiền sĩ nơi nơi nhất tề nỗ lực, thanh trừ chướng ngại, dọn đường cho đức quân vương, việc ấy không phải sức một người làm nổi, phải như tay chân, phải như tâm phúc, dựa lẫn vào nhau, chỉ cần khuyết một, tất chẳng đủ đầy. Tướng quân chủ trì nội chính, ta làm ngoại viện. Hiện ta có lương thảo, tướng quân có binh mã, tương trợ lẫn nhau, sống chết có nhau, phúc họa hưởng cùng.
Đọc xong, Vương Tất mồ hôi đầm đìa, lại so hai bức thư kỹ càng một lượt, không những nét chữ khó phân thật giả, ngay tới câu từ cũng có mang đậm phong khí của Tào Tháo:
— Đổng đại nhân, thư này giả mà như thật. Ngài thật... thật lợi hại, lợi hại!
— Vương chủ bạ, đã có thư này, ngươi chịu khó vất vả một phen. Đây đều là vì Tào Duyện Châu cả!
— Tại hạ đi! - Vương Tất lau mồ hôi, - Không ngờ ngài lại có bản lĩnh
như vậy.
— Có gì đáng kể chứ, việc ngụy tạo văn thư đâu phải ta mới chỉ làm đôi lần. - Đổng Chiêu lau tay, buột miệng, - Năm xưa khi Viên Thiệu tín nhiệm ta làm Thái thú Cự Lộc, bọn Tôn Kháng hiếu liêm trong quận có ý phản lại Công Tôn Toản, ta liền ngụy tạo công văn của Viên Thiệu chém hết bọn chúng.
Vương Tất bất giác sởn tóc gáy rùng mình nghĩ: “Bọn đọc sách thật không đơn giản chút nào, chỉ cần động động cán bút là có thể đoạt mạng người dễ như trở bàn tay vậy!”
Đổng Chiêu cúi đầu ngắm bức thư mình vừa ngụy tạo, lúc gật lúc lắc như còn chi tiết nào chưa vừa ý lắm, lẩm bẩm như tiếc nuối:
— Bút tích của Tào Mạnh Đức rắn rỏi, mang khí thế bậc bá vương, chữ quả như người. Ta có thể viết được giống tự dạng, nhưng thần thái thì không thể được như vậy.
— Tại hạ thấy thế cũng đủ rồi, đủ để lừa được bọn Dương Phụng thô lậu đó đấy! - Vương Tất nói đoạn liền cuốn lại bức thư.
— Vội gì chứ! Để mực khô hết đã - Đổng Chiêu nói giọng nhát gừng. — Vâng, xin nghe theo ngài. - Vương Tất đã hoàn toàn phục Chiêu, vội khoát tay hỏi, - Phải chăng, bút tích của ai ngài cũng bắt chước được? Đổng Chiêu thủng thẳng đi đi lại lại trong trướng:
— Không hẳn thế, không hẳn thế. Có bút tích của ba nhà trong thiên hạ mà Đổng mỗ học không nổi.
Vương Tất thấy việc quan sai đã có kết quả, cũng không vội nữa, từ tốn ngồi xuống uống nước, đánh trúng tâm lý Chiêu mà hỏi:
— Là ba nhà nào vậy?
— Vị đầu tiên là danh tướng tiền triều Trương Hoán và mấy người con của ông ấy là Trương Chi, Trương Húc. Ta từng tận mắt chứng kiến, Thảo thư của cha con họ hào sảng khoáng đạt, cũng chẳng thua Hiếu Chương hoàng đế là mấy, xứng danh trác việt. Thậm chí đến cả chỗ hạ bút là ở đâu cũng chẳng phát hiện ra. - Đổng Chiêu lắc đầu tựa hồ không cam tâm, - Tiếp nữa là hai sư đồ thầy trò Sư Nghi Quan và Lương Hộc. Phải nói Triện thư của họ đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh vô song, những thứ tuyệt diệu nhất thường vô cùng đơn giản, càng đơn giản lại càng không dễ học.
Càng đơn giản càng không dễ học, Vương Tất nghe tới câu ấy cứ cảm giác như vừa nghe câu danh ngôn chí lý, cũng thêm phần hứng thú mà rằng: — Ngài mới nói có hai nhà, vậy còn nhà nào nữa?
Đổng Chiêu liền cười:
— Còn một người mà ngươi cũng biết đấy, Thượng thư Bộc xạ Chung Do. Chữ của Chung Nguyên Thường, viết theo lối riêng, thâm thúy vô cùng tao nhã có thừa, ta đã mấy lần mô phỏng nhưng chẳng tài nào giống nổi.
Vừa nghe đến tên Chung Do, Vương Tất lại nhớ đến việc chính: — Đổng đại nhân, việc phen này của sứ quân nhà tại hạ, liệu có phải mời mấy vị đại nhân Chung Do, Lưu Mạo, Đinh Xung tham bác ý kiến cho không?
Mấy người này trước đây từng giúp đỡ Tào Tháo liên lạc với Tây kinh. Vốn cho rằng Đổng Chiêu nhất định sẽ tán thành, ai ngờ ông ta liên tục lắc đầu:
— Ta thấy không cần, nếu quá nhiều người dâng lời hay ý đẹp, sẽ khiến bao nhiêu con mắt đổ dồn vào như thế không hay. Quyết không được để Đổng Thừa, Hàn Tiêm phát hiện ra thế lực của Tào sứ quân trong triều. -
Ngoài ra còn một lý do khác nữa, nhưng Đổng Chiêu không để lộ, bởi ông ta sợ phải chia sẻ công lao với người khác trước mặt Tào Tháo. Vương Tất lại chẳng nghĩ nhiều đến vậy:
— Ngài nói cũng phải, hay là giấu đao... Mực khô hết rồi chứ? Vương Tất sợ có người đi vào, muốn cuộn bức thư ngay lại. Không ngờ Đổng Chiêu bất ngờ ngăn lại, cầm lấy bức thư mực vừa khô quăng xuống đất, lại lấy chân giậm lên một hồi.
Vương Tất ngây ra:
— Khó khăn lắm mới viết ra được, ngài làm gì thế?
Đổng Chiêu cúi nhặt thư lên, thổi bụi đất bám trên bức thư thẻ tre, thấy đã có vết ngấn mới đẹp ý mà cuộn lại, đoạn quay người chọn trên án một chiếc túi gấm cũ nát nhất bỏ bức thư vào trong rồi giao cho Vương Tất:
— Lần này tới An Ấp, liệu có ai chú ý đến ngươi không? Nghĩ cho thật kỹ!
— Không... tuyệt nhiên không có!
— Tốt lắm. - Đổng Chiêu dò xét Tất một lượt, rồi chậm rãi nói, - Việc dâng biểu cứ giao cho ta, ngươi không cần lao tâm khổ tứ nữa... Giờ ta muốn ngươi lăn dưới đất mấy vòng.
— Cái gì?! - Vương Tất tưởng Chiêu nói chơi, nhưng xem vẻ mặt nghiêm túc lại không giống đùa cợt chút nào.
— Thư đưa cho Dương Phụng là ta cố ý làm nó cũ đi như vậy, ông cũng phải giả bộ nhếch nhác một chút. - Đổng Chiêu vuốt vuốt bộ râu, - Làm vậy, một là để Dương Phụng thấy ông dọc đường lao khổ, càng thể hiện được thành ý của Tào sứ quân. Hai là ngươi cũng phải thêu dệt nên một vài câu chuyện không đâu, chưa biết chừng, Đổng Thừa rồi cả Hàn Tiêm cũng ngăn
cản hành trình của ngươi, rắp tâm muốn phá hỏng liên minh giữa Dương Phụng và sứ quân nhà ngươi, giữa bọn chúng hãy tạo ra chút mâu thuẫn. — Nói lời dối trá như vậy, một khi Dương Phụng hỏi Hàn Tiêm thì chẳng phải chúng ta bị vạch trần sao?
— Ngươi yên tâm! - Đổng Chiêu cười nhạt một tiếng, - Lời do ngươi nói, ông ta dám hỏi sao? Dù có dám hỏi, Hàn Tiêm liệu có dám nói thực không? Mà dù Hàn Tiêm có nói thực, liệu Dương Phụng có dám tin không? Đều đề phòng lẫn nhau cả thôi.
— Ngài thật cao kiến! - Vương Tất giơ ngón tay cái, bấy giờ mới tâm phục khẩu phục.
— Ngươi còn chưa rõ tình thế hiện nay, để ta nói ví dụ cho ngươi nghe. Đương kim hoàng thượng như chiếc bát vàng, Lý Thôi, Quách Dĩ giống hai đứa trẻ chưa biết gì, còn Dương Phụng, Hàn Tiêm, Đổng Thừa là đám vô lại đầu đường xó chợ, trong khi Tào Duyện Châu lại là vị quan chân chính. Giờ có hai đứa trẻ tranh nhau chiếc bát vàng giữa chợ, chỉ biết nó quý mà không biết vì sao nó quý, kết cục là một đám vô lại đầu đường xó chợ kia đến cướp đoạt. Một khi bọn này đã đến thì càng đông vui náo nhiệt. Cứ như vậy, ngươi tranh ta đoạt đánh lộn lẫn nhau, ồn ào không dứt. Sau cùng là bất ngờ có một vị quan chẳng biết từ đâu tới đi dạo ngang qua, thu lấy bát vàng, bắt hết đám vô lại tống vào đại lao! Sau đó... - Đổng Chiêu nói đoạn vẫy tay, ý ra hiệu chém đầu.
— Ha ha ha... Ví dụ này thật xác đáng. - Vương Tất ngửa mặt lên trời cười lớn.
— Không sợ chúng người đông thế mạnh, người càng đông càng tốt. Đừng nói năm phe, phải mười - hai mươi phe mới hay đấy! Lũ ăn hại đó căn bản không đủ tư cách để đấu với Tào Duyện Châu, đối thủ thực sự để đương
đầu là...
— Là ai? - Vương Tất lo lắng vội hỏi.
