"
Tàn Ngày Để Lại - Kazuo Ishiguro & An Lý (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tàn Ngày Để Lại - Kazuo Ishiguro & An Lý (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tàn ngày để lại
Tác giả: Kazuo Ishiguro
Dịch giả: An Lý
Thể loại: Tiểu thuyết
Số trang: 342
Kích thước: 14x20.5 cm
Loại bìa: Bìa cứng
Phát hành: Nhã Nam
Năm xuất bản: 02/2021
Stevens là một quản gia người Anh với tất cả mọi hàm nghĩa của từ này: tận tụy, chỉn chu, trung thành, và trên hết, luôn luôn có một ý thức mãnh liệt về phẩm giá nghề nghiệp. Mong muốn cải thiện chất lượng phục vụ tại dinh thự và chấm dứt những sa sút hiện tại, Stevens dấn thân vào một cuộc hành trình đi qua Miền Tây nước Anh. Mỗi chặng trên cuộc hành trình mở ra một cánh cửa nối về quá khứ, và dần dà hành trình ấy làm hé lộ những mất mát và nuối tiếc theo sau những ảo tưởng của một đời người.
Bằng một lối viết bậc thầy, đạt đến một sự cân bằng phi thường giữa lời kể bình thản, điềm tĩnh và nỗi hoang mang dữ dội cùng niềm tiếc nuối mênh mông, Kazuo Ishiguro đã bóc tách một cách hết sức tinh tế cái ảo tưởng tót vời mà nhân vật chính đã dâng hiến đời mình cho nó, và làm lộ ra trong cốt lõi không phải là một lý tưởng, mà là một sự ngây thơ rất đẹp nhưng cũng rất khờ dại khi đặt trong một thời hiện đại khôn lường, sự ngây thơ thuộc về một quá khứ mà con người vĩnh viễn không thể nào trở lại được nữa.
Tác giả
Kazuo Ishiguro (sinh ngày 8/11/1954) là nhà văn Anh gốc Nhật nổi tiếng thế giới. Sinh ra tại Nagasaki, Nhật Bản, ông theo gia đình sang Anh sinh sống từ năm 1960. Ông tốt nghiệp trường Đại học Kent năm 1978 và nhận bằng Thạc sĩ khóa sáng tác văn chương của trường Đại học East Anglia năm 1980. Hiện ông sinh sống và làm việc tại London cùng vợ và con gái.
Ishiguro được xem là một trong những nhà văn Anh ngữ nổi bật nhất hiện nay. Ông là một trong những nhà văn hiếm hoi cùng lúc sở hữu hai giải thưởng văn chương danh giá: giải Man Booker (1989) và giải Nobel Văn chương (2017). Tàn ngày để lại xuất bản năm 1989 đã giúp tác giả nhận được giải Man Booker. Cuốn sách được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Kazuo Ishiguro. Những tác phẩm của Kazuo Ishiguro đã được Nhã Nam xuất bản: • Mãi đừng xa tôi
• Dạ khúc
• Người khổng lồ ngủ quên
• Cảnh đồi mờ xám
E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy.
TVE-4U
CÙNG ĐỌC - CÙNG CHIA SẺ!
Dành tặng hương hồn bà Lenore Marshall
Mở - Tháng Bảy năm 1956
Dinh Darlington
Sự thể càng lúc càng có vẻ đúng là tôi sẽ thực hiện chuyến du hành đã choán lấy trí tưởng tôi từ mấy ngày nay. Chuyến du hành ấy, phải nói thêm, tôi sẽ thực hiện một mình bằng cỗ Ford tiện nghi của ông Farraday; một chuyến du hành, theo tôi dự đoán, sẽ đưa tôi qua gần hết vùng thôn quê đẹp nhất nước Anh về đến tận miền Tây, và có thể khiến tôi vắng mặt khỏi Dinh Darlington đến tận năm, sáu ngày. Ý định làm một hành trình như thế, tôi phải nói cho rõ, bắt nguồn từ một đề nghị rất nhiều thiện ý do chính ông Farraday đưa ra, một buổi chiều cách đây gần hai tuần, khi tôi đương lau những bức chân dung trong thư viện. Thực tế là, theo như tôi nhớ, tôi đang đứng trên thang gấp lau chân dung Tử tước Wetherby thì ông chủ tôi đi vào, mang theo vài cuốn sách có thể đoán là ông có ý cất lại lên kệ. Thấy tôi, ông nhân cơ hội ấy bảo cho tôi biết rằng chính lúc ấy ông vừa hoàn tất kế hoạch trở về Hợp chúng quốc kéo dài năm tuần từ tháng Tám sang tháng Chín. Thông báo như vậy xong, ông chủ tôi đặt mấy cuốn sách xuống bàn, ngả mình xuống tràng kỷ, duỗi cặp chân ra. Chính đó là lúc ông ngẩng nhìn tôi và bảo, “Stevens à, anh hiểu là tôi không tính bắt anh ngồi bó gối ở nhà trong lúc tôi đi vắng chớ. Anh lấy xe đi đâu đó vài ngày đi. Anh coi bộ cần nghỉ ngơi chút đỉnh đó.”
Trước một đề nghị thình lình như vậy, tôi nhất thời không biết cần phải đáp lại thế nào. Tôi nhớ mình có cảm ơn ông đã lo đến tôi, nhưng nhiều phần chắc là tôi đã không nói gì thực dứt khoát, bởi ông chủ tôi nói tiếp,“Tôi nói thiệt đó, Stevens à. Tôi thấy thật sự là anh nên nghỉ chút đi. Xăng dầu tôi bao. Mấy người bọn anh suốt ngày vùi mình trong mấy cái dinh thự kiểu này làm chuyện này chuyện nọ, rồi thời giờ đâu ngắm nhìn vùng này vùng nọ trên cái mảnh đất xinh đẹp của mấy anh nữa hở?”
Đây không phải lần đầu ông chủ tôi đặt ra câu hỏi này; thực vậy, ấy hình như là vấn đề khiến ông thực sự bận tâm. Tới lần
ậy y g ự ự ậ này, thực tế là một câu trả lời tàm tạm đã nảy ra trong đầu khi tôi đứng trên thang; một câu trả lời đại loại là trong nghề này, dẫu không được thấy nhiều phần đất nước theo nghĩa là đi thăm thú vùng quê hay tới viếng những điểm danh lam thắng cảnh, nhưng thực tế chúng tôi lại “thấy” Anh quốc nhiều hơn hầu hết mọi người khác, bởi chúng tôi làm việc trong các nhà mà các phu nhân và đại nhân cao quý nhất nước vẫn thường họp mặt. Đương nhiên, tôi không thể bày tỏ cách nhìn này với ông Farraday mà không phát biểu ra những lời có thể sẽ tạo ấn tượng rằng mình ngạo mạn. Vì vậy tôi chỉ đành đơn giản đáp lại thế này,“Tôi đã có vinh dự được thấy những gì tốt đẹp nhất của nước Anh qua nhiều năm, thưa ngài, giữa chính những bức tường này.”
Ông Farraday tuồng như không hiểu phát biểu ấy, bởi ông chỉ nói tiếp ý mình,“Tôi nói thiệt đó, Stevens à. Thật không phải khi người ta còn không được đi thăm chính nước mình nữa. Anh nghe lời tôi, đi đâu đó mấy bữa đi.”
Như quý vị chắc cũng hiểu, chiều hôm ấy tôi không hề coi đề nghị của ông Farraday là nghiêm túc, vì nghĩ đấy chỉ là một minh chứng nữa cho sự ít rành rẽ của các vị người Mỹ về những tập quán ở Anh quốc đây. Việc thái độ của tôi trước đề xuất này đã phát sinh thay đổi trong những ngày tiếp theo - thực vậy, việc ý nghĩ làm một chuyến đi tới miền Tây càng lúc càng choán lấy tâm trí tôi - hẳn nhiên phụ thuộc một phần lớn vào - mà sao tôi phải chối điều này? - vào sự xuất hiện của lá thư từ cô Kenton, lá thư đầu tiên sau gần bảy năm nếu không tính các bưu thiếp dịp Giáng sinh. Nhưng tôi xin phép lập tức được làm rõ ý tôi muốn nói gì; ý tôi muốn nói là lá thư của cô Kenton đã khởi đầu cho một chuỗi ý tưởng liên quan đến những vấn đề công việc ở Dinh Darlington đây, và tôi phải nhấn mạnh rằng nỗi băn khoăn về chính những vấn đề công việc này đã khiến tôi xem xét lại đề nghị nhiều thiện ý của ông chủ. Nhưng tôi xin phép giải thích rõ hơn.
Thực tế là, trong vài tháng vừa qua, tôi đã là nguồn cơn cho một loạt lỗi lầm nhỏ trong quá trình thực hiện các bổn phận của
mình. Tôi phải nói rằng bản thân những lỗi lầm ấy, không trừ cái nào, chỉ là những sự vụ rất vặt vãnh. Tuy nhiên, ắt quý vị cũng hiểu rằng khi người ta không có tiền sử phạm phải những sai lầm như vậy, thì diễn biến này rất đáng phiền lòng, và thực tế là trong đầu tôi bắt đầu nảy sinh đủ loại thuyết hoang đường về nguyên do dẫn đến những lỗi lầm đó. Như vẫn thường gặp trong các tình huống loại này, tôi đã nhắm mắt trước nguyên do hiển nhiên nhất - nghĩa là, trước khi nhờ suy ngẫm về các hàm ý từ lá thư của cô Kenton mà rốt cuộc tôi đã mở mắt trước sự thực giản dị này: rằng những sai lỗi lặt vặt trong mấy tháng vừa qua đều chẳng bắt nguồn từ điều gì hung hiểm hơn là khiếm khuyết trong cơ cấu nhân sự.
Đương nhiên, trách nhiệm của người quản gia là phải dành thực nhiều tâm huyết cho việc hoàn bị cơ cấu nhân sự. Ai mà biết được bao nhiêu cuộc tranh cãi, bao nhiêu kết tội lầm, bao nhiêu vụ thải hồi không đáng, bao nhiêu sự nghiệp nhiều hứa hẹn lại hóa dở dang, có nguyên do là sự cẩu thả của quản gia ngay từ bước lên cơ cấu nhân sự? Thực vậy, tôi nghĩ mình thiên về đồng tình với ý kiến cho rằng thiết kế ra một cơ cấu nhân sự tốt là kỹ năng nền tảng của bất kỳ quản gia đàng hoàng nào. Bản thân tôi đã nhiều lần lên cơ cấu nhân sự sau nhiều năm, và tôi nghĩ mình có thể không sợ quá lời mà nhận rằng rất ít trong số đó có bao giờ cần điều chỉnh lại. Và nếu trong trường hợp hiện tại, cơ cấu nhân sự có khuyết điểm, thì người đáng trách chẳng phải ai khác mà chính là tôi. Mặt khác, cũng là phải lẽ nếu nói rằng nhiệm vụ của tôi trong tình huống cụ thể này lại ở vào mức độ khó khăn bất thường.
Sự việc xảy ra là như sau. Một khi giao dịch đã hoàn thành - những giao dịch đã mang ngôi nhà này đi khỏi tay dòng họ Darlington sau hai thế kỷ - ông Farraday cho biết ông sẽ không dọn đến đây cư ngụ ngay lập tức, mà còn dành thêm bốn tháng nữa để giải quyết nốt công chuyện ở Hợp chúng quốc. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, ông hết lòng yêu cầu đội ngũ nhân viên của người chủ trước - mà ông đã được nghe nhiều lời khen ngợi - vẫn lưu lại Dinh Darlington. “Đội ngũ nhân viên”
mà ông nói đến, dĩ nhiên, chỉ còn là một nhóm gồm vỏn vẹn sáu người được gia quyến Huân tước Darlington giữ lại nhằm chăm sóc ngôi nhà trước và trong khi diễn ra giao dịch; và tôi lấy làm tiếc phải nói rằng một khi giao dịch đã hoàn thành, tôi chẳng thể vì ông Farraday mà giữ cho tất cả khỏi ra đi tìm nơi làm mới, trừ bà Clements. Khi biên thư cho ông chủ mới, bày tỏ nỗi áy náy trước sự tình này, tôi nhận được hồi đáp từ Hoa Kỳ yêu cầu tôi tuyển một đội ngũ nhân viên mới “ngang tầm với một dinh thự cổ nước Anh”. Tôi tức thời bắt tay vào cố gắng đáp ứng ý nguyện của ông Farraday, nhưng như quý vị biết, ngày nay tuyển được những người ở trình độ phù hợp hoàn toàn không phải sự dễ dàng, và dẫu rất hài lòng tìm được Rosemary và Agnes theo giới thiệu của bà Clements, tôi vẫn chưa lo được thêm gì trước lần đầu họp mặt bàn việc với ông Farraday trong dịp ngắn ngủi ông viếng thăm bờ bên này chúng ta vào mùa xuân năm ngoái. Chính trong dịp đó - trong thư phòng trơ trọi lạ lùng của Dinh Darlington - mà ông Farraday đã lần đầu bắt tay tôi, nhưng tới lúc ấy chúng tôi đã chẳng còn xa lạ với nhau nữa; ngoại trừ vấn đề nhân sự, ông chủ mới của tôi trong vài việc khác đã có dịp dùng tới những phẩm chất mà tôi may mắn sở hữu, và tôi đánh bạo nói rằng ông cũng thấy những phẩm chất đó trông cậy được. Và vì thế, tôi đoán vậy, ông lập tức cảm thấy có thể nói chuyện công việc với tôi một cách tin cẩn, và đến cuối buổi gặp, ông đã gửi gắm cho tôi việc quản lý một ngân khoản không nhỏ, để trang trải chi phí cho những công tác đa dạng chuẩn bị cho ông tới cư ngụ tại đây. Dẫu sao thì, tôi muốn nói rằng chính trong cuộc họp bàn này, tôi đã đề cập đến khó khăn khi tìm người làm phù hợp trong thời buổi này, và ông Farraday, sau một giây suy ngẫm, đã nêu ra yêu cầu cho tôi; rằng tôi hãy cố sức đặt ra một cơ cấu nhân sự - “một kiểu lịch phân ca cho người ở nào đấy” như ông gọi - để ngôi nhà này có thể hoạt động nhờ đội ngũ nhân sự bốn người hiện tại; có nghĩa là, bà Clements, hai cô gái nhỏ, và tôi. Điều này, ông thừa nhận, có thể khiến nhiều phòng trong nhà sẽ phải “trùm mền”, nhưng liệu tôi có thể huy động tất cả kinh nghiệm và tài năng của mình để đảm bảo cho những tổn thất loại đó ở mức tối thiểu được
g ạ ợ
không? Nhớ lại thời mình tôi quản lý mười bảy người, và biết rằng cách đây ít lâu đã có đội ngũ nhân sự hai mươi tám người ở Dinh Darlington đây, ý tưởng vạch ra cơ cấu nhân sự để liệu việc ở chính ngôi nhà ấy nhờ một đội ngũ bốn người, nói nhẹ nhất cũng là đáng nản. Dẫu tôi đã cố hết sức tránh, chắc vẻ nghi ngại vẫn phần nào lộ ra, bởi tiếp đó ông Farraday nói, như để trấn an tôi, rằng nếu tình hình tỏ ra cần thiết, thì có thể bổ sung thêm một người vào nhân số. Nhưng ông sẽ rất biết ơn, ông nhắc lại, nếu tôi có thể “chạy thử bốn người coi sao”.
Điều tự nhiên là, cũng như nhiều người trong chúng tôi, tôi thường ngại ngần phải thay đổi quá nhiều những đường lối cũ. Nhưng cũng không có giá trị gì trong việc bám víu lấy truyền thống chỉ vì đó là truyền thống, như một số người vẫn làm. Trong thời đại dùng điện năng và hệ thống sưởi hiện đại ngày nay, hoàn toàn không cần đến số lượng người mà chỉ vừa thế hệ trước đã là cần thiết. Thực vậy, đã ít lâu nay, tôi nuôi ý nghĩ rằng giữ lại một lượng người không cần thiết chỉ vì đó là truyền thống - khiến cho gia nhân có dư thừa thời gian một cách không lành mạnh - chính là một nhân tố quan trọng dẫn đến tình trạng chuẩn mực công việc mau chóng sụt giảm. Thêm nữa, ông Farraday đã nói rõ rằng chỉ họa hoằn lắm ông mới định tổ chức các dịp tiếp tân quy mô như Dinh Darlington vẫn thường xuyên tổ chức trong quá khứ. Vì thế tôi đã bắt tay vào nhiệm vụ ông Farraday đặt cho một cách tương đối tận tâm; tôi dành nhiều giờ tính toán cơ cấu nhân sự, và ít nhất cũng dành bằng ấy giờ nghĩ về việc đó trong lúc thực hiện những bổn phận khác, hoặc trong lúc nằm thức khi đã về phòng nghỉ cuối ngày. Mỗi khi tin rằng mình đã nghĩ ra cách gì đó, tôi lại dò soát xem có sơ sẩy điểm nào không, kiểm nghiệm từ mọi góc độ. Cuối cùng, tôi cũng đi đến một cách tổ chức, mà dẫu có lẽ không nhất nhất hợp với yêu cầu của ông Farraday thì, như tôi đoan chắc, cũng là cách tốt nhất trong phạm vi sức người. Hầu như mọi phần đẹp đẽ nhất của ngôi nhà vẫn sẽ được hoạt động; khu gia nhân to rộng - gồm cả hành lang hậu, hai phòng chưng cất và phòng giặt cũ - cùng hành lang dành cho khách trên lầu hai sẽ được trùm
bạt chống bụi, để lại tất cả các phòng chính ở tầng trệt và một lượng thoải mái buồng ngủ dành cho khách. Phải thừa nhận, nhóm bốn người hiện nay sẽ chỉ duy trì được chương trình này nếu có thêm sự hỗ trợ của một số người làm công nhật; vậy là cơ cấu nhân sự của tôi yêu cầu thêm sự có mặt của một người làm vườn, sẽ đến tuần một lần, tới mùa hè thì hai, và hai người quét dọn, mỗi người đến hai lần một tuần. Cơ cấu nhân sự này, thêm nữa, sẽ đòi hỏi mỗi người trong số bốn nhân viên thường trực kia trải qua một sự thay đổi triệt để các nhiệm vụ truyền thống. Hai cô gái nhỏ, theo tôi dự đoán, sẽ không khó khăn gì tiếp nhận những thay đổi ấy, nhưng tôi đã làm hết sức bảo đảm cho bà Clements phải điều chỉnh càng ít càng tốt, đến mức xếp cho chính mình một vài nhiệm vụ mà có lẽ quý vị sẽ thấy chỉ một quản gia tư duy phóng khoáng lắm mới có thể làm.
Đến tận bây giờ, tôi vẫn không cho rằng đấy là một cách tổ chức tồi: suy cho cùng, nó đã cho phép một đội ngũ bốn người đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn đến bất ngờ. Nhưng hẳn quý vị sẽ đồng tình rằng những phương án nhân sự thực sự tốt phải chừa lại một dung sai cho những ngày có nhân viên bị ốm, hoặc vì nguyên do nào đó mà hiệu quả kém hơn ngày thường. Trong trường hợp cụ thể này, đương nhiên, tôi đã được giao một nhiệm vụ có phần vượt quá sức thường, nhưng dẫu sao đi nữa tôi cũng không quên đưa vào những chỗ “dung sai” ở nơi nào có thể. Tôi đặc biệt ý thức rằng nếu có sự kháng cự nào đó về phần bà Clements, hay hai cô gái, không muốn nhận thêm những nhiệm vụ vượt ra ngoài phạm vi truyền thống, thì nó sẽ càng mạnh thêm nếu họ cảm thấy rằng khối lượng công việc của mình đã tăng bội. Do đó, trong những ngày còn loay hoay với cơ cấu nhân sự, tôi đã dành tâm sức đáng kể để bảo đảm cho bà Clements và hai cô gái, một khi đã vượt qua cảm giác bất ưng vì phải nhận lấy những vai trò “đa năng” như thế, sẽ thấy cách phân chia công việc này đủ mới lạ hứng thú mà lại không quá nặng nhọc.
Tuy vậy, tôi e rằng trong lúc khổ tâm cố giành được sự thuận lòng của bà Clements và hai cô gái, có lẽ tôi đã không sát sao cho
bằng với những hạn chế của chính mình; và mặc dầu kinh nghiệm và sự thận trọng thường lệ trong những vấn đề loại này đã giúp tôi tránh phân cho mình nhiều việc hơn sức mình gánh nổi, thì có lẽ tôi đã lơ là quên chừa cho mình một khoảng dung sai. Bởi thế, cũng không có gì quá lạ lùng là mấy tháng vừa qua, sơ suất này đã bộc lộ ra bằng những biểu hiện nhỏ nhặt nhưng dứt khoát. Rốt cuộc, tôi cho rằng vấn đề chẳng có gì phức tạp hơn là: tôi đã giao cho mình quá nhiều việc.
Quý vị có thể kinh ngạc vì một thiếu sót hiển nhiên như vậy trong cơ cấu nhân sự mà lại mãi hoài vượt ra khỏi tầm chú ý của tôi, nhưng mặt khác, quý vị hẳn đồng tình rằng sự thể thường vẫn như vậy khi người ta dành hết tâm trí suy nghĩ về vấn đề gì đó trong một khoảng thời gian dài; người ta thường không trông thấy được sự thực chừng nào chưa bị nhắc nhở, hoàn toàn tình cờ, nhờ một sự việc bên ngoài nào đó. Sự tình lần này đúng là vậy; nói vậy có nghĩa là, sau khi nhận được lá thư của cô Kenton mà trong đó, ngoài những đoạn dài không nói lên gì mấy, có một nỗi niềm nhung nhớ không thể lầm lẫn được dành cho Dinh Darlington, cộng thêm - điều này tôi khá chắc - những ám chỉ rõ rệt rằng cô mong muốn được trở về đây, tôi đã buộc phải nhìn nhận lại cơ cấu nhân sự của mình bằng con mắt khác. Chỉ tới lúc đó tôi mới sực hiểu rằng quả là có một vị trí cốt yếu rất cần thêm một nhân viên nữa; và thực tế, chính khoảng trống này là nguyên nhân cốt lõi gây nên mọi phiền muộn gần đây của tôi. Và càng suy ngẫm về sự đó, tôi càng thấy hiển nhiên là cô Kenton, người mang tình yêu mến tha thiết với ngôi nhà này, người luôn tận tâm mẫu mực trong công việc - đức tính hiếm có ngày nay - chính là yếu tố cần thiết có thể giúp tôi hoàn tất một cơ cấu nhân sự hoàn chỉnh và hoàn hảo cho Dinh Darlington.
Sau khi phân tích tình thế như vậy, thì chẳng bao lâu sau tôi đã bắt đầu cân nhắc lại đề xuất hết sức thiện ý của ông Farraday mấy ngày trước. Bởi tôi chợt nhận ra rằng chuyến du ngoạn bằng xe hơi mà ông đề nghị có thể hữu ích cho công việc; nghĩa là tôi có thể lái xe về miền Tây và ghé thăm cô Kenton trên
đường, bằng cách ấy tận mắt thăm dò nguyện vọng quay về làm việc ở Dinh Darlington nơi cô chắc chắn đến đâu. Phải nói rõ rằng tôi đã đọc lại vài lần lá thư mới đây của cô Kenton, và hoàn toàn không có khả năng những ám chỉ ấy chỉ đơn thuần do tôi tưởng tượng.
Bất chấp mọi dự tính đó, mất mấy ngày tôi chưa đủ tinh thần nêu lại vấn đề này với ông Farraday. Dẫu sao đi nữa, vấn đề vẫn còn nhiều khía cạnh mà tôi nghĩ mình phải minh định với bản thân trước khi đi bước tiếp theo. Tỷ dụ như vấn đề phí tổn. Bởi dầu cho ông chủ đã rất hào hiệp đề nghị “xăng dầu ông bao”, nhưng chi phí cho một chuyến đi như thế vẫn có thể lên đến một con số không ngờ nếu tính hết các yếu tố như nghỉ trọ, ăn uống, và ăn nhẹ nếu có phát sinh dọc đường. Rồi còn vấn đề phục trang nào thì thích hợp cho một chuyến đi như vậy, có đáng bỏ công đầu tư một bộ mới hay không. Hiện tại tôi đang sở hữu một vài bộ vét lộng lẫy, do chính Huân tước Darlington đã rộng lòng để lại cho tôi qua nhiều năm, cũng như thừa hưởng từ nhiều vị khách từng lưu lại nhà này và đã có lý do hài lòng với chất lượng phục vụ ở đây. Rất nhiều trong số những bộ vét ấy có lẽ quá trịnh trọng so với mục đích của chuyến đi dự tính, hoặc nếu không thì cũng hơi quá cổ so với thời này. Nhưng trong đó còn có một bộ vét dùng cho ngày thường, mà tôi nhận được vào năm 1931 hay 1932 gì đó, từ chính tay Sir Edward Blair - gần như mới tinh vào lúc ấy và gần như vừa khít người tôi - có lẽ sẽ khá phù hợp cho các buổi tối trong phòng khách hay phòng ăn ở bất kỳ nơi trọ nào tôi nghỉ lại. Tuy nhiên, thứ tôi còn thiếu là phục trang thích hợp để đi đường - nói cách khác, trang phục tôi có thể trình diện trước mắt người ngoài khi lái xe - trừ khi tôi định vận bộ vét được Huân tước Chalmers trẻ tuổi để lại hồi chiến tranh, bộ này mặc dầu hiển nhiên là quá chật so với tôi, thì lại lý tưởng nếu xét về phong cách. Cuối cùng, tôi cũng tính ra rằng khoản dành dụm hiện có là đủ để trang trải mọi chi phí có thể nảy sinh, mà chắt bóp hơn thì biết đâu có thể mua được một bộ cánh mới. Tôi hy vọng quý vị không nghĩ rằng tôi phù phiếm không phải lẽ ở điểm cuối cùng này; chẳng qua là người
ta không cách nào biết được khi nào mình sẽ buộc phải xưng rằng mình là người của Dinh Darlington, và vào thời điểm ấy quan trọng là người ta phải phục sức sao cho xứng với địa vị của mình.
