"
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện Tập 10 - Vương Hiểu Lỗi full mobi pdf epub azw3 [Danh Nhân]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện Tập 10 - Vương Hiểu Lỗi full mobi pdf epub azw3 [Danh Nhân]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÀO THÁO - THÁNH NHÂN ĐÊ TIỆN Tác giả: Vương Hiểu Lỗi
Dịch giả: Nhiều dịch giả
Công ty phát hành: Alphabooks NXB Văn học & NXB Lao động Ngày xuất bản: 2/2014 - 7/2017 —★—
ebook©vctvegroup
Năm 2019
Hồi thứ 143
Trung thần chết oan, Tào Tháo lập uy Tống giam Thôi Diễm
Nơi náo nhiệt nhất Nghiệp Thành chính là phủ Lâm Tri hầu, tuy nằm ở phía đông bắc, cách phủ Ngũ quan tướng hai con đường, nhưng lại khác nhau một trời một vực. Phủ đệ của Tào Phi yên tĩnh, thanh nhã, thậm chí có phần u tịch. Còn Tào Thực do nổi tiếng về thơ phú, nên trong phủ có nhiều kẻ phong nhã qua lại, thu hút nhiều văn nhân trong Nghiệp Thành, gần đây còn có không ít tử tôn của quan lại đến cửa yết kiến, người ra kẻ vào, ngâm thơ làm phú, đàn ca rộn ràng.
Lâm Tri hầu là người chuộng phong nhã, cảm thấy cảnh sắc trong phủ chưa hữu tình, năm ngoái đã sai người vận chuyển từ Duyện Châu đến nhiều giống mẫu đơn, trồng khắp hoa viên. Năm nay gặp hạn hán, Tào Thực gọi người đến chăm sóc, cắt tỉa để cây nhanh ra hoa, chẳng lâu sau, hoa tím, hoa vàng chen nhau khoe sắc, hương thơm tỏa khắp nơi như chốn bồng lai tiên cảnh, mới sáng sớm đã có đám văn nhân kéo đến thưởng lãm. Tuân Vĩ, Vương Tượng, Lưu Vĩ mỗi người đều làm một bài Mẫu đơn phú, mỗi bài dài ngắn khác nhau nhưng ai cũng tâm đắc. Thứ tử của Lưu Biểu là Lưu Tu cũng là thường khách trong phủ, giữ chức Nghị lang nhưng hữu danh vô thực, một thân một mình làm công tử ở Nghiệp Thành, nhưng vẫn còn may mắn hơn các huynh đệ khác đang làm quan bù nhìn ở Hứa Đô. Lưu Tu có chút tài thơ văn, so với kẻ dưới thì hơn mà so với người trên thì kém, nhưng lại thích bình luận thơ văn của người khác, cầm bài thơ tặc lưỡi:
— Không hay, không hay! - Lưu Tu lắc đầu nhưng chẳng chỉ ra điểm nào không hay, khiến ai cũng buồn cười. Tảng đá
xanh bên kia có hai người trẻ tuổi đang thi tài với nhau, một người là tài tử Lạc An tên là Nhiệm Hỗ, một người là Hạ Hầu Vinh - con út của Hạ Hầu Uyên, cả hai đều nổi tiếng là thần đồng, đúng là kỳ phùng địch thủ gặp nhau, khiến mọi người ai cũng xúm lại xem.
Mọi người đang chuyện trò vui vẻ, chợt nhìn thấy Văn học thị tòng Trịnh Mậu vội vàng bước vào sân:
— Hầu gia có ở bên này không?
— Trịnh huynh đến đúng lúc quá. - Vương Tượng và Lưu Tu đang thi làm thơ, nhìn thấy ông ta vội kéo lại.
— Tiểu đệ vừa làm một bài, Lưu hiền đệ nói không hay, huynh phân xử xem.
— Không xem! - Trịnh Mậu đang vội vã, còn lòng dạ nào mà cười nói với họ:
— Hầu gia ở đâu?
Vương Tượng thấy ông ta từ chối, cụt hứng cằn nhằn: — Không biết, từ sáng đã không gặp, chắc là vẫn đang ở trong thư phòng. - Những người này thường xuyên đến đây nên đã thành quen, không gặp Tào Thực thì vẫn tự nhiên tự tại, chuyện ta ta làm.
— Ôi trời… - Trịnh Mậu bực mình, chỉ vào đám người nói: — Các ngươi quá tự nhiên, dẫu sao đây cũng là phủ Lâm Tri hầu! Có còn chút quy củ nào không? - Nói xong, phất tay áo bước nhanh vào sân sau.
Mọi người thi nhau bình luận:
— Tên này hôm nay trúng tà à? Kệ hắn ta, đánh cờ tiếp đi…
Lúc này đúng là Tào Thực đang ở trong thư phòng, gần đây phụ thân không giao cho việc gì, mười lần vào cung thì đến tám lần không gặp, thời gian rảnh rỗi không biết làm gì, đành cùng bằng hữu đi thăm thú khắp nơi. Nhưng hôm qua nhị ca Tào Chương đãi tiệc ở phủ, các huynh đệ kéo tới đó không ít, còn cho gọi thêm mấy ca kỹ đàn hát mua vui. Tào Thực về phủ đã rất muộn, không muốn về phòng, liền đến thư phòng ngủ nửa giấc, rửa mặt xong nghe nói mọi người đều đến cả, đang
định ra ngoài thì bị Lưu Trinh, Tư Mã Phu ngăn lại, bắt xem gián thư:
Gia thừa Hình Ngung là hiền tài phương bắc, lúc còn trẻ phẩm hạnh thanh cao, tính tình điềm đạm, mặc dù ít nói nhưng câu nào cũng có lý, đúng là người nho nhã. Thuộc hạ không được cùng ngôi thứ với Hình Ngung, mà cũng được đặt cạnh ông ấy. Gần đây ngài hậu đãi thuộc hạ, mà xa cách ông ấy, sợ rằng người ta lại nói hầu gia thân thiết người bất hiền mà không giữ lễ với kẻ tài đức, chỉ coi trọng thứ tử như thuộc hạ mà xem nhẹ gia thừa(*) như Hình Ngung. Như vậy chẳng khác nào thuộc hạ gây ra điều tiếng cho người, tội đó không nhỏ, bởi vậy mà thuộc hạ luôn thấy bất an.
Tào Thực xem xong gián thư, dở khóc dở cười, nhìn Lưu Trinh thành khẩn quỳ bên cạnh, liền nói:
— Chuyện gì vậy? Sao hôm nay ngươi cũng học cách này? Lưu Trinh trịnh trọng đáp:
— Là thuộc hạ nghĩ cho hầu gia.
Tư Mã Phu quỳ cạnh đó cũng nói giúp:
— Công Cán nói rất đúng.
“Coi trọng thứ tử như thuộc hạ mà xem nhẹ gia thừa như Hình Ngung”… Đúng là văn hay. Tào Thực đặt gián thư sang một bên, cười nói:
— Ta còn chưa tỉnh ngủ, có phải mặt trời mọc ở đằng tây không? Thúc Đạt mà nói những lời này ta mới cảm thấy không lạ, ngươi có còn là Lưu Công Cán phóng khoáng, hài hước xưa nay không?
Lưu Trinh sầu não - Từ khi mắc tội được thả ra đến nay, ông ta không dám phóng khoáng, không dám hài hước mà giống như viên đá đã được mài nhẵn. Chốn quan trường nào phải trò chơi, mà là nơi chứa đầy cạm bẫy, thị phi, người trong cuộc không thể cười nói, giận dữ, chửi bới tự nhiên. Ông ta đã hồ đồ nửa đời người, giờ phải nghiêm túc trở lại.
— Thuộc hạ thường ngày không cẩn thận, nghĩ lại mới biết trước sai nay đúng, khẩn cầu hầu gia chấp nhận gián thư, thuộc hạ cảm kích vô cùng. - Nói xong Lưu Trinh khấu đầu.
— Người với người quý nhau ở chỗ thẳng thắn, ngươi hà tất phải nói ra như vậy? - Tào Thực cảm thấy đáng tiếc: — Hình Ngung là người tài, trước nay ta chưa bao giờ dám thất lễ. Ta trọng người bất hiền mà quên kẻ tài đức từ bao giờ vậy?
Lưu Trinh nói:
— Hầu gia đúng là luôn lễ phép với Hình Ngung, nhưng lúc nào ngài cũng cho một đám văn nhân tự do ra vào cửa phủ, cười nói không giữ phép, Hình công lẽ nào lại có thể cảm thấy thuận tai vừa mắt? Người có già có trẻ, đức có cao có thấp, ngài ấy được mệnh danh là “đức hạnh đường đường”, há có thể đứng cùng với đám Lưu Tu, Vương Tượng?
Tư Mã Phu cũng hùa vào:
— Lẽ nào hầu gia lại quên chuyện Hình công mật tấu lần trước? Đến nay đã được mấy tháng mà Dương Tu vẫn chưa dám đến phủ ta, huynh đệ Đinh Nghi cũng ít đến. Người ta đều tránh xa hiềm khích, điều tiếng, hầu gia cũng nên giữ kẽ như Ngũ quan tướng…
— Giống như đại ca thì còn có ý nghĩa gì? - Tào Thực cắt ngang, chắp tay sau lưng đứng dậy, - Sợ đông sợ tây, che giấu giả tạo, còn gì thú vị? Ta không có ý tranh giành với huynh ấy, chẳng qua là muốn làm một số việc phụng sự cho xã tắc, cho phụ thân, còn nếu để bụi trần thế tục vấy bẩn tâm tính, ta thà không làm còn hơn.
Tư Mã Phu lại nói:
— Nước trong dân vẩn đục, nước ngoài thôn thanh khiết. Cùng là nước một nguồn, nhưng có nước trong nước đục, do hoàn cảnh tạo nên, không liên quan đến tâm tính. Hầu gia là người đức hạnh, nhưng không hòa hợp với đời, vậy có ích gì? Chỉ sợ rằng hầu gia còn chưa làm trời đất cảm động thì đã bị người khác hãm hại. - Lời của Tư Mã Phu rất rõ ràng, không cần biết huynh trưởng ông ta có lập trường thế nào, ông ta cũng thực lòng muốn phò tá Tào Thực.
Tào Thực cười trừ. Từ khi Tư Mã Phu vào phủ, hầu như hôm nào cũng có gián thư, mặc dù y cảm kích ý tốt đó, nhưng đã không coi là chuyện quan trọng nữa.
Lưu Trinh thấy Tào Thực không để tâm, lại nói:
— Khắc chế bản thân, hành xử theo lễ là con đường trị lý quốc gia, lẽ nào hầu gia lại không nhận những lời can gián này? — Ha ha ha!… Những lời này nói ra từ miệng Lưu Trinh, khiến Tào Thực cảm thấy quá buồn cười, - Công Cán cũng biết khắc chế bản thân, hành xử theo lễ? Những bằng hữu ngoài kia đang cười đùa, chẳng phải cũng do ngươi bày trò đó sao? - Câu này khiến cho Lưu Trinh không biết nói gì hơn. Không biết những năm qua, ông ta tâm đầu ý hợp với Tào Thực là giúp hay hại y.
Tư Mã Phu đang muốn khuyên can tiếp, bỗng nhìn thấy Trịnh Mậu bước vào:
— Khải bẩm hầu gia, Thôi công bị đại vương bắt giam vào ngục rồi!
Trong giây lát, ai cũng ngây ra, Lưu Trinh nghi ngờ hỏi: — Thôi công nào?
— Còn Thôi công nào? Thôi Quý Khuê, Thôi đại nhân. — Nói bậy… sao có thể… - Ba người nhìn nhau không ai tin điều này. Trong mắt họ Thôi Diễm luôn là một vị quan trung lương, còn là đại thần mà Tào Tháo từng tin tưởng, mười năm tận lực giữ đúng chức trách, sao có thể bị tống giam? — Đúng là sự thật! - Trịnh Mậu cuống quýt, - Có người bất mãn thôi công, tìm được một bức thư ông ta viết cho Dương Huấn, dâng lên đại vương. Không biết trong thư viết những gì mà sau khi xem xong, đại vương chỉ trích lời lẽ vô lễ, sai người nửa đêm đến bắt giam Thôi công vào ngục. Sáng nay tin tức đã truyền đi, các quan tranh nhau vào cung để xin tha tội cho Thôi công!
Tào Thực chau mày một lúc mới nói:
— Chắc sẽ không lớn chuyện đâu, với bậc lão thần này, phụ vương sẽ không tùy tiện xử lý. Ngày trước chẳng phải Giả Quỳ cũng bị tống vào ngục đó sao? Mấy hôm trước Từ Dịch cũng bị dọa bãi quan, chẳng phải bây giờ vẫn giữ chức Nghị lang trong triều? Thôi công tính tình ngang ngược, khó tránh khỏi việc gây hờn kết oán với người khác, phụ vương sẽ điều
tra cẩn thận, hơn nữa còn có quần thần nói giúp, chắc không có gì đáng lo.
— Thuộc hạ có câu này muốn nói. - Trịnh Mậu không để ý đến danh phận, kéo Tào Thực ra cửa, nói thầm vào tai, - Thuộc hạ nghe người trong cung nói, người hãm hại Thôi công dường như là Đinh Nghi.
Tào Thực ngạc nhiên, lúc này mới hiểu - Đinh Nghi muốn lật đổ Thôi Diễm để giúp ta lên ngôi, bảo sao gần đây không thấy đến phủ, đúng là cố ý tránh tai tiếng, nhưng Thôi Diễm là người trung nghĩa, nếu như bị Đinh Nghi lật đổ chẳng phải ta đã hại ông ta sao?
— Đinh Chính Lễ làm việc quá manh động, chuyện này đáng lẽ phải bàn bạc với chúng ta. - Trịnh Mậu muốn nói nhưng lại sợ Lưu Trinh nghe thấy, thì thào, - Nghe nói những lời viết trong thư rất hệ trọng, đại vương rất tức giận, chắc sẽ không dễ dàng tha cho Thôi công. Chuyện này liên quan đến danh dự của hầu gia, bất luận thế nào ngài phải vào cung nói đỡ, để tránh người khác đặt điều!
— Cái này… - Tào Thực đúng là khó xử.
Luận về tình về lý, Tào Thực đều phải ra mặt nói đỡ cho Thôi Diễm mấy câu, dẫu sao thì y cũng lấy cháu gái của Thôi Diễm, nhưng trong thư viết gì cũng không rõ, mà lại hấp tấp đến nói giúp, chẳng phải là vì tình riêng ư? Tào Thực bực mình oán trách Đinh Nghi làm việc không thỏa đáng, giờ không biết làm thế nào cho phải, lại có nô bộc đến bẩm báo:
— Phu nhân cho mời hầu gia đến nhà sau nói chuyện. — Các ngươi chờ ở đây. - Tào Thực đẩy Trịnh Mậu sang một bên, đi vội xuống nhà sau, vừa bước qua cửa thùy hoa đã nhìn thấy thê tử Thôi thị đang quỳ dưới sân, đằng sau còn mấy người phụ nữ, đều là người nhà họ Thôi cũng đang quỳ ở đó, - Các ngươi ….
Thôi thị lê gối đến trước mặt chồng, nói giọng khẩn khoản: — Tiện thiếp khẩn cầu phu quân cứu mạng thúc phụ! Tào Thực và Thôi thị tuy không đến nỗi ân ái mặn nồng, nhưng cũng là nghĩa phu thê tương kính, y vội vàng đỡ dậy:
— Nàng hà tất phải làm vậy, ta sẽ nghĩ cách, chuyện này không vội vàng được.
Người nhà Thôi gia sao không vội được? Con gái của Thôi Diễm cũng đang quỳ khóc lóc:
— Hầu gia lẽ nào lại không biết phụ thân tiện thiếp là bậc trung lương? Đêm qua binh lính xông vào phủ, không nói lý do đã dùng dây thừng trói rồi giải đi. Đại vương thiên uy khó đoán, nếu không nhanh cứu, chỉ sợ… chỉ sợ… - Chưa nói hết câu đã bật khóc nức nở lên, đám người nhà cũng khóc theo.
Có một bà lão y phục sang trọng, không biết có địa vị gì trong nhà Thôi Diễm, nhưng cũng khấu đầu cầu xin: — Thôi đại nhân phản đối việc lập hầu gia kế vị, lão nô xin thay mặt nhận tội. Chỉ cầu xin hầu gia niệm tình quan hệ thông gia với họ Thôi, ngài giơ cao đánh khẽ, tha cho đại nhân… Sau này dòng họ Thôi ở Thanh Hà xin trung thành với hầu gia… — Ây dà! Sao lại nói vậy? - Tào Thực vốn sợ có người sẽ đoán này đoán nọ, nhưng nay cả người nhà cũng cho rằng Thôi Diễm là do Tào Thực hại thì làm sao có thể tránh khỏi miệng lưỡi thế gian? Muốn tránh rắc rối thì lại bị gây rắc rối, Tào Thực nôn nóng sốt ruột, dìu không được, đỡ không xong đám đàn bà con gái trong sân, thê tử cũng khóc theo họ mãi không thôi. Tào Thực hạ quyết tâm:
— Thôi thì ta đi cầu xin là được chứ gì! - Đoạn rảo bước quay về sân trước gặp Trịnh Mậu, thấy ngựa cũng đã chuẩn bị xong. Ông ta nghe nói phu nhân tìm Tào Thực nên đoán thể nào cũng xảy ra chuyện này.
Hai người dắt ngựa ra khỏi sân, bên ngoài khách khứa vây quanh hành lễ. Lưu Vĩ cười nói:
— Tại hạ kính mời Lâm Tri hầu đi dự tiệc, Chung công vừa mới tiến cử một tài tử, cùng quê với tôn gia, tên là Ngụy Phúng, có tài ăn nói, xuất khẩu thành thơ, đã được tuyển vào Tây tào. Hôm nay tại hạ và huynh trưởng chủ trì, mời bằng hữu đến, ngay cả Tống Trọng Tử tiên sinh cũng đến, mời hầu gia đến dự. - Huynh trưởng của Lưu Vĩ chính là Lưu Dực, theo hầu văn học cho Lâm Tri hầu, vừa được điều làm quan triều đình.
Lúc này làm gì có thời gian mà dự tiệc, Tào Thực nói ngắn gọn vài câu về chuyện của Thôi Diễm. Những người này dù sao cũng đều có chức vụ trong triều, tuy chưa được giao việc gì chính thức nhưng vào yết kiến đại vương cũng không vấn đề gì, nghe nói Tào Thực muốn nói đỡ cho Thôi Diễm, ai cũng có ý muốn đi, không vì Thôi Diễm thì cũng vì thể diện của Lâm Tri hầu! Lập tức có hơn mười người xin theo, Tư Mã Phu nhân lúc hỗn loạn đi về phía sân bên cạnh, mời Hình Ngung ra. Lúc này không phân biệt già trẻ, chức vụ cao thấp, một đoàn người cưỡi ngựa, kẻ đi xe cùng vào cung. Vừa mới đến Hiển Dương môn đã nhìn thấy người đứng đông đúc, mấy chục quan viên đã đến đây từ sớm để xin yết kiến.
Thôi Diễm là nhân vật cỡ nào? Trong triều xảy ra chuyện lớn như vậy, các quần thần lẽ nào không đến? Liệt khanh có Chung Do, Vương Lãng, Vương Tu, Quốc Uyên; Thượng thư đài có Viên Hoán, Kinh Mậu, Mao Giới, Dương Tuấn, Hà Quỳ, Thường Lâm, Phó Tốn, ngay cả Từ Dịch đã bị bãi chức cũng đến; ngoài ra còn có Hoàn Giai, Tân Tỵ, Trần Kiều, Tư Mã Ý, Giả Quỳ, Dương Tu, nhiều không kể hết. Các trọng thần của triều đình, mạc phủ đều đông đủ, chỉ thiếu có Tây tào duyện Đinh Nghi. Tào Phi cưỡi ngựa đi đầu bị cản lại, lóng ngóng không biết phải làm sao.
— Đại ca, sao không vào? - Tào Thực tách đám người chen lên phía trước.
Tào Phi không nói gì, Tân Tỵ đứng bên cạnh, lạnh lùng đáp:
— Đại vương không cho phép mọi người vào nói giúp Thôi công, Lâm Tri hầu vào chắc không việc gì nhỉ?
Tào Thực nghe rõ Tân Tỵ có ý nhạo báng, chắc chắn là đã hiểu lầm mình, vội vàng nói lớn với quần thần đang có mặt ở đó:
— Thôi công là đại thần cương trực của Đại Ngụy ta, còn mạnh mẽ hơn Tỷ Can(*), chính trực hơn Sử Ngư(*), dù thế nào chúng ta cũng phải bảo vệ Thôi công bình yên vô sự! - Đám Lưu Tu, Lư Vĩ cũng họa theo:
— Đúng, Lâm Tri hầu nói đúng! - Nói xong cũng xông lên trên, gào thét quan nội thị cho gặp đại vương.
Tào Phi phẫn nộ liếc nhìn vị đệ đệ của mình: Vừa hại Từ Dịch lại hại cả Thôi Diễm mà còn làm bộ làm tịch! Tam đệ ơi, tam đệ, cùng một mẹ đẻ ra, ta không thể ngờ đệ lại xảo quyệt đến vậy!
Quần thần nôn nóng chờ đợi nửa canh giờ mới nhìn thấy một tên nội thị mười mấy tuổi, ngẩng đầu bước nhanh đến: — Đại vương có lệnh, những ai định nói giúp cho Thôi Diễm không được vào, lệnh cho các quan nhanh chóng giải tán, không được ồn ào! - Nói xong quay người bỏ đi.
Tào Thực nhớ ra đây chính là tiểu thái giám Nghiêm Tuấn, được phụ vương yêu quý, vội vàng ngăn lại:
— Nghiêm công công xin dừng bước, huynh đệ chúng ta có được vào không?
Nghiêm Tuấn tuy chỉ là đứa trẻ nhưng rất nhanh ý, cười nói:
— Đại vương nói không gặp, tiểu nhân không dám quyết, hai vị xin hãy về đi.
Tào Phi lại hỏi:
— Hiện nay, ai đang ở cạnh phụ vương?
Nghiêm Tuấn đáng ra không được nói, nhưng không dám đắc tội Ngũ quan tướng, bèn nói nhỏ:
— Kỵ đô úy Khổng đại nhân và Đinh Tây tào đang ở trong… Tiểu nhân phục mệnh, xin thất lễ, thất lễ. - Rồi không để huynh đệ họ hỏi thêm, vội vàng chạy mất.
Quần thần không được vào lại càng cảm thấy lo lắng, có người còn bảo rằng:
— Chúng ta cứ quỳ ở đây, hôm nay dù thế nào cũng phải cứu được Thôi công!
— Không được! Không được! - Lại có người nói, - Tính khí đại vương nóng nảy, đừng nói là không cứu được Thôi công mà có khi cả chúng ta cũng bị kéo vào. Chi bằng… chi bằng Ngũ quan tướng và Lâm Tri hầu ở lại, chúng ta đến đại lao xem thế nào, kể cả khi không gặp được Thôi công, thì cũng có thể dặn
dò quan cai ngục! Thôi công năm nay cũng đã lớn tuổi, chúng ta cứ chăm sóc ngài ấy cho tốt, rồi sẽ nghĩ cách.
— Đi, đi thôi. - Quần thần đã có chủ ý, dần dần tản đi hết, chỉ còn lại hai huynh đệ Tào Phi và Tào Thực, một người đứng ở mé đông, một người đứng ở mé tây cửa Hiển Dương, cả hai chẳng ai nói với ai câu nào…
Tư Mã Ý sớm đã nhìn thấy Tư Mã Phu trong đám quần thần, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, kéo hắn đến chỗ vắng vẻ, lén lút hỏi:
— Chuyện Đinh Nghi gài bẫy Thôi Diễm, Lâm Tri hầu có biết không?
Tư Mã Phu còn chưa nhận ra ai, định kêu lên. Tư Mã Ý vội vàng bịt miệng hắn lại:
— Không biết càng tốt, chuyện này chớ có nói ra. Tư Mã Phu chưa hết sợ hãi:
— Chuyện này chẳng phải đẩy hầu gia vào chỗ bất nghĩa sao?
— Hừ! - Tư Mã Ý cười nhạt, - Cái gì mà bất nghĩa với không bất nghĩa? Ít nói những lời cổ hủ đó đi, Từ Dịch, Thôi Diễm đều bị hắn lật đổ, nếu sau này Mao Giới cũng lại bị chỉ trích trách tội, các quan văn võ trong triều đều khiếp sợ, ai dám theo Ngũ quan tướng nữa? Đinh Chính Lễ đúng là độc ác…
Gần đây đệ có can gián Lâm Tri hầu không?
Tư Mã Phu lắc đầu:
— Gián thư không ít, nhưng Lâm Tri hầu không nhận, vẫn giao du với đám Lưu Tu.