Đối thủ thực sự không phải ai khác, chính là đương kim thiên tử. Vị tiểu hoàng đế mười sáu tuổi này khác biệt trời vực với vị chúa nhu nhược trước kia. Lưu Hiệp từ nhỏ không cha không mẹ, được hoạn quan nuôi dưỡng, sinh ra trong lo lắng sợ hãi, từng chịu khổ hoạn nạn đói rét, từng chứng kiến chiến tranh chinh phạt, nhưng là người có trí tuệ phi phàm, lôi kéo được toàn bộ lão thần Tây kinh đến bên mình, lại cũng thấu hiểu sự đói khổ của dân gian. Một vị hoàng đế như vậy, từng làm bù nhìn cho Đổng Trác, Lý Thôi, sao cam tâm lại để Tào Tháo lăng mạ chứ? Hoàng đế mới mười sáu tuổi, cơ hội về sau còn nhiều... Trong lòng Đổng Chiêu chợt trùng xuống, nhưng không tiện nói thẳng với Vương Tất, chỉ lắc lắc đầu cười nhạt:
— Đến lúc ấy ngươi tự khắc biết thôi, việc khó còn ở phía trước, hãy nói với Tào sứ quân chuẩn bị tâm lý thật tốt!
— Ồ. - Vương Tất không hiểu rõ ý chỉ thuận miệng đáp. Nhưng Tất lại hiểu khá rõ về Đổng Chiêu. Người này không phải sĩ đại phu theo lối cũ, ông ta giỏi âm mưu quỷ kế, ngay mặt mũi Tào Tháo thế nào, ông ta còn chưa từng biết qua thế mà lại dám qua mặt người ta để tư lợi, trông bộ dạng lờ đà lờ đờ thế thôi nhưng dám làm chuyện hiểm, dã tâm trên đường sĩ hoạn còn nhiều hơn cả lòng trung với Đại Hán. Lòng dạ sâu xa khó dò, tâm địa nham hiểm ngấm ngầm, là ám chỉ hạng người như Đổng Chiêu vậy.
Hồi thứ 50
Cướp lại Dự Châu từ tay giặc Khăn Vàng
Bất ngờ gặp hổ điên
Đại quân của Tào Tháo thừa thắng di chuyển xuống phía Nam nên giặc Khăn Vàng ở Dự Châu chẳng cần đánh cũng tự nhiên tan rã. Tào Nhân, Vu Cấm, Nhạc Tiến, ba lộ binh mã khí thế hùng mạnh, binh lính thành trì quẳng giáo xin hàng vô số, duy chỉ có Lưu Tịch là ngoan cố chống cự. Trong khi đó, Viên Thuật dường chẳng có ý đem binh cứu viện Dự Châu, chỉ mải tranh đoạt Từ Châu cùng Lưu Bị, đến nỗi bộ hạ của Thuật là Viên Tự đánh chưa xong một trận đã phải hàng Tào Tháo. Trước tình thế ấy, Lưu Tịch rơi vào thế bị cô lập không có cứu viện, từ đầu đến cuối bị quân chủ lực của Tào Tháo truy kích, phải trốn chạy về sào huyệt khởi sự khi xưa: Cát Pha, Tân Thái huyện.
Cát Pha chính là căn cơ của giặc Khăn Vàng ở Dự Châu, hồ lớn này phía trên nối tiếp từ Đồng Thủy[146], phía đông thông với Hoài Hà, chu vi tới ba mươi dặm, bốn phía gò dốc trập trùng hiểm yếu. Nhưng trên hòn đảo giữa hồ lại chứa một lượng lớn lương thực mà hơn nửa là vơ vét được từ Dự Châu, đủ cho quân chiếm đóng ăn trong vòng hai năm, thậm chí cả gia thân quyến thuộc của họ cũng ăn ở tại đó. Quân Khăn Vàng để bảo vệ nơi này mà xây thành đắp lũy dọc theo ven hồ, lớn nhỏ vô số, quân binh canh phòng tới hơn vạn người.
Bấy lâu nay Tào Tháo vẫn luôn đau đầu vì đất ấy, nếu cứ cố chạy dọc doanh lũy mà công phá thì chẳng biết còn bao nhiêu nhân mạng nữa phải chịu thương vong? Hơn nữa trong tay quân Khăn Vàng còn có thuyền nhỏ, lương thảo lúc nào cũng có thể cấp phát, ngược lại phía Tào Tháo phải vận lương từ Dĩnh châu tới, nếu cứ kéo dài tình trạng này sẽ chịu hao tổn nhiều, hết lương thực trước chắc chắn là quân Tào rồi. Nhưng nếu không chiếm được nơi này, sau này Lưu Tịch nhất định sẽ quay trở lại, gốc rễ loạn Khăn Vàng ở Dự Châu vĩnh viễn không thể trừ sạch. Tào Tháo chỉ còn cách tạm đóng doanh hạ trại mà không dám manh động khiêu chiến, đành đợi bọn Tào Nhân, Vu Cấm, Nhạc Tiến ba lộ binh mã cùng tới rồi thương nghị.
Lúc này trong trướng trung quân im phăng phắc, không ai dám nói năng gì. Bọn Hạ Hầu Uyên, Tào Hồng mất đâu vẻ kiêu dũng thường ngày, bọn Tuân Úc, Trình Dục vốn thần cơ diệu toán cũng chẳng dám manh động lên tiếng, đến cả thường ngày hay cười nói như Biện Bỉnh đều không dám ho he trêu chọc gì. Thấy đánh nhau cầm cự đã đến bước này, thảy không ai còn tinh thần gì nữa, mọi người lo lắng một thì Tào Tháo lo lắng mười. Lần xuất binh này Tháo còn đưa cả vợ con đi theo, hai vị phu nhân Hoàn thị và Tần thị trong hậu doanh đều đang có mang, nhất là Tần thị sắp sinh đến nơi, nếu lại cứ tiếp tục thế này, lẽ nào phải sinh nở trong quân doanh sao? Mặt khác, Vương Tất đi An Ấp dâng biểu đã hơn một tháng tới giờ vẫn chưa thấy về, chẳng lẽ triều đình đã xảy ra biến cố gì? Còn nữa, Lương vương tử Lưu Phục từ khi quy phục đi theo đến nay lại chẳng chịu tận tâm tương trợ, ăn lương mà chưa làm được gì, rốt cuộc hắn có ý gì đây? Bao nhiêu việc phiền muộn cứ dồn cả lại khiến Tào Tháo càng thêm buồn bực.
Không khí tĩnh lặng như thế một hồi, Tiết Đễ đột nhiên phá vỡ sự yên ắng:
— Sứ quân, đại quân đến đây dù có tiến quân cũng không đánh được, chi bằng chúng ta quay về Duyện Châu?
Tào Tháo chợt thấy lạnh run, lúc này điều Tháo thấy sợ nhất là có kẻ nhắc đến chuyện này. Nếu không đáp ứng mấy tên xuất thân ở Duyện Châu bỗng nhiên đề xuất việc hồi quân này, tâm lý bất mãn chán chường sẽ càng tích tụ. Theo đó kế hoạch dời quân sang Dự Châu của ông ta tất sẽ thất bại. Tào Tháo muốn phủ đầu phản bác Tiết Đễ, nhưng lại nghĩ, chặn họng bịt miệng mình hắn lúc này cũng chẳng có tác dụng gì, bởi quá nửa trong quân là người Duyện Châu, liệu có thể bịt miệng được tất thảy hay không? Nghĩ đến đó, Tháo đổi giọng khuyên rằng:
— Hiếu Uy, lúc này bàn việc lui quân thực không thỏa dáng cho lắm... Nếu không lấy được cứ địa Cát Pha, Viên Thuật tất sẽ lại kích động xúi bẩy dư đảng Khăn Vàng dấy loạn. Tuy hắn không đến đánh ta, chỉ mượn cớ sách nhiễu cũng đủ làm chúng ta khốn đốn rồi.
— Sứ quân nghĩ sai rồi. - Tiết Đễ cười mà rằng, - Kỳ thực sứ quân không nên cầu toàn. Chỉ cần giữ được đường Trần Lưu sang tây, gỡ được trở ngại Thành Cao, thì việc nghênh giá đến Duyện Châu chẳng có gì khó? Viên Thuật đang ở xa tận Thọ Xuân, dù có ý cướp giá chăng nữa nhưng roi dài cũng sao với tới được.
Tào Tháo im lặng không nói, cười khổ ngẫm rằng: “Tiết Đễ à Tiết Đễ, người chưa biết ta muốn gì đâu! Ta vốn không định nghênh rước thánh giá đến Duyện châu, đến đó quá gần Viên Thiệu. Thực lực chúng ta lại quá chênh lệch với hắn, ngộ nhỡ Viên Thiệu qua sông tranh cướp thiên tử với ta, chúng ta lấy gì chống đỡ nổi?”
Cả bọn thấy Tào Tháo không nói năng gì, lập tức xì xào bàn tán. Mấy tên Duyện Châu liền tỏ vẻ tán đồng với lý lẽ của Tiết Đễ. Tuân Úc như đi guốc
trong bụng bọn chúng, thấy tình hình như thế vội mở miệng gỡ bí cho Tào Tháo:
— Chư vị chớ vội, nghe ta một lời. - Úc xử sự bình tĩnh, là người có uy vọng nhất trong Tào doanh, Úc vừa cất tiếng cả bọn lập tức yên lặng trở lại, - Đại quân từ xa tiến đánh đến đây, không thể vì khó khăn nhất thời mà bỏ đi bao công mài giũa tôi rèn. Nếu lúc này quay đầu rút quân, chẳng những gốc rễ bọn giặc không thể trừ được, mà còn e bọn Hà Nghi, Hà Man quay giáo phản lại. Huống hồ từ khi Duyện Châu bị nạn châu chấu, lại thêm gặp loạn Trần Cung, trăm họ điêu linh, lương thực thiếu thốn, dẫu vài mấy năm tới cũng khó được như trước. Trong khi đó, bọn giặc Cát Pha lại tích trữ lương thảo luôn, nếu có thể tiêu diệt được bọn chúng, quân ta có thể thu hết lương thực, lúc ấy chúng ta sẽ được cấp lương mà chẳng cần lo lắng gì nữa.