Trong quãng thời gian này, tôi cũng bỏ nhiều phút xem xét các bản đồ đường sá, cũng như nghiền ngẫm những tập liên quan trong bộ Kỳ quan Anh quốc của bà Jane Symons. Nếu quý vị còn chưa biết tới bộ sách của bà Symons - một bộ sách gồm bảy tập, mỗi tập đề cập đến một vùng ở các đảo Anh - thì tôi xin nhiệt liệt giới thiệu. Bộ sách này biên soạn từ thập niên ba mươi, nhưng phần lớn thông tin vẫn còn cập nhật - suy cho cùng, tôi cho rằng bom Đức cũng chưa thay đổi quá nhiều bộ mặt vùng quê nước ta đâu. Bà Symons thực tế là một vị khách thường xuyên lui tới nhà này trước chiến tranh; thực vậy, bà thuộc hàng những người được gia nhân yêu mến nhất, do thái độ quý mến hiền từ mà bà không bao giờ ngại tỏ ra. Vì thế, chính trong những ngày ấy, do lòng ái mộ tự thân với bà khách ấy mà tôi đã lần đầu nghiền ngẫm những tập sách của bà trong thư viện mỗi khi có được chút thời gian trống. Thực vậy, tôi còn nhớ rằng ít lâu sau khi cô Kenton lên đường đi Cornwall năm 1936, vì chính tôi chưa bao giờ đặt chân tới vùng ấy, tôi vẫn thường liếc qua tập ba bộ sách của bà Symons, là tập bày ra cho người đọc những nét đẹp đẽ ở Devon và Cornwall, gồm cả ảnh chụp và rất nhiều phác thảo của các họa sĩ về vùng ấy - tôi thấy số này còn gợi hứng cho tưởng tượng nhiều hơn. Chính nhờ thế mà tôi có chút hình dung về nơi chốn mà cô Kenton đã tới sống cuộc đời của người có gia đình. Nhưng việc này, như tôi nói, đã từ thập niên ba mươi, thời mà như tôi hiểu, bộ sách của bà Symons được ái mộ trong mọi nhà trên khắp đất nước. Tôi không nhìn qua những tập sách này rất nhiều năm rồi, cho đến khi các diễn biến gần đây đã khiến tôi lần nữa lấy xuống từ trên kệ tập nói về Devon và Cornwall. Tôi ngâm ngợi lại lần nữa những dòng mô tả và minh họa tuyệt diệu trong sách, và quý vị có lẽ sẽ thông cảm với nỗi phấn khởi ngày một lớn trong tôi, khi nghĩ rằng có lẽ bây
giờ tôi sẽ thực sự tự mình thực hiện chuyến chạy xe qua chính những vùng đất ấy.
Cuối cùng đến một lúc xem ra không còn việc gì khác ngoài thực sự đặt vấn đề trở lại với ông Farraday. Đương nhiên, vẫn còn một khả năng rằng đề nghị của ông cách đây hai tuần có thể chỉ là ngẫu hứng nhất thời, và tới giờ ông không còn tán đồng một chuyến đi như thế. Nhưng xét trên quá trình quan sát ông Farraday mấy tháng vừa qua, tôi cho rằng ông không thuộc vào số những vị sở hữu cái đặc tính rất đáng bực mình ở một người chủ - ấy là tính tiền hậu bất nhất. Không có cớ gì mà cho rằng ông sẽ không nhiệt thành ủng hộ chuyến đi dự kiến của tôi như lúc trước - thực vậy, rằng ông sẽ không nhắc lại lời đề nghị hết sức thiện ý “xăng dầu ông bao”. Tuy nhiên, tôi vẫn bỏ tâm sức suy tính thận trọng xem đâu là dịp đích đáng nhất để khơi lại vấn đề ấy với ông; vì mặc dầu không phút nào, như đã nói, tôi ngờ ông Farraday có tính tiền hậu bất nhất, nhưng tránh đã động tới đề tài ấy khi ông đương sao nhãng hay bận bịu cũng là hợp lẽ. Một lời khước từ trong hoàn cảnh ấy có lẽ sẽ không phản ánh cảm nhận thực của ông chủ tôi về vấn đề này, nhưng một khi đã phải nghe từ chối một lần rồi, tôi sẽ khó có thể gợi chuyện lần nữa. Vì thế, rõ ràng là tôi sẽ phải lựa chọn thời cơ thực khôn ngoan.
Rốt cuộc, tôi kết luận thời điểm thích đáng nhất trong ngày sẽ là khi đưa trà chiều vào phòng tiếp tân. Lệ thường vào thời điểm ấy ông Farraday vừa trở về sau khi hoàn tất chặng đi dạo ngắn trong khu đồi, nên sẽ ít có khả năng ông đương chìm đắm trong việc đọc hay việc viết như ông thường làm buổi tối. Thực tế là, mỗi lần tôi mang trà chiều tới, ông Farraday thường gập cuốn sách hay tạp chí đang cầm trên tay, đứng lên vươn vai trước cửa sổ, như để chờ đón một cuộc chuyện trò với tôi.
Xét trên tình hình xảy ra, phán đoán của tôi về vấn đề thời điểm đã tỏ ra là khá chính xác; còn nguyên do mọi điều lại diễn ra như vậy, thì hoàn toàn là do phán đoán sai lầm về một hướng khác hẳn. Nói vậy có nghĩa là, tôi đã không coi trọng đủ sự tình là vào thời điểm ấy trong ngày, điều khiến ông Farraday thích
thú là một cuộc nói chuyện kiểu vui đùa, hài hước. Biết rằng nhiều khả năng tâm trạng của ông đang như vậy khi tôi đưa trà vào chiều hôm qua, và ý thức được xu hướng chung của ông là sẽ nói chuyện với tôi lối bông lơn vào những lúc như vậy, thì hẳn khôn ngoan hơn phải là tuyệt đối không đề cập đến cô Kenton. Nhưng quý vị chắc sẽ hiểu rằng, khi yêu cầu điều xét cho cùng là một sự thi ân hào phóng từ phía ông chủ, tôi sẽ tự nhiên có khuynh hướng hàm chỉ nguyện vọng của mình có một động cơ công việc đáng trọng bên trong. Vậy là khi liệt kê những nguyên do chọn miền Tây làm nơi thực hiện cuộc du ngoạn bằng xe, thay vì chỉ dừng ở việc kể ra một vài chi tiết mê hồn được truyền đạt qua cuốn sách của bà Symons, tôi đã tính lầm mà cho biết rằng một nội quản cũ của Dinh Darlington hiện đang trú trong vùng đó. Tôi đồ rằng ý định của tôi là trình bày cho ông Farraday hiểu đây là dịp giúp tôi khảo sát một lựa chọn có thể sẽ trở thành đáp án tối ưu cho những khó khăn nho nhỏ hiện tại trong nhà này. Mãi đến khi đã nhắc tên cô Kenton rồi, tôi mới thình lình nhận ra rằng nói tiếp thì thực là không phải lối. Không chỉ vì tôi chưa thể xác nhận rằng nguyện vọng của cô Kenton là muốn trở lại làm việc ở đây, mà đương nhiên, tôi còn chưa hề bàn qua vấn đề bổ sung nhân sự với ông Farraday kể từ buổi gặp mặt ban đầu hơn một năm về trước. Tiếp tục phát biểu thành lời những dự tưởng của tôi về tương lai của Dinh Darlington, nói nhẹ nhất thì cũng là ngạo mạn. Tôi đồ rằng lúc đó, tôi bỗng ngừng bặt đi và trông có vẻ luống cuống. Dẫu sao thì ông Farraday cũng đã chớp lấy cơ hội đó, cười toe toét với tôi và nói đận đà,“Úi chà, Stevens. Một bà bạn hở. Ở tuổi anh nữa chớ.”
Đấy thực là một tình huống hết sức khó xử, một tình huống mà Huân tước Darlington sẽ không bao giờ khiến gia nhân lâm vào. Tuy nhiên tôi không muốn tỏ ý khinh khi gì đối với ông Farraday; xét cho cùng, ông là một vị người Mỹ, và phong cách của ông thường rất khác ở đây. Hoàn toàn không có khả năng ông nuôi ác ý nào đó; nhưng chắc chắn quý vị cũng hiểu rằng đây là một tình huống hết sức khó xử với tôi.
“Tôi không ngờ anh đào hoa vậy luôn đó, Stevens,” ông nói tiếp. “Hẳn là làm vậy giúp cho tinh thần tươi trẻ rồi. Nhưng mặt khác, tôi không chắc tiếp tay anh trong mấy vụ hẹn hò mập mờ như vầy là đúng đắn đâu.”
Dĩ nhiên, tôi cảm thấy mong muốn được phủ nhận ngay lập tức và dứt khoát những động cơ mà ông chủ đang gán cho tôi, nhưng kịp thời nhận thấy rằng làm thế nghĩa là cắn câu ông Farraday, và sẽ chỉ càng gây thêm hổ thẹn cho mình. Thế nên tôi cứ đứng đó lóng ngóng, chờ ông chủ nói lời cho phép tôi thực hiện cuộc hành trình bằng xe hơi này.
Dẫu vài phút ấy thực xấu hổ, nhưng tôi không muốn tạo ấn tượng rằng mình có chút nào chê trách ông Farraday, một con người hoàn toàn không có chút ác tâm; tôi tin chắc ông chỉ đang vui vẻ “bông lơn” theo kiểu mà ở Hợp chúng quốc, hẳn nhiên, là dấu hiệu cho thấy sự ăn ý hòa thuận giữa ông chủ và gia nhân, như một trò chơi thân tình mà hai bên cùng tham dự. Thực vậy, để chuyện này được nhìn nhận dưới góc độ thích hợp, tôi phải nói rõ rằng chính những câu bông lơn loại đó từ ông chủ mới của tôi đã làm nên phần lớn mối quan hệ giữa chúng tôi trong những tháng vừa qua - dẫu phải thú thực một điều rằng, tới nay tôi vẫn còn chưa biết đáp lại thế nào cho phải. Thực tế là, trong mấy ngày đầu tiên làm việc cho ông Farraday, đã một hai lần tôi phải sửng sốt vì những điều ông thường nói với tôi. Tỷ dụ như, một dịp tôi hỏi ông rằng một vị khách sắp sửa đến thăm nhà chúng tôi liệu có khả năng đi cùng bà vợ hay không.
“Lạy Chúa cứu vớt nếu bà ta đến,” ông Farraday đáp. “Có khi anh đem bả đi khuất mắt giùm chúng tôi được đó, Stevens à. Mang bà ta ra thết đãi đằng mấy cái chuồng ngựa quanh trang trại nhà ông Morgan. Giải khuây cho bả trên cái đống cỏ khô đó. Có khi bả thuộc gu anh không chừng.”
Mất một hai giây, tôi tuyệt không hiểu nổi ông chủ đang nói gì. Rồi tôi nhận ra ông đang pha trò cười, và cố gắng trình ra một nụ cười thích hợp, dù tôi đồ rằng một chút hoang mang còn sót, nếu không phải là choáng váng, vẫn hiện rõ trong vẻ mặt tôi.
Tuy thế, trong mấy ngày tiếp theo, tôi đã dần dà học được cách không quá kinh ngạc trước những phát biểu kiểu ấy của ông chủ, và sẽ mỉm cười phù hợp mỗi lần đọc được ý vị bông lơn trong giọng ông. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa bao giờ xác định được chính xác thì ông chủ muốn mình phản ứng thế nào trong những trường hợp ấy. Có thể tôi cần cười ngặt nghẽo hưởng ứng, hoặc là, thực vậy, cần đối đáp lại bằng nhận định nào đó từ phía mình. Khả năng thứ hai đã khiến tôi khá âu lo trong mấy tháng vừa qua, và là một điều đến nay hẵng còn khiến tôi phân vân. Bởi rất có thể là ở Hoa Kỳ, một phần quan trọng làm nên chất lượng phục vụ chuyên nghiệp là người gia nhân phải biết cách nói những lời bông lơn thú vị. Thực tế là, tôi còn nhớ ông Simpson chủ quán Hiệu Chuông Dân Cày từng nói, rằng nếu đứng quầy ở Hoa Kỳ, ông sẽ không trò chuyện với chúng tôi bằng cái vẻ thân thiện nhưng lúc nào cũng khách khí trịnh trọng mà ông vẫn làm đâu, mà trái lại, sẽ nã vào chúng tôi vô số lời lẽ thô tục ám chỉ đến những thói xấu và khuyết điểm của chúng tôi, gọi chúng tôi là sâu rượu và đủ thứ lời lẽ đại loại, để cố gắng đóng tròn vai mà các khách hàng trông đợi ở ông. Và tôi cũng nhớ lại thêm rằng mấy năm trước, ông Rayne, sau khi đi Hoa Kỳ trong vai trò tùy tùng cho Sir Reginald Mauvis, đã nhận xét rằng tài xế taxi ở New York thường xuyên ăn nói với khách của mình theo lối mà nếu học theo ở London thì thế nào cũng kết thúc bằng to tiếng, nếu không phải bằng việc y sẽ được gô cổ về sở cẩm gần nhất.
Như vậy, hoàn toàn có thể là ông chủ trông đợi tôi sẽ đáp lại những câu bông lơn của ông theo cách tương tự, và coi sự tôi không hoàn thành việc đó là một kiểu sao nhãng bổn phận. Điều này, như tôi nói, là một vấn đề đã khiến tôi khá băn khoăn. Nhưng phải nói rằng công việc bông lơn này là một bổn phận mà tôi cảm thấy mình sẽ không bao giờ nhiệt tình thực thi được. Trong những thời đại lắm đổi thay này, người ta hoàn toàn có thể điều chỉnh công việc của mình, nhận thêm những nhiệm vụ vốn không thuộc phần bổn phận truyền thống của mình, nhưng bông lơn lại thuộc về một đẳng cấp hoàn toàn
khác. Tỷ dụ như, làm sao người ta biết chắc được rằng ở một thời điểm bất kỳ nào đó, một câu đối đáp thuộc loại bông lơn lại đúng là điều được trông đợi? Chẳng cần suy nghĩ quá kĩ mới hình dung được cái tai ương khi thốt ra một nhận định kiểu bông lơn để rồi phát hiện ra rằng nó thực sự không phải lối.
Dẫu vậy, trong một dịp cách đây chưa lâu tôi đã thu góp can đảm toan đưa ra câu trả lời thuộc loại được yêu cầu. Tôi đang đưa cà phê sáng vào phòng ăn sáng cho ông Farraday thì ông bảo với tôi, “Tôi đoán tiếng quạ kêu hồi sáng này không phải là do anh phát ra đâu, phải không hở Stevens?”
Tôi nhận ra ông chủ đang nói đến một cặp Digan chuyên thu nhặt sắt vụn, sáng nay vừa đi qua vừa thốt lên tiếng rao quen thuộc của họ. Tình cờ, ngay sáng hôm đó tôi vừa suy tư đôi chút về cái nan đề rằng tôi có hay không có trách nhiệm phải đối đáp lại những câu bông lơn của ông, và đang thực sự lo âu không biết ông nhìn nhận thế nào về sự tôi liên tiếp bỏ lỡ không ứng đối với những lời mào đầu loại này. Vì thế tôi định tâm đáp lại bằng một câu pha trò nào đó; một phát biểu vô thưởng vô phạt nếu nhỡ đâu tôi đã nhận định sai tình hình. Sau một hai giây, tôi đáp,“Én thì đúng hơn là quạ theo thiển ý của tôi, thưa ngài. Xét thấy đấy là giống di trú.” Và tôi đệm thêm một nụ cười khiêm nhường vừa đủ, để cho thấy không nghi ngờ gì rằng tôi vừa phát biểu một câu pha trò, bởi tôi không muốn ông Farraday phải kềm giữ chút vui thích tự phát nào trong ông do một sự tôn trọng không đúng chỗ dành cho tôi.
Tuy nhiên, ông Farraday chỉ ngẩng lên nhìn tôi đáp,“Anh nói sao, Stevens?”
Mãi tới lúc ấy tôi mới ngộ ra rằng, đương nhiên, nếu không biết rằng kẻ mới đi qua là dân Digan thì sẽ không tài nào hiểu được câu pha trò của tôi. Tới đó, tôi không nhìn ra cách nào có thể đẩy cuộc bông lơn đi xa hơn được nữa; thực tế, tôi kết luận tốt nhất là dừng lại ở đây, và vờ như nhớ ra một việc gì đó khẩn cấp cần thực hiện, tôi cáo từ lui ra, để lại ông chủ với vẻ mặt khá bối rối.
Như vậy, đấy là một khởi đầu hết sức nản lòng cho việc rất có thể là một bổn phận hoàn toàn mới dành cho tôi; nản lòng đến nỗi phải thú thực rằng tôi hầu như chưa có thêm cố gắng nào về mặt đó. Nhưng mặt khác, tôi không gột bỏ được cảm giác rằng ông Farraday không hài lòng với cách tôi đáp lại những lời bông lơn này khác của ông. Thực tế, việc gần đây ông chủ tôi ngày càng dai dẳng nói chuyện theo hướng này rất có thể còn có ý hối thúc tôi phải đáp lại trong tinh thần tương tự. Dẫu rất có thể là như vậy, nhưng từ sau câu đầu tiên về người Digan ấy, tôi chưa bao giờ kịp thời nghĩ ra thêm một câu pha trò tương tự nào.
Những khó khăn kiểu đó nay càng khiến bận lòng khi người ta không còn có điều kiện thảo luận và kiểm chứng quan điểm với những đồng nghiệp như dạo trước. Chỉ cách đây ít lâu, nếu có một hai điểm bất minh như vậy nảy sinh về cách thức thi hành bổn phận, người ta còn có thể an tâm rằng chẳng mấy nữa sẽ có một đồng liêu vốn được mình tin tưởng lắng nghe ý kiến hộ tống ông chủ viếng thăm nhà, và sẽ có dư dả cơ hội bàn về việc đó. Và đương nhiên, vào thời Huân tước Darlington, khi khách khứa cùng phu nhân thường nghỉ lại hàng nhiều ngày trời, thì người ta còn có thể thắt chặt mối giao tình với những đồng liêu ghé thăm. Thực vậy, trong những ngày rộn rịp ấy, tại phòng gia nhân của chúng tôi thường tập hợp những quản gia thuộc loại lành nghề nhất nước Anh, cùng đàm luận đến đêm khuya bên lò sưởi. Và quý vị hãy biết rằng, nếu ghé thăm phòng gia nhân của chúng tôi vào bất kỳ tối nào thời ấy, quý vị sẽ không nghe thấy những chuyện ngồi lê đôi mách đâu; khả năng cao hơn là quý vị sẽ được chứng kiến chúng tôi tranh luận về chính những vấn đề quốc gia đại sự đương làm bận tâm bận trí các ông chủ ở tầng trên, hoặc nếu không thì cũng là những sự kiện hệ trọng được tường thuật lại trên báo chí; và đương nhiên, như trong mọi cuộc tập hợp của những đồng nghiệp thuộc bất kỳ tầng lớp xã hội nào, quý vị sẽ thấy chúng tôi bàn bạc đến từng khía cạnh thuộc nghề mình. Đôi lúc, dĩ nhiên, sẽ có bất đồng sâu sắc, nhưng bầu không khí chủ đạo thường là tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Có lẽ tôi có thể miêu tả dễ hiểu hơn về
không khí những buổi tối ấy bằng cách nói rằng những vị khách thường lui tới là những người như ông Harry Graham, tùy tùng kiêm quản gia của Sir James Chambers, và ông John Donalds, tùy tùng của ông Sydney Dickenson. Còn có những người có lẽ kém lỗi lạc hơn, nhưng lại mang bản tính náo nhiệt khiến mỗi cuộc tới thăm đều đáng nhớ; tỷ dụ như ông Wilkinson, tùy tùng kiêm quản gia của ông John Campbell, nức tiếng với ngón giả dạng các nhà quý tộc danh giá, hay ông Davidson ở Nhà Đông, mà sự hăng hái mỗi khi tranh luận nhiều lúc khiến người không quen biết phải gờm tránh, chẳng kém gì lòng tốt thuần hậu của ông những lúc khác khiến người người mến yêu; ông Herman, tùy tùng của ông John Henry Peters, với những quan điểm cực đoan chẳng người nào có thể im lặng mà nghe, nhưng lại có tiếng cười ha hả phóng khoáng và cái duyên Yorkshire đặc trưng không cách nào không ưa được. Và còn nhiều người nữa. Vào thời ấy, những người trong nghề chúng tôi có tình đồng đội thực sự, dẫu quan điểm về nghề có thể khác nhau đôi chút. Tất cả chúng tôi về cơ bản đều đúc cùng một khuôn, có thể nói vậy. Không phải như lối ngày nay, nếu thi thoảng cũng có lúc vị khách đến thăm đưa theo một gia nhân nào đó, thì đấy phần nhiều là một người mới vào nghề, chẳng biết nói chuyện gì ngoài chuyện túc cầu, và ưa dành buổi tối không phải bên lò sưởi trong phòng gia nhân mà bên chén rượu ở quán Hiệu Chương Dân Cày - hoặc là, thực vậy, ở Nhà Trọ Sao như ngày nay càng lúc càng phổ biến.
Vừa lúc trước tôi có đề cập đến ông Graham, tùy tùng kiêm quản gia của Sir James Chambers. Thực tế là, khoảng hai tháng trước, tôi vui mừng hết mực khi biết Sir James sắp tới thăm Dinh Darlington. Tôi mong chờ cuộc viếng thăm ấy không chỉ vì khách từ thời Huân tước Darlington ngày nay vô cùng hiếm gặp - giới giao thiệp của ông Farraday, hiển nhiên, khác xa của huân tước - mà còn vì tôi đồ rằng ông Graham sẽ hộ tống Sir James như xưa kia, và do đó tôi sẽ được tham khảo ý kiến của ông về vấn đề bông lơn này. Vì thế, tôi vừa ngạc nhiên vừa thất vọng khi được biết, một ngày trước khi Sir James đến, rằng ngài sẽ
đến một mình. Thêm nữa, trong những ngày tiếp theo khi Sir James nghỉ lại, tôi được biết rằng ông Graham không còn phục vụ Sir James nữa; thực vậy, rằng Sir James không còn giữ lại gia nhân toàn thời gian nào ở nhà mình. Tôi rất mong tìm hiểu được số phận ông Graham về sau ra sao, bởi mặc dầu chúng tôi không biết nhau thực rõ, tôi có thể nói rằng cả hai đã rất hòa hợp trong những dịp có gặp gỡ. Tuy thế, sự thể hóa ra là, tôi không gặp được dịp nào phù hợp để hỏi thông tin này. Phải nói rằng tôi đã khá thất vọng, vì tôi rất mong được đem vấn đề bông lơn ra thảo luận với ông.
Tuy thế, cho phép tôi trở lại mạch chuyện ban đầu. Như đã nói, tôi buộc phải dành vài phút rất khó xử buổi chiều hôm qua trong phòng tiếp tân, trong khi ông Farraday tiếp tục đà bông lơn của ông. Như thường lệ, tôi đáp lại bằng cách mỉm cười khẽ - ít nhất cũng đủ biểu thị rằng tôi phần nào chia sẻ tâm trạng đùa bỡn mà ông đang duy trì - và chờ xem liệu ông chủ có tán đồng chuyến đi của tôi hay không. Như tôi dự đoán, ông đã rất thiện ý tán đồng mà chỉ trì hoãn không quá lâu, và hơn nữa, ông Farraday rộng lượng vẫn còn nhớ và nhắc lại đề nghị hào hiệp “xăng dầu ông bao”.
Vì đó, xem ra tôi chẳng có mấy lý do không thực hiện chuyến du hành bằng xe về miền Tây. Đương nhiên tôi sẽ phải biên thư cho cô Kenton, báo cô rằng có thể tôi sẽ ghé qua; tôi cũng còn phải lo soạn sửa phục trang nữa. Còn rất nhiều câu hỏi khác cần được giải quyết về điều phối công việc trong nhà trong quãng thời gian tôi vắng mặt. Nhưng về tổng thể, tôi không thấy có lý do đích đáng nào khiến tôi không nên thực hiện chuyến du hành này.
Ngày thứ nhất - Tối
Salisbury
Đêm nay tôi nghỉ lại đây, một nhà khách ở thành phố Salisbury. Ngày đầu hành trình đã trọn, xét tổng thể, phải nói rằng tôi khá hài lòng. Giờ xuất phát sáng nay chậm hơn gần một tiếng đồng hồ so với dự kiến, bất kể tôi đã hoàn tất việc đóng đồ và chất mọi tư trang cần thiết lên cỗ Ford từ trước tám giờ sáng rất lâu. Bởi bà Clements và hai cô gái cũng nghỉ cả tuần nay, tôi nghĩ mình đã cảm nhận rõ rằng khi nào mình đi, Dinh Darlington sẽ không có lấy một bóng người, hẳn là lần đầu tiên trong thế kỷ này - có lẽ còn là lần đầu tiên từ thuở tòa nhà được cất lên. Một cảm giác quái lạ, và hẳn chính đó là nguyên do tôi nấn ná thực lâu trước khi khởi hành, đi quanh nhà hết vòng này tới vòng khác, kiểm tra lần cuối để biết rằng mọi thứ đều ngăn nắp.
Rất khó giải thích tâm trạng tôi khi cuối cùng cũng khởi hành. Trong khoảng hai mươi phút đầu tiên chạy xe, tôi không thể nói mình đã ngợp trong phấn khích hay ngóng đợi gì hết. Điều này hẳn nhiên là vì dẫu mỗi lúc xe một xa rời ngôi nhà, nhưng tôi vẫn đi giữa những khung cảnh ít nhất cũng từng chạy qua. Thực sự tôi vẫn luôn cho rằng mình đi lại rất ít, vì bị giữ chân bởi những bổn phận trong nhà, nhưng dĩ nhiên qua thời gian, người ta cũng có lý do nọ lý do kia trong công việc để ra ngoài, và xem ra tôi đã quen thuộc với vùng lân cận hơn nhiều so với tôi tưởng. Bởi, như đã nói, trong lúc mãi chạy xe trong nắng về phía ranh giới sang Berkshire, tôi vẫn không ngớt ngạc nhiên vì vẻ thân quen của đồng quê quanh mình.