Tư Mã Ý rất hài lòng:
— Nhận hay không nhận là việc của hầu gia, còn can gián vẫn là việc của đệ. Chỉ cần chúng ta tận sức tận lực, để lại ấn tượng chính trực, ngay thẳng cho Lâm Tri hầu là được.
— Ăn cây nào rào cây đấy, cũng là thỏa đáng! Tiểu đệ theo Lâm Tri hầu đương nhiên sẽ dốc sức phò tá hầu gia, còn huynh trưởng?
— Ta? - Tư Mã Ý cười, - Ta vẫn giúp Ngũ quan tướng. Tư Mã Phu ngờ vực không hiểu:
— Huynh trưởng giúp Tần, nhưng lại sai tiểu đệ giúp Sở, rốt cuộc là vì sao? Cuối cùng huynh vì Ngũ quan tướng hay Lâm Tri hầu?
— Đệ ngốc của ta! - Tư Mã Ý vỗ vỗ vai Tư Mã Phu, - Thời cuộc chưa rõ, tiền đồ chưa sáng, không thể chết chung một cây, ta cũng vì tiền đồ của Tư Mã thị thôi!
Trung thần chết oan
Quần thần đều biết Thôi Diễm mắc tội, nhưng không ai hiểu tình tiết sự việc. Hóa ra, họa này bắt đầu từ việc tuyển quan một năm trước, lúc đó Thôi Diễm tiến cử văn sĩ Cự Lộc là Dương Huấn vào làm quan trong mạc phủ, người này ngay thẳng nhưng tài cán không cao, lại kết nhiều ân oán từ khi tuyển quan, nên khó tránh được có nhiều lời dị nghị. Tháng trước, Tào Tháo được phong vương, Dương Huấn là người đầu tiên dâng tấu chúc mừng, có nhiều lời ca tụng, vì vậy bị kẻ khác nói là xiểm nịnh, khiến ông ta rất ấm ức. Dù sao là người cất nhắc Dương Huấn là Thôi Diễm cũng không thể coi nhẹ chuyện này, bèn tìm Dương Huấn để xem bản biểu tấu, phát hiện tuy có mấy lời lẽ tốt đẹp nhưng đều hợp tình hợp lý, cũng không có chuyện gì to tát, nên mới viết cho ông ta một bức thư an ủi trên khăn lụa.
Đây vốn là chuyện bình thường, nhưng lại có người bên trong giở trò. Đinh Nghi hận Thôi Diễm, Mao Giới đã lâu, lại muốn giúp Tào Thực loại bỏ được tảng đá ngáng chân. Hà Quỳ nhận chức Đông tào duyện đã có lời can gián Tào Tháo, được Tào Tháo nghe theo, chuyện tuyển chọn quan lại sau này không cần phải làm theo cách của Thôi Diễm và Mao Giới nữa. Đinh Nghi nhận thấy đây là cơ hội tốt, nên đã câu kết với Hiệu sự, nghĩ trăm phương ngàn kế để xử hai lão thần này.
Chuyện này kể cũng ly kì, sau khi nhận được thư của Thôi Diễm, Dương Huấn cảm thấy được an ủi phần nào, bèn bỏ thư sang một bên. Khăn lụa không là gì đối với các quan viên, nhưng với đám nô bộc, nó rất quý giá, thông thường những chiếc khăn trong nha môn không dùng đến nữa đều được họ
lấy đi sử dụng. Tư gia Dương Huấn có một nô bộc, lấy được chiếc khăn này đã không giặt đi mà đem làm khăn chít đầu. Người này đi làm việc, đi trên đường phố Nghiệp Thành, trên đầu hiện rõ hai chữ “Thôi Diễm” màu đen nên bị Hiệu sự bắt lại để kiểm tra, vội vàng giật lấy chiếc khăn mang đi nộp, thế là bức thư rơi vào tay của Đinh Nghi. Đinh Nghi thắp đèn soi từng câu từng chữ, chỗ nào có vấn đề đều khoanh lại rồi trình lên Tào Tháo. Tào Tháo xem xong thì nổi trận lôi đình, hạ lệnh nhốt Thôi Diễm vào ngục.
Quần thần không hiểu đầu đuôi nên hỏi dò tin tức, cuối cùng cũng biết được đôi chút nguyên do. Hóa ra là trong thư của Thôi Diễm có một câu động chạm đến Tào Tháo như sau: “Tỉnh biểu, sự giai nhĩ! Thời hồ thời hồ, hội đương hữu biến thời.” Câu này được hiểu theo nhiều nghĩa. Có thể hiểu là an ủi Dương Huấn: “Ta đã đọc biểu tấu của ngươi, thấy rất hay! Ngày rộng tháng dài, những lời bàn tán của chúng nhân sẽ rơi vào quên lãng.” Nhưng cũng có thể coi câu này là lời nhận xét tình hình thời cuộc: “Ta đã đọc biểu tấu của ngươi, thấy thời thế vẫn khá tốt! Ngày rộng tháng dài, cục diện của triều đình ắt sẽ thay đổi.” Đương nhiên, cũng có thể coi đây là cách nói ám chỉ Tào Tháo: “Ta đã xem biểu tấu của ngươi, cảm thấy không tồi! Ngày rộng tháng dài, họ Tào kia cũng sẽ thay đổi thôi.” Ý nói chẳng bao lâu nữa Tào Tháo sẽ soán ngồi nhà Hán để xưng đế.
Tất nhiên, Tào Tháo hiểu theo cách cuối cùng nên mới cảm thấy phẫn nộ. Ông đã biến chuyện nhỏ của Thôi Diễm trở thành tội lớn, quần thần vào can gián đều bị từ chối hết, không nói rõ nội dung bức thư động chạm điều gì. Thôi Diễm bị giam trong ngục hai ngày, sau đó bị đưa đến Tả hiệu thự làm khổ sai. Các quan ai cũng có lòng tốt, hơn nữa còn có nhiều người do ông ta cất nhắc, lũ lượt kéo nhau đi thăm hỏi vị đồng liêu bị oan, hôm nay mang y phục, ngày mai lại mang cơm nước, Tả hiệu thự cũng không dám làm khó vị đại quan này, Thôi Diễm coi như không phải chịu uất ức.
Chuyện đã qua coi như xong, mọi người đến thăm đều nghĩ rằng Lưu Trinh từng chịu khổ sai ở đây sau lại được phục chức, vậy thì Thôi Diễm chắc cũng không sao, chỉ cần đợi Đại
vương nguôi giận là được. Nhưng nào ngờ sau bảy ngày, Tào Tháo đột nhiên triệu tập triều hội, lật lại chuyện này… Vì chuyện này mà Tào Tháo phải thiết triều ở điện Văn Xương trang nghiêm, rộng lớn thuộc Tây cung, ông ngồi trên vương vị, mặt lạnh như băng, tức giận nói hơn nửa canh giờ. Ngoài Viên Hoán bệnh nặng không đến, tất cả quan viên trong triều đều có mặt, ngay cả huynh đệ Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực, Tào Bưu cũng đến dự, mọi người ai nấy đều cúi đầu im lặng, nghe Tào Tháo hùng hổ giáo huấn.
— Từ khi thiên hạ hỗn loạn, tam cương ngũ thường(*) cũng mất, kẻ dưới công kích người trên, kiêu căng ngạo mạn, càng làm cho mọi thứ hỗn loạn thêm. Khi xưa Hiếu Chương hoàng đế triệu tập các học sĩ bàn luận học thuật, đã soạn ra cuốn Bạch hổ thông làm chuẩn mực về tam cương ngũ thường của thế gian, có câu “quân vi thần cương(*)” đến nay vẫn không thể thay thế… Ta dọc ngang nửa đời người, quần thần tướng lĩnh không ai là không do ta tự tay cất nhắc. Có kẻ theo ta từ đầu, có người quy hàng, có kẻ được tiến cử, ta đều tin dùng cho hưởng phú quý, nay người được làm quan, kẻ được làm tướng, chẳng lẽ lại phụ sự hậu đãi của ta? Buông lời gièm pha, ngỗ nghịch ngang ngạnh, vong ân bội nghĩa… Xưa, Chủ Phụ Yển kiêu ngạo vì lập được công, vơ vét tài sản, Hiếu Vũ Đế đã chu di tam tộc; Hàn Hâm coi trời bằng vung, hủy hoại triều chính, cũng bị Quang Vũ Đế chặt đầu. Gần đây có Thiếu phủ Khổng Dung, Nghị lang Triệu Ngạn ăn nói xằng bậy bị xử tội, còn chưa đủ sức răn đe sao? Những kẻ buông lời phỉ báng tất sẽ khó có được kết cục tốt đẹp!…
Tào Tháo khẩu khí đanh thép, dù đã là vua của thiên hạ, nhưng những lời nói liên quan đến lễ pháp trung quân được thốt ra từ miệng ông vẫn có vẻ khập khiễng. Một người khi quân phạm thượng, giẫm đạp lên tam cương ngũ thường như ông lại có ngày đột nhiên hồi tâm chuyển ý nói những lời này, liệu ai có thể tiếp nhận? Có lẽ bi kịch của cuộc đời Tào Tháo chính là ở đây.
Quần thần đều hiểu cả bài lý lẽ dài dằng dặc này vì đâu mà có, chỉ biết cúi đầu nghe trách tội, không dám thở mạnh, đợi
đến khi Tào Tháo nói xong, trên đại điện ngay cả tiếng ho cũng không có, tiết trời vừa nóng vừa khô, ai cũng đầm đìa mồ hôi. Lúc lâu sau, Thượng thư Mao Giới cầm hốt(*) bước ra khỏi hàng:
— Lời của đại vương thần xin khắc cốt ghi tâm, nhưng chuyện của Thôi Quý Khuê…
— Có phải ngươi định cầu xin cho ông ta?
Mao Giới nuốt nước bọt, nói tiếp:
— Thần không dám cầu xin, nhưng Thôi Quý Khuê là trung thần thanh minh liêm khiết, học vấn uyên thâm, thẳng thắn, trung thực, tài đức song toàn, lần này vì phát ngôn mà mắc tội nhưng là do vô ý, mong đại vương khoan dung, sớm phục chức cho ông ta.
— Ha ha ha!… Tào Tháo cười nhạt, - Phục chức là điều không thể. Không giấu gì các ngươi, giờ này Hiệu sự đã qua Tả hiệu thự, truyền lệnh xử tử ông ta rồi!
— Hả!… - Các quần thần kinh hãi, không tin vào tai mình. Mao Giới mặt mũi tối sầm mắt lại, thẻ hốt rơi khỏi tay, ngã khuỵu xuống đất nhưng vẫn cố đứng dậy:
— Đại vương khai ân!
— Đại vương khai ân!… Đại vương khai ân!… - Liệt khanh Vương Tu, Quốc Uyên, trung đài Lương Mậu, Hà Quỳ, Nghị lang Tân Tỵ, Tư Mã Ý cùng bốn vị công tử cũng bước ra khỏi hàng quỳ xuống.
— Muộn rồi! - Tào Tháo phất tay áo, ánh mắt hiện lên vẻ đắc ý.
Mao Giới run rẩy nói:
— Thôi công cớ sao lại bị xử tội chết?
Tào Tháo nhắm hờ mắt, nói:
— Lời lẽ trong thư quá ngỗ nghịch. Sinh con gái thôi… sinh con gái thôi… - Bảy ngày nay, chữ “thôi” cứ quanh quẩn trong đầu ông, không chỉ có Thôi Diễm viết chữ này mà mười sáu năm trước, chiếu thư trong đai ngọc cũng nói “Giết tên nghịch thần ngông cuồng này thôi”, chữ “thôi” ở cuối câu ngân mãi, tựa như tiếng máu chảy, nay Thôi Diễm cũng viết giống như vậy.
Tào Tháo mở mắt, không dám nghĩ tiếp, tất nhiên ông không thể nói ra những lời này, chỉ chậm rãi nói:
— Chữ “thôi” vẫn là một từ không may mắn, trong nhân gian sinh con trai sẽ được tặng ngọc, còn sinh con gái nếu có ai hỏi đến, chỉ dám đáp rằng “sinh con gái thôi”, Thôi Diễm hẳn là đang nguyền rủa ta!
Quần thần đều mơ hồ, sao lại lôi cả chuyện sinh con trai con gái ra? Tào Tháo lại nói:
— Tên họ Thôi này cậy mình là danh gia vọng tộc phương bắc mà ngạo mạn, ta vốn chỉ định làm giảm uy phong của ông ta. Nào ngờ ông ta không biết hối cải, mấy ngày nay ta bí mật sai người nhiều lần đến Tả hiệu thự quan sát, nhưng ông ta vẫn án nói ngang ngược, cố chấp làm theo ý mình. Còn các ngươi nữa!
— Dạ… - Quần thần đều sợ hãi.
— Các ngươi ngày ngày đến chỗ ông ta, nói giúp cho ông ta, nghe ông ta than phiền, có còn coi ta ra gì? Các ngươi cho rằng ta là ai? Ta là đại vương của các ngươi! - Tào Tháo đập ngự án ầm ầm. Quần thần trong lòng hối hận, vốn muốn đến chăm sóc Thôi Diễm, nay lại thành hại chết người ta.
— Nghe cho rõ đây! - Tào Tháo đứng dậy, vai trái vẫn đang run rẩy, - Chuyện của Thôi Diễm sau này chớ nhắc đến nữa, ai còn dám nói gì thì sẽ xử cùng tội với hắn, bãi triều!…
Quần thần rơi vào thế khó xử, người sợ hãi, kẻ đau buồn, người mừng thầm, tất cả từ từ đứng hết lên. Huynh đệ Tào Phi sợ hãi không dám ngẩng đầu lên, vịn vào tường định đi ra ngoài.
Tào Tháo liếc nhìn:
— Bốn người các ngươi đứng lại cho ta!
Bốn huynh đệ khựng lại, rón rén quỳ thành hàng. Tào Tháo nghiêm giọng nói với Tào Thực:
— Họ Thôi có quan hệ thông gia với con, nay đã bị xử tội, sau này ít qua lại với họ! Con phải chuyên tâm đọc sách rèn tài, sau này còn có chuyện để kẻ khác hiến kế qua mắt ta, ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua!
— Vâng. - Tào Thực ủ rũ khấu đầu.
— Còn con! - Tào Tháo đưa mắt sang nhìn Tào Phi, - Tên họ Thôi bảo vệ con đúng không? Phải nhớ không được dựa dẫm kẻ khác, nếu còn dám kéo bè kết cánh, cẩn thận ta phế chức quan của con. Nghe nói Tư Mã Ý dạo này thường xuyên qua lại với con, bảo hắn hãy liệu hồn. Ta đã giết tên họ Thôi ở Thanh Hà, thì có giết thêm họ Tư Mã huyện Ôn cũng không sao!
Tào Phi không dám nói gì, chỉ khấu đầu im lặng.
— Còn Tử Văn, được phong hầu vẫn chưa thỏa mãn sao? Cẩn thận ta lột da đấy!
— Vâng. - Tào Chương đáp giọng hững hờ, cứ cách vài ngày lại bị phụ thân dạy bảo một lần, y đã quen rồi. — Còn con! - Tào Tháo chỉ tay vào mặt Tào Bưu, - Đừng tưởng ta không biết con nghĩ gì, ta mắng bọn chúng, con vui mừng lắm hả? Rồi sẽ có lúc phải khóc đấy!
— Nhi tử không dám, không dám… - Tào Bưu sợ hãi, dập đầu liên tục.
— Toàn là một lũ không ra gì, cút hết cho ta! - Tào Tháo quát mắng khản cổ, ngồi bệt xuống đất thở hổn hển. Sao vậy? Rốt cuộc làm sao vậy? Tháng Tư xưng vương, tháng Năm đã có nhật thực! Ông trời không chịu cho mưa, dân chúng bàn tán, thêu dệt, không diệt được Tôn Quyền, Lưu Bị, bệnh cũng không khỏi, con cái tranh giành, đại thần không nghe lời! Trời giận người oán, chẳng có chuyện nào suôn sẻ! Trong lòng Tháo bỗng cảm thấy bất an…
Quần thần thở dài bước ra khỏi Ngụy cung, ai nấy cũng đều cảm thấy rùng mình. Tào Tháo không chỉ giết Thôi Diễm mà còn có ý giết gà dọa khỉ, hôm nay Tào Tháo đã xưng vương, họ không thể tùy tiện thân thiết như trước, cũng không thể thẳng thắn như trước nữa. Thiên hạ rối loạn đã hơn ba mươi năm nay, từ nay về sau họ sẽ trải qua những ngày chơi với vua như chơi với hổ.
Lúc này, người đau buồn nhất phải là Mao Giới, ông ta cùng Thôi Diễm giữ chức tuyển quan đã mười năm trời, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, nay phải khoanh tay đứng
nhìn vị bằng hữu già bị giết, chỉ biết ngậm ngùi ngửa mặt nhìn bầu trời nóng như thiêu như đốt.
— Đi mau! Chậm chạp lề mề, định làm gì? - Tiếng chửi mắng, đánh đập từ đâu vọng lại.
Quần thần quay ra nhìn, thấy Lưu Từ cùng đám binh lính đang giải một đám phạm nhân đầu óc rối bù, mặt mũi sợ hãi đi về phía cửa đông, đây đều là những tội nhân tung tin thất thiệt, bị Huyện lệnh bắt được trong gần hai tháng nay. Tào Tháo hận lũ người này dám nói trời giáng tai họa xuống, mà Dương Bái lại là một viên khốc lại hà khắc, những tội nhân này không chỉ bị xử tử mà vợ con cũng bị bắt làm nô tì cho các phủ quan. Đám phạm nhân rách rưới đeo gông cùm bị giải đi trên đường, người nào cũng bị ăn những trận đòn roi của binh lính dẫn giải, cái nóng như thiêu đốt càng làm họ đau đớn, tiếng khóc than không ngớt.
Mao Giới nhìn đám phạm nhân lại nghĩ đến Thôi Diễm vô tội mà bị giết sáng nay, trong lòng đau đớn vô cùng, chỉ tay về phía đám phạm nhân mà than rằng:
— Chính sự hà khắc như hổ dữ, trời không cho mưa cũng chính vì cách làm này! - Tiếng ai oán của ông ta nghe rất rõ, các đại thần ai cũng lắc đầu cảm thán. Nhưng trong đám quần thần ấy, Tây tào duyện Đinh Nghi hai mắt sáng lên, khẽ nở một cười xảo trá…
Trong khi quần thần đang than vãn, Triệu Đạt, Lư Hồng cũng phụng lệnh đến bãi đá:
— Thôi công, ngài còn không hiểu tâm ý của đại vương sao? Ngài đường đường là danh gia vọng tộc họ Thôi ở Thanh Hà, sao lại mặt dày như vậy, bọn ta biết làm thế nào với ngài?
— Hừ! - Thôi Diễm tuy phải đeo xích, mặc quần áo phạm nhân nhưng râu hùm mắt hổ, uy phong lẫm liệt, - Bọn tiểu nhân các ngươi có xứng động vào lão phu? Hãm hại trung lương, món nợ máu này sớm muộn cũng phải trả, sẽ có ngày các ngươi không được chết yên lành!
— Hay, hay, hay lắm. - Triệu Đạt cười khẩy, - Không cần ngài phải bận tâm xem ta chết có được yên hay không, nhưng chuyện của ngài phải làm thế nào đây?
— Ta phải gặp chúa công! - Thôi Diễm thét lớn, giằng vòng xích như lên cơn điên loạn, - Thôi mỗ trung thành với xã tắc, chưa bao giờ tư lợi việc gì, sao lại làm nhục ta như vậy? Ta mắc tội gì, rốt cuộc là mắc tội gì?
Thôi Diễm giận dữ bổ nhào về phía Lư Hồng, hai tên lính đứng bên cạnh không kịp lôi lại.
Lư Hồng làm việc này đã mười mấy năm, nhưng vẫn chưa bao giờ gặp người ngang ngược như vậy, bị dọa đến nỗi mặt mày xanh lét:
— Ngài… ngài chớ có nổi điên với ta!
— Thôi, ngài nghỉ ngơi đi. - Triệu Đạt cười nhạt, - Chúa công dặn bọn ta đưa cho ngài một thứ, ngài nhìn thấy sẽ hiểu ngay. - Nói xong rút một thanh bội kiếm trong tay binh sĩ đứng phía sau.
Thanh kiếm xanh biếc, dưới ánh mặt trời chói chang lại càng sáng rực - Thôi Diễm nhận ra đó là Thanh Cang kiếm, Tào Tháo muốn chấn uy sẽ dùng Ỷ Thiên kiếm, muốn giết người sẽ dùng Thanh Cang kiếm!
— Muốn ta chết ư?… - Thôi Diễm lặng người đi.
Triệu Đạt cười nói:
— Nói thật với ngài, nếu ngài sớm biết hối cải thì đã không có ngày hôm nay. Nhưng ngài cứ thích vất vả, ngày ngày vênh mặt, hất hàm sai khiến, vuốt râu trừng mắt, đại vương không giết ngài thì để làm gì? Hơn nữa còn bao nhiêu vị đại nhân ngày nào cũng đến thăm, họ cứ nghĩ thế là tốt cho ngài, thực ra chính là hại ngài.
Thôi Diễm chăm chú nhìn Thanh Cang kiếm, đột nhiên ngửa mặt lên trời cười lớn:
— Ha ha ha!… Bản tính của Thôi mỗ chính là như vậy, chuyện đúng sai, công bằng đều ở trong tâm. Ngọc có thể vỡ, nhưng không thể hủy được bản chất; trúc có thể đốt, nhưng không thể phá được tiết tháo. Đại trượng phu đức hạnh không rời, chí hướng không đổi, thân này có chết nhưng tiếng thơm Lưu danh thiên sử. Chết có gì đáng sợ! Còn như Tào Mạnh Đức, ắt sẽ bị đời sau chửi rủa, ha ha ha!… - Tiếng cười man dại của Thôi Diễm vang lên không trung, khiến ai cũng sợ hãi.
— Vậy thì tốt, ngài đã hiểu rồi, bọn ta cũng không phải mất thời gian. - Triệu Đạt thở phào, đưa kiếm cho Thôi Diễm, - Ngài tự xử đi. - Tào Tháo không dám để đao phủ giết danh sĩ, mà dặn dò phải ép Thôi Diễm tự xử.
Thôi Diễm giơ tay đón kiếm, sắc mặt bỗng trở nên u buồn, thở dài:
— Thôi Diễm ơi Thôi Diễm, ngươi cả đời cương trực, nay lại chết như vậy. Đáng tiếc… đáng tiếc…
Triệu Đạt thấy Thôi Diễm mãi không động tay, thúc giục: — Ngài nhanh lên, còn tiếc nuối gì nữa?
— Tiếc gì sao? - Thôi Diễm cầm kiếm trong tay, hai mắt trợn trừng, - Đáng tiếc cho tấm lòng của ta, cho tài văn, tài võ của ta, không thể giết hết được đám gian thần như các ngươi! Nói xong giương kiếm đâm hắn một nhát.
— Mẹ ơi!… - Triệu Đạt không ngờ Thôi Diễm lại manh động như vậy, ba chân bốn cẳng bỏ chạy, nhưng do chạy chậm nên vẫn bị đâm một nhát vào mông.
Quân binh lập tức hỗn loạn, ai cũng cầm đao kiếm xông lên. Thôi Diễm lại nói:
— Thanh kiếm này dùng để giết gian thần xu nịnh, giết quân phản nghịch, há có thể giết kẻ có đức như ta, trả cho ngươi đấy! - Đoạn ném thẳng về phía Lư Hồng. May mà hắn chạy kịp, nhưng cũng bị chém bay mất vành tai, máu chảy ròng ròng.
Triệu Đạt ôm mông, Lư Hồng ôm đầu, bọn chúng sợ tè cả ra quần, trốn sau binh lính hô lạc cả giọng:
— Giết… giết!… Mau giết lão ta!
— Không phiền các ngươi! - Thôi Diễm thét lớn, đẩy đám binh lính ra, lấy hết bình sinh đập đầu vào tảng đá. Trong nháy mắt máu tươi phọt ra, dần dần nhuộm đỏ khoảnh đất.
Án của Mao Giới
Thôi Diễm trung thành phò tá Tào Tháo hơn mười năm, cúc cung tận tụy, thẳng thắn trung thực, cuối cùng bị ép đến mức phải tự sát, văn võ bá quan nước Ngụy đều cảm thấy vô cùng sợ hãi. Trong lúc mọi người vẫn đang đau buồn thương tiếc, lại xảy ra một vụ đại án kinh thiên động địa - có người tố cáo Thượng thư Mao Giới phỉ báng triều đình, chửi rủa đại vương. Tào Tháo lại nổi trận lôi đình, đem nhốt Mao Giới vào ngục, lệnh cho Đại lý tự nhanh chóng điều tra. Quần thần sau khi đã nhận được lời giáo huấn, không ai dám tùy tiện đến cầu xin cho ông ta, cũng vì sợ lòng tốt lại làm hỏng việc, nên không một ai dám đi hỏi han, chỉ âm thầm theo dõi việc thẩm tra xử lý vụ án.