Nghe Tuân Úc nói vậy, nhiều kẻ gật đầu tán đồng, duy có Tiết Đễ vẫn chưa thật tin lắm, lẩm bẩm:
— Miễn cưỡng đánh lấy Cát Pha chỉ sợ được chả bõ mất, cất cử đại binh mà không thu được kết quả, khó tránh khỏi sẽ bị kích động. Kỳ thực Tiết Đễ nói cũng không sai, nếu bảo lấy Duyện Châu làm trung tâm, thì việc Tào Tháo xuất binh lần này rõ ràng sẽ chẳng mang lại kết quả gì; còn nếu thực sự lấy Duyện Châu làm trung tâm, việc bình dẹp giặc Khăn Vàng lại mang một ý nghĩa khác. Chỉ có điều bây giờ chưa phải lúc, ý đồ của Tào Tháo vẫn chưa thể để lộ, chỉ có thể che mắt được đám người phe Duyện Châu thôi.
Lúc ấy chợt một tràng cười từ bên ngoài vọng vào, giống như có hai người trẻ tuổi đang đùa giỡn nhau vậy, những thứ ấy thật chẳng ăn nhập gì với bầu không khí nghiêm túc mà tẻ nhạt bên trong đại trướng. Tào Tháo nhận ra là tiếng của Tào Ngang, lửa giận chợt bốc lên, bao nhiêu bực dọc
vốn dành cho Tiết Đễ liền đổ hết lên đầu con trai. Tào Tháo liền chạy ra ngoài lớn tiếng mắng mỏ:
— Kẻ nào to gan dường vậy, dám ồn ào náo loạn ngoài trướng trung quân?
Tháo vừa dứt lời bầu không khí lập tức trở nên yên ắng, Tào Ngang và con trai Tào Đức là Tào An Dân cúi đầu vội bước vào trong trướng, hai người còn chưa kịp cúi người hành lễ, Tào Tháo đã quát:
— Đi ra! Qua báo môn mới được vào!
Theo quy định trong quân, phàm tướng lĩnh cầu kiến phải do thị vệ trung quân thông báo, tướng lĩnh thân tín được phép trực tiếp ra vào, duy có tội tướng và tù binh mới phải tự báo thân phận. Tào Tháo lệnh cho con cháu phải qua báo môn mới được vào rõ ràng là muốn trừng phạt bọn chúng. Hai đứa nhỏ không dám trái lệnh, chỉ còn biết cúi gằm mặt quay lưng đi ra, khom người chắp tay đứng ngoài đại trướng tự báo danh tính.
— Mạt tướng Tào Ngang cầu kiến!
Tào Ngang đã dứt tiếng, nhưng Tào An Dân mãi vẫn không nói, ấp úng nửa ngày mới khẽ hắng giọng:
— Tiểu diệt Tào An Dân cầu kiến!
Trong quân sao tự nhiên lại nảy ra tiểu điệt chứ? Mọi người có mặt trong trướng muốn cười mà không dám cười, cắn răng ngậm miệng nhìn lên nóc trướng kiên nhẫn chờ đợi. Tào Tháo càng nghe càng bực, nhưng thực không biết làm thế nào, vì Tào An Dân không có quân chức gì, chỉ là theo gia quyến tới, báo môn thì cũng chỉ có thể nói như thế.
— Cho vào!
Bấy giờ hai người mới được vào trướng, nhưng thấy tình hình bên trong
căng thẳng, không dám chắp tay hành lễ, mà tự giác quỳ xuống. Tào Ngang mình mặc khôi giáp, tay ôm mũ đâu mâu, Tào An Dân chỉ vận áo vải, đầu đội mũ biện da.
Tào Tháo vỗ manh soái án:
— Trung quân là nơi trọng yếu, sao dám huyên náo ầm ĩ, lôi ra ngoài phạt đánh mỗi tên hai mươi roi.
Mọi người đâu dám không khuyên ngăn, nhưng chưa kịp mở miệng đã bị Tào Tháo chặn họng:
— Không ai được phép xin xỏ, ta nay phải chỉnh đốn lại quân kỷ mới được!
Dẫu sao Tào Ngang và Tào An Dân cũng là người thân, dù Tào Tháo nói là lôi ra đánh phạt, nhưng liệu có kẻ nào dám đắc tội? Chẳng ai tiến lên phía trước, đến cả Điển Vi cũng vờ như không nghe thấy. Tào Ngang là người nhân hậu, biết trước biết sau, không muốn làm khó người khác liền lập tức đứng dậy đi ra chịu hình phạt. Tào An Dân đột nhiên mở miệng:
— Tiểu diệt có việc muốn bẩm.
Tào Tháo không thèm liếc mắt:
— Nói!
— Tiểu diệt vốn không phải người trong quân, quân pháp không quản được. - Hắn vênh mặt, cười cười nhìn bá phụ.
Tào Tháo đang mang sẵn bực, vốn không định trị tội Tào An Dân, suy cho cùng Tào Đức cũng chỉ còn để lại cốt nhục này, giờ đánh hắn sẽ lại có lỗi với tiểu đệ đã mất. Nhưng là người ưa sĩ diện, Tào Tháo muốn đợi roi vung lên rồi mới xá tội cho điệt tử, nhưng Tào An Dân lại giảo biện, cả gan chọc giận Tào Tháo.
— Sao không quản được? Đã không phải là người trong quân, vậy ngươi không nên đến trước trướng trung quân này mới phải.
— Bá phụ, là bá phụ...
— Câm mồm! Trong quân không có bá phụ. - Tào Tháo lại đập mạnh soái án.
Tào An Dân giả bộ cố ý vả mình một cái rồi liền đổi giọng: — Tướng quân, thuộc hạ đâu muốn vào trướng, là tướng quân kêu thuộc hạ qua báo môn rồi vào trướng đấy chứ.
Tất cả mọi người có mặt nghe Tào An Dân mồm mép giảo biện như vậy càng không nhịn được. Tào Tháo phất tay:
— Ta gọi ngươi vào trướng vì ngươi làm ồn bên ngoài, đứng trước cửa trướng trung quân này cười đùa giỡn cợt cũng không được. Ai ngờ Tào An Dân vừa nghe xong lại kêu lớn:
— Tướng quân chấp pháp bất công.
Tào Tháo nổi giận:
— Càn rỡ xằng bậy, bất công chỗ nào?
Tào An Dân đáp:
— Tướng quân dẫn gia quyến vào trong quân doanh, bản thân việc ấy đã là phạm vào quân pháp, giờ nếu muốn trị tội thuộc hạ, tướng quân nói xem, việc này có công bằng hay không?
— Việc này... khua môi múa mép... - Câu này Tào Tháo đã cứng họng, - Ta nói điệt nhi ngươi...
— Trong quân không có điệt nhi. - Tào An Dân lại cắt ngang. Mọi người trong trướng sao nhịn nổi nữa? Hạ Hầu Uyên là người đầu tiên phì cười thành tiếng, Uyên vừa cười, bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân, Tào
Thuần, Nhậm Tuấn, Biện Bỉnh cũng đều bật cười theo. Tất cả phá lên cười, ngay tới bọn người ngoài cũng không kìm được, Trình Dục, Tiết Đễ, Mãn Sủng đều là người tính tình hướng ngoại, nên trong trướng nhất thời vang rộn tiếng cười, đến cả xưa nay tính cách thâm trầm như Tuân Úc cũng bất giác phải mỉm cười.
Tào Tháo thực sự rối bời, đúng là lúc này ông ta không thể suy nghĩ được gì khác, liền xua xua tay:
— Cút cút cút! Cút về hậu doanh, đợi khi họp bàn xong xuôi ta sẽ xử trí ngươi theo gia pháp!
Tào An Dân vẫn quỳ chưa chịu đứng dậy:
— Tướng quân chấp pháp bất công!
Tào Tháo mặt vụt đỏ rồi lại trắng bệch:
— Sao lại bất công nữa?
— Tiểu điệt đã bị gia pháp xử trí, Tử Tu huynh sao còn phải chịu phạt theo quân pháp?
Tào An Dân vừa nói dứt, cả bọn bất giác gật đầu liên tục: “Hóa ra hắn chỉ muốn giúp Tào Ngang thoát tội, tên tiểu tử này tình huynh đệ hữu ái kể cũng hiếm thấy”.
— Hắn mang chức trách trong quân. - Tào Tháo cũng chẳng thèm đếm xỉa tới, chẳng thèm để ý đến thân phận mà tranh biện với Tào An Dân. — Nhưng hắn ta là nhi tử của tướng quân, thuộc hạ lại là điệt tử của tướng quân, tướng quân không thể nhất bên trọng nhất bên khinh được. Nhược bằng xử trí như vậy, tiểu điệt sẽ cùng chịu roi với Tử Tu. — Được, thế thì cho cùng chịu roi!
Tào An Dân bắt đầu mếu máo:
— Nhưng tiểu điệt vốn không phải người trong quân, quân pháp không quản được.
Tào Tháo cứ nói theo phản xạ tự nhiên:
— Đã không phải người trong quân, thì không được vào trong trướng. — Tướng quân gọi thuộc hạ vào trong trướng.
— Trong trướng không được phép ầm ĩ.
— Tướng quân chấp pháp bất công.
— Ha ha ha... - Lần này mọi người trong trướng càng lúc càng cười lớn. Tào An Dân vòng vo một hồi lại quay về lúc đầu. Tào Tháo cũng chợt hiểu ra, cứ tranh luận thế này sẽ chẳng thể nào qua được đứa cháu này, nghĩ thế bất giác vui vẻ trở lại:
— Tên tiểu tử nhà ngươi học đâu ra cái trò ma mãnh ấy?
Tào An Dân lỗ mãng, tay chỉ ngay Biện Bỉnh:
— Thuộc hạ từ nhỏ học theo cữu cữu đây ạ.
