"
Tầng Lớp Kỹ Giả - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn full prc pdf epub azw3 [Tiểu luận]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tầng Lớp Kỹ Giả - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn full prc pdf epub azw3 [Tiểu luận]
Ebooks
Nhóm Zalo
Aleksandr Solzhenitsyn
Tầng lớp kĩ giả
Phạm Minh Ngọc dịch
Bản dịch được thực hiện nhân giỗ Bách nhật Aleksandr Solzhenitsyn (11.12.1918 – 03.8.2008)
1.
Những đặc điểm vô cùng tai hại của tầng lớp có học của nước Nga đã được xem xét một cách kĩ lưỡng trong tác phẩm Những cột mốc – và đã làm cho cả tầng lớp trí thức đủ mọi xu hướng, từ những người thuộc Đảng Dân chủ Lập hiến cho đến những người cộng sản, đều phẫn nộ và bác bỏ. Trí tuệ uyên thâm mang tính tiên tri của Những cột mốcđã không tìm được sự đồng cảm (chính các tác giả của cuốn sách cũng biết là như thế) của độc giả Nga, không gây được ảnh hưởng đối với quá trình phát triển của nước Nga, không cảnh báo được những sự kiện thảm khốc sẽ diễn ra sau đó. Chẳng bao lâu sau, tên gọi của tác phẩm bị một nhóm người cầm bút khác, những người với quyền lợi chính trị hẹp hòi và trình độ không cao, lạm dụng (Thay thế những cột mốc), cũng mờ dần và biến khỏi tâm trí của những thế hệ có học mới của nước Nga, còn cuốn sách thì biến khỏi các thư viện quốc doanh. Nhưng sau sáu mươi năm, những lời chứng của cuốn sách vẫn không bị lu mờ: Những cột mốc dường như được gửi tới từ tương lai. Chỉ có một điều vui, đấy là sau sáu mươi năm dường như cái tầng lớp có khả năng cỗ vũ cho cuốn sách đã đông thêm.
Hôm nay chúng ta đọc cuốn sách với một tình cảm lẫn lộn: trước mắt chúng ta hiện lên những ung nhọt không chỉ của một thời đã qua mà phần lớn lại là ung nhọt của ngày hôm nay, của chính chúng ta. Vì vậy không thể tiến hành bất kì cuộc thảo luận nào về tầng lớp trí thức hiện nay (do sự phức tạp của thuật ngữ “tầng lớp trí thức”, trong chương này chúng ta sẽ coi đấy là: “tất cả những người tự gọi mình là như thế”, còn trí thức là “bất kì người nào đòi phải coi mình là như thế”) mà lại không so sánh những tính chất của nó với những nhận định của Những cột mốc. Nhìn lại quá khứ bao giờ cũng giúp
nhận thức vấn đề một cách toàn diện hơn.
Nhưng ở đây tôi sẽ không tìm cách giữ nguyên tính nhất quán của Những cột mốc, mà, vì mục đích phân tích của ngày hôm nay, xin được tóm tắt và đưa những nhận định của nó vào bốn nhóm sau đây:
a. Khuyết điểm của tầng lớp trí thức cũ, có ảnh hưởng quan trọng đối với lịch sử nước Nga, nhưng hôm nay đã không còn hoặc còn rất ít hay đã bị đảo ngược hoàn toàn.
Sự tách biệt một cách giả tạo mang tính phe nhóm ra khỏi đời sống của dân tộc. (Hiện nay là sự cố kết thông qua địa vị công tác.) Đối lập một cách căng thẳng và mang tính nguyên tắc với nhà nước. (Hiện nay thì chỉ trong các nhóm nhỏ và tận đáy lòng người ta mới nói và nghĩ đến việc tách biệt quyền lợi của mình với quyền lợi của nhà nước, mới tỏ ra hân hoan trước những thất bại của nhà nước, mới dám tỏ ra thông cảm một cách thụ động đối với bất cứ sự chống đối nào, còn trên thực tế tất cả đều trung thành phục vụ nhà nước.) Sự hèn nhát về mặt đạo đức của một số cá nhân riêng lẻ trước dư luận “xã hội”, thiếu táo bạo trong tư tưởng cá nhân. (Hiện đã bị sự hèn nhát đầy hoảng loạn trước ý chí của nhà nước thế chỗ.) Tình yêu đối với sự công bằng mang tính bình quân, với điều thiện, với phúc lợi vật chất của nhân dân đã làm tê liệt tình yêu và lòng ham thích chân lí; “sự cám dỗ của Đại pháp quan tôn giáo[1] ”: thây kệ chân lí tiêu vong, miễn là nhân dân sung sướng hơn là được. (Hiện nay những mối quan tâm bao trùm như thế đã không còn. Hiện nay: thây kệ chân lí tiêu vong, dù phải trả giá như thế nhưng ta và gia đình ta vẫn còn là được.) Thôi miên một niềm tin chung cho tất cả giới trí thức, bất dung về tư tưởng đối với tất cả những cái khác biệt, lòng hận thù là xung lượng mĩ học làm say đắm lòng người. (Lòng nhiệt tình làm say đắm lòng người đã trở thành dĩ vãng.) Cuồng tín, không thèm để ý đến tiếng gọi của đời sống. (Hiện nay: nghe ngóng và thích nghi với hoàn cảnh thực tế.) Giới trí thức coi thường nhất là từ “nhẫn nhục”. (Hiện nay người ta phục tùng, đôi khi chẳng khác gì nô lệ.) Mơ mộng, cực kì tốt bụng, không nhận thức được hoàn cảnh thực tế. (Hiện nay: nhận thức tỉnh táo và thực dụng.) Hư vô chủ nghĩa đối với lao động. (Không còn.) Không thích hợp với công việc thực tế. (Thích hợp.) Liên kết tất cả mọi người là chủ nghĩa vô thần gượng gạo, suy
nghĩ một cách thiếu phê phán rằng khoa học có thẩm quyền giải quyết cả các vấn đề tôn giáo, mà cuối cùng, dĩ nhiên là giải quyết một cách tiêu cực; tín điều của cái tôn giáo coi con người và loài người là chúa tể: tôn giáo được thay thế bằng niềm tin vào tiến bộ của khoa học. (Sự gượng gạo đã không còn, nhưng chủ nghĩa vô thần vẫn lan toả trong phần lớn giới có học, nhưng đây đã là chủ nghĩa vô thần truyền thống, héo úa, nhưng nhất định phải là đề cao tiến bộ khoa học và “con người là tối thượng”.) Thụ động trong tư duy, không coi lao động trí óc như một công việc tự thân, thậm chí căm thù những nhu cầu tinh thần tự thân. (Ngược lại, vì không còn niềm tin, nhiệt huyết và hành động mang tính xã hội, hiện nay những người có học, trong thời gian rỗi hoặc giữa các nhóm bạn bè, đang tích cực hoạt động, dù thường là chẳng có biểu hiện ra bên ngoài hoặc đôi khi xuất bản bí mật dưới dạng samizdat.)
Những cột mốc chủ yếu là phê phán giới trí thức, liệt kê những thói tật và khuyết điểm của nó, tức là những thói tật nguy hiểm đối với quá trình phát triển của nước Nga. Các ưu điểm của giới trí thức không được xem xét trong một bài cụ thể nào. Nhưng hôm nay, dưới góc độ so sánh, trong khi không bỏ qua phẩm chất của tầng lớp có học hiện nay, chúng ta còn phát hiện ra rằng trong khi liệt kê khuyết điểm, các tác giả của Những cột mốc còn nhắc tới những đặc điểm mà hôm nay chúng ta không thể không coi là:
b. Ưu điểm của tầng lớp trí thức trước cách mạng
Tìm kiếm thế giới quan hoàn chỉnh, khao khát niềm tin (dù là chỉ là niềm tin trần thế), cố gằng đem cuộc sống của mình phục vụ cho niềm tin đó. (Hiện không có gì để so sánh, chỉ còn thói vô liêm sỉ.) Sám hối, cảm thấy có tội với nhân dân. (Hiện nay thái độ chung là ngược lại: nhân dân có tội với giới trí thức và không hề sám hối.) Đánh giá về đạo đức và động cơ hành động chiếm vị trí đặc biệt trong tâm hồn người trí thức Nga; cho rằng nghĩ về cá nhân mình là ích kỉ, quyền lợi cá nhân và đời sống nhất định là để phụng sự xã hội; khắt khe về đạo đức, lối sống khổ hạnh, bất vụ lợi, thậm chí căm thù sự giàu sang, coi giàu sang là gánh nặng. (Đấy không phải nói về chúng tôi, hoàn toàn ngược lại!) Sẵn sàng hi sinh theo kiểu cuồng tín, thậm chí tích cực tìm cách hi sinh, mặc dù chẳng có mấy người đi qua được con đường ấy, nhưng nó vẫn là con đường bắt buộc đối với tất cả, là lí tưởng xứng đáng duy nhất. (Không thể nhận thấy được, đấy không phải là chúng tôi. Chỉ còn từ “giới trí
thức”, theo thói quen, là chung mà thôi.)
Giới trí thức Nga không phải là kém cỏi, ngay cả khi Những cột mốc phê phán nó, một sự phê phán với yêu cầu rất cao. Chúng ta sẽ còn phải ngạc nhiên khi xem xét nhóm đặc điểm được Những cột mốc nêu ra thành:
c. Bấy giờ là khuyết điểm, nhưng theo đánh giá của chúng ta hiện nay thì gần như là ưu điểm.
Bình đẳng cho tất cả mọi người là mục tiêu, để làm như thế người ta sẵn sàng hi sinh các nhu cầu thuộc loại cao cấp của từng cá nhân. Lòng nhiệt tình mang tính anh hùng ca, được củng cố bởi việc đàn áp của nhà nước; đảng nào càng dũng cảm thì càng được ưa chuộng. (Sự đàn áp hiện nay dã man hơn, có hệ thống hơn nên đã gây ra trạng thái chán nản chứ không phải là lòng nhiệt tình nữa.) Tinh thần tuẫn nạn và truyền giáo; sẵn sàng chết (Hiện nay: cố gắng tồn tại.) Người trí thức anh hùng không chấp nhận vai trò của một nhân viên bình thường, anh ta mơ ước trở thành người cứu chuộc cả thế giới hay ít nhất cũng là cứu nhân dân Nga. Dễ bị kích động, nhiệt tình một cách phi lí, say sưa tranh đấu. Tin rằng chỉ có một con đường là đấu tranh xã hội và phá bỏ các hình thức xã hội hiện hành. (Chẳng có gì tương tự! Không có con đường nào khác, chỉ còn cách khuất phục, nhẫn nhục và đợi người ta rủ lòng thương.)
Nhưng chúng ta chưa đánh mất hết tất cả di sản tin thần của cha ông. Chúng ta sẽ nhận ra mình ngay sau đây.
d. Những khuyết điểm, được kế thừa cho đến hôm nay
Không có sự quan tâm mang tính cảm thông đối với lịch sử đất nước, không có sự gắn bó máu thịt đối với lịch sử. Thiếu tình cảm đối với hiện thực lịch sử. Vì vậy mà giới trí thức đang sống trong sự chờ đợi phép màu (lúc đó người ta đã làm mọi việc để cho phép màu xảy ra, còn nay thì họ củng cố để nó không thể xảy ra và… chờ đợi!) Tất cả những điều xấu xa đều là do những bất hợp lí ngoại tại, vì vậy mà chỉ cần các cuộc cải cách ở bên ngoài. Chế độ chuyên chế chịu trách nhiệm về mọi việc, từng người trí thức chẳng có trách nhiệm và chẳng có lỗi gì. Nhận thức về quyền bị thổi phồng. Thói hợm hĩnh,
bộ tịch, đạo đức giả về “tính nguyên tắc” của những phán đoán trừu tượng, cứng nhắc, thái độ kiêu ngạo, tách biệt mình với những “người tiểu tư sản”. Thói tự cao tự đại. Tự coi mình là thần tượng, giới trí thức coi mình là tương lai của đất nước.
Tất cả đều trùng hợp, chẳng cần bình luận làm gì.
Xin dẫn thêm một từ của Dostoievsky (Nhật kí nhà văn):
Nhu nhược. Vội vã đưa ra những kết luận yếm thế.
Như vậy là giới trí thức hiện nay còn thừa kế được nhiều đặc tính của giới trí thức cũ, nếu chính cái giới trí thức đó vẫn còn…
2.
Trí thức ôi là trí thức! Nó gồm những ai và giới hạn của nó nằm ở đâu? Một trong những khái niệm được ưa chuộng nhất trong các cuộc tranh luận ở Nga lại được mỗi người dùng một khác. Thuật ngữ mù mờ thì kết luận cũng chẳng có mấy giá trị. Các tác giả của Những cột mốc định nghĩa giới trí thức không phải theo bằng cấp và lĩnh vực học vấn mà căn cứ vào tư tưởng - đấy là một kiểu hội đoàn mới, phi tôn giáo và mang tính nhân văn. Rõ ràng là họ không liệt các kĩ sư và các nhà khoa học thuộc lĩnh vực toán học và kĩ thuật vào tầng lớp trí thức. Và cả các chuyên gia trong lĩnh vực quân sự. Giới tăng lữ. Nhưng ngay cả giới trí thức (hoạt động trong các ngành nhân văn, xã hội và cách mạng) thời đó cũng không coi tất cả những người kia là thuộc tầng lớp của mình. Hơn nữa, Những cột mốc cũng ngầm định, còn những người kế tục Những cột mốc thì khẳng định rằng các nhà văn và triết gia lớn nhất của Nga như Dostoevski[2], Tolstoi[3], V. Soloviev[4] cũng không thuộc về tầng lớp trí thức! Đối với độc giả ngày nay chuyện này nghe có vẻ kì quặc, nhưng lúc đó tình hình là như thế và vết rạn nứt là khá sâu. N. V. Gogol[5] được đánh giá cao khi ông tố cáo nhà nước và các giai cấp cầm quyền. Nhưng khi ông bắt đầu tìm kiếm những giá trị tinh thần mà mình trân trọng thì đã bị phê phán công khai và loại khỏi lực lượng tiến bộ ngay lập tức.
Tolstoi cũng được đánh giá cao vì những lời tố cáo, và cả thái độ thù địch đối với nhà thờ, đối với triết lí cao siêu và sự sáng tạo. Nhưng đạo đức bất di bất dịch của ông, những lời kêu gọi tha thứ, kêu gọi lòng từ tâm nói chung của ông đã bị coi thường. Còn kẻ “phản động” Dostoevski thì bị giới trí thức căm thù, và có thể đã bị che lấp và quên hẳn và không được trích dẫn thường xuyên đến như thế nếu như trong thế kỉ XX tên tuổi của ông không giành được vinh quang mang tầm quốc tế chói ngời như thế ở phương Tây.
Nhưng nếu không được xếp vào giới trí thức thì phải đưa họ vào đâu? Họ có những đặc điểm đôi khi không trùng với những đặc điểm được liệt kê trong Những cột mốc. Thí dụ, chẳng có mấy đặc điểm trong Những cột mốc có liên quan đến những người làm công tác kĩ thuật. Tất cả những gì xa cách với đời sống dân tộc, với sự chống đối nhà nước, với chủ nghĩa cuồng tín, với tinh thần cách mạng, với lòng hận thù… đều không có trong tác phẩm này.
Nếu chấp nhận định nghĩa tri thức theo lối từ nguyên (intëlligërë: hiểu, biết, tư duy, có khái niệm về bất kì cái gì đó) thì rõ ràng là nó bao gồm một nhóm người có nhiều điểm khác với những người, trong lúc giao thời giữa hai thế kỉ, tự gán cho mình cái danh hiệu đó và được tác phẩm Những cột mốc xem xét với tư cách như thế.
Georgij Fedotov[6] đã có một đề nghị hóm hỉnh là coi nhóm người với đặc điểm “thống nhất bởi tính tư tưởng của những nhiệm vụ của mình và sự thiếu căn cứ của chính các tư tưởng đó” là tầng lớp trí thức.
V. Dal[7] định nghĩa tầng lớp trí thức là “cái phần dân chúng có học vấn và phát triển về mặt trí tuệ”, nhưng lại nói thêm đầy suy tư, “chúng ta không có từ thể hiện sự giáo dục về mặt đạo đức”, thể hiện sự khai minh “tạo ra cả khối óc lẫn trái tim”.
Đã có những cố gắng nhằm đưa ra định nghĩa về tầng lớp trí thức trên cơ sở sức sáng tạo tự thân vận động, bất chấp những hoàn cảnh ngoại giới; trên cơ sở tư duy sáng tạo; trên cơ sở một đời sống tinh thần độc lập. Nhưng khó nhất trong tất cả những cuộc tìm kiếm đó không phải là việc đưa ra định nghĩa,
cũng không phải là đặc điểm của nhóm xã hội tồn tại trong thực tế mà ở sự khác biệt về nguyện vọng; về việc chúng ta muốn được nhìn thấy ai dưới cái danh xưng: tầng lớp trí thức.