Điểm khác biệt lớn nhất của Đại lý tự so với các nha môn khác đó là “càng ít việc càng tốt”, thường thì hình ngục đều do các quận huyện xử lý, trừ phi có vụ án nào kinh động thiên triều, quan đại lý mới ra tay. Chung Do đã giữ chức này được hơn ba năm, ngoài vụ làm phản của Nghiêm Tài lần trước thì ông ta cũng chưa phải đích thân xét hỏi thêm vụ nào. Hơn nữa, từ khi Tào Tháo tấn phong chư hầu vương đến nay, sớm đã ngầm định Chung Do giữ chức Tướng quốc nước Ngụy, tử tôn họ Tuân đã chết hết, lúc này dù xét về xuất thân, kinh nghiệm hay tài đức đều không ai sánh bằng ông ta, đảm nhiệm chức Tể tướng cũng là sự kỳ vọng của mọi người. Ngụy Vương là Tể tướng của nhà Hán, Chung Do là Tể tướng của nước Ngụy, một nước có những hai Tể tướng, vinh dự biết bao! Ấy nhưng chiếu thư bổ nhiệm sắp đến thì lại gặp phải vụ án nan giải.
Ngày xét thẩm trời nắng rực rỡ, ngoài sân còn náo nhiệt hơn bên trong, người dưới công đường còn đông hơn trên công đường, đoàn người đông đúc xếp hàng từ ngoài đường vào, thì thầm to nhỏ, bàn tán xôn xao.
Trống điểm ba tiếng, binh lính nha dịch đứng ngay ngắn hai bên, quan đại lý Chung Do chậm rãi bước lên công đường. Phía tây công đường có ba tả quan bồi thẩm là Đại lý chính, Đại lý giám và Đại lý bình. Phía đông công đường còn có Thượng thư bộc xạ Lương Mậu, Tây tào duyện Đinh Nghi, Kỵ đô úy Khổng Quế đang ngồi, ba người này nhận lệnh của Tào Tháo đến giám sát. Chung Do tay đặt lên án, nhìn khắp trên dưới
công đường mà lòng dạ rối bời, nhắm hai mắt lại, hít thật sâu, sau đó mới đập bàn, thét lớn:
— Yên lặng!
Mọi người ai cũng nể sợ Chung Do, trong công đường lập tức im lặng, nhưng im lặng còn căng thẳng hơn cả huyên náo, chúng nhân đều mở to mắt nhìn Chung Do. Ông đưa tay vuốt râu, định thần quan sát xung quanh - Lương Mậu hai mắt nhìn xuống, vẻ mặt rất bi ai; Khổng Quế liếc ngang nhìn dọc, chắc là đến xem ồn ào; Đinh Nghi bình tĩnh cười mỉm, có vẻ rất đắc ý.
Mặc dù Tào Tháo không nói, nhưng Chung Do sớm đã biết người hãm hại Mao Giới chính là Đinh Nghi, họa này bắt nguồn từ câu than “Trời không cho mưa, cũng chính vì cách làm này!” mà Mao Giới đã nói khi nhìn thấy đám phạm nhân hôm ấy. Chuyện thiên tai, hạn hán đã khiến Tào Tháo lo nghĩ, đúng lúc này Mao Giới lại vô tình thốt ra câu đó, có khác nào chọc vào tổ kiến lửa? Nhưng chỉ vì câu nói này mà phải tống giam xử tội sao? Hẳn là Đinh Nghi đã thêm mắm dặm muối, buông lời gièm pha, Khổng Quế thì gió chiều nào xoay chiều ấy, cũng chẳng giúp được gì.
Chung Do suy xét hồi lâu, Đại lý chính Tư Mã Chi ở bên cạnh nói:
— Khải bẩm đại nhân, vụ án này liên quan đến đại quan giữ chức Thượng thư, hơn nữa lại có lời nhạo báng, liên quan đến thể diện của vương quyền, hạ quan nghĩ nên cho những người dưới công đường ra ngoài, đóng cửa thẩm vấn. - Tư Mã Chi là người họ Tư Mã ở Hà Nội, có họ hàng với huynh đệ Tư Mã Ý, năm ngoái vừa được điều đến Đại lý tự, ông ta làm quan chính trực, nghiêm minh nên được Chung Do coi trọng. Những lời này đều được Đại lý giám và Đại lý bình đồng tình.
— Rất tốt, rất hợp ý ta. - Chung Do lập tức xua tay, binh lính cầm trượng tiến lên, đưa hết những người đứng ở dưới công đường ra ngoài. Đây là nơi thực hiện vương pháp, bất kể người có thân phận thế nào cũng phải tuân lệnh, có mấy vị đồng liêu thân cận cũng phải ra về.
Mọi người đi hết, cửa lớn đóng lại, Chung Do cảm thấy tự tại hơn, cúi đầu xem kỹ hồ sơ vụ án. Kỹ thực vụ án này rất đơn
giản, câu nói này chắc chắn thốt ra từ miệng Mao Giới, nhưng ngoài câu này ra liệu Đinh Nghi có gièm pha thêm câu nào không thì chẳng ai biết. Nếu lúc này Mao Giới nhận tội thì liệu có mất mạng như Thôi Diễm không? Luận về công trạng, Mao Giới là trung thần của trung đài, lại là nguyên thần của Tào cung, chỉ vì mấy lời oán than mà bị xử tội thì không công bằng; nếu luận tình riêng, Chung Do và Mao Giới kết thân tình đã lâu, hơn hai mươi năm làm đồng liêu, Mao Giới thẳng thắn, trung hiếu thế nào ông rất rõ, nếu không giúp đỡ thì không đành. Nhưng chuyện lần này lại không giống chuyện của Thôi Diễm, Đinh Nghi chỉ nghe được nên tố cáo, không có bằng chứng gì, đây cũng có thể coi là còn đường sống. Chung Do muốn tìm cách giúp Mao Giới, nhưng lại không muốn trái ý Tào Tháo, nên suy nghĩ rất cẩn trọng…
— Chung công! - Đinh Nghi đột nhiên phá vỡ sự im lặng, - Thăng đường đã lâu sao không thẩm tra? Đại vương đang chờ kết quả, không thể chậm trễ.
— Ồ. - Chung Do không dám kéo dài thời gian, truyền lệnh cho nha dịch, - Đưa phạm nhân lên!
Đinh Nghi đoán Chung Do có ý thiên vị, nheo mắt cười nói: — Chung công, lúc phụ thân ta còn sống từng nói ngài là một vị quan tốt, chí công vô tư. Tiểu điệt lần đầu tiên được xem ngài xử án, nếu ngài cảm thấy không ổn thì đừng cố, để tiểu diệt nói với đại vương thay người khác…
Chung Do liếc nhìn Đinh Nghi, trong lòng chửi thầm: Tên nát rượu Đinh Xung, ở trên trời có linh thì mở to mắt xem ngươi dạy con thế nào!
Tiếng leng keng vang lên, Mao Giới đeo xiềng xích, bị bốn tên lính áp giải, lảo đảo bước lên công đường. Không nhìn thấy Mao Giới, Chung Do còn bình tĩnh, vừa nhìn thấy Mao Giới, tự nhiên ruột gan nóng như lửa đốt - Hôm qua còn là trung lương của xã tắc, hôm nay đã thành phạm nhân. Mao Hiếu Tiên đã hơn sáu mươi tuổi, đầu tóc bạc phơ, mặt mũi đầy nếp nhăn và lấm bẩn, hai con mắt đờ đẫn vô hồn dường như đã nản lòng thoái chí, tay chân đều đeo cùm, lưng còng bước thấp bước cao, khiến người khác không khỏi cảm thấy thương hại.
Thỏ chết cáo khóc thương, Chung Do xúc động lệnh cho binh lính:
— Tháo gông xiềng ra…
— Tạ ơn đại nhân… - Mao Giới thều thào, binh sĩ tháo gông xong, lại ấn Mao Giới quỳ xuống.
Chung Do không biết xử lý vụ án thế nào, nhưng Đinh Nghi ngồi bên cạnh luôn thúc giục, đành hỏi:
— Phạm quan Mao Giới đã biết tội chưa?
Mao Giới thẳng lưng, nói lớn:
— Tại hạ không biết mình phạm tội gì!
Người trong công đường đều nghĩ: Mao Hiếu Tiên cứng đầu, vậy là lại có một người thà chết không nhận tội. Chung Do vừa mừng vừa lo, mừng là vì tâm tư của Mao Giới chưa chết, vẫn còn có thể hồi chuyển, còn lo là vì việc này sẽ khó giải quyết. Ông không nhẫn tâm ép cung, nhưng cũng không thể kết luận vô tội, bèn thuật lại sự việc:
— Mao Giới, có người đã bẩm báo mấy ngày trước ông có nói những lời bình luận, trong đó có những từ phỉ báng triều đình, có chuyện này không?
— Không nhớ. - Mao Giới rất thông minh: Nếu nói có tức là nhận tội, nói không có thì nếu bị nhân chứng xác thực sẽ chồng thêm tội. Tốt nhất là cứ trả lời mơ hồ.
Chung Do lại nói:
— Ông từng nói hình luật của đại vương hà khắc, không tha cho cả vợ con phạm nhân, cho nên trời mới cảnh cáo giáng nạn hạn hán, có lời lẽ như vậy không?
— Không nhớ.
— Có phải là ông có tư tình gì với những phạm nhân đó? — Không quen những phạm nhân đó.
— Ông có biết nói những lời đó là có tội không?
— Không biết.
Sau khi hỏi ba câu này, Chung Do tin chắc rằng đầu óc Mao Giới vẫn rất tỉnh táo. Lúc này chẳng còn gì để hỏi, nếu nhất quyết không nhận tội sẽ phải dùng hình, nhưng Chung Do há có thể xuống tay với Mao Giới? Vì vậy cố ý hăm dọa:
— Ông là quan lớn của trung đài, sao lại không biết nói những lời này là có tội? Rõ ràng là giảo biện! - Nói xong vuốt râu, từ từ giải thích, - Các bậc thánh đế minh vương từ cổ chí kim, xử tội phạm nhân xử luôn cả vợ con là điều thường tình. Thượng thư có câu: “Tả bất công vu tả, nhữ bất cung mệnh; hữu bất công vu hữu, nhữ bất cung mệnh. Dụng mệnh, thưởng vu tổ; phất dụng mệnh, lục vu xã, dư tắc nô lục nhữ.”(*)
Ba quan của Đại lý tự ngạc nhiên: Thẩm tra vụ án sao lại lôi cả Thượng thư ra, Chung công có ý gì vậy?
Chung Do có tật những lúc căng thẳng thường không biết biểu đạt thế nào, thôi đã trót nói thì đành nói tiếp: — Theo hình pháp thời thượng cổ, đàn ông phạm tội sẽ phạt làm nô lệ, phụ nữ bắt đi giã gạo, cắt cỏ. Theo vương pháp thời nhà Hán, vợ con của phạm nhân bị bắt làm nô tì, bị thích chữ vào mặt, luật này có từ thời xưa. Vì tổ tiên của những nô tì hiện nay có tội, nên mặc dù đã qua hàng trăm năm, nhưng vẫn có người phục dịch trong phủ quan, có vết thích chữ trên mặt, cớ sao lại vậy? - Chung Do tự hỏi tự trả lời, - Một là khoan dung với dân phu hiền lành, hai là dùng nhiều cách khác để trị tội… - Lúc này dường như không phải là thẩm tra nữa, mà là kể lể dài dòng những điều tâm đắc của Chung Do về luật pháp. Tư Mã Chi ngồi ở mé đông trong lòng sốt ruột bèn giả vờ ho lên một tiếng.
Chung Do nghe thấy vội vàng quay lại chuyện chính: — Nếu ngay cả chuyện thích chữ lên mặt cũng không làm trái ý thần linh, sao có thể dẫn đến hạn hán?
Mao Giới mấp máy môi chưa kịp mở lời, Chung Do đã đập bàn nói tiếp:
— Nếu xét đến ngũ hành theo thiên Hồng phạm, chính sự hà khắc thì trời lạnh giá, cho nên mưa dầm; chính sự lỏng lẻo thì trời nóng nực, cho nên khô hanh. Những lời phỉ báng của ông căn bản không đúng với ý nghĩa trong kinh sách, nếu như nói pháp chế của đại vương hà khắc thì trời phải mưa gió ngập lụt, nhưng lúc này chẳng phải đang hạn hán sao? - Lời này nói ra, Đinh Nghi cau có mặt mày. Hắn đoán thể nào Chung Do cũng bênh vực Mao Giới, do vậy mới xin làm giám sát, nhưng
những lý luận bát nháo này cũng khiến Đinh Nghi mơ hồ. Chung Do không xét đến lời lẽ của Mao Giới, mà lại đào sâu những căn cứ kinh nghĩa trong lời phỉ báng đó, rốt cuộc có ý gì? Không chỉ có Đinh Nghi, mà ngay cả Lương Mậu, Khổng Quế cũng mơ hồ.
Chung Do lại nói tiếp giáo lý trong kinh sách, càng nói càng xa:
— Vua Thành Thang, Chu Tuyên đều là những bậc thánh quân, vậy mà trong thời gian trị vì, dân gian cũng từng gặp hạn hán. Từ khi chiến tranh xảy ra cho đến nay, hạn hán liên tục đã ba mươi năm, nhưng ông lại quy kết do hình phạt thích chữ vào mặt, ông nói xem thế có đúng không? Khi xưa nước Vệ đánh nước Hình, vừa xuất binh trời đã đổ mưa lớn, vẫn chưa kịp gây ra tội ác gì, sao ông trời đã giáng mưa xuống? - Hai câu hỏi này chẳng liên quan gì đến vụ án, cũng không giống như đang tra hỏi, mà đơn giản là điểm lại kinh nghĩa.
Ba quan Đại lý tự và đám người Lương Mậu hôm nay đúng là được mở mang đầu óc. E rằng từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa cho đến nay chưa từng có ai xử án như vậy. Thẩm án đều là người bên trên hỏi, người bên dưới trả lời, nhưng hôm nay thì hoàn toàn ngược lại, Chung Do ở trên lý luận một tràng, phạm nhân ở dưới nghe đến mức hai mắt căng ra. Hỏi toàn thứ trong kinh sách thì Mao Giới biết trả lời thế nào?
Mao Giới không biết nói gì, chỉ im lặng nghe. Chung Do đã có chủ ý, chuyển chủ đề rất nhanh:
— Những lời phỉ báng của ông nay đã Lưu truyền trong dân gian, đại vương nghe thấy rất phẫn nộ. Ông không thể tự nói một mình, lúc nhìn thấy đám phạm nhân bị thích chữ vào mặt, ngoài ông ra còn có ai? Ông đã nói với ai? Người đó trả lời ra sao? Đó là vào ngày nào? Ở đâu? - Ông ta tuôn một tràng dài, hoàn toàn không để cho Mao Giới có cơ hội trả lời. Sau khi hỏi xong, Chung Do đập bàn, - Ông nghe cho rõ! Người tố cáo ông đã làm chứng, đại vương đang nghi ngờ, ông liệu mà nghĩ cho kỹ… phải khai cho thành thật. - Nói xong câu này, Chung Do nhìn chằm chằm vào mắt Mao Giới.
Người khác không hiểu, nhưng Tư Mã Chi vừa nghe đã hiểu, liếc nhìn Đinh Nghi còn đang mơ hồ, trong lòng cười thầm: Chung công thật lợi hại! Dùng “mê hồn trận”, khiến kẻ khác không bắt kịp suy nghĩ.
Cả công đường im lặng, Mao Giới cúi đầu suy nghĩ: Chung Nguyên Thường rốt cuộc có ý gì? Ông ấy hỏi ta hôm đó có ai khác, đã nói gì, nhưng lại không cho ta trả lời ngay? Trừ phi… trừ phi ám chỉ ta không được nhận tội, mà phải lôi người tố cáo ra? Đúng rồi, ta ở trong ngục không biết người tố cáo là ai, nhưng kẻ này chắc chắn đã thêm thắt, gièm pha ta, nếu ta nhận tội, vô hình chung đã thừa nhận tất cả; nếu ta không nhận tội, kéo những kẻ có mặt ngày hôm đó ra làm chứng, chỉ sợ liên quan đến nhiều người sẽ càng khó làm rõ. Chung Nguyên Thường ám chỉ ta nên lôi người tố cáo ra, tố tội hắn vu cáo người khác, như vậy sẽ có cơ hội lật lại vụ án…
Nghĩ đến đây, Mao Giới bỗng thấy tinh thần phấn chấn, giọng điệu trở nên mạnh mẽ:
— Tại hạ nghe Tiêu Vọng Chi chết là do Thạch Hiển hãm hại; Giả Nghị bị giáng chức là do Chu Bột, Quán Anh gièm pha; Bạch Khởi vì lời nói của Phạm Thư mà phải cầm kiếm tự sát; Triều Thác vì Viên Áng gài mưu mà bị xử trảm ở ngoài chợ; Ngũ Tử Tư bị Bá Hi vu hại mà chết ở đất Ngô. Những trung lương này đều chết do bị kẻ khác đố kỵ hãm hại… - Nói đến đây, Mao Giới cảm thấy khổ tâm, ông cúc cung tận tụy, trung thành với Tào Tháo hai mươi năm, nay lại phải vào hình ngục há không đau xót cho được? Nước mắt lưng tròng, cắn răng nói tiếp, - Ngay từ khi còn trẻ, tại hạ đã phụ trách việc văn thư, tấu sớ của mạc phủ, nhờ cần cù chăm chỉ mà được chọn làm quan. Việc công giao phó cho tại hạ, không có người quyền thế nào được bỏ qua; Việc oan khuất đến tai tại hạ, không oan tình nào không được điều tra. Chuyện hôm nay, chắc chắn có người gài bẫy, dùng những lời vu cáo để hãm hại tại hạ, khẩn cầu đại nhân đưa người tố cáo đó lên đây, tại hạ sẽ đối chất với hắn, nếu đúng là tại hạ có ý phỉ báng, tình nguyện bị xử, còn nếu không… - Mao Giới đột nhiên gằn giọng, - Cũng không thể bỏ qua tội vu cáo này!
Chung Do thở phào nhẹ nhõm: Nói hay lắm, không phụ ý tốt của ta!
Đinh Nghi giật mình kinh hãi. Thực sự mà nói, Mao Giới đúng là đã nói câu “Trời không cho mưa, cũng chính là vì cách làm này”, đây rõ ràng là lời than vãn, nhưng cũng chỉ có thế mà thôi; có điều hắn không chỉ kể với Tào Tháo có vậy, mà còn phóng đại thành lời chửi rủa. Nếu đối chất trên công đường, cả hai chỉ nói mồm mà không có chứng cứ, diễn biến cáo trạng thành hai bên chỉ trích nhau. Tiếng tăm của Mao Giới lớn hơn Đinh Nghi gấp bội, việc hắn hại chết Thôi Diễm khiến nhiều người phẫn nộ, nếu lại lôi ra chuyện này, chưa biết chừng có người sẽ nhảy ra giúp Mao Giới làm chứng, như vậy chẳng những không trừ bỏ được người ta mà còn làm hại mình! Đang lúc không biết làm thế nào, lại nghe tiếng Chung Do lạnh lùng nói:
— Việc đối chất này bản quan không thể làm chủ! Đợi ngày mai bẩm báo lên đại vương rồi quyết định. - Nói xong đập bàn, - Giải phạm nhân về ngục, bãi đường!
Vậy là vụ án được xử lý mơ hồ như vậy, ba quan của Đại lý tự thở phào nhẹ nhõm.
Chung Do tạm bỏ bộ mặt sắt, cười nói với ba vị quan giám sát:
— Lão phu đã gắng hết sức, việc đối chất xin ba vị về tấu lại với đại vương. Vì người tố cáo là ai, lão phu cũng không biết, chỉ e xử qua loa sẽ khiến mọi người bất phục!
— Có lý, có lý! - Lương Mậu không ủ rũ nữa, mà họa theo, - Phải đối chất trực tiếp để hỏi rõ ràng hơn.
Đinh Nghi thấy bọn họ kẻ xướng người họa, trong lòng bực tức, xem kỹ sổ bạ ghi chép của thư lại. Đinh Nghi ngờ rằng Chung Do đã xui Mao Giới khai như vậy, nhưng tìm mãi vẫn không ra sơ hở, trong lòng vô cùng tức tối. Lương Mậu vỗ vai:
— Đinh tây tào, đại vương đang đợi chúng ta về bẩm báo, còn không mau đi?
— Ây dà! - Đinh Nghi không can tâm rời đi.
Chung Do cố ý chọc tức hắn, vuốt râu cười nhạt: — Hiền điệt, lão phu tra hỏi trên công đường thế nào?
Đinh Nghi thở dài, chắp tay nói:
— Bái phục, bái phục!
Chung Do về đến thư phòng, mồ hôi lạnh túa ra: Vụ án này thực quá nguy hiểm, quan thẩm án còn mệt hơn cả phạm nhân! Trước mắt coi như qua được cửa ải này, tiếp theo phải làm sao? Tào Tháo liệu có để Đinh Nghi và Mao Giới đối chất không? Đinh Nghi liệu có chịu lộ diện? Ông xem lại từ đầu đến cuối lời khai, tin chắc không tìm ra được sơ hở nào mới thở phào. Khẽ tựa vào thư án, Chung Do mải miết suy nghĩ đối sách, lão bộc tâm phúc đến bẩm báo:
— Đại nhân, Ngũ quan tướng sai Chu Thước đến cầu kiến. — Sao? - Chung Do đoán chắc là chuyện liên quan đến Mao Giới, - Không gặp!
Lão bộc lại nói:
— Chu tiên sinh nói, đại nhân không gặp cũng không dám làm phiền, nhưng có một thứ nhất định phải đưa ngài xem. - Nói xong quay ra hành lang ôm vào một túi vải. - Chu tiên sinh còn nói, ông ấy đợi ở cửa sau, ngài xem xong nhất định sẽ gọi vào. - Lão bộc rất biết điều, nói xong liền lui ra bên ngoài.
Chung Do mở túi vải, nhìn thấy có một chiếc ngũ phủ đỉnh(*)làm bằng đồng xanh, vật này không lớn không nhỏ, giống đồ bày biện. Chung Do nhìn chiếc đỉnh, chợt nhớ đến câu nói của Lão Tử: “Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên,”(*) người đầu bếp phải biết chỉnh lửa, chỉnh vị sao cho khéo. Ngũ quan tướng có ý chúc mừng ta đảm nhiệm chức Tướng quốc, tặng vật này cũng rất ý nghĩa.
Tiếp đến, ông nhìn xuống phía dưới chiếc đỉnh còn có một cuốn sách, mở ra xem, vẫn là nét bút của Tào Phi, dùng chữ tiểu triện viết ngay ngắn thẳng hàng:
Khi xưa, Hoàng Đế có tam đỉnh, nhà Chu có cửu đỉnh(*), nhưng đều được đúc liền một khối để điều chỉnh một hương vị, nay đỉnh này có thể điều chỉnh được năm hương vị, chẳng phải rất tiện lợi sao? Dùng đỉnh nấu ăn, dâng lên thượng đế, nuôi dưỡng thánh hiền, tạo đức cầu phú, tốt đẹp biết bao. Cho nên, người làm được vật này chỉ có thể là bậc đức cao; cũng giống như chỉ có vật này mới hợp với người đức cao, mà chiếc đỉnh
năm ngăn đây lại tốt hơn tất cả những chiếc đỉnh ba chân kia. Xưa, chỉ có bốn bề tôi là quan chủ sự nhà Chu, Khảo Phụ nhà Tống, Khổng Khôi nước Vệ, và Ngụy Khỏa nước Tấn, được khắc tên trên đỉnh đồng để ghi công đức. Nay, Chung đại nhân kính cẩn phụng sự Đại Ngụy, mở rộng giáo hóa ra khắp nơi. Đức cao vòi vọi ấy, chẳng ai sánh bằng. Đảng lẽ, quan thái thường nên làm một bài minh về ngài, khắc trên đồ tế khí. Nghĩ vậy, ta đã viết bài minh, và cho khắc trên miệng chiếc đỉnh này để ca ngợi công lao của ngài, đời đời không quên.
Chung Do thấy không nhắc đến chuyện của Mao Giới, nên cũng thấy thoải mái hơn, quan sát kỹ chiếc đỉnh - mặc dù không to nhưng chạm trổ hết sức tinh tế, chắc chắn phải do một người thợ tài hoa làm ra, ở trên còn viết mấy chữ có ý ca ngợi Chung Do là tấm gương của bách quan, và là trụ cột của vương triều.
Khi chạm tay vào từng đường nét trên chiếc đỉnh, Chung Do cảm thấy đôi chút băn khoăn. Nếu nhận thì có nghĩa là có quan hệ riêng tư với Ngũ quan tướng; mà nếu không nhận có nghĩa là gây hiềm khích với Ngũ quan tướng, rốt cuộc phải làm thế nào?