Tào Tháo liếc mắt nhìn sang ông em vợ kia, lại miết miết lông mày nhìn đứa cháu:
— Càn rỡ, trong trướng không cho phép chỉ trỏ lung tung, cũng không cho phép được gọi cữu cữu.
— Tướng quân đã hỏi, thuộc hạ không đáp liệu có được không? - Tào An Dân luôn nói lý lẽ, - Nếu không đáp sẽ lại phạm vào quân pháp rồi. — Đi ra!
— Tướng quân còn chưa xá tội cho Tử Tu.
Tuân Úc thực không muốn xem cảnh ấy thêm nữa mới chen vào: — Bẩm tướng quân, tạm coi như chúng huynh đệ hiếu đễ hòa mục mà
tha cho chúng cũng được mà.
Quát tháo một hồi, Tào Tháo dường cũng bớt giận, trỏ Tào An Dân mà rằng:
— Coi như nể mặt Văn Nhược, coi như thôi... lần sau không được phép thế nữa!
Tào Ngang và Tào An Dân lễ tạ rồi đứng dậy, lúc này Tào Ngang mới dám nói:
— Khởi bẩm tướng quân, không phải vì bọn thuộc hạ vô cớ làm ầm, là do vừa rồi thuộc hạ và An Dân đem quân do thám doanh trại địch, mới phát hiện ra một chuyện lạ.
— Sao ngươi dám đem cả nó đi do thám? - Tào Tháo có vẻ không hài lòng, hai tiểu tử này cũng thật to gan. Chẳng may Tào An Dân bị kẻ địch làm cho bị thương thì Tào Tháo biết ăn nói thế nào với đệ đệ đã khuất.
— Là thuộc hạ muốn theo đi. - Tào An Dân vội đỡ lời thay huynh trưởng.
Tào Tháo chẳng thèm so đo với đứa cháu ăn nói lẻo mép đó nữa: — Ngươi không có quân chức gì, sau này không được... Vừa rồi rốt cuộc phát hiện được điều gì?
Tào Ngang vòng tay thưa:
— Mé tây Cát Pha có tòa doanh lũy rất lớn, nằm nơi địa thế xung yếu, bốn phía chất đầy đá tảng kiên cố, lớn hơn rất nhiều so với các lũy khác. Chúng thuộc hạ cho rằng đó là chỗ ở của Lưu Tịch nên tiến lại gần hơn chút để xem xét. Ai ngờ ở đó dựng cột cờ lớn, trên cờ có chữ “Hứa”, lại còn cả tráng đinh dũng sĩ địa phương canh gác trên lũy, mỗi khi có giặc Khăn Vàng đi qua, đám canh lũy ấy sẽ lấy đá ném xuống, xem chừng bọn chúng là địch.
Đồn trú nơi đó chắc chắn không phải giặc Khăn Vàng.
Tào An Dân nói thêm:
— Tòa lũy đá ấy nằm ven bờ chính tây Cát Pha, trong chu vi khoảng một dặm không thấy có bất cứ doanh trại nào khác, đây biết đâu là cơ hội cho ta. Những lời vừa rồi như liều thuốc lấy lại tinh thần cho tất cả binh tướng trong doanh.
— Nếu Khăn Vàng còn có kẻ địch ở đây nữa, vậy thì chúng ta có thể tranh thủ cùng họ phá giặc, huống hồ địa thế của tòa lũy này xung yếu, nếu có thể nhân đó đánh phá một chỗ để mở đường men theo vùng Cát Pha thì cục diện lập tức có thể xoay chuyển.
— Những lời ngươi nói có đúng không? - Tào Tháo tay vịn soái án đứng dậy.
— Quân cơ đại sự, tiểu điệt đâu dám nói dối bá phụ. - Tào An Dân lại lỡ miệng.
Lúc này Tào Tháo cũng không còn để ý việc trong quân có bá phụ hay không nữa, phấn chấn vòng qua soái án:
— Tử Tu, An Dân dẫn đường, điểm ba trăm quân kỵ hổ báo đưa ta đi xem.
— Tướng quân không thể dấn thân mạo hiểm. - Tuân Úc vội nhắc nhở. Năm xưa ở Thọ Trương, Tào Tháo cùng Bào Tín cưỡi ngựa tuần tra địa thế, bất ngờ bị Khăn Vàng đánh úp, Bào Tín bị tử chiến tại trận. Từ đó về sau, mọi người đều tránh để Tào Tháo một mình xuất binh ra khỏi doanh trại. — Không gì đáng ngại! - Tào Tháo xua tay, - Có lúc này lúc khác. Hiện giờ quân giặc phòng bị cẩn thận, cũng chưa thể tấn công ngay được, chuyến này đi có lẽ cũng không có trở ngại gì đâu.
Tào An Dân tiến lên trước, mắt chớp chớp nói:
— Tiểu điệt không có quân chức, không tiện đi theo.
Tào Tháo cốc nhẹ lên trán hắn:
— Tiểu tử ngươi được lắm, tạm giao ngươi giữ chức thư tá trong quân. — Tạ tướng quân! - Tào An Dân lập tức hết vẻ uể oải quỳ ngay xuống đất.
— Chớ dềnh dàng nữa, mau dẫn đường. - Tào Tháo cười ha hả nhìn khắp mọi người một lượt, lại dặn dò thêm, - Khi ta không có ở đây, hãy trông coi doanh trướng cẩn thận, không được lơ là khinh suất.
— Vâng. - Cả bọn đứng dậy lĩnh mệnh.
Tào Tháo ra đến cửa trướng, bỗng giơ tay vẫy gọi Hạ Hầu Đôn rồi ghé tai nói nhỏ:
— Ngươi hãy đề phòng tên tiểu tử Lưu Phục.
Ba trăm quân kỵ hổ báo lần này mà Tào Ngang lựa chọn có thể gọi là tinh binh trong đám tinh binh, khôi giáp sáng choang, ngựa khỏe thương dài, lại có Điển Vi giáp trụ nai nịt chỉnh tề hộ vệ phụ tử Tào Tháo chạy đến mé tây Cát Pha. Dẫu biết rõ quân địch sẽ cố thủ không ra, nhưng để đề phong quân Tào vẫn cẩn thận cuốn hết thảy tinh kỳ rồi đi vòng theo phía nam một vòng. Lúc đến gần tòa doanh lũy kỳ lạ đó mới thình lình quay lại, may thay gần đó có khu rừng bí mật, Tháo liền lệnh cho tất cả ẩn hết trong rừng quan sát từ xa.
Tòa lũy đá hình vuông bán kính chừng hơn nửa dặm, nằm chính giữa sườn núi mé tây Cát Pha, trong chu vi một dặm không hề có lũy đất nào khác của Khăn Vàng, chung quanh đều xây dựng bằng đá tảng, có một cổng hàng rào lớn, bên ngoài lại đặt một dải bình phong dùng để ngăn quân kỵ mã tấn
công. Tuy tường lũy cao thấp không đều nhau nhưng chỗ thấp nhất cũng cao đến một trượng năm thước, chắc hẳn chúng đã phải hao tổn không ít nhân lực mới xây lên được. Phía trên lũy đá lại có hàng rào cọc gỗ nhọn, cùng bọn tráng đinh dũng sĩ địa phương tay cầm đao lớn canh gác, ngay chính giữa là một cột cờ lớn, trên cờ lụa có viết chữ “Hứa” to ở trung tâm.
Tào Tháo đã nhìn thấy rõ, tựa hồ không phải quân doanh của giặc Khăn Vàng. Vừa định quay đầu nói gì đó với Tào Ngang thì bỗng nghe thấy tiếng ồn ào vọng lại, hình như giặc Khăn Vàng đã đến đánh phía bắc, có khoảng bốn năm mươi tên, chúng còn đẩy một chiếc xe to nhằm thẳng hướng tòa thành đá.
— Hình như chúng đang vận lương. - Tào An Dân chen vào. — Nếu là vận lương cho tòa lũy đá đó, vậy có nghĩa chúng là bè đảng. - Tào Tháo vẻ chán nản.
— Không phải thế chứ, rõ ràng hồi nãy mới thấy bọn chúng còn ném đá đuổi địch, sao giờ bọn giặc lại cung cấp lương thảo cho chúng được? - Tào An Dân khẽ lẩm bẩm.
Chỉ thấy đám giặc Khăn Vàng khi đến gần lũy đá rồi lại không dám tiến tiếp nữa, có lẽ là sợ lính canh trên lũy ném đá xuống. Rồi lại thấy mấy tên đó như ngẩng đầu kêu gào gì đó với bọn lính canh, nhưng vì khoảng cách quá xa bọn Tào Tháo cũng không nghe rõ, láng máng như muốn gọi ai đó ra. Kêu gào một lúc, đám giặc Khăn Vàng đều ngồi cả xuống.
Quan sát một lúc thấy chẳng có động tĩnh gì, Tào An Dân có vẻ bồn chồn:
— Tướng quân, bọn chúng ngồi cả xuống rồi. Nhân cơ hội mà cướp lương, rồi chém phắt mấy tên khốn đó đi.
Tào Tháo liếc sang Tào An Dân:
— Lợi nhỏ như con kiến thế có đáng gì? Ngươi không thấy đám lính canh thiếu mất một người sao? Chắc là đi bẩm báo với tên nào đó rồi. Trong lúc Tào Tháo và Tào An Dân hai người đang trò chuyện chợt nghe tiếng ken két vẳng tới. Tào Tháo chăm chú nhìn kỹ, bất giác giật mình: Cổng lớn của tòa lũy đá mở ra, hơn hai chục tráng đinh dũng sĩ lăm lăm gậy dài dạt hàng ra hai bên hình cánh nhạn, chính giữa có một tên cao to mặt mũi đen thui tướng mạo hung ác bước ra.