Nhưng rồi, rốt cuộc, phong cảnh chung quanh cũng hóa ra xa lạ, và tôi biết mình đã vượt qua mọi ranh giới trước đây. Tôi từng nghe mô tả khi lên tàu ra biển, rốt cuộc sẽ đến một thời điểm người ta thấy đất liền khuất khỏi tầm mắt. Tôi hình dung cảm tưởng bất an xen lẫn tột độ hân hoan gắn liền với khoảnh khắc này thường nghe nói, hẳn là rất giống điều tôi cảm thấy khi ngồi trong cỗ Ford thấy khung cảnh bỗng hóa ra lạ lẫm. Thời
g g y g g ạ điểm ấy đến ngay sau khi tôi rẽ vào một khúc cua và nhận ra mình đi trên con đường lượn tròn ôm lấy rìa đồi. Tôi cảm thấy được bờ vực dựng đứng bên trái, tuy không nhìn thấy do những thân cây và tàng cây ken sít bên vệ đường. Trong lòng tôi chợt ập đến cảm giác mình đã thực sự rời khỏi Dinh Darlington, và phải thú nhận còn lờ mờ có nỗi kinh sợ - bồi thêm vào đó là ý nghĩ biết đâu tôi không hề đi đúng đường, mà đã lạc hướng đâu đó phóng vút vào miền hoang dã. Cảm giác ấy chỉ thoáng qua, nhưng cũng khiến tôi đi chậm lại. Và cả khi đã tự trấn an rằng mình đi đúng đường rồi, tôi vẫn không thể không dừng xe một chốc, kiểm điểm lại tình hình.
Tôi quyết định ra khỏi xe duỗi chân cẳng một lát, và khi làm vậy, tôi càng thấm thía hơn bao giờ hết cảm giác mình đương vắt vẻo trên sườn đồi. Một bên đường là những bụi rậm và cây nhỏ chạy lên triền dốc đứng, còn bên kia, thấp thoáng qua kẽ lá, là vùng đồng quê xa xa.
Tôi nghĩ mình đã đi dọc bên đường một quãng, ngó qua cành lá toan tìm một khoảng nhìn xuống rõ hơn, thì nghe sau lưng có tiếng nói. Tôi, cho đến lúc này đương nhiên vẫn nghĩ mình có một mình ở đây, bèn kinh ngạc quay lại. Đằng trước một quãng, bên kia đường mở ra một vệt đường mòn nhỏ chạy lên mất hút giữa những bụi cây dốc đứng. Trên hòn đá to đánh dấu đầu đường mòn, một người gầy gò tóc bạc đội mũ bê rê ngồi hút tẩu. Ông ta lại gọi tôi, và dẫu không nghe rõ lời, tôi cũng thấy ông ta đang vẫy mình lại gần. Trong giây lát tôi ngỡ đây là một người vô gia cư, nhưng rồi nhận ra chỉ là một người dân vùng này đương thưởng ngoạn nắng hè và không khí trong lành, tôi chẳng thấy cớ gì từ chối.
“Thưa ngài, tôi chỉ muốn biết,” ông ta nói khi tôi lại gần,“chân ngài có khỏe hay không.”
“Xin vô phép được hỏi ý anh là gì?”
Người kia khoát tay chỉ đường mòn. “Phải có cặp giò khỏe với lá phổi đồng mới hòng lên đó được. Tôi thì, cả hai đều không có, cho nên tôi ngồi lại đây. Nhưng nếu dẻo dai hơn, tôi đã ngồi trên đó rồi. Trên đó có một điểm dừng chân rất thú vị, có cả ghế ngồi
các kiểu. Mà cảnh ở đó thì toàn nước Anh ngài không kiếm được chỗ nào đẹp hơn đâu.”
“Nếu sự thể đúng như lời ông nói,” tôi đáp,“thì có lẽ tôi ở lại đây là hơn. Số là tôi đang khởi hành một chuyến du ngoạn bằng ô tô, và hy vọng được nhìn ngắm nhiều khung cảnh tuyệt vời trên đường đi. Nhìn thấy cảnh đẹp nhất khi còn chưa thực sự bắt đầu e rằng có hơi quá sớm.”
Người kia có vẻ không hiểu ý tôi, vì ông ta chỉ nhắc lại, “Toàn nước Anh này ngài không kiếm được chỗ nào đẹp hơn đâu. Nhưng tôi bảo rồi đấy, ngài cần cặp giò khỏe và lá phổi đồng.” Rồi nói thêm, “Tôi thấy là ngài khá dẻo dai so với tuổi, thưa ngài. Tôi dám nói ngài có thể lên đó ngon lành. Đến tôi đây, ngày đẹp trời cũng còn đi được.”
Tôi nhìn theo con đường mòn, đúng là dốc và có vẻ hơi hiểm trở.
“Cho ngài biết, thưa ngài, không đi lên đó ngài sẽ hối cho mà xem. Mà ai nói trước được điều gì. Một hai năm nữa, có thể đã quá muộn,” ông ta nói, cười nghe khá thô bỉ. “Tốt nhất giờ lên được thì cứ lên đi.”
Tới giờ tôi đã ngẫm ra rằng có lẽ người ấy chỉ muốn nói một cách khôi hài - nghĩa là, ông ta định làm một nhận xét theo kiểu bông lơn. Nhưng hồi sáng, phải nói rằng tôi thấy câu đó rất xúc phạm, và rất có thể chính vì mong muốn chứng tỏ ra rằng điều ông ta ám chỉ thực ngớ ngẩn mà tôi đã bước lên đường mòn kia.
Dẫu sao thì tôi rất mừng đã đi vào đó. Hẳn nhiên, cuốc đi ấy thuộc loại nhọc - dẫu cũng phải nói nó không đặc biệt gây khó khăn gì cho tôi - đường đi dích dắc chạy lên sườn đồi chừng trăm thước. Đi hết thì tôi gặp một khoảng nhỏ trống trải, hẳn nhiên là điểm dừng chân mà người kia nói đến. Chào đón người ta ở đây là một băng ghế, cùng, thực vậy, một khung cảnh hàng dặm đồng quê tuyệt đẹp chung quanh.
Trước mắt tôi chủ yếu là đồng nối tiếp đồng, nhấp nhô chạy xa hút mắt. Mặt đất dâng lên hạ xuống hiền hòa, mỗi cánh đồng lại có bờ cây hay hàng giậu. Trên những đồng xa có những chấm
mà tôi đoán là cừu. Về bên phải, gần như tít chân trời, tôi nghĩ còn nhìn thấy được ngọn tháp vuông của nhà thờ nào đó. Cảm giác khi đứng trên đó quả thực dễ chịu, khi người ta có thanh âm mùa hè khắp chung quanh và ngọn gió nhẹ vờn trên mặt. Và tôi nghĩ chính vào khi ấy, khi nhìn xuống khung cảnh ấy mà lần đầu tiên tâm thế tôi thay đổi để đón nhận hành trình trước mặt. Vì chính vào khi ấy lần đầu tiên tôi cảm thấy trào lên trong mình niềm mong ngóng lành mạnh trước hàng bao nhiêu kinh nghiệm vui thú mà tôi biết đang hứa hẹn cho mình trong những ngày phía trước. Và thực vậy, chính vào khi ấy tôi quyết tâm không nản lòng trước nhiệm vụ duy nhất mang tính công việc tôi đã giao cho mình trong chuyến đi này; tức là nhiệm vụ liên quan tới cô Kenton và các khó khăn về nhân sự hiện thời. *
Nhưng đấy là việc hồi sáng. Tối nay tôi đã ấm chỗ ở đây, trong nhà khách dễ chịu này, trên con phố không xa trung tâm Salisbury. Tôi đoán cơ sở này thuộc dạng khá khiêm tốn, nhưng rất sạch, và hoàn toàn đáp ứng được những nhu cầu của tôi. Bà chủ chừng bốn chục tuổi, có vẻ coi tôi là một vị đại nhân nhờ có cỗ Ford của ông Farraday cùng bộ vét hạng sang trên người. Từ buổi chiều nay - tôi tới Salisbury quãng ba rưỡi - khi biên vào sổ khách của bà địa chỉ “Dinh Darlington”, tôi đã thấy bà nhìn tôi có phần run sợ, hẳn nhiên cho rằng tôi là một vị quyền quý vốn chỉ quen với khách sạn Ritz hay Dorchester và sẽ đùng đùng bỏ đi ngay khi được đưa lên phòng. Bà ngỏ lời với tôi rằng có một phòng đôi phía trước còn trống, sẵn sàng cho tôi trọ với giá tiền bằng phòng đơn.
Thế là tôi được đưa tới phòng này, vào cái giờ ấy, ánh nắng đang rọi sáng những họa tiết hình hoa trên giấy dán tường nhìn rất mực ưa mắt. Có hai chiếc giường đơn và hai cửa sổ khá lớn nhìn xuống phố. Khi tôi ướm hỏi phòng phụ nằm đâu, bà rụt rè bảo tôi rằng đấy chính là cánh cửa đối diện phòng tôi, nhưng nước nóng phải đợi tới sau bữa tối mới có. Tôi nhờ bà mang một ấm trà lên phòng, và lúc bà đi, tôi xem xét căn phòng kĩ hơn. Hai chiếc giường sạch sẽ tinh tươm, chăn đệm phẳng phiu. Bồn rửa
trong góc cũng sạch bóng. Nhìn ra ngoài cửa sổ có thể thấy bên kia đường có một hiệu bánh bày đủ chủng loại bánh ngọt đa dạng, một hiệu dược phẩm, một hiệu cắt tóc. Nhìn xa nữa, người ta sẽ thấy con phố chạy qua cây cầu lưng vồng rồi đi tiếp vào những vùng thôn dã. Tôi rửa ráy mặt mũi và hai tay bằng nước lạnh nơi bồn rửa, rồi đặt mình ngồi lên cái ghế lưng cứng đặt gần một bên cửa sổ, đợi lên trà.
Tôi đoán chắc độ quá bốn giờ một chút thì tôi rời nhà khách, dấn mình vào phố phường Salisbury. Thiết kế đường phố rộng và thoáng khí khiến thành phố cho cảm giác rộng rãi tuyệt vời, khiến tôi thoải mái dành cả vài giờ thả bộ trong nắng ấm dịu dàng. Thêm nữa, tôi nhận ra vô số nét quyến rũ trong thành phố; cứ thi thoảng tôi lại thấy mình đi qua những dãy nhà ván ghép cũ xinh đẹp, hay băng ngang một cây cầu đá nhỏ dành cho khách bộ hành vắt qua một trong rất nhiều con suối chảy qua thành phố. Và đương nhiên, tôi không quên tới viếng thăm nhà thờ chính tòa xinh đẹp mà bà Symons trong những trang sách đã không tiếc lời ngợi khen. Tìm đến tòa kiến trúc đường bệ ấy chẳng có gì khó, bởi dù người ta ở đâu trong Salisbury, đỉnh tháp cũng hiện lên lừng lững phía chân trời. Thực vậy, chiều tối nay, trên đường trở lại nhà khách, tôi đã ngoái lại nhìn cả mấy lần và mỗi lần lại được thấy cảnh mặt trời lặn sau đỉnh tháp lừng lững ấy.
Vậy nhưng đêm nay, giữa cảnh lặng lẽ trong phòng này, tôi nhận ra còn lại trong mình sau ngày du hành đầu tiên lại không phải Nhà thờ chính tòa Salisbury, hay một nét duyên nào khác của thành phố, mà là khung cảnh tuyệt vời những cánh đồng Anh nhấp nhô mà tôi bắt gặp sáng hôm nay. Xin phép được nói rằng tôi hết lòng tin những đất nước khác có thể bày ra những cảnh trí rành rành tráng lệ hơn nhiều. Thực vậy, tôi đã được thấy trong những bách khoa thư, trong tạp chí National Geographic những tấm ảnh chụp các cảnh tượng năm châu bốn bể đẹp mê hồn: những hẻm vực hùng vĩ, những thác nước lồng lộng, những vách núi gai góc tuyệt mỹ. Dĩ nhiên, tôi chưa bao giờ có cái hân hạnh được tận mục sở thị những cảnh đó, nhưng
tôi vẫn tương đối tự tin mà đánh bạo đưa ra giả thuyết này: cảnh vật nước Anh ở độ tinh tế nhất - như tôi được thấy sáng hôm nay - sở hữu trong mình một phẩm chất mà cảnh vật ở các đất nước khác, dẫu vẻ ngoài có ấn tượng hơn bao nhiêu, thì cũng không cách nào có được. Và tôi tin chính phẩm chất đó sẽ khiến cho bất cứ người quan sát công tâm nào cũng phải thừa nhận phong cảnh nước Anh là thứ phong cảnh mang lại niềm xúc động trọn vẹn nhất thế giới, một phẩm chất có thể tóm gọn bằng từ “vĩ đại”. Bởi đúng là như thế, khi đứng trên rìa đồi cao ngắm khung cảnh trải ra trước mặt sáng hôm nay, tôi nhận thấy rõ rệt cái cảm giác hiếm hoi nhưng không thể lầm được ấy - cảm giác rằng người ta đang đối mặt với cái vĩ đại. Miền đất quê hương này chúng ta gọi là Đại Anh quốc, và có thể có người nghĩ rằng cách gọi ấy có phần huênh hoang. Nhưng tôi mạo muội cho rằng chỉ riêng cảnh sắc quê hương ta thôi cũng đủ cho thấy cái tính ngữ cao vời ấy hết sức thỏa đáng.
Vậy nhưng đích xác thì cái “vĩ đại” ấy là gì? Nó nằm ở đâu, hay do bởi điểm nào? Tôi khá hiểu rằng cần một bộ óc thông thái vượt xa tôi mới giải đáp được câu hỏi ấy, nhưng nếu phải mạn phép đưa ra lời đoán, thì tôi cho rằng chính vì không có những cảnh trí hoành tráng hay biến ảo đập vào mắt mà vẻ đẹp của xứ ta khác hẳn những nơi còn lại. Điều đáng kể ở đây là chất điềm tĩnh nơi vẻ đẹp ấy, là cảm giác tiết chế nơi nó. Vẻ như mảnh đất này biết rõ cái đẹp của bản thân, sự vĩ đại của bản thân, nên chẳng thấy cần khua chiêng gióng trống làm gì. Đem so với nó, những cảnh trí mời mọc ta ở những nơi như Phi châu hay Mỹ châu mặc dầu hiển nhiên rất kích thích lòng, nhưng tôi tin chắc, trước mắt người ngắm cảnh công tâm, sẽ tỏ ra là thua kém chính vì sự phô phang thiếu chừng mực.
Câu hỏi ấy rất tương đồng với câu hỏi đã gây nên nhiều bàn cãi trong nghề chúng tôi qua nhiều năm: thế nào là một quản gia “vĩ đại”? Tôi vẫn nhớ đã dành nhiều giờ thú vị bàn luận về đề tài này bên lò sưởi trong phòng gia nhân khi cuối ngày. Chắc hẳn quý vị nhận thấy tôi nói “thế nào là” chứ không nói “ai là”; bởi về phần những ai đã trở nên khuôn vàng thước ngọc trong
thế hệ chúng tôi thì thực sự không có nhiều bàn cãi. Nói vậy có nghĩa là, tôi đang nhắc đến những nhân vật như ông Marshall ở Nhà Charleville, hay ông Lane ở Bridewood. Nếu từng có vinh dự được gặp gỡ những con người như thế, hẳn nhiên quý vị đã biết về cái phẩm chất nơi họ mà tôi đang kể đến đây. Nhưng cũng hẳn nhiên quý vị sẽ hiểu vì sao tôi nói rằng hoàn toàn không dễ định nghĩa cho ra phẩm chất ấy.
Nhân tiện, bởi giờ tôi nghĩ thêm về vấn đề này, xin nói rằng không hẳn hoàn toàn không có bất đồng về việc ai là những quản gia vĩ đại thời chúng tôi. Đáng ra tôi phải nói rằng không có bất đồng gì lớn giữa những quản gia có trình độ và có chút hiểu biết về những vấn đề loại này. Đương nhiên, phòng gia nhân tại Dinh Darlington, cũng như phòng gia nhân tại mọi nơi khác, không thể khước từ đón tiếp những gia nhân có trí thông minh và óc quan sát thuộc mọi cấp độ khác nhau, và tôi nhớ đã nhiều lần phải mím miệng làm thinh giữa lúc gia nhân nhà ai đó - và có lúc, tôi buồn phiền mà nói điều này, cả người trong chính nhà tôi - hăng say tán tụng những người như ông Jack Neighbours chẳng hạn.
Tôi không có gì phản đối ông Jack Neighbours, người theo tôi biết, đã không may tử trận trong chiến tranh. Tôi nêu tên ông chỉ đơn giản vì ông là một trường hợp điển hình. Trong chừng hai, ba năm vào quãng giữa thập niên ba mươi, cái tên ông Neighbours dường như đã là chủ đề bàn luận chính ở mọi phòng gia nhân trên cả nước. Cả ở Dinh Darlington, như tôi đã nói, rất nhiều gia nhân ghé chơi sẽ đem theo chuyện về những kỳ tích mới nhất của ông Neighbours, khiến cho tôi hay những người như ông Graham sẽ phải mệt mỏi chịu đựng hàng tràng những giai thoại về ông ấy. Và mệt hơn hết là phải chứng kiến, khi kết thúc mỗi giai thoại ấy, những nhân viên thường ngày vẫn đàng hoàng kia lúc lắc đầu sửng sốt và thốt ra những câu đại loại như: “Cái ông Neighbours ấy, ông ta đúng là số một.”
Phải nói rằng tôi không nghi ngờ gì việc ông Neighbours có tài tổ chức rất khá; theo tôi được biết, ông đã dàn dựng nhiều buổi tiếp tân quy mô rất phong cách và hoành tráng. Nhưng chưa
một lúc nào ông có thể tới gần được tư cách một quản gia vĩ đại. Tôi hoàn toàn không ngại nói điều này ngay từ khi danh tiếng của ông đương ở đỉnh cao, cũng như tôi đã từng dự đoán cuộc sa cơ của ông sau vài năm ngắn ngủi được thần tượng đến như vậy.
Quý vị đã bao lần chứng kiến cảnh một quản gia mới ngày nào còn nức tiếng nơi nơi là người vĩ đại nhất trong thế hệ mình, thế mà rồi chỉ mấy năm sau đã lộ diện triệt để rằng hoàn toàn trái lại? Ấy nhưng chính những gia nhân thuở nào từng tâng bốc ông đến mây xanh, nay lại đang mê mải xưng tụng một tên tuổi nào khác, chẳng biết đường bình tâm xem xét lại trí phán đoán của mình. Đối tượng của những chuyện trò kiểu này nơi phòng gia nhân bao giờ cũng là một quản gia nào đó vừa đột ngột nổi lên nhờ được nhận vào một nhà quyền quý nào đấy, và có thể đã đạo diễn hai, ba sự kiện lớn phần nào thành công. Tiếp theo sẽ thấy tin đồn xôn xao khắp các phòng gia nhân trong Nam ngoài Bắc, nào ông ta đã được mời mọc bởi nhân vật chức trọng quyền cao nọ, nào ông ta đương cân nhắc những mức lương cạnh tranh chóng mặt từ vài danh gia vọng tộc kia. Và rồi sau đó chưa được vài năm thì sao? Chính nhân vật vô khuyết ngày nào lại mắc lầm lỗi nặng, hay vì cớ nào khác mà đánh mất lòng sủng ái của ông bà chủ, rời khỏi ngôi nhà đã đưa lại cho ông ta danh tiếng, và tịnh không bao giờ còn nghe tên. Trong lúc đó thì những kẻ đưa chuyện khi xưa đã kịp tìm ra một người mới nổi nào khác để mà trầm trồ. Các tùy tùng ghé chơi, như tôi nhận thấy, thường mắc lỗi này nặng nhất, bởi họ thường ôm mộng thăng lên vị trí quản gia càng sớm càng hay. Chính họ là những người luôn miệng nói rằng ông nọ ngài kia mới chính là hình mẫu cần học tập, hoặc nhắc đi nhắc lại lời phán bảo của ngôi sao nào đó về các vấn đề chuyên môn.
Nhưng lại cũng đương nhiên, tôi phải nói ngay điều này, có rất nhiều tùy tùng khác chẳng có lấy dẫu chỉ là chút ý định dự vào những việc ngốc dại kiểu ấy, mà thực tình còn là những người hành nghề có óc phán xét sành sỏi. Những dịp nào gặp được hai hoặc ba người như vậy cùng tụ họp ở phòng gia nhân nhà chúng tôi - thuộc hàng như ông Graham chẳng hạn, mà
buồn thay, dường như giờ tôi đã mất hẳn liên lạc với ông - là chúng tôi sẽ có một cuộc tranh luận thuộc loại thông minh và khơi gợi suy nghĩ bậc nhất về đủ mọi khía cạnh trong nghề. Thực vậy, cho tới ngày hôm nay, những buổi tối kia vẫn thuộc vào số những kỷ niệm ấm áp nhất của tôi về thời ấy.
Nhưng xin hãy cho tôi trở lại câu hỏi thực tình đáng quan tâm ở đây, câu hỏi mà chúng tôi rất ưa thảo luận những buổi tối không vẩn đục vì những trò chuyện buông tuồng của những người chẳng có lấy chút hiểu biết căn bản về nghề; ấy là câu hỏi “thế nào là một quản gia vĩ đại?”
*
Trong phạm vi hiểu biết của tôi, dầu cho câu hỏi này đã khiến nảy sinh bao đàm luận trong bấy nhiêu năm, nhưng trong nội bộ nghề chưa hề có mấy cố gắng ngõ hầu đưa ra một câu trả lời chính thức. Trường hợp duy nhất mà tôi nhớ được là cái lần Hội Hayes tìm cách thiết kế ra tiêu chí tuyển chọn thành viên. Cũng có thể quý vị chưa từng biết đến Hội Hayes; ngày nay rất ít người còn nhắc nhở đến nó. Nhưng hồi thập niên hai mươi và đầu ba mươi, hội ấy có tầm ảnh hưởng đáng kể hầu khắp London cùng các hạt lân cận. Thực tế là nhiều người cảm thấy hội đã trở nên quá quyền lực, và cũng không tiếc thương gì khi hội buộc phải giải thể, tôi nghĩ là vào năm 1932 hoặc 1933.
Hội Hayes tuyên bố rằng họ chỉ kết nạp những quản gia “thuộc hàng ưu tú nhất”. Thế lực và danh giá mà hội này về sau đạt đến phần lớn là bởi, không giống như các hội tương tự đã tụ rồi tan, họ thực sự giới hạn được số lượng hội viên cực kỳ ít ỏi, nhờ thế tuyên bố kia giữ được ít nhiều uy tín. Nghe đồn rằng trong lịch sử hội, số hội viên chưa bao giờ lên tới quá ba chục, phần lớn chỉ loanh quanh chín hoặc mười. Thêm vào đó, Hội Hayes hoạt động phần nhiều khá bí mật, hai điều ấy khiến quanh hội phủ một màn sương huyền hoặc suốt một thời gian, đủ cho mỗi tuyên bố mà thỉnh thoảng hội ban ra về những vấn đề chuyên môn được đón nhận như điều răn trên bảng đá.
Nhưng có một vấn đề mà suốt hồi lâu hội này nhất định không công bố, đấy là tiêu chí kết nạp hội viên của chính họ. Áp
lực đòi hỏi công bố điều này càng lúc càng tăng, và đáp lại một chuỗi thư độc giả đăng trên Tam cá nguyệt san của giới thị tùng, hội này thừa nhận rằng một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành hội viên là “ứng viên phải phục vụ trong một gia đình danh giá”. “Dù, đương nhiên,” họ còn nói thêm, “riêng điều này thì chưa thể coi là đủ để đáp ứng yêu cầu kết nạp.” Thêm nữa, hội còn nói rõ rằng họ không coi nhà của giới doanh thương hoặc “người giàu mới” là “danh giá”, và theo thiển ý của tôi thì lối suy nghĩ lỗi thời kiểu này đã làm suy giảm nghiêm trọng chút uy tín nào hội đã giành được trong vai trò cầm cân nảy mực cho nghề này. Sau khi thư hồi đáp tiếp tục đổ đến, Hội Hayes bảo vệ quan điểm của mình, dẫu thừa nhận quan điểm của một số bạn đọc rằng vẫn có một vài quản gia phẩm chất tuyệt hảo hiện đương phục vụ trong nhà các doanh nhân, thì “chúng tôi vẫn buộc phải giả định rằng những con người như vậy chẳng chóng thì chầy sẽ được mời về phục vụ trong gia đình các quý nhân đích thực” . Người ta cần nghe theo sự phán định của “các quý nhân đích thực”, đấy là lập luận của hội, bằng không “chẳng khác nào chúng ta đi theo mực thước cánh Bolshevik ở Nga về”. Phát biểu này còn thổi bùng tranh cãi rầm rộ hơn nữa, và thư từ gửi về cứ tiếp tục tăng sức ép hối thúc hội phải bạch hóa đầy đủ những tiêu chí chọn hội viên. Cuối cùng thì, một lá thư ngắn gửi cho tập san đã bộc lộ rằng, theo quan điểm của hội - ở đây tôi sẽ cố gắng trích dẫn chính xác theo trí nhớ - “tiêu chí thiết yếu nhất là ứng viên phải sở hữu một phẩm cách xứng hợp với chức vị của mình. Bất kỳ một ứng viên nào, dẫu cho thành tựu dày dặn đến đâu, nếu bị xét thấy thua kém về phương diện này đều không thể được coi là thỏa mãn điều kiện gia nhập hội.”