Chung Do đặt chiếc đỉnh xuống, cầm tín thư xem lại một lượt, từ đầu đến cuối đều là những lời chúc, chỉ có ý khen ngợi nhân đức công trạng của ông, không có lời lẽ nào lôi kéo. Chung Do cau mày suy nghĩ: Thôi Diễm đã chết rồi, nếu Mao Giới lại gặp họa, ai còn dám bảo vệ Tào Phi? Nhưng, chuyện này không chỉ dừng lại ở việc tranh ngôi đoạt vị nữa, hai vị lão thần lần lượt gặp nạn, nếu tính trước đây còn có cả Từ Dịch. Đinh Nghi một lúc kéo đổ cả ba người, chuyện gì cũng dám làm, thử hỏi có còn đạo lý tình người không? Quần thần phẫn nộ nhưng không dám nói ra, ta thân là Tướng quốc, nếu cũng không bảo vệ được các trung thần thì nói gì đến việc phò tá thiên tử, chủ sự triều chính? Tào Phi dù sao cũng là trưởng tử, vừa hợp với tông pháp lại không mắc tội lỗi gì, nên không thể từ chối. Hơn nữa, Đinh Nghi đã dám vu cáo làm hại Mao Giới, thì cũng không biết sau này có làm hại ta không? Hôm nay ta xét xử như vậy cũng có khác nào đã gây thù với hắn, nếu phải nhẫn nhịn hắn thì thà rằng…
Chung Do hai mắt sáng lên, không do dự nữa. Ông đặt chiếc đỉnh lên trên thư án, quay ra dặn dò lão nô bộc: — Nói với Chu Thước, đỉnh này ta nhận, nhờ hắn chuyển lời tạ ơn đến Ngũ quan tướng.
— Rõ. - Lão nô bộc nhận lệnh.
— Khoan! Ngươi tiễn tên họ Chu này đi, rồi tìm Tư Mã đại nhân đến đây cho ta. - Nói xong Chung Do cất kỹ thư tín, tìm một chiếc khăn lụa trắng tinh, viết nhanh một bức thư, đợi mực khô liền nhét khăn vào túi gấm.
Vừa làm xong thì Tư Mã Chi cũng đến:
— Chung công có gì dặn dò?
Chung Do cười nói:
— Tử Hoa không cần đa lễ, theo ngươi vụ án của Mao Giới nên làm thế nào?
— Mặc dù có nói lời oán than, nhưng không nên xử tội. - Tư Mã Chi thẳng thắn, - Mao công phò tá đại vương hai mươi năm trời, một lòng trung thành lẽ nào lại nói lời phỉ báng? Chẳng qua là vì tức giận. Nửa năm nay trời giáng tai họa, binh lính nổi loạn, lòng người không yên, muốn bịt miệng dân còn khó hơn lấp sông ngăn bể, nếu ngay cả mấy câu than phiền cũng không được nói, xã tắc ắt tích thành họa lớn.
— Nói rất đúng, rất hợp ý ta! - Chung Do nhét túi gấm vào tay Tư Mã Chi, - Lão phu định cứu mạng Mao công, nhưng vì thẩm lý vụ này nên không thể ra mặt, hơn nữa hôm nay Đinh Nghi giám sát, hẳn cũng biết ta có nể tình riêng. Đây là mật thư, ngươi thay lão phu mời người khác đến giúp.
— Mời ai?
— Theo ta tính thì chỉ có một người có thể cứu được Mao công. - Chung Do cười bí hiểm, - Thị trung Hòa Hiệp.
Cố cứu lão thần
Từ thời Hiếu An Đế đến nay, vẫn không ngăn được việc hoạn quan can dự vào triều chính, Tào Tháo từng tận mắt
chứng kiến sự tham ô, càn quấy của bọn Thập thường thị như Vương Phủ, Tào Tiết, Trình Hoàng, Kiển Thạc, cũng đã từng trải qua cuộc chính biến vây bắt hoạn quan, nên không có ấn tượng tốt đẹp gì với đám hoạn quan. Nhưng, đến khi Tào Tháo lên làm vua một nước, ông cảm thấy vẫn cần phải giữ chế độ hoạn quan. Bởi vì trong vương cung có nhiều thê thiếp, Tào Tháo lại ngày một già yếu, vạn nhất có vị phu nhân nào tặng cho “cái sừng” thì biết giấu mặt vào đâu? Thế là, Ngụy cung cũng bắt đầu dùng hoạn quan, nhưng chỉ cho làm nô bộc tạp dịch, bỏ chức Trung thường thị, chỉ để lại Tiểu hoàng môn, không được phép tham gia hộ vệ, sửa soạn văn thư để hạn chế thế lực của hoạn quan. Quan nội thị do sĩ nhân, hoạn quan cùng đảm nhiệm, cũng coi như khôi phục chế độ cũ thời Quang Vũ Đế trung hưng nhà Hán, nghĩ đến tổ phụ Tào Đằng của mình cũng là hoạn quan, nên Tào Tháo đã để cho họ con đường sống, cũng coi như để xứng đáng với tổ tông.
Cho đến lúc này, Tiểu hoàng môn được Tào Tháo sủng tín nhất là Nghiêm Tuấn, hắn tuy ít tuổi nhưng rất lanh lợi, lại là người Bái Quốc, nói giọng địa phương, không chỉ được Tào Tháo yêu quý mà các phu nhân hậu cung cũng rất quý mến, thường ban cho hoa quả ăn. Trong nội cung, khi gặp các quan lớn Nghiêm Tuấn thường tỏ ra là một đứa trẻ hay làm nũng, nhưng nếu gặp các quan có chức vụ nhỏ thì không tròn mắt nhìn họ nữa mà tỏ ra rất kiêu căng.
Nhưng hôm nay, Nghiêm Tuấn lén nhìn một vị đại thần rất nhiều lần, hắn đi trước dẫn đường, cứ hai bước lại quay lại nhìn, đúng là chưa bao giờ gặp ai xấu đến thế. Người này khoảng hơn năm mươi tuổi, mặt dài như trái dưa, trán rộng, mũi tẹt, mày trái cao, mày phải thấp, mắt tam giác, miệng rộng, râu ngắn, ngực dô ra phía trước lưng cong về phía sau. Chưa hết, Nghiêm Tuấn quay lại nhìn xem vị đại nhân này đi đứng thế nào - Chân vòng kiềng, bước đi hình chữ bát, đúng là chưa bao giờ trông thấy ai có dáng đi như vậy.
Nhưng y phục thì khác hoàn toàn với tướng mạo, áo quan làm từ gấm Minh Hoàng, đầu đội mũ điêu đương có gắn bạc và đuôi lông chồn ở bên trái, lưng thắt đai xanh, đây là trang phục của quan Thị trung bổng lộc hai nghìn thạch. Đi khắp thiên hạ,
chắc chỉ có duy nhất một người vừa xấu lại vừa làm quan to như vậy, đó chính là Hòa Hiệp, tự Dương Sĩ.
Hiện nay, ngoài Khổng Quế ra thì đại thần được Tào Tháo yêu mến nhất chính là ba người Vương Xán, Đổng Tập và Hòa Hiệp, trong đó Hòa Hiệp chiếm được nhiều cảm tình nhất. Hòa Hiệp vốn là nhân sĩ Nhữ Nam, từng được đem ra bình phẩm trong “nguyệt đán bình.”(*) Ngay từ khi còn trẻ, Hòa Hiệp đã có tiếng tăm nhưng không ra làm quan. Hà Tiến, Viên Thiệu có ý chiêu mộ, Hòa Hiệp cũng không theo; thiên hạ loạn lạc, ông ta phải chạy đến Kinh Châu, nhưng cũng không ra giúp Lưu Bị, cho đến khi Tào Tháo bình định được Kinh Châu mới ban cho làm duyện thuộc. Tính ra trước khi làm quan cho Tào Tháo, ông ta cũng chưa làm quan bao giờ, vậy mà từ khi bắt đầu dốc sức cho Tào Tháo vào năm Kiến An thứ mười ba đến năm Kiến An thứ mười tám, nước Ngụy được lập, ông ta đã được bổ nhiệm làm Thị trung ngay trong lần đầu Ngụy quốc phong quan. Ông ta từ một kẻ áo vải chỉ mất có năm năm đã lên được chức Thường bá(*), trong cung Tào không có người thứ hai được như vậy! Vương Xán có tài văn chương nên được yêu mến, Đỗ Tập có lòng trung thành, chính trực nên được trọng dụng, nhưng Hòa Hiệp thì lại khác, mặc dù giữ chức Thị trung nhưng rất ít khi vào cung hầu vua, ngoài những buổi triều hội lớn ra thì rất ít khi lộ diện. Người trong triều đều biết Hòa Hiệp được Tào Tháo tín sủng, nhưng không rõ là Tào Tháo xem trọng điểm nào từ ông ta, hay xấu quá cũng là lợi thế?
Nghiêm Tuấn vừa trông thấy Hòa Hiệp đã cảm thấy buồn cười, nhưng không dám cười thành tiếng, chỉ he hé miệng dẫn ông ta vào ôn phòng. Trời nóng nên tất cả các cửa đều mở, trong điện chỉ treo một mảnh lụa mỏng để ngăn côn trùng, Hòa Hiệp nhìn vào trong thấy Tào Tháo mặc một bộ tiện y, ngồi sau bức rèm đánh cờ vây. Người đánh cờ cùng Tào Tháo khoảng ba mươi tuổi, dáng người cao ráo, cử chỉ cung kính, đó chính là Đinh Nghi; tất nhiên bên cạnh Tào Tháo không thể thiếu Khổng Quế, tay cầm quạt phe phẩy; ở góc điện vẫn còn một người nữa, nhưng chỉ nhìn thấy bóng, không rõ là ai.
Không cần hỏi cũng biết, Đinh Nghi sau khi giám sát buổi thẩm vấn đã quay lại bẩm báo Ngụy Vương, lúc này quân thần hai người đã bàn bạc xong, nhưng chắc đoán có người đến cầu xin nên cố ý bày ra cảnh này để từ chối can gián, phải làm thế nào đây? Hòa Hiệp đảo mắt, đột nhiên véo tai Nghiêm Tuấn:
— Tên tiểu tử này! Ngươi vừa cười cái gì?
— Dạ, không có! úi da, úi da!… - Nghiêm Tuấn bất thần bị véo, đau quá hét lên, - Xin ngài buông tay! Buông tay! Tiếng ồn bên ngoài làm kinh động bên trong, Tào Tháo nhìn ra ngoài, cất giọng hỏi:
— Có phải Dương Sĩ không? Có chuyện gì vậy? — Chính là vi thần. - Hòa Hiệp nói, nhưng vẫn không buông tay, - Khải bẩm đại vương, tên thái giám này cười nhạo tướng mạo của thần!
Nghiêm Tuấn the thé cãi lại:
— Tiểu nhân vẫn là nội thị của đại vương, ngài làm nhục tiểu nhân trước mặt mọi người… Vô lễ! Làm nhục tiểu nhân là làm nhục đại vương… Ái da, ái da! - Tên tiểu tử này thật biết ăn nói.
Khuôn mặt xấu xí của Hòa Hiệp giật giật mấy cái tựa như đang cười:
— Ngươi chưa từng nghe câu “Không biết vẻ đẹp của Vô Diệm(*)là bởi vô tâm” hả? Nhà ngươi chỉ là tên nội thị nhãi ranh, vậy mà dám nhìn tướng mạo để đánh giá người khác, đáng phải đánh!
Tào Tháo cười vui vẻ:
— Ngươi bằng đấy tuổi, sao lại chấp nhặt một tên tiểu tử? — Đi mau! Đi mau! - Lúc này Hòa Hiệp mới buông tay, quay sang bẩm tấu, - Thần cho rằng những kẻ ít tuổi thế này cần phải được dạy bảo, từ bé đã nuông chiều dễ sinh ra vô lễ, trên thì đánh mất công đạo, dưới thì làm trái ý người, há chẳng phải sẽ khiến những bậc chính trực cảm thấy thất vọng? Tay Đinh Nghi đang cầm quân cờ bất giác run lên - Câu này là nói ai?
Tào Tháo cười nói:
— Dương Sĩ đến đây vì vụ án của Mao Giới? Ta đã có chủ ý, chớ nhiều lời.
Hòa Hiệp cười nói:
— Thần đến vì chuyện của Hán Trung.
— Chuyện Hán Trung?
Hòa Hiệp vừa nói vừa bước vào trong điện:
— Chúa công tuy đã có được Hán Trung nhưng chưa lấy được đất Thục, gần đây nghe nói Trương Cáp dẫn quân vào quận Ba giao chiến với Trương Phi, sợ rằng khó thắng. Hán Trung gần địch mà xa ta, đại quân vừa mới rút về, lâu ngày sẽ thành thế địch tấn công, ta phòng thủ, cục diện này sẽ làm tiêu hao binh lực, chi bằng hãy để cho quân dân Hán Trung cùng dời về Quan Trung, tạm thời ngừng chuyện binh đao.
Tào Tháo suýt chút nữa thì cười thành tiếng: Nói như vậy chẳng phải là hai tay dâng Hán Trung cho Lưu Bị sao? Ông đoán là Hòa Hiệp không có chuyện gì mới cố ý tìm lời để nói, không thèm để ý đến, chỉ đáp:
— Để ta nghĩ thêm. - Rồi lại tiếp tục đánh cờ.
Hòa Hiệp trong lúc nói mới nhìn rõ, hóa ra người đứng trong góc điện là Hổ bôn trung lang tướng Hoàn Giai, nhìn thấy bộ mặt bất lực của ông ta, Hòa Hiệp đoán chắc là đến đây vì việc của Mao Giới, nhưng đã bị Tào Tháo cự tuyệt. Hòa Hiệp thầm nghĩ: Được lắm Hoàn Bá Tự, ai cũng biết ông theo Tào Phi, lúc này các quan đều cúi đầu ngậm miệng, riêng ông lại không tránh hiềm nghi, vẫn xuất đầu lộ diện, đúng là anh hùng!
Hòa Hiệp trong lòng nghĩ vậy nhưng không tỏ ra mặt, nếu để Ngụy Vương hiểu nhầm họ thông đồng với nhau thì càng khó giải quyết. Hòa Hiệp đã có chủ ý, không nói không rằng đứng sang bên cạnh, ngẩng mặt nhìn Ngụy Vương. Hòa Hiệp nhìn Tào Tháo lẽ nào Tào Tháo không nhìn ông ta? Vấn đề ở chỗ khuôn mặt Hòa Hiệp quá xấu không thể nhìn lâu. Tào Tháo biết vì sao Hòa Hiệp đến, nhưng ông ta lại nói vòng vo, còn phô cái bản mặt xấu xí ra đối diện với mình, chẳng mấy chốc Tào Tháo đã không còn tâm trí đâu để đánh cờ.
— Không đánh nữa… - Tào Tháo bỏ quân cờ sang một bên, - Hòa Dương Sĩ, những lời phỉ báng của Mao Giới chỉ là
chuyện nhỏ, nhưng ông ta cố ý tỏ thái độ bất bình vì vụ của Thôi Diễm, làm tổn hại thanh danh của ta! Khi xưa Tiêu Hà, Tào Tham cùng Cao Tổ dẹp loạn lập công. Mỗi lần Cao Tổ gặp khó khăn, hai tướng đều kính cẩn nghe theo, giữ trọn đạo làm tôi, cho nên không những bản thân mà tử tôn đều được hưởng vinh hoa phú quý suốt đời. Thôi Diễm chẳng qua chỉ là quan cũ của Viên Thiệu, nhưng Mao Giới theo ta từ ngày còn ở Duyện Châu, luận về tình cảm thì cũng thân thiết với ta hơn, huống hồ còn có nghĩa quân thần. Ta đã nhiều lần nhắc nhở không được nhắc lại chuyện của Thôi Diễm, nhưng Mao Giới vẫn cố tình nói ra những lời lẽ ngông cuồng như thế, hỏi sao ta không giận?
Hoàn Giai liếc nhìn Hòa Hiệp: Ông giỏi thật! Ta khuyên nửa ngày, đại vương chẳng đoái hoài, ông vừa đến, đại vương đã nói ra hết.
Đinh Nghi trong bụng trách thầm Tào Tháo: Đại vương hồ đồ rồi, tên xấu xí này mới là kẻ biết can gián nhất, khó ứng phó nhất, tốt nhất chớ nên để ý đến hắn!
Quả nhiên như vậy, Hòa Hiệp không quan tâm đến lý do của Tào Tháo, chỉ hấp háy mắt, giả bộ như tỉnh ngộ: — Đại vương không nhắc, thần cũng quên mất chuyện này, nhưng đã nhắc đến, thần cũng xin có đôi câu…
Tào Tháo vừa tức vừa buồn cười, ném quân cờ trong tay vào hộp:
— Nói, nói đi.
— Mao Giới vì sao phải vào ngục thần không rõ, nhưng vụ án này đã được đem ra xét xử thì phải hỏi cho rõ ràng. Theo như thần nghĩ, đại vương nên cho gọi người tố giác đến Đại lý tự đối chất với Mao Giới, như vậy mọi chuyện sẽ sáng tỏ. - Hòa Hiệp đã nhận được tin tức từ Đại lý tự, nên đánh vào điểm yếu này.
Tào Tháo hối hận vì đã nhiều lời với Hòa Hiệp, để cho ông ta lật ngược ván cờ, chau mày nói:
— Không được! Vụ án cần làm rõ, nhưng người tố giác cũng xuất phát từ lòng trung, ta sao có thể để hắn xuất đầu lộ diện? - Vừa nói vừa khẽ liếc nhìn Đinh Nghi.
Hòa Hiệp quyết không buông tha:
— Lời của đại vương sai rồi! Đúng sai phải rõ ràng, nếu đúng như lời người tố giác nói thì chuyện Mao Giới phỉ báng là có thật, hơn nữa tội này không thể dung thứ; còn nếu lời của người tố giác là vu cáo, thì tên tiểu nhân đê tiện này phải bị trừng trị. Thần không dám bênh vực Mao Giới, nhưng Mao Giới ngay từ khi còn trẻ đã dốc lòng phụng sự đại vương, lại là trung thần ai ai cũng biết, theo lý mà nói thì sẽ không có chuyện này…
Đinh Nghi nghe xong câu này, cơn giận dâng lên tận họng: Ông nói không bênh vực Mao Giới mà nói những lời này, chẳng phải là bênh vực sao?
Đinh Nghi vừa định xen vào chất vấn thì lại nghe Hòa Hiệp nói:
— Mao Giới có thể nhất thời vì một chút tình riêng mà nói ra những lời ngỗ nghịch, cũng khó biết được, vì vậy thần mới muốn hai bên đối chất để tìm ra sự thật. Đại vương muốn bảo vệ người tố giác, tuy xuất phát từ tấm lòng ân đức, nhân hậu nhưng sẽ không phân biệt được đúng sai, ngay gian, chỉ sợ quần thần hoài nghi, thất vọng.
Lý lẽ nước đôi của Hòa Hiệp có ý không thiên vị một ai, Tào Tháo bất đắc dĩ phải đáp:
— Ta không muốn hai bên đối chất, chính vì muốn được lưỡng toàn, vừa có thể làm rõ sai trái của Mao Giới, lại có thể bảo vệ người tố giác. - Trong lòng Tào Tháo đã có suy tính, vì việc bãi quan Từ Dịch, rồi ép Thôi Diễm tự vẫn, Đinh Nghi đã không được lòng người, nay lại để hai bên đối chất thì chắc chắn dư luận sẽ dìm chết Đinh Nghi.
— Chuyện trong thiên hạ đều có cái được và cái mất, khó có thể vẹn toàn. - Hòa Hiệp bước lên mấy bước, - Nếu Mao Giới quả thực phạm tội phỉ báng, tất phải chặt đầu thị chúng; còn nếu không phải, kẻ vu oan cho đại thần càng phải nghiêm trị. Nếu hai bên không đối chất mà người thẩm tra làm việc hồ đồ, lòng người không phục, thần thấy bất an thay!
— Không được! - Tào Tháo bất giác lớn tiếng với Hòa Hiệp, - Triều đình vừa mới dựng lên, can qua còn chưa dứt, há có thể để hai người cùng triều tranh cãi lẫn nhau? Khi xưa, Hồ
Xạ Cô nước Tấn giết Dương Xử Phụ ngay ở trên triều, chính là bài học cảnh tỉnh các bậc quân vương(*)!
Hòa Hiệp lại bước lên hai bước nữa, đến bên cạnh tấm rèm, chỉ vào Đinh Nghi:
— Đại vương hà tất phải dẫn chuyện xưa, đúng sai phân minh mới là công lý. Nói thẳng ra, phải chăng đại vương có ý bảo vệ người này?
Đinh Nghi mặt cắt không còn giọt máu, không biết làm thế nào, Khổng Quế cũng giật mình kinh ngạc.
Tào Tháo không ngờ Hòa Hiệp lại chỉ thẳng ra, vừa ngượng vừa giận, hất tung hộp cờ:
— Không sai! Chính Lễ là người đó, vừa có tài lại vừa trung thành với quả nhân, ta bảo vệ hắn có gì không được? Hòa Hiệp chậm rãi quỳ xuống:
— Lời đại vương nói đều có lý, thần không có gì không phục. Nhưng thần chỉ có một điều không rõ, xin thỉnh giáo đại vương.
— Nói đi. - Tào Tháo cảm thấy phiền toái vô cùng. Hòa Hiệp đột nhiên hạ thấp giọng, ngẩng đầu nhìn thẳng Tào Tháo, từ tốn nói:
— Được đại vương tín sủng là vinh dự của bề tôi, ngài che chở bề tôi cũng là xuất phát từ tình cảm và đạo lý, không có gì là sai. Nhưng ngài có thể che chở cho vãn sinh thì hà cớ gì không che chở cho lão thần đã phò tá ngài hơn hai mươi năm qua?
— Ây dà. - Tào Tháo không còn gì để nói!
Đúng vậy, người vất vả dốc sức cho ông hai mươi năm qua thì ông không yêu quý mà lại đi yêu quý một kẻ vãn sinh, như thế có hợp tình hợp lý không? Thực ra Tào Tháo không hồ đồ, thái độ của ông đối với Mao Giới và Thôi Diễm không giống nhau, Thôi Diễm có công lao đến đâu cũng vẫn là người của Viên thị quy hàng, còn Mao Giới đã theo ông ngay từ khi khởi binh ở Duyện Châu. Cũng chính vì vậy, Tào Tháo mới không thể chịu được việc Mao Giới vì Thôi Diễm mà oán than mình, đây không phải là chuyện phỉ báng hay không, mà là quan hệ tình cảm, ai quan trọng hơn ai. Bình tâm mà xét, không phải
ông không biết những lời Đinh Nghi nói có phần thêm thắt, nhưng Đinh Nghi cũng dựa trên những lời của Mao Giới. Tào Tháo cũng không muốn xử Mao Giới như đã xử Thôi Diễm, chỉ cần Mao Giới chịu nhận tội thì nhiều nhất cũng chỉ bãi quan mấy ngày, đợi trời yên biển lặng, qua một thời gian sẽ được phục chức. Tiêu Hà còn phải vào ngục thì Mao Giới sao lại không thể? Chẳng phải chỉ cần nhận sai thôi sao?
Tào Tháo nghĩ đơn giản như vậy, nhưng Mao Giới lại không chịu nhận tội. Ngộ nhỡ lại bị xử tử giống Thôi Diễm thì sao? Huống hồ chuyện này còn liên quan đến việc lập người kế vị, sau lưng ông ta còn có Ngũ quan tướng.
Mao Giới càng không nhận tội, Tào Tháo càng tức giận, quân thần xích mích nhưng lại không thể nói thẳng ra. Lúc này, Hòa Hiệp không luận việc công mà chỉ xét đến tình riêng, nên hay không nên che chở cho Mao Giới? Tào Tháo nhớ lại hai mươi năm công lao của Mao Giới, chưa nói đến việc ông ta đưa ra mưu sách tuyển chọn quan viên, mà chỉ nghĩ đến câu nói chấn động "phụng mệnh thiên tử mà thảo phạt kẻ bất thần” của Mao Giới năm xưa, đã giúp Tào Tháo từ đó bắt đầu xây dựng nghiệp bá vương, lẽ nào còn chưa đủ sao? Lúc đầu, Tào Tháo từng rất trọng dụng Mao Giới, coi trọng phẩm chất trung thành, thẳng thắn của ông ta, từng ca ngợi ông ta là “người giữ sự chính trực của một nước, và là Chu Xương(*) của ta”. Nay Mao Giới còn hơn Chu Xương, nhưng Tào Tháo thì không phải là Hán Cao Tổ!
Đã nói đến mức này, công tư cũng nghĩ đến cả, còn tức giận làm gì nữa? Tào Tháo nhìn bộ mặt xấu xí của Hòa Hiệp, cười khổ:
— Đúng là ngươi chỉ cần mở miệng là sẽ hỏi cho đến khi ta không còn gì để nói… Ta đúng là đã hơi thiên vị, thôi thì tha cho Mao Giới vậy.
