" Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa - La Quán Trung & Trần Hoàng Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa - La Quán Trung & Trần Hoàng Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] Ebooks Nhóm Zalo Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa Trọn bộ 3 tập Bản in cổ nhất năm 1522 ———★——— Tác giả LA QUÁN TRUNG Người dịch TRẦN HOÀNG VŨ Nhà xuất bản THANH NIÊN ebook©vctvegroup Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa LỜI NÓI ĐẦU Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa là một trong bốn bộ tiểu thuyết lớn của văn học cổ Trung Quốc, có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ ở Trung Hoa mà còn lan ra nhiều nước trên thế giới. Thời đại của tác giả và niên đại thành sách vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi trong giới học thuật Trung Quốc. Mặc dù tác phẩm này thường được cho là tác phẩm của La Quán Trung, nhưng vẫn có một số tài liệu và nhà nghiên cứu đề xuất những ý kiến khác. Đáng chú ý nhất chính là cuốn Hưng Hóa huyện Lục chí (biên soạn năm 1944) có chép bài Thi Nại Am mộ chí của Vương Đạo Sinh. Theo lời mộ chí này thì Thi Nại Am mới là tác giả của Tam quốc chí diễn nghĩa. Mộ chí cho biết: “Công húy Tử An, tự Nại Am, sinh vào năm Bính Thân niên hiệu Nguyên Trinh [1296]* , đỗ Tiến sĩ năm Tân Mùi niên hiệu Chí Thuận [1331]*, từng làm quan ở Tiền Đường hai năm, vì không hợp với bọn quyền quý đương thời, nên bỏ chức quan về quê, đóng cửa soạn sách, truy tìm những điều nghe biết cũ, thường u uất không thỏa chí, ôm hận cho đến cuối đời. Những việc về công, tôi chẳng được tường tận, nhưng cũng có thể kể ra nhiều điều, mặt mũi của công, tôi tuy không được chính mắt thấy, nhưng vẫn thường tưởng tượng dung nhan. Hình như công mất vào năm Canh Tuất niên hiệu Hồng Vũ [1370]* , hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi. Bấy giờ tôi còn để tóc trái đào. Đến lúc lớn lên, được quen biết môn nhân của ông là La Quán Trung ở đất Mân, cùng ở nơi quán trọ, nhân đêm đốt đuốc nói chuyện về những việc cũ của tiên sinh, cũng có chỗ đáng ca đáng khóc, chẳng thể nén nổi cùng nhau cảm khái. Trứ tác của tiên sinh có Chí dư, Tam quốc diễn nghĩa, Tùy Đường chí truyện, Tam Toại bình yêu truyện, Giang hồ hào khách truyện tức Thủy hử. Mỗi khi xong một sách, ắt đưa cho môn nhân hiệu đính, để sửa những chỗ sai ngoa. Trong số những đệ tử đắc lực thì La Quán Trung là người tham gia nhiều nhất. Ô hô! Anh hùng sinh trong thời loạn, thì tuy có kiến thức tựa như sông trong, cũng chẳng thể không ôm chí nguyện cho đến chết”. Nếu dựa vào lời mộ chí của Vương Đạo Sinh thì Thi Nại Am mới là tác giả của Tam quốc diễn nghĩa và La Quán Trung chỉ là người hiệu đính. Tuy nhiên, bản in sớm nhất năm 1522 chỉ đề cập đến La Quán Trung là người biên soạn mà không nói gì đến Thi Nại Am. Tính xác thực của văn bản Thi Nại Am mộ chí là điều mà các học giả Trung Quốc vẫn còn đang tranh cãi. Tào Tuấn Kiệt, Chu Bộ Lâu chủ trương đó là ngụy tác, vì bởi trong văn bản có nhiều câu chữ và danh xưng mang hơi hướng hiện đại. Tuy nhiên, Trần Truyền Khôn lại chỉ ra rằng những câu chữ và danh xưng đó đã tồn tại từ thời nhà Minh. Điều mà chúng ta có thể nói chắc là nhiều tác phẩm được Vương Đạo Sinh cho là của Thi Nại Am thì cũng được nhiều nhà in thời Minh, Thanh xác nhận là tác phẩm của La Quán Trung, chẳng hạn như Thủy hử*, Tùy Đường chí truyện, Tam Toại bình yêu truyện. Vì thế khả năng Thi Nại Am và La Quán Trung có liên hệ mật thiết với nhau là rất có thể xảy ra. Ít ra là từ thời Minh, Hồ Ứng Lân (1551-1602) đã xác nhận mối liên hệ này. Trong Thiếu Thất sơn phòng bút tùng quyển 25 (khắc in lần đầu năm 1589), Hồ Ứng Lân đã cho biết: “Người thời Nguyên ở Vũ Lâm là Thi Mỗ biên soạn Thủy hử truyện, đặc biệt thịnh hành … Môn nhân của ông là La Mỗ cũng học theo, làm Tam quốc chí, nhưng rất là nông cạn thô thiển, thật tức cười”. Lý Chí (1527-1602) trong bài tựa sách Trung Nghĩa Thủy hử truyện có nói: “Hai công Thi, La thân tại Nguyên mà tâm tại Tống, tuy sinh vào thời Nguyên mà thực căm phẫn chuyện triều Tống. Bởi vì căm phẫn việc hai đế tuần thú phương bắc, mới mượn chuyện phá Đại Liêu để giải mối hận, vì căm phẫn việc vượt sông về nam để cầu yên tạm bợ, mới mượn chuyện diệt Phương Lạp để giải mối hận”. Có thể tạm cho rằng La Quán Trung là môn sinh của Thi Nại Am và đã cùng với Thi biên soạn hoặc giúp đỡ Thi hiệu đính nhiều tiểu thuyết. Tuy nhiên, Tam quốc chí diễn nghĩa thì chừng như là sáng tác của chính La Quán Trung, vì văn phong của nó không giống với Thủy hử - như lời bình luận của Hồ Ứng Lân. Về tiểu sử của La Quán Trung thì ngay từ thời Minh đã có nhiều ý kiến trái chiều. Điền Nhữ Thành (1503-1557) trong Ủy hạng tùng đàm thì cho biết: “La Quán Trung Bản ở Tiền Đường, người thời Nam Tống, biên soạn tiểu thuyết mấy chục loại, mà Thủy hử truyện kể chuyện của bọn Tống Giang, gian trộm lừa gạt, quỷ quyệt rất là kỹ lưỡng, nhưng biến trá trăm bề, làm hại tâm thuật của con người. Con cháu của y ba đời đều câm. Đạo trời vay trả, báo ứng như thế”. Mặc dù vậy, rất nhiều ý kiến cho rằng La Quán Trung sinh vào thời Nguyên. Đáng chú ý nhất là ghi chép trong Lục quý bộ tục biên có nói: “La Quán Trung là người Thái Nguyên, hiệu là Hồ Hải tản nhân, ít giao thiệp với người. Nhạc phủ, ẩn ngữ của y rất là trong sáng, mới mẻ. Y cùng với tôi làm bạn vong niên*, gặp thời lắm việc, mỗi kẻ một phương. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu Chí Chính* [1364] lại gặp nhau, bặt tin nhau đến sáu chục năm, cuối cùng chẳng biết kết cuộc của y thế nào”. Điều đáng tiếc là đến nay tác giả của Lục quỷ bộ tục biên vẫn còn chưa xác định. Có thuyết cho rằng tác giả sách này là Giả Trọng Minh (1343-1422), nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây là sách của Vô Danh thị. Tuy nhiên, dựa vào chi tiết này, các nhà nghiên cứu phán đoán rằng năm sinh, năm mất của La Quán Trung là vào khoảng từ năm 1330 đến năm 1400. Tháp Ảnh Viên tập của Cố Linh (1609-1682) cho biết La Quán Trung từng là “khách ở bá phủ của Trương Sĩ Thành” – một lãnh tụ khởi nghĩa chống Nguyên. Còn Bại sử vị biên của Vương Kì (1530-1615) thì cho biết “Tông Tú La Quán Trung, Quốc Sơ Cát Khả Cửu đều có chí đồ vương, lúc gặp chân chúa [tức Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương] thì Cát gởi sự thần kỳ vào nghề thuốc, La chuyển sự thần kỳ vào bại sử”. Những tìm tòi của các nhà nghiên cứu Trung Quốc từ thời cận đại trở lại đây đã giúp ta xây dựng một tiểu sử sơ bộ về La Quán Trung - mặc dù khá nhiều chi tiết trong tiểu sử này vẫn còn trong vòng tranh cãi. Theo đó thì La Quán Trung vốn tên là Bản, tên tự là Ngạn Trực, lại có tự là Quán Trung, hiệu là Hồ Hải Tản Nhân. Quê quán của ông có người nói là Đặng Nguyên (tỉnh Sơn Đông), có người nói là Hà Loan (Sơn Đông), hoặc Thái Nguyên (Sơn Tây), hoặc Lư Lăng (Giang Tây), Tiền Đường (Chiết Giang). Từ năm bảy tuổi, La Quán Trung đã học Tứ thư, Ngũ kinh. Đến năm mười bốn tuổi, vì mẹ mất, ông cùng cha đi buôn bán trong vùng Tô Châu, Hàng Châu. La Quán Trung không thích đi buôn, nên cha ông cho ông tới Từ Khê theo học giả Triệu Bảo Phong học tập. Năm Chí Chính thứ 16 (1356) thời Nguyễn Huệ Tông, La Quán Trung rời chỗ của Triệu Bảo Phong tới làm khách ở chỗ của Trương Sĩ Thành. Đến năm sau, nhờ nghe theo kiến nghị của La Quán Trung nên Trương Sĩ Thành đánh bại được cuộc tấn công của Khương Mậu Tài – bộ tướng của Chu Nguyên Chương. Cùng lúc này, vì em trai của Trương Sĩ Thành bị quân Nguyên bắt giữ, Trương Sĩ Thành đã đầu hàng nhà Nguyên và sa vào hưởng lạc. Đến năm Chí Chính thứ 23 (1363), nhận thấy triều Nguyên đã suy sụp, Trương Sĩ Thành lại có ý muốn xưng vương. La Quán Trung và một số người khác kiến nghị tạm hoãn việc này, nhưng Trương Sĩ Thành không nghe theo. La Quán Trung bất bình đã rời bỏ Trương Sĩ Thành trở về quê. Trên đường về, La Quán Trung gặp được người đồng hương là Giả Trọng Minh và được biết tin cha đã qua đời, còn mẹ kế thì đã tái giá. La Quán Trung đi tới núi Hà Dương (Giang Tô) thì gặp được Thi Nại Am. Vì tán đồng quan điểm viết sách khuyên đời của ông nên La Quán Trung bái Thi Nại Am làm thầy và luôn ở bên cạnh hỗ trợ Thi Nại Am trong việc sáng tác tiểu thuyết. Đến năm Chí Chính thứ 26 (1366), nghe tin sư phụ là Triệu Bảo Phong qua đời, La Quán Trung trở về Từ Khê thăm mộ. Cũng thời gian này, Thi Nại Am dời nhà tới Hưng Hóa. La Quán Trung mất liên lạc với Thi, nên lưu lại ở Hà Dương. Khi biết được tin Thi ở Hưng Hóa, La Quán Trung liền tới đó. Lúc này gặp ngay việc Thi Nại Am vì Thủy hử truyện mà bị Chu Nguyên Chương cầm tù, La Quán Trung liền đến tìm người bạn thân của Thi Nại Am là Lưu Bá Ôn để cầu cứu. Khoảng một năm sau thì Thi Nại Am được thả. La Quán Trung đưa Thi lên thuyền trở về Hưng Hóa. Nhưng do Thi lâm bệnh nặng, hai người phải dừng lại Hoài An để Thi dưỡng bệnh và Thi mất ở đó. Lo liệu việc tang xong, La Quán Trung mang bản thảo Thủy hử truyện tới Kiến Dương (Phúc Kiến) để tìm chỗ khắc in nhưng không được, bèn đi tới Hàng Châu. La Quán Trung qua đời ở nơi này, nhưng không rõ vào năm nào. Trước tác của La Quán Trung, theo các nguồn khác nhau gồm có: Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tùy Đường lưỡng triều chí truyện, Tam Toại bình yêu truyện, Tàn Đường Ngũ đại sử diễn nghĩa, Đại Đường Tân Dương từ thoại, Phấn trang lầu (tiểu thuyết), Triệu Thái Tổ long hổ phong vân hội, Tam Bình Chương khốc Phi Hổ Tử, Trung chính hiếu tử liên hoàn gián (tạp kịch). Tuy nhiên, những tác phẩm tiểu thuyết trên đây có phải là của La Quán Trung hay không thì vẫn còn có nhiều ý kiến tranh cãi trái chiều. Ngay như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa được sáng tác vào thời kỳ nào cũng là việc chưa xác định được cụ thể. Phần lớn cho rằng La Quán Trung viết Tam quốc diễn nghĩa là sau khi rời bỏ Trương Sĩ Thành. Cũng có thuyết cho rằng chính Chu Nguyên Chương đã sai La Quán Trung viết sách này để thay đổi phong tục, cảm hóa lòng người. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu dựa vào các chú thích địa danh cổ với địa danh “hiện nay trong bản in 1522 đã nhận thấy rằng ngoại trừ một số địa danh “hiện nay” là của thời Tống, còn lại toàn bộ là địa danh thời nhà Nguyên. Một số địa danh sang thời Minh đã đổi thành tên khác. Đặc biệt có một số địa danh gần địa bàn thông thuộc của tác giả như Kiến Khang, Đàm Châu, Giang Lăng thì đến năm Thiên Lịch thứ hai (1329) thời Nguyễn Văn Tông đã đổi thành tên khác, nhưng trong chú thích địa danh “hiện nay vẫn dùng tên cũ. Vì vậy, có khả năng Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa đã được biên soạn từ trước năm 1329. Tác phẩm này do đó hiện nay thường được cho là tác phẩm được biên soạn thời Nguyên. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cố gắng dung hòa cả hai thuyết, cho rằng La Quán Trung đã biên soạn khoảng 12 quyển đầu từ trước, rồi đến đầu thời Minh mới hoàn thành bộ sách. Từ khi La Quán Trung biên soạn Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, đã có nhiều người sao chép sách này để phục vụ nhu cầu thưởng lãm. Bản in cổ nhất ngày nay ta còn giữ được là bản in năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Gia Tĩnh (1522). Bản này có lời đề tựa của Dung Ngu Tử vào năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Trị (1494), vì vậy nó còn được gọi là Minh Hoằng Trị bản Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa. Bản in chia thành 24 quyển, mỗi quyển 10 hồi, cộng là 240 hồi. Mỗi hồi là một câu chuyện gần như độc lập, xâu chuỗi với nhau tạo thành trường thiên tiểu thuyết. Trải qua hai thời Minh, Thanh, Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa đã trải qua nhiều lần sửa sang, thêm bớt bởi những thế hệ làm sách khác nhau. Tuy nhiên, bước sang đầu thời Thanh, hai cha Con Mao Luân và Mao Tôn Cương* đã cho ra đời một phiên bản hiệu chỉnh áp đảo hoàn toàn các phiên bản khác. Chính phiên bản này là phiên bản Tam quốc diễn nghĩa duy nhất lưu hành ở Việt Nam từ thời cận đại cho tới tận ngày nay. Mao Tôn Cương tuyên bố rằng mình dựa trên một bản cổ, tiến hành phê phán bản lưu hành phổ biến (tục bản) thời bấy giờ của Lý Trác Ngô* bình điểm và thực hiện mười điều thay đổi lớn đối với văn bản Tam quốc diễn nghĩa, bao gồm: Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Thẩm Bá Tuấn cho rằng những lời bình điểm Tam quốc diễn nghĩa đó mâu thuẫn với nhiều quan điểm của Lý Trác Ngô, nên cuốn sách đó có thể là của một người nào đó đội danh Lý Trác Ngô. Vì vậy, bản in này còn được gọi là “ngụy Lý Trác Ngô” (Lý Trác Ngô giả). 1- Cắt bỏ những chỗ mà họ Mao cho là dài dòng, những ý mà ông ta cho là trùng điệp. 2- Cắt bỏ những phần mà họ Mao cho là sai lầm và chỉnh sửa lại bằng tình tiết đúng hơn dựa trên cơ bản (mà thực ra là dựa trên ghi chép của sách sử khác, chẳng hạn Hậu Hán thư của Phạm Diệp, Kiêu Cơ truyện). 3- Thêm vào những chuyện mà ông ta cho là tục bản chép sót (thực ra cổ bản Gia Tĩnh vốn không có, họ Mao tự ý thêm vào). 4- Thêm vào một số bài cổ văn thời Tam quốc như Biểu tiến cử Nỗ Hành, Hịch đánh Tào Tháo. 5- Tiến hành ráp hai hồi thành một hồi, xóa bỏ tiêu đề gốc, thay bằng tiêu đề hai câu đối ngẫu. 6- Bỏ hết lời bình của Lý Trác Ngô, thay bằng lời bình của cha con họ Mao. 7- Sửa lại những chỗ bị bình điểm bôi xóa của Lý Trác Ngô. 8- Bỏ những bài thơ vịnh cũ, thay bằng thơ của danh gia Đường, Tống. 9- Bỏ những bài thơ thất ngôn do các nhân vật trong tiểu thuyết sáng tác. 10- Cắt bỏ những chuyện mà họ Mao cho rằng tục bản có nhưng cổ bản không có chép (nhưng thực sự cổ bản có những chuyện đó). Mao Tôn Cương mượn danh nghĩa một cổ bản mờ mịt nào đó, đã tiến hành một cuộc đại chỉnh sửa nguyên tác tiểu thuyết của La Quán Trung, khiến nó càng trở nên thông tục hơn. Phiên bản mới này được đại chúng đón nhận nhiệt liệt và gần như chiếm lĩnh thị trường sách Tam quốc diễn nghĩa từ thời Thanh trở về sau. Tuy nhiên, sự tồn tại một cổ bản dưới dạng mà Mao Tôn Cương đã tuyên bố là việc hết sức đáng ngờ. Ngược lại, những điểm mà Mao Tôn Cương phê phán, chỉnh sửa thì hầu hết đều có thể tìm thấy trong bản in Gia Tĩnh 1522 là bản in cổ nhất ta còn giữ được, cũng như nhiều bản in sau đó. Phải thừa nhận rằng bên cạnh những ưu điểm thì bản chỉnh sửa của Mao Tôn Cương đã xa rời khá nhiều với nguyên tác của La Quán Trung, cả về kết cấu tác phẩm, phong cách tự sự lẫn nhiều quan điểm kể chuyện. Tất nhiên Tam quốc diễn nghĩa đã trải qua nhiều lần hiệu đính từ trước đó, nhưng chưa có một người nào cả gan phá vỡ kết cấu tự sự chia thành từng câu chuyện độc lập của La Quán Trung. Về điểm này, Mao Tôn Cương là người thừa kế Lý Trác Ngô. Vì Lý Trác Ngô đã tiến hành gộp từng cặp chuyện thành một hồi, nhưng vẫn giữ nguyên tiêu đề nhỏ trong nguyên tác. Nói cách khác, Tam quốc diễn nghĩa mà ta vẫn biết là Tam quốc diễn nghĩa của Mao Tôn Cương, không phải Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa của La Quán Trung. Điều đáng nói là rất nhiều người đọc, người nghiên cứu chưa biết được điều này, đã xem phiên bản của Mao Tôn Cương như là sản phẩm của La Quán Trung và tiến hành phê bình, nghiên cứu tư tưởng và nghệ thuật tự sự của tác giả La Quán Trung. Đây là một nhầm lẫn lớn trong hiểu biết của chúng ta về La Quán Trung cũng như về Tam quốc diễn nghĩa. Muốn tìm hiểu những điều đó thì phải dựa trên những văn bản gần sát nhất với nguyên tác của tác giả. Về khía cạnh này, các nhà nghiên cứu đã tiến hành so sánh các bản in trên nhiều góc độ và đề xuất những cách sắp xếp tiến trình tiến hóa của các bản in Tam quốc diễn nghĩa, hòng tìm ra diện mạo thực sự của tác phẩm này. Trong đó, có ba yếu tố chính được đưa ra để tiến hành phân loại và sắp xếp, bao gồm: 1- Những câu viết nhầm, những chữ chép sót. Đây là phương pháp do nhà nghiên cứu người Anh là Andrew Christopher West đề xuất trong tác phẩm công bố năm 1996. Trong đó, West đã khảo sát 26 bản khắc in khác nhau và lọc ra 154 sao chép nhầm lẫn, tiến hành so sánh và chia các bản in ra thành 2 hệ thống lớn AB, CD và đề xuất diện mạo nguyên thủy của Tam quốc diễn nghĩa. 2- So sánh văn bản: Từ góc độ so sánh những tình tiết giống và khác nhau giữa các bản in, các nhà nghiên cứu đã đề xuất những cách phân chia khác nhau. Nhà nghiên cứu Thẩm Bá Tuấn (2007) đã chia thành hai hệ thống lớn là hệ thống Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa và Tam quốc chí truyện; còn học giả người Nhật (quốc tịch Hàn Quốc) là Kim Văn Kinh (2007) thì dựa vào việc có hay không sự tồn tại nhân vật Quan Sách hay Hoa Quan Sách* trong tác phẩm để tiến hành phân chia. 3- Con đường truyền bác nhà nghiên cứu Hoàng Tấn (2012) đã dựa vào quá trình truyền bá mà chia thành bốn hệ thống: (1) các bản Thông tục diễn nghĩa; (2) các bản chí truyện; (3) các bản phê bình; (4) các bản của Mao Tôn Cương. Dựa vào những thành tựu này, tiến hành chỉnh lý hệ thống phân loại của Christopher West, các nhà nghiên cứu Lưu Dũ Dư, Tăng Khải Hùng (2016) đã đưa ra phả hệ tiến hóa của Tam quốc diễn nghĩa như sau: Tiến thêm một bước, hai nhà nghiên cứu Lư và Tăng còn tiến hành nghiên cứu các ảnh minh họa trong các bản in. Họ cho biết rằng trong số 36 loại bản in mà họ nghiên cứu thì có 17 loại thuộc hệ thống Tam quốc chí truyện và địa bàn khắc in được phân bố trong khu vực địa khu Kiến Dương (tỉnh Phúc Kiến). Các bản in loại này có dạng thượng đồ hạ văn - phần đầu trang là tranh minh họa và phần còn lại bên dưới là văn bản tiểu thuyết và đều là “toàn tượng” – tức mỗi trang đều có hình minh họa. Còn lại 19 bản thuộc hệ thống Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa có địa bàn khắc in thuộc các địa phương Kim Lăng, Tô Châu (cùng thuộc tỉnh Giang Tô), Thượng Hải, Vũ Lâm, An Huy. Tranh minh họa của chúng chia thành hai thời kỳ: từ năm Vạn Lịch thứ 19 (1591) thời nhà Minh cho đến thời kỳ Khang Hi (1662-1722), tranh minh họa là tranh lớn toàn trang, mỗi hồi 1 tranh và minh họa một cảnh trong hồi đó; từ sau niên hiệu Khang Hi, tranh minh họa là tranh lớn toàn trang, mỗi tranh vẽ riêng một nhân vật trong truyện.