Berdaiev[8] sau này đã đề nghị một định nghĩa, khác với định nghĩa được xem xét trong Những cột mốc: tầng lớp trí thức là tập hợp những người thuộc giới tinh hoa trong lĩnh vực tinh thần của đất nước. Nghĩa là tầng lớp tinh hoa về mặt tinh thần chứ không phải là một giai tầng xã hội.
Sau cách mạng những năm 1905-1907, quá trình phân hữu tầng lớp trí thức đã bắt đầu diễn ra một cách lặng lẽ: đấy là quá trình thay đổi mối quan tâm của tầng lớp sinh viên và sự tách ra một cách chậm chạp một tầng lớp cực kì ít người với một sự quan tâm đặc biệt tới đời sống đạo đức ở bên trong mỗi người chứ không quan tâm đến những biến đổi xã hội ở bên ngoài nữa. Như vậy là các tác giả của Những cột mốc không phải là những người đơn độc ở nước Nga lúc đó. Nhưng cái tiến trình hình thành một tầng lớp trí thức mới (sau đó chính thuật ngữ cũng sẽ bị phân tách và chính xác hoá lại), một tiến trình chưa từng nghe nói đến bao giờ và cực kì yếu ớt đó đã không thể diễn ra ở nước Nga: nó đã bị Chiến tranh Thế giới I và bão táp của cách mạng lật tung lên và đè bẹp hẳn. Cái từ “tầng lớp trí thức” được dùng thường xuyên hơn nhiều từ khác trong tầng lớp có học Nga, nhưng do nhiều sự kiện khác nhau đã không kịp có một ý nghĩa thực sự chính xác.
Càng về sau thì càng có ít điều kiện và thời gian hơn. Năm 1917 là sự phá sản về mặt tư tưởng của giới trí thức nhân văn cách mạng, như nó đã từng bôi nhọ chính thanh danh của mình. Đây là lần đầu tiên giới trí thức buộc phải từ bỏ những hành động khủng bố đơn lẻ, những phe nhóm ồn ào, từ bỏ những kiến thức mang tính đảng phái cứng nhắc và những lời phê phán kịch liệt đối với chính phủ để thực hiện những hành động quản lí thực tiễn. Và đúng như những lời dự đoán đầy bi thảm của các tác giả Những cột mốc (cụ thể S. Bulgakov từng viết: “Trí thức kết hợp với mọi rợ[9] … sẽ giết chết nước Nga”), nhưng hoá ra tầng lớp trí thức không có khả năng làm những việc như thế, nó tỏ vẻ sợ hãi, lúng túng, các lãnh tụ của nó đã từ bỏ quyền lãnh đạo và quyền lực một cách quá dễ dàng, từ bỏ ngay chính những điều mà họ mong ước từ lâu – và quyền lực, như một quả cầu lửa, bị đẩy từ tay người này sang
tay người khác, nó lăn cho đến khi bị những bàn tay sẵn sàng chịu đựng sức nóng của nó bắt được (cũng là những bàn tay trí thức, nhưng thuộc loại đặc biệt). Giới trí thức đã tìm được cách xô đẩy nước Nga đến một vụ nổ mang tầm vũ trụ nhưng không biết cách quản lí những mảnh vụn của nó. (Sau này, nhìn lại từ chốn lưu vong, giới trí thức đã tìm cách tự biện hộ: hoá ra “nhân dân không được như thế”, “nhân dân đã phụ lòng mong đợi của giới trí thức”. Đấy chính là dự đoán của Những cột mốc, tức là trong khi thần thánh hoá nhân dân, giới trí thức đã không hiểu họ, giữa nhân dân và họ đã có một khoảng cách phải nói là tuyệt vọng! Nhưng không biết không phải là một lời biện hộ. Trong khi không biết cả nhân dân lẫn sức mạnh quốc gia của mình thì càng phải cực kì thận trọng để không kéo họ và cả mình vào đồng hoang.)
Và, như một que thông lò trong truyện cổ tích trong một căn nhà tối, bị một bàn chân đạp lên, đã đập một nhát thật mạnh vào trán thằng ngốc, cách mạng đã trừng trị giới trí thức, đã đánh thức nó hệt như vậy đấy. Sau bộ máy quan liêu của Sa hoàng, sau cảnh sát, sau giới quí tộc và tăng lữ, đòn đánh chết người đã kịp nện vào giới trí thức ngay trong những năm cách mạng 1918- 1920, không chỉ bằng những vụ bắn giết và nhà tù, mà còn bằng đói, rét, lao động khổ sai và thái độ miệt thị đầy nhạo báng nữa. Bên cạnh đó, giới trí thức trong niềm phấn khích đầy tính anh hùng của mình chưa sẵn sàng – kéo thành đoàn dài để được các tướng lĩnh của chế độ cũ bảo vệ, còn sau đó thì đi lưu vong, đấy không phải là lần đầu với một số người, nhưng lần này là cùng với bộ máy quan liêu mà trước đây không lâu chính họ đã đánh bom.
Cuộc sống ở nước ngoài, về mặt vật chất thì khó khăn hơn thời gian ở nước Nga mà họ từng căm ghét trước đây, nhưng giới trí thức Nga đã có hàng chục năm để biện hộ, lí giải và suy tư về những mảnh vỡ. Phần lớn giới trí thức ở lại Liên Xô đã không được quyền tự do như thế. Những người sống sót sau nội chiến đã không có được không gian tư duy và phát biểu như họ đã từng có trước đây. Bị các trường đại học và nạn thất nghiệp đe doạ, ngay từ cuối những năm 1920 họ đã phải hoặc là coi hệ tư tưởng quốc doanh là tư tưởng thân thiết và yêu quí của mình hoặc là chết và biến thành tro bụi. Đấy là những năm tháng thử thách khắc nghiệt đối với ý chí bất khuất của cả quần chúng lẫn từng cá nhân, một sự thử thách không chỉ giới trí thức mà, thí dụ, nhà thờ Nga cũng phải chịu đựng. Có thể nói rằng nhà thờ, ngay trước khi cách mạng xảy ra đã già nua và phân rã, có thể là một trong những kẻ có tội
đầu tiên trong việc đưa nước Nga đến chỗ sụp đổ, đã vượt qua được thử thách của những năm 1920 một cách xứng đáng hơn nhiều: cũng có những kẻ phản bội và những kẻ xu thời, nhưng đã xuất hiện rất nhiều giáo sĩ tuẫn đạo, những người đã thể hiện được ý chí bất khuất và đã bị báng súng lùa vào trại cải tạo. Nói cho ngay, chế độ Xô-viết đối xử với nhà thờ tàn nhẫn hơn nhiều, còn giới trí thức thì nó hé cho thấy những điều quyến rũ: nhận thức được qui luật vĩ đại, nhận thức được tính tất yếu sắt đá mà họ vừa trải qua chính là tự do được chờ đợi từ bao lâu nay - tự mình nhận thức trong ngày hôm nay, bằng nhịp đập của con tim chân thành, nhịp đập vượt trước cả những cú đá của đội áp giải hay những cú giáng vào gáy của các công tố viên vào ngày mai, và không được trở thành mục nát vì bản chất “thối tha của lũ trí thức” mà dìm cái Tôi vào trong qui luật, phải nuốt trọn làn gió ấm vô sản và đuổi cho kịp giai cấp tiền phong đang cắm đầu cắm cổ đi về phía trước bằng những đôi chân run rảy của mình. Đối với những kẻ chạy theo thì còn một điều hấp dẫn nữa: đóng góp bằng trí tuệ của mình cho công cuộc xây dựng chưa từng thấy, lịch sử thế giới chưa từng biết đến bao giờ. Làm sao lại không say mê cho được!... Chính nhờ sự hăng say đó mà nhiều trí thức đã thoát chết, hơn nữa, dường như còn không bị đè bẹp về mặt tinh thần vì họ đã hoàn toàn chân thành, hoàn toàn tự nguyện cống hiến cho niềm tin mới. (Mãi sau này, trong văn học, nghệ thuật và khoa học nhân văn vẫn còn nổi lên những cây đa cây đề tượng trưng cho sự thật, phải sau nhiều năm phong hoá người ta mới biết rằng đấy chỉ là mấy cái vỏ cây rỗng ruột.) Có đôi người “chạy theo” giai cấp tiền phong mà vẫn tự cười thầm, phải giả đò như thế, vì họ đã nhận thức được ý nghĩa của các sự kiện, nhưng phải làm thế thì mới thoát. Kì lạ là (quá trình này hiện đang được lặp lại ở phương Tây) đa số đã đi theo một cách chân thành, bị thôi miên, sẵn sàng để cho người ta thôi miên. Quá trình này diễn ra một cách nhẹ nhàng hơn nhờ lòng say mê của giới trí thức trẻ đang lớn: họ tưởng rằng chân lí của chủ nghĩa Marx đang thắng thế là đôi cánh đại bàng - suốt hai mươi năm, cho đến tận Chiến tranh Thế giới II, chúng tôi đã bay trên đôi cánh đó. (Tôi nhớ mùa thu năm 1941, ngọn lửa chết chóc của chiến tranh đã cháy hừng hực rồi mà mình vẫn còn tìm cách, không biết đến lần thứ mấy, thâm nhập vào túi khôn của Tư bản luận, thật là khôi hài.)
Trong những năm 1920 và 1930, tầng lớp trí thức cũ đã có những thay đổi và tăng đáng kể về số lượng, chính nó cũng hiểu và nhận thấy như thế.
Trước hết là quá trình tăng tự nhiên, đấy là giới trí thức trong lĩnh vực kĩ thuật (gọi là các chuyên viên). Tuy nhiên, vì giới kĩ thuật có nền tảng vững chắc, có liên hệ mật thiết với nền công nghiệp quốc gia và lương tâm không cảm thấy có tội vì không tham gia vào những việc làm tàn ác của cách mạng, nghĩa là không cần phải bịa ra những lời biện hộ trước Chế độ Mới, không cần lấy lòng nó - giới trí thức trong lĩnh vực kĩ thuật trong những năm 1920 đã tỏ ra kiên cường hơn là giới làm trong lĩnh vực nhân văn, họ không vội vàng chấp nhận hệ tư tưởng đó như một thế giới quan khả dĩ duy nhất, và do sự độc lập của công việc mà còn giữ được cả mạng sống nữa.
Nhưng còn có những hình thức làm tăng thêm số lượng và tha hoá khác của thành phần trí thức cũ, đấy là các biện pháp quản lí chặt chẽ của nhà nước. Thứ nhất, cắt đứt truyền thống của các gia đình trí thức: con cái trí thức gần như hoàn toàn không có quyền vào đại học (con đường duy nhất là khuất phục và tái sinh: vào đoàn). Thứ hai, thành lập một cách vội vã giới trí thức “rabfak”[10] với kiến thức rất sơ sài, đấy là dòng bổ sung “nóng hổi” tinh thần cộng sản và vô sản. Thứ ba, bắt giam hàng loạt “những kẻ phá hoại”. Đòn giáng này chủ yếu nhắm vào giới kĩ thuật: đập tan một phần nhỏ, số còn lại thì đe doạ. Những vụ án như vụ Shakhtinsky[11], vụ Đảng Công nghiệp[12] và một vài vụ khác trong cái không khí hoảng loạn bao trùm cả nước đã đạt được mục tiêu đề ra. Kể từ đầu những năm 1930, giới trí thức kĩ thuật đã khuất phục hoàn toàn, những năm 1930 đã trở thành trường học phản bội của họ: họ đã ngoan ngoãn biểu quyết mọi bản án tử hình nếu được yêu cầu; khi một người anh em bị giết thì người anh em khác lặng lẽ nhận lãnh ngay trách nhiệm lãnh đạo, thậm chí lãnh đạo ngay cả Viện Hàn lâm Khoa học; các trí thức Nga đã không còn coi bất cứ đơn hàng quân sự nào là vô đạo đức nữa, đơn hàng nào họ cũng vội vàng thực hiện ngay lập tức[13]. Không chỉ tầng lớp trí thức cũ mới bị ăn đòn, một phần giới “rabfak” đã bị đánh vì không chịu vâng lời, và đã làm cho số còn lại phải uốn lưng, quì gối. Thứ tư, trí thức Xô-viết “bình thường” - đấy là những người đã trải qua quá trình học tập kéo dài 14 năm dưới chính quyền Xô-viết và chỉ có mối liên hệ di truyền với mỗi một mình nó mà thôi.
Làn sóng gia tăng “tầng lớp trí thức” mới, vô cùng lớn, được thực hiện trong những năm 1930: theo tính toán của nhà nước và bằng nhận thức ngoan
ngoãn của xã hội, hàng triệu viên chức nhà nước được đưa vào thành phần trí thức, đúng hơn phải nói là: tất cả giới trí thức đều được coi là viên chức, hồ sơ lí lịch viết như thế, tem bánh mì cũng phát như thế. Bằng một qui chế nghiêm ngặt, tất cả giới trí thức đều bị dồn vào giai cấp công nhân viên chức nhà nước, còn chính từ “trí thức” thì bị vứt bỏ, chỉ được sử dụng như một lời thoá mạ (ngay cả những nghề tự do, thông qua các “hội” cũng bị biến thành một kiểu công chức). Từ đó, giới trí thức trở thành một tầng lớp vô cùng đông đúc, nhưng ý nghĩa của nó thì đã bị xuyên tạc và nhận thức của nó thì bị hạ thấp. Sau Chiến tranh Thế giới II, khi từ “tầng lớp trí thức” được phục hồi một phần quyền lợi thì nó đã bao gồm hàng mấy triệu viên chức tiểu tư sản, những kẻ đang làm bất kì công việc bàn giấy hoặc bất kì công việc cần một chút ít chất xám nào đó.
Ban lãnh đạo Đảng và nhà nước, tức là giai cấp cầm quyền, thời trước chiến tranh không để người ta trộn lẫn với “công nhân viên chức” (họ cứ là “công nhân” thôi), càng không được lẫn lộn với “giới trí thức” thối tha, họ là nòng cốt của “vô sản”, cách biệt hẳn với những người khác. Nhưng sau chiến tranh, đặc biệt là trong những năm 1950 và 1960, khi hệ thống thuật ngữ “vô sản” đến thời kì suy tàn, càng ngày người ta càng sử dụng hệ thống thuật ngữ “Xô-viết”; mặt khác, do nhu cầu kĩ thuật, các trí thức lớn cũng hay được giữ các chức vụ lãnh đạo hơn – giai cấp cầm quyền bắt đầu cho phép gọi mình là “tầng lớp trí thức” (điều này được phản ánh trong định nghĩa của Bách khoa Toàn thư Xô-viết) và “giới trí thức đã lặng lẽ chấp nhận sự mở rộng này”.
Trước cách mạng, người ta cảm thấy khủng khiếp như thế nào khi gọi một cố đạo là trí thức thì nay người ta lại thấy tự nhiên khi gọi một tuyên truyền viên hay cán bộ chính trị của Đảng là người trí thức như thế ấy.
Như vậy là, vì không có một định nghĩa rõ ràng về tầng lớp trí thức, dường như chúng ta đã không còn cần cái định nghĩa đó nữa. Ở nước ta hiện nay toàn bộ tầng lớp có học, tức là tất cả những người có học vấn từ lớp bảy trở lên đều được coi là thuộc tầng lớp trí thức cả.
Theo từ điểm của Dal thì đào tạo (образовать) khác với khai minh (просвещать): chỉ có cái mẽ bên ngoài.
Mặc dù cái mẽ bên ngoài này cũng chỉ thuộc vào loại ba, theo tinh thần của tiếng Nga, đúng ra ý nghĩa của nó phải là: cái tầng lớp có học, tự gọi hay là được gọi một cách bộp chộp là “trí thức”, đúng ra phải gọi là tầng lớp kĩ giả.
3.
Đã xảy ra những chuyện như thế đấy, lịch sử thì không thể nào cãi được: người ta đã dồn chúng ta vào tầng lớp kĩ giả, đã nhấn chìm chúng ta trong đó (chính chúng ta cũng cho dồn, cho dìm cơ mà). Không thể cãi được lịch sử nhưng trong lòng thì bực bội, bất đồng: không thể cứ như vậy mãi được! Dù là nhớ về quá khứ hay hi vọng vào tương lai thì vẫn cứ là: chúng ta là những người khác!...