Tên này mình cao hơn tám thước, không đoán được tuổi tác bao nhiêu, vai rộng eo dày, chân tay to khỏe, mình khoác áo bào đen tuyền, dưới mặc quần cổn thắt đai, tiết trời gió xuân se lạnh nhưng hắn vẫn phanh áo ra, để lộ đám lông ngực rậm rạp trên tấm thân đen trũi, cơ bắp nổi cuồn cuộn, nom rất rắn khỏe, chắc như bàn thạch. Ngước nhìn lên trên, mặt đen trán lớn, tóc búi miệng rộng, mày rậm mũi cao, mắt lồi như sắp vọt khỏi tròng, nhãn cầu đảo liên hồi, tóc mai dài quá má. Từ xa trông hắn không khác gì một con quái vật đen sì.
Tên đó huỳnh huỵch đi ra, đám quân Khăn Vàng cũng chết khiếp, thảy đều cầm đao đứng dậy, lời qua tiếng lại với tên to cao đen sì ấy. Lại qua một hồi, chỉ thấy tên áo đen đó vẫy tay một cái, liền có người từ trong lũy đá dắt một con trâu béo múp đi ra.
— Nhi tử hiểu rổi. - Tào Ngang nói, - Bọn giặc kia muốn đổi lương thực lấy trâu.
Đúng như dự liệu, tên to cao đen sì ấy nói chuyện với đám quân Khăn Vàng hồi lâu, tựa hồ đang so kè ngã giá. Theo lý mà nói, một con trâu đổi lấy một xe lương thì cũng chẳng được lời lãi gì, vì xe lương ăn rồi cũng hết, nhưng trâu kéo cày bừa lại làm được ra lương ăn không hết. Nhưng bấy giờ binh mã loạn lạc cũng chẳng trồng cấy được gì, chỉ buộc trong doanh lũy thì
trâu cày cũng chẳng khác gì đồ bỏ đi, giết một con trâu cũng chẳng đủ cho nhiều người ăn bằng một xe lương, lại thêm thời tiết mà ấm lên thì thịt giết ra cũng không để được lâu, chi bằng đổi thành lương thực vẫn hơn. Điều này cũng dễ hiểu, chắc hẳn trong lũy tên mặc áo bào đen kia đã không còn mấy lương thực nữa rồi.
Một lát sau, có vẻ họ đã thương thảo xong xuôi, trâu được đánh về cho đám Khăn Vàng, xe lương được giao cả cho tên to cao đen thui, hai bên cười cợt hỉ hả, dường như còn nói với nhau đôi câu khách khí. Đám lính Khăn Vàng đánh trâu đi rồi, tên đen thui kia cũng gọi thủ hạ đẩy xe lương chầm chậm đi vào lũy.
Bất ngờ xuất hiện một việc khiến ai nấy đều kinh ngạc!
Tên áo choàng đen đột nhiên rảo bước, một mình đuổi theo đám lính Khăn Vàng đã đi xa. Bọn Tào Tháo đều kinh ngạc nhìn theo, không hiểu hắn muốn làm gì. Chỉ thấy tên áo choàng đen đó bước chạy như bay, chớp mắt đã bắt kịp rồi nhảy vào giữa đám Khăn Vàng tả xung hữu đột, bảy tám tên lập tức ngã gục. Hắn không đoạt mạng người, chỉ một tay vươn tới nắm lấy đuôi trâu, lôi xềnh xệch chạy quay về.
Con trâu đực đó dễ thường cũng phải trên ba bốn trăm cân, một khi bị kéo đuôi thì hung hăng bất thường, nhưng thật kỳ lạ khi ở trong tay tên áo choàng đen đó, con trâu cơ hồ mất hết sức lực, cứ để bị hắn kéo đi. Trâu bò là loài vốn kêu tiếng um um, nhưng lúc này nó đau đến nỗi chỉ còn biết rống thảm thiết, tiếng rống truyền xa, mở trừng trừng mắt, vục vặc cái đầu, bốn chân choãi ra ghì lại, nhưng vẫn bị tên kia xềnh xệch lôi đi.
Tên Khăn Vàng dắt trâu khi nãy lúc này đã sợ chết khiếp, quên cả buông tay. Dây thừng đang quấn trên tay bất giác bị kéo đi đến nỗi không thể bò lên nổi. Tên áo choàng đen kia trán đã nổi đầy gân xanh, luôn miệng hò hét tiếp
tục kéo đi, kéo cả con trâu đực và một người mà chạy hơn trăm bước, chớp mắt đã thấy tới cửa lũy. Đám quân Khăn Vàng thấy thế thì hồn phi phách tán, đứng ngây ra một lúc mới phản ứng trở lại, rồi vội vác đao đuổi theo. Nhưng bốn năm mươi tên Khăn Vàng này, làm gì có tên nào dám tiến sát đến tên to cao, chỉ huơ huơ đao múa máy lung tung, cứ tiến ba bước lại lùi hai bước mà mắng chửi. Tên áo choàng đen vẫn cứ kéo trâu đi rồi quay mặt lại, trợn trừng cặp mắt như hai quả chuông, quát bảo:
— Đứa nào không sợ chết thì qua đây!
Giọng hắn sang sảng như sấm dậy, khiến đám Khăn Vàng nghe đoạn đều lũ lượt lùi lại, đến cả Tào quân trong rừng còn nghe rõ mồn một. Cha con Tào Tháo rất đỗi kinh ngạc, nấp trong rừng mà không ai nói với nhau câu nào. Mãi tới khi nghe thấy tên áo choàng đen quát lớn, bấy giờ mới định thần quay lại, phụ tử đưa mắt nhìn nhau. “Đó là khẩu âm huyện Tiều quê chúng ta rồi!” Nói đoạn lại ngẩng đầu lên nhìn chữ “Hứa” trên cờ, Tào Tháo lờ mờ nghĩ tới điều gì đó.
Giờ đây cảnh tượng đã trở nên náo nhiệt, cùng với tiếng hét của tên to cao, một đám lâu la đằng đằng sát khí từ trong lũy đá xông ra, trong tay lăm lăm gậy gộc đao kiếm. Đám giặc Khăn Vàng thấy tình thế bất lợi, cũng chẳng thèm để ý đến đồng bọn dắt trâu nữa, co cẳng bỏ chạy, nhiều tên còn chẳng kịp nhặt đao. Đã chẳng được trâu, cuối cùng lại biếu không người ta cả xe lương, còn phải cáng một tên về, vụ trao đổi này coi như bọn chúng lỗ lớn! Đáng thương nhất là kẻ dắt trâu kia, bị kéo lê tới mức quần áo rách hết, mặt mũi lấm lem, máu me be bét, dở sống dở chết, đã thế còn bị bọn tráng đinh trói chặt áp giải vào trong lũy.
Tận mắt chứng kiến đám người trong lũy cúi người nhặt binh khí, Tào Tháo cười mỉm quay sang nói với Điển Vi đang đứng bên cạnh:
— Trước đây ta cũng từng nghe nói đến việc dắt ngược trâu đực, hôm nay coi như được mở mắt rồi, thật là sức mạnh vô song.
Điển Vi cúi khuôn mặt to béo xuống:
— Hừm! Cái gì mà sức mạnh vô song chứ, thuộc hạ cũng có bản lĩnh ấy! Tào An Dân vừa nghe thấy thế liền phấn chấn:
— Điển huynh, huynh có dám giao đấu cùng hắn ta không? — Có gì mà không dám? - Điển Vi nhếch miệng, - Ta có mang theo đại kích đây!
— Vậy huynh đi nhé! - Tào An Dân muốn khích lệ Điển Vi đi. — Ta với hắn không thù chẳng oán, vậy tỉ thí kiểu gì đây? — Thử xem sức ai mạnh hơn thôi.
— Thế thì tỉ thí làm gì? - Điển Vi tỏ vẻ hờ hững.
Tào An Dân xua tay:
— À... huynh sợ rồi chứ gì, không dám nữa phải không?
— Được, ta đi.
— Đệ thấy huynh không dám đi đâu. - Tào An Dân liếc ánh mắt vẻ coi thường nhìn Điển Vi, - Không dám đi thì thôi vậy!
— Ta dám! - Điển Vi thấy An Dân khinh thường mình, bất giác không nén nổi giận.
Tào Ngang thấy An Dân đang cố ý chọc ghẹo, định tìm cách kìm hắn bớt gây rối. Ngờ đâu Tào Tháo lại cầm ngang ngọn roi ý chặn lại, dường có ý dung túng để mặc cháu mình khích tướng. Điển Vi vốn tầm nhìn hạn hẹp suy nghĩ nông cạn, Tào An Dân lại miệng lưỡi dẻo quẹo, hót hay hơn cả họa mi, nói đôi ba câu đã chọc Điển Vi tức giận. Thế rồi chẳng bận tâm xem Tào Tháo có truyền lệnh hay không, Điển Vi liền đứng vụt dậy cầm cây đại kích
nặng tám mươi cân xông ra.
Tào An Dân vui sướng nhảy dựng lên:
— Chuẩn bị xem trò hay nào! Hai tay này sức khỏe ngang nhau, Tử Tu, huynh đoán xem ai thắng?
Tào Ngang chợt giận:
— Việc này mà đệ cũng đem ra giỡn được sao? Là mạng người chứ chả chơi đâu...
Tào Tháo lại chẳng tỏ vẻ vội vã, vẫn thong thả như thường: — Con trai, không cần quá lo lắng như thế, tên to cao kia cũng chỉ là kẻ thất phu, cùng lắm chỉ là một đấu một thôi, không phương hại đến ai đâu. Điển Vi rảo bước chạy về trước, cơ thể nặng nề, lại thêm khí giới trong tay nặng tới tám chục cân, mỗi bước chân chạy, đất lại lún như hố sâu. Thấy tên áo choàng đen như đã muốn về trại, Vi mới giật giọng: — Đứng im! Ngươi quay lại đây cho ta!