* Nhằm mở rộng sự hiểu biết về La Quán Trung cũng như về Tam quốc diễn nghĩa, chúng tôi mạo muội tiến hành chuyển ngữ phiên bản Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa bản in Gia Tĩnh Nhâm Ngọ (1522). Đây là bản in cổ nhất trong số các phiên bản Tam quốc diễn nghĩa mà ta còn giữ được cho đến ngày nay. Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay được chuyển ngữ từ bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa 24 quyển được lưu trữ tại Bắc Kinh đại học Đồ thư quán. Đây là bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa bản in Gia Tĩnh Nhâm Ngọ còn nguyên vẹn duy nhất mà ta được biết hiện nay. Để việc chuyển ngữ được dễ dàng hơn, chúng tôi có tham khảo bố cục ngắt đoạn và chấm câu của bản Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa Gia Tĩnh Nhâm Ngọ do Thượng Hải Cổ tịch Xuất bản xã in lại năm 1980, đồng thời có tham khảo nguyên tác sử học và các chú thích liên quan từ Tam quốc chí tập giải của Lư Bật (1876-1967), Tam quốc chí chú của Tứ Khố Toàn Thư nhà Thanh cũng như bản dịch tiếng Việt Tam quốc chí của nhóm Bùi Thông, Phạm Thành Long, bản dịch Tam quốc diễn nghĩa phiên bản Mao Tôn Cương của Phan Kế Bính và Tử Vi Lang. Trường hợp có nghi ngờ nguyên tác viết sai hoặc thiếu sót, chúng tôi vẫn cố gắng trung thành với nguyên tác và sẽ biện luận dựa trên văn bản Tam quốc chí tập giải và một số phiên bản Tam quốc diễn nghĩa muộn hơn. Các phiên bản này chủ yếu gồm: Tân san hiệu chính cơ bản đại tự âm thích Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa do Chu Viết Hiệu biên tập, Vạn Quyển Lầu ở Kim Lăng ấn hành năm Vạn Lịch thứ 19 (1591) - gọi tắt là bản in năm 1591; Tân khiết Kinh bản hiệu chính Thông tục diễn nghĩa án Giám Tam quốc chí truyện do Trịnh Thị của Liên Huy Đường ấn hành năm Vạn Lịch thứ 33 (1605) - gọi tắt là bản in 1605; Trùng san Kinh bản Thông tục diễn nghĩa án Giám Tam quốc chí diễn nghĩa do Dương Xuân Nguyên ấn hành năm Vạn Lịch thứ 38 (1610) - gọi tắt là bản in 1610; Tân san Kinh bản hiệu chính diễn nghĩa toàn tượng Tam quốc chí truyện bình lâm của Dư Tượng Đẩu khoảng năm 1664; Tú tượng cổ bản Lý Trác Ngô nguyên bình Tam quốc chí do Lục Âm đường ở Ngô quận tàng bản – gọi tắt là bản Lý Trác Ngô. Đây là các bản in được lưu trữ tại Nội Các Văn Khố Nhật Bản và thư viện Đại học Waseda. Ngoài ra cũng có chỗ biện luận dựa trên bản của Minh thư lâm Hoàng Chính Phủ Tam quốc chí truyện khoảng 1623 do Thẩm Bá Tuấn giới thiệu, Tứ Xuyên tỉnh Xã hội Học liệu viện in lại. Những chú thích có ghi “nguyên chú” là những chú thích vốn có trong bản in Gia Tĩnh Nhâm Ngọ. Những chú thích trong ngoặc vuông là của người dịch thêm vào văn bản nguyên chú. Việc biên dịch cổ văn không phải là chuyện dễ dàng. Chúng tôi chỉ dám dốc hết sự hiểu biết của mình để làm một việc vượt quá khả năng. Xin nhận trách nhiệm hoàn toàn về những điều thiếu sót chứa đựng ở trong bản dịch. Nếu quý độc giả có may mắn phát hiện ra những sai lầm, thiếu sót đó, hoặc có điều chi muốn ban cho lời dạy bảo, xin gửi thư về theo địa chỉ email: wongtrang2006@yahoo.com, tôi xin nghiêng mình cảm tạ! Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa BÀI TỰA Ôi, sử chẳng phải chỉ là ghi chép các thời đại nối nhau, mà vốn muốn soi thịnh suy của đời trước, rọi thiện ác của vua tôi, ghi điều được mất của chính sự, xem vận cát hung của người tài, biết được họa phước của nước nhà, cho đến nóng lạnh, tai dị, khen chê, cho lấy, chẳng có một việc gì mà không dùng bút chép lại, có nghĩa lý ẩn tàng trong đó. Phu tử của ta vì bắt được con lân mà viết Xuân Thu. Xuân Thu là sử nước Lỗ. Khổng Tử soạn ra, đến nỗi cho một chữ là khen, bỏ một chữ là chê. Nhưng trong một chữ ấy, có thể thấy đạo lý vua tôi, cha con ở đương thời, soi gương cho đời sau, đủ thấy kẻ nào thiện, kẻ nào ác, muốn khuyên nhủ, trừng trị, cảnh báo, răn kính, để chẳng đến nỗi giẫm vào vết xe người trước. Đấy là Khổng Tử lập phép lớn rất công rất chính cho vạn vạn đời, hợp lẽ trời, bàn luận đúng, mà loạn thần tặc tử sợ. Bởi thế nói: “Người hiểu được ta chỉ nhờ Xuân Thu thôi, người bắt tội ta chỉ nhờ Xuân Thu thôi”, đấy cũng là bất đắc dĩ. Mạnh Tử gặp Lương Huệ vương, nói nhân nghĩa mà không nói lợi ích; tâu với vua thời ấy thì ắt khen Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang; đáp lời bề tôi thời ấy thì ắt nói Y, Phó, Chu, Thiệu. Đến Cương mục của Chu Tử cũng là do lẽ đó. Há chỉ là ghi chép việc các đời mà thôi đâu? Nhưng văn trong sử, lẽ vi diệu mà nghĩa sâu kín, không như thế, thì sao có thể soi rọi cho đời sau? Có lời rằng: “Chất phác thắng văn vẻ là người dân dã, văn vẻ thắng chất phác là nhà chép sử”. Như thế thì phép cầm bút của sử gia đối với sự xem đọc của mọi người thì thường khó khăn thay. Sở dĩ dần dần bị bỏ quên không được ngó tới, là do nó khó hiểu với người đời, mà việc của các đời càng lâu thì càng bị thất truyền. Đời trước thường lấy dã sử làm bình thoại, cho người mù diễn thuyết. Trong đó lời lẽ kém cỏi, sai lệch, còn thua cả lời dân dã. Kẻ sĩ quân tử đa phần chán ghét. Như La Quán Trung ở Đông Nguyên, lấy truyện của Bình Dương Trần Thọ, khảo các quốc sử, từ Hán Linh đế, Trung Bình năm đầu [184], đến việc cuối cùng vào năm Thái Thủy thứ nhất [281] nhà Tấn, để lòng thêm bớt, đặt đầu đề là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa. Văn chẳng sâu quá, lời không tục quá, việc ghi chép thực, cũng gần được như sử. Vốn muốn giúp đọc cho thông suốt, người người đều được biết, cũng giống ý nghĩa của loại thơ được gọi là ca dao ngõ hẻm vậy. Sách làm xong, kẻ sĩ quân tử mà hiếu sự, tranh nhau sao chép, để tiện xem đọc. Thế là thịnh suy trị loạn của ba nước, nhân vật ra làm hay ở ẩn, một khi mở sách, trăm ngàn việc ghi chép đều thông suốt như chứa ở trong lòng rồi. Bên trong ấy cũng không tránh khỏi một hai chỗ sai và những điều chưa đạt, nhưng cúi xuống mà nghĩ, thì chẳng qua muốn cho người xem được ích lợi thôi. Ta nói rằng: thông được Thi, đọc được Thư, mà chẳng biết cách làm người, có được chăng? Thể lệ đọc sách là: nếu như đọc tới chỗ cổ nhân làm việc trung, thì liền nghĩ chính mình trung hay không trung; làm việc hiếu, thì liền nghĩ chính mình hiếu hay không hiếu. Đến như thiện ác, phải quấy, thảy đều như thế, mới là có ích. Nếu chỉ đọc qua, mà không tự mình gắng sức làm, thì chưa gọi là đọc sách rồi. Ta thường đọc Tam quốc chí, tìm đến nguồn cơn. Mối nguy là do Trần Phiền, Đậu Vũ lập vua chưa lâu, mà không được thực hiện chí nguyện của mình, cuối cùng bị gian đảng mưu hại, quyền bính ngày một suy, lửa ngày càng cháy dữ. Quân tử bỏ đi, tiểu nhân nương bám, gian đảng thừa dịp. Bấy giờ kỷ cương, pháp độ của nước nhà đã bị hủy hoại tới cùng cực rồi. Ôi! Có thể không đau tiếc sao? Lại thêm Hà Tiến kiến thức nông cạn, đến nỗi Đổng Trác thừa lúc hấn khích mà vào, quyền dời khỏi chúa, lưu độc trong ngoài, tự chuốc diệt vong, là lẽ đương nhiên. Tào Man tuy có mưu đồ xa xôi, mà chí chẳng ở xã tắc, giả trung thần lừa người đời, rốt cuộc là mưu tính cho riêng mình, dầu có được cũng ắt mất. Gian tặc vạn đời, chỉ có thể tránh khỏi bị người khác giết mà thôi, vốn chẳng đáng luận bàn. Cha con Tôn Quyền hổ chiếm Giang Đông, vốn có chí muốn lấy thiên hạ, mà cũng dùng được người, cũng chẳng đáng bàn hơn so với lão Man. Chỉ có Chiêu Liệt là con cháu của nhà Hán, kết nghĩa vườn đào, ba lần tới lều tranh, quân thần hợp ý, giúp thành nghiệp lớn, cũng là lẽ đương nhiên. Những điều trên hết chính là: lòng trung của Khổng Minh, sáng như trời ban ngày, sao buổi tối, xưa nay đều ngưỡng mộ, mà cái nghĩa của Quan, Trương lại còn hơn thế nữa. Sự được mất của họ, rành rành có thể khảo xét, để thơm để thối, làm người hiền hay không hiền, quân tử tiểu nhân, chỉ ở trong khoảng nghĩa và lợi mà thôi. Người quân tử xem diễn nghĩa, đáng nên suy nghĩ. Hoằng Trị Giáp Dần [1494], trọng xuân, ki vọng*, Dung Ngu Tử* kính viết. Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa LỜI DẪN Khách hỏi ta rằng: – Lưu Tiên chủ, Tào Tháo, Tôn Quyền ai nấy đều chiếm đất nhà Hán mà lập thành ba nước. Sử đã ghi rõ đầu, cuối, truyền cho đời đã lâu rồi. Mà lại có cái gọi là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, chẳng phải có hơi rườm rà sao? Tôi nói: – Không. Chí truyện của người làm sử, việc tường tận mà văn cổ xưa, nghĩa vi diệu mà lẽ sâu sắc, nếu chẳng phải thâm Nho học rộng, mở sách ra chẳng bao lâu sẽ liền thấy khó mà ngủ gục mất thôi. Bởi thế kẻ hiếu sự mới lấy lời nói thông thường gần gũi khái quát lại thành từng thiên, muốn cho người trong thiên hạ lọt vào tai mà hiểu được việc, nhân việc ấy mà ngộ ra đạo nghĩa, nhân đạo nghĩa mà dấy lên cảm xúc. Chẳng đợi miệt mài nghiền ngẫm, đã biết chính thống thì phải khuông phò, cướp ngôi thì ắt tru diệt, trung hiếu tiết nghĩa thì chọn làm thầy, gian tham nịnh nọt thì ắt bỏ đi. Đúng đúng sai sai, rõ ràng ở trong tầm mắt, thêm ích lợi với phong giáo, đã rộng còn lớn thay. Có lo gì rườm rà đâu? Khách ngửa mặt mà than lớn một tiếng, nói: – Thật đúng thay! Thầy chẳng nói xằng với ta vậy. Đó có thể gọi là thêm vây cánh cho tín sử mà không sai lệch rồi! Sách vở bao la, bản tốt khó tìm, xin khắc ván gỗ, truyền cho bốn phương, được chăng? Tôi chẳng xét bản thân nông cạn, cùng là ý đồ của tác giả, chắp nối lời quê được bốn mươi vần ở đầu quyển, mong là ca vịnh mà ngộ ra được gì chăng? Than ôi! Phân trâu, dãi ngựa, bậc lương y cũng còn khám chẩn. Sao có thể bảo là tiểu thuyết của tên quan hèn, không đủ để cân nhắc nặng nhẹ của đạo đời đây! “Hưng phế xưa nay vốn số trời Việc người trong ấy cũng đáng thương Muốn biết Tam quốc dân đau khổ Mời nghe Thông tục diễn nghĩa này Lòng son trung liệt phò chính thống Gian hùng đầu bạc lộng quyền uy Biết điều thiện ác mà răn dạy Lưu thối, để thơm đến vạn năm Hiến đế nhân từ, vận Hán suy Thập thường thị mở ra sơ hở Đổng Trác thỏa lòng, ngó thần khí Hà Tiến vô mưu gieo mầm họa Bột Hải hội quân, sáng trời trăng Vườn đào cắt máu khua gió sấm Đáng tiếc bao nhiêu kế anh hùng Chẳng bằng Điêu Thiên tài miệng lưỡi Tào Tháo gian hàng chẳng ai bằng Hiệu lệnh chư hầu, kẹp thiên tử Thiên tử đà hay, diệt chẳng xong Khóc gọi Đổng Thừa nhận mật chiếu Máu chưa kịp khô, việc đã lộ Quốc mẫu, bề tôi chịu chết thôi May sao Huyền Đức ruổi Bành Thành Hào kiệt họp nhau mong rửa nhục Viên Thiệu bấy giờ cũng Hán thần Ếch giếng chửa biết kình ngoài biển Không có Quan, Trương tướng rồng hổ Hoàng tôn nghiêng ngả cũng khó bàn Vận hội vẻ vang còn chờ đợi Ba lượt lều tranh chẳng chán chường Ngọa Long vọt dậy, mưa dầm tưới Khôi phục quy mô thứ lớp bày Cha con Tôn Quyền chiếm Giang Đông Nhìn ngó Trung Nguyên mưu chiến công Mưu sĩ như mây chia đen trắng Trường Giang như lụa, thả mông đồng Lửa thiêu Xích Bích, A Man chạy Thuyền tới Kinh Môn, tai to nguy Giả sử thực lòng phò Hán thất Cần chi lắm kế diệt Lưu công Trời giúp Lưu công, sao diệt nổi? Vạn tử nhất sinh thật ngậm ngùi Cửu phạt Trung Nguyên quả trượng phu Thất cầm Man chúa rõ anh hùng Kiêu, kính* làm sao nối Hán Cao? Chần chừ chưa giẫm máu gian tặc Chí lớn quân sự chưa từng phô Chỉ lập hai đời đế Tam Xuyên Bái Công trăm trận dựng càn khôn Tư Mã là ai dám nuốt thôn? Nếu ngoảnh về bắc thờ kẻ địch* Con cháu bề tôi cũ Hán triều Lẽ trời, đạo người đều sạch nhẵn Mùi tranh giành đỉnh tựa mùi quyết* Kẻ chí, người nhân ôm hận không Mấy phen lệ máu đầm ngấn áo Người bảo Tam quốc nhiều tài tuấn Riêng ta trầm ngâm chưa tin hẳn Ưng, khuyển nhảy nhót, lân, phượng côi Người trong bốn biển hãm mũi đao Trời cho Khổng Minh thọ mấy năm Sơn hà dễ đã về tay Tấn Lời này cũng chẳng hóa lời suông Cương thường vạn cổ lại được dựng”. Gia Tĩnh Nhâm Ngọ [1522], mạnh hạ, cát vọng*, Quan Trung, Tu Nhiệm Tử viết ở Cư Dị thảo đình. Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa TÔNG LIÊU THỤC ĐẾ Tiên chủ Lưu Bị (tự Huyền Đức, người quận Trác, huyện Trác, huyền tôn của Hán Cảnh đế, ở ngôi ba năm, thọ sáu mươi lăm tuổi). Hậu chủ Lưu Thiện (tự Công Tự, con trai Tiên chủ, ở ngôi bốn mươi hai năm, thọ sáu mươi lăm tuổi). HẬU Chiêu Liệt hoàng hậu Cam Thị (người huyện Bái, vợ thứ nhất của Tiên chủ). Mục hoàng hậu Ngô Thị (người Trần Lưu, vợ kế của Tiên chủ) Kính Ai hoàng hậu Trương Thị (vợ Hậu chủ, con gái trưởng của Trương Phi). Hoàng hậu Trương Thị (vợ kế của Hậu chủ, Con gái thứ của Phi). BA CON TRAI TIÊN CHỦ Hậu chủ Lưu Thiện. Lưu Vĩnh (tự Công Thọ, phong Lỗ vương). Lưu Lý (tự Phụng Hiếu, phong Lương vương). BẢY CON TRAI CỦA HẬU CHỦ Lưu Tuyền (tự Văn Hoành, thái tử). Lưu Dao (phong An Định vượng). Lưu Tông. Lưu Toản. Lưu Trạm (phong Bắc Địa vương). Lưu Tuấn. Lưu Cừ. LIỆT TRUYỆN Gia Cát Lượng (tự Khổng Minh, người Lang Da, Dương Đô, làm quan tới Thừa tướng, Vũ Hương hầu, thụy Trung Vũ). Quan Mỗ (tự Vân Trường, người Hà Đông, Giải Lương, làm quan tới Thọ đình hầu, Tiền tướng quân). Trương Phi (tự Ích Đức, người quận Trác, làm quan tới Xa Kỵ tướng quân). Mã Siêu (tự Mạnh Khởi, người Phù Phong, Mậu Lăng, làm quan tới Phiếu Kỵ tướng quân). Hoàng Trung (tự Hán Thăng, người Nam Dương, làm quan tới Quan Nội hầu). Triệu Vân (tự Tử Long, người Thường Sơn, Chân Định, làm quan tới Trấn Đông tướng quân). Bàng Thống (tự Sĩ Nguyên, người Tương Dương, làm quan tới Quân sự Trung lang tướng). Pháp Chính (tự Hiếu Trực, người Phù Phong, huyện Mi, làm quan tới Thượng thư lệnh, Hộ Quân tướng quân). Hứa Tĩnh (tự Văn Hưu, người Nhữ Nam, Bình Dư, làm quan tới Thái phó). Mi Trúc (tự Tử Trọng, người Đông Hải, huyện Cù, làm quan tới An Hán tướng quân). Tôn Càn (tự Công Hựu, người Bắc Hải, làm quan tới Bỉnh Trung tướng quân). Giản Ung (tự Hiến Hòa, người quận Trác, làm quan tới Chiêu Đức tướng quân). Y Tịch (tự Cơ Bá, người Sơn Dương, làm quan tới Chiêu Văn tướng quân). Tân Mật (tự Tử Sắc, người Quảng Hán, Miên Trúc, làm quan tới Đại tư nông). Đổng Hòa (tự Ấu Tể, người quận Nam, Chi Giang, làm quan tới Trung lang tướng). Lưu Ba (tự Tử Sa, người Linh Lăng, Thừa Dương, làm quan tới Thượng thư lệnh). Mã Lương (tự Quỷ Thường, người Tương Dương, Nghi Thành, làm quan tới Thị trung). Trần Chấn (tự Hiếu Khởi, người Nam Dương, làm quan tới Thượng thư lệnh). Đổng Doãn (tự Hưu Chiêu, người quận Nam, Chi Giang, làm quan tới Thị lang). Lưu Phong (không có tên tự, con trai La hầu họ Khấu, làm quan tới Phó tướng quân). Lữ Nghệ (tự Quý Dương, người Nam Dương, làm quan tới Thượng thư lệnh). Bành Dạng (tự Vĩnh Niên, người Quảng Hán, làm quan tới Thái thú Giang Dương). Liếu Lập (tự Công Uyên, người Vũ Lăng, Lâm Nguyên, làm quan tới Trường Thủy hiệu úy). Lý Nghiêm (tự Chính Phương, người Nam Dương, làm quan tới Tiền tướng quân). Lưu Diễm (tự Uy Thạc, người nước Lỗ, làm quan tới Xa Kỳ tướng quân). Ngụy Diên (tự Văn Trường, người Nghĩa Dương, làm quan tới Tiện quân sư, Chinh Tây đại tướng quân). Dương Nghi (tự Công Uy*, người Tương Dương, làm quan tới Trung quân sự). Hoắc Tuấn (tự Trọng Mạc, người Chi Giang, làm quan tới Thái thú Tử Đồng). Vương Liên (tự Văn Nghi, người Nam Dương, làm quan tới Thái thú Giang Dương). Hướng Lãng (tự Cự Đạt, người Tương Dương, Nghi Thành, làm quan tới Tả tướng quân). Trương Duệ (tự Quân Tự, người quận Thục, Thành Đô, làm quan tới Trưởng sử). Dương Hồng (tự Quý Hưu, người Vũ Dương, làm quan tới Thái thú quận Thục). Phí Thi (tự Công Cử, người Nam An, làm quan tới Gián nghị Đại phu). Đỗ Vi (tự Quốc Phụ, người Tử Đồng, huyện Phù, làm quan tới Gián nghị Đại phu). Chu Quần (tự Trọng Trực, người Ba Tây, Lãng Trung, làm quan Nho Lâm hiệu úy). Đỗ Quỳnh (tự Bá Du, người Thành Đô, làm quan tới Đại trường). Hứa Từ (tự Nhân Đốc, người Nam Dương, làm quan tới Đại trường). Mạnh Quang (tự Hiếu Du, người Lạc Dương, làm quan tới Đại tư nông). Lai Mẫn (tự Kính Đạt, người Nghĩa Dương, Tân Dã, làm quan Quang lộc Đại phu). Doãn Mặc (tự Tư Tiềm, người Tử Đồng, huyện Phù, làm quan tới Thái trung Đại phu). Lý Soạn (tự Khâm Trọng, người huyện Phù, làm quan tới Thái thú ở ba quận). Tiều Chu (tự Doãn Nam, người quận Ba, Tây Sung Quốc, làm quan Trung tán Đại phu). Khích Chính (tự Lệnh Quang*, người Hà Nam, Yển Sư, làm quan Thái thú Ba Tây). Đổng* Quyền (tự Công Hoành, người Quan Trung, làm quan tới Xa Kỵ tướng quân). Lý Khôi (tự Đức Ngang, người Kiến Ninh, Du Nguyên, làm quan An Hán tướng quân). Lữ Khải (tự Quý Bình, người Vĩnh Xương, Bất Vi, làm quan Thái thú Vân Nam). Mã Trung (tự Đức Tín, người Quan Trung, làm quan tới Trấn Nam đại tướng quân). Vương Bình (tự Tử Quân, người Ba Tây, Đãng Cừ, làm quan Trấn Bắc tướng quân). Trương Nghi (tự Bá Kì, người Nam Sung Quốc, làm quan Đãng Khấu tướng quân). Tưởng Uyển (tự Công Diễm, người Linh Lăng, Tương Hương, làm quan tới Đại tướng quân, lục Thượng thư sự). Phí Y (tự Văn Vĩ, người Giang Hạ, huyện Manh, làm quan tới Đại tướng quân, Thượng thư lệnh). Khương Duy (tự Bá Ước, người Thiên Thủy, huyện Kí, làm quan tới Đại tướng quân). Đặng Chi (tự Bá Miêu, người Tân Dã, làm quan tới Xa Kỵ tướng quân). Trương Dực (tự Bá Cung, người Vũ Dương, làm quan tới Xa Kỵ tướng quân). Tông