Một người tên là Altaev (bí danh, bài báo “Nhận thức nước đôi của tầng lớp trí thức và hiện tượng nguỵ văn hoá”, Tờ tin của Phong trào Sinh viên Công giáo Nga, số 97[14]) đã công nhận sự gia tăng theo cấp số nhân về mặt số lượng, sự hoà tan và sự gắn bó của nó với bộ máy quan liêu nhưng vẫn tìm cái đòn bẩy để tách nó ra khỏi dung môi. Ông tìm thấy cái đòn bẩy ấy trong “dấu hiệu của chủng loài” tri thức, cái dấu hiệu dường như phân biệt nó, cả trước cách mạng và hiện nay, và có thể coi là “định nghĩa” về tầng lớp trí thức: đấy là “một loại người đặc biệt”, không lặp lại ở bất cứ đâu và ở bất cứ nước nào, sống trong “nhận thức tập thể về sự vong thân” khỏi “trái đất, nhân dân và chính quyền nhà nước của mình”. Chưa nói đến tính giả tạo của định nghĩa này (và tính đặc thù của hoàn cảnh), có thể phản bác ngay rằng giới trí thức trước cách mạng (trong định nghĩa của Những cột mốc) không hề có nhận thức về sự vong thân đối với nhân dân, ngược lại họ tin rằng mình có toàn quyền cất lên tiếng nói của nhân dân; còn giới trí thức hiện đại thì lại càng không vong thân đối với nhà nước hiện đại: những người cảm thấy như thế đã tự co mình lại một cách buồn bã và tuyệt vọng hoặc co lại trong các nhóm thân hữu, còn nói chung họ không chỉ ủng hộ nhà nước bằng tất cả những hoạt động mang tính trí thức hàng ngày của mình mà còn tham gia và thực hiện những công việc khủng khiếp của nhà nước: toàn tâm toàn ý tham gia vào bản đồng ca dối trá bắt buộc. Làm gì bây giờ? Có thể vẫn tiếp tục làm kẻ “vong thân”, chỉ cho họ thân xác, khối óc, kiến thức, nhưng không phải là
tâm hồn! Giới trí thức cũ quả thực đã chống đối nhà nước đến mức đoạn tuyệt / phải dùng bom đạn[15], chuyện đúng là như thế - còn về giới trí thức hiện nay thì chính Altaev đã tự mâu thuẫn với mình khi viết: “Dưới chính quyền Xô-viết, nó không dám nói, không chỉ vì người ta không cho nó nói, mà còn vì, trước hết là nó chẳng có gì để nói cả. Chủ nghĩa cộng sản là con đẻ của chính nó…, kể cả tư tưởng khủng bố… Trong nhận thức của nó không tồn tại những nguyên lí khác biệt hẳn với những nguyên lí đang được chế độ cộng sản thi hành”, chính giới trí thức đã “dính líu vào tội ác và đấy, hơn bất kì điều gì khác, đã không cho nó ngẩng đầu lên”. (Và tạo điều kiện cho nó tham gia vào hệ thống dối trá.) Giới trí thức đã nhận được chính cái mà nó đã phấn đấu trong hàng chục năm, dù dưới một hình thức có làm người ta hơi ngạc nhiên: nó đã đầu hàng mà không cần giao tranh. Chỉ có một chút an ủi nhỏ để cho nó mút mát một cách thầm lặng, đó là: “tư tưởng của cách mạng thì tốt nhưng đã bị xuyên tạc mất rồi”. Và trong mỗi sự đổ vỡ của lịch sử, nó lại tự an ủi bằng niềm hi vọng rằng chế độ sẽ bình phục, sẽ chuyển biến theo hướng tốt hơn và lúc đó, sự hợp tác với chính quyền sẽ được biện hộ một cách hoàn toàn (sáu đặc điểm đầy cám dỗ của giới trí thức Nga: cách mạng, sẵn sàng thay đổi hẳn quan điểm[16], có tinh thần xã hội chủ nghĩa, yêu nước, ủng hộ tan băng[17] và có tinh thần kĩ trị, xuất hiện lần lượt theo đúng thứ tự như thế và cùng tồn tại trong giai đoạn hiện nay).
Đầu hàng một cách nhục nhã nhất, đến mức tự huỷ về mặt tinh thần, vậy thì cái tên “tầng lớp kĩ giả” chẳng xứng đáng với chúng ta hay sao? Cảm giác vong thân chán chường đối với nhà nước (chỉ từ sau những năm 1940), cảm thấy tình cảnh trói buộc trong tay người khác – đấy không phải dấu hiệu liên tục, mang tính chủng loài, mà là sự xuất hiện của một hình thức phản kháng mới, của sự sám hối. Và phần lớn giới trí thức đã nhận thức được - người thì lo lắng, người thì bàng quan, kẻ lại kiêu căng - rằng họ đã vong thân với chính nhân dân.
G. Pomerants[18](tên thật chứ không phải bí danh, một nhà Đông phương học, xuất bản cả một cuốn sách tập hợp các bài viết về triết học dưới dạng samizdat) đã viết khá nhiều về việc giữ làm sao để không hoà tan vào lũ kĩ giả, đứng tách biệt ra khỏi bọn họ và cứu lấy khái niệm trí thức: “thành phần lành mạnh nhất của xã hội hiện đại”, “không thể tìm đâu ra một tầng lớp
tiến bộ như thế[19] ”. Nhưng ông đã tỏ ra lúng túng trước một biển kĩ giả: “Rất khó định nghĩa khái niệm tầng lớp trí thức. Tầng lớp trí thức vẫn chưa ổn định ngay chính trong cuộc đời này”. (Sau 130 năm, từ Belinski[20] đến Granovski[21] mà vẫn chưa ổn định ư? Không, đấy là sau chấn động của cách mạng). Ông buộc phải tách ra “phần ưu tú nhất của giới trí thức”, đấy “thậm chí không phải là một tầng lớp mà chỉ là một nhóm người”, “chỉ có cái hạt nhân nhỏ bé của tầng lớp trí thức mới thực sự là trí thức mà thôi”, “đấy là một nhóm nhỏ những con người có khả năng tự phát hiện lại những báu vật, những giá trị của văn hoá”, thậm chí: “phẩm tính trí thức là một quá trình”... Ông đề nghị chấm dứt việc vẽ ra những hình thù, những đường biên, những giới hạn của giới trí thức mà hãy tưởng tượng nó như một trường (theo nghĩa của vật lí học): một trung tâm bức xạ (nhóm rất nhỏ), rồi đến “tầng lớp trí thức được khích lệ”, tiếp theo là “tầng lớp trí thức không được khích lệ” (?), nhưng “phát triển hơn tầng lớp tiểu tư sản”. (Trong các phiên bản cũ của bài báo này, Pomerants còn chia trí thức thành “tử tế” và “không tử tế”, với một định nghĩa kì quặc như sau: “người tử tế chỉ làm hại người khác khi không thể tránh được, không cảm thấy thích thú”, còn bọn không tử tế thì cảm thấy thích thú, toàn bộ sự khác biệt chỉ có thế!)
Nói cho ngay, Pomerants đã tìm được những lời lẽ đầy cảm thông để biện hộ cho cái giai cấp gồm nhiều triệu người nằm ở biên giới của “tầng lớp không được khích lệ” và “tiểu tư sản”: ông đã nói tới sự vất vả của các thày cô giáo, của các y bác sĩ và những kế toán viên, tức là “những người nông phu trong lĩnh vực lao động trí óc”. Nhưng hoá ra sự biện hộ kiên trì của ông lại chính là cuộc tấn công vào “nhân dân”: chứng minh rằng việc tìm ra sai sót trong một bản quyết toán vất vả hơn nhiều lần công việc của nữ nông trang viên trong trại gà ngột ngạt.
Đúng là công việc đã bị biến dạng, còn con người thì bị tàn phế. Chính tôi, một người đã từng là giáo viên trong một thời gian dài, hoàn toàn có thể tán đồng những lời như thế và có thể đưa thêm vào đây nhiều nghề nữa: kĩ thuật viên xây dựng, nhà nông học… Các thày cô giáo bị hành hạ, bị thúc ép, bị nhục mạ quá đáng, lại còn bị thiếu thốn về vật chất nữa, thành ra chẳng còn thì giờ, chẳng còn không gian và tí tự do nào để mà xác định cho được ý kiến riêng về bất cứ vấn đề gì, cũng chẳng có điều kiện để tìm và thưởng thức
những món ăn tinh thần chưa bị ô nhiễm nữa kia. Chính vì bản chất, chính xác là vì thiếu thốn và vô quyền, chứ không phải là do ít học mà đám đông tỉnh lẻ nghèo đói này mới tích cực diễn trò “khích lệ” hơn so với giới khoa bảng có nhiều đặc quyền đặc lợi ở thủ đô.
Chính vì thế mà bức tranh đầy tuyệt vọng về tầng lớp kĩ giả cực kì đông đúc mới chẳng thay đổi được bao nhiêu, học vấn trung bình là cánh cửa dẫn vào giới này.
Nếu người ta lên án giai cấp công nhân là dễ bảo, chẳng quan tâm gì tới đời sống tinh thần, chìm đắm trong hệ tư tưởng tiểu tư sản, chỉ quan tâm đến những vấn đề vật chất, xin nhà ở, mua những món đồ gỗ chẳng có tí thẩm mĩ nào (bán gì mua nấy), chơi bài, chơi đô-mi-nô, xem vô tuyến và nhậu nhẹt, thì thử hỏi giới kĩ giả, thậm chí kĩ giả thủ đô, cũng có hơn gì? Đồ gỗ đắt tiền hơn, những buổi hoà nhạc chất lượng cao hơn, rượu cô-nhắc thay cho vodka ư? Còn khúc quân cầu chiếu trên vô tuyến thì ở đâu cũng như nhau cả. Nếu ở ngoại vi, việc xin xỏ về tiền lương là phương tiện sống còn thì tại các trung tâm toả sáng của nó (mười sáu thủ đô và vài thành phố bí mật) người ta càng cảm thấy kinh tởm khi chứng kiến cảnh khuất phục trước bất kì tư tưởng và tín điều nào – săn đuổi quyền chức, danh hiệu, nhà ở, nhà nghỉ, ô tô (Pomerants nói: “bổng lộc bù đắp cho những nhọc nhằn về mặt tinh thần”), và những chuyến công tác ra nước ngoài nữa. (Giới trí thức trước cách mạng chắc chắn phải hết sức kinh ngạc! Cần gì phải giải thích: ấn tượng, chơi bời, ăn ngon, mặc đẹp, ngoại hối, mấy bộ quần áo màu mè nữa… Tôi nghĩ chỉ cần như thế thôi thì một trí thức hạng bét trước cách mạng cũng chẳng thèm bắt tay một kĩ giả danh giá nhất ở thủ đô hiện nay). Nhưng trí tuệ của giới kĩ giả trung tâm thể hiện rõ nhất ở khát khao tặng thưởng, phần thưởng và danh hiệu của nó, cao hơn rất nhiều những thứ mà người ta phát cho công nhân và giới kĩ giả tỉnh lẻ - tiền thưởng cũng cao hơn và nghe cũng đã tai hơn: “hoạ sĩ (nghệ sĩ, v.v…) nhân dân”, “nhà giáo ưu tú”, “giải thưởng…” Chẳng cần xấu hổ khi giả đò là một người không chê vào đâu được, sẵn sàng cắt đứt những mối quan hệ có thể làm cấp trên nghi ngờ, làm mọi việc theo ý cấp trên; chỉ cần bí thư chi bộ ra lệnh là có thể phê phán, cả bằng văn bản lẫn trên hội nghị, hoặc không bắt tay bất kì đồng nghiệp nào. Nếu đây là trí thức thì thử hỏi “thị dân-tiểu tư sản” là gì?!... Những người mà tên tuổi còn xuất hiện trên màn ảnh gần đây và dĩ nhiên vẫn xưng danh là trí thức, lúc bỏ nước ra đi đã
không hề xấu hổ khi tháo các án thư thời Ekaterina[22]thành từng mảnh nhỏ (đồ cổ bị cấm xuất khẩu) rồi trộn lẫn vào những tấm ván bình thường để mang ra nước ngoài. Thế mà lưỡi vẫn còn phát âm được từ “trí thức” đấy!... May là hải quan cấm nên những tượng cổ trước thế kỉ XVII còn giữa được ở trong nước. Còn những bức mới hơn thì đã từng có mấy cuộc triển lãm ở châu Âu, không chỉ nhà nước đứng ra bán chúng ở bên đó…
[1]Ám chỉ nhân vật Đại pháp quan tôn giáo trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của F. M. Dostoievski, kẻ sẵn sàng hi sinh cả Chúa lẫn chân lí miễn là nhân dân được hạnh phúc.
[2]Fiodor Dostoevski (1781-1821), nhà văn vĩ đại của nước Nga. Tác phẩm chính: Anh em nhà Karamazov, Tội ác và hình phạt, Lũ người quỉ ám, Gã khờ…
[3]Lev Tolstoi (1828-1910), đại văn hào Nga. Tác phẩm chính: Chiến tranh và hoà bình, Anna Karenina, Phục sinh…
[4]V. Soloviev (1853 — 1900) – triết gia lớn người Nga, người đặt nền móng cho triết học tôn giáo của Nga.
[5]N. V. Gogol (1809-1852), nhà văn vĩ đại người Nga. Các tác phẩm chính: Quan thanh tra, Taras Bulba, Những linh hồn chết.. [6]G. Fedotov (1886-1951), triết gia người Nga.
[7]V. I. Dal (1801-1872), nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Nga. [8]N. A. Berdaiev (1874-1948), nhà triết học, nhà văn Nga. Ông được coi là triết gia về tự do, các tác phẩm chính: Triết lí của bất bình đẳng, Về tình trạng nô lệ và tự do của con người…
[9]Nguyên văn tactar : dân tộc bị người Nga coi là lạc hậu.
[10]Đây là tên viết tắt của các khoa dự bị dành cho công nhân. [11]Vụ án Shakhtinsky (1928) chống lại các chuyên gia được coi là có tinh thần bài Xô ở vùng Donbask. Có 53 người, chủ yếu là các kĩ sư và kĩ thuật viên, bị đưa ra toà. Kết quả: 5 người bị tử hình, 40 người bị tù từ 1 đến 10 năm, 4 người án treo, 4 được tha bổng.
[12]Vụ Đảng Công nghiệp (1930) ở Moskva, xét xử L. K. Ramzin, giám đốc Viện Kĩ thuật Nhiệt học và một loạt các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kĩ thuật và kế hoạch hoá bị kết tội phá hoại.
[13]Lòng trung thành mê muội đối với các đơn hàng của nhà nước đã được thể hiện một cách rõ ràng trong tác phẩm có tên là Nhóm tội phạm
Tupolev (Tupolev là chuyên gia hàng không có tiếng của Liên Xô, Tổng công trình sư các máy bay mang tên TY - ND) được xuất bản dưới dạng Samizdat, hoá ra ngay cả những nhân vật lỗi lạc cũng không thoát.
[14]Xem V. F. Kormer, “Nhận thức nước đôi của tầng lớp trí thức và hiện tượng nguỵ văn hoá”, Những vấn đề triết học, 1989, số 9 – ghi chú của biên tập viên)
[15]Ở đây tác giả chơi chữ разрыв/взрыв, nghĩa là đoạn tuyệt/ tiếng nổ, đều có âm рыв - dịch thoát ý - ND
[16]Dịch thoát ý từ cменовеховский, thuật ngữ được hình thành từ hai từ cмена (thay đổi) và вехa (cột mốc), chỉ những người tham gia viết hoặc chia sẻ quan điểm của tác phẩm gọi là Cмена вех do những người Nga lưu vong thất vọng với cuộc đấu tranh chống chế độ Bolshevik xuất bản ở Praha vào năm 1921 - ND.
[17]Đây là nói những người có tư tưởng ủng hộ những cải cách (gọi là tan băng) dưới trào Khrushchev cuối những năm 1950, đầu 1960 - ND [18]G. Pomerants (1918), nhà bất đồng chính kiến, từng tham gia Chiến tranh Thế giới II, bị bắt năm 1949, được ân xá vào năm 1953. Từng dạy học và cộng tác với nhiều tờ báo khác nhau.
[19]Tất cả cách trích dẫn từ Pomerants ở đây chủ yếu đều lấy từ hai tác phẩm: Người không từ đâu tới và Hằng hà sa số (dịch thoát ý từ квадрильон nghĩa là một số đứng đầu là số 1 rồi đến 15, thậm chí 24 số không đứng sau) - ND.
[20]Belinski V. G. (1811-1848), nhà phê bình văn học, nhà báo và triết gia lớn người Nga
[21]T. M. Granovski (1813-1855), giáo sư lịch sử nổi tiếng người Nga [22]Ekaterina A. R. (1729-1796), nữ hoàng Nga từ năm 1762 đến năm 1796, thường gọi là Ekaterina Đệ Nhị.