Dẫu bản thân chẳng mấy mặn mà với Hội Hayes, tôi tin rằng ít nhất riêng phát biểu này cũng đặt trên cơ sở một chân lý hệ trọng. Khi nhìn vào tất cả những ai có thể khiến người ta nhất trí là một quản gia “vĩ đại”, khi nhìn vào ông Marshall hay ông Lane, chẳng hạn, đúng là tôi có cảm giác rằng yếu tố phân biệt
họ với những quản gia chỉ đơn thuần là tài khéo hết mực có thể được diễn tả gần sát nhất bằng chữ “phẩm cách” này. Đương nhiên, nói như vậy chỉ dẫn ta đến câu hỏi tiếp theo: vậy thì “phẩm cách” chứa đựng những gì? Và chính xoay quanh điểm này mà những người như ông Graham và tôi đã có những cuộc tranh luận vào loại lý thú nhất. Ông Graham thì luôn giữ quan điểm rằng “phẩm cách” này cũng tựa như nhan sắc của người phụ nữ, có tìm cách phân tách rạch ròi cũng uổng công. Còn tôi, ngược lại, cho rằng ví von như vậy sẽ làm giảm giá trị “phẩm cách” của những người như ông Marshall. Thêm nữa, tôi không đồng tình với phép so sánh của ông Graham chủ yếu là vì, nó ám chỉ “phẩm cách” ấy là thứ người ta có được hoặc không là do sự đỏng đảnh của tự nhiên, và nếu không rành rành là có nó, thì gắng gỏi mấy cũng chỉ hoài công, như một người đàn bà xấu gắng hóa trang cho đẹp. Còn tôi, dẫu công nhận rằng đại đa số quản gia hẳn sẽ đến một lúc nhận ra họ căn bản không có cơ đạt được điều ấy, nhưng tôi cũng cực lực tin tưởng rằng “phẩm cách” ấy là thứ người ta có thể vì nó mà khổ luyện phấn đấu suốt sự nghiệp mình. Những quản gia “vĩ đại” sở hữu nó như ông Marshall, tôi tin chắc đấy là nhờ trui rèn và tích tụ kĩ lưỡng kinh nghiệm qua nhiều năm mà đạt được. Vậy nên theo thiển ý của tôi, xét về mặt nghề nghiệp mà nói, thái độ của ông Graham chỉ dẫn tới chủ nghĩa thất bại.
Dẫu sao đi nữa, bất chấp quan điểm hoài nghi của ông Graham, trong ký ức tôi còn lưu lại nhiều buổi tối tôi với ông đã cùng nhau tìm cách lý giải những gì làm nên thứ “phẩm cách” này. Chúng tôi chưa bao giờ dừng lại ở một kết luận cuối nào, nhưng riêng về phần mình, tôi có thể nói mình đã hình thành nên những ý tưởng khá kiên định thông qua những buổi đàm luận ấy, và phần lớn đó vẫn là những điều tôi còn tin tưởng ngày nay. Nếu được phép, tôi xin tìm cách trình bày ở đây về “phẩm cách” ấy theo kiến giải của mình.
Tôi đồ rằng quý vị sẽ thấy không cần phải phản đối nhận định rằng xét trong giai đoạn gần đây ông Marshall ở Nhà Charleville và ông Lane ở Bridewood có thể kể làm hai quản gia vĩ đại. Có
thể quý vị còn chịu đồng tình rằng ông Henderson ở Lâu đài Branbury cũng thuộc cái phạm trù hiếm hoi kia. Nhưng có lẽ quý vị sẽ cho rằng tôi chỉ thuần xuất phát từ thiên ái mà bảo rằng chính cha tôi đây, về nhiều mặt có thể xếp ngang hàng với những người như vậy, và sự nghiệp của ông chứ chẳng phải ai khác là điều tôi chiêm nghiệm từ trước đến nay để tìm ra định nghĩa thế nào là “phẩm cách”. Thế nhưng tôi tin tưởng đinh ninh rằng trong thời đỉnh cao sự nghiệp của ông ở Nhà Loughborough, cha tôi chính là hiện thân sống của “phẩm cách” trên đời.
Tôi có hiểu rằng, nếu xem xét vấn đề một cách khách quan, không thể không công nhận cha tôi thiếu rất nhiều yếu tố người ta thường trông đợi nơi một quản gia vĩ đại. Nhưng theo thiển ý của tôi, những chỗ thiếu sót ấy, không trừ cái nào, đều chỉ là những yếu tố bề mặt mang tính trang trí - hấp dẫn thực, như kem trên mặt bánh, nhưng chẳng hề quan hệ tới phần bản chất. Ở đây tôi đang nhắc đến những điều như ngữ điệu hay và lời ăn tiếng nói điêu luyện, hay vốn kiến thức rộng rãi về những đề tài quảng bác từ nghệ thuật huấn luyện chim ưng săn cho đến cách phối giống sa giông - cha tôi thì chẳng thể nhận mình biết được chút gì trong số ấy. Thêm nữa, cần phải lưu ý rằng cha tôi thuộc về lớp quản gia thế hệ trước; vào thời điểm ông khởi đầu sự nghiệp, những hiểu biết kiểu ấy ở một quản gia thậm chí còn không được coi là đứng đắn, chứ đừng nói là được đánh giá cao như hiện nay. Nỗi mê cuồng tài ăn nói văn hoa và kiến văn rộng rãi dường như có vẻ mới nảy sinh từ thế hệ tôi, hẳn là từ sau khi ông Marshall thành danh và những kẻ kém cỏi hơn muốn sao chép lại tầm vóc vĩ đại của ông đã lầm cái vỏ ngoài là bản chất. Phải nói rằng theo ý tôi, thế hệ hiện tại đã quá mải mê với những rườm rà tiểu tiết; có trời tính được bao nhiêu thời gian công sức đã đổ vào luyện tập ngữ điệu và trui rèn lời ăn tiếng nói, bao nhiêu giờ đồng hồ đã tiêu phí để ngâm ngợi những bộ bách khoa thư hay các tập Thường thức cho mọi nhà, trong khi thời gian ấy đáng ra phải dùng để nắm vững những yếu lĩnh căn bản của nghề.
Mặc dầu chúng ta cần thận trọng kẻo rơi vào chối bỏ cái trách nhiệm mà xét cho cùng vẫn là của chính mình, nhưng cũng cần phải nói rằng có một số ông chủ nhất định đã có vai trò lớn trong việc khuyến khích những xu hướng kiểu ấy. Tôi lấy làm tiếc phải phát biểu rằng theo quan sát của mình, có một vài gia tộc trong những năm gần đây, trong đó có cả những gia đình cao quý bậc nhất, đã tuồng như có ý cạnh tranh với nhau và không từ cả việc đem “phô” với tân khách những tài năng nhỏ nhặt về hạng ấy của quản gia. Tôi đã nghe kể nhiều lần người quản gia được đem trình ra như một con khỉ làm trò ở một buổi tiệc nhà ai đó. Trong một trường hợp đáng buồn mà tôi đã tận mắt chứng kiến, ở một nhà nọ, có một tiết mục tiêu khiển đã thành thông lệ là quan khách đến nhà sẽ cho triệu người quản gia tới hỏi những câu trên trời rơi xuống, thí dụ như ai là quán quân cuộc đua ngựa Derby trong năm nọ năm kia, như thể người ấy là một diễn viên “nhớ tuốt biết tuốt” ở rạp tạp kỹ.
Như tôi đã nói, thế hệ của cha tôi có cái may mắn là hoàn toàn chưa phát sinh những nhập nhằng về giá trị nghề nghiệp kiểu ấy. Và tôi khẳng định rằng, bất chấp lời ăn tiếng nói thô vụng của ông, cũng như vốn kiến thức phổ thông hạn chế của ông, ông không chỉ nắm vững mọi điều cần thiết để điều hành một ngôi nhà, mà ở đỉnh cao sự nghiệp của mình, ông thực sự đã đạt tới cái “phẩm cách xứng hợp với chức vị của ông”, như Hội Hayes nói. Vậy nếu gắng mô tả lại hầu quý vị điều gì theo tôi thấy đủ khiến cha tôi đứng vào hàng cao quý như vậy, thì tôi có thể nhờ đó mà truyền đạt lại ý niệm của mình về “phẩm cách” chăng.
Có một câu chuyện cha tôi ưa thuật lại qua nhiều năm. Tôi nhớ đã từng nghe ông kể cho khách thăm ngày tôi còn nhỏ, rồi nghe lại sau này, khi mới vào nghề, làm người hầu dưới sự giám sát của ông. Tôi nhớ ông kể chuyện đó lần nữa khi tôi về thăm ông lần đầu sau khi nhậm chức quản gia đầu tiên trong đời - là ở căn nhà có phần thanh bạch của ông bà Muggeridge ở Allshort, Oxfordshire. Hẳn nhiên câu chuyện có nhiều ý nghĩa với ông. Thế hệ cha tôi không có tính ưa phẩm bình phân tích như thế hệ
hiện tại, và theo tôi thấy, việc kể đi nhắc lại câu chuyện này có thể coi là hành động chiêm nghiệm về nghề cao nhất của cha tôi. Như vậy, đây là chìa khóa căn cốt để hiểu lối suy nghĩ của ông.
Đây có vẻ là một câu chuyện thực, về một người quản gia đã theo ông chủ đi Ấn Độ và trong nhiều năm phục vụ ở đó đã huấn luyện đội ngũ nhân viên người bản địa theo những tiêu chuẩn cao không kém gì thuở vẫn ở Anh. Theo lời kể lại, một buổi chiều, người quản gia vào phòng ăn soát lại lần cuối trước bữa tiệc tối thì nhận thấy dưới gầm bàn ăn có một con hổ đang nằm ườn. Lẳng lặng rời phòng ăn, không quên đóng cửa khi đi ra, người quản gia điềm tĩnh vào phòng tiếp tân nơi ông chủ đang dùng trà với vài vị khách. Rồi đánh tiếng với ông chủ bằng một tiếng ho lễ độ, ông nói nhỏ vào tai người chủ: “Xin thất lễ, thưa ông chủ, nhưng dường như có một con hổ trong phòng ăn. Ông chủ chấp thuận cho sử dụng cây súng săn chứ?”
Và theo sự tích còn truyền lại, mấy phút sau, ông chủ cùng tân khách nghe thấy ba tiếng súng vang lên. Một hồi sau đó, khi người quản gia trở lại vào phòng tiếp tân châm thêm trà, ông chủ hỏi tình hình có ổn không.
“Hoàn toàn ổn, cảm ơn ông chủ đã hỏi thăm,” người quản gia đáp lời. “Bữa tối sẽ dọn vào giờ thường lệ và tôi vui mừng được báo với ông chủ rằng sẽ không còn lại dấu vết khả kiến nào về sự việc mới đây vào thời điểm đó.”
Câu kết ấy - “không còn lại dấu vết khả kiến nào về sự việc mới đây vào thời điểm đó” - cha tôi thường nhắc lại, bật cười và lắc đầu ngưỡng mộ. Ông không nhận mình có biết tên người này, hay biết ai từng quen người đó, nhưng lần nào cũng đoan chắc rằng sự việc đã diễn ra đúng y như chuyện kể. Dẫu sao đi nữa thì, câu chuyện có thực hay không cũng không phải là điều quan trọng; điều đáng kể ở đây dĩ nhiên là câu chuyện ấy nói lên điều gì về lý tưởng của cha tôi. Bởi sau này nhìn lại sự nghiệp ông, tôi nhận ra rằng suốt những năm tháng hành nghề hẳn ông đã gắng sức để cách nào đó trở thành người quản gia trong câu chuyện ấy. Và theo thiển ý tôi, ở vào đỉnh cao sự nghiệp
mình, ông đã đạt được nguyện vọng này. Bởi dẫu tôi chắc ông chẳng bao giờ có cơ hội giáp mặt một con hổ dưới gầm bàn ăn, nhưng khi điểm lại trong đầu mọi điều từng biết hoặc từng nghe kể về ông, tôi có thể liệt kê ra ít nhất vài trường hợp ông đã thể hiện dư dật cái phẩm chất ông rất đỗi ngưỡng mộ ở người quản gia trong câu chuyện ấy.
Một trường hợp như vậy tôi được nghe từ ông David Charles, thuộc công ty Charles và Redding, vẫn thỉnh thoảng lui tới Dinh Darlington thời Huân tước Darlington. Một buổi tối tôi lãnh nhiệm vụ tùy tùng cho ông, ông kể tôi nghe đã gặp cha tôi vài năm trước, đương khi làm khách tại Nhà Loughborough, là tư gia của nhà công nghiệp John Silvers nơi cha tôi đảm nhận chức quản gia suốt mười lăm năm thời đỉnh cao sự nghiệp. Ông chưa bao giờ quên được cha tôi, ông Charles đã kể với tôi như thế, vì một việc xảy ra trong chuyến viếng thăm này.
Một buổi chiều, và ông Charles lấy làm hối tiếc và hổ thẹn rất nhiều vì chuyện này, ông đã tự cho phép mình bị sa đà quá chén cùng hai người khách khác trong nhà, tôi sẽ chỉ gọi là ông Smith và ông Jones vì hẳn trong một vài giới nào đó vẫn có người còn nhớ họ. Sau khoảng một giờ thù tạc, hai vị kia nảy ý muốn làm một cuốc xe chiều quanh các làng lân cận, bởi vào thời đó xe hơi vẫn còn là thứ tương đối mới mẻ hiếm có. Họ thuyết phục ông Charles cùng đi, và bởi tới lúc đó tài xế đã nghỉ, họ chỉ định cha tôi làm người lái xe.
Một khi đã khởi hành, ông Smith và ông Jones, dẫu đều đã quá tuổi trung niên, bắt đầu hành xử như những cậu học trò, hát hỏng thô tục và bình phẩm còn thô tục hơn về tất cả những gì nhìn thấy qua cửa sổ. Thêm vào đó, hai vị này đã phát hiện trên bản đồ vùng lân cận có ba ngôi làng tên Morphy, Saltash và Brigoon. Tôi phải chua rõ ở đây là mình không chắc tên đúng là như thế, nhưng vấn đề là ở chỗ, ông Smith và ông Jones nghĩ các tên ấy giống như Murphy, Saltman và mèo Brigid trong vở tạp kỹ mà có thể quý vị từng nghe tới. Nhận thấy điều trùng hợp ngộ nghĩnh này, hai vị kia nảy sinh ao ước được viếng thăm ba ngôi làng có tên đó - vẻ như là nhằm tri ân các anh kép tạp kỹ.
Theo lời ông Charles kể, cha tôi đã tận tình đưa họ đến làng thứ nhất, rồi chuẩn bị rẽ vào làng tiếp theo, thì hoặc ông Smith hoặc ông Jones chợt nhận ra đó là làng Brigoon - tức làng thứ ba chứ không phải làng thứ hai theo danh sách. Hai vị đó giận dữ đòi cha tôi phải lập tức trở đầu xe để họ đến thăm ba ngôi làng “theo đúng trật tự”. Sự thể là muốn vậy phải đi vòng lại một đoạn đường khá xa, nhưng theo như ông Charles cam đoan với tôi, cha tôi đã tiếp nhận như thể đó là một yêu cầu rất mực hợp lẽ, và về tổng thể vẫn cư xử lễ độ không có gì thất thố.
Nhưng giờ thì ông Smith và ông Jones đã chuyển sự chú ý sang cha tôi, và hẳn là đã chán cảnh vật ngoài cửa sổ, họ bèn đổi sang tiêu khiển bằng cách hò hét những nhận định kém thiện ý về “sai sót” của cha tôi. Ông Charles nhớ mình đã kinh ngạc thấy cha tồi không mảy may tỏ ý bất bình hay tức giận, chỉ tiếp tục lái xe với vẻ mặt cân bằng tuyệt đối giữa phẩm cách cá nhân và thái độ sẵn sàng phục vụ. Nhưng sự điềm tĩnh của cha tôi không được phép kéo dài lâu. Bởi khi tới tấp xúc phạm cha tôi hiện đang quay lưng về phía họ đã chán, hai vị kia bắt đầu chuyển sang đề tài người chủ ngôi nhà họ đang nghỉ lại, cũng tức là ông chủ của cha tôi, ông John Silvers. Những bình phẩm của họ càng lúc càng đê tiện và vô ơn, đến nỗi ông Charles buộc phải xen vào, hay ít ra là ông nói vậy, góp ý rằng ăn nói như vậy là không phải lẽ. Nhưng ý kiến ấy đã gặp phải sự phản kháng hăng tới nỗi ông Charles không chỉ lo sẽ trở thành đối tượng tiếp theo được hai vị kia chiếu cố, mà còn thực sự đã nghĩ rằng mình đang đối diện với nguy cơ bị hành hung. Nhưng thình lình, sau một luận điệu ám chỉ đặc biệt gớm guốc về ông chủ từ phía họ, cha tôi bỗng dừng phắt xe. Việc xảy ra sau đó chính là điều ghi lại dấu ấn không thể phai mờ cho ông Charles.
Cửa sau xe mở, từ trong xe nhìn ra có thể thấy cha tôi đứng đó, cách cỗ xe vài bước, mắt không chớp nhìn vào xe. Theo như ông Charles tả lại, cả ba người cùng một lúc dường như choáng váng nhận ra tầm vóc đồ sộ át người của ông. Thực vậy, cha tôi cao tầm mét chín, còn ngoại hình ông, dẫu khiến người ta hết sức an tâm khi biết ông sẵn sàng phục vụ mình, lại có thể thành ra
cực kỳ đáng sợ nếu phải đối diện trong một số hoàn cảnh khác. Theo lời ông Charles, cha tôi không tỏ vẻ gì là giận dữ ra mặt cả. Dường như ông chỉ đơn thuần mở cửa xe. Ấy thế mà có một vẻ gì vừa là lời quở trách dữ tợn, lại vừa vững chãi không thể quật ngã trong dáng người lừng lững trông xuống họ, khiến hai bạn đồng hành say bí tỉ của ông Charles dường co rúm lại như hai cậu nhỏ bị bắt quả tang trộm táo trong vườn.
Cha tôi cứ vậy đứng đó một hồi, không nói một lời, chỉ giữ cho cửa xe mở. Cuối cùng thì hoặc ông Smith hoặc ông Jones phát biểu: “Chúng ta không đi tiếp ư?”
Cha tôi không trả lời, chỉ làm thinh đứng đó, không yêu cầu họ ra khỏi xe cũng không có biểu hiện nào nói lên ý muốn hay dự định của ông. Tôi dễ dàng mường tượng được dáng vẻ ông ngày hôm ấy, đứng giữa khung cửa xe, cái hình dung tối đen khắc khổ của ông át cả phong cảnh Herfordshire êm ả sau lưng ông. Những khoảnh khắc e sợ lạ lùng, ông Charles nhớ lại, và cả ông tuy không can dự vào hành vi của họ lúc trước, cũng thấy mình như bị ngợp trong hổ thẹn. Cảnh im lặng dường như định tiếp diễn không hồi kết, trước khi hoặc ông Smith hoặc ông Jones lấy được can đảm lúng búng, “Chắc là hồi nãy chúng tôi đã nói chuyện có phần vô ý. Sẽ không có lần sau nữa đâu.”
Cân nhắc lời này trong giây lát, cha tôi nhẹ tay đóng cửa lại, trở về ghế lái và tiếp tục cuộc du hành qua ba ngôi làng - cuộc du hành mà như ông Charles đảm bảo với tôi, sau đó đã kết thúc hầu như trong im lặng.
Nhớ lại câu chuyện này, tôi lại thấy hiện đến trong đầu một sự việc khác cũng vào quãng ấy trong sự nghiệp của cha tôi, thể hiện có lẽ còn ấn tượng hơn nữa cái phẩm chất đặc biệt mà ông đã rèn nên. Đến đây tôi phải trình bày thêm rằng nhà tôi vốn có hai anh em - anh trai tôi, Leonard, đã tử trận trong chiến tranh Nam Phi từ ngày tôi còn nhỏ. Hiển nhiên, mất mát ấy là một đòn mạnh giáng xuống cha tôi; nhưng sự thể còn tệ hơn nữa, vì mối an ủi thông thường cho một người cha trong những hoàn cảnh tương tự, rằng con trai mình đã hy sinh vinh quang cho đức vua và Tổ quốc - lại bị vẩn đục bởi sự anh trai tôi chết trận
trong một chiến dịch đặc biệt ô danh. Không chỉ bởi những cáo buộc rằng đấy là một đợt tấn công vào những khu định cư dân sự của người Boer, một cử chỉ trái ngược hẳn với tinh thần Anh quốc, mà còn vì những bằng chứng thừa thãi cho thấy ban chỉ huy đã hành xử vô trách nhiệm, xem khinh những phép phòng bị cơ bản trong quân sự, khiến cho những người hy sinh, trong đó có anh trai tôi, đã chết một cái chết vô nghĩa lý. Xét theo những điều sắp tường thuật sau đây, nếu tôi nêu cụ thể hơn nữa về chiến dịch này thì sẽ không được phải phép cho lắm, dầu hẳn quý vị sẽ đoán ra ngay thôi nếu biết rằng chiến dịch này đã gây một cơn phẫn nộ vào thời đó, khuấy động thêm khá nhiều những tranh cãi vốn đang tích tụ xoay quanh cuộc xung đột này. Đã có nhiều ý kiến yêu cầu viên tướng chỉ huy phải bị triệu về, thậm chí đưa ra tòa án binh, nhưng quân đội đã đứng ra bênh vực và ông ta được cho phép hoàn thành chiến dịch. Điều ít người biết đến là sau khi cuộc xung đột hạ màn, viên tướng ấy đã được thầm lặng cho giải ngũ, rồi sau đó đã chuyển sang kinh doanh, chuyên về vận tải đường thủy từ Nam Phi. Tôi thuật lại chuyện này bởi khoảng mười năm sau cuộc xung đột ấy, tức thời điểm những vết thương tang trở mới chỉ khép miệng hờ, cha tôi được gọi vào thư phòng ông John Silvers và cho biết rằng chính nhân vật ấy - mà tôi sẽ chỉ gọi đơn giản là “viên tướng ấy” - sắp sửa tới nghỉ lại nhà này trong vài ngày nhân một bữa tiệc, vào dịp này ông chủ của cha tôi hy vọng có thể thiết lập cơ sở cho một vụ giao dịch màu mỡ. Tuy vậy, ông Silvers cũng nhớ rằng cuộc viếng thăm này sẽ tác động ra sao đến cha tôi, vì vậy đã gọi ông vào đề nghị ông nếu muốn có thể nghỉ phép vài ngày tương ứng với thời gian đến thăm của viên tướng kia.
Cảm xúc của cha tôi đối với viên tướng, đương nhiên, là căm ghét cực cùng; nhưng ông cũng nhận ra rằng triển vọng kinh doanh của ông chủ phụ thuộc vào việc buổi tiệc này diễn ra xuôi lọt đến đâu, và với chừng mười tám vị khách được mời đến, đấy không phải chuyện đơn giản. Vậy là cha tôi trả lời đại ý, dẫu hết sức cảm tạ ông chủ vì đã cân nhắc đến cảm xúc của mình,
nhưng ông cam đoan với ông Silvers rằng việc phục vụ vẫn sẽ được đảm bảo theo các tiêu chuẩn thường lệ.
Sự thể thành ra là, thử thách đón đợi cha tôi còn nặng nề hơn cả những gì ông có thể hình dung trước đó. Trước hết, giá thử ông có từng hy vọng rằng giáp mặt viên tướng ở ngoài đời sẽ khiến ông nảy sinh thiện cảm hay kính trọng, ngõ hầu xoa dịu những cảm xúc đối nghịch, thì hy vọng đó cũng hóa ra hoàn toàn vô căn cứ. Viên tướng có bề ngoài phục phịch xấu xí, cử chỉ hành vi thô lậu, kiểu ăn nói lồ lộ một sở thích muốn áp các lối ví von quân đội vào đủ dạng tình huống khác nhau. Tệ hơn nữa là cái tin vị khách không mang theo tùy tùng bởi người của ông ta bị ốm. Việc này đặt ra một tình huống tế nhị, bởi một vị khách khác nghỉ lại nhà cũng không mang theo tùy tùng, như vậy nảy sinh câu hỏi vị khách nào nên được xếp cho người quản gia làm tùy tùng còn vị nào chỉ được phân anh hầu. Hiểu rõ tình thế của ông chủ, cha tôi đã lập tức tình nguyện nhận theo viên tướng, vậy là buộc phải thân cận gần gũi nhân vật mà ông ghét cay ghét đắng suốt bốn ngày. Trong khi đó thì viên tướng kia, không biết gì về cảm xúc của cha tôi, đã không từ một dịp nào thao thao về các chiến tích quân sự của ông ta - như dĩ nhiên rất nhiều vị xuất thân quân đội quen thể hiện với người tùy tùng khi ở chốn riêng tư trong phòng mình. Thế nhưng cha tôi đã giấu cảm nghĩ của ông rất khéo, thực hiện bổn phận của ông rất chuyên nghiệp, tới nỗi khi ra về, viên tướng còn khen ngợi ông John Silvers đã có một quản gia xuất sắc, và để lại một khoản thưởng bất thường tỏ ý hài lòng - mà cha tôi đã không ngần ngừ yêu cầu ông chủ quyên cho một hội thiện nguyện.
Tôi mong rằng quý vị sẽ đồng ý, rằng trong hai sự việc tôi dẫn lại từ sự nghiệp quản gia của ông - cả hai tôi đều đã đi xác nhận lại nhiều nơi và tin rằng đều chính xác - cha tôi đã không chỉ thể hiện, mà còn gần như trở thành hiện thân của cái mà Hội Hayes đã gọi là “phẩm cách xứng hợp với chức vị của ông”. Nếu so sánh sự khác nhau giữa cha tôi trong những thời điểm ấy, và một nhân vật như ông Jack Neighbours dẫu tính cả những ngón nghề kỹ thuật tài khéo nhất của ông ta, tôi tin rằng người ta sẽ
bước đầu hiểu được điều gì phân biệt một quản gia “vĩ đại” với một người chỉ đơn giản là thạo việc. Và giờ chúng ta cũng có thể hiểu rõ hơn vì sao cha tôi lại ưa thích câu chuyện về người quản gia đã không hoảng sợ khi bắt gặp con hổ dưới gầm bàn ăn; đấy là vì bằng bản năng, ông biết trong câu chuyện này có chứa hạt nhân của “phẩm cách” đích thực. Giờ thì tôi xin được phép phát biểu thế này: “phẩm cách”, xét đến tận cùng, liên quan tới khả năng của người quản gia không từ bỏ con người nghề nghiệp mà ông ta sắm vai. Những quản gia hạng dưới sẽ vứt bỏ con người nghề nghiệp, trở về với con người cá nhân ngay khi gặp phải sự khiêu khích dầu là nhỏ nhất. Với những người ấy, làm quản gia chẳng qua giống như đóng vai kịch trên sân khấu; chỉ cần đẩy nhẹ, chỉ cần vấp khẽ, là mặt nạ sẽ tuột xuống, lộ ra người diễn đằng sau. Những quản gia vĩ đại trở thành vĩ đại nhờ khả năng sắm vai diễn nghề nghiệp của mình và sắm đến tận cùng; không sự việc bên ngoài nào có thể đánh bật họ ra khỏi đó, dù có choáng váng, sợ hãi hay buồn phiền đến mấy. Họ khoác trên người tính chuyên nghiệp như một nhà quý tộc ra quý tộc khoác bộ áo đuôi tôm: ông ta không đời nào để cho bọn lưu manh hay cho hoàn cảnh giật nó khỏi người mình trước mắt thiên hạ, ông ta cởi bỏ nó khi và chỉ khi tự nguyện làm như vậy, và bao giờ cũng là khi ông ta chỉ còn lại duy nhất một mình. Như tôi đã nói, đấy là vấn đề “phẩm cách”.