Giọng quát thật lớn, chợt khiến cả đám quân binh trong lũy cũng rúng động quay đầu lại nhìn, đến cả gã áo choàng đen kia cũng giật mình. Thấy Điển Vi mình cao chín thước, còn cao hơn cả mình hẳn nửa cái đầu! Mình mặc thiết giáp, đầu đội mũ ngù, tay cầm đôi đại kích ngoại cỡ; mặt xanh không ra xanh vàng chẳng ra vàng, mắt to, mũi sư tử, miệng củ ấu, đầu to hệt như quả bí đao. Cặp khí giới trong tay hắn trông thật chướng mắt, gã áo choàng đen từng thấy đoản kích nhiều rồi, nhưng chưa bao giờ thấy cây đại kích thô và to đến vậy.
— Ngươi, ngươi... định làm cái gì? - Tên đen thui cũng ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì.
— Chúng ta tỉ thí xem ai lợi hại hơn!
— Ta đâu quen ngươi! Tỉ thí cái gì? - Tên đen thui kia nhìn qua là biết Điển Vi không phải bọn Khăn Vàng, nhưng chưa biết gã này nảy nòi ở đâu ra.
— Dù không quen biết cũng phải tỉ thí, chẳng phải ngươi vừa kéo một con trâu về sao, như thế thì có đáng gì chứ? Có bản lĩnh thì hãy thắng đôi kích này của ta. - Điển Vi cũng thật mạnh miệng, - Nếu không tỉ thí thì cuốn xéo đồ chết tiệt nhà ngươi đi!
Cả bọn thầm nhủ: “Gã này điên rồi sao!” Rồi ai nấy lăm lăm đao thương chuẩn bị động thủ. Tên đen thui giơ tay ngăn bọn thủ hạ lại, cười giọng quái dị nói rằng:
— Tỉ thí thì tỉ thí! Cho rằng ta sợ ngươi sao... Mang khí giới lại đây cho ta!
Quả đúng như Tào Tháo dự liệu, đó cũng là tên vô lại.
Gã đen thui nói đoạn cầm ngay cây thương sắt mà hai tên lâu la vừa khiêng ra. Cây thương được rèn bằng sắt nguyên chất, nặng đến mức hai người khiêng phải loạng choạng; đầu thương không nhọn mà trông như cây xà beng lớn có treo tua đen. Tào Tháo biết rất rõ loại binh khí này, nó có tên là hổ đầu bá vương mâu, vì sử dụng được nó sẽ phải mất rất nhiều sức, tương truyền kể từ sau Vân Đài đại tướng Diêu Kỳ dưới trướng Quang Vũ đế thì hầu như không có ai dùng nữa.
Tên đen thui kia vươn tay ra nắm lấy cây thương, hai tay nâng thương trông nhẹ như nâng lông hồng vậy, rồi quát lớn mà rằng:
— Tên béo trắng kia, ngươi nói xem đánh thế nào?
Điển Vi chẳng nói chẳng rằng giương cao đại kích, lập tức bổ tới: — Tên đen thui kia, hãy tiếp chiêu!
Chỉ thấy nghe choang một tiếng, song kích đã đập mạnh xuống cây thương lớn khiến tên đen thui rung người lui lại mấy bước, nếu phía sau không có người đỡ nhất định là đã ngã ngửa ra sau rồi.
— Thật lợi hại... - Tên đen thui đã đứng vững trở lại, nắm chặn cán thương, - Hãy nhìn thương của ta đây!
Lối đánh này rất lạ, chưa động thủ đã bảo người ta nhìn thương. Nói là nhìn thương nhưng hắn lại không hề đâm mà nhảy về trước hai bước rồi giơ thương lên cao mà giáng xuống. Hóa ra người này cũng có bản lĩnh như Hạng Vũ năm xưa, kiểu Bá Vương quăng thương, khí thế như chém đinh chặt sắt mà tới! Điển Vi thấy vậy vội giơ kích lên đỡ. Rồi lại nghe rầm một tiếng, thương đã chạm kích, nhưng Điển Vi đã đứng không vững, một chân quỵ ngay xuống đất. Điển Vi mình mang giáp nặng, bước đi nặng nề coi như có chút thua thiệt. Vứt cây đại kích bên tay trái, Vi chỉ cầm một cây đấu với tên đen thui kia.
Bên này quăng thương, bên kia giáng kích, coi như hai bên ngang tài cân sức, thi đấu bất phân thắng bại. Không chỉ Tào quân ẩn nấp trong rừng để xem, kể cả bọn binh lính đứng ngoài cũng đều ngây ngươi, mới đầu còn mồm miệng há hốc kinh ngạc, sau rồi không ai nhịn được cười nữa. Đây đâu phải hai người đang đánh nhau, mà là sắt đánh thép thì đúng hơn.
Hai bên đánh qua đánh lại hơn hai chục hiệp, cuối cùng ai cũng mệt bở hơi tai, buông hết khí giới ngồi thở hổn hển, tên nào tên nấy trừng mắt nhìn nhau. Bỗng đâu nghe tiếng lục lạc ngựa kêu vang, Tào Tháo một người một ngựa tiến vào giữa trận, tay chỉ tên đen thui mà hỏi lớn:
— Có phải Hứa Trọng Khang, Hứa Chử người huyện Tiều đất Bái đó không?
— Hả? - Tên đen thui kia giật mình giọng bớt ngang tàng, - Tại sao ngài
biết danh tính của ta? Nghe giọng... ngài cũng là người huyện Tiều? — Ha ha ha... - Tào Tháo vô cùng mừng rỡ, vội vàng chắp tay nói, - Hứa tráng sĩ, ta là kẻ quê mùa Tào Mạnh Đức, hiện đang giữ chức Duyện Châu mục, lĩnh binh tới đây dẹp loạn.
Choang một tiếng, cây thương sắt trong tay Hứa Chử rơi xuống đất. Hắn đứng ngây ra một lúc, rồi bỗng ngửa mặt lên trời mà khóc. Ngay sau hắn, bọn lâu la khi trước còn hùng hùng hổ hổ bấy giờ cũng sụp cả xuống khóc lóc như mưa...
Bình định Dự Châu
Hứa Chử, tự Trọng Khang, sinh ở huyện Tiều đất Bái là đồng hương với Tào Tháo. Từ nhỏ đã nổi tiếng có sức vóc hơn người, hành hiệp trượng nghĩa, thấy chuyện bất bình không bao giờ bỏ qua và cũng được coi là nhân vật có tiếng ở đất ấy. Chỉ vì Hứa gia không thuộc dòng dõi quan lại, nên cách biệt trời vực với địa vị Tào gia, lại thêm Hứa Chử nhỏ hơn Tào Tháo tới mười tuổi, cho nên hắn mới chỉ được nghe danh mà chưa từng có cơ hội gặp mặt Tào Tháo.
Những năm Sơ Bình, thiên hạ đại loạn, quân Tây kinh cướp bóc Dự Châu, Hứa Chử mới đem hơn ngàn người đất Bái lưu lạc đến Nhữ Nam, xây thành đắp lũy men theo bờ Cát Pha, mượn nơi tránh chiến loạn. Sau khi quân Tây kinh rút vào quan nội, giặc Khăn Vàng ở Dự Châu lại nổi lên, lũ lượt kéo về đất cũ Cát Pha mà đồn trú. Vì quân số chênh lệch quá lớn, Hứa Chử chỉ còn cách để mặc bọn chúng xây đắp lũy phân chia ruộng. Còn nếu quân Khăn Vàng cả gan tấn công thành lũy, Hứa Chử sẽ lập tức dẫn quân đánh trả. Hứa Chử vốn hung hãn hơn người, những kẻ hắn dẫn theo đều là dũng sĩ
tráng đinh của huyện Tiều, bởi vậy mới tạo nên cục diện cứ giằng co lâu dài như thế.
Hứa Chử thống lĩnh mọi người trong làng bảo vệ tòa thành lũy này cũng đã hơn ba năm trời, cứ đánh rồi lại hòa, hòa rồi lại đánh với giặc Khăn Vàng. Vì tin tức không thông suốt, nên bên ngoài đã xảy ra những chuyện gì hắn hoàn toàn không biết, thấy lương thực sắp hết, Chử cũng chẳng dám mong có người đến cứu. Nay biết được Tào Tháo tới đây dẹp loạn, sao không khóc cho được?
Tào Ngang và Tào An Dân cũng chạy lại, thấy cảnh tượng khóc lóc thảm thương, đang ngơ ngác không biết thế nào. Tào Tháo liền hiểu ra, quay đầu lại nói:
— Hai ngươi dẫn quân quay về doanh.
— Tướng quân...
— Ta đến doanh trại của Trọng Khang bàn kế phá địch, mọi việc trong quân chiểu theo quy củ mà làm! - Khi Tào Tháo không ở trong quân, Hạ Hầu Đôn sẽ tạm làm thống soái, đây chính là quy định của Tào doanh. Tào An Dân có vẻ không an tâm lắm:
— Bá phụ, kỳ thực điệt nhi cũng chưa tin tưởng vị Hứa tráng sĩ này lắm, nếu chẳng may giặc Khăn Vàng bất ngờ kéo tới bao vây lũy này, vậy bá phụ...
Hứa Chử lau vội nước mắt, thở phì phà phì phò lập tức cắt ngang lời của An Dân:
— Thế thì sao chứ? Ba năm trời bọn chúng không đánh lại nổi chúng ta, nay chỉ trong một đêm mà hạ được ta sao? Cẩn thận không ta cho ngươi một thương bây giờ.
Tào An Dân lè lưỡi không dám nói gì nữa. Trong khi đó Điển Vi lại hằm hằm:
— Tên đen thui kia, ta cũng chưa tin ngươi ngay được, ta phải ở lại bảo vệ tướng quân.
— Nếu không yên tâm thì ở lại hết đi. - Hứa Chử phùng mang trợn mắt. Tào Tháo chìa bàn tay:
— Thiếu An chớ nóng, nơi này vẫn trong tầm quan sát của do thám giặc Khăn Vàng, nếu ở lại hết sẽ khó tránh khỏi quân cơ bại lộ, nay ta đã có kế sách phá địch.