Nguồn: Nowy Mir (Thế giới Mới), 1991, số 5, trang 28-46
4.
Tất cả mọi người sống trong đất nước này đều phải đóng góp vào việc nuôi dưỡng sự dối trá bắt buộc về mặt tư tưởng. Nhưng giai cấp công nhân và hơn
nữa nông dân thì phải đóng góp rất ít, đặc biệt là sau khi bãi bỏ việc mua công trái bắt buộc hàng năm (có hại và bực mình vì phải giả vờ tự nguyện, tiền thì thu kiểu nào mà chả được), chỉ thỉnh thoảng mới có những vụ giơ tay biểu quyết trong các cuộc họp, mà việc điểm danh cũng không còn gay gắt như cũ. Mặt khác, có những cán bộ quản lí nhà nước và cán bộ dân vận thực sự tin vào tư tưởng của mình, nhiều người đã dành cho nó biết bao công sức, do kém hiểu biết, do tâm lí con người ta là có thế giới quan phù hợp với công việc chính của mình.
Nhưng giới kĩ giả trung tâm thì sao? Họ nhìn thấy rõ tình trạng thảm hại và mục ruỗng trong những trò lừa bịp của Đảng, và thường đem ra chế giễu khi chỉ có họ với nhau - thế mà họ lại có thể trắng trợn lặp lại những lời dối trá đó một cách hoàng tráng và bóng bảy trong những bài báo phản đối “đầy giận dữ”, thậm chí còn dùng phong cách và giọng văn hùng hồn của mình để triển khai và củng cố cho nó nữa! “Nước đôi” của G. Orwell[1]là lấy từ đâu, ai là nguyên mẫu? Nếu không phải giới trí thức Liên Xô những năm 1930 và 1940 thì còn ai vào đây nữa? Từ bấy đến nay cái “nước đôi” này càng ngày càng được trau chuốt thêm và trở thành một mánh khoé quan trọng.
Thế mà chúng ta lại đang khao khát tự do, chúng ta lên án (thì thầm) bất cứ kẻ nào tỏ vẻ nghi ngờ về sự cần thiết và đáng ao ước của tự do trên khắp đất nước này! (Có lẽ phải nói thế này: đáng mong ước không phải cho tất cả, nhưng chắc chắn là cho giới kĩ giả ở trung tâm. Trong bức thư gửi cho Đại hội XXIII của Đảng, Pomerants đề nghị thành lập liên hiệp “hạt nhân trí thức với một cơ quan ngôn luận độc lập, đóng vai trò trung tâm lí luận”, ban phát lời khuyên cho bộ máy của Đảng). Nhưng chúng ta lại đang chờ đợi cái tự do đó như chờ đợi một phép màu, nó sẽ đột ngột rơi xuống, không cần sự cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ không cần phải tranh đấu gì hết. Mặc kệ những truyền thống cũ - ủng hộ những người hoạt động chính trị, cho kẻ bỏ trốn ăn, cho kẻ không có căn cước, không nhà tạm trú (dù có phải mất việc) - giới kĩ giả trung tâm vẫn làm việc một cách trung thực, đôi khi còn thể hiện tài năng để gia cố cái nhà tù chung nữa. Thế mà họ lại không cho phép lên án mình! - những lời biện hộ bằng nhiều thứ tiếng được chuẩn bị, cân nhắc, gọt giũa. Những vụ chơi khăm đồng nghiệp, những lời dối trá trên báo chí được biện hộ rằng chuyện đã xưa rồi, được chấp nhận bằng một dàn đồng ca: nếu
tôi (hắn) không làm như thế thì người ta đã đuổi tôi (hắn) và đưa lên một kẻ còn xấu xa hơn! Thế là để làm điều thiện cho mọi người thì dĩ nhiên là mỗi ngày phải làm điều ác cho một số người khác (“người tử tế chỉ làm hại người khác khi không thể tránh được”). Nhưng mấy người kia chính là bọn có lỗi: tại sao lại không nghĩ đến tập thể, tại sao lại dám nhảy xổ ra trước mặt lãnh đạo như thế?... Zhelnov (Tờ tin của Phong trào Sinh viên Công giáo Nga, số 97) đã gọi thái độ của tầng lớp trí thức là khom lưng, họ coi “đứng thẳng là tư thế kì cục”.
Nhưng luận cứ biện hộ chính vẫn là: con cái! Trước luận cứ này thì tất cả đều phải ngậm miệng hết: ai có quyền hi sinh hạnh phúc của con mình cho cái nguyên tắc trừu tượng của sự thật!... Sức khoẻ tinh thần của những đứa con còn quan trọng hơn địa vị của họ - nhưng những ông bố bà mẹ nghèo nàn về đạo đức làm sao có thể nghĩ được chuyện đó. Những đứa con lớn lên rồi cũng trở thành như thế: những kẻ thực dụng ngay từ trên ghế nhà trường, sinh viên năm thứ nhất ngoan ngoãn chấp nhận những điều dối trá trong những giờ học chính trị, biết tính toán để làm sao bước chân được vào lĩnh vực khoa học béo bở. Thế hệ này không hề trải qua một cuộc đàn áp thật sự nào mà sao nó lại tỏ ra thận trọng đến như thế! Một vài chàng thanh niên - niềm hi vọng của nước Nga, những người dám nhìn thẳng vào sự thật thì thường lại bị những bậc cha mẹ sang giàu chửi bới, thậm chí đàn áp nữa.
Không thể biện hộ cho giới kĩ giả trung tâm, như người ta từng biện hộ cho những người nông dân khi xưa, rằng họ sống tản mát, không biết chút gì về các sự kiện công cộng, bị đè nén ngay tại chỗ. Giới trí thức trong suốt những năm tháng dưới chính quyền Xô-viết có thông tin, biết trên thế giới người ta đang làm gì, có thể biết trong nước người ta đang làm gì, nhưng họ đã quay mặt đi, họ đã nhũn như con chi chi ngay trong từng công sở, trong mỗi văn phòng, họ không quan tâm đến sự nghiệp chung. Tất nhiên là càng ngày người ta càng đè nén thêm một cách từ từ, không thể nhận ra được (chưa gặp thì người châu Âu không thể tưởng tượng nổi). Những người có sáng kiến, sẵn sàng tham gia các hoạt động nhân đạo, hoạt động nghiệp dư thì bị đe doạ, bị đè nén, còn hoạt động cứu trợ của xã hội thì trở thành những động tác giả của nhà nước. Và rút cục người ta cho ta biết rằng dường như không có cách thứ ba: khi một đồng nghiệp bị hãm hại thì không ai có thể đứng ngoài, chỉ cần tỏ thái độ chần chừ là trở thành đối tượng phê phán ngay lập tức. Nhưng
ngay cả trong hoàn cảnh như thế vẫn còn một lối thoát: cứ để cho người ta phê phán! Thà để các con tôi sống bằng rau cháo[2] nhưng lớn lên chúng sẽ là người trung thực còn hơn! Nếu có một giới trí thức như thế thì ai có thể khuất phục được.
Còn một loại người nữa - những người nổi tiếng, không ai dám động tới, những người mà tên tuổi đã được bảo vệ một cách an toàn bởi danh tiếng toàn Liên bang, thậm chí trên tầm quốc tế nữa, ít nhất là trong giai đoạn hậu Stalin, cảnh sát cũng chẳng làm gì được họ, chuyện này thì ai cũng biết, ở gần cũng như ở xa, thiếu thốn họ cũng không sợ - tích cóp được nhiều rồi. Họ có thể giương cao thanh danh và sự độc lập của giới trí thức Nga một lần nữa hay không? Họ có thể đứng lên bảo vệ những người bị đàn áp, bảo vệ tự do, đứng lên chống lại những bất công đang làm ô nhiễm bầu không khí, đứng lên chống lại sự dối trá bệnh hoạn này hay không? Chỉ cần hai trăm người như thế (cả thảy có khoảng năm trăm) xuất hiện và sát cánh bên nhau thì họ đã có thể làm sạch được bầu không khí tinh thần của xã hội ta, thậm chí có thể làm thay đổi được toàn bộ đời sống nữa! Trong giới trí thức trước cách mạng có hàng ngàn người hành động như thế, họ không cần chờ cho đến khi nổi tiếng để được an toàn. Trong giới kĩ giả của chúng ta số người như thế có thể đếm đủ mười đầu ngón tay hay không? Những người khác không có nhu cầu! (Ngay cả nếu bố có bị bắn thì cũng không sao, chấp nhận hết). Phải gọi tầng lớp chóp bu của chúng ta là gì – kĩ giả cao cấp ư?
Trong thời Stalin, không kí vào một bài báo vu khống, một kiến nghị hoặc yêu cầu tử hình hay bỏ tù đồng nghiệp là có thể đã bị tử hình hay bắt tù rồi. Nhưng hôm nay, cái gì có thể đe doạ, có thể buộc những người nổi tiếng, đầu đã hai thứ tóc phải cầm bút, xun xoe hỏi “chỗ nào?”, rồi kí vào một cái văn bản nhảm nhí không phải do họ viết nhằm chống lại Sakharov[3] ? Chỉ có sự hèn hạ của chính người đó. Sức mạnh nào có thể buộc người nhạc sĩ vĩ đại của thế kỉ XX biến thành con rối trong tay các viên chức loại ba của Bộ Văn hoá và theo lệnh họ kí bất kì văn bản đáng khinh nào, bảo vệ bất kì ai ở nước ngoài khi họ ra lệnh và hãm hại bất kì ai ở trong nước khi họ ra lệnh? (Người nhạc sĩ đã tiếp xúc trực tiếp được với tâm hồn đen tối ác hại của thế kỉ XX mà không gặp bất kì cản ngại nào. Ông đã nắm bắt được, không phải, nó đã nắm bắt được ông ta với một sự chân thực xuyên thấu tim gan, nếu một lúc
nào đó con người được sống trong một thời đại sáng sủa hơn, con cháu chúng ta sẽ được nghe nhạc của Shostakovich[4] và tưởng tượng ra cảnh chúng ta đã nằm trong móng vuốt của quỉ sứ, bị nó khống chế hoàn toàn, thế mà những móng vuốt đó và cả hơi thở của nó nữa lại có vẻ như là đẹp đối với chúng ta.)
Trong quá khứ từng có những nhà bác học Nga vĩ đại với những hành động tiểu nhân như thế hay không? Cả các nghệ sĩ lớn nữa? Truyền thống đã bị phá tan tành, chúng ta đã trở thành một bọn kĩ giả.
Sự xấu hổ còn tăng gấp ba khi không phải là sợ bị đàn áp mà chính là những toan tính lắt léo của tính háo danh, của lòng tham, của tâm lí cầu an đã buộc “những ngôi sao Moskva” và những người trung bình thuộc giai đoạn “tan băng” của tầng lớp kĩ giả phải khom lưng uốn gối như thế. Lidia Zhukovskaya[5] đã có lí khi nói: đã đến lúc phải loại bớt một vài người ra khỏi tầng lớp trí thức. Nếu không loại hết bọn đó thì chúng ta sẽ vĩnh viễn đánh mất ý nghĩa của từ này.
Những người dũng cảm đây rồi! - Đứng lên bảo vệ một ngôi nhà (không phải thánh đường) đang bị phá và cả hồ Baikal nữa. Dĩ nhiên là phải cám ơn, ngay cả chuyện này. Có một người xuất chúng, đã từng giành được đủ thứ danh hiệu và phẩm trật, được đề nghị tham gia viết bài cho tập sách này. Trong những cuộc trao đổi riêng tư, trái tim ông ta như quặn thắt lại - về sự cáo chung không thể nào hồi phục nổi của nhân dân Nga. Ông ta hiểu rõ từ cội nguồn lịch sử và nền văn hoá Nga. Thế mà ông ta từ chối: Để làm gì? Chẳng ăn thua gì đâu… Một cách thoái thác thường gặp tương xứng với giới kĩ giả.
Chúng ta xứng đáng như thế. Chúng ta đang sống mòn trên cái đáy như thế.
Khi ở bên trên người ta giật dây, bảo tích cực lên (1956, 1962) thì chúng ta mới dám khởi động chút xíu cái lưng đã tê dại. Khi người ta bảo dừng lại (1957, 1963) là chúng ta cụt hứng ngay lập tức. Cũng có lúc tự phát: 1967- 1968, tác phẩm in theo lối samizdat nhiều như nước mùa xuân, tên tuổi tăng lên gấp bội, nhiều tên tuổi mới lên tiếng phản đối, tưởng như chỉ cần thêm tí nữa, một tí con con nữa thôi là chúng ta sẽ có thể bắt đầu thở được. Còn đàn
áp, có cần nhiều không? Khoảng năm chục người bạo gan nhất bị điều chuyển, không được làm đúng chuyên môn nữa. Mấy người bị khai trừ ra khỏi Đảng, mấy người nữa bị khai trừ ra khỏi các hội, khoảng bảy tám chục người “kí tên” bị gọi lên văn phòng đảng uỷ. Thế là sau khi “tâm sự”, mặt người nào cũng tái mét, thất thần.
Và cái phát minh quan trọng nhất, điều kiện tồn tại, tái sinh và tư duy của mình tức là samizdat đã bị giới kĩ giả bỏ của chạy lấy người. Những người có học săn lùng các tác phẩm mới của samizdat, đề nghị tái bản và bắt đầu thành lập thư viện samizdat lâu chưa? Đã gửi về các địa phương chưa? Thế mà họ đã bắt đầu đốt các thư viện đó, họ để cho máy chữ nằm yên một chỗ, thỉnh thoảng, trong những hành lang tối tăm nếu có vội vàng nắm lấy một tài liệu bị cấm đoán thì cũng chỉ đọc vài dòng rồi đem trả ngay, tay run bắn.
Nhưng trong những vụ đàn áp như thế đã hiện ra, đã xuất hiện hạt nhân của tầng lớp trí thức: đấy là những người tiếp tục liều thân và tiếp tục hi sinh, họ công khai hoặc bí mật tham gia lưu trữ tài liệu, dũng cảm giúp đỡ những người bị tù đầy hoặc đem tự do của chính mình ra đền nợ nước.
Nhưng cũng xuất hiện một “hạt nhân” nữa, đấy là những người phát hiện ta một túi khôn mới: bỏ chạy! Để cứu cái tính cá nhân độc đáo của mình (“ở bên đó tôi sẽ có điều kiện đóng góp cho sự phát triển của nền văn hoá Nga”). Sau đó là cứu những người ở lại (“ở bên đó chúng tôi sẽ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của các bạn ở nhà”). Cuối cùng là cứu con mình, chúng có giá trị hơn con của những người đồng bào khác.
Đấy là “hạt nhân của tầng lớp trí thức” mới vừa được phát hiện, cái hạt nhân có thể tồn tại mà không cần nước Nga…
5.
Vâng, chúng ta có thể được tha thứ tất, có thể thông cảm - cả sự nhịn nhục của chúng ta, cả việc chúng ta tiếp tay cho sự bịp bợm, nếu như chúng ta công nhận rằng mình yếu đuối, mình thích an nhàn, mình chưa sẵn sàng chấp nhận những thử thách khắc nghiệt như thế: chúng tôi chỉ là nạn nhân của lịch
sử, cái lịch sử đã diễn ra trước khi có chúng tôi, chúng tôi được sinh ra trong lòng nó, chúng tôi đã phải chịu đựng quá nhiều rồi, chúng tôi chỉ còn một cách là giãy giụa, chẳng biết làm sao mà thoát ra được.
Nhưng không! Chúng ta đã tìm được những lí lẽ khéo léo đến kinh ngạc, theo đó chúng ta “cần nhận thức được mình về mặt tinh thần mà vẫn không rời bỏ viện nghiên cứu” (Pomerants), làm như là “nhận thức được mình về mặt tinh thần” là công việc suy tư nhàn tản chứ không phải là một thách thức nghiêm trọng, không phải là những thử thách không khoan nhượng vậy. Chúng ta vẫn chưa từ bỏ được thói tự cao tự đại. Chúng ta đòi được thừa kế cái tên cao quí là trí thức, đòi quyền đóng vai những quan toà thượng thẩm, đòi phán xét tất cả những việc đang diễn ra trong lĩnh vực tinh thần ở trong nước cũng như trên toàn thế giới: từ trong cái hang an toàn của mình, đưa ra những đánh giá về các lí thuyết xã hội, các phong trào, các xu hướng, các tiến trình lịch sử và hoạt động của những người tích cực, mà không ai được quyền bác bỏ. Ngay khi lấy áo khoác trong tiền sảnh ở viện nghiên cứu, chúng ta đã sắp sẵn các ý tưởng ở trong đầu và trong lúc uống trà buổi tối thì đưa ra đánh giá cuối cùng: hành động nào hay ai có thể được “giới trí thức tha thứ” hay “không tha thứ”.