Có câu nói thỉnh thoảng vẫn nghe rằng người quản gia chân chính chỉ có ở nước Anh. Các đất nước khác, dù có dùng danh xưng gì đi nữa, không có quản gia mà chỉ có người hầu. Tôi thiên về đồng ý với ý kiến này. Dân Âu châu lục địa không thể làm quản gia, bởi dòng máu không cho họ khả năng thực hiện sự tiết chế cảm xúc mà chỉ nòi giống Anh làm được. Dân lục địa - và chủ yếu là dân Celt, như quý vị hẳn sẽ đồng ý - nói chung không thể kiềm chế bản thân trong những thời khắc xúc động mạnh, và vì thế không tài nào duy trì tư thái chuyên nghiệp trừ trong những tình huống ít thử thách nhất. Xin cho phép tôi trở lại cách ví von khi nãy - và xin bỏ quá cho cách diễn đạt thô thiển của tôi - rằng họ giống như một người chỉ cần chút khiêu
khích nhỏ nhất là xé toạc cả áo đuôi tôm lẫn sơ mi mà chạy khắp nơi gào thét. Nói ngắn gọn,“phẩm cách” là thứ nằm ngoài khả năng của những người ấy. Người Anh chúng ta có lợi thế quan trọng về mặt này so với người ngoại quốc, và chính vì lẽ đó mà khi kể ra một quản gia vĩ đại nào đó, thì chắc chắn, hầu như tất yếu, ông ta là người Anh.
Đương nhiên, có thể quý vị sẽ phản bác, như ông Graham vẫn đáp mỗi khi tôi trình bày nhận định này trong những lần luận bàn hứng thú bên lò sưởi, rằng nếu đúng như tôi nói thì người ta chỉ có thể nhận ra được ai là một quản gia vĩ đại sau khi đã chứng kiến ông ta thể hiện qua một thử thách thực khắc nghiệt. Thế nhưng sự thực là, chúng ta vẫn thừa nhận những người như ông Marshall hay ông Lane là “vĩ đại”, dẫu hầu hết chúng ta không thể tự nhận mình từng quan sát họ trong những điều kiện ấy. Tôi phải công nhận rằng ông Graham nói vậy rất có lý, nhưng chỉ có thể trả lời rằng một khi đã ở trong nghề lâu như vậy rồi, người ta có thể bằng trực cảm ước lượng tính chuyên nghiệp ở một người nào đó là cao hay thấp mà không phải chứng kiến nó bộc lộ dưới áp lực. Thực vậy, trong những dịp hạnh ngộ với một quản gia vĩ đại nào đó, người ta sẽ chẳng hề có chút nghi hoặc muốn đòi “thử thách” để kiểm tra, trái lại sẽ không cách nào mường tượng ra có tình huống nào mà lại lung lạc được thái độ chuyên nghiệp đường hoàng đến như vậy. Thực tế là, tôi tin chắc rằng chính một cảm nhận kiểu ấy, thấu qua cả bức màn hơi men che mắt họ, đã khiến mấy hành khách của cha tôi phải lặng câm hổ thẹn trong buổi chiều Chủ nhật nhiều năm trước. Những con người ấy cũng giống như phong cảnh nước Anh ở độ rạng rỡ nhất mà tôi đã được tận mục sở thị hồi sáng này: khi giáp mặt họ, người ta đơn giản là biết mình đang đối diện với cái vĩ đại.
Tôi hiểu được rằng sẽ không bao giờ vắng những người cho rằng mọi cố gắng phân tích cho ra thế nào là vĩ đại, như tôi vừa làm, đều là vô ích. “Anh biết ai có nó và anh biết ai không có nó,” ông Graham luôn khăng khăng như vậy. “Ngoài ra thì anh không thể nói gì hơn nữa.” Nhưng tôi tin rằng bổn phận của
chúng ta là không được giữ thái độ thất bại chủ nghĩa như vậy về vấn đề này. Hiển nhiên, trách nhiệm nghề nghiệp của tất cả chúng ta là phải suy ngẫm kĩ về những điều ấy, để mỗi người trong chúng ta phấn đấu tốt hơn hòng đạt tới “phẩm cách” cho bản thân.
Ngày thứ hai - Sáng
Salisbury
Giường lạ hiếm khi làm tôi thoải mái, và sau khi thiếp đi ít lâu trong một giấc ngủ ít nhiều trằn trọc, tôi đã tỉnh cách đây chừng một giờ. Trời khi ấy hẵng còn tối, và biết cả một ngày dài chạy xe đương chờ trước mặt, tôi đã gắng tìm cách ngủ lại. Nhưng cũng chẳng ích gì, và khi rốt cuộc tôi quyết định trở dậy, trời vẫn còn tối đến mức tôi buộc phải bật ngọn đèn điện mới có thể cạo râu ở bồn rửa nơi góc phòng. Nhưng xong việc tắt đèn đi, tôi đã thấy ánh ngày buổi sớm lờ mờ nơi rìa rèm cửa sổ.
Khi tôi vén rèm vừa một khắc trước, ánh sáng bên ngoài còn rất nhạt, lại có một lớp sương mù mỏng ngăn tầm nhìn sang lò bánh và hiệu thuốc đối diện. Thực vậy, đưa mắt nhìn theo phố đến nơi có con cầu nhỏ lưng vồng, tôi thấy mù dưới sông đang dâng lên, gần như lấp hẳn một trụ cầu. Không có lấy một bóng người, và ngoại trừ một thứ tiếng động inh tai vọng về từ nơi xa xa đâu đó, cùng tiếng ho thi thoảng cất lên từ phòng nào đó sau nhà, thì không còn một âm thanh nào khác. Dễ thấy bà chủ chưa trở dậy lo việc, nghĩa là rất ít có khả năng bữa sáng được dọn lên trước bảy giờ ba mươi như bà đã thông báo. Vào giờ khắc tĩnh lặng này khi tôi chờ thế giới chung quanh tỉnh giấc, tôi nhận thấy mình đương nhẩm lại trong đầu nhiều đoạn từ lá thư của cô Kenton. Tiện đây xin nói, lẽ ra tôi cần phải sớm giải thích cớ làm sao tôi vẫn dùng danh xưng “cô Kenton”. “Cô Kenton” theo đúng phép tắc cần gọi là “bà Benn”, và đã là bà Benn từ hai mươi năm nay. Tuy nhiên, bởi tôi chỉ biết cô gần cận thời chưa thành hôn và chưa một lần gặp lại từ ngày cô đi xuống miền Tây để trở thành “bà Benn”, hẳn quý vị sẽ thể tất cho sự thất lễ của tôi vì vẫn gọi cô theo mối quen biết xưa, như đã tiếp tục gọi cô trong trí qua bằng ấy năm tháng. Đương nhiên, lá thư ấy còn đưa lại thêm một cớ khác để tiếp tục nghĩ về cô dưới tên “cô Kenton”, vì chuyện đáng buồn là dường như cuộc hôn nhân của cô rốt cuộc cũng sắp đến hồi kết. Lá thư không nói cụ thể chi tiết về sự việc ấy, mà người ta cũng không thể mong đợi điều đó,
nhưng cô Kenton có nói không hề mập mờ rằng sự thực là giờ cô đã đi đến bước dọn ra khỏi nhà ông Benn ở Helston và hiện đương ngụ tại nhà người quen ở làng Compton Nhỏ gần đó.
Dĩ nhiên, cuộc hôn nhân của cô giờ sắp chấm dứt trong thất bại là một điều thực bi đát. Hẳn nhiên vào chính giây phút này, cô đương ân hận mà ngẫm lại những quyết định hình thành trong quá khứ xa xôi đã dẫn đến tình cảnh cô bây giờ, giữa tuổi trung niên, đơn độc và vô vọng. Và có thể dễ dàng hiểu được trong tâm thế ấy, ý nghĩ được quay về Dinh Darlington sẽ là một niềm an ủi lớn đối với cô. Đúng là trong suốt lá thư, cô không một lần trực tiếp bày tỏ nguyện vọng quay lại; nhưng đấy là thông điệp hiển nhiên có thể đọc thấy qua tình điệu chung trong rất nhiều đoạn viết, đẫm nỗi hoài nhớ những ngày còn ở Dinh Darlington. Dĩ nhiên cô Kenton không thể nào hy vọng trở lại ở thời điểm này là có thể lấy lại những tháng năm đã mất, phận sự đầu tiên của tôi khi gặp là phải làm rõ với cô điều này. Tôi sẽ phải nói rành rẽ rằng tình hình hiện thời đã rất khác xưa - rằng những ngày làm việc có cả một đội ngũ đông đảo sẵn sàng cho người ta điều động hẳn từ nay đến hết cuộc đời chúng tôi cũng không còn quay lại. Nhưng mặt khác, cô Kenton là một người phụ nữ thông minh, hẳn tự cô cũng đã nhận ra tất cả những điều ấy. Thực vậy, nhìn mọi mặt, tôi không thấy có lý do gì mà triển vọng trở về Dinh Darlington, dành nốt những năm lao động cuối cùng ở đó, lại không phải là một niềm an ủi thực sự cho một cuộc đời đã đi tới bước thấm đẫm cảm giác phí hoài.
Và dĩ nhiên, xét từ góc độ nghề nghiệp của mình, tôi có thể thấy rõ dầu sau một khoảng gián cách ngần ấy năm, cô Kenton vẫn sẽ là giải pháp tuyệt vời cho vấn đề hiện tại đương làm phiền chúng tôi ở Dinh Darlington. Thực tế là, khi dùng chữ “vấn đề”, có lẽ tôi đã phóng đại tình hình lên một chút. Suy cho cùng, tôi chỉ đang nói đến một chuỗi những lầm lỗi hết sức lặt vặt về phần tôi, và đường hướng tôi đang theo đuổi chỉ thuần túy là biện pháp đi trước đón đầu mọi “vấn đề” còn chưa kịp nảy sinh. Đúng thực là những lầm lỗi lặt vặt ấy ban đầu khiến tôi lo âu chút đỉnh, nhưng khi đã đủ thời gian chẩn đoán ra rằng đấy
chẳng qua là triệu chứng của một căn bệnh đơn giản - thiếu hụt nhân sự - tôi đã ngưng không suy nghĩ quá nhiều về chúng. Có cô Kenton trở lại, như tôi nói, chúng sẽ chấm dứt vĩnh viễn.
Nhưng hãy quay lại với lá thư của cô. Có những đoạn trong lá thư thực sự bộc lộ nỗi tuyệt vọng về tình thế hiện tại của cô - một việc phải nói là đáng lo lắng. Có một câu bắt đầu bằng: “Dù tôi không biết sẽ sử dụng làm sao cho có ích quãng đời còn lại của mình…”. Một chỗ khác, cô lại viết: “Phần đời kể từ đây về sau trải ra trước mắt tôi như một khoảng không hiu quạnh”. Tuy thế, như tôi đã nói, âm điệu chủ yếu là hoài nhớ. Tỷ dụ, ở một chỗ, cô viết:
“Chuyện này khiến tôi nhớ lại Alice White. Ông còn nhớ cô bé ấy không? Mà nói thực là tôi không nghĩ ông lại quên nổi cô bé. Về phần tôi, tôi vẫn còn ám ảnh những nguyên âm đó và những câu độc đáo bất chấp ngữ pháp mà chỉ mình cô bé nghĩ ra nổi! Ông có mảy may biết chút gì cô ấy sau này thế nào không?”
Tôi không biết, thực sự là vậy, mặc dầu phải nói rằng tôi có phần vui vui khi nhớ lại cô tớ gái thường khiến người ta đến sốt ruột ấy, mà rốt cuộc lại hóa ra là một trong những gia nhân tận tụy nhất. Một chỗ khác trong thư, cô Kenton lại viết:
“Tôi đã yêu biết mấy cái khung cảnh từ các buồng ngủ lầu hai trông xuống thảm cỏ, xa xa là những nếp đồi. Nay có còn như vậy không? Mùa hè, các buổi chiều, khung cảnh ấy có cảm giác hầu như huyền diệu, và giờ tôi thú thực với ông rằng tôi thường bỏ phí nhiều phút quý báu đứng ngây ở cửa sổ trước cảnh tượng mê hồn này.”
Rồi cô viết tiếp rằng:
“Nếu ký ức này gợi lại đau buồn, xin ông tha lỗi. Nhưng tôi chẳng bao giờ quên được cái lần hai ta cùng đứng nhìn cha ông đi tới đi lui trước chòi nghỉ mùa hè, nhìn xuống mặt đất như mong tìm lại viên ngọc quý đã đánh rơi ở đó.”
Thực là một khám phá trọng đại, rằng ký ức này từ hơn ba mươi năm trước vẫn còn lại trong cô Kenton như đã còn lại trong tôi. Thực vậy, việc ấy xảy ra hẳn chính vào một buổi chiều hè như cô đương mô tả, bởi tôi còn nhớ như in đã lên đến chiếu nghỉ lầu hai thì hiện ra trước mắt một dãy những cột sáng màu cam lúc hoàng hôn đổ qua từng cánh cửa buồng để ngỏ, làm
hành lang âm u như bị ngắt ra từng đoạn. Và trong lúc đi ngang các cửa buồng ngủ ấy, tôi đã thấy qua một khung cửa dáng người cô Kenton, một bóng đen trên nền cửa sổ, quay lại khẽ gọi, “Ông Stevens, phiền ông một chút.” Khi tôi đi vào, cô Kenton đã lại hướng mắt ra cửa sổ. Bên dưới, bóng những cây dương trên thảm cỏ ngả dài. Mé bên phải quang cảnh trước mắt, thảm cỏ dốc lên thành bờ cỏ thoải dẫn về chân chòi nghỉ mùa hè, và cha tôi hiện ra ở đó, một bóng người nhỏ bước từng bước chậm chạp, dồn hết tâm trí vào việc này - thực vậy, như cô Kenton đã tả rất đích đáng, “như mong tìm lại viên ngọc quý đã đánh rơi ở đó”.
Có một vài nguyên do rất xác đáng khiến ký ức này ở lại với tôi, như tôi mong được giảng rõ dưới đây. Thêm nữa, nghĩ cho kĩ thì có lẽ không có gì lạ rằng cô Kenton cũng lưu lại ấn tượng sâu xa đến thế, xét theo vài khía cạnh trong mối giao thiệp giữa cô với cha tôi trong những ngày đầu cô đến Dinh Darlington.
*
Cô Kenton và cha tôi đã tới nhà này gần như cùng một thời điểm - ấy là mùa xuân năm 1922 - do sự tôi cùng một lúc đánh mất cả người nội quản lẫn phó quản gia trước đó. Nguyên do của việc này là hai đương sự quyết định kết hôn với nhau và rời khỏi nghề phục vụ. Tôi vẫn luôn thấy những chuyện kết ngãi kiểu vậy là mối đe dọa lớn đối với trật tự trong nhà. Kể từ hồi ấy, tôi đã mất thêm không biết bao nhiêu nhân viên trong những hoàn cảnh tương tự. Đương nhiên, người ta phải chấp nhận rằng những chuyện kiểu đó luôn có khả năng xảy ra giữa các cô tớ gái và anh hầu trai, và một quản gia tốt khi lên cơ cấu nhân sự luôn phải tính trước điều đó; nhưng hôn sự kiểu đó giữa những người quản lý có thể khiến công việc bị đảo lộn hoàn toàn. Đương nhiên, nếu hai người nhân viên trong nhà tình cờ bén duyên nhau và quyết định kết hôn mà ta lại đi trách cứ thì thực hồ đồ; nhưng điều làm tôi thấy chướng là những kẻ - nhất là mấy cô nội quản thường xuyên mắc phải tật này - chẳng có chút tâm huyết với nghề mà, về cơ bản, chỉ chuyển từ nhà này qua nhà
khác để theo đòi giăng gió gió giăng. Loại người này thực là một vết nhơ cho tính chuyên nghiệp.
Nhưng xin khẳng định ngay rằng tôi không hề có ý kể cô Kenton vào khi phát biểu như trên. Đương nhiên, sau rốt, cô cũng rời khỏi đội ngũ nhân viên của tôi để kết hôn, nhưng tôi cam đoan rằng trong thời kỳ làm nội quản dưới sự giám sát của tôi, cô làm việc tận tụy hết mực và không bao giờ để bất cứ điều gì làm sao nhãng bổn phận nghề nghiệp.
Nhưng tôi sa đà sang chuyện khác rồi. Tôi đang thuật lại rằng chúng tôi lâm vào hoàn cảnh cần một lúc tìm cả nội quản lẫn phó quản gia, và cô Kenton đã tới - mang theo những thư giới thiệu nồng nhiệt khác thường, như tôi nhớ - để lãnh chân nội quản. Sự thể là cũng vào khoảng thời gian này, cha tôi đã kết thúc quãng sự nghiệp xuất sắc ở Nhà Loughborough khi ông John Silvers, ông chủ ông tạ thế, và có gặp đôi chút trở ngại khi tìm việc làm cũng như nơi ăn ở. Mặc dầu, đương nhiên, ông vẫn có trình độ chuyên môn hiếm thấy, nhưng giờ ông đã ở tuổi cổ lai hy và đương bị bệnh thấp khớp và nhiều chứng bệnh khác hành hạ. Vì thế, thực khó hình dung ông sẽ xoay trở thế nào khi cạnh tranh tìm việc cùng lứa quản gia trẻ hơn, được đào luyện kĩ càng hơn. Xét theo hoàn cảnh đó, có vẻ giải pháp hợp lý là mời cha tôi đem kinh nghiệm và tài năng dày dặn của ông về Dinh Darlington.
Theo tôi nhớ thì một sáng, không mấy lâu sau khi cha tôi và cô Kenton cùng tới nhận chân phục vụ ở đây, tôi đang ngồi trong phòng quản gia xem xét giấy tờ tại bàn thì nghe tiếng gõ cửa. Tôi nhớ đã hơi giật mình khi cô Kenton mở cửa, đi vào mà chưa chờ tôi lên tiếng mời. Cô mang trong tay một bình hoa lớn và mỉm cười nói, “Ông Stevens ạ, tôi cho là mấy bông hoa này sẽ làm phòng ông tươi sáng hơn chút đỉnh.”
“Xin vô phép, nhưng ý cô là sao, cô Kenton?”
“Phòng ông tối tăm lạnh lẽo thế này thì buồn quá, ông Stevens ạ, trong khi ngoài trời thì nắng tưng bừng thế kia. Tôi nghĩ có hoa sẽ mang lại chút sức sống.”
“Cô thực là chu đáo quá, cô Kenton.”
“Thật buồn là trong này không nhận được nhiều nắng hơn. Tường phòng còn hơi ẩm nữa chứ, phải không ông Stevens?” Tôi quay lại với sổ sách kế toán, miệng nói, “Tôi cho đấy chỉ là hơi nước đọng mà thôi, cô Kenton.”
Cô đặt bình hoa xuống bàn trước mặt tôi, rồi lại đưa mắt nhìn quanh phòng, nhận xét,“Nếu ông muốn, ông Stevens ạ, tôi có thể mang thêm hoa trong vườn vào cho ông.”
“Cô Kenton, tôi rất cám ơn cô đã chu đáo. Nhưng phòng này không dành để tiêu khiển. Tôi hài lòng giữ cho những thứ gây sao nhãng ở mức tối thiểu.”
“Nhưng ông Stevens ạ, hẳn không việc gì phải ở trong cái phòng trơ trụi không màu sắc đến như thế này chứ.” “Căn phòng này như hiện tại đã phục vụ tôi rất tốt từ trước đến giờ, cô Kenton, dù tôi cũng cảm ơn cô đã có lòng lo cho. Thực tế là, bởi cô đã ở đây rồi, có một việc tôi cần nêu ra với cô.” “Vậy à, ông Stevens.”
“Vâng, cô Kenton, một việc nhỏ thôi. Tình cờ ngày hôm qua tôi đi qua bếp thì nghe cô gọi người nào đó tên William.” “Vậy ư, ông Stevens?”
“Thực vậy, cô Kenton. Tôi có nghe cô gọi ‘William’ vài lần. Xin được phép hỏi cô gọi ai bằng cái tên ấy?”
“Ồ, ông Stevens ạ, hẳn là tôi đang gọi cụ nhà rồi. Trong nhà này không có ai khác tên William cả, theo tôi hiểu.” “Đây là một lỗi rất dễ mắc phải,” tôi nói và hơi mỉm cười. “Cho phép tôi đề nghị, cô Kenton, từ nay về sau hãy gọi cha tôi là ‘ông Stevens’. Nếu đang nói về ông với một bên thứ ba, để tránh lầm với tôi, cô có thể gọi là ‘ông Stevens cha’. Hết sức cám ơn cô, cô Kenton.”
Nói đến đó, tôi trở lại xem giấy tờ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên thấy cô Kenton vẫn chưa lui đi. “Xin thứ lỗi, ông Stevens,” một lát sau cô nói.
“Vâng, cô Kenton.”
“E rằng tôi chưa thật hiểu ý ông muốn nói. Từ trước đến nay tôi đã quen gọi người làm cấp dưới bằng tên riêng, và thấy
không việc gì phải làm khác trong nhà này.”
“Một sai lầm rất dễ thông cảm, cô Kenton. Tuy nhiên, nếu cô bỏ công suy nghĩ về tình huống này, có thể cô sẽ nhận ra một người như cô mà lên giọng bề trên với một người như cha tôi là không phải phép.”
“Tôi vẫn chưa hiểu ý ông là gì, ông Stevens. Ông nói ‘một người như cô’, nhưng cứ theo tôi thấy tôi là nội quản trong nhà này, còn cha ông chỉ là phó quản gia.”
“Đương nhiên, về chức vụ thì ông chỉ là phó quản gia, như cô nói. Nhưng tôi ngạc nhiên là khiếu quan sát của cô lại chưa tỏ cho cô thấy rằng trên thực tế ông còn hơn thế. Hơn thế rất nhiều.”
“Hẳn nhiên khiếu quan sát của tôi còn thiếu sót vô kể, ông Stevens. Tôi mới chỉ quan sát thấy rằng cha ông là một phó quản gia có năng lực, và xưng hô với ông ấy theo cách đó. Quả thật hẳn ông ấy phải thấy phiền muộn lắm khi nghe gọi như thế từ một người như tôi.”
“Cô Kenton, từ ngữ khí của cô có thể thấy rằng đơn giản là cô chưa hề quan sát cha tôi. Nếu có thì hẳn cô đã nhận thấy rành rành rằng một người ở tuổi tác và địa vị như cô gọi ông là ‘William’ thì quả là không phải phép.”
“Ông Stevens, có lẽ tôi làm nội quản chưa được lâu, nhưng tôi dám nói rằng suốt trong thời gian tôi đã làm, thì năng lực của tôi đã nhận được vài lời đánh giá khá ưu ái.”
“Tôi không một khắc nào ngờ vực năng lực của cô, cô Kenton. Nhưng có tới cả trăm điều đáng ra đã phải cho cô thấy rằng cha tôi là một nhân vật tài năng khác thường và cô có thể học được vô số điều từ ông, giả như cô chịu khó quan sát tích cực hơn.”
“Tôi xin cảm tạ lời khuyên chí lý của ông, ông Stevens. Vậy xin ông hãy làm ơn chỉ vẽ cho tôi biết, tôi sẽ học được những điều tuyệt diệu nào nhờ quan sát cha ông?”
“Tôi ngờ rằng điều đó đã quá hiển nhiên trước mắt ai biết nhìn, cô Kenton.”
“Nhưng chúng ta đã xác nhận rằng tôi mắc khiếm khuyết đặc biệt về phương diện ấy, chẳng phải vậy sao?”
“Cô Kenton, nếu cô mang ấn tượng rằng ở tuổi mình cô đã hoàn thiện được mình, thì cô sẽ không bao giờ vươn được tới tầm cao mà hiển nhiên cô có khả năng đạt tới. Tỷ dụ như, tôi có thể nhận thấy cô thường vẫn còn không chắc vật gì nằm ở chỗ nào và món nào dùng ra sao.”
Điều này khiến cô Kenton tuồng như hơi chưng hửng. Thực vậy, trong một giây, trông cô còn hơi ưu phiền. Rồi cô đáp,“Lúc mới đến tôi có gặp chút khó khăn, nhưng hẳn đó là chuyện thường.”
“À, cô thấy đó, cô Kenton. Nếu cô có quan sát cha tôi, đến nhà này sau cô một tuần, cô sẽ nhận ra rằng ông am hiểu ngôi nhà tuyệt đối hầu như ngay từ thời điểm bước chân vào Dinh Darlington.”
Cô Kenton tỏ vẻ nghĩ ngợi trước khi đáp lời vẻ hơi ấm ức: “Tôi tin rằng ông Stevens cha rất thành thạo công việc của ông, nhưng tôi cũng đoan chắc với ông, ông Stevens, rằng tôi rất thành thạo công việc của mình. Tôi sẽ nhớ gọi đầy đủ danh xưng của cha ông từ đây về sau. Còn giờ tôi xin cáo lỗi.” Sau lần gặp gỡ này, cô Kenton không tìm cách đưa hoa vào phòng quản gia của tôi nữa, và nói chung, tôi rất mừng nhận thấy cô đã nhập vào công việc hết sức ấn tượng. Thêm nữa, có thể thấy rõ cô rất nghiêm túc với vai trò nội quản, và dẫu tuổi còn trẻ, có vẻ cô không hề khó khăn giành được sự kính trọng của người dưới quyền.