— Đại vương anh minh! - Hoàn Giai cao giọng tung hô. Khổng Quế liếc nhìn ông ta: Hừ! Dám qua cả mặt ta! Đinh Nghi hậm hực nói xen vào:
— Những lời phỉ báng của Mao Giới là có thật, thần nguyện đối chất với ông ta! - Đinh Nghi sao có thể để yên? Nếu cứ mập
mờ thả người như vậy, chẳng phải hắn sẽ thành người vu khống?
— Thôi đi… - Tào Tháo cười khổ, - Người có thể thả, nhưng ăn nói xằng bậy chuyện triều chính, phỉ báng miếu đường, tội này không thể không trị, phải đuổi cổ ông ta về quê.
Đinh Nghi không có gì để nói nữa, thực ra theo cách nghĩ của hắn, Mao Giới có chết hay không cũng không quan trọng, dù sao Mao Giới cũng đã bị vào ngục, sau này không thể khoa chân múa tay trong việc tuyển chọn quan lại, mục đích đánh động những người bảo vệ Tào Phi đã đạt được.
Khổng Quế càng không nói gì, hắn không thù không oán với Mao Giới, chỉ muốn chọn phe đúng thời điểm, dù sao lúc xử lý Thôi Diễm, Mao Giới, Khổng Quế cũng đã khua chiêng trợ uy cho Đinh Nghi, lúc này cũng miễn cưỡng được coi về phe của Tào Thực, chỉ cần tiền đồ sau này không phải lo nghĩ là được, còn việc Mao Giới có làm sao cũng không liên quan. Vì vậy, Khổng Quế chỉ luôn miệng khen “Đại vương độ lượng.” Trong mắt hắn lúc này, cứ bước được sang phe của Lâm Tri hầu là an toàn!
Hoàn Giai cũng vội vàng bẩm tấu:
— Trong ngục không phải là nơi có thể ở lâu dài, mong đại vương nhanh chóng ban lệnh phóng thích, thần sẽ lập tức phụng mệnh! - Hoàn Giai không muốn chậm trễ hơn nữa.
Tào Tháo không còn cách nào khác, đành hạ bút viết lệnh phóng thích, Hòa Hiệp và Hoàn Giai cảm tạ rối rít, cùng nhau đi ra. Hoàn Giai vô cùng ngưỡng mộ Hòa Hiệp. Trước lúc ông ta đến, Hoàn Giai tốn bao công sức, nào là ca ngợi Mao Giới trung thành, có công lao, có uy vọng, đảm bảo Mao Giới không có lời nào phỉ báng, đều vì việc công, không chút tư lợi. Còn Hòa Hiệp chỉ nói hai ba câu, cũng không phủ nhận việc thiên vị che chở cho người khác là sai, từng bước từng bước đưa Tào Tháo vào bẫy. Cuối cùng chỉ nói một câu nhẹ nhàng đó mà làm rung chuyển cả núi Thái Sơn - Đúng vậy, có những việc cứ theo phép công mà làm thì rất rắc rối, nhưng dùng tình người giải quyết lại rất dễ lay chuyển.
Kết quả này khiến Hoàn Giai, Hòa Hiệp, Chung Do rất mãn nguyện, với uy vọng của Mao Giới thì có bãi quan cũng bãi được bao lâu? Cùng lắm là vài tháng đến một năm, mây mù ắt sẽ tan…
Nhưng sự thật lại không tươi sáng như vậy. Lúc Mao Giới đi từ Đại lý tự ra, trong lòng đã nguội lạnh, ông ta không thể hiểu nổi, mình vất vả hai mươi năm qua, một lòng cúc cung trung thành, cớ sao lại phải nhận lấy kết cục đen đủi và nhục nhã như vậy? Ngay cả một câu than vãn cũng chẳng thể thốt ra, nỗi oán hận trong lòng biết tỏ cùng ai? Vị lão thần mông lung trở về nhà như cái xác không hồn, không ăn, không ngủ, mở mắt nhìn lên trần nhà… cứ như vậy chưa được ba ngày thì chết.
Hồi thứ 144
Một câu của hiền thê, Tào Tháo thức tỉnh
Kìm kẹp ngoại thích
Lão thần chết oan khiến chúng nhân đều cảm thấy thương tiếc, nhưng không khí đau buồn ở Nghiệp Thành cũng không kéo dài bao lâu, triều đình nước Ngụy trở lại bình thường, kế hoạch chiếm đoạt thiên hạ của nhà Hán vẫn đang được thực hiện, có thiếu ai cũng chẳng ảnh hưởng gì. Chỉ là các quan thấy thỏ chết, cáo than khóc mà thôi, hơn nữa họ cũng đề phòng, hành sự cẩn thận hơn, ngoài việc cảm thấy mọi chuyện mờ mịt và sợ hãi ra, thì không còn lưu lại điều gì.
Nửa tháng sau khi Hứa Đô ra chiếu thư, tấn phong con gái của Ngụy Vương làm công chúa và hưởng phong ấp; tiếp đến lại nhận được tin, thủ lĩnh Phổ Phú Lô của người Ô Hoàn ở quận Đại muốn đến Nghiệp Thành chúc mừng.
Hai chuyện này có vẻ bình thường, nhưng đằng sau lại có ý nghĩa quan trọng: Từ trước đến nay chỉ có con gái của hoàng đế và con gái trong tông thất mới được phong làm công chúa, chuyện con gái của Tào Tháo được sắc phong đã phá vỡ luật lệ này, đánh dấu về mặt bản chất hoàng tộc đã chuyển từ họ Lưu sang họ Tào. Trên danh nghĩa Ô Hoàn là dân tộc thiểu số quy phục vương triều nhà Hán, nay thủ lĩnh của người Ô Hoàn không đến bái kiến thiên tử nhà Hán, mà lại đến bái kiến Ngụy Vương, có nghĩa là các nước phiên thuộc của đại Hán cũng đã thuộc về Ngụy quốc. Nói tóm lại, cùng với sự dịch chuyển về quyền lực thực tế, tất cả những gì liên quan đến triều đại nhà Hán đã dần dần rơi vào tay Tào Tháo.
Chuyện sắc phong công chúa tất nhiên xuất phát từ chủ ý của Tào Tháo, còn chuyện của thủ lĩnh Ô Hoàn đến chúc mừng cũng đã được suy tính. Khi xưa, trong số các bộ lạc Ô Hoàn che chở cho huynh đệ Viên Thượng, đối đầu với Tào Tháo, không có người Ô Hoàn ở quận Đại, mà Phổ Phú Lô chủ động đầu hàng, hơn nữa cùng với việc U Châu sáp nhập vào lãnh thổ Ngụy quốc, Ô Hoàn ở quận Đại thực tế cũng đã bị Ngụy quốc khống chế, Tào Tháo muốn triệu đến lúc nào thì Phổ Phú Lô phải đến lúc đó. Tất cả đều đã được sắp xếp sẵn, có thể Tào Tháo muốn mượn sự quy hàng của dân tộc thiểu số để tăng thêm uy phong của mình, để dựng lên cảnh quốc thái dân an, tiếng lành bay đi khắp nơi, che đậy những điều xui xẻo mà ông gặp phải kể từ khi xưng vương. Sự thật đã chứng minh, cách này đúng là có hiệu quả, ít nhất là quan dân Nghiệp Thành đã tạm quên đi chuyện nhật thực và hạn hán để hòa vào không khí mừng đón khách phương xa, chỉ trừ có một người không vui, đó là Ngũ quan tướng Tào Phi.
Những người ủng hộ Tào Phi có Từ Dịch đã bị bãi quan, Thôi Diễm, Mao Giới cũng lần lượt bị Tào Tháo bức hại, đây đúng là đòn hủy diệt. Nhiều người đã coi việc lập Lâm Tri hầu làm thái tử là vô cùng chắc chắn, những ai ủng hộ Ngũ quan tướng sẽ có kết cục không mấy tốt đẹp, ngay cả những nguyên lão đại thần như Thôi, Mao cũng khó thoát khỏi cái chết, ai còn dám bước sang phe của Ngũ quan tướng? Tào Phi có thể cảm nhận rằng mình đã trở thành một người không mang lại may mắn, những người trước đây cung kính nghênh đón giờ cứ nhìn thấy y là trốn, Lưu Trinh, Ứng Cừ trước đây thường xuyên qua lại, bây giờ cũng không đến nữa, thậm chí cả mấy Văn học thị tòng trong phủ cũng không dám đến gần y, hoặc là cáo bệnh, hoặc là từ chối, phủ đệ ngày càng vắng vẻ, tiêu điều.
Ngô Chất ở mãi tận Triều Ca, không còn hy vọng được trở về; Hạ Hầu Thượng không có quyền hành, chẳng giúp được gì; Tư Mã Ý bị Tào Tháo để mắt đến nên chỉ chú tâm làm việc, không dám đến phủ Tào Phi; Tào Chân, Tào Hưu cả ngày ở trong quân doanh, lại chịu ràng buộc vì là người thân. Bên cạnh Tào Phi không có một ai có thể dựa vào, trong lúc khốn cùng, y
ngây ngô tìm đến Biện Bỉnh, hy vọng người cậu này có thể giúp đỡ…
Biện Bỉnh hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “nguyên lão Tào doanh”, ông ta đã cùng Tào Tháo đánh nam dẹp bắc, thường xuyên đốc thúc việc quân, vì lập được nhiều công lao nên được phong làm Đô Hương hầu, nhưng chức vị cho đến nay vẫn chỉ là Biệt bộ tư mã. Có thể do Tào Tháo đã rút ra bài học từ việc nhà Hán vì trọng dụng ngoại thích mà gây loạn triều đình nên cố tình không thăng quan cho ông ta. Ba năm trước, đồn điền có xảy ra vụ án tham ô, vì Biện Bỉnh không giám sát kỹ nên bị Tào Tháo khiển trách, cảm thấy oan ức. Từ đó ông ta luôn miệng nói bản thân có bệnh, không xuất hiện nhiều, ngay cả vương cung cũng ít khi đến. Dẫu sao Biện Bỉnh cũng là em vợ của Tào Tháo, các quan đều phải đến thăm hỏi, nhưng lúc nào ông ta cũng nằm trên giường, cơm rượu vẫn ăn uống đều đều, lớn tiếng sai bảo người hầu, cũng không biết là bệnh thật hay bệnh giả.
Tào Phi trong lòng buồn bực tìm đến cữu phụ, không ngờ khi đến thăm đã thấy Lâu Khuê, bằng hữu cũ của Tào Tháo đến trước, kể lể những oan ức, lôi thôi cả nửa ngày. Xét về quan hệ riêng tư, Tào Phi vẫn phải gọi Lâu Khuê là thúc phụ, hơn nữa Lâu Khuê đang là khách của cữu phụ nên cũng không tiện quấy rầy, chỉ im lặng ngồi nghe. Nhi tử của Biện Bỉnh là Biện Lan cũng có ở đó, vừa đấm lưng cho phụ thân, vừa rót nước mời khách.
— Mê muội, đúng là mê muội. - Vị tướng quân họ Lâu có chức mà không có quân vừa nói vừa lắc đầu, chòm râu cũng đung đưa theo, - Ngay cả Mao Hiếu Tiên cũng bị ông ta làm cho tức chết, nếu không phải là mê muội thì là gì? Năm xưa huynh đệ cùng nhau đánh giặc, thân thiết như vậy, nay lại trọng dụng thằng nhãi ranh như Đinh Nghi. Nếu như ta phụ trách việc tuyển quan…
— Thôi đi, thôi đi. - Biện Bỉnh dựa vào giường, vỗ vào đùi Lâu Khuê, - Cũng có thiếu bổng lộc của ông đâu, được nhàn rỗi thì cứ nhàn rỗi, bận tâm làm gì?
— Nhưng ta tức! - Lâu Khuê nói, - Người tốt thì coi như rác rưởi, kẻ ác thì quý như ngọc vàng, cũng bạo ngược chẳng khác nào vua Trụ, đầu óc u mê. Ông ta vừa xưng vua được mấy ngày mà đã mê muội, ngày sau còn làm những chuyện gì nữa? - Theo lý mà nói, trước mặt tử tôn nhà người ta không nên nói những điều không phải về phụ thân họ, hơn nữa phụ thân của người ta lại là vua một nước, nhưng Lâu Khuê không thèm để ý, càng mắng to. Tào Phi dù sao cũng là phận con cháu, lại có quan hệ họ hàng nên cũng không dám nói gì, chỉ biết quay mặt đi.
Biện Bỉnh cảm thấy khó chịu:
— Lâu Tử Bá, lão già lắm mồm này! Nói đi nói lại cũng chỉ có mấy việc này, mà cứ đến chỗ ta cằn nhằn, khiến ta đau hết cả đầu, rảnh việc thì về nhà mà ngủ không tốt hơn sao?
— Được, được! - Lâu Khuê miễn cưỡng đứng dậy, lẩm bẩm đi ra ngoài, - Ta không ở đây làm ngứa mắt cậu cháu nhà ông nữa, uổng công bao nhiêu năm thân tình, có mấy câu cũng không muốn nghe ta nói…
Biện Bỉnh không động đậy:
— Đi đi, ta có bệnh không tiện tiễn. Khụ, khụ, khụ!… - Nói xong ho khan mấy tiếng.
Lâu Khuê quay lại cười khẩy:
— Ông giả vờ gì chứ!
— Điệt nhi xin tiễn Lâu thúc phụ. - Tào Phi vội đứng dậy. — Tử Hoàn đứng lại. - Biện Bỉnh không ho nữa, - Lan nhi, con tiễn khách đi!
— Vâng! - Biện Lan không giống như phụ thân của mình, lúc nào cũng kính cẩn thủ lễ lại kiệm lời, vội chạy theo vén rèm cửa cho Lâu Khuê, tiễn ra khỏi phủ.
— Đến đây. - Nhìn thấy Lâu Khuê đi xa, Biện Bỉnh mới vẫy tay gọi Tào Phi, - Sau này tránh xa cái tên họ Lâu đó ra, tên này sớm muộn cũng có ngày gặp họa! Dám đem phụ thân cháu ra so sánh với Thương Trụ, nếu lời này truyền ra ngoài thì sao? Người trong nhà thì nói thế nào cũng được, nhưng ông ta là người ngoài mà dám can dự vào, không gặp chuyện mới lạ!
Tào Phi đến trước giường:
— Tiểu điệt thấy ông ấy cũng lớn tuổi, nên không để bụng được.
— Hừm! Ta thấy có mà hắn tự cho mình là cao quý, luôn cảm thấy thiên hạ không có ai bằng hắn. Phụ thân cháu được làm vua nên hắn tức giận, đố kỵ! - Vừa nói thì Biện Lan bước vào, Biện Bỉnh lại nói, - Con à, nói với nhà bếp, trưa nay ta muốn ăn gà, bảo họ hầm hai con. - Tào Phi muốn cười nhưng không dám cười, đây là mức ăn của người ốm sao?
Biện Lan rất chu đáo:
— Ngũ quan tướng đã đến, chi bằng…
— Không cần phải mời mọc. - Biện Bỉnh cười nói, - Trong lòng Ngũ quan tướng đang có chuyện, không nuốt nổi đâu, con đi đi, ta không gọi thì chớ vào.
— Vâng. - Biện Lan lễ phép chào Tào Phi, đoạn lui ra ngoài.
Tào Phi thấy Biện Bỉnh biết mình có tâm sự, đang suy tư thì ông ta lại than rằng:
— Sao ta lại sinh ra được đứa con thế này. Cháu nói xem, nó chẳng giống ta điểm nào! Hai mươi tuổi đầu rồi mà chẳng biết chuyện gì, cả ngày chỉ biết vùi đầu đọc sách, phụ thân nó có biết nhiều chữ đâu mà vẫn được phong hầu đấy thôi. Sao ta cứ nhìn thấy nó là tức quá đi!…
Trong lòng Tào Phi rối bời nhưng vẫn khuyên Biện Bỉnh: — Tiểu điệt thấy đệ ấy am hiểu kinh thi, lại hiểu biết lễ phép, sau này ắt sẽ thành một vị quan tốt.
Nào ngờ Biện Bỉnh đột nhiên cười nói:
— Đúng vậy, người làm cha luôn cho rằng bản thân mình giỏi lắm, nhìn con cái không thấy thuận mắt, ta và phụ thân của cháu đều mắc phải tật này. Cháu có nghĩ vậy không? Tào Phi ngạc nhiên:
— Cữu phụ…
— Hừm! Ta biết cháu từ nhỏ đến giờ, cháu có chuyện gì sao giấu được ta? - Biện Bỉnh nói, - Thôi Diễm, Mao Giới đều đã chết, không ai dám đứng về phía cháu, chưa kịp làm thái tử
đã cô độc lẻ loi. Có phải cháu muốn ta nói giúp mấy lời tốt đẹp trước mặt phụ thân?
Tào Phi nghe vậy liền quỳ sụp xuống, hai mắt ngấn lệ: — Cữu phụ, cữu phụ thương lấy tiểu điệt, oan ức quá… — Xem bộ dạng cháu kìa! Khóc với ta thì làm được gì? Tào Phi ôm lấy chân cậu:
— Cữu phụ thương tiểu điệt nhất, những năm qua, tiểu điệt chưa bao giờ quên hiếu kính với cữu phụ. Dù sao cữu phụ cũng đã theo phụ thân cháu hơn ba mươi năm, bên ngoài phụ thân lạnh lùng, nhưng bên trong luôn xem trọng cữu phụ! Hiện nay không còn là chuyện làm hay không làm thái tử, huynh đệ Đinh Nghi nhiều lần gièm pha, Khổng Quế giậu đổ bìm leo, Triệu thị, Lý thị cũng hùa theo, họ muốn bức chết tiểu điệt, cữu phụ phải cứu tiểu điệt! - Không cần phải giữ thể diện với người thân của mình, Tào Phi chỉ tiếc là không thể nhõng nhẽo như đứa trẻ năm xưa đòi cữu phụ cho kẹo.
— Ây dà… - Biện Bỉnh thở dài, - Ta không giúp nổi cháu. — Cữu phụ đối với tiểu điệt tốt thế cơ mà, hay cữu phụ cũng đứng về phía Tử Kiến?
Biện Bỉnh lắc đầu, dường như đang tự nói với mình: — Nếu nói về tình cảm đối với huynh đệ cháu, thực ra ta rất thích tính cách của Tử Kiến. Nhưng nếu chọn người làm thái tử, cháu vẫn là người thích hợp nhất!
— Tại sao? - Tào Phi cảm thấy có chút an ủi.
— Vì cháu giả dối, biết vờ vịt!
Tào Phi há hốc miệng:
— Cữu phụ nói gì vậy?
— Đừng xấu hổ, ta không có ý chê cháu. - Biện Bỉnh đẩy y ra, từ từ nói, - Cháu nhìn phụ thân cháu, ngay cả việc nhận chiếu thư cũng phải từ chối rồi trả lại ba lần, làm đến tước vương rồi nhưng vẫn mặc quần vá, đúng là vị biết giả vờ. Nói một câu rút ruột rút gan là “Đế vương luôn phải biết giả vờ”. Giả như cháu là hoàng đế, cháu muốn ăn cháo, người hầu sẽ làm cho cháu ăn, ngày nào cũng nấu cháo cho cháu; cháu muốn ăn hồng, họ sẽ ngày ngày mang hồng cho cháu. Nhưng nếu cháu
thích tiền vàng, họ sẽ vì muốn thăng quan tiến chức mà mang tiền của thiên hạ đến cho cháu, như vậy bách tính liệu có để yên?
— Cữu phụ đang nói đùa sao ạ?
— Nói đùa? - Biện Bỉnh trừng mắt, - Tại sao thiên hạ của Hiếu Linh Đế lại loạn? Tấm gương ngay trước mắt chứ đâu phải là lời nói suông? Bậc quân vương nếu không biết che giấu tâm tư của mình thì sẽ gây ra rắc rối lớn. Tử Văn và Tử Kiến đều không giỏi che đậy bằng cháu, cháu biết kiềm chế trong mọi việc, giống như… Lan nhi khi đọc sách thường nhắc đến hai từ, gọi là…?
— Thận độc(*)?
— Đúng! Chính là “độc(*)” gì đó, cháu là người “độc” nhất! - Biện Bỉnh trầm ngâm rồi nói tiếp, - Hơn nữa hai đứa nó, một người giỏi văn, một người giỏi võ, đều không song toàn. Có thể Tử Kiến có phong thái khá giống phụ thân cháu lúc trẻ, nhưng tính tình thì lại không giống. Nó cũng không phải là đứa giấu giếm được mọi việc, còn rất non nớt! Văn của cháu không bằng Tử Kiến, võ không bằng Tử Văn, nhưng lại biết quan hệ tốt với các quan viên kẻ mới người cũ, nói chung mọi thứ đều có thể chấp nhận được, có một câu nói thế nào nhỉ… câu nói của nho sinh…
— Trung dung(*)?
— Đúng! Chính là cháu hữu dụng(*)! - Biện Bỉnh tuy ít chữ nhưng lại suy nghĩ rất sâu sắc, - Cháu là huynh trưởng, thiên hạ chưa định, không lập cháu thì lập ai? Phụ thân cháu định lập thứ, sau này mọi người đều bắt chước, vậy thì làm trưởng còn nghĩa lý gì? Nếu cả thiên hạ này đều là của họ Tào thì không nói làm gì, nhưng vẫn còn Lưu Bị, Tôn Quyền chưa biết bao giờ mới diệt được, giặc ngoài còn chưa trừ mà huynh đệ trong nhà đã đánh nhau mất rồi! - Chế độ tông pháp qua miệng của Biện Bỉnh được giải thích như vậy, tuy thô lỗ nhưng là sự thật.
Tào Phi nghe thấy lời này, không khỏi vui mừng:
— Vậy xin cữu phụ hãy khuyên phụ thân, lập tiểu điệt làm thái tử.
— Cháu đúng là có bệnh thì vái tứ phương. - Biện Bỉnh cười khổ, - Không phải là ta không muốn giúp cháu, mà là lời nói của ta vô dụng, phụ thân cháu sợ ngoại thích can dự vào chính sự, ta giúp cháu chính là hại cháu. Hơn nữa cả ba huynh đệ cháu đều chui ra từ bụng tỷ tỷ ta, ta thân là cữu phụ thì không thể chỉ nói giúp cho cháu. Đừng nói là phụ thân cháu không thuận mắt mà tỷ tỷ ta cũng không đồng ý!
— Ôi… - Tào Phi thẫn thờ ngồi bệt xuống đất, - Tiểu điệt phải làm thế nào đây, nay Đinh Nghi ngày càng bức ép, phụ thân lại không nghe tiểu điệt giải thích, ai có thể giúp?
— Cháu đọc sách đều vứt đi cả rồi sao! - Biện Bỉnh không giả ốm nữa, ngồi bật dậy, - Ngay cả ta cũng đã từng nghe nói, năm xưa Cao Tổ cũng tự chê mình vô dụng, muốn phế thái tử, sau đó Lã Trĩ đi tìm Trương Lương để hỏi kế sách, lên núi mời bốn lão già làm nghề buôn bán, kết quả…
— Thương sơn tứ hạo.(*)- Tào Phi chau mày, - Đó là ẩn sĩ, không phải là thương nhân.
— Ta biết rồi! - Biện Bỉnh không thể nhẫn nại thêm, - Cháu phải tìm cao nhân giúp.
Tào Phi than thở:
— Thôi Diễm còn không được coi là cao nhân sao? Lão thần trong triều cháu đều rất kính trọng, Tân Tỵ, Hoàn Giai đều nói đỡ cho cháu. Mấy ngày trước cháu còn tặng Chung Do…
— Cháu tìm mấy người đó không ích gì! Họ không hưởng bổng lộc của phụ thân cháu sao?
— Dạ? - Tào Phi ngạc nhiên, dường như đã hiểu ra. Biện Bỉnh cười:
— Tiểu tử ngốc này, nghĩ rộng ra. Họ có tiếng tăm đến mấy cũng vẫn là quan nước Ngụy, lợi ích của gia tộc đều nằm cả trong đó! Trong mắt phụ thân cháu, những đại thần này có nói cháu tốt cũng không phải thực lòng, mà họ chỉ muốn làm công thần phò tá, nên càng giúp càng hỏng việc, nếu làm không tốt còn kéo họ vào rắc rối. Cái chết của Thôi Diễm và Mao Giới lẽ nào lại không liên quan đến việc này?
Lúc này đầu óc Tào Phi như bừng tỉnh: Đúng vậy, việc trở thành công thần phò tá sẽ mở ra nhiều cơ hội tiến thân, nếu sau
này được lập, những người phò tá sẽ có nhiều lợi lộc, phú quý của gia đình họ cũng phụ thuộc vào điều này, chẳng trách phụ thân lại nghi ngờ.