Không thể tin được khi nhìn thấy những hành vi đáng khinh trên thực tế của giới trí thức trung tâm trong bộ máy của chính quyền Xô-viết, giới kĩ giả đang thấy mình đứng trên nền tảng lịch sử nào: từng người tự nhìn mình, nhìn bạn bè, đồng nghiệp. Kiến thức chuyên môn càng ngày càng thu hẹp, tạo điều kiện cho cả những kẻ gần như không biết gì cũng có thể trở thành tiến sĩ, cũng không làm cho kĩ giả băn khoăn gì hết.
Quan niệm của giới kĩ giả về chính mình khống chế toàn bộ những người có học đến mức ngay cả Altayev, một người thường xuyên tìm cách vạch mặt nó, xen giữa những lời tố cáo, vẫn thỉnh thoảng phải tuân theo truyền thống: “Ngày hôm nay rõ ràng là giới trí thức (của chúng ta) đang nắm trong tay số phận của nước Nga, và cùng với nó là số phận của toàn thế giới”!... Thật là cười ra nước mắt… Theo kinh nghiệm đã đi qua của nước Nga và trước phương Tây đang bối rối như thế mà nó lại giữ được ư! – Tay thì yếu, tim thì đập loạn xạ…
Trong năm 1969, áp lực của thói tự mãn của giới kĩ giả khoa học kĩ thuật đã bung ra trong một bài báo samizdat của Semyon Telegin (dĩ nhiên là bí danh[6]). “Làm sao?”. Giọng văn của một người biết tuốt, kiên cường, đầy sức sống, nhanh chóng gợi lên những liên tưởng phụ bằng những câu đùa nhả theo kiểu “trí thức trí ngủ”, hay coi thường cái đám đông mà ông ta cùng chia sẻ không gian sống (“trong cái chuồng lợn người”)…
Nhưng tác giả không phải là quan trọng, quan trọng là những người đồng chí hướng mà ông ta phong cho là: “những người trí thức tiến bộ” (có chân trong Đảng vì được ngồi trong các cuộc họp chi bộ và lãnh đạo “những phần việc cụ thể”), “chúng ta là tinh hoa của nước Nga”, những người “tạo ra các quan điểm của mình, để có thể sống trong đó mà không bị bối rối vì những mâu thuẫn khác nhau”. “Hãy tự tưởng tượng ra một giai cấp những người có trình độ cao, được vũ trang bằng các tư tưởng của khoa học hiện đại, khôn khéo, tự chủ, dũng cảm trong tư duy, quen và thích suy nghĩ, chứ không phải là… cày ruộng”.
Telegin không che giấu cả những đặc điểm sau đây của tầng lớp mình: “Chúng ta là những người nghĩ thế này nhưng lại nói thế kia và làm thì hoàn toàn khác hẳn… Sự phi đạo đức một cách toàn triệt liên quan đến cả chúng ta”. Ông ta đang nói đến tâm hồn ba mặt, đạo đức ba mặt – để xử sự “với mình, với xã hội, với nhà nước”. Nhưng đây có phải là khuyết tật hay không? Anh chàng vui tính Telegin cho rằng: “Đấy là thắng lợi của chúng ta”! Tại sao lại như thế được? Trả lời: Chính quyền muốn chúng ta phải khuất phục cả trong tư duy, trong lời nói cũng như việc làm, còn chúng ta thì suy nghĩ một cách dũng cảm! “Chúng ta đã bảo vệ được tự do nội tâm”! (Thật đáng kinh ngạc: nếu chửi thầm được coi là tự do về mặt tâm hồn thì nô lệ về mặt tâm hồn là gì? Dù sao chúng ta cũng gọi tự do về mặt tâm hồn là khả năng tư duy và hành động mà không phụ thuộc vào các chướng ngại bên ngoài, còn tự do ở ngoại giới là khi các chướng ngại đó không còn.)
Trong bài báo của Telegin, “tinh hoa của nước Nga” đã thể hiện mình một cách rất thẳng thắn và phù hợp. Làm quen với các quan điểm đó sẽ chỉ có lợi cho chúng ta.
“Dưới chế độ áp bức” dường như đã xuất hiện “một nền văn hoá mới”, “một hệ thống các quan hệ và tư duy mới”, đấy là “một người khổng lồ đứng trên hai chân - nghệ thuật và khoa học”. Trong lĩnh vực nghệ thuật? – Các nghệ sĩ tự biên tự diễn chơi đàn ghi-ta và văn học samizdat độc lập với nhà nước. Trong lĩnh vực khoa học? - “Phương pháp luận hùng mạnh của môn vật lí học”, và từ đó là cả “một nền triết học đầy sức sống”, đã có hàng chục nền văn hoá cấp ngành và khu vực đâm chồi nảy lộc trong các phòng làm việc và hành lang của các viện nghiên cứu - thiết kế và trong đại sảnh của Viện Hàn lâm Khoa học.” “Đấy là không gian bao la cho những người sáng tạo và họ đã có mặt.” “Không chính quyền nào có thể ngăn chặn được khoa học.” Và: có thể “áp dụng phương pháp luận của vật lí học vào những điều tế vi của đạo đức” (xin Chúa phù hộ cho chúng con…). “Trên cái nền văn hoá bí mật đó, một thế hệ mới, thế hệ của những vĩ nhân sẽ xuất hiện và sẽ lớn nhanh như thổi, những nỗi sợ hãi của chúng ta chỉ làm họ buồn cười mà thôi.”
Tiếp theo là một kế hoạch táo bạo, tức là muốn cứu chúng ta thì phải sử dụng nền văn hoá này như thế nào. Vấn đề là “đứng lên chống lại những điều kiện sống của chúng ta một cách công khai không phải… bao giờ cũng là phương pháp tốt nhất”. “Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng”, “những âm mưu bí mật và các đảng phái mới” cũng chẳng có ích gì và không cần thiết, không thể kêu gọi đứng lên làm cách mạng được.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với kết luận cuối cùng, mặc dù tác giả đã tỏ ra sai lầm khi lập luận như sau: sự sụp đổ của chế độ chuyên chế là do xã hội đã bác bỏ hệ tư tưởng quốc doanh chứ không phải là do bất kì hoạt động cách mạng nào. Không phải như thế, không thể so sánh như thế được: phải có hoạt động cách mạng thực sự, còn chế độ chuyên chế thì kháng cự không còn hung tợn nữa, chỉ bằng một phần trăm trước đây và một tầng lớp trí thức dám hi sinh. Nhưng chúng tôi đồng ý với kết luận mang tính thực tiễn: vứt bỏ tư tưởng cách mạng, “chúng ta sẽ không xây dựng kế hoạch thành lập một đảng mang tính quần chúng, theo kiểu đảng của Lenin”.
Thế thì sao? Đây: “trong giai đoạn đầu sẽ không có nhiều người phải hi sinh” (giới kĩ giả hoàn toàn yên tâm). Giai đoạn 1: “không chấp nhận nền văn hoá của bọn áp bức” và “xây dựng nền văn hoá” của mình (đọc và hiểu một cách sâu sắc samizdat trong hành lang các viên nghiên cứu). Giai đoạn 2: dốc “sức
cho việc quảng bá nền văn hoá đó trong dân chúng”, thậm chí “tích cực đưa nền văn hoá đó vào trong quần chúng” (phương pháp luận của vật lí học ư? hay là hát có ghi-ta đệm theo?), “làm cho nhân dân nhận thức được tình trạng của đất nước”, muốn thế cần phải có “những biện pháp khéo léo. Con đường đó trước hết không đòi hỏi lòng dũng cảm (dầu cù là loại này đã được dùng biết bao lần rồi) mà cần khả năng thuyết phục, giảng giải, biết gây sự chú ý của nhân dân một cách lâu dài mà lại không làm cho chính quyền để ý”, “nước Nga cần không chỉ các nhà hùng biện và các chiến sĩ đấu tranh quên mình mà còn cần… những người phê phán sâu cay, những nhà truyền giáo khéo léo của nền văn hoá mới nữa”. “Chúng ta có chung tiếng nói với nhân dân, trong khi nói về bóng đá, nói về câu cá cũng cần tìm các hình thức cụ thể để xâm nhập vào quần chúng”. “Chả lẽ chúng ta, những người có thế giới quan… (vân vân)… lại không giải quyết được nhiệm vụ mà những người truyền giáo chưa thoát nạn mù chữ đã giải quyết một cách thành công ư?” (Không phải là vấn đề thoát nạn mù chữ như giới kĩ giả tự cao tự đại và mù dở tự nghĩ về mình, mà là sức mạnh tinh thần.)
Chúng tôi đã trích dẫn khá nhiều, bởi vì: đấy không chỉ là của một mình ông Telegin mà là tất cả các nhà tư tưởng tự tin của giới kĩ giả trung tâm. Người nào cũng chỉ nói có một điều: khai minh một cách thận trọng! Bài báo của Zhelnov (Tờ tin, số 97, đã dẫn), không hẹn mà gặp cũng có tên là “Làm sao?”. Trả lời: “thành lập các hội Công giáo bí mật”, việc cải thiện đạo đức được dự kiến kéo dài cả ngàn năm. L. Ventsov (Tờ tin, số 99) với bài “Suy tư!”, không hẹn nhưng đơn thuốc cũng hệt như của Telegin. Trong một thời gian ngắn các tờ tạp chí samizdat xuất hiện như nấm sau mưa: đấy là những tờ Tia sáng tự do, Người gieo hạt, Tự do tư tưởng, Người dân chủ, tất cả đều xuất bản bí mật, dĩ nhiên rồi, và tất cả đều đưa ra một lời khuyên: không được lộ diện, không được vi phạm nguyên tắc hoạt động bí mật, và phải nhanh chóng phổ biến cho quần chúng những nhận thức đúng… Sao thế? Vẫn là những vở đã có tuổi thọ cả ngàn năm rồi, các sự kiện của thời đại tên lửa này có tốc độ gấp hàng trăm lần như thế. Thật là dễ: nằm trong hang rồi tung ra các ý tưởng đó cho samizdat, mọi sự sẽ tự diễn ra.
Không, không diễn ra đâu.
Trong các phòng làm việc đầy đủ tiện nghi và chan hoà ánh sáng của các viện
nghiên cứu, các nhà khoa học “chính xác” và các kĩ sư, trong khi lên án một cách nghiêm khắc các đồng nghiệp nhân văn của mình vì họ đã “làm tôi đòi cho chế độ”, có thói quen tha thứ cho những hoạt động của mình, những hoạt động cũng không kém phần khủng khiếp và trách nhiệm trước lịch sử cũng không phải là nhỏ hơn. Nhưng nếu không thế, chúng ta có thể mất một nửa các viện nghiên cứu, mất những viện quan trọng nhất và bí mật nhất, khoa học sẽ ngưng trệ thì sao? Không được, còn chủ nghĩa đế quốc. “Tạo ra nền văn hoá phi toàn trị có thể dẫn đến tự do mang tính vật chất nữa”, Telegin khẳng định như thế - biết phản đối như thế nào đây? Suốt ngày làm việc, các khoa học gia (từ khi khoa học trở thành một ngành công nghiệp, thực chất họ chỉ là những công nhân công nghiệp có tay nghề) đã đưa ra nếu không phải là “nền văn hoá” thì cũng là nền văn minh vật chất (còn hơn thế - vũ khí), và chính người ta đã dùng vật chất để củng cố những dối trá và khắp nơi người ta đều giơ tay và đồng ý rồi nhắc lại theo yêu cấu của cấp trên – làm sao mà cái văn hoá ấy lại có thể cứu chúng ta cho được?
Mấy năm sau bài báo của Telegin, đã có nhiều dịp để cho thế hệ vĩ nhân kéo đàn kéo lũ ra rồi – Không! Người ta đã kí, khi có yêu cầu, lúc thì chống Dubček,[7] khi thì chống Sakharov, chỉ cần cấp trên ra lệnh là chống tất, miệng vẫn chửi thầm và chen vai thích cánh ngoài hành lang nhằm phát triển “nền văn hoá ngành” và rèn rũa “phương pháp hùng mạnh”.
Hay là các bác sĩ tâm thần của Viện Serbsky[8] cũng sống bằng “đạo đức ba mặt” và cũng tự hào có “tự do về mặt tâm hồn”? Còn các công tố viên và các quan toà ở toà án tối cao thì sao? – trong bọn họ cũng có những người có trí tuệ sắc sảo, chẳng kém gì các vĩ nhân của Telegin.
Lời tuyên bố đầy tự đắc rằng nó đã tiến gần đến chân lí này rất dễ làm người ta lẫn lộn và bị lừa và buả vây tâm hồn người đọc và đến điểm nguy hiểm nhất thì quay sang hướng khác. “Ohne uns[9]!” – Telegin gào lên. Đúng. “Không chấp nhận nền văn hoá của bọn áp bức!” - Chính xác. Nhưng: khi nào? Ở đâu? Không chấp nhận dưới hình thức nào? Không phải trong phòng thay áo mà là trên các cuộc hội nghị - không nói leo những điều mình không nghĩ, không giơ tay trái với lương tâm mình! Còn trong phòng làm việc thì không kí những văn bản mà mình không tự soạn theo đúng lương tâm mình.
Bác bỏ “nền văn hoá” nào? Không ai đi ép buộc nền văn hoá, người ta chỉ ép buộc những điều dối trá – còn dối trá thì không được chấp nhận, mà phải ngay lúc đó, ngay tại chỗ chứ không phải là tỏ ra bực bội trong lúc uống nước trà ở nhà vào buổi tối. Bác bỏ những điều dối trá – ngay lúc ấy mà không cần suy nghĩ về hậu quả đối với lương bổng, gia đình và thú vui phát triền “nền văn hoá mới”. Bác bỏ mà không cần lo lắng liệu những người khác có làm như mình hay không, không nhìn quanh xem chuyện đó sẽ được người ta bàn ra tán vào ra sao.
Vì câu trả lời thật là rõ ràng, người ta sẽ đi theo sự đơn giản và chân thật đó, cho nên nhà tư tưởng nặc danh của thế hệ vĩ nhân vô tích sự, nhỏ mọn và kiêu kì mới phải dùng tất cả thuật hùng biện để kéo người ta tránh xa nó[10].
Ai không dám mạo hiểm – xin hãy để cho chúng tôi ở yên trong đống bùn nhơ, hèn mạt của mình, xin đừng bắt chúng tôi phải nghe những luận thuyết, những lời tố cáo và những chỉ dẫn thông thái của quí vị về cội nguồn của những tệ đoan của nước Nga.
6.
Giới kĩ giả trung tâm quan niệm về vị trí của mình ở trong nước, quan hệ của mình với nhân dân như thế nào? Sẽ lầm to nếu cho rằng nó đã sám hối về vai trò đày tớ của mình. Ngay cả Pomerants, người đại diện cho giới kĩ giả thuộc ngành nhân văn, không nằm trong bộ máy, không giữ vị trí lãnh đạo, không phải đảng viên, ở ngay thủ đô mà vẫn không quên ca ngợi “cuộc cách mạng văn hoá của Lenin” (đập tan các hình thức sản xuất cổ lỗ, cực kí quí giá!), bảo vệ hình thức cai trị trong những năm 1917-1922 (“chuyên chính tạm thời trong khuôn khổ dân chủ”). Và: “Tiểu tư sản dĩ nhiên xứng đáng bị những người cách mạng vừa chiến thắng đối xử một cách tàn bạo”. Thái độ nô lệ đó của ông ta chứ không phải là của chúng ta!... Giới kĩ giả trung tâm hành xử có gì xứng đáng hơn những người được gọi là “tiểu tư sản”? Cả những người ca ngợi giới kĩ giả lẫn những người phê phán nó đều không hề nghĩ đến những tội lỗi, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, trước nhân dân, cái tội lỗi mà giới
trí thức trước cách mạng từng thường xuyên dằn vặt. Lúc đó mọi người đều có chung ý kiến, còn Altayev thì viết: “Đáng lẽ ra nhân dân phải cảm thấy có lỗi đối với tầng lớp trí thức”.