Tôi cũng nhận thấy quả thực cô bắt đầu gọi cha tôi là “ông Stevens”. Tuy nhiên một chiều, có lẽ chừng hai tuần sau cuộc đối thoại trong phòng tôi, tôi đang dở tay trong thư viện thì cô Kenton đi vào nói, “Xin thứ lỗi, ông Stevens. Nhưng nếu ông cần tìm xẻng thì nó ở ngoài sảnh đấy.”
“Xin phép cô, cô Kenton?”
“Xẻng của ông, ông Stevens. Ông để nó ở ngoài đó. Ông có cần tôi mang vào cho ông không?”
“Cô Kenton, tôi đâu có dùng đến xẻng.”
“À, vậy thì xin thứ lỗi, ông Stevens. Tôi đương nhiên đã đoán rằng ông dùng xẻng rồi để quên nó ngoài sảnh. Tôi xin lỗi đã
quấy quả ông.”
Cô dợm bước ra ngoài, nhưng đến cửa thì quay lại nói: “À, ông Stevens. Tôi định tự mình đem cất nhưng hiện giờ tôi có việc phải lên tầng trên. Không biết có thể phiền ông nhớ giúp được không?”
“Đương nhiên rồi, cô Kenton. Cám ơn cô đã nhắc nhở.” “Việc nhỏ thôi mà, ông Stevens.”
Tôi lắng nghe tiếng chân cô đi qua sảnh rồi lên cầu thang lớn, rồi tự mình cũng đi ra cửa. Đứng từ cửa thư viện người ta có thể nhìn trọn sảnh vào, đến tận cửa chính bên kia sảnh. Lồ lộ trước mắt, gần như chính giữa sàn nhà đánh bóng lộn không có một món đồ nào trừ nó, là cây xẻng mà cô Kenton nhắc tới.
Tôi thấy đây là một lỗi vặt nhưng thực đáng bực mình: cây xẻng sẽ đập vào mắt bất cứ ai đứng nhìn không chỉ từ một trong năm cửa mở vào sảnh ở tầng trệt, mà cả từ cầu thang và cả trên ban công lầu một nữa. Tôi đi qua sảnh, đã nhặt hẳn món đồ chướng mắt lên thì mới hiểu hết hàm ý của việc này: như tôi nhớ, cha tôi vừa quét dọn sảnh vào, quãng nửa tiếng trước. Ban đầu tôi thấy khó mà kết luận một lỗi lầm như thế lại là của cha tôi được. Nhưng ngay sau đó tôi tự nhủ rằng những lỡ làng vặt vãnh như vậy có thể rơi xuống đầu bất cứ ai lúc này hay lúc khác, và rồi mau chóng chuyển sang bực bội cô Kenton vì đã toan làm rộn lên về một chuyện không đáng như vậy.
Rồi chưa đầy một tuần sau, tôi vừa rời bếp đi trên hành lang hậu thì cô Kenton từ buồng nội quản đi ra, thốt ra một nhận xét hẳn là đã nhẩm lại nhiều lần: đại ý là mặc dầu cô hết sức áy náy phải đề cập với tôi những sai lỗi của người dưới quyền tôi, thì hai chúng tôi cũng phải phối hợp với nhau, và cô mong rằng tôi sẽ không ngần ngại làm điều tương tự nếu có phát hiện thấy thiếu sót nào trong công việc của giới phụ nữ trong nhà. Tiếp đó cô nhận xét rằng trong số đồ bạc đã bày lên phòng ăn, có vài món còn vương rõ vết xi đánh bóng. Có một cây nĩa đuôi hầu như đen kịt. Tôi cảm ơn cô, và cô lại lui về buồng mình. Hiển nhiên, cô không cần phải nói thêm rằng bộ đồ ăn bạc là một
trong những nhiệm vụ chính của cha tôi và ông hết sức hãnh diện về việc đó.
Rất có thể vẫn còn vài sự việc đại loại mà giờ tôi đã quên. Dẫu sao thì, theo tôi nhớ, tình hình lên tới đỉnh điểm vào một buổi chiều mưa phùn xám xịt, tôi đang trong phòng bi a chăm sóc cho dãy cúp thể thao của Huân tước Darlington. Cô Kenton vừa bước vào, đứng bên cửa nói, “Ông Stevens, tôi vừa nhận thấy ngoài này có một điều làm tôi băn khoăn quá.”
“Là gì vậy, cô Kenton?”
“Có phải đức ngài có ý rằng bức tượng sứ kiểu Trung Quốc trên chiếu nghỉ tầng trên cần đổi chỗ với bức ở ngoài cửa này không?”
“Tượng sứ ư, cô Kenton?”
“Vâng, ông Stevens. Ông sẽ thấy bức tượng sứ mọi khi ở trên chiếu nghỉ giờ lại đang đứng ngoài cửa này.”
“Cô Kenton, tôi e rằng cô đang có chút lầm lẫn.”
“Tôi không cho rằng tôi có chút lầm lẫn nào, ông Stevens. Tôi đã dụng công để ý xem vật nào ở đâu là đúng chỗ trong nhà. Tôi đoán rằng đã có ai đó đem mấy bức tượng sứ ra đánh bóng rồi trả về nhầm chỗ. Nếu ông còn nghi ngờ, ông Stevens, có lẽ ông sẽ dành chút thời gian bước ra ngoài này tự mình quan sát xem.”
“Cô Kenton, hiện thời tôi đang bận.”
“Nhưng ông Stevens, ông có vẻ không tin điều tôi đang nói với ông. Vì thế tôi phải yêu cầu ông bước ra ngoài cửa này và tận mắt nhìn xem.”
“Cô Kenton, hiện thời tôi đang bận và sẽ xem đến ngay sau đây. Việc đó hoàn toàn không có gì khẩn cấp.”
“Ông Stevens, vậy ông đồng ý rằng tôi không nhầm lẫn về điểm này.”
“Tôi không đồng ý điều gì như vậy cả, cô Kenton, cho tới khi tôi đã có dịp xem đến. Tuy nhiên hiện thời thì tôi đang bận.” Tôi quay lại lo việc của mình, nhưng cô Kenton vẫn đứng ở khung cửa nhìn tôi. Cuối cùng cô nói:
“Tôi thấy rằng ông sắp xong việc ngay thôi, ông Stevens. Tôi đợi ông bên ngoài, để vấn đề có thể có kết luận khi ông ra khỏi phòng.”
“Cô Kenton, tôi thấy rằng cô đang khiến việc này có một vẻ cấp thiết hoàn toàn không xứng đáng với nó.”
Nhưng cô Kenton đã ra ngoài, và quả vậy, trong lúc tôi tiếp tục công việc, thi thoảng lại có một tiếng chân đưa hay âm thanh nào khác nhắc tôi rằng cô vẫn còn đó ngoài cửa kia. Vì thế tôi quyết định sẽ bắt tay làm thêm một vài công việc khác trong phòng bi a, đồ rằng sau ít lâu cô sẽ nhận ra việc làm của mình nực cười đến mức nào và đi khỏi đó. Nhưng kha khá thời gian đã trôi qua, những công việc có thể hoàn thành bằng những đồ lau rửa hiện có trong tay tôi đã cạn, mà rành rành là cô Kenton vẫn ngoài kia. Quyết không phí hoài thêm thời gian vì sự tình ngớ ngẩn này, tôi xem xét khả năng rời khỏi phòng qua lối cửa sổ lớn. Điểm trừ của kế hoạch này là tình hình thời tiết hiện tại - nói cách khác là sự hiện hữu của vài vũng nước và mảng bùn lớn ngoài cửa sổ - và người ta sẽ cần quay lại phòng bi a lúc nào đó để cài chốt cửa sổ từ bên trong. Sau rốt tôi cũng kết luận phương án tốt nhất là chỉ đơn giản đi ra khỏi phòng thực đột ngột, bằng một nhịp độ thực quả quyết. Thế là tôi rất khẽ khàng vào một vị trí thích hợp làm xuất phát điểm cho cuộc hành quân ấy, và ôm chặt các đồ lau rửa vào người, đã đưa được mình ra khỏi cửa và vượt ra hành lang vài bước trước khi cô Kenton, có phần sửng sốt, kịp lấy lại bình tĩnh. Tuy thế cô cũng lấy lại bình tĩnh khá nhanh, và một khắc sau tôi thấy cô đã vượt lên đứng trước mặt tôi, mà thực tế là chắn đường tôi.
“Ông Stevens, bức tượng kia ở đây là không đúng, ông có đồng ý không?”
“Cô Kenton, tôi rất bận. Tôi ngạc nhiên là cô không còn việc gì khác cần làm mà chỉ đứng ngoài hành lang cả ngày.” “Ông Stevens, bức tượng ở đây đúng hay không đúng?” “Cô Kenton, tôi cần phải yêu cầu cô hạ giọng xuống.” “Còn tôi cần phải yêu cầu ông, ông Stevens, quay lại nhìn bức tượng kia.”
“Cô Kenton, xin hãy hạ giọng xuống. Nhân viên dưới kia sẽ nghĩ gì khi nghe chúng ta gào thét vỡ cả họng về việc bức tượng nào là đúng hay không đúng?”
“Thực tế là, ông Stevens, mọi bức tượng sứ trong nhà này đã bẩn từ khá lâu rồi! Và giờ chúng lại còn không ở đúng vị trí nữa!” “Cô Kenton, cô đang hành xử rất nực cười đấy. Giờ thì xin cô vui lòng tránh ra cho tôi đi giúp.”
“Ông Stevens, ông làm phước nhìn bức tượng đằng sau ông có được không?”
“Nếu cô thấy chuyện này quan trọng đến như vậy, cô Kenton, tôi sẽ chấp nhận rằng bức tượng sứ sau lưng tôi rất có thể đã được đặt vào vị trí không dành cho nó. Nhưng tôi phải nói rằng tôi có phần không hiểu vì sao cô phải lo lắng đến vậy về những lỗi lầm thuộc loại rất nhỏ nhặt này.”
“Bản thân những lỗi lầm ấy có thể nhỏ nhặt, ông Stevens, nhưng chính ông cũng phải nhận thấy ý nghĩa lớn hơn của chúng chứ.”
“Cô Kenton, tôi không hiểu ý cô. Giờ thì xin phép cô làm ơn cho tôi đi qua.”
“Thực tế là, ông Stevens, cha ông được giao cho những nhiệm vụ vượt quá sức một người ở độ tuổi ông ấy có thể gánh vác được.”
“Cô Kenton, thực tình cô không hiểu mình đang nói gì.” “Cho dù xưa kia cha ông có là người thế nào, ông Stevens, thì sức lực của ông ấy giờ cũng đã hao mòn rất nhiều rồi. Ý nghĩa thực sự của những ‘lỗi lầm nhỏ nhặt’ như ông nói là thế đấy, và nếu ông không thèm để tâm, thì chẳng mấy nỗi sẽ đến lúc cha ông phạm phải một lỗi lầm ở mức độ nghiêm trọng mà xem.” “Cô Kenton, cô đang biến mình thành trò đùa đấy.” “Tôi xin lỗi, ông Stevens, nhưng tôi không thể không nói tiếp. Tôi tin rằng có rất nhiều nhiệm vụ giờ cần được cất bớt cho cha ông. Chẳng hạn, không nên bắt ông tiếp tục bưng các khay đồ chất nặng nữa. Nhìn tay ông run run mỗi bữa ăn tối khi bưng khay vào thật không thể không lấy làm e ngại. Không sớm thì muộn sẽ tới lúc khay đồ trên tay ông đổ vào lòng vị khách nào
đó. Và hơn nữa, ông Stevens, thực tình tôi vô cùng áy náy phải nói điều này, nhưng tôi đã để ý thấy mũi của cha ông.” “Thực vậy ư, cô Kenton?”
“Tôi rất tiếc phải nói đúng là vậy, ông Stevens. Tối hôm trước nữa tôi nhìn cha ông bưng khay bước rất chậm về phía phòng ăn, và tôi e rằng đã quan sát thấy rất rõ một giọt nước lớn ở chót mũi ông lủng lẳng trên mấy bát xúp. Tôi cho rằng phong cách phục vụ bàn như vậy khó có thể coi là giúp ngon miệng được.”
Nhưng giờ nghĩ lại cho kĩ, tôi không dám chắc rằng cô Kenton đã nói năng bạo dạn đến như vậy ngày hôm đó. Đương nhiên, trải qua nhiều năm làm việc bên nhau, chúng tôi dần dà đã có những cuộc trao đổi rất thẳng thắn, nhưng buổi chiều tôi đang nhớ lại đây vẫn còn là hồi kỳ đầu mối quen biết và tôi nghĩ đến cả cô Kenton cũng khó có thể bạo đến như vậy. Tôi không rõ liệu cô có thể thực sự đi tới chỗ nói một điều như “bản thân những lỗi lầm ấy có thể nhỏ nhặt, nhưng chính ông cũng phải nhận thấy ý nghĩa lớn hơn của chúng”. Thực tế là, giờ nghĩ lại, tôi có cảm giác rằng có thể chính Huân tước Darlington đã nói câu ấy với tôi cái lần ngài cho gọi tôi vào thư phòng, khoảng hai tháng sau cuộc đối đáp với cô Kenton ngoài phòng bi a. Tới lúc đó thì tình hình cha tôi đã thay đổi rõ rệt sau ngày ông bị ngã.
*
Cửa thư phòng ở vị trí xuất hiện ngay trước mắt khi người ta đi xuống cầu thang lớn. Ngày nay, ngoài cửa phòng đặt một tủ kính bày đủ thứ đồ trang trí của ông Farraday, nhưng thời Huân tước Darlington, từ đầu chí cuối, tại vị trí đó là một tủ sách chứa rất nhiều những bộ bách khoa thư, có cả trọn bộ Britannica. Huân tước ưa đứng trước tủ sách này ngắm nghía các gáy sách đúng vào thời điểm tôi đi xuống cầu thang, và đôi khi để tô đậm thêm ấn tượng đây là cuộc gặp tình cờ, ngài còn rút hẳn một tập ra, giả như đương mải mê với nó chờ tôi đi xuống hẳn. Rồi tới lúc tôi đi ngang, ngài sẽ bảo,“À, Stevens này, có một điều tôi vẫn định bụng nói với anh.” Đến đó, ngài sẽ tiện chân trở lại vào thư phòng, vẫn tỏ vẻ đắm đuối vào cuốn sách đương mở trong tay. Chọn cách tiếp cận này, Huân tước trăm lần như một đều vì
ngượng ngùng trước điều cần truyền đạt, và ngay cả khi cánh cửa thư phòng đã khép chặt sau lưng, ngài vẫn thường ra đứng bên cửa sổ, làm bộ giở xem cuốn từ điển suốt trong khi trao đổi với tôi.
Tiện đây xin nói thêm, việc mà giờ đây tôi thuật lại cũng là một trong rất nhiều sự kiện tôi có thể kể hầu quý vị nhằm chứng nhận cho bản chất rút rát khiêm cung của Huân tước Darlington. Những năm gần đây đã có vô khối điều tầm bậy nói ra hay viết ra về huân tước cùng vai trò quan trọng dần dà ngài đã mang lấy trong những việc quốc gia đại sự, và có vài kẻ, ếch ngồi đáy giếng, còn khẳng định rằng động cơ của huân tước là lòng vị kỷ hay ngạo mạn. Tôi xin nói rõ ở đây rằng chẳng điều gì sai lầm hơn thế. Việc sau này ngài ra mặt công khai đến như vậy là hoàn toàn trái ngược với bản tính thông thường của Huân tước Darlington, và tôi có thể đoan chắc rằng huân tước chịu lời thuyết phục mà vượt ra ngoài thói quen ẩn dật của ngài chỉ là vì ý thức sâu sắc về bổn phận đạo đức. Ngày nay người khác có nói gì về huân tước đi nữa - mà tôi đã nói, phần đa là hoàn toàn tầm bậy - thì tôi cũng cam đoan rằng ngài từ sâu thẳm là một con người đầy tính thiện, một người cao quý theo đúng nghĩa của từ này, và ngày nay tôi vẫn tự hào đã dành những năm tháng đẹp nhất trong đời phục vụ cho một con người như thế.
Trong cái buổi chiều cụ thể tôi đang kể đến đây, huân tước hẳn vẫn còn ở độ ngũ tuần, nhưng theo tôi nhớ mái đầu ngài đã bạc cả, vóc người cao mảnh khảnh đã thấp thoáng nét khòng mà những năm cuối đời sẽ thực rõ nét ở ngài. Hầu như không rời mắt khỏi cuốn sách trên tay, ngài hỏi, “Cha anh đã khá hơn chưa, Stevens?”
“Tôi lấy làm mừng được nói rằng ông đã bình phục hoàn toàn, thưa ngài.”
“Thực là tin rất tốt, Stevens ạ. Tin rất tốt.”
“Đa tạ ngài.”
“Stevens này, liệu đã từng có… ờ… có bất kể dấu hiệu gì không? Tôi muốn nói là, dấu hiệu cho thấy cụ nhà biết đâu có
thể đã mong gánh nặng của mình được giảm bớt đi chút ít? Ý tôi là ngoài việc cụ bị ngã kia.”
“Thưa ngài, như tôi đã nói, có vẻ cha tôi đã bình phục hoàn toàn và tôi tin rằng ông vẫn là người tương đối đáng tin cậy. Đúng thực là gần đây có một hai lỗi nhỏ xuất hiện trong sự thi hành bổn phận của ông, nhưng lần nào cũng chỉ là những sự việc có tính chất rất vặt vãnh.”
“Nhưng chúng ta không ai muốn thấy một việc thuộc loại ấy xảy ra lần nữa, phải không? Ý tôi là việc cha anh bị quỵ hay những chuyện tương tự.”
“Thực vậy, thưa ngài.”
“Và đương nhiên, nếu việc đó có thể xảy ra ngoài thảm cỏ, thì cũng có thể xảy ra bất cứ đâu. Bất cứ khi nào.”
“Đúng vậy, thưa ngài.”
“Có thể xảy ra trong bữa tối, khi cha anh đang đứng phục vụ bàn, chẳng hạn.”
“Điều đó là có thể, thưa ngài.”
“Stevens này, đoàn đại biểu đầu tiên sẽ đến đây sau chưa đầy hai tuần nữa.”
“Chúng ta đã sẵn sàng mọi mặt, thưa ngài.”
“Những điều xảy ra trong ngôi nhà này từ thời điểm đó trở đi có thể sẽ để lại những hệ quả đáng kể.”
“Đúng vậy, thưa ngài.”
“Những hệ quả rất đáng kể, tôi phải nói vậy. Đối với toàn bộ tiến trình Âu châu đang đi theo. Xét theo thân phận những người sẽ hiện diện ở đây, tôi không nghĩ nói thế là cường điệu.” “Không hề, thưa ngài.”
“Đây hoàn toàn không phải lúc chấp nhận những nguy cơ có thể phòng tránh được.”
“Thực vậy, thưa ngài.”
“Stevens này, vấn đề cha anh rời khỏi đây hoàn toàn không được đặt ra. Chỉ đơn giản là anh được yêu cầu tính toán lại những nhiệm vụ của ông mà thôi.” Và đó là lúc, tôi nghĩ vậy, huân tước nói khi lại hạ mắt xuống tập sách và lúng túng di tay
trên một mục từ,“Bản thân những lỗi lầm ấy có thể nhỏ nhặt, Stevens ạ, nhưng chính anh cũng phải nhận thấy ý nghĩa lớn hơn của chúng. Thời kỳ đáng tin cậy của cha anh đã qua rồi. Không được giao cho ông nhiệm vụ trong bất kỳ phạm vi nào mà một sai lỗi có thể đe dọa tới thành công của cả cuộc hội đàm sắp tới.”
“Thực vậy, thưa ngài. Tôi rất hiểu điều đó.”
“Vậy thì tốt. Vậy tôi sẽ để anh suy nghĩ về việc đó, Stevens.” Phải nói thêm rằng Huân tước Darlington đã tận mắt chứng kiến cú ngã của cha tôi, khoảng một tuần trước đó. Huân tước đương thù tiếp hai vị khách, một thiếu phụ và một khách nam, trong chòi nghỉ mùa hè, và đã chứng kiến cha tôi tiến lại qua thảm cỏ, bưng theo một khay đồ giải khát rất được trông đợi. Thảm cỏ dốc thoải lên vài thước dẫn đến chòi nghỉ, và thời đó, cũng như bây giờ, có bốn phiến đá lớn chôn vào nền cỏ làm bậc thang để qua đoạn dốc này. Chính khu vực những bậc thang đó là nơi cha tôi đã ngã, khiến vật dụng trên khay rơi vãi khắp nơi - ấm chén, đĩa lót, bánh kẹp, bánh ngọt - quanh mặt cỏ nơi bậc thang trên cùng. Tới lúc tôi nhận được tin cấp báo và tới nơi, huân tước cùng hai vị khách đã đặt cha tôi nằm nghiêng, dùng gối ngồi và thảm trải trong chòi nghỉ mùa hè làm gối đầu và chăn đắp cho ông. Cha tôi đã bất tỉnh, mặt ông mang sắc xám bất thường. Đã có người đi gọi bác sĩ Meredith, nhưng huân tước nhận định rằng cần đưa cha tôi ra khỏi nơi nắng chiếu trước khi bác sĩ đến nơi; do đó một chiếc ghế có bánh xe đã được đưa đến, và sau rất nhiều khó nhọc, cha tôi được chuyển vào trong nhà. Tới khi bác sĩ đến nơi, ông đã hồi lại đáng kể, và vị bác sĩ chẳng mấy đã lại ra về, chỉ phát biểu mơ hồ rằng cha tôi có vẻ đã hơi “lao lực”.
Sự vụ đó hẳn nhiên là một nỗi hổ thẹn lớn đối với cha tôi, và tới khoảng thời gian có cuộc đối thoại trong thư phòng huân tước, thì ông đã từ lâu quay lại bận rộn làm việc như từ trước đến giờ. Do vậy, làm thế nào đề cập đến chủ đề cắt giảm công việc cho ông không phải là một câu hỏi người ta dễ giải quyết. Khó khăn của tôi còn phức tạp thêm bởi vài năm nay cha con tôi
- vì nguyên do nào đó tôi chưa bao giờ thực sự dò ra được - càng lúc càng bớt trò chuyện với nhau. Tới nỗi sau khi ông tới ở Dinh Darlington, cả những trao đổi ngắn ngủi cần có khi truyền đạt thông tin công việc cũng đều diễn ra trong cảm giác ngại ngùng của đôi bên.
Sau cùng, tôi quyết định phương án khả thi nhất là trao đổi riêng tư trong phòng ông, như vậy ông sẽ có cơ hội được một mình suy ngẫm tình hình mới khi tôi đã lui về. Muốn gặp cha tôi trong phòng riêng thì chỉ có hai thời điểm, hoặc sáng sớm trước mọi việc khác, hoặc đêm muộn khi mọi việc đã xong. Tôi chọn cách đầu, và một buổi sáng sớm, tôi trèo lên căn phòng gác mái nhỏ trên cùng khu nhà ở của gia nhân và gõ nhẹ.
*
Trước dịp này tôi hiếm khi có lý do vào phòng cha, và tôi lại một lần nữa sửng sốt nhận ra nó nhỏ hẹp trơ trọi nhường nào. Thực tế, tôi còn nhớ đã có cảm tưởng mình vừa bước vào một căn xà lim, nhưng hẳn cảm giác này đem lại là do ánh sáng nhợt nhạt đầu ngày không kém gì do không gian chật chội hay bốn bức tường trơ trọi. Bởi cha tôi đã mở rèm và đương ngồi nơi mép giường, râu ria đã cạo, đồng phục đầy đủ, thấy rõ ông đã ngồi đó hồi lâu nhìn bầu trời sáng dần. Ít nhất người ta cũng phải giả định rằng ông nhìn bầu trời, bởi qua ô cửa sổ nhỏ chẳng thấy gì mấy ngoại trừ ngói và máng xối mái nhà. Đèn dầu bên bàn đã tắt lửa, và khi thấy ông đưa cặp mắt chê trách nhìn cây đèn tôi cầm theo để dẫn đường lên cầu thang khấp khểnh, tôi vội vặn thấp bấc. Khi làm thế, tôi càng nhận rõ hiệu ứng của ánh sáng yếu ớt lọt vào phòng, tô viền các đường nét khắc khổ, hằn vết và hẵng còn đáng kính sợ trên mặt cha tôi.
“À,” tôi nói và cười khục một tiếng, “lẽ ra tôi phải biết cha đã trở dậy sẵn sàng cho công việc trong ngày.”
“Ta đã dậy cách đây ba tiếng đồng hồ rồi,” ông nói, nhìn tôi từ đầu đến chân khá lạnh lùng.
“Tôi hy vọng chứng viêm khớp không làm cha mất giấc.” “Ta đã ngủ đủ.”
Cha tôi vươn tay tới chiếc ghế duy nhất trong phòng, một chiếc ghế gỗ nhỏ, vịn cả hai tay vào lưng ghế bẩy người đứng lên. Nhìn ông đứng thẳng trước mặt mình, tôi không còn biết chắc dáng người còng gập xuống mọi khi có bao nhiêu phần là do yếu nhược, còn bao nhiêu phần là thói quen nương theo cái trần phòng dốc gắt.
“Thưa cha, tôi tới đây để truyền đạt lại một điều với cha.” “Vậy truyền đạt lại ngắn gọn, súc tích thôi. Ta không bỏ cả sáng nghe cậu nói chuyện phiếm được đâu.”
“Nếu vậy, thưa cha, tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề.”
“Vậy đi thẳng vào vấn đề cho xong đi. Có người còn phải bắt tay vào việc ở đây.”
“Được thôi. Bởi cha muốn tôi ngắn gọn, tôi sẽ cố hết sức làm theo ý cha. Thực tế là, cha đã ngày càng trở nên suy yếu. Đến mức ngay cả các bổn phận phó quản gia giờ cũng đã quá sức cha. Huân tước có nhận định, và thực sự là bản thân tôi cũng vậy,
rằng chừng nào cha còn được phép tiếp tục thực hiện những bổn phận hiện giờ, chừng đó cha còn là một mối đe dọa thường trực đối với việc điều hành trơn tru căn nhà này, và đặc biệt là với cuộc gặp mặt quốc tế quan trọng vào tuần tới.”