Biện Bỉnh cười, vỗ vai y:
— Cao nhân tất nhiên phải mời, nhưng không phải là ta, cũng không phải là người của triều đình hay mạc phủ. Cháu phải tìm người ngoài, người mà không bị ràng buộc bởi lợi ích, tốt nhất là người có tiếng tăm, thông minh mưu trí và được phụ thân cháu khâm phục.
Tào Phi bắt đầu suy nghĩ: Người ngoài cuộc, không tính toán thiệt hơn, lại phải thông minh mưu trí và được phụ thân coi trọng, là ai mới được?
Thiên sư quy tiên
Tháng Năm năm Kiến An thứ hai mươi mốt, thủ lĩnh người Ô Hoàn ở quận Đại là Phổ Phú Lô đến Nghiệp Thành chúc mừng, tin tức truyền khắp thiên hạ. Thiền vu Hung Nô là Hô Trù Tuyền cũng ngồi không yên.
Từ khi nhà Hán rối loạn, quân Hung Nô mấy lần đối đầu với Tào thị, đầu tiên vào năm Sơ Bình, họ đã bắt tay với Viên Thuật quấy rối Duyện Châu, sau đó lại có quan hệ mập mờ với Cao Cán - cháu của Viên Thiệu, thậm chí trong chuyện Mã Siêu làm loạn cũng có bóng dáng của quân Hung Nô. Thiền vu Hung Nô Hồ Trù Tuyền cũng hiểu rõ sự chênh lệch về thực lực giữa hai bên, cho nên đành nhẫn nhịn khi Tào thị thay đổi các quận huyện của Tịnh Châu. Nay Phổ Phú Lô đến chúc mừng Ngụy quốc là tín hiệu rõ ràng cho thấy các nước chư hầu của nhà Hán sẽ rơi vào tay nước Ngụy, Ô Hoàn đã quy thuận, Hung Nô muốn được yên ổn thì không thể không theo con đường này. Vì vậy, Hồ Trù Tuyền quyết định sẽ chủ động, dẫn đầu thủ lĩnh các bộ lạc đến Nghiệp Thành chúc mừng.
Năm xưa lưu lạc ở Trung Nguyên hộ giá Lưu Hiệp về đồng, Hung Nô Hữu Hiền Vương Khứ Ty đã từng gặp mặt Tào Tháo, thế nên Hô Trù Tuyền cử Khứ Ty đi tiền trạm, đến Nghiệp
Thành tỏ lòng tôn kính với Ngụy Vương, để biểu thị tấm lòng trung thành với Đại Ngụy, còn tặng một danh sách các bộ lạc Hung Nô. Tào Tháo rất vui mừng, mở tiệc khoản đãi ở vương cung, không chỉ có các quần thần liệt hầu đến dự, mà ngay cả những lão thần lâu rồi không tham dự triều chính cũng tham gia, lại sắp xếp cho Trương Lỗ ngồi bàn thứ hai, để Thiên sư tiếp khách và chúc rượu Hữu Hiền Vương. Yến tiệc vui vẻ cũng đến gần giờ hợi mới tàn.
Theo quy định của Thiên sư đạo, giáo đồ không được uống rượu, Trương Lỗ là người đứng đầu càng phải tuân theo, nhưng Ngụy Vương có lệnh lẽ nào không phục tùng? Hơn nữa, Tào Tháo còn đặc biệt chuẩn bị cho họ loại rượu hoa quả, nếu không uống làm sao có thể khiến Khứ Ty vui vẻ? Trương Lỗ miễn cưỡng phá giới, nhưng có lẽ do nhiều năm không uống, mới uống có vài chén đã say, vừa mới ra khỏi cung lên xe đã thấy chóng mặt.
Lúc đầu Trương Lỗ không chú ý, nghĩ rằng nghỉ ngơi một lúc sẽ đỡ, nào ngờ bụng dạ bỏng rát, mỗi lúc một khó chịu, giống như bị dao cứa, sau thấy mồm miệng khô khốc, hai mắt lờ mờ, mới biết là có chuyện không hay: Hẳn là trong rượu có độc! Ngụy Vương muốn trừ khử ta! Hôm đó giết Mã Thu, trong lòng ta chần chừ, lẽ nào họa là từ đây? Nếu vì chuyện này mà giết ta thì quá đơn giản, Thiên sư đạo đã có mấy vạn giáo dân, nay họ lại đi khắp nơi giảng đạo, Tào Tháo là người tàn ác, lâu nay đã muốn soán quyền nhà Hán, thống nhất thiên hạ, há lại để ta sống trên đời?
Biết rằng tính mạng đang gặp nguy hiểm, nhưng Trương Lỗ vẫn vô cùng bình tĩnh, không nghĩ cách nôn rượu ra, cũng không tìm cách giải độc; chỉ thúc phu xe đi nhanh về phủ, còn mình ngồi niệm kinh bắt quyết, chịu đựng đau đớn. Không lâu sau thì về đến phủ, Trương Lỗ cảm thấy toàn thân nóng rực, sợ độc tố phát tác nên không dám cử động, gọi người cõng về phòng, châm đèn rồi gọi người con thứ ba là Trương Thịnh đến.
Ông ta biết mình không còn nhiều thời gian, bèn đuổi hết nô bộc đi, rồi lập tức mở mảnh khăn lụa màu vàng, tay trái ôm bụng, tay phải cầm bút, nhịn đau viết một giáo chỉ ngắn. Viết xong thì cảm thấy toàn thân không còn sức lực, đầu túa mồ hôi,
muốn gấp khăn lại nhưng không còn sức để làm, biết là không thể cố thêm nữa, liền khoanh chân ngồi chờ nhi tử đến. Nói là chỉ gọi người con thứ ba đến, nhưng việc phụ thân gọi người cõng về phòng sao giấu được? Lúc này trời đã khuya, các con của Trương Lỗ đều đã ngủ hết, nghe thấy tiếng gọi tất cả đều bật dậy, không kịp mặc y phục cẩn thận, bảy huynh đệ Trương Phú, Trương Quảng cùng đến: — Sư tôn! Sư tôn! Phụ thân làm sao thế? - Họ Trương đều là những người tu đạo, ngay cả phụ thân cũng gọi là sư tôn. Độc tố đã lan khắp người, Trương Lỗ cảm thấy mọi thứ trước mặt đang quay cuồng, làm gì còn thời gian để nói lời vĩnh biệt, chỉ hổn hển không ra hơi:
— Thịnh nhi ở lại… Còn các con đều ra ngoài đi, đóng cửa lại…
Thiên sư đã nói không thể không nghe, sáu anh em Trương Phú đành ra ngoài quỳ chờ ở hành lang, Trương Thịnh đóng cửa lại, quay đầu nhìn - Trương Lỗ tuy đang ngồi ngay ngắn, nhưng lại đổ mồ hôi nhễ nhại, toàn thân run rẩy, môi đã chuyển sang màu tím đen.
— Ngụy Vương hạ độc sư tôn? - Trương Thịnh đã nhìn ra sự việc.
Trương Lỗ khẽ xua tay:
— Con không cần hỏi nhiều… - Nói với con phỏng có ích gì? Làm quan của Tào Ngụy, ăn cơm của Tào Ngụy, toàn gia quyến cũng ở Nghiệp Thành, mối thù này có trả được không? Ông ta không muốn kéo theo tính mạng của cả nhà vào, chỉ nói, - Ta có lời dặn dò con.
Trương Thịnh nghe vậy, run rẩy quỳ xuống trước mặt. Trương Lỗ hít hai hơi, tay bắt quyết định thần:
— Bên giường có một cái túi, con cầm lại đây…
Trương Thịnh không dám chậm trễ, lập tức lấy đồ. Vật này không lớn, nhưng được đựng trong một chiếc túi màu vàng, bình thường Trương Lỗ không cho ai động vào.
— Mở nó ra.
— Vâng. - Trương Thịnh mở ra, nhìn thấy một ấn ngọc màu trắng, hình vuông, dài khoảng hai tấc, dày bảy phân, trên có khắc hình con ly, ở dưới có chữ triện, đây là bảo vật của người nắm quyền Thiên sư đạo, ấn Dương Bình trị Đô công(*).
— Bảy huynh đệ con ai cũng có sở trường riêng, nhưng chỉ có con là ngộ đạo nhất, chịu khó tu dưỡng nhất, sau này ắt sẽ thành công, có thể khuếch trương đạo pháp của ta. Từ hôm nay, con sẽ là Thiên sư, ta mong con siêng năng chăm chỉ, tu dưỡng giảng đạo.
— Sư tôn, đệ tử… - Trương Thịnh muốn nói một hai câu khiêm tốn, nhưng lúc này còn đa lễ gì nữa? Vội dập đầu, - Đệ tử tuân mệnh!
Toàn thân Trương Lỗ dần dần tê liệt, thều thào nói: — Còn có… trên thư án có giáo chỉ… con hãy đưa nó cho Ngụy Vương!…
Trương Thịnh lúc này mới để ý đến chiếc khăn ở bên cạnh, nâng lên xem:
Họ Ngụy vâng mệnh trời trừ họa, đưa vạn sự đi vào trật tự, việc này đã được chép trong Hà đồ, Lạc thư(*), và thể hiện trong những tượng hình xuất hiện trên trời. Vì vậy, ta thuận theo đạo trời, lấy thân phận là quốc sư để giao phó thiên hạ cho Ngụy Vương cai quản. Đó là vinh hạnh của nước ta, nhờ vậy mà giáo đồ không bị thương vong, của cải dư dật, thọ mãi không già. Ta có bảy người con thì năm người con được phong hầu làm rạng danh nước nhà, thuộc hạ cũng không ít người được phong chức làm tướng quân, duyện thuộc, vàng bạc ban thưởng hậu hĩnh. Cha chết con nối nghiệp, anh chết em lên thay, thấm nhuần thánh ân.
Trương Thịnh run rẩy xem giáo chỉ: “Họ Ngụy vâng mệnh trời trừ họa, đưa vạn sự đi vào trật tự, việc này đã được chép trong Hà đồ, Lạc thư”, người ngoài nói những lời này cũng không sao, nhưng một giáo chủ thì không thể nói như vậy được, các giáo đồ ngoan đạo tuyệt đối tin vào mệnh trời. Nhất là câu “Ta thuận theo đạo trời, lấy thân phận là quốc sư để giao phó thiên hạ cho Ngụy Vương cai quản”, há chẳng phải nói Tào Tháo nhận sự ủy thác của Thiên sư để thống trị thiên hạ đó
sao? Giáo chỉ này có ý nói tất cả các giáo đồ sẽ chuyển sang nghe lệnh Tào Tháo, coi Tào Tháo là thần thánh, Thiên sư không có quyền trực tiếp cai quản giáo chúng, vậy Thiên sư đạo có còn tồn tại nữa không?
— Sư tôn… tại sao lại làm vậy? Tào Tháo đã hại chết sư tôn mà!
— Vì an nguy của họ Trương ta, vì các giáo đồ của Thiên sư đạo, và cũng vì để các con có thể tiếp tục truyền bá Thiên sư đạo. Hãy hứa với ta, quên hết oán thù, không truy cứu chuyện này. - Trương Lỗ biết rất rõ, Tào Tháo đã có thể loại bỏ mình thì cũng sẽ không bỏ qua cho tử tôn mình và những giáo đồ của Thiên sư đạo cũng sẽ bị liên lụy. Nếu tất cả mọi người đều bị bức hại thì thà dâng cả hai tay, hy sinh bản thân để mọi người về với nước Ngụy, như vậy sẽ tránh được họa này.
— Nếu ban lệnh này ra, chẳng phải tâm huyết ba đời của họ Trương chúng ta cũng sẽ mất hết sao?
Trương Lỗ đau đớn quằn quại, nhưng vẫn gắng gượng nói: — Đạo mà có thể nói ra được, thì không phải là đạo thường. Người theo đạo ắt cùng nhất thể với đạo. Chỉ cần một lòng một dạ tu dưỡng, bên ngoài thay đổi nhưng bên trong không đổi, như vậy có Thiên sư đạo hay không cũng có gì khác biệt? Đạo sẽ tự làm bớt sắc nhọn, tháo gỡ rối rắm, hòa ánh sáng cùng với bụi bặm…
— Phụ thân!… - Trương Thịnh run rẩy, bỏ mặc những quy định trong giáo phái, ném cả ấn sang một bên, ôm lấy Trương Lỗ òa khóc, - Phụ thân là Thiên sư, phụ thân không được đi! Chẳng phải đã nói dùng đại đạo để cứu người sao?
— Ha ha ha! - Trương Lỗ đột nhiên cười lớn, đẩy con trai ra, từ từ nhắm mắt, - Thái thượng lão quân sinh vào thời Xuân Thu hỗn loạn, nếu như ngài có thể dựa vào đạo pháp mà khiến thiên hạ này được yên ổn, hà tất phải đi về phía tây Hàm Cốc ẩn cư? Độ hóa quý ở độ tâm, tâm vui thì lòng người mới vui, người vui thì thế gian này mới vui.
Bất luận là triều đại nào, ai làm vua, nếu có thể khiến bách tính vô lo vô ưu thì đã thoát tục. Kỳ thực, con người không sống
trên thế gian này… - Nói rồi Trương Lỗ thu tay lại đặt trên ngực, - Mà sống ở đây…
Trương Thịnh ngậm nước mắt:
— Nhi tử hiểu rồi…
Trương Lỗ ngồi xếp bằng ở đó, tựa như không còn cảm thấy đau khổ nữa, thân thể nhẹ bẫng, dường như linh hồn đã rời khỏi thể xác để bay lên trời, nhưng ông vẫn còn một câu nhắn nhủ cuối cùng:
— Phải biết giữ chữ tín… Sở dĩ thiên địa có thể trường cửu là bởi nó không tự sinh ra… Vật đổi sao dời nhưng nội tâm bất biến, sẽ có một ngày đại đạo được Lưu truyền muôn đời… sẽ có một ngày… - Tiếng của Trương Lỗ yếu dần, dần dần môi cũng không mấp máy nữa.
Trương Thịnh nhìn phụ thân rất lâu, không biết từ lúc nào nước mắt không còn chảy nữa. Trương Thịnh đột nhiên cảm thấy như không quen biết thi thể trước mắt. Phụ thân đã từng là một thế lực hùng cứ một phương, từng bội tín, phản lại Lưu Yên, từng giết hại Trương Tu sáp nhập giáo chúng, nhưng ông cũng từng cứu độ bao nhiêu chúng sinh, khiến họ một lòng đi theo. Lúc này phụ thân đã thực sự thoát tục, đến thời khắc cuối cùng vẫn bình thản, độ lượng như vậy, trái tim đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như mặt hồ, vượt qua giới hạn của sinh mệnh. Quả là xứng danh nhất đại tông sư!
Nghĩ đến đây, Trương Thịnh không cảm thấy đau buồn nữa, chỉ lặng lẽ lau nước mắt, mở cửa nói lớn:
— Thiên sư đã quy tiên!…
Tiếng than khóc bi ai bỗng chốc vang lên, huynh đệ Trương Phú, Trương Quảng quỳ mọp dưới đất khóc. Trương Vệ cũng vừa phi ngựa đến, nhưng không kịp nhìn mặt huynh trưởng lần cuối, chỉ đứng đấm ngực giậm chân ở trung đình. Trương Thịnh không nói lời nào, vẫn còn nhiều việc phải làm, phải tiếp tục truyền đạo vì họ Trương, vì giáo chúng, vì di nguyện của phụ thân, tuyệt đối không thể kéo dài được. Trương Thịnh cầm ấn, gấp giáo chỉ lại, đi nhanh về phía cửa sân, nhảy lên con ngựa mà thúc phụ vừa cưỡi đến, chạy về hướng vương cung…
Trí sĩ nhập cuộc
Thực ra, không chỉ Thiên sư mới có được trái tim tĩnh lặng như hồ nước. Khi Trương Lỗ quy tiên, trong một phủ đệ không mấy hoa lệ ở ngoại thành, có một lão thần cũng đang khuyên bảo nhi tử của mình với một tâm thế tĩnh lặng, đó chính là Thái trung đại phu Giả Hủ.
Thân phận lúc này của Giả Hủ thật khó nói, với tấm thân “mang tội”, ông không phù hợp để gia nhập triều đình nước Ngụy. Giả Hủ vốn muốn cáo bệnh từ quan, nhưng Tào Tháo nhất định không buông tha, nghĩ cách vỗ về bổ nhiệm làm Thái trung đại phu. Đây là chức quan nhà Hán, không phải quan nước Ngụy. Nhưng Tào Tháo lại giữ Giả Hủ ở lại Nghiệp Thành, có gì cần còn triệu vào cung để hỏi kế sách, ông vừa ẩn cư vừa làm quan, vừa là thần tử vừa là bằng hữu, coi như là một túi khôn của Ngụy Vương.
Thái trung đại phu đâu phải là chức vị mà người thường có thể đảm nhận được, chức vị này mặc dù không có chức trách cụ thể, nhưng lại được hưởng hai nghìn thạch bổng lộc, thường thì sẽ do nguyên lão đại thần hoặc tam công đảm nhận. Mặc dù Giả Hủ năm xưa đã có hành động được coi là “hại nước”, nhưng vẫn từng làm Thượng thư lệnh, Tổng lãm triều chính ở Tây Kinh, nên có làm chức này cũng xứng đáng, chỉ có điều, năm nay ông tuổi cũng đã cao, đáng ra phải được hưởng cuộc sống an nhàn.
Giả Hủ khác với Trình Dục và Lâu Khuê, hai người họ đã từ quan nhưng vẫn tham gia mọi việc như trước. Còn Giả Hủ đóng cửa giữ mình không giao du với ai, ngay cả khi Tào Tháo mời quần thần dự tiệc, mười lần mời thì cũng có đến tám lần ông tìm cách từ chối. Một mình như thế đã đành, đằng này cả gia tộc cũng bị ràng buộc, trai gái trong nhà không kết duyên với người quyền quý, những chuyện vui trong nhà cũng không mời khách đến. Trưởng tử của Giả Hủ là Giả Mục đã gần năm mươi tuổi, đến nay vẫn chỉ giữ chức quan nhỏ ở Hứa Đô, cháu đích tôn là Giả Mô cũng đã ngoài hai mươi tuổi mà vẫn chưa ra làm quan. Tuy ông sống ở Nghiệp Thành nhưng phủ đệ thì ở nơi xa
xôi ngoài ngoại thành, phòng ốc cũngđơn giản, mọi chuyện trong nhà đều do con út là Giả Phóng gánh vác, nói là con út nhưng cũng đã hơn ba mươi tuổi, vẫn chưa có chức vị gì.
Giả Phóng cả ngày phục vụ cơm nước, giặt giũ cho phụ thân, là một người con hiếu thuận, nhưng những ngày tháng như thế này còn kéo dài bao lâu? Anh ta nhìn phụ thân mỗi ngày một già yếu mà lại lo cho tiền đồ của mình, tuy rằng Giả thị vẫn là một gia tộc giàu có, nhưng anh ta ngày ngày đèn sách cũng chỉ mong có được công danh, không dám nói là kiến công lập nghiệp, chỉ cần ra làm quan để phấn đấu là được. Hơn nữa, Giả Phóng cũng là con út, không phải là con trưởng để có thể tiếp tục kế nghiệp phụ thân, muốn làm quan nước Ngụy ắt phải nhờ vào tiếng tăm của phụ thân. Nhưng lúc này đừng nói là vào triều bái kiến các quan, mà ngay cả chuyện ra khỏi cửa cũng không được phép. Tối nay, Ngụy Vương lại cho mời các lão thần, nhưng phụ thân lại từ chối. Nếu cứ như vậy sau này biết phải làm thế nào? Giả Phóng chần chừ do dự, cuối cùng mới đem những lời này nói với phụ thân, thuyết phục cả buổi tối mà phụ thân vẫn không thay đổi.
Đêm đã về khuya, Giả Hủ chỉ thắp một ngọn đèn, trong góc phòng vẫn tối om. Giả Hủ lưng hơi gù, ngồi trong bóng tối càng toát lên vẻ tuổi già sức cạn, hai mắt nhìn vào ngọn đèn, chậm rãi nói:
— Hôm nay làm thượng khách, ngay mai làm phạm nhân. Ngay cả những người như Mao Hiếu Tiên theo đại vương lập nghiệp mà cũng khó giữ được mạng, lão phu há lại không cẩn thận? Ta không phải là quan của nước Ngụy, hơn nữa lại còn mang tiếng hại nước, còn vì chuyện ở Uyển Thành mà hại cả trưởng tử của đại vương, tránh còn không được, sao có thể để con bước vào Ngụy đình?
Những lời này Giả Phóng đã nghe quá nhàm tai:
— Lời của phụ thân đương nhiên có lý, nhưng muốn hưng gia lập nghiệp thì phải có chí tiến thủ, chỉ đóng cửa ở trong nhà cũng không phải kế lâu dài.
Giả Hủ nhẫn nại nói:
— Hiện nay, chuyện đại vương lập ai làm thái tử vẫn chưa rõ, những người muốn dựa vào thái tử để trèo cao rất nhiều, không cẩn thận có khi sẽ mất tất cả. Với tài cán như con, tốt nhất nên tránh xa!
Thấy phụ thân không coi trọng tài năng của mình, Giả Phóng trong lòng không phục, nhưng lại nói:
— Mọi chuyện trên đời có cái mất cũng có cái được, con không mong được hạnh tiến, chỉ cần kết giao được với mấy người bằng hữu là tốt lắm rồi!
Giả Hủ cười:
— Chốn quan trường lấy đâu ra bằng hữu thật lòng thật dạ? Cứ chiết trung dung hòa, giữ gìn gia nghiệp mới là chính đạo!
— Ôi! - Giả Phóng biết mình không thể nói lại được với phụ thân, chỉ cười khổ, - Họ Giả nhà ta tuy xuất thân Kinh Châu, nhưng cũng đã có mấy đời làm quan. Tổ phụ Giả Cung từng là Khinh Kỵ Tướng quân, phụ thân cũng là Thái trung đại phu, không ngờ rằng lại dừng lại ở đây, phụ thân bảo thủ như thế, huynh đệ chúng con không có ngày ngẩng đầu lên được, chỉ sợ sau này khó làm nên việc.
Giả Hủ đưa mắt nhìn con:
— Việc trên đời không có gì định trước được, hôm nay không thể tính toán cho ngày mai, há có thể tính cho con cháu đời sau? Ai mà biết cơ hội gì sẽ đến? Thành bại của con người đều nằm ở chỗ phải biết nắm bắt thời cơ, nhưng không đi ngược lại với thiên thời, nên sao có thể tính toán trước được? Khi còn trẻ ta cũng chỉ làm theo khuôn phép, cố gắng phụng sự triều đình, chọn đường ngay mà phò tá quân vương, nào ngờ dọc ngang nửa đời người, cuối cùng lại đến bước đường hôm nay. Thế sự khó lường lắm… - Nói đến đây, ánh mắt trống rỗng của Giả Hủ bỗng sáng lên, dường như ông đang nhớ về những ngày tháng phò tá Lý Thôi, Trương Tú.
Giả Phóng định nói tiếp, bỗng nghe bên ngoài có tiếng bước chân, một nô bộc bẩm báo qua tấm rèm:
— Thưa đại nhân, có khách cầu kiến.
Hai cha con nhìn nhau - trong nhà ít khi có khách, muộn thế này còn có ai đến?
Giả Hủ xua tay, Giả Phóng hiểu ý phụ thân, nói vọng ra: — Đã muộn quá rồi, mời họ hôm sau đến.
— Dạ, chỉ có một người dắt theo một nô bộc, nói rằng khó khăn lắm họ mới ra được ngoài thành, rất mong được gặp. — Đó là người nào?
— Người đó không nói, nhưng có đưa tấm thiếp. Giả Phóng ngáp một cái rồi đi ra cửa, vén rèm lên cầm lấy tấm thiếp bằng thẻ tre, trời tối nhìn không rõ, lại mang đến trước đèn:
— Bái Quốc Tiều huyện Ngũ quan trung… - Anh ta mới đọc được mấy chữ đã không dám đọc tiếp.
Giả Hủ cũng không nghe nữa, ông già bảy mươi tuổi không cần ai đỡ vội đứng bật dậy, cao giọng dặn dò:
— Thắp đèn! Thay áo! Đón khách!
Giả Phóng cũng vội vàng đứng dậy, không lâu sau hơn mười ngọn đèn được thắp lên, chiếu sáng cả căn phòng tù mù trước đây. Giả Hủ như biến thành người khác, tinh thần phấn chấn, đổi bộ y phục mới rồi dắt theo nhi tử ra cửa đón khách, vái lạy:
— Lão hủ không biết Ngũ quan tướng giá đáo, không nghênh đón từ xa, xin nhận tội.
Tào Phi còn khách khí hơn:
— Không dám, không dám, quấy quả tiền bối nghỉ ngơi, vãn sinh tội đáng muôn chết.
Giả Hủ cười nói:
— Tướng quân không cần đa lễ, mời…
— Đa tạ. - Tào Phi một mình bước vào nhà họ Giả, còn Chu Thước đứng canh bên ngoài.