Mọi người đều yên lặng trở lại, dõi mắt thăm dò bốn phía, quả nhiên quân Khăn Vàng vẫn như ẩn như hiện phía xa.
— Trọng Khang, phiền ngươi trói ta giải về doanh trại. - Tháo nhỏ giọng. — Gì cơ?
— Chỉ là giả bộ để quân do thám Khăn Vàng được tận mắt chứng kiến thôi. - Rồi Tháo quay lại dặn dò Điển Vi, - Ngươi thấy hắn bắt trói ta thì lập tức truy đuổi phía sau, theo sát vào tận doanh trại.
— Rõ. - Điển Vi tuy không phục nhưng vẫn vâng mệnh.
— Tử Tu, An Dân, hai ngươi vờ tấn công một trận rồi lập tức rút lui, quay về doanh trại bảo Nguyên Nhượng yên tâm bảo vệ doanh trại, đợi tin tức bên này.
— Vâng. - Cả hai cùng lĩnh mệnh.
Tào Tháo thở phào một hơi rồi quay sang nói với Hứa Chữ: — Bắt trói ta, phải làm như thật đấy.
Hứa Chử đáp lại một câu:
— Đắc tội! - Đoạn cố ý hô lớn, hành động mau lẹ, một tay Chử túm chặt
bên hông, còn tay kia luồn ngang lưng Tào Tháo. Ngón tay hắn như năm móc câu sắt, vụt chốc đã nhấc bổng Tào Tháo khiêng lên trên vai. — Tướng quân bị bắt rồi! - Tào An Dân hốt hoảng la lớn.
Hứa Chử vừa đặt Tào Tháo lên vai đã tức tốc chạy đi, theo đó Điển Vi nâng cao đại kích đuổi kíp phía sau. Đám hương dũng trong doanh Hứa Chử nhất loạt xông lên chặn đứng binh mã huynh đệ Tào Ngang, vờ giằng co một hồi. Chỉ đợi ba người vào được cửa trại là bọn hương dũng cũng vừa đánh vừa lui, huynh đệ Tào gia liền dẫn quân đuổi đánh sát đến tận cửa doanh, khiến đám lính canh lũy chẳng hiểu đang xảy ra chuyện quái quý gì nữa! Cứ thấy có kẻ đến tấn công lũy, bọn chúng lập tức ném đá xuống, lần này không còn là giả bộ như thật nữa mà đúng là thật, quân Tào xém chút nữa bị đá choảng cho người nghiêng ngựa đổ. Huynh đệ Tào Ngang cứ đứng dưới lũy mà hô:
— Tướng quân bị bắt rồi! Mau về doanh xin cứu viện! - Rồi nhanh chóng rút lui.
Tào Tháo bị Hứa Chử khiêng vào trong lũy, khiến người ngợm sưng đau hết cả, tuy là giả bộ nhưng sức lực của Hứa Chử cũng thật mạnh mẽ. Vào lũy rồi hắn mới cẩn thận đỡ Tào Tháo xuống, kêu bọn người quỳ cả xuống đất nhất loạt hô lớn:
— Thảo dân bái kiến Tào sứ quân.
Tháo vừa nghe tiếng hô, tim liền đập loạn, đều là giọng quê nhà! — Mau mau đứng dậy, chư vị hương thân đã chịu khổ nhiều rồi. - Tháo đỡ người bên cạnh đứng dậy.
Hứa Chử đứng dậy rồi tự giới thiệu, trong doanh lớn bé già trẻ nam nữ đủ cả, ngay cả tộc trưởng của mấy gia tộc trong huyện Tiều cũng có mặt, Tào Tháo trông thấy mặt mấy vị cũng thấy quen quen. Mọi người ở đây hoặc
sống trong hang đá, hoặc trong lều cỏ, hoặc trong lều bạt, kiểu gì cũng có, rồi lại thêm đủ mọi tầng lớp: nông phu cũng có, kẻ đọc sách cũng có, thậm chí cả quan lại nhỏ và tam lão[147], thực rất giống một huyện Tiều tạm thời vậy. Lúc này hương thân phụ lão như trăm ngôi sao hướng về một mặt trăng cùng mời Tào Tháo vào trong trướng.
Bên trong đại trướng cũng không khác bình thường là mấy, phía ngoài dựng một cây cờ lớn, trước cửa có mấy viên “chiến tướng” đón tiếp, có người thì mặc khôi giáp, có người lại chỉ mặc khôi mà không có giáp, có người lại chẳng có khôi cũng chẳng có giáp, nhìn thoáng là biết khôi giáp đều là cướp về được. Hứa Chử giới thiệu một loạt, trong đó có huynh trưởng của hắn là Hứa Định, lại còn một bọn tiểu tướng Đoàn Chiêu, Nhậm Phúc, Lưu Đại[148], Lưu Nhược, hầu hết tuổi tác trên dưới hai mươi tràn trề nhiệt huyết. Do thời gian bị khốn quá dài, nên vừa thấy Tào Tháo mới kích động đến vậy, hàn huyên khóc lóc hồi lâu mới đi vào việc chính được.
— Khiến sứ quân chê cười rồi. - Hứa Chử buồn bã mà rằng, - Cũng là bọn tại hạ bất tài, không đánh lui được bọn giặc, khổ sở cố thủ ở đây hơn ba năm trời, lương thực ăn cũng sắp cạn rồi.
— Các ngươi chỉ có hơn ngàn người, vả lại không phải ai cũng có tài cầm quân, giữ được vững vàng đã là không đơn giản rồi. - Tào Tháo nắm chặt tay hắn an ủi.
— Vừa rồi tướng quân nói đã có kế sách phá địch, nếu không ngại ngài hãy nói xem.
— Trước đây ta có một đồng liêu, chính là Hạ quân hiệu úy Bào Hồng ở Tây Viên. Trong những năm loạn lạc ông ta cũng từng phá Khăn Vàng ở Cát Pha. - Tào Tháo say sưa kể lể, - Ban đầu trong tay ông ấy chỉ có hai ngàn quân Tây Viên, rồi hợp với chưa đầy ngàn binh lính của quận nữa, trong khi
đối phương có đến mấy vạn. Khi ấy giặc Khăn Vàng cũng men theo bờ hồ mà hạ trại, toàn bộ lương thảo đều để cả trên đảo. Bào Hồng nhân đêm đánh úp, đốt cháy hết thảy thuyền bè của quân Khăn Vàng, kẻ địch không đủ lương thực, nhất thời quân tâm rối loạn, chỉ mất nửa ngày, toàn bộ đại quân Khăn Vàng đã bị ông ấy dẹp tan.
— Bào tướng quân quả là dũng tướng! - Hứa Chử tán thưởng mãi không thôi.
— Đúng thực là dũng tướng, tiếc rằng thắng giặc về triều liền bị hoạn quan Kiển Thạc hại chết... Ông ấy còn ba tiểu đệ nữa, sau đó cũng đều xả thân vì nước... - Nhớ tới huynh đệ Bào gia, Tào Tháo không nén được thương cảm, thở dài rồi lại nói tiếp, - Cũng nhờ bài học bữa đó, lần này Viên Thuật xúi giặc Khăn Vàng quay về Cát Pha nên bọn chúng mới men dọc theo hồ mà xây đắp rất nhiều doanh lũy, cố thủ vững chắc. Hiện giờ bọn Lưu Tịch không còn được như năm đó nữa, mà binh mã của ta lại mạnh hơn Bào Hồng. Sở dĩ ta chưa thắng được vì chúng dựa vào địa thế hiểm trở mà giữ vững, lại có đường lương thực đủ đầy chắc chắn. Lưu Tịch là muốn bức ta thoái lui, để ngày sau hắn tìm cơ hội đứng chân từ Đông Sơn.
— Vậy việc hôm nay chúng ta nên tính toán thế nào?
Tào Tháo vỗ vai Hứa Chử:
— Ngươi biết Lưu Tịch có bao nhiêu thuyền không?
Hứa Chử lẩm bẩm:
— Tên tiểu tử Lưu Tịch này vô cùng xảo quyệt, đề phòng có kẻ cướp đoạt lương thảo, hắn chỉ dự phòng hơn hai chục thuyền, số thuyền còn lại đều neo đậu hết bên đảo, khi không cần vận lương hắn sẽ không đưa tới.
— Đúng như ta dự đoán. - Tào Tháo cười khà khà, - Trọng Khang, ngươi hãy phái người báo cho Lưu Tịch biết rằng Tào Tháo ta đã bị bắt, nếu hắn
chịu chuyển hai chục thuyền lương thảo đến đổi người, thì hãy giao ta cho hắn.
— Cái gì?! - Hứa Chử vẫn chưa hiểu.
Tào Tháo thấy Hứa Chử còn ngỡ ngàng mới giải thích rằng: — Từ ở Dĩnh Xuyên, Lưu Tịch đã liên tục bị ta xua đuổi, hắn vô cùng căm hận ta, nhất định sẽ lấy lương thảo ra đổi người. Ngươi và hắn hẹn nhau canh ba đêm mai sẽ trao đổi, rồi bảo thuyền của hắn vòng ra phía sau trại của ngươi, đến lúc đó chúng ta bất ngờ tập kích, cướp đoạt thuyền bè, cắt đường lương thảo của chúng! Nhân đêm đánh úp, trận Cát Pha này có thể phá được! — Tuyệt quá! - Bọn Hứa Chử vừa nghe thấy kế hay ai nấy đều phần chấn.
Đúng lúc ấy một hương dũng tới bẩm báo, có một đội binh mã rất đông đang đóng trại ở phía tây, binh sĩ tới hơn vạn tên, khí thế hung hăng, đang thẳng tiến đến doanh ta. Mọi người chợt hoảng hốt, Tào Tháo cười nói:
— Chớ vội, là đại quân của ta tới đó... Điển Vi, đêm nay ngươi lén qua doanh bên đó, báo cho chúng biết kế sách của ta, canh ba đêm mai sẽ cùng nhau xuất binh.
Điển Vi lắc lắc đầu:
— Thuộc hạ phải ở đây bảo vệ tướng quân, thuộc hạ vẫn chưa yên tâm về gã đen thui kia.