Gương mặt cha tôi trong ánh sáng lờ mờ không thể hiện bất cứ cảm xúc nào.
“Cảm nghĩ chung chủ yếu là,” tôi nói tiếp,“cha không nên đảm trách việc phục vụ bên bàn nữa, dù trong trường hợp có mặt tân khách hay không.”
“Ta đã phục vụ bên bàn từng ngày một trong suốt năm mươi tư năm vừa qua,” cha tôi nhận xét, giọng ông vẫn tuyệt đối thong thả.
“Thêm nữa, quyết định đưa ra là cha sẽ không bưng khay chất nặng dù là loại đồ gì, dù chỉ đi một quãng ngắn. Xét theo những hạn chế đó, và biết rằng cha rất trân trọng sự súc tích, tôi đã liệt kê ở đây danh sách đã điều chỉnh các bổn phận giao cho cha từ nay trở đi.”
Tôi thực không có ý muốn đưa vào tay ông tờ giấy đang cầm, nên đặt xuống cuối giường ông. Cha tôi chỉ liếc nhìn, rồi đưa
mắt trở lại nhìn tôi. Mặt ông vẫn không gợn chút cảm xúc nào, đôi bàn tay đặt trên lưng ghế trông vẫn hoàn toàn ung dung. Dù ông đứng thẳng hay còng xuống, vẫn không thể không cảm thấy sức áp đảo từ vóc người đồ sộ của ông - sức áp đảo đã từng khiến hai vị khách say mềm phải tỉnh hẳn sau băng ghế. Cuối cùng, ông nói:
“Lần đó ta chỉ ngã vì mấy bậc thang. Bậc thang bị vênh. Phải nói Seamus sửa lại trước khi có người khác ngã.”
“Thực vậy. Dẫu thế nào, tôi có thể có lời đảm bảo rằng cha sẽ nghiên cứu danh sách kia được không?”
“Phải nói Seamus sửa lại mấy bậc thang. Chắc chắn phải làm xong trước khi khách mời từ châu Âu đến.”
“Thực vậy. Giờ thì chúc buổi sáng tốt lành, thưa cha.” Buổi chiều hè mà cô Kenton nhắc đến trong thư diễn ra chỉ ít lâu sau cuộc gặp gỡ ấy - thực vậy, có thể còn chính là chiều tối ngày hôm ấy. Tôi không nhớ nổi mục đích gì đã đưa tôi lên tầng cao nhất trong nhà, nơi có các buồng ngủ dành cho khách sắp hàng bên hành lang. Nhưng có lẽ tôi đã nói, hãy còn sống động trong trí tôi luồng nắng cuối ngày đổ vào qua từng khung cửa mở, vắt ngang hành lang thành những cột sáng màu cam. Và giữa lúc tôi tiếp tục đi qua những buồng ngủ không người ấy, dáng người cô Kenton, chỉ là một bóng đen trên nền ô cửa sổ một buồng trong số đó, đã lên tiếng gọi tôi.
Khi người ta nghĩ về việc này, về thái độ thường trực của cô Kenton mỗi khi nói với tôi về cha tôi trong thời kỳ đầu cô ở Dinh Darlington, thì chẳng có gì lạ là ký ức về chiều hôm đó lại còn trong cô suốt bao nhiêu năm như vậy. Hẳn nhiên cô đã cảm thấy chút ăn năn khi đứng bên tôi qua cửa sổ theo dõi dáng hình cha tôi bên dưới. Bóng những cây dương đã đổ qua phần lớn thảm cỏ, nhưng mặt trời còn soi sáng đầu bên kia nơi thảm cỏ dốc lên về phía chòi nghỉ mùa hè. Có thể thấy rõ cha tôi đương đứng bên bốn bậc thang đá ấy, chìm trong nghĩ ngợi. Cơn gió nhẹ khẽ lùa mái tóc ông. Rồi trước mắt chúng tôi, ông bước thực chậm lên từng bậc. Tới bậc trên cùng, ông quay người đi trở xuống, nhanh chân hơn một chút. Lại quay người, ông đứng yên thêm vài giây,
suy tính những bậc thang trước mặt. Cuối cùng, ông lại đi lên lần hai, thận trọng dò từng bước. Lần này ông đi tiếp qua thảm cỏ cho tới khi đến gần sát chòi nghỉ, rồi quay lưng chậm chạp bước vòng lại, mắt không rời mặt đất. Thực tế là, tôi cũng không có cách nào diễn tả dáng bộ ông vào thời điểm đó hay hơn câu cô Kenton viết; quá đúng là “như muốn tìm một viên ngọc quý đã đánh rơi ở đó”.
*
Nhưng tôi thấy là mình đương bị cuốn vào những kỷ niệm này, như thế có lẽ hơi dớ dẩn. Suy cho cùng, chuyến đi hiện tại là một dịp hiếm hoi giúp tôi thưởng thức cho đầy đặn phong cảnh huy hoàng của vùng thôn quê nước Anh, và tôi biết về sau sẽ hối tiếc không tả xiết nếu lúc này để cho mình sao nhãng không phải lối. Thực tế là tôi nhận ra mình còn chưa hề chép lại chút gì về chặng du hành tới thành phố này - ngoại trừ nhắc qua lúc nghỉ trên khúc đường ven đồi ngay khi vừa khởi hành. Đây quả là một thiếu sót, xét theo cuốc xe ngày hôm qua đã để lại niềm thích thú đến mức nào trong tôi.
Tôi đã lên lịch trình rất kĩ càng cho chặng đi đến Salisbury, hầu như tránh hết những đường cái; có lẽ sẽ có người thấy tuyến đường này vòng vèo không đáng, nhưng đấy lại là tuyến đường cho phép tôi nếm trải khá nhiều những cảnh đẹp theo lời khuyên của bà J. Symons trong bộ sách tuyệt diệu của bà, và phải nói rằng chuyến đi làm tôi rất vui lòng. Tuyến đường đưa tôi qua chủ yếu là những vùng nông trại, giữa mùi hương đồng cỏ dễ chịu, và thường thường tôi thấy mình đang hãm cho cỗ Ford chạy chậm rì rì để được ngắm trọn vẹn hơn một dòng suối hay thung lũng đang chạy ngang. Nhưng theo tôi nhớ, tôi không xuống xe lần nữa mãi cho đến khi đã đến rất gần Salisbury.
Lúc đó, tôi đang chạy xe trên một khúc đường thẳng rất dài, hai bên là những đồng cỏ rộng. Thực tế, đến khúc đó mặt đất đã trải ra bằng phẳng rộng rãi, cho phép người ta nhìn khá xa theo mọi hướng, và đỉnh tháp Nhà thờ chính tòa Salisbury đã hiện ra trên đường chân trời trước mặt. Cảm giác thanh bình đã đến
choán lấy tôi, và vì thế tôi tin rằng mình đã lại ghìm xe chạy rất chậm - hẳn là không quá mười lăm dặm một giờ. Như vậy cũng hay, vì đến phút cuối tôi mới nhận ra trước mặt có con gà mái đương qua đường thực đủng đỉnh. Tôi hãm xe lại chỉ cách con vật chừng một hai bước, đến lượt mình nó cũng nghỉ chân, đứng lại ngay giữa đường trước mặt tôi. Sau chừng một khắc nó vẫn không di dịch, tôi đành viện đến còi xe, nhưng cũng chẳng có tác dụng gì hơn ngoài khiến con vật khởi sự mổ mổ vật gì trên mặt đất. Hết chịu nổi, tôi ra khỏi xe nhưng còn chưa nhấc chân khỏi thềm cửa xe thì đã nghe giọng nữ gọi với, “Ôi, xin ngài bỏ lỗi cho.”
Liếc nhìn quanh, tôi nhận ra mình vừa chạy qua một ngôi nhà dân nhỏ bên đường, từ trong nhà đó một phụ nữ trẻ mặc tạp dề vừa hối hả chạy ra, hẳn nhiên vì bị tiếng còi xe đánh động. Chạy qua tôi, chị ta bế bổng con gà lên ẵm trên tay trong lúc lại xin lỗi tôi lần nữa. Sau khi nghe tôi cam đoan rằng chẳng có gì phương hại, chị nói, “Thật ơn ngài quá vì đã dừng xe không cán vào Nellie bé bỏng. Cô ả ngoan lắm, toàn cho nhà cháu những quả trứng to thật là to. Ngài dừng xe thật là tốt quá. Mà chắc ngài cũng đang vội vàng đi đâu.”
“Ồ không, có vội vàng gì đâu,” tôi mỉm cười đáp. “Lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi được phép cho mình thong thả, và tôi phải nói rằng đây đúng là một điều thích thú. Tôi chỉ đang hưởng thú chạy xe thôi, cô thấy đấy.”
“Ồ thật là hay quá, thưa ngài. Và cháu đoán là ngài đang trên đường đi Salisbury, phải không?”
“Thực vậy, tôi đang đến đó. Thực tế là đằng kia là nhà thờ chính tòa phải không? Tôi nghe nói đấy là một tòa kiến trúc rất lộng lẫy.”
“Vâng, đẹp lắm, thưa ngài, đẹp lắm. À, nói thật với ngài nhá, cháu cũng chả có mấy dịp đi Salisbury cả, nên cháu cũng chả biết rõ nhìn gần thì nó thế nào đâu. Nhưng nói ngài nghe, chúng cháu ở đây hôm nào cũng thấy tháp cả. Nhiều hôm thì mù đến nỗi cứ như là nó biến mất tăm rồi í. Nhưng ngài cũng thấy đấy, ngày đẹp trời như hôm nay thì thực là đẹp.”
“Dễ thương thực.”
“Cháu thật biết ơn ngài đã không cán vào Nellie nhà cháu, thưa ngài. Ba năm trước con rùa nhà cháu bị cán chết, đúng là quanh chỗ này luôn. Cả nhà cháu ai cũng buồn rũ cả ra.” “Thực bi thảm,” tôi nghiêm giọng đáp.
“Bi thảm thật đấy, thưa ngài. Nhiều người cứ nghĩ dân làm nông chúng cháu thấy thú vật bị thương, bị chết quen đi rồi/ nhưng nào phải thế đâu. Thằng bé nhà cháu khóc mấy ngày trời. Ngài dừng xe vì Nellie thật là tốt quá, thưa ngài. Nếu ngài có lòng ghé nhà xơi hớp trà, bởi đằng nào ngài cũng đã ra khỏi xe, thì nhà cháu sẽ rất mừng. Có chút trà giúp ấm bụng khi đi đường.”
“Cô mời tôi thực là tử tế, nhưng thực tình là tôi phải đi tiếp thôi. Tôi muốn tới Salisbury sớm để nhìn ngắm những cảnh đẹp của thành phố.”
“Quả là thế, thưa ngài. Vậy thôi, lần nữa cảm ơn ngài.” Tôi lại lên đường, và vì cớ nào đó - có lẽ vì trông chờ sẽ có thêm nhiều gia súc gia cầm đi ngang - vẫn giữ nguyên tốc độ chậm rì khi nãy. Phải nói rằng cuộc gặp nho nhỏ này đã có gì đó khiến tôi rất phấn khởi; lòng tốt giản đơn mà vì nó tôi được cám ơn, cũng như lòng tốt giản đơn đáp lại tôi, cách nào đó đã khiến tôi vô cùng hân hoan khi nghĩ tới công trình đang chờ đợi tôi trong mấy ngày sắp tới. Vậy là chính trong tâm trạng đó mà tôi đến đây, Salisbury.
Nhưng có lẽ tôi nên quay lại dẫu chỉ một chốc câu chuyện về cha tôi; bởi tôi nhận ra có thể khi nãy đã tạo ấn tượng mình cư xử có phần thô vụng khi nói đến năng lực giảm sút của ông. Thực tế là, tôi không có mấy lựa chọn khác ngoài tiếp cận vấn đề theo cách đó - mà hẳn quý vị cũng cho là vậy một khi đã nghe tôi giãi bày rõ hoàn cảnh mấy ngày hôm đó. Nói vậy có nghĩa là, cuộc hội đàm quốc tế quan trọng sắp diễn ra ở Dinh Darlington tới khi ấy đã sừng sững trước mặt, chẳng còn mấy thời giờ để mà vỗ về hay “nói gần nói xa” nữa. Thêm vào đó, cần lưu ý một điều là tuy Dinh Darlington rồi sẽ chứng kiến nhiều sự kiện khác không kém phần quan trọng trong khoảng mười lăm năm
tiếp sau đó, thì cuộc hội đàm tháng Ba năm 1923 ấy là lần đầu tiên, khi người ta còn tương đối thiếu kinh nghiệm, hẳn là vậy, và không muốn đùa với may rủi. Thực tế là tôi vẫn thường ngẫm lại cuộc hội thảo ấy, và cho rằng đấy là bước ngoặt trong đời tôi, không chỉ vì một nhẽ. Thứ nhất, chắc là tôi cũng thực sự coi đó là thời điểm mình thực sự thành nhân trong sự nghiệp quản gia. Nói vậy không có nghĩa là tôi coi mình đã trở thành một quản gia “vĩ đại”; dẫu sao đi nữa, tôi cũng không ở vị thế có thể đưa ra những phán xét kiểu này. Nhưng nếu giả thử có bao giờ ai đó muốn đặt giả thiết rằng tôi đã đạt tới dù chỉ một phần nhỏ bé cái điều kiện “phẩm cách” tối quan trọng đó trong quá trình hành nghề, thì người đó có lẽ sẽ muốn được biết về cuộc hội thảo tháng Ba năm 1923 ấy như mốc đánh dấu thời điểm tôi lần đầu thể hiện mình có lẽ mang trong mình năng lực đạt tới một phẩm chất như vậy. Đấy thuộc hàng những sự kiện xuất hiện đúng vào một giai đoạn cốt tử trong quá trình trưởng thành của một người, nhằm thách thức và buộc người ta cố sức đến tận cùng giới hạn năng lực bản thân và hơn nữa, khiến cho từ đó về sau, người ta có những tiêu chuẩn mới để xét đoán chính mình. Kỳ hội thảo ấy, đương nhiên, còn đáng nhớ vì vài nhẽ khác không liên quan, như giờ tôi muốn giảng rõ.
*
Hội thảo năm 1923 là đỉnh điểm của một kế hoạch mà Huân tước Darlington đã xây đắp lâu dài; thực tế là giờ nhìn lại, có thể thấy rõ huân tước đã bắt đầu tiến tới điểm này từ quãng ba năm trước đó. Theo tôi nhớ, ban đầu ngài chưa bận trí với hòa ước như vậy khi nó mới được thảo ra hồi kết thúc Đại Chiến, và tôi nghĩ sẽ hoàn toàn xác đáng khi nói rằng mối quan tâm của ngài được khơi gợi không phải do nghiên cứu kĩ các điều khoản hiệp ước, mà là do tình bằng hữu với Herr(1) Karl-Heinz Bremann.
Herr Bremann tới thăm Dinh Darlington lần đầu tiên là ngay sau khi kết thúc chiến tranh, vẫn còn mặc nguyên quân phục sĩ quan, và bất cứ ai nhìn vào cũng thấy rõ giữa ông và Huân tước Darlington đã hình thành mối giao tình khắng khít. Điều này không làm tôi ngạc nhiên, bởi chỉ nhìn qua cũng nhận thấy
Herr Bremann là một vị rất mực đàng hoàng, về sau, khi đã xuất ngũ, ông lại lui tới khá đều đặn trong khoảng hai năm tiếp theo, và khó mà không nhận thấy và quan ngại trước sự suy sụp trông thấy của ông giữa mỗi lần xuất hiện. Trang phục ông ngày càng lộ vẻ túng thiếu, vóc người ông rạc đi, mắt ông xuất hiện vẻ đau đáu, và những lần gặp cuối, ông thường đờ đẫn hồi lâu, không nhận ra có huân tước bên cạnh, và đôi lúc, không cả nhận ra người khác đang nói với mình. Tôi hẳn đã đoán rằng Herr Bremann đương chịu thứ bệnh tình gì nghiêm trọng, nếu không phải vì vài câu huân tước buông ra vào quãng đó.
Hẳn chính vào quãng cuối năm 1920, Huân tước Darlington đã tự mình tới Berlin, lần đầu trong nhiều chuyến đi sau này, và tôi vẫn nhớ ngài đã bị chấn động ra sao. Một vẻ trầm mặc nặng nề bao trùm lấy ngài suốt nhiều ngày sau khi trở lại, và một lần, tôi nhớ, đáp lại lời tôi thăm hỏi chuyến đi có được vui vẻ hay chăng, ngài đáp lời, “Rất đáng phiền muộn, Stevens ạ. Thực sự rất đáng phiền muộn. Chúng ta thực mất mặt khi đối xử với đối thủ bại trận theo cách ấy. Thực là hoàn toàn trái ngược với truyền thống của đất nước này.”
Nhưng vẫn còn một ký ức khác ở lại sống động trong tôi liên quan đến vấn đề này. Ngày nay, sảnh tiệc lớn khi xưa không còn đặt bàn nữa, và căn phòng rộng rãi có trần cao hoành tráng ấy trở thành một phòng trưng bày đắc dụng cho ông Farraday. Nhưng vào thời huân tước, phòng ấy cùng cái bàn dài giữa phòng thường xuyên được đòi tới để xếp chỗ dùng bữa tối cho ba chục thực khách hoặc hơn; thực tế là sảnh tiệc rộng tới mức, khi có yêu cầu, ngoài bàn chính còn có thể bổ sung nhiều bàn nữa để tiếp nhận đến gần năm chục khách. Đương nhiên, cũng như ông Farraday hiện thời, vào những ngày thường Huân tước Darlington chỉ dùng bữa trong phòng ăn, một không gian thân mật hơn, lý tưởng cho số người từ một tá trở xuống. Nhưng vào cái đêm mùa đông tôi đương nhớ lại đây, vì nguyên do nào đó mà phòng ăn không được dùng đến, và Huân tước Darlington dùng bữa tối với một vị khách duy nhất - tôi nghĩ hẳn là Sir Richard Fox, một đồng sự cũ thời huân tước làm ở Bộ Ngoại giao
- giữa không gian mênh mông của sảnh tiệc. Hẳn quý vị sẽ đồng tình rằng về phục vụ tiệc mà nói, tình huống khó khăn nhất là khi chỉ có hai thực khách. Bản thân tôi cũng thấy dễ xử hơn nếu chỉ có một người, dẫu là người lạ mặt. Có hai thực khách, dù một trong hai là chính chủ nhân mình, là thử thách khó nhất khi cần đạt đến điểm cân bằng giữa chu đáo tận tình và duy trì cảm tưởng người hầu bàn không có mặt, điều cốt yếu của nghệ thuật phục vụ bàn; chính trong tình huống này mà người ta ít khi rũ bỏ được nỗi ngờ rằng sự hiện diện của mình đang ngáng trở chuyện trò của thực khách.
Lần đó, phần lớn căn phòng chìm trong bóng tối, hai nhà quý tộc đương ngồi bên nhau ở lưng chừng bàn ă n - bàn quá rộng, họ không ngồi đối diện nhau được - trong vùng ánh sáng từ chúc đài trên bàn và lò sưởi nổ lách tách đối diện. Tôi quyết định giảm thiểu sự có mặt của mình bằng cách đứng trong vùng chập choạng, cách xa bàn hơn nhiều so với lệ thường. Cố nhiên, phương án này có mặt không hay thấy rõ, đấy là mỗi lần tôi tiến về phía sáng để phục vụ hai vị quý nhân, tiếng bước chân tôi sẽ vang tới tai họ rất to và rất lâu trước khi tôi tới nơi, lôi kéo sự chú ý của họ một cách khoa trương nhất có thể; nhưng lại có điểm rất quý là giúp cho thân người tôi chỉ hiện ra lờ mờ những lúc đứng bất động. Và chính trong lúc đương đứng như vậy, trong vùng chập choạng, cách một quãng hai vị quý nhân ngồi giữa hai hàng ghế trống, tôi nghe Huân tước Darlington nói về Herr Bremann, giọng điềm đạm và nhỏ nhẹ như thường, nhưng không hiểu sao vẫn âm vang mãnh liệt khắp những bức tường lớn ấy.
“Ông ấy là kẻ thù của tôi,” ngài nói vậy,“nhưng lúc nào cũng cư xử đúng điệu người quý tộc. Chúng tôi đã hành xử đứng đắn với nhau trong suốt sáu tháng nã pháo vào đầu nhau. Ông ấy là một nhà quý tộc, đang thực hiện nhiệm vụ của mình, và tôi không ôm bụng thù hằn gì với riêng ông ấy cả. Tôi nói với ông ấy: ‘Nghe này, giờ chúng ta là kẻ thù và tôi sẽ quyết tử với anh. Nhưng chừng nào cái công việc chết giẫm này qua đi, chúng ta sẽ không phải đóng vai kẻ thù nữa, và chúng ta sẽ chạm cốc
cùng nhau.’ Chết giẫm một điều là, cái hòa ước này khiến tôi thành ra nói dối. Ý tôi là, tôi đã bảo ông ấy, chúng ta sẽ không còn là kẻ thù nữa một khi tất cả qua đi. Nhưng làm sao tôi có thể nhìn vào mắt ông ấy mà nói rằng hóa ra lại đúng là như vậy?”
Và cùng đêm ấy, một hồi sau đó, huân tước đã lắc đầu, nói vẻ nghiêm nghị, “Tôi đã ra trận để gìn giữ công lý trên thế giới. Cứ theo tôi hiểu, tôi không tham gia cuộc trả hận nhằm vào nòi giống Đức.”
Và khi ngày nay người ta nghe phải những gì thiên hạ nói về huân tước, nghe những đồn đoán dớ dẩn về động cơ của ngài một cách quá thường xuyên, tôi ấm lòng nhớ lại ký ức về khoảnh khắc ấy, khi ngài nói những lời tâm can ấy trong sảnh tiệc gần như trống không. Dù những năm sau đó con đường của huân tước có nảy sinh những rắc rối gì, thì riêng tôi đây sẽ không bao giờ ngờ vực rằng chính khao khát được thấy “công lý trên thế giới” là nguồn cơn cho mọi hành động của ngài.
Không lâu sau buổi tối đó, tin buồn đưa đến rằng Herr Bremann đã tự tử bằng súng trên chuyến tàu đi từ Hamburg đến Berlin. Hiển nhiên, huân tước vô cùng phiền muộn, ngài lập tức lên kế hoạch gửi ngân khoản và lời phân ưu đến bà Bremann. Tuy nhiên, sau vài ngày gắng gỏi, mà bản thân tôi cũng cố hết sức trợ giúp ngài, huân tước vẫn chưa phát hiện ra tung tích bất kỳ ai trong số thân nhân của Herr Bremann. Xem chừng là ông đã sống vô gia cư một thời gian, người thân đã tản mát cả.
Tôi hằng tin rằng dù không có sự kiện đau buồn ấy, Huân tước Darlington vẫn sẽ đi con đường của ngài sau này, bởi khát khao đã hằn sâu vào bản chất ngài mong chấm dứt bất công và khổ nạn trên thế giới không cho phép ngài làm khác. Sự tình là, suốt mấy tuần sau cái chết của Herr Bremann, huân tước ngày một chuyên tâm vào cuộc khủng hoảng ở Đức. Đã có những bậc quyền lực và danh tiếng thường xuyên lui tới viếng thăm, theo tôi còn nhớ, có cả Huân tước Daniels, Giáo sư Maynard Keynes, cả tác giả lừng danh H. G. Wells nữa, cũng như những người tới thăm trên nguyên tắc “kín” nên tôi không tiện nêu tên - và huân
tước cùng với họ thường đắm đuối tranh luận hàng tiếng đồng hồ không nghỉ.
Thực tế là trong số họ, có những vị khách “kín” tới mức tôi được dặn không để cho đội ngũ nhân viên biết được danh tính họ, thậm chí trong vài trường hợp không cả được bắt gặp họ. Tuy nhiên, và nói ra điều này tôi có chút vừa hãnh diện, vừa biết ơn - Huân tước Darlington không bao giờ tìm cách giấu điều gì cho tôi khỏi thấy hoặc nghe; ký ức tôi còn lưu lại vô số dịp một nhân vật nào đó bỗng bỏ lửng câu nói, dè chừng nhìn về phía tôi, nhưng rồi huân tước cất lời, “Không có vấn đề gì hết. Ngài có thể nói bất cứ điều gì trước mặt Stevens, tôi cam đoan với ngài.”
Thế là, đều đặn, trong khoảng hai năm tiếp sau cái chết của Herr Bremann, huân tước cùng Sir David Cardinal - người đã trở thành đồng minh thân cận nhất của ngài giai đoạn đó - đã tập hợp được một liên minh đa dạng những nhân vật cùng chung niềm tin rằng tình cảnh ở Đức không được phép kéo dài thêm. Trong số họ không chỉ có người Anh và Đức, mà còn người Bỉ, Pháp, Ý, Thụy Sĩ; có các nhà ngoại giao hay chính khách quyền thế, có những giáo chức đức cao vọng trọng, có những bậc tai mắt quân đội đã về hưu, có nhà văn và nhà tư tưởng. Có nhiều vị chỉ đơn thuần chia sẻ niềm tin mạnh mẽ của huân tước, rằng lẽ công bằng đã không được thực thi ở Versailles, và duy trì trừng phạt cả một dân tộc vì một cuộc chiến tranh đã kết thúc là hành động phi luân. Hiển nhiên một số người khác thì ít ưu tư cho Đức quốc cùng chúng dân ở đó hơn, nhưng họ cho rằng nếu không được cầm chân, cảnh điên đảo kinh tế ở Đức có thể lây lan chóng mặt ra toàn thế giới.