Giả Phóng đi trước dẫn đường, đến chính đường thì tự tay vén rèm. Giả Hủ ân cần đi phía sau, mời Tào Phi bước vào trước. Trong nhà thắp bảy tám ngọn đèn sáng lóa cả mắt, Tào Phi vừa ngồi xuống đã nói:
— Thời tiết nóng nực quá, Giả công hãy sai nô bộc tắt bớt đèn đi.
Giả Hủ cười nói:
— Tướng quân là quý nhân, sao có thể tiếp khách trong nhà tối được?
Tào Phi cố ý vén tay áo:
— Vậy cho nô bộc trong này lui ra, người qua người lại nóng quá.
Giả Phóng không dám chậm trễ, vội cho nô bộc lui ra, đang định quay lại mời Tào Phi dùng hoa quả thì bỗng thấy Ngũ quan tướng quỳ xuống trước mặt phụ thân. Giả Phóng vội buông rèm rồi lui ra ngoài, đứng nấp dưới hành lang nghe trộm.
Giả Hủ dường như đã sớm đoán ra hành động này, không đợi hai đầu gối của Tào Phi chạm xuống đất, đã đỡ lấy y: — Tướng quân chớ nên làm vậy, ngài giết lão hủ này đi còn hơn!
— Giả công xin hãy cứu ta!
— Tướng quân hà tất phải nói lời này, có gì đứng dậy rồi hãy nói.
Tào Phi giọng đầy lo sợ:
— Nay Đinh Nghi đưa lời gièm pha, khiến phụ vương không còn tín sủng ta. Vãn sinh tuổi trẻ, hiểu biết nông cạn, mong Giả công thương tình cứu giúp.
— Đây là chuyện trong nhà tướng quân, lão thần không tiện can dự. - Cho dù có giúp hay không, Giả Hủ vẫn phải thể hiện điều này.
Tào Phi khẩn khoản nói:
— Bọn chúng làm những việc hại nước hại dân, giết hại trung lương, hủy hoại xã tắc, đâu còn là chuyện nhà? Mong Giả công tương trợ. - Tào Phi đã chuẩn bị sẵn những lời này, y lồng việc của mình vào việc giết hại trung lương, có thể coi là danh chính ngôn thuận.
— Lão hủ đã có tuổi, hơn nữa cũng không phải là cựu thần của Ngụy Vương, thực sự không thể giúp được.
— Giả công hà tất phải khiêm tốn? Trên dưới nước Ngụy đều biết ngài là người mưu trí thâm sâu, theo quân bao năm hiến nhiều diệu kế. Mặc dù ngài đã lui về nghỉ ngơi, nhưng phụ vương vẫn giữ lại ở Nghiệp Thành để tiện hỏi kế sách, chỉ cần đưa ra ý kiến là nhất mực nghe theo. Nay, bọn Đinh Nghi ép người đến cùng, vị thế của vãn sinh bấp bênh nguy hiểm, lẽ nào Giả công thấy chết mà không cứu sao? - Tào Phi vừa nói vừa định quỳ xuống.
Giả Hủ tuổi đã cao, sao có thể đỡ nổi y, đành nói: — Tướng quân không được làm thế, thần chịu ơn phụ thân của tướng quân, nghe lệnh sai khiến sao dám không theo? Mau mau đứng dậy…
Tào Phi coi như trút được gánh nặng, từ từ đứng dậy: — Giả công chịu giúp sức cho ta?
Giả Hủ khẽ gật đầu:
— Mời tướng quân ngồi.
Tào Phi xua tay:
— Không cần phải mời mọc gì. Đêm nay vương cung mở tiệc chiêu đãi quần thần, ta mới có cơ hội ra ngoài. Nếu ta về muộn sợ rằng cửa thành đóng rồi sẽ sinh thêm chuyện, nên không dám ở lâu, chỉ xin Giả công tìm cách cứu ta thoát khỏi họa này.
— Việc này không khó. - Giả Hủ vuốt râu, - Mong tướng quân đức độ rộng lượng, cố gắng học hỏi, sớm tối chuyên cần, không làm trái đạo làm con…
— Chỉ như vậy thôi sao?
— Chỉ có vậy thôi. - Giả Hủ vuốt râu cười.
Tào Phi nhìn vị lão thần đầy nghi ngờ - Lẽ nào chỉ nói qua loa lấy lệ? Nhưng nhìn mặt ông ta có vẻ không giống vậy. Giả Hủ biết là Tào Phi do dự, mới chậm rãi nói:
— Chuyện trong thiên hạ nên lấy ngay thẳng mà xử lý, lấy mẹo lạ mà vượt qua. Tướng quân cứ tu dưỡng đạo đức, tận tâm tận hiếu, làm việc cẩn thận, còn những chuyện khác… ngài không phải bận tâm.
Lẽ nào ông ấy đã có kế hay giúp ta? Tào Phi nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn chắp tay hành lễ:
— Giả công là mưu thần của quốc gia, mưu trí cao siêu, đúng là trụ cột của Đại Ngụy, vãn sinh ngày sau không dám quên công ơn này của ngài. - Lời này có ý nói, nếu như ông thật lòng giúp ta đoạt vị, sau này phụ thân chết, ta lên ngôi nhất định sẽ không bạc đãi gia đình ông. Chỉ là Tào Phi không thể nói rõ ra như vậy.
Giả Hủ há lại không hiểu ra? Vội vàng đáp lễ:
— Họ Giả nhà thần xin cảm ơn ân đức của đại vương và tướng quân.
— Trời đã muộn, không dám làm phiền nữa, vãn sinh xin cáo từ.
— Tướng quân đến hàn xá quả là vinh dự cho lão hủ, cung tiễn tướng quân. - Nói xong Giả Hủ cầm tấm thiếp trả lại cho Tào Phi.
Hai người dắt tay nhau ra khỏi cửa, nô bộc bên ngoài bối rối: Vị khách này sao thế nhỉ? Tối muộn đến đây, chưa kịp uống ngụm nước nào đã vội rời đi? Nhưng họ không biết rằng những gì cần nói đã nói hết! Giả Phóng cũng vội đi từ trong ra, cùng với phụ thân hành lễ, tiễn Tào Phi lên ngựa.
Mặc dù phụ tử Giả Hủ đã nhận lời giúp, nhưng vẫn không khiến Tào Phi hết lo lắng, y đành quất ngựa đi, nhìn con đường phía trước tối om, trong lòng rối như tơ vò. Cảnh vật, cây cối xung quanh dường như biến thành những ác quỷ cản đường… Không, không phải là ác quỷ, mà là huynh đệ Đinh Nghi, Đinh Dực, còn có cả Khổng Quế, bọn chúng tựa như mãnh hổ thú dữ, đang giơ nanh nhe vuốt trong bóng đêm! Tào Phi không khỏi cất lên tiếng than:
Lên núi trông phía xa,
Hang cốc nhiều thứ lạ.
Cây cao hơn ngàn thước,
Cỏ mọc chật lối bước.
Hoa lá tươi lóa mắt,
Năm màu khó vẽ lên.
Trĩ đua nhau khoe giọng
Hổ gầm gió rít gào.
Gấu nhảy ra chặn đường,
Răng ta va cầm cập.(*)
Nhìn thấy Tào Phi và Chu Thước cưỡi ngựa mất hút trong màn đêm, phụ tử Giả Hủ mới thở phào nhẹ nhõm, trở về thư phòng. Giả Hủ dường như lại quay về con người thận trọng lúc trước, tự tay tắt nến, chỉ để lại một ngọn đèn duy nhất, sau đó quay trở về chỗ cũ.
Giả Phóng cảm thấy có gì không đúng:
— Phụ thân vừa rồi dặn mình thế nào? Tránh xa rắc rối, chiết trung dung hòa, không tham gia vào chuyện tranh giành ngôi vị, tại sao Ngũ quan tướng vừa đến, phụ thân đã thay đổi vậy?
— Ây dà! - Giả Hủ thở dài một tiếng, nói, - Không nhận lời thì làm được gì? Lẽ nào lại đóng cửa từ chối? Vậy thì lại khác nào đắc tội. Không kết giao với Lâm Tri hầu, lại đắc tội với Ngũ quan tướng, nhà chúng ta còn được sống yên ổn sao? Ngũ quan tướng không đến thì thôi, đã đến thì ta phải theo vậy.
— Hóa ra là vậy. - Lúc này Giả Phóng mới hiểu được tâm tư của phụ thân, - Vậy là phụ thân đã tham gia vào chuyện tranh giành ngôi vị, nếu việc hiến kế cho Ngũ quan tướng mà bị Ngụy Vương biết được…
— Ta có hiến kế gì đâu? - Giả Hủ vuốt râu nói, - Ta chỉ bảo Ngũ quan tướng tu dưỡng đạo đức, không làm trái đạo làm con. Phàm là hiếu đạo phải bắt đầu từ việc phụng dưỡng phụ mẫu, sau đến dốc sức cho quân vương, cuối cùng mới là lập thân. Ngũ quan tướng vừa là thần tử vừa là nhi tử, khuyên một người làm quan phải hiếu thuận với phụ thân của mình, đó là chuyện thường tình. Những lời này truyền đến tai Ngụy Vương thì có sao?
Giả Phóng ngẩn người: Đúng vậy, khuyên một người con hiếu thuận với phụ thân mình không có gì là sai. Chuyện hôm nay, nếu Tào Tháo biết được thì cũng không có ác cảm với phụ
thân. Bảo sao phụ thân nhất định phải để đèn sáng, không làm chuyện giấu giếm người khác, đúng là quang minh chính đại. Mặc dù không có lời nào giấu giếm, nhưng Giả Hủ vẫn cảm thấy khó xử:
— Ta vốn muốn bình yên, nào ngờ cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đóng cửa ở trong nhà thì chuyện rắc rối lại tự tìm đến cửa. Thế sự biến đổi không ngừng, con ngựa già như ta đến lúc nào mới có thể thoát khỏi gông cùm này đây?
— Cũng không có cách nào, phụ thân mệt vì danh tiếng của mình, ai cũng nói phụ thân là bậc trí sĩ kỳ tài mà! - Giả Phóng nói như vậy nhưng trong lòng cảm thấy phân vân. Lúc này Tào Thực đang đắc chí, Tào Phi không được yêu quý, lẽ nào phụ thân muốn thổi lửa vào cái lò đã nguội sao? Nghĩ vậy bèn dò hỏi, - Phụ thân nói qua loa mấy câu được rồi, lẽ nào người muốn giúp Ngũ quan tướng thật sao?
— Con định dùng những lời này để thăm dò ta? - Giả Hủ lập tức nhận ra ý đồ của con trai, - Không giấu gì con, đã đồng ý thì phải làm thật. Nếu nuốt lời chẳng phải lại kết oán càng lớn sao? Ta sắp xuống lỗ rồi, còn sợ gì có lỗi với người ta, đều là nghĩ cho các con thôi.
Giả Phóng vừa mừng vừa lo, mừng vì nếu phụ thân có thể giúp Tào Phi lên ngôi, tiền đồ sau này sẽ không phải suy nghĩ, nhưng cũng lo vì Tào Tháo đã có ý chọn Tào Thực, rất khó giúp được Tào Phi:
— Phụ thân đã có dự định gì chưa?
— Vẫn chưa có. - Giả Hủ từ từ đứng dậy, - Chuyện tranh giành ngôi vị chẳng khác nào chiến tranh, binh vô thường thế, thủy vô thường hình. Có tính toán cũng sẽ thay đổi, chỉ có thể lựa thời cơ mà hành sự. - Vừa nói, Giả Hủ vừa bước đến bên cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm.
Giả Phóng thấy từ đầu đến cuối phụ thân đều giữ dáng vẻ thong thả, bèn nóng ruột nói:
— Nay Ngụy Vương rõ ràng đã có ý chọn Lâm Tri hầu, sợ rằng việc này khó thành.
— Rõ ràng ư, sao ta không nhìn thấy? - Giả Hủ vẫn nhìn lên trời, không quay đầu lại, - Ta chỉ biết nửa năm trở lại đây,
Ngụy Vương chưa gặp riêng từng người trong hai huynh đệ họ. Trận tây chinh vừa rồi vì sao phải mang theo nhiều người không liên quan như thế, con đã nghĩ đến chưa?
Dương Tu từng ngấm ngầm giúp Lâm Tri hầu, chuyện này đã không còn là bí mật, hắn không thể đến cửa gặp Lâm Tri hầu nữa; ta cũng nghe nói Tư Mã Ý cũng bị trách mắng, nay đã tránh xa rắc rối. Đinh Nghi làm Tây tào duyện, bên ngoài là thế lực của Lâm Tri hầu, nhưng họ Đinh sớm đã là người của mạc phủ, chịu sự khống chế của Ngụy Vương; Ngô Chất có chút bản lĩnh, những cũng bị điều đến Triều Ca xa tít tắp. Con mở to mắt mà nhìn. Bất luận là phe phái của Ngũ quan tướng hay Lâm Tri hầu đều bị Ngụy Vương phá tan tành, tả tơi, vậy ai được yêu quý, ai không được yêu quý? Nói đại vương đã chọn Lâm Tri hầu, điều này chỉ e vẫn còn quá sớm.
— Lời của phụ thân đúng là có lý… Nhưng đại vương giết Thôi Diễm, Mao Giới chẳng phải là sự thật sao? Chẳng phải vì họ sống chết bảo vệ Ngũ quan tướng đó sao?
— Lý lẽ tầm thường. - Giả Hủ cười khinh miệt, - Đúng vậy, đại vương quá tuyệt tình với họ, Tỷ Can chết là vì chống đối, Mãnh Bôn bị giết là vì dũng mãnh. Nếu cho rằng bọn họ chết vì cố sức bảo vệ Ngũ quan tướng thì quá coi thường đại vương rồi.
— Coi thường? - Giả Phóng nghĩ mãi không hiểu được vấn đề.
— Con à, ta hỏi một câu. Con nói trận Quan Độ ai mới là người thắng?
Giả Phóng cảm thấy câu hỏi này quá hoang đường, nên chau mày nói:
— Cái này phụ thân còn phải hỏi, tất nhiên là Ngụy Vương thắng.
— Ồ? - Giả Hủ hai mắt mơ màng, dường như đang chìm đắm trong quá khứ xa xăm, rất lâu sau mới lẩm bẩm, - Ông ta có thể đã thắng trên chiến trường, nhưng trị quốc thì… Nếu có ai tin rằng bản thân có thể thay đổi được càn khôn, thì quá xem thường thế đạo rồi.
Giả Phóng vẫn ù ù cạc cạc, định mở miệng hỏi, lại nghe phụ thân hỏi tiếp:
— Con à, có biết cái đau xót nhất của người nắm giữ thiên hạ là gì không?
— Mất nước?
Giả Hủ cười nhạt:
— Tự tạo nghiệp tự chuốc họa, gọi gì là đau khổ? — Gặp phải tai họa?
— Ý trời đã định, tận sức mà làm, cũng chẳng thể nói là đau khổ.
— Trong số các con, không một ai đủ sức gánh vác cơ nghiệp?
— Hai mắt nhắm lại rồi sẽ trở về với cát bụi, công tội đã có sử sách ghi, nợ ai trả về cho người đó.
Giả Phóng thực sự đoán không ra:
— Xin phụ thân chỉ giáo.
Giả Hủ quay đầu lại, hai hàng lông mày động đậy, giọng nói toát lên vẻ trách trời thương dân:
— Nỗi đau xót lớn nhất của người nắm giữ thiên hạ, đó là… đạo trị quốc mà cả đời tìm kiếm và làm theo, đến tuổi xế chiều lại phải tự tay hủy bỏ!
Giả Phóng chưa bao giờ nhìn thấy phụ thân như vậy, nên rất đỗi ngạc nhiên.
Nhưng cảm xúc xót thương đó chỉ thoáng qua, Giả Hủ dần trở lại dáng vẻ tĩnh tại, tiếp tục nhìn lên trời:
— Gió mưa khó đoán, hình như sắp trở trời…
Nhìn thấu màn sương mù
Trên đường từ Thính Chính đường về hậu cung, Tào Tháo không khỏi thở dài: Đúng là một đêm đầy giả dối! Kỳ thực, Tào Tháo không mấy hứng thú với Hữu Hiền Vương, điều ông mong muốn đó là Thiền vu Hung Nô sớm đến
Nghiệp Thành. Ông đã bí mật lên kế hoạch, đợi Hồ Trù Tuyền đến sẽ lấy cớ khoản đãi để giữ chân ông ta, chỉ cần nắm được Thiền vu trong tay, Hung Nô sẽ không còn là mối uy hiếp nữa, đến lúc đó có thể thoải mái giúp mấy vị vương gia Hung Nô cai quản các bộ, để họ tự đấu đá lẫn nhau, không còn để ý đến việc thù hận đối đầu với người Hán, họa từ phía bắc coi như đã được loại bỏ. Vì thế, mấy ngày nay sức khỏe của Tào Tháo không tốt, nhưng vẫn cố làm ra vẻ vui vẻ để tiếp đãi Khứ Ty, và còn kéo Trương Lỗ tới tiếp rượu…
Mọi việc đều diễn ra thuận lợi, thậm chí còn tốt hơn so với dự kiến, Khứ Ty đồng ý sai sứ giả đến thúc Hồ Trù Tuyền lên đường, còn Trương Lỗ sau khi về nhà cũng đã “quy tiên”. Trương Thịnh mang giáo chỉ cuối cùng của Trương Lỗ đến cho Tào Tháo, vị Thiên sư này đúng là hiểu chuyện, Thiên sư đạo đã toàn tâm toàn ý quy phục Ngụy quốc, phần lớn bọn họ cũng đã rời Hán Trung, như thế cũng bớt rắc rối. Nhưng quân của Trương Cáp đơn độc giao chiến với Trương Phi ở ải Ngõa Khẩu, vì quân Thục nhiều quân Tào ít nên rất khó lấy được quận Ba, Hán Trung chuyển sang thế phòng thủ.
Tào Tháo hiểu rõ rằng, muốn giải quyết vấn đề Hán Trung thì phải tây chinh lần nữa, nếu không đuổi được Lưu Bị ra khỏi đất Thục, hắn sẽ không bao giờ từ bỏ dã tâm. Tất nhiên còn có Tôn Quyền, tuy quân Tào đã thắng trận Hợp Phì nhưng vẫn phải dạy cho Tôn Quyền một bài học nữa, để hắn thực sự nản chí, quay về Giang Đông đợi cho đến ngày cùng tháng tận. Nhưng… lúc này trong tâm tưởng của Tào Tháo lại có chút mâu thuẫn về cách nhìn nhận chiến cuộc. Hiện nay, sức khỏe của ông đã tốt hơn lúc ở Hán Trung, cũng gọi là tạm hài lòng, Lý Đương Chi hứa sẽ trị được bệnh, nhưng mãi cũng chưa thấy khởi sắc, lẽ nào từ nay về sau ông đành phải nhẫn nhịn chịu đựng cơn tê nhức? Đúng vậy, hơn sáu mươi tuổi rồi còn có thể mong khỏi bệnh sao? Tất nhiên, trước mắt chuyện đáng lo nhất vẫn là tiết trời…
Nghĩ đến đây, Tào Tháo gọi Nghiêm Tuấn đang cầm đèn đi đằng trước lại, vịn lên vai hắn rồi ngửa mặt nhìn lên trời: Trời tối đen như mực, không có trăng cũng chẳng có sao, không nhìn thấy gì hết, dường như cả màn đêm đen kịt đang đè xuống,
khiến người ta khó thở. Trời vẫn chưa cho mưa, đã gần nửa năm rồi, một giọt mưa cũng không có, tại sao vậy? Tào Tháo xưa nay không tin có thiên mệnh, nhưng lúc này cũng đang hoài nghi, lẽ nào lại có thần linh bảo vệ vương triều đại Hán trong lúc tối tăm mù mịt, lẽ nào ông lại sắp biến thành một Vương Mãng thứ hai thân bại danh liệt?
Tào Tháo bỗng cảm thấy nực cười. Ông thực sự nghĩ lung tung rồi, là Vương Mãng thì nhất định sẽ thân bại danh liệt sao? Vương Mãng chăm lo việc nước, tài đức vẹn toàn, cho đến lúc thất thủ những người đi theo ông ta đều không có ai phản bội lại, vậy cũng được coi là anh hùng! Trước đây, Tào Tháo không coi Vương Mãng ra gì, ông muốn noi theo Quang Vũ Đế văn võ song toàn, thập toàn thập mỹ, thậm chí ông còn muốn mình xuất chúng hơn Lưu Tú, nhưng lúc này người ông nghĩ đến nhiều hơn cả vẫn là Vương Mãng - kẻ thù của Lưu Tú.
Vương Mãng ngưỡng mộ triều đình nhà Chu, muốn xây dựng vương triều của mình được vững bền, nên tất cả các chức quan, chính lệnh đều được sắp xếp dựa trên lễ pháp của nhà Chu, và còn một lòng muốn khôi phục lại chế độ tỉnh điền(*), cuối cùng kết quả ra sao? Nói dễ nghe thì “cao siêu không thể với tới”, mà nói khó nghe là “không biết thời cuộc”, hoài bão của Vương Mãng có khoảng cách quá lớn giữa mộng tưởng hão huyền và thực tế… Còn bản thân Tào Tháo thì sao?
Tào Tháo muốn đánh đổ hào cường sĩ tộc từ thời Đông Hán trở lại đây, thậm chí còn muốn xây dựng nên một nền giáo hóa ngay thẳng hơn tầng lớp nho sinh, nhưng việc này liệu có phù hợp với thực tế không? Mộng thì vẫn là mộng, lúc ông lên ngôi vương đã phát hiện ra giấc mộng này dường như đã đến lúc phải tỉnh, ông mãi mãi không thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn của thế đạo. Sự thật là như vậy, chưa thể thống nhất được thiên hạ, còn nói gì đến những thứ cao xa? Không còn cách nào khác, Tào Tháo không muốn làm một Vương Mãng thứ hai, chỉ ôm mộng hão huyền mà để cho Ngụy quốc và tử tôn đi đến con đường hủy diệt. Ông đành chấp nhận hiện thực, tự xóa bỏ lý tưởng mà mình theo đuổi trong suốt hơn hai mươi năm qua…
Việc tiếp nhận sự thực là vô cùng khó khăn, Tào Tháo lại là một đại thần, nếu vượt qua lễ giáo mà bước lên ngôi vị thiên tử thì cũng đồng nghĩa với việc ông phải thông qua lễ giáo để mở ra một vương triều mới. Có mâu thuẫn hay không? Có buồn cười hay không? Có bi kịch hay không?
Bản thân Tào Tháo cũng cảm thấy mình vừa nực cười lại vừa đáng thương, ông đã quẳng bỏ vũ khí trị nước đi, sau này phát hiện ra nó có ích lại nhặt lại, sửa đổi, thêm thắt nhưng vẫn không tránh được rách nát. Đôi lúc Tào Tháo còn tự chất vấn bản thân, vì sao lúc đầu lại muốn xóa bỏ thế gia đại tộc? Vì bắt nguồn từ lý tưởng hay chỉ vì ông xuất thân từ gia tộc “khác người”, muốn báo thù tất cả những ai coi thường mình trước đây?
— Đại vương. - Nghiêm Tuấn cắt ngang dòng suy tư của Tào Tháo, - Trời không còn sớm…
— Ồ! - Tào Tháo cười nhăn nhó, đưa tay véo má Nghiêm Tuấn, - Ngươi giục ta đi ngủ sớm, rồi vào cũng đùa nghịch với đám cung nữ đúng không?
Nghiêm Tuấn ngạc nhiên:
— Sao đại vương cái gì cũng biết?
— Hừ! Vì đây là xã tắc của ta, là cung điện của ta, ta đương nhiên phải biết, còn có những chuyện ta không biết là vì không muốn biết… Đi thôi! - Tào Tháo thần sắc u ám: Ta không muốn biết những chuyện như Đinh Nghi đang rắp tâm gì, dù sao đó cũng là kẻ có tài, trước mắt còn phải dùng đến, còn mưu đồ của hắn có thành hiện thực không chẳng phải đều đang ở trong tay ta? Chuyện ta muốn biết nhất nhưng cũng không muốn biết nhất đó chính là tình hình bên trong phủ đệ của Tử Hoàn và Tử Kiến, biết rõ ràng cũng để làm gì? Ta đã phái Triệu Đạt, Lư Hồng đi giám sát, sau lưng còn có Lưu Triệu để mắt đến chúng. Mắt nhắm mắt mở cho qua, càng biết rõ, càng đau lòng…
Đột nhiên có tiếng sột soạt gần đó, Tào Tháo giật mình: — Kẻ nào?
— Đại vương, đó chỉ là con mèo.
— Ây dà, đúng là thần hồn nát thần tính. - Tào Tháo cảm thấy bất an, vừa rồi cứ ngỡ nhìn thấy bóng người, hình như là Trương Lỗ, nhưng cũng giống Thôi Diễm!