Dự (tự Đức Diễm, người Nam Dương, An Chúng, làm quan tới Chinh Tây đại tướng quân). Liêu Hóa (tự Nguyễn Kiệm, người Tương Dương, làm quan tới Hữu Xa Kỵ tướng quân). Dương Hí (tự Văn Nhiên, người Vũ Dương, làm quan tới Xạ Thanh hiệu úy). BIỆT TRUYỆN Lưu Yên (tự Quân Lang, người Giang Hạ, Cánh Lăng, làm quan tới Đại tướng quân). Lưu Chương (tự Quý Ngọc, người Vũ Dương, làm quan tới Chấn Uy hiệu úy). PHỤ TRUYỆN Gia Cát Kiều Trần Chi Phó Thiêm Trương bao Triệu Hí Hướng Cử Vương Kham Phó Đồng Gia Cát Chiêm Chu Thương Lưu Mẫn Quan Hưng Ngô Ý Ân Thuần Ngô Ban Phùng Tập Đổng Quyết Mã Đại Tưởng Hiển Thường Bá Xạ Thụ* Triệu Tộ Trần Tập Triệu Lũy Trương Tùng Hướng Sủng Vệ Kế Mạnh Đạt Lại Cung Hà Tông Hoàng Hạo Mã Tắc Tưởng Bân Quan Bình Trương Nhiệm Lưu Báo Trương Sảng Trương Nam Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa TÔNG LIÊU NGỤY ĐẾ Vũ đế (họ Tào húy Tháo, tự Mạnh Đức, người nước Bái, huyện Tiếu, thọ sáu mươi sáu tuổi). Văn đế (húy Phi, tự Tử Hoàn, con trai Tháo, ở ngôi bảy năm, thọ bốn mươi tuổi). Minh đế (húy Duệ, tự Nguyễn Trọng, con trai Phi, ở ngôi mười ba năm, thọ ba mươi sáu tuổi). Tề vương (húy Phương, tự Lan Khanh, con nuôi của Duệ, ở ngôi mười bốn năm, thọ bốn mươi ba tuổi, bị phế làm vương). Cao Quý hương công (húy Mao, tự Ngạn Sĩ, cháu của Phi, con trai của Đông Hải vương Lâm, ở ngôi bảy năm, thọ hai mươi tuổi. Họ Tư Mã giết đi). Trần Lưu vương (húy Hoán, tự Cảnh Minh, cháu của Tháo, con trai Yên vương Vũ, ở ngôi năm năm, thọ năm mươi tám tuổi, nhường ngôi). HẬU Vũ Tuyên Biện hoàng hậu (mẹ của Phi, người Lang Da, Dương Đô). Văn Chiêu Chân hoàng hậu (mẹ của Duệ, người Trung Sơn, Vô Cực). Văn Đức Quách hoàng hậu (mẹ kế của Duệ, người An Bình, Quảng Tông). Minh Điệu Mao hoàng hậu (vợ Duệ, người Hà Nội). Minh Nguyên Quách hoàng hậu (vợ thứ của Duệ, người Tây Bình). BẢN TRUYỆN Hạ Hầu Đôn (tự Nguyên Nhượng, người nước Bái, huyện Tiếu, làm quan tới Đại tướng quân, thụy Trung Hầu, có bảy con, hai cháu đều được phong Quan Nội hầu). Hạ Hầu Uyên (tự Diệu Tài, em họ của Đôn, làm quan tới Chinh Tây tướng quân, thụy Mẫn Hầu. Tào Nhân (tự Tử Hiếu, Tháo bái làm Đại tư mã, thụy Trung Hầu). Tào Hồng (tự Từ Liêm, tòng đệ của Tháo). Tào Hưu (tự Văn Liệt, em họ của Tháo). Tào Chân (tự Tử Đan, em họ của Tháo). Hạ Hầu Thượng (tự Bá Nhân, tòng đệ của Uyên). Tào Chương (tự Tử Văn, con thứ của Tháo, phong làm Nhậm Thành vương). Tào Thực (tự Tử Kiến, con thứ của Tháo, phong làm Trần Tư vương). Tào Hùng (tự Tử Uy, con thứ của Tháo, thụy là Tiêu Hoài vương). Tuân Úc (tự Văn Nhược, người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, làm quan tới Thị trung Quang lộc Đại phu). Tuân Du (tự Công Đạt, cháu của Úc, làm quan tới Thượng thư lệnh). Giả Hủ (tự Văn Hòa, người Vũ Uy, Cô Tang, làm quan tới Thái ủy, Thọ hương hầu*). Viên Hoán (tự Diệu Khanh, người quân Trần, Phù Lạc, làm quan tới Lang trung lệnh). Trương Phạm (tự Công Nghi, người Hà Nội, Tu Vũ, làm quan Gián nghị Đại phu). Lương Mậu (tự Bá Phương, người Sơn Dương, Xương Ấp, làm quan Thái tử Thái phó). Quốc Uyên (tự Tử Ni, người Lạc An, huyện Cái, làm quan tới Thái bộc khanh). Điền Trù (tự Tử Thái, người Hữu Bắc Bình, Vô Chung, làm quan tới Nghị lang). Vương Tu (tự Thúc Trị, người Bắc Hải, Doanh Lăng, làm quan tới Đại tư nông, Lang trung lệnh). Bình Nguyên (tự Căn Củ, người Bắc Hải, Chu Hư, làm quan tới Ngũ quan tướng Trưởng sử). Quản Ninh (tự Ấu An, người Chu Hư, làm quan tới Quang lộc huân). Thôi Diễm (tự Quý Khuê, người Thanh Hà, Đông Vũ Thành, làm quan tới chức Trung úy). Mao Giới (tự Hiếu Tiên, người Trần Lưu, Bình Khâu, làm quan Thượng thư Bộc xạ). Từ Dịch (tự Quý Tài, người Đông Hoàn, làm quan tới Trung úy). Hà Quỳ (tự Thúc Long, người quận Trần, Dương Hạ, làm quan tới Thái bộc, Thành Dương đình hầu). Hình Ngung (tự Tử Ngang, người Hà Gian, huyện Trịnh, làm quan tới Tư lệ Hiệu úy, Quan Nội hầu). Bào Huân (tự Thúc Nghiệp, người Thái Sơn, Bình Dương, làm quan Ngự sử Trung thừa). Tư Mã Chi (tự Tử Hoa, người Hà Nội, huyện Ôn, làm quan Hà Nam doãn). Chung Dao (tự Nguyên Thường, người Dĩnh Xuyên, Trường Xã, làm quan tới Thái phó, Định Bình hầu). Hoa Hâm (tự Tử Ngư, người Bình Nguyên, Cao Đường, làm quan tới Thái úy, Bác Bình hầu). Vương Lãng (tự Cảnh Hưng, người Đông Hải, huyện Đàm, làm quan Tư đồ, Lan Lăng hầu). Trình Dục (tự Trọng Đức, người Đông A, làm quan Vệ úy, An hương hầu). Quách Gia (tự Phụng Hiếu, người Dĩnh Xuyên, Dương Địch, làm quan tới Tư không quân Tế tửu). Đổng Chiêu (tự Công Nhân, người Tề* Âm, Định Đào, làm quan tới Vệ úy, Lạc Bình hầu). Lưu Diệp (tự Tử Dương, người Hoài Nam, Thành Đức, làm quan Thái trung Đại phu). Tưởng Tế (tự Tử Thông, người nước Sở, Bình A, làm quan tới Lĩnh Quân tướng quân, Đô hương hầu). Lưu Phóng (tự Tử Khí, người quận Trác, làm quan tới Thị trung Quang lộc Đại phu, Phương Thành hầu). Lưu Phức (tự Nguyên Dĩnh, người nước Bái, Tương Ấp, làm quan tới Thứ sử Dương Châu). Tư Mã Lãng (tự Bá Đạt, người Hà Nội, huyện Ôn, làm quan Thứ sử Duyện Châu). Lương Tập (tự Tử Ngu, người quận Trần, huyện Thác*, làm quan tới Đại tư nông). Trương Kí (tự Đức Dung, người Phùng Dực, Cao Lăng, làm quan tới Tây Hương hầu). Ôn Khôi (tự Mạn Cơ, người Thái Nguyên, huyện Kì, làm quan tới Thứ sử Lương Châu). Giả Quỳ (tự Lương Đạo, người Đông A, Tương Lăng, làm quan tới Kiến Uy tướng quân, Dương Lý đình hầu). Nhâm Tuấn (tự Bá Đạt, người Hà Nam, Trung Mâu, làm quan Trường Thủy hiệu úy). Tô Tắc (tự Văn Sư, người Phù Phong, Vũ Công, làm quan tới Đô đình hầu). Đỗ Ki (tự Bá Hầu, người Kinh Triệu, Đỗ Lăng làm quan tới Thượng thư Bộc xạ, Phong Nhạc đình hầu). Trịnh Hồn (tự Văn Công, người Khai Phong, làm quan tới Tương tác Đại tượng). Thương Từ (tự Hiếu Nhân, người Hoài Nam, làm quan tới Thái thú Đôn Hoàng). Trương Liêu (tự Văn Viễn, người Nhạn Môn, Mã Ấp, làm quan tới Tiền tướng quân, Tấn Dương hầu). Nhạc Tiến (tự Văn Khiêm, người Dương Bình, nước Vệ, làm quan tới Hữu tướng quân). Vu Cấm (tự Văn Tắc, người Thái Sơn, Cự Bình, làm quan An Viễn tướng quân). Trương Cáp (tự Tuấn Nghệ, người Hà Gian, huyện Mạc, làm quan tới Chinh Tây Xa Kỵ tướng quân). Từ Hoảng (tự Công Minh, người Hà Đông, huyện Dương, làm quan tới Hữu tướng quân, Dương Bình hầu). Lý Điển (tự Mạn Thành, người Sơn Dương, Cự Dã, làm quan Phá Lỗ tướng quân). Lý Thông (tự Văn Đạt, người Giang Hạ, Bình Xuân, làm quan Thái thú Nhu Nam). Tang Bãi* (tự Tuyên Cao, người Thái Sơn, huyện Hoa, làm quan tới Chấp Kim Ngô, Hỗ Thành hầu). Văn Sính (tự Trọng Nghiệp, người Nam Dương, huyện Uyển, làm quan tới Hậu tướng quân, Tân Dã hầu). Lữ Kiền (tự Tử Khác, người Ngũ Thành, làm quan tới Vạn Tuế đình hầu). Hứa Trữ (tự Trọng Khang, người nước Tiếu, huyện Tiếu, làm quan tới Vũ Vệ trung lang tướng, Mâu hương hầu). Điển Vi (không có tên tự, người Trần Lưu, Kỉ Ngô, làm quan tới Đô úy). Bàng Đức (tự Lệnh Minh, người Nam An, Hoàn Đạo, làm quan tới Lập Nghĩa tướng quân, Quan Môn đình hầu). Bàng Dục (tự Tử Dực, người Tửu Tuyền, Biểu Thị, làm quan Trung tán Đại phu). Diêm Ôn (tự Bá Kiệm, người Thiên Thủy, Tây Thành, làm quan tới Thượng Khuê lệnh). Vương Xán (tự Trọng Tuyên, người Sơn Dương, Cao Bình, làm quan tới Thị trung). Vệ Kí (tự Bá Nho, người Hà Đông, An Ấp, làm quan tới Thượng thư, Văn Hương hầu). Lưu Dị (tự Cung Tự, người Nam Dương, An Chúng, làm quan tới Thị trung, Quan Nội hầu). Lưu Thiệu (tự Khổng Tài, người Quảng Bình, Hàm Đan, làm quan Tán ký Thường thị). Phó Hỗ (tự Lan Thạch, người Bắc Địa, Nê Dương, làm quan tới Thượng thư Bộc xạ, Dương hương hầu). Hoàn Giai (tự Bá Tự, người Trường Sa, Lâm Tương, làm quan tới Thị trung Thượng thư, An Lạc hương hầu). Trần Quần (tự Trường Văn, người Dĩnh Xuyên, Hứa Xương, làm quan tới Tư không). Trần Kiểu (tự Quý Bật, người Quảng Lăng, Đông Dương, làm quan tới Tư đồ). Từ Tuyên (tự Bảo Kiên, người Quảng Lăng, Hải Tây, làm quan tới Thị trung Quang lộc Đại phu). Vệ Trăn (tự Công Chấn, người Trần Lưu, Tương Ấp, làm quan tới Tư đồ, Trường Viên hầu). Lư Dục (tự Tử Gia, người quận Trác, huyện Trác, làm quan Tư không, Dung Thành hầu). Hòa Hiệp (tự Dương Sĩ, người Nhữ Nam, Tây Bình, làm quan tới Thái thường khanh). Thường Lâm (tự Bá Hòe, người Hà Nam, huyện Ôn, làm quan tới Quang lộc Đại phu). Dương Tuấn (tự Quý Tài, người Hà Nội, Hoạch Gia, làm quan Thái thú Nam Dương). Đỗ Tập (tự Tử Tự, người Dĩnh Xuyên, Định Lăng, làm quan Thái trung Đại phu). Triệu Nghiễm (tự Bá Nhiên, người Dĩnh Xuyên, Dương Địch, làm quan tới Tư không). Bùi Tiềm (tự Văn Hành, người Hà Đông, Văn Hi, làm quan Quang lộc Đại phu). Hàn Kị (tự Công Chí, người Nam Dương, Đổ Dương, làm quan tới Tư đồ). Thôi Lâm (tự Đức Nho, người Thanh Hà, Đông Vũ Thành, làm quan tới Tư không, An Dương hầu). Cao Nhu (tự Văn Huệ, người Trần Lưu, huyện Ngữ, làm