Tới đầu năm 1922, huân tước đã hoạt động vì một mục tiêu cụ thể. Đấy là tập hợp lại ở chính Dinh Darlington đây những tên tuổi có sức ảnh hưởng nhất trong số những người đã được thuyết phục mà ủng hộ ý định mở ra một hội đàm quốc tế “phi chính thức”, một cuộc hội đàm ngõ hầu tìm ra các giải pháp để lật lại những điều khoản hà khắc nhất trong hòa ước Versailles. Một cuộc hội đàm như vậy sẽ chỉ có giá trị nếu mang sức nặng
đủ để có tác động quyết định đối với những hội nghị quốc tế “chính thức”, mà tới giờ đã được tổ chức vài lần, tiếng là để xét lại hòa ước, nhưng kết quả đến giờ chỉ là nảy ra thêm rối loạn và thù hằn. Ông Lloyd George, thủ tướng đương thời nước ta khi ấy vừa đề xuất triệu tập một hội thảo lớn nữa, định diễn ra ở Ý mùa xuân 1922, và ban đầu huân tước nhắm tới việc tổ chức ở Dinh Darlington một cuộc họp bàn nhằm đảm bảo hội thảo ấy sẽ đem lại kết quả mong muốn. Tuy nhiên, dẫu ngài cùng Sir David đã hết sức nỗ lực, thì thời hạn ấy vẫn quá gần không thể thực hiện được; nhưng khi cả hội thảo Ý cũng kết thúc mà không đưa lại quyết định nào, thì huân tước chuyển sang nhằm vào một hội thảo đình đám khác, được dự định tổ chức ở Thụy Sĩ vào năm sau.
Tôi vẫn nhớ một buổi sáng vào khoảng thời gian này đã đưa cà phê tới cho Huân tước Darlington trong phòng ăn sáng, và nhớ ngài đã nói với tôi, vẻ chán ghét, gấp lại tờ Thời báo trên tay, “Mấy người Pháp ấy. Thực tình, cứ nghĩ mà xem, Stevens. Mấy người Pháp ấy.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Trong khi chúng ta thì cần để thế giới thấy mình kề vai sát cánh với mấy người đấy. Nghĩ đến thôi là đã thấy cần đi tắm rửa cho kĩ rồi.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Lần rồi tôi ở Berlin, Stevens ạ, Nam tước Overath, bạn già của ông cụ nhà tôi, đã tới gặp tôi hỏi: ‘Sao các anh lại đối xử với chúng tôi như thế? Các anh không thấy chúng tôi không thể tiếp tục mãi như vậy sao?’ Tôi đã ngấp nghé muốn nói luôn với ông rằng đấy là mấy người Pháp chết giẫm kia. Người Anh không có lối hành xử như vậy, tôi chỉ muốn nói thế. Nhưng tôi đồ là người ta không nên làm vậy. Không được chê bôi những đồng minh thân mến của chúng ta.”
Nhưng chính vì người Pháp là phe cứng rắn nhất trước nguyện vọng giải phóng nước Đức khỏi những điều khoản nhẫn tâm trong hiệp ước Versailles, mà yêu cầu phải có trong cuộc họp mặt ở Dinh Darlington ít nhất một vị khách Pháp mang ảnh
hưởng không thể chối cãi đối với chính sách ngoại giao nước họ lại càng trở nên tối cần thiết. Thực sự là đã vài lần, tôi nghe huân tước nhận định rằng thiếu đi một nhân vật như thế tham dự vào thì có bàn thảo gì về tình hình nước Đức cũng chỉ là trò tiêu khiển. Vì thế, huân tước và Sir David đã dồn tâm sức vào chặng cuối cùng, cốt tử nhất này của quá trình chuẩn bị, và sự bền chí không mảy may dao động của họ trước những chướng ngại cứ theo nhau dồn đến quả khiến người ta phải kính phục; thư từ, điện tín bay đi không ngừng nghỉ, và huân tước đích thân thực hiện ba chuyến đi đến Paris chỉ trong thời gian hai tháng. Cuối cùng, sau khi giành được lời hứa của một vị người Pháp đặc biệt nổi danh, mà tôi sẽ chỉ gọi ở đây bằng cái tên “ông Dupont”, chấp thuận đến tham dự trên nguyên tắc “kín” rất ngặt, ngày hội thảo đã được ấn định. Nghĩa là vào cái tháng Ba đáng nhớ ấy, năm 1923.
*
Ngày hội thảo đến gần, những áp lực đặt lên tôi dù thuộc loại hèn mọn hơn nhiều những công việc chất chồng lên huân tước, nhưng cũng không phải là không nặng nề. Tôi ý thức quá rõ rằng nếu có vị khách nào thấy có chút gì chưa thoải mái trong thời gian lưu lại Dinh Darlington, thì điều ấy có thể gây ra những hậu họa mang tầm vóc khôn lường. Hơn nữa, khâu sửa soạn cho sự kiện của tôi còn phức tạp thêm bởi vẫn chưa chắc chắn về lượng khách mời. Với cuộc hội thảo cấp cao đến như vậy, số người tham dự đã được giới hạn xuống còn mười tám vị khách hết sức danh giá, cùng hai khách nữ - một nữ bá tước người Đức, và bà Eleanor Austin đáng kính sợ, thời điểm đó vẫn còn cư trú ở Berlin; nhưng mỗi người trong số họ hẳn sẽ đưa theo cả thư ký, tùy tùng và thông dịch viên, và không thể tìm ra cách nào đoán định chuẩn xác số người đi kèm như vậy. Hơn nữa, chúng tôi dần dà nhận ra một số đoàn sẽ đến vào một thời điểm nào đó trước khi diễn ra ba ngày hội đàm, để có thời gian trù bị cũng như cân đong tâm trạng của những vị khách khác, dù họ tới đích xác ngày nào cũng lại chưa được biết. Có thể thấy rõ đội ngũ nhân viên sẽ không chỉ cần nỗ lực hết sức có thể cũng
như phản xạ cực kỳ nhanh nhạy, mà còn phải linh hoạt hơn xa lệ thường. Thực tế, trong một thời gian, tôi đã có ý nghĩ rằng thử thách lớn lao chờ đợi chúng tôi đây sẽ không thể vượt qua nếu không đưa thêm về người làm mới. Tuy nhiên lựa chọn này, chưa kể đến những mối lo hẳn sẽ quấy rầy huân tước về chuyện tai vách mạch dừng, sẽ đòi hỏi tôi phải dựa vào những yếu tố bất định chính vào lúc mỗi sai lầm đều có thể phải trả giá đắt. Vì thế, tôi bắt tay vào chuẩn bị cho những ngày sắp đến với tâm thế mà tôi mường tượng giống như vị tướng chuẩn bị cho trận đánh: tôi thiết lập một cơ cấu nhân sự đặc biệt một cách vô cùng tỉ mỉ, dự trù cho tất thảy mọi tình huống có thể xảy ra; tôi phân tích để tìm ra những yếu huyệt của chúng tôi, và chuẩn bị các kế hoạch dự phòng để huy động nếu có huyệt nào trong số đó bị điểm trúng; tôi thậm chí còn làm một bài “hịch” động viên, để găm sâu vào đầu các nhân viên cái suy nghĩ rằng, bất kể phải dốc cạn sức mình ra mà làm, họ cũng có quyền tự hào hết mực khi thực hiện bổn phận của mình trong những ngày tới. “Rất có thể lịch sử sẽ được viết ra dưới mái nhà này,” tôi đã bảo họ như vậy. Và vì biết tôi không phải kẻ thường huênh hoang phách lối, nên họ hiểu rõ rằng một điều gì đó hết sức phi thường đương đến gần.
Vậy quý vị sẽ hiểu phần nào bầu không khí choán lấy toàn Dinh Darlington vào cái thời điểm cha tôi ngã trước cửa chòi nghỉ mùa hè - và sự kiện ấy lại xảy ra chỉ hai tuần trước khi đồ chừng những vị khách đầu tiên sẽ tới - và hiểu vì sao tôi lại nói rằng chẳng có mấy thời giờ mà “nói gần nói xa”. Dẫu sao đi nữa, cha tôi cũng nhanh chóng tìm ra đường lách cái quy định ông không được bưng khay nặng hòng hạn chế sự hữu dụng của ông. Và bóng dáng ông đẩy xe mắc đầy những dụng cụ vệ sinh, chổi và cây lau sắp xếp rất vô nguyên tắc dù lúc nào cũng gọn gàng chung quanh ấm chén tách trà khiến đôi lúc cỗ xe trông như xe bán hàng rong, đã trở thành thường trực trong nhà. Hẳn nhiên, ông không tránh khỏi phải từ bỏ bổn phận phục vụ bàn trong phòng ăn, nhưng ngoài chuyện đó, chiếc xe đẩy giúp ông hoàn thành một khối lượng công việc đáng kinh ngạc. Thực tế
là, khi buổi hội đàm chứa đầy thách thức ngày một tới gần, cha tôi dường như trải qua một sự lột xác đáng kinh ngạc. Cứ như thể một thế lực siêu nhiên nào đó đã chiếm hữu ông, giúp ông trút bỏ hai chục tuổi; khuôn mặt ông vơi hẳn bộ dạng hốc hác gần đây, và ông làm việc một cách sung sức trẻ trung đến nỗi người lạ đến nhà hẳn phải tin rằng có không chỉ một, mà là vài nhân vật đương đẩy xe khắp các hành lang Dinh Darlington.
Còn về cô Kenton, tôi mang máng nhớ rằng sức ép ngày một tăng của những ngày đó đã để lại dấu ấn rõ rệt nơi cô. Tỷ dụ như, tôi nhớ cái lần vào đợt đó, tôi tình cờ giáp mặt cô ở hành lang hậu sau nhà. Hành lang hậu, một thứ huyết mạch của khu người làm tại Dinh Darlington, vốn lúc nào trông cũng khá ảm đạm bởi chẳng có mấy ánh nắng rọi vào trên dãy hành lang hun hút. Cả trong những ngày đẹp trời, hành lang có lúc vẫn tối đến mức tưởng chừng đương đi qua một đường hầm. Vào dịp tôi đương nhắc tới ở đây, giả như không nhận ra tiếng chân bước trên sàn ván tiến lại phía tôi, hẳn tôi chỉ có thể biết cô là ai qua dáng người. Tôi dừng chân khi đến một trong mấy khúc ít ỏi có dải nắng sáng vắt qua sàn gỗ, và khi cô đến gần, tôi nói, “À, cô Kenton này.”
“Vâng, ông Stevens?”
“Cô Kenton, không rõ tôi có thể lưu ý cô rằng chăn đệm tầng trên cần phải sẵn sàng đầy đủ vào ngày kia hay chăng?” “Việc này hoàn toàn nằm trong kiểm soát, ông Stevens.” “Thế ư, nghe vậy tôi rất mừng. Chẳng là tôi tình cờ nghĩ tới chuyện đó thôi.”
Tôi toan đi tiếp việc mình, nhưng cô Kenton không nhúc nhích. Rồi cô tiến thêm một bước về phía tôi, làm một vạch nắng rơi lên mặt, và tôi nhìn thấy vẻ mặt cô đang giận dữ.
“Tiếc thay, ông Stevens ạ, hiện giờ tôi đang bận bù đầu và hầu như không có lấy một giây rảnh rỗi. Giá mà tôi có được nhiều thời gian rỗi như ông hiển nhiên đang có đây, thì chắc chắn tôi sẽ vui lòng báo đáp ông bằng cách đi rong khắp ngôi nhà này mà nhắc nhở ông về những nhiệm vụ hoàn toàn trong tầm kiểm soát của ông.”
“Cô Kenton này, cô không cần phải nóng nảy như vậy. Tôi chỉ đơn thuần cảm thấy cần thiết phải xác nhận rằng việc đó không lọt khỏi mắt cô…”
“Ông Stevens, đây là lần thứ bốn hoặc năm trong hai ngày vừa rồi ông đã cảm thấy cần thiết phải xác nhận như vậy. Thật lạ lùng là ông lại có nhiều thời gian trống đến mức có thể đi rong quanh nhà mà quấy quả người khác bằng những nhận xét không mời.”
“Cô Kenton, nếu dù trong một khắc cô tin rằng tôi có thời gian trống, thì điều đó càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết sự non nớt đáng kể của cô. Tôi tin rằng trong những năm tới đây, cô sẽ nhận thức tốt hơn về những điều diễn ra trong một ngôi nhà như thế này.”
“Ông không bao giờ ngưng nói về ‘sự non nớt đáng kể’ của tôi, ông Stevens ạ, thế nhưng dường như ông hoàn toàn không thể nêu ra dù chỉ một khuyết điểm trong công việc tôi làm. Nếu có, tôi tin chắc rằng ông đã nêu ra từ lâu, và nêu rất tận tình là khác. Giờ thì tôi có rất nhiều việc phải lo liệu, nên tôi rất mong ông sẽ không theo tôi khắp nhà mà cản trở tôi như thế này. Nếu ông có lắm thời gian rỗi như vậy, tôi xin gợi ý cho ông rằng đi hít thở không khí trong lành có lợi cho ông hơn nhiều đấy.”
Cô đùng đùng bước qua tôi và đi tiếp trên hành lang. Kết luận rằng tốt nhất không nên để tình hình đi xa hơn, tôi cũng tiếp tục đường mình. Tôi đã gần đến cửa vào bếp thì nghe tiếng bước chân đầy nộ khí quay ngược lại chỗ mình lần nữa.
“Thực tế là, ông Stevens,” cô lớn giọng, “tôi cần yêu cầu ông từ rày trở đi đừng trực tiếp nói chuyện với tôi nữa.”
“Cô Kenton, cô đang nói cái gì vậy?”
“Nếu cần thiết phải đưa tin, tôi cần yêu cầu ông hãy dùng một người trung gian. Hoặc cũng có thể ông thích viết vào giấy và đưa người chuyển đến tôi. Tôi chắc chắn làm thế sẽ khiến mối quan hệ công việc của chúng ta dễ chịu hơn rất nhiều.”
“Cô Kenton…”
“Tôi bận bù đầu lên, ông Stevens ạ. Hãy viết vào giấy nếu có thông tin phức tạp. Nếu không ông có thể nói với Martha hay
Dorothy, hay bất kỳ ai trong số nhân viên nam mà ông coi là xứng đáng có được lòng tin của ông. Giờ tôi xin kiếu về với công việc của tôi, để ông tiếp tục cuộc đi rong của ông.”
Bất chấp lối hành xử hết sức đáng bực của cô Kenton, tôi không thể dành quá nhiều suy nghĩ cho chuyện đó, bởi đến lúc này những vị khách đầu tiên đã tới. Các đại biểu nước ngoài còn phải chờ hai hay ba ngày nữa, nhưng ba vị khách mà huân tước gọi bằng chữ “đội nhà” - hai vị quan chức Bộ Ngoại giao đến dự trên nguyên tắc tuyệt đối “kín” cùng Sir David Cardinal - đã đến sớm để trù bị kĩ lưỡng hết mức có thể. Cũng như mọi lần, chẳng ai tìm cách giấu giếm gì với tôi trong lúc tôi ra ra vào vào các phòng nơi các vị đương mê mải tranh luận, và vì thế tôi không khỏi có một ấn tượng nhất định về bầu không khí chung giai đoạn tiền hội đàm này. Đương nhiên, huân tước cùng đồng sự nỗ lực thông tin cho nhau càng chính xác càng hay về từng người trong số khách mời dự kiến, nhưng trên hết, những lo âu của họ tập trung vào một nhân vật duy nhất, đoán chừng thiện cảm và ác cảm của ông ta: chính là ông Dupont, vị khách người Pháp. Thực vậy, vào một lúc, tôi tin mình đã bước vào phòng hút thuốc và nghe một vị phát biểu,“Số phận của châu Âu có thể thực sự được quyết định nhờ chúng ta có thuyết phục được Dupont về điểm này hay không.”
Chính vào giữa những bàn thảo tiền kỳ ấy mà huân tước trao cho tôi một sứ mạng khá bất thường đến đỗi nó còn lưu lại trong ký ức tôi đến ngày nay, bên cạnh nhiều sự kiện khác hiển nhiên là khó quên hơn sắp diễn ra trong cái tuần đáng nhớ ấy. Huân tước Darlington gọi tôi vào thư phòng, và lập tức tôi đã nhận ra huân tước đang ở tình trạng có phần kích động. Ngài ngồi vào bàn, và như mọi khi, lại kiếm cách cầm một cuốn sách mở - lần này là cuốn Niên giám nhân vật - và lật đi lật lại một trang sách.
“À, Stevens,” ngài bắt đầu vờ ung dung, nhưng rồi có vẻ không biết phải nói tiếp thế nào. Tôi vẫn đứng nguyên đó, sẵn sàng xoa dịu nỗi lúng túng của ngài ngay khi có dịp. Huân tước tiếp tục mân mê trang giấy thêm một lúc, cúi người tới săm soi một mục
tên, rồi nói, “Stevens, tôi nhận ra yêu cầu anh việc này có phần hơi lạ thường.”
“Thưa ngài?”
“Chỉ có điều hiện nay người ta thực phải suy tính quá nhiều việc quan trọng.”
“Tôi rất vui mừng nếu như có thể giúp gì được, thưa ngài.” “Tôi rất tiếc phải nêu ra một việc như vậy, Stevens ạ. Tôi biết hẳn anh hiện thời cũng đang bận kinh khủng khiếp. Nhưng tôi chịu không nhìn ra được cách nào để gạt việc đó đi.” Tôi đợi một phút trong lúc Huân tước Darlington lại chú mục vào cuốn Niên giám nhân vật. Rồi ngài nói, mà không ngẩng lên, “Tôi đoán là anh có hiểu biết các sự thực ở đời.”
“Thưa ngài?”
“Sự thực ở đời, Stevens ạ. Chuyện bướm ong các thứ. Anh có biết những việc đó, phải không?”
“Tôi e rằng mình chưa lĩnh hội được ý ngài, thưa ngài.” “Để tôi ngửa bài luôn nhé, Stevens. Sir David là bạn rất lâu năm của tôi. Và ngài đã đóng vai trò vô giá trong việc tổ chức hội đàm này. Tôi dám nói nếu không có ngài, chúng ta đã không thể có được sự chấp thuận tham dự của ông Dupont.” “Thực vậy, thưa ngài.”
“Có điều, Stevens ạ, Sir David cũng có mặt kỳ khôi. Có thể chính anh cũng đã để ý thấy rồi. Ngài có đưa theo cậu con trai Reginald cùng đến đây. Làm thư ký cho ngài. Đã đính hôn, sắp cưới, vấn đề là ở đó. Ý tôi là cậu Reginald ấy.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Sir David đã tìm cách dạy cho con trai hiểu sự đời suốt năm năm vừa qua. Bây giờ cậu thanh niên đã hai mươi ba tuổi.” “Thực vậy, thưa ngài.”
“Tôi sẽ đi vào vấn đề luôn nhé, Stevens. Sự thể là, tôi là cha đỡ đầu của cậu ấy. Vì thế, Sir David đã có lời yêu cầu tôi truyền đạt cho cậu các sự thực ở đời.”
“Thực vậy, thưa ngài.”
“Bản thân Sir David thấy đó là một nhiệm vụ đáng ngại, và ngờ rằng ngài sẽ không thể hoàn thành trước hôn lễ của cậu Reginald.”
“Thực vậy, thưa ngài.”
“Vấn đề là, Stevens ạ, tôi bận kinh khủng. Sir David hẳn phải biết vậy, nhưng ngài vẫn yêu cầu tôi.” Huân tước dừng lời, tiếp tục ngắm kĩ trang sách.
“Có phải, thưa ngài, như tôi hiểu,” tôi tiếp lời, “đức ngài muốn tôi truyền đạt thông tin cần thiết cho ngài Cardinal trẻ?” “Nếu anh không ngại, Stevens ạ. Sẽ cất cho tôi một gánh nặng kinh khủng. Sir David cứ hai giờ một lần lại hỏi tôi đã xong việc chưa.”
“Tôi hiểu, thưa ngài. Hẳn là rất gian nan trong tình cảnh áp lực hiện thời.”
“Dĩ nhiên, việc này hoàn toàn nằm ngoài bổn phận của anh, Stevens ạ.”
“Tôi sẽ cố hết sức, thưa ngài. Tuy nhiên, có thể tôi sẽ gặp khó khăn trong việc tìm một thời điểm thích hợp để truyền đạt thông tin loại này.”
“Chỉ cần anh tìm cách là tôi đã biết ơn lắm rồi, Stevens ạ. Anh thực là một con người đàng hoàng rất mực. Nghe này, không cần phải trống giong cờ mở gì đâu. Chỉ cần truyền đạt những dữ kiện cơ bản rồi chấm dứt ở đó thôi. Cách tiếp cận đơn giản là tốt nhất, tôi khuyên anh vậy đó, Stevens ạ.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ cố gắng hết sức.”
“Thực biết ơn anh quá, Stevens ạ. Được thế nào hãy thông báo cho tôi biết.”
*
Quý vị chắc cũng hình dung được yêu cầu này khiến tôi hơi bất ngờ - và ở tình cảnh thông thường, có thể đây đã là một vấn đề khiến tôi dành chút thời gian suy xét. Nhưng khi rơi vào đầu tôi đột ngột như vậy, giữa một giai đoạn bận bịu như thế, tôi không thể dành cho nó sự chú ý quá mức cần thiết được, và vì thế tôi quyết định sẽ giải quyết việc này ngay khi tìm được cơ hội. Thế là, theo tôi nhớ, chỉ đâu chừng một tiếng đồng hồ sau
ộ g ộ g g khi được giao phó sứ mệnh ấy, tôi đã nhận thấy anh Cardinal trẻ tuổi ngồi một mình trong thư viện, bên một chiếc bàn viết, vùi đầu vào tài liệu nào đó. Quan sát kĩ chàng thanh niên, thực thế, người ta có thể hiểu được khó khăn đặt ra cho huân tước - và thực vậy, cả cho cha chàng ta nữa. Người con đỡ đầu của ông chủ tôi có dáng vẻ một chàng trai nghiêm túc, yêu chuộng học hành, và những đường nét của anh nói lên rất nhiều phẩm chất tài hoa; nhưng xét theo đề tài đương cần đề cập đến đây, một mẫu người vui vẻ trẻ trung hơn, thậm chí là nông nổi, sẽ thuận tiện cho người ta hơn rất nhiều. Dẫu sao đi nữa, đã quyết tâm đưa vấn đề này đến một kết cuộc thỏa đáng càng sớm càng tốt, tôi tiến sâu hơn vào thư viện, và dừng lại một quãng trước bàn anh Cardinal, tôi hắng giọng.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài, nhưng tôi có một thông điệp cần truyền đạt tới ngài.”
“Ồ thật ư?” anh Cardinal sôi nổi đáp, rời mắt khỏi chồng giấy tờ. “Của cha tôi ư?”
“Vâng thưa ngài, về cơ bản thì là vậy.”
“Đợi một phút.”
Chàng trai trẻ với tay vào trong cặp táp dưới chân, lấy ra cuốn sổ và cây bút. “Mời chú, Stevens.”
Tôi lại hắng giọng, rồi điều chỉnh cho giọng mình trở nên trung tính hết mức có thể.
“Sir David muốn thông báo với ngài, thưa ngài, rằng nữ giới và nam giới có những sai biệt về một vài khía cạnh căn bản.” Chắc là tôi có ngưng lại một giây để hình dung câu nói tiếp theo, bởi anh Cardinal đã thở dài một tiếng và đáp lại,“Tôi biết quá rõ điều đó, Stevens ạ. Chú có thể đi luôn vào việc được không?”
“Ngài biết ư, thưa ngài?”
“Cha mãn đời chỉ đánh giá thấp tôi. Tôi đã đào sâu trong tài liệu và nghiên cứu rộng xung quanh toàn bộ lĩnh vực này.” “Vậy ư, thưa ngài?”
“Tôi hầu như không nghĩ về điều gì khác suốt một tháng vừa qua.”
q
“Thực thế ư, thưa ngài? Trong trường hợp đó, có lẽ thông điệp của tôi có hơi thừa thãi.”
“Chú có thể đảm bảo với cha rằng tôi thực sự đã nắm thông tin rất đầy đủ. Cái cặp táp này,” anh ta lấy chân huých cái cặp, “đầy nhóc những ghi chú về mọi góc độ người ta có thể hình dung ra.”
“Vậy ư, thưa ngài?”
“Tôi thành thực cho rằng mình đã truy cứu đủ tất cả mọi biến thể mà đầu óc con người cho phép. Tôi mong rằng chú sẽ cam đoan với cha như vậy.”
“Tôi sẽ làm đúng thế, thưa ngài.”
Anh Cardinal có vẻ thư giãn hơn một chút. Lần nữa, anh ta lại huých vào cái cặp - mà tôi cảm thấy mình cần phải tránh nhìn vào nó - và nói thêm: “Hẳn là chú đã băn khoăn vì sao tôi không bao giờ rời cái cặp này. À, giờ thì chú biết rồi đấy. Thử tưởng tượng nó rơi vào tay một người không nên mở ra.”
“Đấy sẽ là một tình thế vô cùng khó xử, thưa ngài.” “Đương nhiên,” anh đột ngột ngồi dựng dậy,“trừ phi cha đã tìm ra một khía cạnh mới hoàn toàn mà ông muốn tôi suy ngẫm.”
“Tôi nghĩ là khó có chuyện đó, thưa ngài.”
“Không có ư? Không cần nói gì thêm về cái tay Dupont này à?” “Tôi sợ là không, thưa ngài.”
Tôi đã cố hết sức không để lộ chút nào nỗi phiền lòng khi phát hiện ra rằng một nhiệm vụ tôi ngỡ đã sắp vượt qua, thì té ra hẵng còn nguyên không suy suyển trước mặt mình. Tôi nghĩ mình đương sắp xếp ý nghĩ trong đầu để bắt đầu đợt tấn công mới thì chàng trai trẻ đột nhiên đứng dậy, áp chặt chiếc cặp táp vào người mà nói, “À, tôi nghĩ tôi nên đi hít thở không khí trong lành một chút. Cảm ơn chú đã giúp đỡ, Stevens.”
Tôi đã dự tính sẽ tìm dịp tiến hành cuộc luận đàm tiếp theo với anh Cardinal trẻ tuổi càng ít chậm trễ càng hay, nhưng điều này hóa ra là bất khả, phần lớn bởi sự có mặt ngay chiều hôm đó - sớm khoảng hai ngày so với dự định - của ông Lewis, vị thượng nghị sĩ người Mỹ. Tôi đang ở dưới phòng quản gia đọc danh mục
"""