Tại sao phải đẩy Thôi Diễm đến con đường chết? Tào Tháo tự hỏi, là vì ông ta công khai dâng tấu thư về chuyện tranh ngôi thái tử? Vì ông ta kiêu ngạo không phục, cương quyết phạm thượng? Vì ông ta giữ việc tuyển chọn quan lại đã lâu, nay muốn thay đổi cách làm nên phải giết ông ta để tránh hậu họa? Vì phải giết một người xuất thân từ danh gia vọng tộc để lập uy? Hay chỉ đơn giản vì những lời lẽ trong bức thư trên khăn lụa của ông ta? Có lẽ đều không phải, nhưng nếu cộng tất cả các lý do này lại thì Thôi Diễm chết là không có gì phải nghi ngờ.
Còn về Mao Giới, Tào Tháo không ngờ lại có kết cục đó, sớm biết như vậy thì đã không nên tức giận làm gì. Mao Giới chết cũng khiến ông đau lòng mãi, ông đã sai đóng quan tài loại tốt nhất, ban cho gia quyến ông ta không ít tiền, lại phong cho Mao Cơ - nhi tử của Mao Giới làm quan, hy vọng làm thế có thể bù đắp sai lầm.
Nhưng lương tâm thì sao có thể bù đắp được? Mao Giới tức giận mà chết, cũng coi như là do Tào Tháo hại chết, ông lại một lần nữa hại chết người đã cùng mình đánh dẹp thiên hạ…
Nghĩ đến đây, Tào Tháo rảo bước, không biết từ lúc nào ông cảm thấy buổi tối ở trong cung rất đáng sợ, như luôn có ma quỷ rình rập. Không lâu sau, đến Thu Tử phường, Nghiêm Tuấn dừng lại:
— Thưa, đại vương đến chỗ phu nhân nào?
Thật khó cho Tào Tháo, đi đến đâu thì tốt? Biện thị luôn là sự lựa chọn hàng đầu của ông, mặc dù bà tuổi đã cao, sắc đã tàn nhưng lại là người hiểu Tào Tháo nhất. Có điều, mấy năm gần đây Tào Tháo ít đến chỗ Biện thị, hai vợ chồng già biết nói gì với nhau? Hai người đã phải đóng kịch cả ngày, lẽ nào lúc này còn phải tìm cách không nói đến chuyện con cái ở trước mặt nhau? Đều quá mệt mỏi. Hoàn thị vẫn đau khổ vì mất Xung nhi, Tần thị cũng đang khóc thương Huyền nhi, họ đều là những người sống vì con. Còn những thần thiếp dung mạo xinh đẹp
như hoa khác thì thôi, hôm nay Tào Tháo không có hứng thú với chuyện chăn gối, chỉ e càng về sau càng mất hứng. — Hay là đến chỗ của Trần thị? - Nghiêm Tuấn bỗng chủ động đề nghị, - Thăm tiểu vương tử?
— Hừ! Thăm tiểu vương tử? - Tào Tháo cúi xuống, khẽ nói vào tai của hắn, - Nàng ta cho ngươi ăn quả ngon, có lúc còn cho bạc đúng không?
Nghiêm Tuấn sợ hãi, quỳ mọp xuống đất:
— Đại vương…
— Đứng lên! Ta đã nói rồi, ta cái gì cũng biết. - Tào Tháo đứng thẳng người lẩm bẩm, - Những thứ quả đó do ai mang đến tặng nàng ta, ta cũng đều biết. - Tào Tháo rất sủng ái Trần thị, nhưng cũng không đến mức Tào Cán vừa sinh ra đã được phong hầu, làm như vậy là bởi ông hiểu rõ rằng Tào Cán có lẽ là đứa con cuối cùng của mình, - Đến chỗ Vương thị.
Cũng không biết từ khi nào, Vương thị lại trở thành nơi tránh gió bão của Tào Tháo, người thiếp này được cướp từ Uyển Thành về, đến nay vẫn không có con cái, không già cũng không trẻ. Quan trọng hơn là nàng ta ít nói, chỉ âm thầm hầu hạ Tào Tháo, có thể đó cũng chính là điểm đáng quý nhất của nàng ta.
Vương thị hình như cũng đoán được tối nay Tào Tháo sẽ đến, nhưng nàng ta không bận rộn điểm trang giống những thế thiếp khác, mà chỉ đốt cỏ thơm, đuổi muỗi, trải chăn nệm, chuẩn bị nước ấm rất chu đáo. Vương thị cho Nghiêm Tuấn và thị nữ lui xuống, tự mình giúp Tào Tháo tắm gội, thay y phục, rồi còn xoa bóp bên vai trái, tay trái cho ông. Bệnh tình của Tào Tháo không được nói cho bất cứ thê thiếp nào, Lý Đương Chi nhát hơn thỏ đế, miệng kín như bưng, nhưng tự Vương thị biết Tào Tháo đau ở đâu. Đúng là một người phụ nữ có tâm mà ít lời.
Tào Tháo ôm Vương thị nằm trên giường, mặc dù ông mệt mỏi nhưng không buồn ngủ:
— Phòng của nàng thật yên tĩnh.
— Vậy sao? - Vương thị nhẹ nhàng nói, - Thần thiếp quen rồi, không thấy thiếu gì.
— Ta biết nàng thiếu gì, thiếu một đứa con…
Vương thị khẽ thở dài, không nói gì.
— Tên tiểu tử Khổng Quế nói, không tìm thấy Hoàng Phủ Long, nhưng biết được một vài kỳ nhân. Có một người tên là Khích Kiệm ở quận Sơn Dương, có thuật nhịn ăn, tương truyền mấy năm rồi không ăn gì. Có một người tên là Cam Thủy, người Cam Lăng, có thuật dưỡng nhan, đã gần trăm tuổi mà vẫn như năm mươi tuổi. Lại còn có người ở Lư Giang tên là Tả Từ, có thuật dẫn khí. Còn có mấy người nữa, ta định gọi hết họ đến, nếu như trị dưỡng tốt, có thể giúp nàng sinh con trai… - Tào Tháo nói vậy nhưng cũng không tự tin lắm.
— Chàng quá tin tên Khổng Quế kia chăng?
— Hừ! Ta biết hắn là đồ tiểu nhân nịnh hót, nhưng ngoài hắn ra còn ai có thể nói được những lời mà ta thích nghe? Trong lòng không vui, lẽ nào phải bịt luôn lỗ tai lại sao? - Tào Tháo vuốt má Vương thị, - Thật đáng thương, người ta không có con thì còn có họ hàng, nàng ngay đến một người thân cũng không có, sau này ta chết rồi nàng biết làm thế nào?
Vương thị không muốn nhắc đến chuyện này, hai mắt hấp háy, cố ý chuyển sang chủ đề khác:
— Hôm trước tỷ tỷ lại sai người đến thăm bà ấy.
Tào Tháo đương nhiên biết hai từ “bà ấy” mà Vương thị nói đến là chỉ ai:
— Nàng ấy có khỏe không?
— Thưa, bị bệnh rồi.
— Đúng vậy, ta năm nay sáu mươi hai tuổi, nàng ấy lớn hơn ta một tuổi, người không tìm bệnh thì bệnh cũng tìm đến người…
— Nhưng vẫn tính khí đó, tặng lụa nhất mực không nhận. — Ây dà, nàng ta không thay đổi, ta cũng không thay đổi được. - Tào Tháo vừa nghĩ đến Đinh thị là lại nghĩ ngay đến Tào Ngang, mà nghĩ đến Tào Ngang thì lại nghĩ đến những chuyện phiền não hiện giờ.
Vương thị dường như biết Tào Tháo đang nghĩ gì, mới nói: — Trị nước khó, trị nhà còn khó hơn.
Tào Tháo vỗ vỗ vào cánh tay nàng ta:
— Nàng cứ mở miệng ra là nói đạo lý, nàng thử nói lý lẽ của nàng cho ta xem nàng biết được bao nhiêu? — Phận đàn bà con gái chúng thiếp hiểu gì? - Vương thị tuy nói như vậy, nhưng thực tế trong số các thần thiếp, nàng là người có sở kiến cao nhất, còn cao hơn cả Biện thị. Nàng vốn xuất thân từ gia đình quan lại ở Quan Trung, thời thế loạn lạc, cả nhà chết thảm, bị Trương Tế cướp đi, sau lại rơi vào tay Tào Tháo, nàng thuộc làu Nữ giới của Ban Chiêu, thậm chí còn đọc cả sách sử.
Tào Tháo lại vỗ vai nàng:
— Nàng không còn người thân nào thật đáng tiếc, bởi ta thấy nàng là người vợ biết cai quản việc nhà.
Vương thị ghé sát vào tai Tào Tháo, thì thào:
— Cai quản việc nhà chỉ là chuyện nhỏ, cai quản gia tộc mới là chuyện lớn, ai là chủ của một nhà thì phải xem người đó có quan hệ hòa thuận với mọi người trong gia tộc không. Con người không ai là không gặp rắc rối, thuở nhỏ thì bệnh tật, ốm đau, lớn lên thì lo chuyện đất đai, tài sản. Nếu không có quan hệ tốt với mọi người xung quanh thì muốn nhờ vả bằng hữu, dựa vào người thân cũng chẳng ai muốn giúp. Giả như huynh đệ trong họ hòa thuận, trên dưới đồng lòng, có khó khăn gì mọi người cũng sẽ chung tay. Thiếp chỉ biết có như vậy.
— Ha ha ha! Xem ra nàng hiểu biết không ít. - Tào Tháo chợt hiểu ra ý tứ trong câu nói này… Đột nhiên ông buông Vương thị ra, ngồi dậy, trong đầu lóe lên suy nghĩ.
Người trong họ? Tào Tháo chưa từng nghĩ về điều này, người kế vị mà ông muốn chọn không chỉ là chủ của gia đình này, chủ của xã tắc này, mà còn là tộc trưởng của gia tộc họ Tào và họ Hạ Hầu, việc này liên quan đến sự thịnh suy của cả gia tộc. Không! Còn có một trọng trách quan trọng hơn nữa. Việc tuyển chọn quan lại chỉ dựa vào tài năng đã không diễn ra thuận lợi, hướng đi của triều đình sau này đã thay đổi, khó tránh khỏi việc thế gia đại tộc sẽ tiến sâu vào triều đình. Vì vậy, họ Tào và họ Hạ Hầu buộc phải trở thành những gia tộc lớn mạnh, nắm chắc binh quyền và tài lực, họ Tào phải là họ lớn nhất, mạnh nhất, như thế mới có thể áp chế được bất cứ gia đình
quyền quý nào. Vậy người kế thừa Tào Tháo phải là người có thể tập trung được sức mạnh của cả gia tộc. Nếu như không luận về tài trí, vậy thì Tào Phi hay Tào Thực có khả năng gắn kết đám tử tôn sau này sẽ được giao phó trọng trách như Tào Chân, Tào Hưu, Hạ Hầu Thượng, Hạ Hầu Mạo… hơn đây? Đáp án dường như đã có từ lâu…
Đùng!… đùng!…
— Có sấm rồi! - Vương thị ngồi bật dậy, sung sướng kêu lên:
— Đại vương, có sấm rồi! Có sấm rồi!
— Có sấm thì làm sao? - Tào Tháo còn đang chìm trong suy tư, nên không kịp hiểu vì sao Vương thị lại vui mừng. — Sắp mưa rồi!
— Mưa? Ây dà… - Tào Tháo còn chưa mặc áo đã hào hứng đứng bật dậy, vén rèm nhìn ra ngoài.
— Ha ha ha! Mưa rồi… - Tất cả các thị nữ, thái giám trong cung đều vui mừng khôn xiết, lúc này họ không còn để ý đến phép tắc gì, chạy đi chạy lại khắp vườn ngự uyển.
Vất vả chờ đợi bao lâu, cơn mưa phá tan lời đồn trời cao giáng họa cuối cùng cũng đã đến.
— Ha ha ha!… Tào Tháo bám vào khung cửa cười lớn, nhưng vừa cười được mất tiếng thì một trận gió lớn thổi đến, hắt nước mưa vào mặt ông. Vương thị vội vàng lấy áo cho Tào Tháo khoác.
Tào Tháo ho mấy tiếng rồi ngẩng đầu nhìn lên: Ngột ngạt mấy tháng nay, trận mưa này lớn quá, tiếng mưa rơi vang lên đồm độp, gió lớn như muốn nhổ bật hết cây cối trong vườn, màn mưa dày đặc tựa như sương mù trắng xóa, sấm chớp ầm ầm không dứt. Tào Tháo nhìn chăm chú vào cơn mưa xối xả như muốn cuốn trôi tất thảy mọi thứ, nụ cười tắt dần, thay vào đó là một nỗi sợ không tên.
Mưa bão thổi cây cối lắc lư nghiêng ngả, giống như ma quỷ đang giơ nanh nhe vuốt, những tia chớp loằng ngoằng lóe lên rồi vụt tắt, khiến đôi mắt già nua của Tào Tháo hoa lên, còn tiếng sấm ầm ầm lại như lời ông trời đang khiển trách, làm ông sợ hãi. Trận gió lạnh kéo theo những hạt mưa đá hắt vào cửa,
giống như mũi tên đang bay tới, nhắm thẳng vào tim ông. Trong tiếng mưa bão dường loáng thoáng xen lẫn tiếng khóc. Tào Tháo đã nghe ra, chỉ có ông mới nghe ra đó là tiếng khóc của Thôi Diễm, Mao Giới, Trương Lỗ, Lộ Túy, còn có cả Khổng Dung, Hứa Du, Tuân Úc, họ đang đến đòi mạng!
Tào Tháo va đầu vào song cửa, Vương thị cố gắng đỡ lấy ông, nhưng ông vẫn không đứng lên được, chỉ cảm thấy nửa người bên trái hoàn toàn tê dại. Đáng sợ, quá đáng sợ! Cuối cùng Tào Tháo cũng đã tin vào thiên mệnh, thần linh đang thể hiện uy phong với ông! Cả trời đất mù mịt, đây là lần đầu tiên trong đời Tào Tháo cảm thấy sợ hãi như vậy, con người quả thực không thể chống lại được với trời…
Hồi thứ 145
Thế lực cũ ở Quan Trung rắp tâm mưu phản
Người cũ kẻ mới
Năm Kiến An thứ hai mươi mốt (năm 216 sau Công nguyên) là một năm kỳ quái, Trung Nguyên vừa bước vào tháng Giêng đã khốn khổ vì hạn hán, trời nắng như đổ lửa, sông ngòi cạn kiệt, ruộng đất nứt thành những khe to có thể luồn được cả bàn tay. Do thiếu nước tưới tiêu, hoa màu khô héo, nhiều châu quận còn xảy ra nạn châu chấu. Dân chúng khổ sở oán than không ngớt, triều đình cũng tìm đủ mọi cách cúng tế thần linh, nhưng mãi đến tháng Sáu mới đón được trận mưa đầu tiên. Nào ngờ, mưa triền miên không dứt như thể ông trời muốn trút hết lượng mưa dồn nén trong nửa năm, những giọt mưa to bằng hạt đậu xối xả tuôn xuống, chừng xới tung mặt đất. Gió lớn cuốn theo bụi cát, lúc lại nhổ bật gốc cây, đánh sập nhà; sấm chớp dữ dội, không phân biệt được sáng hay tối, ngày hay đêm. Chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi mà có đến chín trận mưa lớn, ruộng đất nứt nẻ trước đó bị mưa lớn làm ngập úng, chẳng có được mấy ngày tạnh ráo, bùn đất nhão nhoét, chỗ trũng nước đọng ngập tận đầu gối, chưa nói ruộng nương của dân chúng, ngay đến đồn điền của triều đình cũng chẳng còn hy vọng gì. Can qua vừa có dấu hiệu tạm lắng, thiên tai đã liên tiếp ập xuống, muôn ngàn dân đen biết tới khi nào mới được hưởng thái bình?
Một sáng đầu tháng Bảy, ngoại thành Hứa đô vắng hoe. Lúc này trời đã tạnh mưa nhưng vẫn lạnh buốt; bầu không khí u ám, không trông thấy mặt trời, cũng chẳng nhìn rõ tầng mây,
vạn vật chìm trong một thứ ánh sáng lờ mờ; gió không to lắm mà buốt thấu tận xương. Đáng lẽ ruộng nương được mùa, giờ lại thành những vũng nước lõm bõm, thi thoảng có con quạ sà xuống mò ăn. Cánh đồng hiu quạnh đằng xa có thân cây già trơ trọi sớm đã bị mưa lớn quật gãy cành, trông xơ xác, tiêu điều, chỉ còn sót lại vài chiếc lá khẽ đu đưa trong gió, dường như run rẩy vì lạnh. Còn chưa hết mùa hè mà lạnh thế này, thực khác thường.
Thời tiết quái gở như vậy, nhưng ở dịch trạm cách Hứa Đô mười dặm về phía đông vẫn có nhiều người tụ tập. Người mặc áo gấm bào thêu, ngồi xe thơm ngựa quý, đầu đội mũ cao vái chào nhau, quan viên đứng chật ních hai bên đường chuyện trò líu tíu giữa những tiếng ngựa xe không ngừng truyền đến. Quá nửa quan lại trong triều đều kéo tới đây - tiễn Trị thư thị ngự sử Trần Quần và Thị lang Trọng Trường Thống được điều đi nhận chức tại Nghiệp Thành.
Trần Quần tự Trường Văn, là nhân sĩ Hứa Đô. Trần thị ở Dĩnh Xuyên là danh môn vọng tộc. Trần Thật, tổ phụ của Trần Quần chỉ làm đến chức Huyện lệnh, nhưng lấy sự thanh tĩnh để tu đức, nổi tiếng nhân nghĩa thành tín. Ông ta cùng với ba người đồng hương là Chung Hạo - phụ thân của Chung Do, Tuân Thục - tổ phụ của Tuân Tức và tuần lại Hàn Thiều xưng là “Dĩnh Xuyên tứ trưởng”. Khi Trần Thật qua đời vì bệnh, có tới hơn ba vạn kẻ sĩ đưa tang, người mặc áo gai chở tang cũng hơn năm trăm, người đứng đầu vân đàn lúc bấy giờ là Sái Ung đích thân soạn văn bia, Đại tướng quân Hà Tiến cũng sai người đến viếng, để lại giai thoại trong vườn nho. Trần Kỷ, phụ thân Trần Quần đã qua đời nhiều năm trước, sinh thời cũng là một bậc hiền tài, trong thời gian Đổng Trác làm loạn, ông thiếu chút nữa bị ép nhận chức tam công, may là trốn được tới Từ Châu, trải qua nhiều trắc trở lại rơi vào tay Lã Bố. Sau này, Tào Tháo dẫn nước vào làm ngập thành Hạ Phì bắt Lã Bố, thấy Trần Kỷ như gặp được quý nhân, ngọt nhạt mời ông về Hứa Đô trao cho chức Đại hồng lư.
Trần Quần xuất thân là hậu duệ đời thứ ba nhà họ Trần, tất nhiên cũng có tiền đồ khá rộng mở, được Tào Tháo bổ nhiệm làm duyện thuộc, lại được Tuân Úc nhận làm con rể, đường làm
quan thuận buồm xuôi gió, mới vài năm đã được cất nhắc làm trị thư thị ngự sử. So với nhạc phụ là Tuân Úc, Trần Quần không những có gia thế hiển hách, mà còn là người “thấu tình đạt lý”, đối với chuyện Tào thị đòi cắt đất phân phong, ông ta không hề chống đối, ngược lại còn tích cực phối hợp, càng làm vừa ý Tào Tháo. Trong sĩ lâm cũng không ai bắt bẻ được Trần Quần một phần vì tuổi tác của ông ta. Tuy ông ta là con của Trần Kỷ, nhưng lớn tuổi hơn những người cùng thời, từng đàm luận ngang hàng với Khổng Dung, bởi vậy các danh thần như Chung Do, Vương Lãng, Hoa Hâm đều coi ông ta như lão đệ; còn trong mắt đám hậu sinh như Tuân Uẩn, Bào Huân và Tư Mã Ý, ông ta là một vị huynh trưởng gần gũi, đáng kính. Một người đứng đầu nhóm danh sĩ sáng giá, thông gia với nhà quyền quý, thanh danh tài trí đều tốt cả, nối liền hai đời trên dưới, lại am hiểu đạo “hòa quang đồng trần”(*), thử hỏi làm sao không được Tào thị coi trọng?
Còn Trọng Trường Thống, nếu đem ra so với Trần Quần thì chẳng khác nào người thuộc thế giới khác, ông ta xuất thân hàn môn ở Duyện Châu, nổi danh nhờ chăm chỉ đèn sách và du lãm khắp nơi. Trọng Trường Thống dốc hơn mười năm tâm huyết viết nên bộ Xương ngôn, khoe là lời vàng ý ngọc, nhưng hiếm người đọc được. Ông ta cũng từng được Tào Tháo phong làm Tham quan, nhưng ngoài việc bới móc chính sự ra, ông ta ít lập được công, nên lại bị điều về kinh nhận chức Thượng thư lang, xét lý lịch được thăng làm Thị lang. Đường quan lộ của Trọng Trường Thống không mấy thuận lợi, hơn nữa ông ta nhận chức ở Hứa Đô đã mười năm mà chẳng có lấy một bằng hữu, thường ngày cứ lủi thủi đi về một mình.
Thực ra, vấn đề nằm ở chỗ người ta nghĩ Trọng Trường Thống cao ngạo vì viết được Xương ngôn. Trong bộ sách đó, ông ta phân tích chí lý sự thành công cũng như thất bại của các triều đại từ cổ chí kim, khiến người khác tỉnh ngộ, song lại cả gan ngờ vực thiên mệnh, quân quyền, công kích thế gia đại tộc, thậm chí phê phán kẻ sĩ trong thiên hạ đều có ba thói xấu: đề bạt sĩ nhân còn xét dòng tộc có công, kết giao theo hướng nhà phú quý, nể sợ không dám lại gần người tôn quý - Những lời lẽ gay gắt ấy há lại không gợi lên sự oán hận? Phần lớn quan viên
trong triều đều cho rằng Trọng Trường Thống khác người, kính cẩn mà tránh xa. Còn trong lòng Tào Tháo nghĩ thế nào thực khó đoán, chỉ biết việc ông điều bọn người “vô cùng hung ác” như Trọng Trường Thống đến Nghiệp Thành, làm đám quan lại Hứa Đô vừa phẫn hận lại vừa ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, ghen ghét thì mặc ghen ghét, người đến tiễn vẫn không ít, nhất là những viên quan nhàn rỗi như Thị lang, Nghị lang hầu như đều có mặt đông đủ. Kể ra, Trần Quần cũng có chút tiếng tăm, nhưng chưa tới mức kinh động chúng nhân, còn Trọng Trường Thống không đáng nhắc đến, người bọn họ muốn nịnh là Ngụy Vương - Cổ nhân có câu “Không được lợi hơi đâu dậy sớm”, cục diện chính sự hiện giờ rất rõ ràng, nước Ngụy nắm thực quyền, triều đình nhà Hán chỉ là bù nhìn, Tào thị lên thay nhà Hán là chuyện sớm muộn. Làm quan ở Hứa Đô không những không có tiền đồ, mà có thể đánh mất phú quý hiện có bất cứ lúc nào. Cho nên ai cũng muốn luồn lọt để đến Nghiệp Thành, mỗi khi có người được điều sang triều đình Ngụy quốc, những kẻ bất đắc chí trong triều lại lũ lượt đi tiễn, tỏ vẻ thân thiết, ân cần và còn không ngại đút lót, nhờ người ta sau khi đến nhận chức sẽ nói tốt cho mình mấy câu trước mặt Ngụy Vương, để cũng được điều đi, lột xác báo ơn triều đình mới.
Hôm nay cũng vậy, con đường sau mưa lầy lội khó đi, xe kẹt bánh, ngựa mắc chân, nhưng vẫn không cản được quyết tâm của các vị quan lại, dù người dính đầy bùn đất, trong bộ dạng nhếch nhác thì họ vẫn tươi cười đon đả - không phải tất cả kẻ sĩ trong thiên hạ đều đê tiện, chỉ vì phần lớn người có tài trí đều được mời đến nước Ngụy, người có tiết tháo không bị bức chết thì sống ẩn dật, người có chí lớn chạy sang Tôn, Lưu, nên Hứa Đô mới chỉ còn lại một đám dung tục, trơ trẽn. Đó là điềm báo cho thời mạt vận nhà Hán!
Uống xong chén rượu từ biệt, Trần Quần muốn khẩn trương lên đường nhưng bị mọi người vây chặt, ông đành chào hỏi lấy lệ. Còn Trọng Trường Thống đã “dạn mặt”, chỉ khoanh tay đứng nhìn những “bằng hữu” không mời mà đến, nhếch miệng cười nhạt: Nhân tình thế thái thay đổi, ta bàn về ba thói xấu của kẻ sĩ há phải hư ngôn hay sao?
"""