quan tới Thái úy). Tôn Lễ (tự Đức Đạt, người quận Trác, Dung Thành, làm quan tới Tư không, Đại Lợi đình hầu). Vương Quán (tự Vĩ Đài, người quận Đông, Lẫm Khâu, làm quan tới Tư không, Dương hương hầu). Tân Bì (tự Tá Trị, người Dương Địch, làm quan tới Vệ úy). Dương Phụ (tự Nghĩa Sơn, người Thiên Thủy, huyện Kí, làm quan tới Thiếu phủ khanh). Cao Đường Long (tự Thăng Bình, người Thái Sơn, Bình Dương, làm quan tới Tán kỵ Thường thị). Mãn Sủng (tự Bá Ninh, người Sơn Dương, Xương Ấp, làm quan tới Thái úy). Điền Dự (tự Quốc Nhượng, người Ngư Dương, Ung Nô, làm quan Thái trung Đại phu). Khiên Chiểu (tự Tử Kinh, người An Bình, Quan Tân, làm quan Thái thú Nhạn Môn). Quách Hoài (tự Bá Tế, người Thái Nguyên, Dương Khúc, làm quan tới Xa Kỵ tướng quân, Dương Khúc hầu). Từ Mạc (tự Cảnh Sơn, người nước Yên, huyện Kế, làm quan tới Tư không). Hồ Chất (tự Văn Đức, người nước Sở, Thọ Xuân, làm quan Chinh Đông tướng quân). Vương Sưởng (tự Văn Thư, người Thái Nguyên, Tấn Dương, làm quan tới Chinh Nam tướng quân, nghi đồng tam tư, Kinh Lăng hầu). Vương Cơ (tự Bá Dư, người Đông Lai, Khúc Thành, làm quan Chinh Nam tướng quân). Vương Lăng (tự Ngạn Vân, người Thái Nguyên, huyện Kì, làm quan tới Thái úy). Vu Khâu Kiệm (tự Trọng Cung, người Hà Đông, Văn Hi, làm quan tới Trấn Đông đô đốc). Gia Cát Đản (tự Công Hưu, người Lang Da, Dương Đô, làm quan tới Tư không). Đặng Ngải (tự Sĩ Tái, người Nghĩa Dương, Cúc Dương, làm quan tới Thái úy). Chung Hội (tự Sĩ Quý, người Dĩnh Xuyên, Trường Xã, làm quan tới Tư đồ). Hoa Đà (tự Nguyên Hóa, người nước Bái, huyện Tiếu, giỏi nghề y). Đỗ Quỳ (tự Công Lương, người Hà Nam, làm quan tới Quân mưu Tế tửu, tham Thái Nhạc sự). Chu Kiến Bình (không có tên tự*, người nước Bái, giỏi xem tướng, làm quan tới Ngũ quan tướng*). Chu Tuyên (tự Khổng Hòa, người Lạc An, giải đoán mộng, làm quan tới Trung lang, thuộc Thái sử*). Quản Lộ (tự Công Minh, người Bình Nguyên, giỏi xem bói, làm quan tới Thiệu phủ thừa). HAI MƯƠI LĂM CON TRAI CỦA VŨ ĐẾ Biện hậu (sinh Phi, Chương Thực Hùng) Lưu Thị (sinh Ngang, Thước). Hoàn Thị (sinh Xung, Cứ). Đỗ Thị (sinh Lâm, Cổn). Tần Thị (sinh Tuấn). Lưu Thị (sinh Quân). Tống Thị (sinh Huy). Doãn Thị (sinh Củ). Vương Thị (sinh Cán). Tôn Thị (sinh Thượng, Bưu, Cần). Lý Thị (sinh Thừa, Chỉnh, Kinh). Lưu Thị (sinh Cức). Triệu Thị (sinh Mậu). CHÍN CON TRAI CỦA VĂN ĐẾ Chân hậu (sinh Duệ). Phan Thị (sinh Nhuy). Cừu Thị (sinh Lâm). Tô Thị (sinh Ung). Tống Thị (sinh Nghiễm). Lý Thị (sinh Hiệp). Chu Thị (sinh Giám). Từ Thị (sinh Lễ). Trương Thị (sinh Cống). LIỆT TRUYỆN Đổng Trác (tự Trọng Dĩnh, người Lũng Tây, Lâm Thao, làm quan tới Đại tướng quân). Viên Thiệu (tự Bản Sơ, người Nhữ Nam, Nhữ Dương, làm quan tới Đại tướng quân). Viên Thuật (tự Công Lộ, em của Thiệu, làm quan tới Tả tướng quân). Lưu Biểu (tự Cảnh Thăng, người Sơn Dương, Cao Bình, làm quan Trấn Nam tướng quân, Kinh Châu mục, Thành Vũ hầu). Lữ Bố (tự Phụng Tiên, người quận Ngũ Nguyên, Cửu Nguyên, làm quan tới Phấn Uy tướng quân, Ôn hầu). Trương Mạc (tự Mạnh Trác, người Đông Bình, Thọ Trương, làm quan Thái thú Trần Lưu). Tang Hồng (tự Tử Nguyên, người Quảng Lăng, Xạ Dương, làm quan Thái thú quận Đông). Công Tôn Toản (tự Bá Khuê, người Liêu Tây, Lệnh Chi, làm quan tới Tiền tướng quân, Dịch hầu). Đào Khiêm (tự Cung Tổ, người Đan Dương, làm quan tới An Đông tướng quân, Từ Châu mục, Lật Dương hầu). Trương Dương (tự Trĩ Thúc, người Vân Trung, làm quan Đại tự mã, Tấn Dương hầu). Công Tôn Độ (tự Thăng Tế, người Liêu Đông, Tương Bình, làm quan tới Vũ Uy tướng quân, Vĩnh Ninh hương hầu). Trương Yên (không có tên tự, người Thường Sơn, Chân Định, làm quan tới Bình Bắc tướng quân, An Quốc đình hầu). Trương Tú (không có tên tự, người Vũ Uy, Tổ Lệ, làm quan tới Phá Khương tướng quân, Tuyên Uy hầu). Trương Lỗ (tự Công Kì, người nước Bái, huyện Phong, làm quan tới Trấn Nam tướng quân, Lãng Trung hầu). PHỤ TRUYỆN Hàn Hạo Tào Hi Đinh Mật Vương Liệt Chung Dục Tôn Hiểu Đỗ Dự Trần Lâm Lộ Túy Ứng Cư Phan Húc Vi Đản Lý Quyết Vương Bật Viên Thượng Thẩm Phối Sái Mạo Trần Cung Sử Hoán Tào Ngạn Tất Quỹ Trương Trăn Vương Túc Lưu Tư Tang Quan Nguyễn Vũ Đinh Nghi Nguyễn Tịch Vương Tượng Hạ Hầu Huệ Quách Dĩ Từ Thứ Ngũ Phu Tân Bình Hàm Đan Thuần Trần Khuê Tào Thuần Tào Huấn Lý Thắng Lâu Khuê Đổng Ngộ Lý Phù Trương Cung Ứng Xương Định Dị Kê Khang Mậu Tập Tôn Cai Lệnh Hồ Ngu Sạn Tiềm Bàng Kỷ Trần Ôn Đặng Trung Công Tôn Uyên Tào Triệu Hà Yến Hoàn Phạm Khổng Dung Ngôi Hi Dương Bái Trương Kính Lưu Trinh Dương Tu Hoàn Uy Trọng Trường Thống Đỗ Chí Đường Tư Hồ Uy Thư Thụ Khoái Lương Phó Tuyển Trần Đăng Tào Sảng Đặng Dương Hồ Chiêu Hứa Du Chu Sinh Liệt Đỗ Thứ Từ Cán Phồn Khâm Tuân Vĩ Ngô Chất Tô Lâm Bùi Tú Đặng Thái Viên Đàm Điền Phong Khoái Việt Đinh Nguyên Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa TÔNG LIÊU NGÔ ĐẾ Vũ Liệt hoàng đế (họ Tôn húy Kiên, tự Văn Đài, người quận Ngô, Phú Xuân, trước làm Phá Lỗ tướng quân, sau truy ích làm đế). Trường Sa Hoàn vương (húy Sách, tự Bá Phù, con trưởng của Kiên, trước làm Thảo Nghịch tướng quân, sau truy ích làm đế). Đại hoàng đế (húy Quyền, tự Trọng Mưu, em trai Sách, ở ngôi ba mươi mốt năm, thọ bảy mươi tuổi). Cối Kê vương (húy Lượng, tự Tử Minh, con nhỏ của Quyền, ở ngôi sáu năm, thọ mười bảy tuổi). Cảnh đế (húy Hưu, tự Tử Liệt, con thứ sáu của Quyền, ở ngôi bảy năm, thọ hai mươi tuổi). Trình hầu (húy Hạo, tự Nguyên Tông, cháu của Quyền, ở ngôi mười bảy năm, thọ bốn mươi hai tuổi). HẬU Ngô hậu (người quận Ngô, mẹ của Quyền). Từ hậu (người quận Ngô, Phú Xuân, vợ của Quyền). Bộ hậu (người Lâm Hoài, Hoài Âm, vợ của Quyền, mẹ của Lượng). Vương hậu (người Lang Da, vợ của Quyền, mẹ của Hòa). Phan hậu (người Cối Kê, Câu Chương, vợ của Quyền). Toàn Thị (con gái của Toàn Thượng, vợ của Lượng). Chu hậu (con gái của Chu Cứ, vợ của Hưu). Đằng hậu (người trong họ của Thái thường Dận, vợ của Hạo). Hà cơ (người Đan Dương, Câu Dung, vợ của Hòa). TÔNG THẤT Tôn Tĩnh (tự Ấu Đài), em trai Kiên, làm quan tới Chiêu Nghĩa trung lang tướng. Tôn Du (tự Trọng Dị, con trai Tĩnh, làm quan tới Phấn Uy tướng quân). Tôn Kiểu (tự Thúc Lãng, em trai Du, làm quan tới Chinh Lỗ tướng quân). Tôn Hoán (tự Quý Minh, em trai Kiểu, làm quan tới Dương Uy tướng quân). Tôn Dực (tự Thúc Bật, em trai Quyền, làm quan tới Thái thú Đan Dương). Tôn Khuông (tự Quý Tá, em trai Dực, làm quan tới Định Uy trung lang tướng). Tôn Bôn (tự Bá Dương, cháu của Kiên, làm quan tới Chinh Lỗ tướng quân). Tôn Phụ (tự Quốc Nghi, em trai Bôn, làm quan tới Bình Nam tướng quân). Tôn Đăng (tự Tử Cao, con trưởng của Quyền. Hoàng Long năm đầu [229] lập làm Thái tử. Năm ba mươi tuổi thì chết). Tôn Lý (tự Tử Trí, em trai Đăng, phong Kiến Xương hầu). Tôn Hòa (tự Tử Hiếu, em trai Lự. Xích Ô năm thứ năm [242], lập làm Thái tử. Đại* Nguyên năm đầu [251] phong Vi Dương hầu). Tôn Bá (tự Tử Uy, em trai Hòa, phong Lỗ vương). Tôn Phấn (tự Tử Dương, em trai Bá, phong Tề vương). Tôn Hoàn (tự Thúc Vũ, con trai Hòa, làm quan tới Kiến Vũ tướng quan, Đan Đồ hầu). Tôn Tuấn (tự Tử Viễn, tằng tôn của Tĩnh, làm quan tới Thừa tướng, Đại tướng quân). Tôn Lâm (tự Tử Thông, em họ xa của Tuấn, làm quan tới Đại tướng quân, Vĩnh Ninh hầu). Tôn Thiều (tự Công Lễ, Sách ban cho họ, làm quan tới Trấn Bắc tướng quân, U Châu mục). LIỆT TRUYỆN Lưu Dao (tự Chính Lễ, người Đông Lai, Thăng Bình, làm quan Chấn Vũ tướng quân). Thái Sử Từ (tự Tử Nghĩa, người Đông Lai, huyện Hoàng, làm quan Kiến Xương Đô úy). Sĩ Nhiếp (tự Uy Ngạn, người Thương Ngô, Quảng Tín, làm quan tới vị tướng quân, Long Biên hầu). Trương Chiêu (tự Tử Bố, người Bành Thành, làm quan tới Phụ Ngô tướng quân). Cố Ung (tự Nguyễn Thán, người quận Ngô, huyện Ngô, làm quan tới Thượng thư lệnh, Dương Toại hương hầu). Gia Cát Cẩn (tự Tử Du, người Dương Đô, làm quan tới Tả tướng quân, Uyển Lăng hầu). Bộ Chất (tự Tử Sơn, người Hoài Âm, làm quan Hữu tướng quân, Lâm Tương hầu). Trương Hoành (tự Tử Cương, người Quảng Lăng, làm quan tới Trưởng sử). Nghiêm Tuấn (tự Mạn Tài, người Bành Thành, làm quan tới Thượng thư). Trình Bỉnh (tự Đức Xu, người Nhữ Nam, Nam Đốn, làm quan Thái tử Thái phó). Hám Trạch (tự Đức Nhuận, người Cối Kê, Sơn Âm, làm quan Thái tử Thiếu phó). Tiết Tống (tự Kính Văn, người quận Bái, Trúc Ấp, làm quan Thái tử Thiếu phó). Chu Du (tự Công Cẩn, người Lư Giang, huyện Thư, làm quan tới Thiên tướng quân, lĩnh Thái thú quận Nam). Lỗ Túc (tự Tử Kính, người Lâm Hoài, Đông Thành, làm quan tới Hoành Giang tướng quân, Ích Châu mục). Lữ Mông (tự Tử Minh, người Nhữ Nam, Phú Pha, làm quan tới Thái thú quận Nam, Sàn Lăng hầu). Trình Phổ (tự Đức Mưu, người Hữu Bắc Bình, Thổ Ngân, làm quan tới Đãng Khấu tướng quân). Hoàng Cái (tự Công Phúc, người Linh Lăng, Tuyền Lăng, làm quan tới Thiên tướng