Trong quan hệ với nhân dân, giới kĩ giả trung tâm luôn luôn đưa ra những kết luận có lợi cho mình. Pomerants viết: “Trí thức là hiện thân của các lực lượng xã hội, cả tiến bộ lẫn phản động. Đối lập với trí thức, toàn thể dân chúng hợp lại thành một đám đông phản động”. “Đây là một phần của tầng lớp có học của xã hội, trong đó diễn ra sự phát triển về mặt tinh thần, diễn ra sự phá vỡ của những giá trị cũ và xuất hiện những giá trị mới, thực hiện từng bước sự tiến hoá từ súc vật thành Chúa trời… Giới trí thức là cái mà giới trí thức tìm trong quần chúng, trong giai cấp vô sản, v.v…, là chất men thúc đẩy lịch sử”. Hơn nữa: “Tình yêu đối với nhân dân còn nguy hiểm hơn (tình yêu đối với súc vật); không có giới hạn nào cản trở người ta trở thành loài bốn chân hết”. Vâng, đơn giản là: “Ở đây… đang hình thành trụ cột mới của nhân dân”, “một cái gì đó mới sẽ thay thế cho nhân dân”, “những người lao động trí óc đầy sáng tạo sẽ trở thành nhân dân của thế kỉ XX”!
Gorky (một bí danh nữa, Tờ tin, số 97) cũng viết hệt như Telegin: “Con đường dẫn đến những giá trị cao cả không liên can gì đến sự hợp nhất với nhân dân”. Ngược 180 độ so với những suy nghĩ của những bậc tiền bối trí thức dốt nát của họ.
Xin chuyển sang lĩnh vực tôn giáo. Pomerants: “Nông dân không phải là những người lí tưởng trong tôn giáo” vì họ không đạt được đỉnh cao triết học: “các vị có thể gọi đấy là Chúa Trời, là Tuyệt đối, là Chân Không… tôi không gắn bó với bất cứ từ nào”, chỉ đơn giản là lòng trung thành với tín ngưỡng, với tín điều và thậm chí nghi thức, nông dân không phải là người lí tưởng trong tín ngưỡng “cũng như trong ngành nông học”. (Theo nông học của nông dân thì chúng ta có cả bánh mì lẫn những mảnh đất màu mỡ, còn theo khoa học thì đất bạc màu đến nơi.) Nhưng “các nhà trí thức hiện nay đang tìm Chúa. Tôn giáo không còn là biểu tượng của quần chúng nữa. Nó đã trở thành biểu tượng của giới tinh hoa”. Gorky cũng viết như thế: “Lẫn lộn giữa việc trở lại với nhà thờ và thâm nhập vào quần chúng là một thành kiến nguy hiểm”.
Một người thì viết cho samizdat ở Moskva, người khác thì viết cho tờ tạp chí ở tận Paris, có lẽ là họ không quen nhau, thế mà có sự thống nhất đến kinh ngạc, cái kim cũng không thể lọt được! Nghĩa là đây không phải là chuyện bịa đặt của một hai người mà là cả một xu hướng.
Chúng ta khuyến nghị cho nhân dân điều gì? Chẳng có gì hết. Chẳng có nhân dân nào hết, tất cả bọn họ đều thống nhất như thế: “Nền văn hoá, giống như một con rắn, đơn giản là nó lột da, còn nhân dân thì nằm đó, chết, rồi hoá thành tro bụi”. “Đạo đức cũ, đối với nhân loại, đã là quá khứ xa xôi rồi.” “Chúng ta bị nhân dân bao vây. Nông dân trong các nước phát triển còn rất ít, không thể bao vây được chúng ta”, “các dân tộc có nhiều nông dân là các dân tộc đói khổ, các dân tộc không còn nông dân là các dân tộc không còn bị đói”. (Đấy là khi chúng ta còn chưa rơi vào tình trạng bế tắc của công nghệ.)
Nếu các nhà tư tưởng của giới kĩ giả cho là nhân dân đang ở tình trạng như thế vậy thì số phận các dân tộc sẽ như thế nào? Cả những điều này cũng được cân nhắc kĩ. Pomerants: “Các dân tộc và những nền văn hoá khu vực sẽ biến mất dần.” Còn “người trí thức thì bao giờ cũng ở giữa đường… Về mặt tinh thần, tất cả các trí thức hiện đại đều là dân ngụ cư cả[11]. Ở đâu chúng ta cũng không phải là người xa lạ. Nhưng cũng không hoàn toàn là người của mình.”
Tất cả thế hệ chúng ta đều được giáo dục theo tinh thần quốc tế-thế giới chủ nghĩa như thế cả. Quả thật (nếu bỏ qua, nếu có thể bỏ qua chính sách dân tộc trong những năm 1920) nó đẹp và cao thượng, có thể một lúc nào đó nhân loại sẵn sàng vươn lên tầm cao đó. Quan điểm đó đã chi phối được một phần xã hội phương Tây rồi. Ở Tây Đức nó làm cho người ta không còn quá bận tâm đến việc thống nhất nước Đức nữa, không có nhu cầu bí hiểm nào trong việc thống nhất nước Đức hết, họ nói như thế. Ở Anh, tuy người ta vẫn còn bám một vào Khối Liên hiệp Anh huyền thoại, nhưng chỉ cần một sự bất bình nho nhỏ của xã hội chống lại bất kì biểu hiện phân biệt chủng tộc nhỏ nhất nào là đất nước đã tràn ngập người châu Á và người vùng caribbean rồi, người ta chẳng còn quan tâm gì tới đất nước, văn hoá và truyền thống Anh nữa, chỉ còn tìm cách có một tiêu chuẩn sống cao là đủ. Có hẳn là tốt hay không? Chúng ta, ở xa, chẳng có quyền phán xét. Nhưng thế kỉ của chúng ta,
mặc cho những lời kết án, lên án, khẩn cầu, hoá ra ở đâu cũng cứ là thế kỉ của sự hồi sinh, của tự nhận thức và hợp quần của các dân tộc. Sự hồi sinh và củng cố một cách thần kì của nhà nước Israel, sau hai ngàn năm li tán, chỉ là một trong hàng loạt thí dụ rõ ràng nhất.
Các tác giả của chúng ta lẽ ra phải biết chuyện này, nhưng khi nói về nước Nga thì họ lại lờ đi. Gorky phản đối gay gắt “chủ nghĩa yêu nước thiếu ý thức”, phản đối “việc lệ thuộc bản năng vào môi trường quen thuộc của tự nhiên và chủng loài”, ông cấm chúng ta yêu một cách vô lí, theo bản năng cái đất nước nơi ta sinh ra và đòi mỗi người phải tự nâng mình lên đến “hành động tự quyết về mặt tinh thần” rồi sau đó mới lựa chọn cho mình tổ quốc. Ông cho rằng cả tiếng mẹ đẻ (kém ngay cả một lí thuyết gia như là… Stalin) lẫn cảm thọ về lịch sử đất nước không phải là những biểu trưng liên kết dân tộc. Kẻ giả mạo coi “sự đồng nhất về sắc tộc và lãnh thổ” là những biểu trưng phụ và coi sự thống nhất dân tộc là ở tôn giáo (đúng, nhưng tôn giáo có thể rộng hơn dân tộc) và “văn hoá” tuy vẫn không xác định là văn hoá nào (có phải là cái văn hoá “trườn như rắn” của Pomerants không?). Ông ta khăng khăng cho rằng việc tồn tại của các dân tộc là trái với tinh thần của Chúa Ba Ngôi (Còn chúng ta lại nghĩ rằng cho các thánh tông đồ nói bằng những ngôn ngữ khác nhau là Thượng đế đã công nhận tính đa dạng của nhân loại và tính đa dạng đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay). Ông ta run rẩy van vỉ rằng đối với nước Nga “ý tưởng sáng tạo chính” không thể là “sự phục hưng dân tộc” (ông ta để trong ngoặc kép, còn chúng ta thì bị cấm sử dụng khái niệm ngu xuẩn đó), mà là “cuộc đấu tranh giành Tự Do và các giá trị tinh thần”. Còn chúng ta thì vì ngu dốt cho nên không hiểu được mâu thuẫn ở đây: làm sao mà cái nước Nga đã bị đày đoạ về mặt tinh thần như thế, không thông qua việc hồi sinh dân tộc thì làm sao có thể lấy lại được các giá trị tinh thần? Cho đến nay toàn bộ lịch sử loài người đều diễn ra dưới hình thức lịch sử các bộ lạc hay các dân tộc, và bất kì phong trào mang tính lịch sử lớn nào cũng đều bắt đầu trong khuôn khổ của các dân tộc chứ chưa có phong trào nào bắt đầu bằng tiếng Esperanto[12] hết. Dân tộc cũng như gia đình là liên kết tự nhiên của con người với mối thiện cảm hỗ tương bẩm sinh của các thành viên, hiện nay chẳng có cơ sở gì để lên án hoặc đòi xoá bỏ nó. Còn trong tương lai xa, chúng ta sẽ chẳng thể nào biết được.
Dĩ nhiên là Pomerants cũng rút ra kết luận như thế. Ông ta bảo rằng “… Đấu tranh với các thể chế của quốc gia mà lại đứng hoàn toàn trên lập trường quốc gia thì chẳng khác nào nắm tóc mình mà lôi lên vậy”. Một lần nữa vì ngu dốt mà chúng ta không hiểu: phải đứng trên lập trường nào thì mới đấu tranh chống lại được những tệ nạn quốc gia? - Từ lập trường quốc tế ư? Mạng sườn và gáy của chúng ta đã trải qua thử thách của cuộc đấu tranh bằng báng súng của người Latvia hay súng lục của người Hungaria rồi, xin cám ơn! Cần phải tự mình sửa chữa chứ đừng nên kêu người khác đến sửa giùm.
Có người sẽ nói: tại sao tôi lại vặn vẹo hai ông Pomerants và Gorky, đúng ra là một rưỡi (nặc danh chỉ tính một nửa), cùng với Altayev là hai và Telegin là hai rưỡi, làm gì?
Vì đấy là một xu hướng, tất cả các lí thuyết gia, rõ ràng là sẽ còn xuất hiện dài dài. Để cho chắc ăn chúng ta cho hẳn một nhát như thế. Mùa hè năm 1972 vì thiếu trách nhiệm mà mấy cánh rừng Nga bị cháy thành tro (chúng ta còn phải lo công việc ở Cận Đông và Mĩ Latinh cơ) – anh chàng vô thần vui tính Semyon Telegin đã tung ra một tờ truyền đơn samizdat, nơi, lần đầu tiên anh ta cho thấy tầm vóc cực kì to lớn của mình và chỉ rõ: đấy là trời phạt nước Nga vì những hành động tàn ác! Thật tức cười vỡ bụng mất thôi.
Giới kĩ giả trung tâm quan niệm vấn đề dân tộc như thế nào? Để hiểu điều đó xin hãy dạo qua một số gia đình kĩ giả có nuôi những giống chó kiểng và hỏi xem họ đặt tên chó như thế nào. Bạn sẽ thấy: Phoma, Potap, Makar, Timophei[13] … Thế mà không ai cảm thấy ngứa tai, không ai cảm thấy xấu hổ gì cả. Vì người nhà quê chỉ còn trong “tuồng chèo”[14], nhân dân không còn thì tại sao lại không lấy tên nông dân, tên theo Thiên chúa giáo mà đặt cho chó?
Ôi làm sao có thể đi theo con con đường núi chênh vênh đó mà lại không làm người thân giận hờn, không trút tội lỗi của mình lên người khác đây?...
Tuy nhiên bức hoạ về nhân dân của Pomerants nói chung là đúng. Chúng ta làm ông thất vọng bao nhiêu khi nói rằng ở nước ta trí thức đã không còn, đã tan vào trong đám kĩ giả thì ông cũng làm chúng ta đau khổ bấy nhiêu khi
khẳng định rằng nhân dân cũng không còn.
“Nhân dân không còn. Chỉ có một đám đông, còn nhớ một cách mù mờ rằng đã có thời họ là nhân dân và mang trong mình Thượng đế, còn bây giờ chỉ là một đám đông rỗng tuếch.” “Nhân dân theo nghĩa là nhân dân - người mang theo linh hồn Thượng đế, cội nguồn của những giá trị tinh thần đã không còn. Chỉ còn lại một lũ trí thức thần kinh – đông lắm.” “Nông trang viên đang hát những bài nào? Một vài tàn tích của di sản” vẫn được nhồi nhét “trong trường học, trong quân đội và trên sóng phát thanh”. “Nhân dân đang ở đâu? Nhân dân chính hiệu, nhân dân đang nhảy những vũ điệu truyền thống, đang kể những câu chuyện cổ tích, đang thêu thùa? Ở nước ta chỉ còn những vết tích của nhân dân, hệt như vết tích của tuyết giữa mùa xuân vậy… Nhân dân, như là sức mạnh của lịch sử, xương sống của nền văn hoá, nguồn động viên của Pushkin và Goethe đã không còn”. “Cái mà người ta thường gọi là nhân dân hoàn toàn không phải là nhân dân mà là tiểu thị dân.”
Đen tối và đáng buồn thật.
Nhân dân làm sao mà còn cho được? Có hai quá trình chồng chất lên nhau, đuổi theo nhau về cùng một hướng. Một quá trình chung (nhưng ở Nga nó còn bị ngăn chặn trong một thời gian dài và chúng ta có thể bỏ qua), gọi là đại chúng hoá (cái tên thật kinh tởm, nhưng quá trình cũng chẳng hơn gì), liên quan đến nền công nghệ mới ở phương Tây, với sự phát triển nhanh chóng của các thành phố, các phương tiện thông tin và giáo dục được tiêu chuẩn hoá, chung cho tất cả mọi người. Quá trình thứ hai, là đặc thù của chúng ta, nhằm xoá bỏ khuôn mặt có từ lâu đời của nước Nga và bôi lên đó một khuôn mặt nhân tạo khác, quá trình này hoạt động còn quyết liệt hơn, khả năng đảo ngược còn khó khăn hơn.
Nhân dân làm sao mà còn cho được? Người ta đã bắt đem vứt tượng đi, bắt không được vâng lời người lớn nữa, cả lò nướng bánh mì lẫn xa kéo sợi cũng bị vứt nốt. Sau đó là hàng triệu ngôi nhà đầy đủ tiện nghi bị bỏ hoang, tàn tạ hoặc là giao cho những người chẳng ra gì trông coi, và cuối cùng là 5 triệu gia đình khoẻ mạnh, cần cù lao động, có cả trẻ con còn ẵm ngửa đã bị đưa đi và chết hoặc là trên đường trường mùa đông hay sau khi đã đến vùng đầm lầy ở Sibiria. (Giới trí thức của chúng ta không giật mình, không thét lên, thậm
chí thành phần tiên phong của nó cũng tham gia xua đuổi nữa. Đấy là lúc nó không còn là trí thức nữa, nhân dân có phải xin lỗi nó vì giây phút đó hay không?). Làm cho những ngôi nhà khác và các gia đình khác phá sản là việc dễ dàng hơn nhiều. Người ta đã tịch thu ruộng đất, cái phần ruộng đất đã làm cho nông dân là nông dân ấy, biến đất đai thành ra vô chủ, một điều chưa từng có, kể cả trong chế độ nông nô, làm cho tất cả mọi người đều trở thành một lũ “mackenô[15] ” hết, một số người thì bị đẩy tới những khu Magnitogorsk[16], một số khác - đấy là cả một thế hệ những người đàn bà Nga đã chết như thế, bị buộc phải nuôi bộ máy nhà nước cho đến thời kì chiến tranh, rồi cuộc chiến tranh vĩ đại của bộ máy đó và cả sau chiến tranh nữa. Tất cả những chiến thắng trên trường quốc tế của nước ta và sự phát đạt của hàng ngàn viện nghiên cứu là kết quả của sự tàn phá nông thôn Nga, tàn phá phong tục của nước Nga. Người ta đã kéo vào những căn nhà ở nông thôn và những cái hộp quái gở ở ngoại ô thành phố những cái loa truyền thanh, khủng khiếp nhất là họ còn lắp chúng trên tất cả các cột điện ở những nơi công cộng nữa (hôm nay trên khắp nước Nga cái dấu hiệu tuyệt đỉnh của văn hoá đó vẫn còn ra rả nói từ sáu giờ sáng đến tận mười hai giờ đêm, bịt miệng nó thì sẽ bị kết tội chống chính quyền Xô-viết ngay lập tức). Chính những chiếc loa phóng thanh đó đã hoàn thành công việc: chúng đã đánh bật khỏi đầu óc người ta tất cả những dấu ấn cá nhân và tính dân gian, nhồi nhét vào đầu người ta những điều rập khuôn, chà đạp và làm bẩn tiếng Nga, ông ổng tru lên những bài hát trống rỗng và nhạt thếch (cũng do trí thức viết). Người ta đã phá đến những ngôi nhà thờ cuối cùng ở nông thôn, giày xéo và vấy bẩn lên các nghĩa trang, tịch thu ngựa, rồi đem máy kéo và xe năm tấn phá nát những con đường đã có hàng thế kỉ, rất phù hợp với phong cảnh chung. Ai và còn chỗ nào để có thể nhảy múa, thêu thùa?… Thanh niên nông thôn được giải trí bằng những bộ phim ngu ngốc (trí thức: “cần phải sản xuất nhiều phim bộ vào”), những điều ngu ngốc đó cũng được tống vào sách giáo khoa trong nhà trường và những quyển sách viết cho những người lớn hơn (bạn có biết ai viết không?) - để cho chồi non không thể nào mọc lại trên khu vực rừng vừa bị phá. Người ta đã dùng xe tăng là phẳng trí nhớ của nhân dân, thế thì nhân dân làm sao mà còn cho được?