— Ngươi lo cho ta, ta mới phải lo cho ngươi đấy! - Hứa Chử quay đầu lại dặn dò, - Đoàn Chiêu, Nhậm Phúc, đêm nay hai ngươi qua doanh trại bên kia, để tên béo kia đỡ phải nghi ngờ.
Tào Tháo chợt thấy buồn cười, hai tên Điển Vi, Hứa Chử này cứ như một cặp, nếu để chúng theo bên cạnh có vẻ còn khá hơn cả bọn Lâu Dị,
Vương Tất ngày trước.
Kế này quả nhiên hữu hiệu, quân do thám của giặc Khăn Vàng đã tận mắt chứng kiến Tào Tháo “bị bắt”, lại thêm Lưu Tịch nhận được tin từ Hứa Chử nên không hề nghi ngờ gì. Nếu giết được tên Tào Tháo này, đại quân Duyện Châu sẽ chẳng khác nào rắn mất đầu, tình trạng nguy khốn của Khăn Vàng tại Cát Pha cũng coi như được cởi bỏ. Nghĩ thế Lưu Tịch lập tức đồng ý, có điều hắn cũng là người có tâm cơ, tuy là chuẩn bị hơn hai chục thuyền nhưng phía dưới đáy thuyền sẽ đệm cỏ khô bọc diêm sinh, chỉ phủ ít lương thực trên mặt mà thôi. Hắn tính mượn tiếng chở lương để đột nhập vào doanh Hứa Chử sau đó sẽ phóng hỏa, nhân tiện tóm gọn Hứa Chử - kẻ đã ba năm nay đánh nhau mà bất phân thắng bại, rồi giết hắn đi.
Cả hai bên đều ủ sẵn tâm kế, bên nào bên nấy chuẩn bị riết đến đúng canh ba đêm hôm sau. Hai chục chiếc thuyền con đèn đuốc sáng rực áp vào bờ tây Cát Pha, Lưu Tịch cưỡi ngựa dẫn năm trăm binh đinh đợi từ rất sớm. Không lâu sau, Hứa Chử theo đúng giờ hẹn xuất trại giải người tới, cũng chỉ dẫn theo đúng trăm tráng đinh đi cùng.
Trong mấy lần giao tranh, Lưu Tịch chỉ mơ mơ hồ hồ thấy được Tào Tháo chứ chưa thực sự biết diện mạo Tào Tháo. Lúc này đây nhờ ánh đuốc chiếu sáng, Tịch thấy Hứa Chử đích thân lôi một tên tù binh tới. Có vẻ tên này đã bị tước mất khôi giáp, còn bị đánh đến khắp người loang lổ, mặt mũi máu me bê bết, còn bị bịt miệng nữa, người không cao lắm, râu ngắn, mắt to... có điều không biết liệu đây có thật là Tào Tháo không?
Hứa Chử lớn giọng kêu:
— Đám giặc các ngươi xem đủ rồi đó, tên này chính là Tào Tháo, hãy mau đưa lương thực cho bọn ta!
Lưu Tịch cũng khá giảo hoạt, sợ Hứa Chử đột nhiên tập kích, vội thúc
ngựa đến đứng sau bọn binh đinh. Hắn thầm muốn giết cả Tào Tháo và Hứa Chử, nhưng lại nể sợ bởi Hứa Chử dũng mãnh hơn người, nên chỉ quay đầu sang dõng dạc đáp rằng:
— Chử nghĩa sĩ, ngài thực sự đã áp giải Tào Man tới rồi sao? Ta đã đúng hẹn thực hiện, cho người đem lương tới trại... Nhưng ngài và Tào Tháo phải cùng lưu lại, đợi vận lương xong mới được rời đi. - Hắn muốn vừa dùng binh mã vây khốn, vừa tranh thủ cơ hội mở được cửa doanh, chỉ cần vào được bên trong liền phóng hỏa đốt diêm sinh cho cháy.
— Không được! - Hứa Chử khoát tay, - Đám các ngươi động tay vào ta không yên tâm, phải bảo người của ta tự tay bốc xếp!
Không đợi Lưu Tịch đồng ý Chử liền phân phó thủ hạ lên thuyền bốc lương thực xuống, mỗi thuyền hắn cắt cử năm người.
Lưu Tịch suýt nữa bật cười thành tiếng. Tên Hứa Chử này thật ngu ngốc, nếu toàn bộ thủ hạ đều xuống thuyền ôm cỏ khô, ta hạ lệnh xuất quân chẳng phải các ngươi sẽ chẳng còn cơ hội đánh lại ư? Nghĩ đến đấy, hắn không nói nữa, tay nắm chặt chuôi kiếm, chỉ đợi bọn tráng đinh ôm đồ xuống thuyền liền lập tức truyền lệnh giết.
Ai ngờ trong bóng tối mờ mịt, đột nhiên có tên tráng đinh lớn tiếng: — Hứa đại ca, bao lương này nặng quá, chúng tôi bốc không nổi đâu! Hứa Chử mắng lớn:
— Đồ bỏ đi, không biết hai đứa bốc một sao?
Tên đó lại giảo biện:
— Cứ động một chút lại mắng chúng tôi là đồ bỏ đi, không lẽ chỉ có Hứa Trọng Khang huynh là có bản lĩnh?
— Khốn kiếp ngươi! Còn dám cãi lại ta hả, để xem ta có dám chém
ngươi không. - Hứa Chử nộ khí xung thiên, đột nhiên hét rằng, - Lưu Tịch, Tào Tháo giao cho ngươi trước đã, đợi ta xử lý hai tên tiểu tử hỗn xược này rồi lại tính sổ với ngươi.
Trời tối mịt mù, Lưu Tịch chỉ kịp nhận thấy có một vật đen lù lù bay tới. Đám giặc Khăn Vàng chợt kinh hãi, chúng thấy rõ, Hứa Chử quăng “Tào Tháo” tới! Lưu Tịch không thể nào ngờ được người sống lại có thể bay được giữa không trung nên lập tức bị “Tào Tháo” đụng phải khiến người ngựa ngã lăn quay, giặc Khăn Vàng hốt hoảng xúm lại đỡ Tịch dậy.
Đúng lúc ấy, chỉ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, hai chục tên lái thuyền đều bị người của Hứa Chử chém văng xuống hồ. Quân Khăn Vàng còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã thấy sào chống đâm loạn, tất cả thuyền thảy đều rời bờ. Lưu Tịch lồm cồm bò dậy quát rằng:
— Hứa Chử! Ngươi muốn làm gì?
Đêm tối mịt mù nhìn không rõ, chỉ nghe thấy tiếng Hứa Chử từ phía hồ vọng lại:
— Tên họ Lưu kia, thuyền vận lương của ngươi thuộc về ta rồi! Lưu Tịch giậm chân bình bịch tức giận mắng chửi:
— Tên khốn kiếp nhà ngươi quay lại đây, xem ta san bằng trại của ngươi!
Hứa Chử hình như đã chạy xa, tiếng nói chỉ theo sóng nước đưa tới: — Không hơi đâu để mắt tới ngươi, ta phải ra đảo đốt lương thực của ngươi...
Lưu Tịch sởn cả tóc gáy, nhưng không có thuyền bè, giờ muốn cứu cũng không cứu được nữa rồi. Bất ngờ lại có quân binh chạy tới: — Bẩm báo tướng quân, Tào Tháo là giả... là quân ta hôm trước dắt trâu
bị bắt, vừa rồi bị quăng thế, bà nó chứ, đã tắt thở rồi.
Lưu Tịch không hổ là tay giảo hoạt nhiều năm đánh du kích, lập tức hiểu ra Hứa Chử đã đầu quân theo Tào Tháo. Hắn ngẩng đầu lên nhìn ra mặt hồ đen kịt, một lát nữa thôi chỉ cần Hứa Chử phóng hỏa, tất thảy doanh lũy lớn nhỏ men bờ này sẽ rối loạn, cục diện sẽ không thể khống chế được nữa. Nghĩ đến đó, hắn khẽ lẩm bẩm:
— Cát Pha xong rồi... chúng ta mau trốn thôi!
— Trốn?! - Tên thân binh ngạc nhiên, - Những người khác thì sao? — Không quản được chúng nữa đâu, nếu không chạy, thảy coi như đi đời hết. Chúng ta xuống phía nam đầu quân theo Viên Thuật vậy... - Lưu Tịch nghiến ráng nghiến lợi, - Tào Mạnh Đức, hãy chờ xem, sau này ta sẽ tính sổ với ngươi!
Để tránh bị quân Tào truy sát, Lưu Tịch chỉ đem theo năm trăm người đào thoát khỏi Cát Pha. Tịch đi chưa lâu, đảo giữa hồ bỗng nhiên cháy lớn. Trong đêm tối mênh mang, ánh lửa sáng rực cả một vùng trời, doanh lũy các nơi của quân Khăn Vàng khi biết lương thực đã bị cháy, ngay cả chủ soái cũng chẳng thấy tông tích đâu, nhân tâm nhất thời hoảng loạn. Đám lửa này cũng là tín hiệu cho quân Tào dốc toàn lực tấn công, tức thời, tiếng hò reo của quân Tào đã vang trời dậy đất, đèn đuốc sáng như ban ngày, từ mé tây ùn ùn đổ tới.
Quân Khăn Vàng vừa thấy đám lửa đã khiến quá nửa quân số thất vọng, không còn đủ sức đánh tiếp nữa, nhiều doanh lũy đã chủ động xin hàng. Một số ít ngoan cố chống lại cũng chẳng có tác dụng gì, bọn Đoàn Chiêu, Nhậm Phúc, Lưu Đại, Lưu Nhược sớm đã tỏa đi các trại làm tiên phong dẫn đường. Chúng đã đợi ở đây hơn ba năm rồi, dẫn quân Tào nhận biết đường đi lối lại, đánh những chỗ yếu hiểm. Men theo Cát Pha thảy ba chục dặm đâu cũng
"""