quân). Hàn Đương (tự Nghĩa Công, người tiêu Tây, Lệnh Chi, làm quan Chiêu Vũ tướng quân). Tưởng Khâm (tự Công Dịch, người Cửu Giang, Thọ Xuân, làm quan Đãng Khấu tướng quân). Chu Thái (tự Ấu Bình, người Cửu Giang, Hạ Sái, làm quan tới Phấn Uy tướng quân, Lăng Dương hầu). Trần Vũ (tự Tử Liệt, người Lư Giang, Tùng Tư, làm quan tới Thiên tướng quân). Đổng Tập (tự Nguyên Đại, người Dư Diêu, làm quan tới Thiện tướng quân). Cam Ninh (tự Hưng Bá, người quận Ba, Lâm Giang, làm quan Chiết Xung tướng quân). Lăng Thống (tự Công Tục*, người Dư Diêu, làm quan tới Thiên tướng quân). Từ Thịnh (tự Công Hướng*, người Lang Da, huyện Doanh, làm quan tới An Đông tướng quân). Phan Chương (tự Văn Khuê, người quận Đông, Phát Can, làm quan Chấn Uy tướng quân). Đinh Phụng (tự Thừa Uyên, người Lư Giang, An Phong, làm quan tới Hữu tư mã, Tả quân sư). Chu Trị (tự Quân Lý, người Đan Dương, Cố Chương*, làm quan tới An Quốc tướng quân, Bì Lăng hầu). Chu Nhiên (tự Nghĩa Phong, con trai của chị Chu Trị, làm quan tới Tả tư mã, Hữu quân sư). Lữ Phạm (tự Tử Hoành, người Nhữ Nam, Tế Dương, làm quan tới Đại tư mã). Chu Hoàn (tự Hưu Mục, người Ngô, làm quan tới Tiền tướng quân, Thanh Châu mục). Ngu Phiên (tự Trọng Dực, người Dư Diêu, làm quan tới Kỵ đô úy). Lục Tích (tự Công Ki, người quận Ngô, huyện Ngô, làm quan tới Thiên tướng quân). Trương Ôn (tự Huệ Thứ, người quận Ngô, huyện Ngô, làm quan Thái tử Thái phó). Lạc Thống (tự Công Tự, người Cối Kê, Ô Thương, làm quan Kiến Uy trung lang tướng). Ngô Xán (tự Khổng Hưu, người Ô Trình, làm quan tới Thái tử Thái phó). Chu Cứ (tự Tử Phạm, người quận Ngô, huyện Ngô, làm quan tới Phiếu Kỵ tướng quân). Lục Tốn (tự Bá Ngôn, người Ngô, làm quan tới Thừa tướng). Lục Mạo (tự Tử Chương, em trai Tốn, làm quan tới Nghị lang). Lục Kháng (tự Ấu Tiết, cháu ngoại của Tôn Sách, làm quan tới Thiên tướng quân, Bì Lăng hầu). Hạ Tề (tự Công Miêu, người Sơn Âm, làm quan Hậu tướng quân). Toàn Tông (tự Tử Hoàng, người Tiền Đường, làm quan Hữu tự mã, Tả quân sư). Ngô Đại* (tự Định Công, người Quảng Lăng, Hải Lăng, làm quan tới Đại tư mã). Chu Phường (tự Tử Ngư, người Dương Tiện, làm quan Thiên tướng quân, Quan Nội hầu). Chung Ly Mục (tự Tử Can, người Sơn Âm, làm quan tới Tiền tướng quân). Phan Tuấn (tự Thừa Minh, người Vũ Lăng, Hán Thọ, làm quan tới Thái thường khanh). Lục Khải (tự Kính Phong, người quận Ngô, huyện Ngô, làm quan Chinh Tây tướng quân). Thị Nghi (tự Tử Vũ, người Bắc Hải, Doanh Lăng, làm quan Thượng thư Bộc xạ). Hồ Tống (tự Võ Tắc, người Nhữ Nam, Cố Thủy, làm quan tới Thiên tướng quân). Ngô Phạm (tự Văn Tắc, người Thượng Ngu, làm quan Kỵ đô úy, Thái sử lệnh). Lưu Đôn (tự Tử Nhân, người Bình Nguyên, làm quan tới Thái sử lệnh). Triệu Đạt (không có tên tự, người Hà Nam, làm quan tới Thái sử thừa). Gia Cát Khác (tự Nguyên Tốn, Con trưởng của Cẩn, làm quan tới Thái tử Thái phó). Đằng Dận (tự Tử Tự*, người Bắc Hải, huyện Kịch, làm quan tới Vệ tướng quân). Bộc Dương Hưng (tự Tử Nguyên, người Trần Lưu, làm quan tới Thừa tướng). Vương Phiền (tự Vĩnh Nguyên, người Lư Giang, làm quan tới Tán kỵ Trung thường thị). Lâu Huyền (tự Thừa Tiên, người nước Bái, huyện Kì, làm quan tới Đại tư nông). Hạ Thiệu (tự Hưng Bá, người Sơn Âm, làm quan tới Trung thư lệnh, Thái tử Thái phó). Vi Diệu (tự Hoằng Tự, người quận Ngô, Vân Dương, làm quan Trung thư Bộc xạ). Hoa Hạch (tự Vĩnh Tiên, người quận Ngô, Vũ Tiến, làm quan tới Trung thư thừa). PHỤ TRUYỆN Lưu Cơ Từ Hiện Cố Thiệu Trương Huyền Tiết Doanh Ngu Ki Lục Duệ Sĩ Huy Từ Lân Cố Đàm Trương Thượng Trần Biểu Ngu Trung Từ Tường Sĩ Ý Trương Thừa Cố Thừa Bùi Huyền Chu Tục Ngu Tủng Lưu Tán Ngô Cảnh Trương Lâm Gia Cát Dung Đường Quốc Chu Biến Ngu Nhuế Từ Chân Trương Phấn Bộ Xiển Tiết Vũ Lữ Cứ Lục Hoành Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa QUYỂN I Tấn Bình Dương hầu Trần Thọ sử truyện. Hậu học La Bản, Quán Trung biên thứ. Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa QUYỂN I 01. Tế trời đất, đào viên kết nghĩa. 02. Lưu Huyền Đức chém giặc lập công. 03. Ở An Hỉ, Trương Phi đánh Đốc bưu. 04. Hà Tiến mưu giết Thập thường thị. 05. Đổng Trác bàn lập Trần Lưu Vương. 06. Lữ Bố ám sát Đinh Kiến Dương. 07. Phế vua Hán, Đổng Trác lộng quyền. 08. Tào Mạnh Đức mưu giết Đổng Trác. 09. Tào Mạnh Đức cất quân đánh Đổng Trác. 10. Ải Hổ Lao, ba người đánh Lữ Bố. 1. TẾ TRỜI ĐẤT, ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA Hoàn đế nhà Hậu Hán băng hà. Linh đế nối ngôi, bấy giờ mới hai mươi tuổi. Triều đình có Đại tướng quân Đậu Vũ, Thái phó Trần Phiền, Tư đồ Hồ Quảng cùng nhau phò tá. Đến mùa thu, tháng bảy, trung quyên là Tào Tiết, Vương Phủ lộng quyền. Đậu Vũ, Trần Phiền lập mưu tiêu diệt chúng đi. Cơ mưu không được cẩn mật, nên ngược lại bị bọn Tào Tiết, Vương Phủ hãm hại. Trung quyền từ đó nắm hết quyền hành. Năm Kiến Ninh thứ hai [169], tháng tư, ngày mười lăm, đế hội quần thần ở điện Ôn Đức, đang muốn lên ngôi. Ở góc điện có gió lớn nổi to, trông thấy một con rắn xanh từ trên cột nhà rơi xuống, dài ước hơn hai mươi trượng, uốn khúc trên long ỷ. Linh để kinh hoảng ngã nhào. Võ sĩ vội xông đến cứu đế ra. Các quan văn võ xúm xít xô đẩy nhau. Kẻ rơi xuống Đan Trì nhiều không kể xiết. Giây lát lại chẳng thấy rắn đâu. Ít giờ sau, sấm to mưa lớn, băng đá rơi rụng, cho đến nửa đêm mới dứt, phá hủy phòng ốc trong thành Đông Đô đến hơn vài ngàn gian. Năm Kiến Ninh thứ tư [171], tháng hai, Lạc Dương động đất. Sở quan và tường thành đều đổ sụp. Nước biển dâng tràn. Cư dân các xứ Đăng, Lai, Nghi, Mật đều bị sóng biển cuốn đi hết sạch. Vì thế, đổi niên hiệu là Hi Bình. Từ đó, ở biên giới thường có những kẻ làm phản. Năm Hi Bình thứ năm [176], đổi niên hiệu là Quang Hòa*. Gà mái hóa thành gà trống. Tháng Sáu, ngày sóc, có luồng khí đen hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Mùa thu, tháng bảy, có cầu vồng hiện ở Ngọc Đường. Vách núi Ngũ Nguyên thảy đều sạt lở. Điềm không tốt xảy ra liên miên, không chỉ một điềm mà thôi. Bởi thế, Linh đế lo sợ, bèn hạ chiếu triệu bọn Quang Lộc đại phu Dương Tử tới cửa Kim Thương, hỏi về lý do của tai dị và phương thuật để tiêu trừ. Tứ tấu rằng: – Thần nghe lời sấm trong Xuân Thu nói rằng: “Hiện cầu vồng, thiên hạ oán, trong nước loạn”. Kỳ hạn bốn trăm năm cơ hồ đang quay lại. Nay bọn nàng hầu, vợ lẽ, yêm hoạn, hầu cận cùng nắm giữ việc nước, che mắt trời trăng lại có bọn Hồng Đô môn hạ, tụ họp bọn tiểu nhân, bày vẽ thuế má, lại được ân sủng hiện thời. Chúng tiến cử lẫn nhau, trong vòng một tuần một tháng thì đều được thăng chức vượt bậc. Nhạc Tùng làm Thường bá*, Nhâm Chi làm Nạp ngôn, Khước Kiệm, Lương Hộc đều nhận tước phong, sủng hạnh chẳng kém. Thế nên kẻ sĩ tấn thân đều nép rạp nơi mương máng*, miệng nói lời của Nghiêu Thuấn, thân phải làm theo thói tục, phí hoài trong ngòi rãnh, chẳng được nghe biết tới. Mũ dép đảo lộn, gò vực đổi dời*. May nhờ hoàng thiên ban điềm khiển trách để báo trước. Chu thư nói: “Thiên tử thấy điều quái dị thì phải sửa đức độ. Chư hầu thấy điều quái dị thì phải sửa chính trị. Khanh, đại phu thấy điều quái dị thì phải sửa việc quan. Kẻ sĩ, thường dân thấy điều quái dị thì phải sửa thân mình”*. Xin bệ hạ xa lánh kẻ nịnh hót, gấp với người hiền sĩ, chấm dứt xây dựng, dừng việc yến tiệc, dạo chơi. Hi vọng trời cao thu oai, tai biến dẹp được. Nghị lang Sái Ung cũng tâu. Đại khái nói rằng: “Thần cúi nghĩ rằng các điều lạ kia đều là điểm quái lạ lúc mất nước đó. Ông trời đối với Đại Hán ân cần không ngớt. Bởi thế mới nhiều lần làm ra biến cố quái lạ, lấy đó làm khiển trách, muốn khiến cho người làm vua cảm ngộ, biến nguy thành yên. Cầu vồng sa xuống, loài gà biến đổi. Ngày trước, nhũ mẫu Triệu Nhiêu* được quý trọng trong thiên hạ. Vĩnh Lạc môn sứ Hoắc Ngọc lại làm việc gian tà. Xét bọn Triệu, Hoắc này, đều là kẻ gây nạn cho nước. Trương Hạo, Vĩ Chương*, Triệu Huyền, Cái Thăng* cũng trộm được hưởng may mắn đương thời*. Nên nghĩ đến cái họa của bọn tiểu nhân nắm giữ chức vị. Lại thấy Quách Hi, Kiều Huyền, Lưu Sủng đều là người trung thực, lão thành, nên dùng họ làm mưu chủ. Ôi, Tể tướng, đại thần là tay chân của vua. Không nên nghe lời bọn tiểu lại mà đục đẽo đại thần hậu. Vả, việc tuyển cử đều do xin xỏ, mọi người đều không dám nói, thần mong bệ hạ nén lòng mà dẹp bỏ đi. Đại thần hai bên tả hữu, cũng nên theo đó mà sửa đổi. Người tự đè nén, lấy đó mà lui điểm lạ. Ắt là đạo trời lại vẹn tròn, quỷ thần bạn thêm phúc. Ôi, quân thần không thân thiết. Trên có điều cấm tiết lộ lời nói, dưới có cái họa vứt bỏ sinh mạng. Xin giấu tờ biểu của thần đi, để không khiến kẻ bề tôi tận trung chịu oán thù của bọn gian ác. Kính cẩn tấu trình”. Để xem tờ tâu mà than thở, nhân đó đứng dậy thay áo. Tào Tiết đứng ở phía sau nhìn trộm, đem việc nói hết với bọn tả