Chúng ta đang ngồi nghiên cứu trên cái đống tro tàn đó.
[1]George Orwell (1903-1950) tên thật là Eric Arthur Blair — nhà văn nổi tiếng người Anh, các tác phẩm chính: 1984, Trại súc vật, Tưởng niệm Catalonia… - ND
[2]Dịch thoát ý từ корочка, nghĩa là vỏ bánh mì - ND
[3]A. D. Sakharov (1921 – 1989), nhà vật lí học và hoạt động xã hội nổi tiếng. Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, cha đẻ của quả bom khinh khí đầu tiên của Liên Xô, được tặng rất nhiều huân huy chương của nhà nước Liên Xô, nhưng về sau trở thành nhà hoạt động đối kháng. Năm 1975 được tặng Huân chương Hoà bình Nobel, năm 1980 bị bắt đi đày ở Gorki, trở lại Moskva vào năm 19875, trở thành đại biểu Xô-viết Tối cao Liên Xô vào năm 1989 và mất trong cùng năm đó.
[4]D.D. Shostakovich (1906-1975), nhạc sĩ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô.
[5]Lidia Zhukovskaya (1907-1996), nhà văn, nhà thơ và nhà báo đối kháng nổi tiếng của Liên Xô.
[6]Theo khẳng định của K. Liubarsky (tờ Tin Moskva, 1990, số 39) thì tác giả 3 bài báo là Herzen Kopylov (chú thích của biên tập viên bản tiếng Nga). [7]Alexander Dubček (1921-1992) là nhà hoạt động nhà nước và xã hội nổi tiếng của Tiệp Khắc, giữ chức Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ tháng 1 năm 1968 đến tháng 4 năm 1969, người khởi xướng chủ yếu công cuộc cải cách được gọi là Mùa xuân Praha.
[8]Bệnh viện tâm thần, nổi tiếng trong việc dùng các biện pháp y khoa nhằm đàn áp những người chống đối chế độ.
[9]“Không có chúng tôi!” - tiếng Đức.
[10]Sau này Telegin đã thay đoạn cuối như sau: “những bước đầu tiên - tẩy chay không tham gia, coi thường”. Coi thường cũng chỉ là chửi thầm, còn không tham gia là không tham gia ở đâu?
[11]Dịch thoát ý từ Diaspora (Дипспор) có nghĩa là khối người Do Thái giữa những cộng đồng không Do Thái, sau khi họ phải lưu vong năm 538 trước Công nguyên.
[12]Esperanto, ngôn ngữ quốc tế nhân tạo do một bác sĩ người Ba Lan, tên là L. L. Samenhof nghĩ ra vào năm 1908.
[13]Đây là tên con trai thường gặp ở vùng nông thôn Nga.
[14]Dịch thoát ý từ opera.
[15]Dịch thoát ý, nguyên văn: làm cho tất cả mọi người đều không quan tâm đến gì hết.
[16]Trung tâm công nghiệp ở vùng Siberia
Nguồn: Nowy Mir (Thế giới Mới), 1991, số 5, trang 28-46
7.
Nhân dân không còn à? Thế thì đúng: sự phục hưng dân tộc sẽ không thể nào xảy ra ư?... Sao lại khùng như thế! - Đúng vào lúc đã có những tín hiệu: từ sự phá sản của tiến bộ kĩ thuật, theo nghĩa là quay về với nền kinh tế ổn định thì khắp nơi đều sẽ diễn ra quá trình khôi phục mối liên hệ ban đầu của đa số dân chúng với ruộng đất, với những tư liệu và dụng cụ đơn giản nhất và với lao động chân tay (hiện những người dân thành phố quá dư thừa đang tự đi tìm cách sống như thế). Nhất định trong tất cả các nước, kể cả các nước phát triển, di sản của tầng lớp nông dân, giai cấp nông dân và thợ thủ công (dĩ nhiên là với kĩ thuật mới nhưng phân tán) sẽ được phục hồi. Chẳng lẽ người nông dân chỉ còn trong “tuồng chèo” của chúng ta lại không trở về hay sao?
Nhưng trí thức cũng không còn ư? Giới kĩ giả là cái cây khô, không thể nào phát triển được nữa.
Tất cả các giai cấp đều bị đánh tráo, thế thì làm sao mà phát triển cho được.
Nhưng vẫn phải còn ai chứ? Làm sao cấm được tương lai của con người? Chẳng lẽ người dân không thể sống tiếp hay sao? Chúng ta vẫn nghe thấy giọng nói mệt mỏi nhưng ấm áp của họ, đôi khi không nhìn rõ mặt, chỉ đi ngang qua trong ánh sáng lờ mờ, chúng ta nghe thấy những lo lắng tự nhiên của họ được thể hiện bằng giọng nói Nga, đôi khi rất sống động, chúng ta trông thấy những khuôn mặt và nụ cười hồn nhiên của họ, nhận được từ họ những cử chỉ thân thiện, đôi khi là bất ngờ đối với chúng ta, chúng ta quan sát các gia đình đầy lòng hi sinh, sẵn sàng chịu đựng tất cả thiệt thòi miễn là giữ được cái tâm – làm sao có thể cấm những người đó không được có tương
lai?
Nhân dân không còn là một kết luận vội vàng. Vâng, làng quê đã chạy tứ tán hết rồi, số còn lại cũng chẳng còn mấy sức sống, còn trong các khu ngoại ô thì chỉ có tiếng đập của quân bài domino (thành tích của xoá nạn mù chữ) và tiếng chai vỡ, không thấy quần áo, cũng chẳng có vũ hội, ngôn ngữ thì méo mó, các suy nghĩ và cố gắng còn biến dạng và đi theo hướng sai lầm hơn nữa, nhưng ngay cả tiếng chai vỡ hay những đống giấy tờ bị gió cuốn khắp các khu phố cũng không làm người ta tuyệt vọng bằng thói đạo đức giả trong khi thừa hành công vụ của lũ kĩ giả kia. Vì đa số quần chúng không tham gia vào công việc dối trá của nhà nước và hôm nay đấy chính là chỉ dấu cho phép hi vọng rằng nhân dân chưa hoàn toàn quên Chúa, như người ta vẫn chê trách. Nói cách khác, trong trái tim nhân dân vẫn còn những chỗ chưa bị đốt cháy, chưa bị xéo nát hoàn toàn.
Trí thức không còn cũng là một kết luận vội vàng. Mỗi người chúng ta đều biết ít nhất là một vài người vẫn đứng cao hơn cái sự giả trá này, vẫn đứng cao hơn cảnh lăng xăng của giới kĩ giả kia. Tôi hoàn toàn đồng cảm với tất cả những người muốn thấy, muốn tin rằng họ đã thấy hạt nhân trí thức nào đó, đấy chính là hi vọng của chúng ta vào sự hồi sinh về mặt tinh thần. Chỉ có điều tôi nhận thấy và giới hạn cái hạt nhân này theo những dấu hiệu khác: không dựa vào chức danh khoa học, không dựa vào số đầu sách đã xuất bản, không dựa vào trình độ học vấn “của những người quen và thích suy nghĩ chứ không phải là cày ruộng”, không dựa vào tính khoa học của phương pháp luận dễ dàng tạo ra “tiểu văn hoá ngành”, không dựa vào sự vong thân khỏi nhà nước và nhân dân, không dựa vào “dân ngụ cư[1] ” (“ở đâu cũng là người xa lạ cả”). Mà dựa vào sự trong sáng của hoài bão, tinh thần hi sinh nhân danh chân lí, mà trước hết là vì cái đất nước nơi người đó đang sống. Cái hạt nhân được giáo dục không chỉ trong các thư viện mà còn trong các thử thách về mặt tinh thần nữa. Không phải cái hạt nhân muốn được coi là hạt nhân mà không dám hi sinh những tiện nghi của đời sống của tầng lớp kĩ giả trung tâm. Năm 1887 Dostoevski ước mong nước Nga có “một lớp thanh niên khiêm nhường và dũng cảm”. Nhưng lúc đó đã xuất hiện Lũ người quỉ ám [2] và chúng ta đã thấy mình đi đến đâu. Nhưng tôi xin làm chứng rằng trong những năm gần đây tôi đã được thấy bằng mắt của mình, đã được nghe
bằng tai của mình cái tầng lớp thanh niên khiêm nhường và dũng cảm đó – nó, giống như một màng mỏng vô hình đã giữ cho tôi đứng giữa không trung mà không ngã. Không phải tất cả bọn họ hôm nay đều được sống ngoài tự do, không phải tất cả đều giữ được tự do vào ngày mai. Và cũng không phải mắt và tai ta có thể thấy được tất cả: như những mạch nước ngầm mùa xuân, từ bên dưới lớp tuyết dày, xám xịt, chúng sẽ phun ra ở đâu đó.
Đây là sai lầm của phương pháp: tiến hành thảo luận trong các “tầng lớp xã hội”, không thể khác được. Trong các tầng lớp xã hội thì không có hi vọng. Trí thức-kĩ giả như một tầng lớp xã hội đã kết thúc sự phát triển của mình trong một khu đầm lầy ấm áp và không thể nào cất mình lên được. Nhưng trước đây, ngay cả trong những giai đoạn tuyệt vời nhất, tầng lớp trí thức cũng không đúng: gọi là trí thức cả gia đình, cả dòng họ, cả nhóm, cả những tầng lớp xã hội. Người ta có thể coi cả gia đình, cả dòng họ, cả nhóm, cả tầng lớp là trí thức, thế mà theo ý nghĩa của từ thì từng cá nhân một phải trở thành và được coi là trí thức. Còn nếu đấy là một giai tầng thì chỉ có ý nghĩa tâm lí chứ không phải ý nghĩa xã hội và việc ra hoặc vào luôn luôn phụ thuộc vào hành vi của cá nhân chứ không phụ thuộc công việc hay địa vị xã hội của người đó.
Các giai tầng, nhân dân, quần chúng và tầng lớp kĩ giả cũng đều là những con người mà ra, mà đã là con người thì bao giờ cũng có tương lai: con người tự quyết định tương lai của mình và ở bất kì điểm nào của đường cong đang đi xuống cũng đều có thể quay trở về con đường hướng thiện, con đường tốt đẹp hơn.
Tương lai là bất diệt, tương lai nằm trong tay chúng ta. Nếu chúng ta biết lựa chọn đúng.
Trong các tác phẩm của Pomerants, giữa rất nhiều phát biểu mâu thuẫn nhau vẫn xuất hiện đó đây những ý kiến đúng đắn đến không ngờ, và nếu gom góp chúng lại thì ta sẽ thấy rằng từ các hướng khác nhau vẫn có thể đi đến giải pháp tương tự nhau. “Quần chúng hiện nay đang ở trong trạng thái vô định hình, giữa hai cấu trúc tinh thể… Nếu có một cái lõi, một cái cành, dù là yếu ớt, thì nó sẽ kết tinh và xung quanh cái lõi đó sẽ hình thành các tinh thể”. Không thể nào cãi được.
Nhưng vì quá trung thành với lí tưởng của tầng lớp trí thức nên Pomerants cho trí thức nắm độc quyền vai trò của cái lõi nói trên. Vì samizdat khó tìm nên cần phải trích dẫn một đoạn dài: “Quần chúng chỉ có thể kết tinh xung quanh tầng lớp trí thức”. “Tôi đặt hi vọng vào tầng trí thức không phải vì nó tốt… Bản thân sự phát triển trí óc chỉ làm gia tăng khả năng làm điều ác mà thôi… Nhóm người mà tôi chọn vốn chẳng ra gì, tôi biết như thế… nhưng những nhóm khác còn xấu xa hơn”. Đúng là “muốn làm cho đất mặn thì phải trở thành muối đã”, nhưng tầng lớp trí thức đã không còn là muối nữa. Ôi, “nếu bạn có đủ bản lĩnh để trả lại tất cả những vòng nguyệt quế, tất cả bằng cấp và chức danh… không phản bội, không ta thán… Coi trọng lương tâm trong sạch hơn là cổng vào sạch, sẵn sàng rau cháo qua ngày[3] ”. Nhưng: “Tôi tin rằng tầng lớp trí thức sẽ chuyển biến và sẽ kéo những người khác theo mình”…
Ở đây rõ ràng là Pomerants coi tầng lớp trí thức là những người phát triển về mặt trí tuệ, ông chỉ mong họ có thêm phẩm chất đạo đức nữa mà thôi.
Có phải cái ý tưởng cho rằng giới trí thức phủ nhận đạo đức tôn giáo để chuyển sang chủ nghĩa nhân đạo vô thần, cái chủ nghĩa sẵn sàng biện hộ cho những toà án cách mạng được dựng lên một cách vội vàng và những vụ hành quyết dưới tầng hầm của Uỷ ban Khẩn cấp mà không cần bất kì toà án nào chính là nguyên nhân của những mất mát trong quá khứ hay không? Có phải ý tưởng cho rằng “hạt nhân của giới trí thức” đang tìm cách quay trở về với đạo đức tôn giáo là nền tảng cho sự hồi sinh của nó trong những năm 1910 đã làm cho súng liên thanh nổ không? Cái hạt nhân mà hôm nay dường như chúng ta đã nhận ra có quay trở lại trên con đường đã bị cách mạng cắt đứt hay không, về thực chất nó có phải là “hậu thân của Những cột mốc” hay không? Nó có coi học thuyết mang tính đạo lí về cá nhân là chìa khoá đối với các vấn đề xã hội hay không? Berdaiev khát khao cái hạt nhân như thế: “Giới trí thức tôn giáo, kết hợp Thiên chúa giáo chân chính với sự hiểu biết mang tính khai minh và rõ ràng về những nhiệm vụ văn hoá và lịch sử của đất nước”. Còn I. S. Bulgakov thì: “Giai cấp có học với tâm hồn Nga và đầu óc sáng láng, lí trí cứng rắn”.
Cái hạt nhân này không những chưa được nén chặt như một hạt nhân, nó còn tản mát, chưa tập hợp được, chưa nhận ra nhau: nhiều người chưa nhìn thấy những thành tố của nó, không biết và không nhận ra nhau. Gắn bó họ không phải là tính trí thức mà chính là khát khao sự thật, khát khao được thanh tẩy về mặt tâm hồn và mỗi người sẽ mang theo bên mình cái không gian đã được tẩy uế đó. Vì vậy mà “những người mù chữ theo đạo” hay một cô nông trang viên mà chúng ta hoàn toàn không biết cũng có thể là thành viên của cái hạt nhân hướng thiện, được liên kết bằng ước muốn hướng tới một cuộc đời trong sạch. Còn một vị viện sĩ hay nghệ sĩ tham lam và thận trọng thì lại đi theo hướng ngược lại, quay về với đêm trường quen thuộc của nửa thế kỉ qua.
“Cái lõi-cành” ấy phải cần bao nhiêu người thì mới đủ sức “kết tinh” được cả một dân tộc? Phải có hàng chục ngàn người. Một lần nữa đấy chỉ là tầng lớp mang tính tiềm năng, nó không thể tuôn trào như một làn sóng không có cản ngại. Không thể tạo ra “xương sống của nhân dân” trong những ngày nghỉ cuối tuần, trong khi vui đùa một cách an toàn và vui vẻ, không cần rời bỏ viện nghiên cứu như người ta vẫn hứa đâu. Không, đó là việc phải làm hàng ngày, trên hướng chính của đời sống của bạn, ở những chỗ nguy hiểm nhất và từng người, trong cảnh cô đơn có thể làm tê tái tâm hồn.
Cái xã hội xấu xa, nhơ bẩn, đã tham gia vào từng ấy tội ác trong suốt nửa thế kỉ qua - bằng dối trá, bằng thái độ tôi đòi hớn hở hay bị bắt ép, bằng cách giúp đỡ nhiệt tình hay thái độ không tự nhiên đê hèn - xã hội như thế không thể phục hồi, không thể thanh tẩy nếu không đi qua bộ lọc tâm hồn. Mà đây là một bộ lọc kinh khủng, cho riêng từng người, một bộ lọc nhỏ, có những cái lỗ - cho từng người một. Đường tới thế giới tinh thần tương lai chỉ mở cho từng người một, phải ép thật mạnh mới qua được.
Bằng sự hi sinh tự nguyện, có ý thức.
Thời buổi đổi thay – qui mô cũng thay đổi theo. Một trăm năm trước người trí thức Nga coi án tử hình là sự hi sinh. Ngày nay chỉ cần có nguy cơ bị khiển trách đã là hi sinh rồi. Đối với những tính cách thấp kém và hoảng loạn thì thử thách như thế cũng chẳng khác gì lên đoạn đầu đài.
Ngay cả trong những điều kiện thuận lợi nhất (đồng loạt hi sinh của rất nhiều người) thì cũng phải chấp nhận mất mát, không chỉ món trứng cá hồi như Pomerants cảnh báo, mà còn mất cả cam, cả món bơ mà trong các trung tâm nghiên cứu thường có bán nữa. Những kẻ phê bình độc mồm độc miệng tỏ ra hân hoan khi trong Tầng đầu địa ngụctôi đã phơi bày ra “sự thấp kém của tình yêu trong nhân dân” bằng câu tục ngữ “Muốn ăn canh bắp cải thì lấy vợ, muốn ăn thịt thì lấy chồng”, còn chúng tôi, họ nói, chúng tôi yêu nhau và cưới nhau chẳng khác gì Romeo! Nhưng tục ngữ Nga thì nhiều, đủ cho mọi tình huống và mọi hoàn cảnh. Có câu tục ngữ thế này:
“Cơm tẻ là mẹ ruột”[4].
Chúng ta phải thể hiện tình yêu của mình với đất nước này, với những hàng bạch dương của nó khi chấp nhận ăn món ăn như thế. Chỉ yêu bằng mắt không thôi thì chưa đủ. Cần phải chinh phục miền Đông Bắc khắc nghiệt, những đứa con kĩ giả được nuông chiều của các vị sẽ phải đi, chứ không đợi để cho bọn tiểu tư sản đi trước. Tất cả những lời khuyên của các tác giả nặc danh - hoạt động bí mật, “không được xông ra một mình”, giáo huấn và phát triển cái nền văn hoá một cách bí mật như thế hàng ngàn năm cũng chỉ là đồ bỏ mà thôi. Tình trạng lộn xộn đáng khinh hiện nay chẳng để lại một lối thoát nào, muốn đi vào tương lai chúng ta chỉ có một con đường, đấy là từng cá nhân chấp nhận hi sinh, tốt nhất là công khai (làm gương). Buộc phải “Phát hiện lại các báu vật và giá trị văn hoá” không phải bằng sự uyên bác, không phải bằng chuyên môn khoa học, mà bằng phẩm hạnh, chấp nhận hi sinh hạnh phúc và trong trường hợp cần thiết thì hi sinh cả mạng sống. Chỉ khi nhận ra rằng trình độ học vấn và số tác phẩm khoa học được công bố hoàn toàn chẳng có giá trị gì, lúc đó chúng ta sẽ ngạc nhiên cảm thấy sự có mặt bên cạnh mình “những người truyền giáo vừa mới thoát nạn mù chữ”.
Danh từ “tầng lớp trí thức” đã bị xuyên tạc và bao gồm quá nhiều người, tốt nhất nên coi nó là đã chết. Dĩ nhiên là nhất định phải thay thế tầng lớp trí thức Nga rồi, nhưng từ mới sẽ được hình thành không phải từ “hiểu, biết” mà từ một cái gì đó có tính tâm hồn. Cái thiểu số nhỏ bé ban đầu, đã được ép qua bộ lọc, sẽ tự tìm cho mình định nghĩa, ngay khi còn trong bộ lọc hay sau khi đã sang phía bên kia, khi đã nhận ra mình và nhận ra nhau. Mọi thứ sẽ được
nhận diện và liên kết trong quá trình hành động. Hay đám đông còn lại sẽ gọi họ đơn giản là chân nhân (để phân biệt với “thật nhân”)[5]. Hiện thời, sẽ không sai khi gọi họ là giới tinh hoa quên mình. Ở đây từ “tinh hoa” sẽ không làm ai ghen tị cả, không ai phàn nàn rằng tại sao không đưa họ vào: xin mời, vào đi! Tham gia đi, chui qua bộ lọc đi!
Từ những người đơn độc đi qua bộ lọc (trên đường đi có người sẽ phải hi sinh) sẽ hình thành nên cái tầng lớp tinh hoa có nhiệm vụ kết tinh toàn dân.
Cái bộ lọc này sẽ rộng hơn, dễ dàng hơn cho mỗi người đến sau và càng ngày càng có nhiều người đi qua được nó và ở phía bên kia, từ những người đơn độc xứng đáng sẽ hình thành, sẽ tạo ra một nhân dân xứng đáng (tôi đã trình bày cách hiểu về nhân dân của mình rồi). Để từ đó xây dựng nên một xã hội mà đặc trưng đầu tiên của nó không phải là hệ số sản xuất hàng hoá, không phải là mức độ giàu có mà là sự trong sáng của các mối quan hệ xã hội.
Tôi hoàn toàn không nhìn thấy con đường nào khác.
Chỉ còn một việc nữa, đấy là mô tả cơ cấu và hoạt động của bộ lọc.
8.
Người ngoài sẽ cười chúng ta mất thôi: một hành động rụt rè và khiêm tốn như thế cũng được coi là hi sinh. Trên khắp thế giới, sinh viên người ta chiếm trường đại học, họ ra đường biểu tình, thậm chỉ lật đổ cả chính phủ, không ở đâu có sinh viên hiền lành hơn chúng ta, chỉ cần bảo: học chính trị, không trả áo khoác là không ai dám bỏ về hết. Năm 1962 ở Novocherkassk xảy ra mấy vụ lộn xộn, kí túc xá trường Đại học Bách khoa bị khoá cửa, không có ai nhảy ra ngoài cửa sổ hết! Hay: những người dân Ấn Độ đói khát đã tự giải phóng khỏi ách nô lệ của Anh bằng cuộc đấu tranh phi bạo lực, bằng phong trào bất tuân dân sự - chúng ta không dũng cảm được như thế - cả giai cấp công nhân lẫn tầng lớp kĩ giả đều đã bị cha già-dân tộc Stalin doạ cho mất mật đến tận ba đời sau: sao lại không thực hiện chỉ đạo của chính quyền cho được? – nguy hiểm lắm đấy.
Nếu phải viết bằng chữ in hoa nội dung cuộc kiểm tra xem ai xứng đáng là người:
KHÔNG NÓI DỐI! KHÔNG THAM GIA VÀO NHỮNG VIỆC DỐI TRÁ! KHÔNG ĐỒNG LOÃ VỚI DỐI TRÁ!
thì không chỉ người Âu châu mà từ các sinh viên Ả-rập đến những người đạp xích lô Sri Lanka cũng cười cho mất thôi: người Nga chỉ bị yêu cầu ít thế thôi ư? Đây cũng gọi là dũng cảm, là hi sinh à? Chứ không phải là dấu hiệu của một người trung thực, không bịp bợm ư?
Đành để người ta cười vậy, “mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”[6], trong nhà ta ai đang ép mình qua bộ lọc thì sẽ hiểu: đây đúng là một hành động cực kì dũng cảm. Vì ở nước ta dối trá là việc thường ngày - đấy không phải là việc làm của những kẻ đồi bại mà là hình thức để tồn tại, là điều kiện để được sống yên ổn của bất kì cá nhân nào. Dối trá là cái móc quan trọng nhất của hệ thống nhà nước, hàng tỉ cái kẹp nhỏ như thế, mỗi người cũng phải mang ít nhất là vài chục cái.
Chính vì thế mà cuộc sống của chúng ta mới nặng nề đến như thế. Nhưng cũng chính vì vậy mà chúng ta phải đứng thẳng lên. Khi người ta đàn áp mà không dối trá thì phải cần những biện pháp chính trị mới giải phóng được. Nhưng khi người ta dùng móng vuốt của dối trá thì đấy không còn là chính trị nữa! Đấy là sự đột nhập vào thế giới đạo đức của con người, chỉ cần không nói dối là có thể đứng thẳng lên được liền, đấy cũng không phải là chính trị mà chỉ là sự trở về của nhân phẩm.
Thế nào gọi là hi sinh? - Từ chối thở thực sự nhiều năm liền và chỉ nuốt mỗi một mùi khai thối ư? Hay là bắt đầu thở như Thượng đế từng ban tặng cho con người? Kẻ vô liêm sỉ nào dám đứng lên công khai phản đối cách hành xử: không tham gia vào những việc dối trá?
Dĩ nhiên là có người sẽ lập tức phản đối: Thế nào là dối trá? Ai xác định một cách chính xác dối trá kết thúc ở đâu và sự thật bắt đầu từ đâu? Trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, biện chứng nào…? Bọn dối trá từng né tránh như thế suốt nửa thế kỉ qua. Câu trả lời thật là đơn giản: như anh thấy đấy, như lương tâm của anh đang nói với anh đấy. Chỉ cần như thế là đủ trong một thời gian dài nữa. Mỗi người, tuỳ thuộc vào nhãn quan, kinh nghiệm sống, trình độ học vấn, sẽ nhận chân được biên giới của sự bịp bợm của nhà nước và xã hội theo cách của mình: có người thấy nó còn xa, chưa động chạm tới mình, có người thấy nó như một sợi dây thừng đã quấn xung quanh cổ từ lâu. Thấy cái biên giới ấy ở đâu thì không khuất phục nó ngay tại đó. Hãy tránh xa cái phần dối trá mà chắc chắn là anh nhìn thấy một cách rõ ràng. Còn nếu quả thật anh không thấy dối trá ở bất kì đâu thì xin hãy tiếp tục bình thản mà sống như cũ.
Không nói dối nghĩa là thế nào? Đấy chưa có nghĩa là lớn tiếng cổ xuý cho sự thật một cách công khai (khủng khiếp lắm!). Đấy thậm chí chưa có nghĩa là nói thầm điều ta đang nghĩ. Đấy chỉ có nghĩa là không nói những điều ta không nghĩ, không nói thầm, không nói to, không giơ tay, không cúi đầu, không giả bộ cười, không có mặt, không đứng lên, không vỗ tay.
Lĩnh vực hoạt động, lĩnh vực đời sống của mỗi người khác nhau. Những người công tác trong ngành nhân văn-xã hội và những người đang đi học phải nói dối và tham gia vào những việc dối trá nhiều hơn, khó thoát hơn, dối trá tầng tầng lớp lớp vây quanh họ. Trong các ngành khoa học kĩ thuật có thể tránh một cách dễ dàng hơn, nhưng dù sao mỗi ngày cũng không thể tránh khỏi họp hành, kí tá hay làm một cái gì đó buộc ta phải chấp nhận dối trá. Dối trá bao vây chúng ta, cả lúc làm việc lẫn khi đi lại và khi nghỉ ngơi, dối trá hiện diện trong tất cả những gì ta thấy, ta nghe, ta đọc.
Có bao nhiêu hình thức dối trá thì cũng có bấy nhiêu cách phòng tránh. Những ai sẵn sàng đem trái tim mình ra thử thách và mở to đôi mắt để nhìn móng vuốt của sự dối trá người đó sẽ biết cách hành động mỗi ngày, mỗi giờ, từng lúc, từng nơi.
Jan Palach tự thiêu[7]. Đấy là một hành động hi sinh cao cả. Nếu đấy không phải là một hành động đơn độc thì nó có thể xoay chuyển cả nước Tiệp Khắc. Là một hành động đơn độc nó chỉ có thể đi vào lịch sử. Nhưng không cần
phải hi sinh nhiều đến thế, mỗi người, tôi hay bạn không cần phải làm như thế. Không cần phải đi dưới súng phun lửa đang nhắm vào những người biểu tình. Chỉ cần mỗi một việc: hít thở. Chỉ cần mỗi một việc: không nói dối.
Không có ai phải nhảy ra làm người đầu tiên vì đã có hàng trăm “người đầu tiên” rồi, chỉ vì họ quá lặng lẽ nên chúng ta không nhận ra đấy thôi. Tôi có thể nêu tên hàng chục người làm nên cái hạt nhân trí thức đó, những người ấy đã sống nhiều năm như thế rồi! Và vẫn sống! Gia đình cũng không chết. Có nhà có cửa. Và có cả cơm ăn nữa.
Vâng, khủng khiếp lắm! Bộ lọc rất tinh, lỗ rất nhỏ, nhỏ lắm, người có nhiều nhu cầu có thể chui qua cái lỗ nhỏ ấy không? Nhưng xin bật mí: chỉ lúc mới vào, chỉ lúc đầu thôi. Sau đó nó sẽ nhanh chóng đẩy anh qua, sẽ không ép chặt nữa, còn sau này thì hoàn toàn không ép gì hết. Vâng, dĩ nhiên là như thế rồi! Sẽ phải trả giá, luận án sẽ bị xé, chức danh sẽ bị tước, lương sẽ bị giảm, bị đuổi, bị khai trừ, đôi khi còn có thể bị lưu đầy nữa. Nhưng chúng sẽ không vất vào lửa đâu. Chúng sẽ không cho xe tăng nghiến lên người đâu. Sẽ vẫn có nhà và sẽ vẫn có cơm.
Đấy là con đường an toàn nhất trong tất cả những con đường khả dĩ của chúng ta, vừa sức nhất cho bất kì người bình thường nào. Nhưng lại hiệu quả nhất! Chỉ có chúng ta, những người đã hiểu rõ hệ thống của mình mới có thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra khi có hàng ngàn, hàng chục ngàn người làm như thế - mới có thể tưởng được được đất nước ta sẽ được thanh tẩy và sẽ biến đổi như thế nào mà không có cảnh đạn lạc bom rơi, không có cảnh đầu rơi máu chảy.
Nhưng đấy cũng là con đường đức hạnh nhất: chúng ta bắt đầu công cuộc giải phóng và thay tẩy từ tâm hồn mình. Trước khi trị quốc chúng ta đã tu thân rồi[8]. Đấy là trật tự lịch sử đúng đắn duy nhất vì nếu chính chúng ta vẫn là những người bẩn thỉu thì làm sạch bầu không khí xung quanh làm gì?
Có người sẽ phản đối: tội nghiệp bọn trẻ quá! Nếu trong khi thi các môn xã hội mà không nói dối thì sẽ bị điểm hai, sẽ bị đuổi học, học vấn và cuộc đời sẽ thành dở dang hết.
Trong một bài khác của tập sách này ta sẽ tiến hành thảo luận việc liệu chúng ta có hiểu đúng và có tìm được con đường tốt nhất để tiến vào khoa học hay không. Nhưng không cần như thế: mất cơ hội học tập chưa phải là mất mát quan trọng nhất của cuộc đời, còn sửa chữa được. Việc ta sẵn sàng chấp nhận những mất mát về mặt tâm hồn ngay từ khi còn trẻ mới là mất mát không thể nào sửa chữa được.
Bọn trẻ có đáng thương không? Nhưng: tương lai không thuộc về chúng thì thuộc về ai? Ai sẽ là tầng lớp tinh hoa quên mình mà chúng ta chờ đợi? Chúng ta bị cái tương lai đó đoạ đày là vì ai? Chúng ta đã già cả rồi. Nếu bọn trẻ không tự xây dựng cho mình một xã hội trung thực thì họ cũng sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy nó.
Tháng Giêng năm 1974
[1]Xem chú thích 31.
[2]Tên một tác phẩm của Dostoevski.
[3]Nguyên văn “sống bằng mẩu bánh mì trung thực mà không cần trứng cá hồi” – ND.
[4]Dịch thoát ý, nguyên văn: Bánh mì và nước lã là món tuyệt vời. [5]Tác giả chơi chữ: pravedniki (chân nhân) và pravdist (người làm cho tờ Sự thật - cơ quan ngôn luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô).
[6]Dịch thoát ý, nguyên văn: cứ để cho những cái nấm trong giỏ khác cười – ND
[7]Jan Palach, sinh viên khoa triết trường Đại học Tổng hợp Karlova, tự thiêu ngày 16 tháng Giêng năm 1969 tại Praha để phản đối sự chiếm đóng Tiệp Khắc của quân đội Liên Xô từ ngày 21 tháng 8 năm 1968, khi anh vừa tròn 20 tuổi. Cái chết bi thảm của anh đã trở thành biểu tượng của phong trào phản kháng của nhân dân Tiệp Khắc chống lại chế độ cộng sản.
[8]Dịch thoát ý, nguyên văn: trước khi làm sạch đất nước, chúng ta đã tự làm sạch mình rồi – ND.
Nguồn: Nowy Mir (Thế giới Mới), 1991, số 5, trang 28-46 Bản tiếng Việt © 2008 talawas
"""