hữu. Việc bèn tiết lộ, bọn Ung bị tội. Trung quyên Lữ Cường tiếc tài của họ, tâu xin miễn tội. Về sau, bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Uẩn, Quách Thắng, cả bọn mười người nắm giữ việc triều đình. Từ đó, kẻ làm quan trong thiên hạ đều bước ra từ dưới cửa của bọn Thập thường thị. Triều đình đối đãi với mười người ấy như sư phụ, vì thế việc ra vào cung cấm không hề có úy kỵ gì. Phủ đệ của họ dựa theo thể thức cung đình, phủ viện mà xây dựng. Chuyện không kể nữa. Đây nói vào năm Giáp Tý, Trung Bình năm đầu [184], quận Cự Lộc có một người họ Trương, tên Giác. Một người huynh đệ tên là Trương Lương, một người huynh đệ tên là Trương Bảo. Giác ban đầu là Tú tài thi không đỗ, nhân thế vào trong núi hái thuốc, gặp một ông già, mắt biếc mặt trẻ, tay cầm gậy lê, gọi Giác đi vào trong động, giao cho ba quyển sách, tên là Thái bình yếu thuật chú phù, lấy đạo làm tâm niệm: – Hãy thay trời dạy dỗ, cứu giúp người đời. Nếu có lòng gian, ắt chịu ác báo. Giác lạy, hỏi họ tên. Ông già nói: – Ta là Nam Hoa lão tiên. Rồi hóa thành một trận gió xanh, không thấy đâu nữa. Giác được sách ấy, đêm ngày rèn tập, có thể hô mưa gọi gió, đặt hiệu là Thái Bình đạo nhân. Vào năm Trung Bình thứ nhất [184], tháng giêng, dịch độc hoành hành. Trương Giác phân phát nước bùa, xưng là Đại hiền lương sư. Kẻ xin bùa chữa bệnh, không đâu không khỏi. Lệnh cho kẻ gặp nạn đến trước chỗ ngồi, tự khai báo lỗi lầm của mình. Giác cùng người đó sám hối, lại ban cho phước lành. Giác có hơn năm trăm đồ đệ, bảo đi khắp bốn phía chữa bệnh. Về sau đồ chúng rất đông. Giác chia thành ba mươi sáu phương, chia đặt các chức Đại phương, Tiểu phương, đó là tên gọi của tướng quân vậy. Đại phương hơn vạn người, Tiểu phương sáu bảy ngàn, đều lập cừ soái, phao tin rằng: “Trời xanh đã chết, trời vàng đang dựng, đến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát”. Sai mọi người lấy đất trắng viết hai chữ Giáp Tý lên cửa nhà. Trên cửa của các quận, huyện, thị, trấn, cung quán, tự viện đều có hai chữ Giáp Tý. Người của tám châu Thanh, Từ, U, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng đều thờ phụng tên hiệu của Đại hiền lương sư Trương Giác. Giác sai Đại phương Mã Nguyên Nghĩa lén hối lộ vàng lụa cho Thập thường thị Phong Tư, Từ Phụng, để làm nội ứng. Giác cùng em là Lương, Bảo bàn bạc rằng: – Điều khó có được nhất chính là lòng dân vậy. Nay lòng dân đã theo về, nếu không thừa thế mà lấy thiên hạ, thì là điều đáng tiếc vạn đời đấy. Lương nói: – Thật hợp với ý em. Một mặt chế cờ vàng, hẹn đến ngày mồng năm tháng ba cùng nhau nổi dậy, lại sai đồ đệ là Đường Châu cầm thư đi báo cho Phong Tư. Đường Châu đi tới sở quan báo có biến. Đế gọi Đại tướng quân Hà Tiến điều binh, trước bắt Mã Nguyên Nghĩa chém đi, kế đó bắt bọn Phong Tư gồm một ngàn người giam vào trong ngục. Trương Giác nghe biết việc đã lộ, lập tức khởi binh. Trương Giác tự xưng Thiên Công tướng quân, em là Bảo xưng Địa Công tướng quân, em là Lương xưng Nhân Công tướng quân, gọi trăm họ đến nói rằng: Nay vận Hán gần hết. Đại thánh nhân ra đời. Bọn bay nên thuận theo lẽ trời, đi về nẻo chánh, để vui thái bình. Trăm họ bốn phương buộc khăn vàng, theo Trương Giác làm phản đến bốn năm chục vạn, gặp châu thấy huyện là phóng hỏa cướp của. Quan lại sở tại nghe phong thanh đều chạy trốn. Hà Tiến tấu với đế: – Xin gấp rút ban chiếu chiêu hàng, sai các xứ chuẩn bị phòng ngự, đánh giặc lập công. Một mặt, sai Trung lang tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn đều dẫn tinh binh, chia làm ba đường đánh dẹp. Hãy nói một cánh quân của Trương Giác xâm phạm địa giới U, Yên. Hiệu úy Trâu Tĩnh đến gặp Thái thú U Châu. Thái thú họ Lưu, tên Yên, tự là Quân Lang, là người Cánh Lăng, quận Giang Hạ, dòng dõi Lỗ Cung vương. Lưu Yên hỏi Trâu Tĩnh rằng: – Khăn Vàng nổi dậy, đánh đến cõi này, nên làm thế nào? Trâu Tĩnh nói: Vừa rồi thiên tử nhà Hán có chiếu nói rõ, lệnh cho các xứ đánh giặc. Minh công sao không chiêu quân để giúp việc nước? Yên cho lời đó là phải, bèn sai các xứ treo bảng chiêu mộ nghĩa binh, xét tài mà bổ dụng. Bấy giờ bảng văn đến huyện Trác, treo ở thôn Lâu Tang, huyện Trác, dẫn dắt ra một vị anh hùng. Người này bình sinh không vui đọc sách, mà thích chó ngựa, yêu âm nhạc và quần áo đẹp, ít nói năng mà giữ lễ với người, mừng giận không hiện ra nét mặt, thích giao du với hào kiệt trong thiên hạ, lòng ôm chí lớn. Người này sinh ra mình cao chín thước năm tấc, hai tai buông qua vai, hai tay dài quá gối, mắt có thể nhìn thấy tai, mặt như viên ngọc, môi tợ thoa son; là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng*, huyền tôn của Hán Cảnh đế, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Đức. Xưa con của Lưu Thắng là Lưu Trinh, vào năm Nguyên Thú thứ sáu [117 TCN], Hán Vũ đế phong làm Lục Thành đình hầu ở Trác quận*, vì việc luyện vàng mà mất tước hầu. Nhân đó có một chi ở lại Trác quận. Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Vì Lưu Hoằng từng được đề cử Hiếu liêm, nên cũng được làm chức lại ở châu quận. Bị sớm mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo, làm nghề bán giày dệt chiếu. Góc đông nam nhà có một cây dâu cao năm thước, trông xa thấy sừng sững* như cái lọng xe. Người đi qua lại đều nói cây ấy khác thường. Thầy tướng là Lý Định nói: – Nhà này ắt sinh quý nhân. Huyền Đức lúc bé, cùng bọn trẻ trong làng đùa giỡn dưới gốc cây, nói: Ta làm thiên tử, ngồi trên chiếc xe có lọng cắm lông chim này!* Thúc phụ trách rằng: – Mày chớ nói xằng, hại chết nhà tao đó! Năm mười lăm tuổi, mẹ sai đi học, cùng với người đồng tông là Lưu Đức Nhiên, người Liêu Tây là Công Tôn Toản kết bạn. Thúc phụ của Huyền Đức là Lưu Nguyên Khởi thấy nhà Huyền Đức nghèo, thường chu cấp cho. Vợ Nguyên Khởi nói: – Ai cũng tự có nhà, sao lại thường cho nó? Nguyên Khởi nói: – Nhà ta có đứa trẻ này, là kẻ phi thường đó! Năm Trung Bình thứ nhất [184], quận Trác mộ quân. Bấy giờ Huyền Đức hai mươi tám tuổi, đứng ở trước bảng, thở dài một tiếng rồi quay ra. Có một người đi theo sau nghiêm giọng nói rằng: – Đại trượng phu không vì quốc gia mà ra sức. Thở dài cái gì? Huyền Đức ngoái nhìn thấy người này thân cao tám thước, đầu báo mắt tròn, cằm én râu hổ, tiếng như sấm lớn, dáng như ngựa chạy. Huyền Đức thấy người này dung mạo khác thường, bèn cùng nhau đi vào trong thôn, hỏi qua tên họ. Người đó nói: – Tôi họ Trương, tên Phi, tự là Ích Đức*. Nhiều đời sống ở quận Trác, có chút nhà cửa ruộng đất, bán rượu, mổ lợn, vốn thích kết giao với tráng sĩ trong thiên hạ. Mới rồi thấy công xem bảng văn, vì sao lại thở dài? Huyền Đức nói: – Tôi vốn là dòng dõi nhà Hán, họ Lưu, tên Bị, tự là Huyền Đức. Nay nghe nói Khăn Vàng nổi dậy làm giặc, cướp phá châu huyện, có lòng muốn quét sạch trung nguyên, khuông phò xã tắc. Chỉ hận sức không làm nổi thôi. Phi nói: – Thực đúng ý tôi. Tôi có mấy người trang khách, cùng nhau lo việc lớn, được chăng? Huyền Đức cả mừng, giữ lại uống rượu. Trong lúc đối ẩm, thấy một đại hán đẩy một cỗ xe nhỏ đến ngoài cửa tiệm, gác chiếc xe xuống đi vào uống rượu, ngồi trên chiếc giường gỗ dâu hét gọi tửu bảo: – Mau lọc rượu mang ra đây! Ta đang gấp chạy vào thành sung quân, sợ chậm trễ! Huyền Đức ngó người này, mình cao chín thước ba tấc, râu dài một thước tám tấc, mặt như táo chín, môi tợ thoa son, mắt chim phượng, mày con tằm, tướng mạo đường đường, uy phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi, hỏi han tên họ. Người này nói rằng: – Tôi họ Quan, tên Vũ, tự là Trường Sinh, về sau đổi là Vân Trường, là người quận Hà Đông, huyện Giải Lương. Vì bọn cường hào ở xứ tôi ỷ thế khinh người, Quan Mỗ giết đi, lánh nạn giang hồ đã năm sáu năm. Nay nghe có chiêu mộ nghĩa sĩ phá giặc Khăn Vàng, muốn đi ứng mộ. Huyền Đức bèn đem chí của mình nói rõ. Ba người cả mừng, cùng tới trang viên của Trương Phi, bàn việc thiên hạ. Quan, Trương tuổi tác nhỏ hơn Huyền Đức, nên muốn bái làm anh. Phi nói: – Phía sau trang của tôi có một vườn đào. Hoa nở rất nhiều. Ngày mai có thể mổ ngựa trắng tế trời, giết bò đen tế đất, ba anh em chúng ta kết mối giao tình sống chết, được chăng? - Ba người cả mừng. Ngày hôm sau, bày biện tiền mã vàng giấy trong vườn đào, mổ ngựa trắng, giết bò đen, bày ra trên đất. Ba người đốt hương quỳ bái, cùng nhau thề rằng: – Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy rằng khác họ, kết làm huynh đệ, chung lòng hợp sức, cứu khốn phò nguy, trên báo quốc gia, dưới yên dân chúng, không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ nguyện chết cùng ngày càng tháng cùng năm. Hoàng thiên hậu thể chứng cho lòng này. Nếu mà bỏ nghĩa quên ơn, trời người cùng diệt! Thề xong, cùng bái Huyền Đức làm anh, Quan Mỗ kế tiếp, Trương Phi làm em. Tế trời đất xong, cùng tới lạy mẹ Huyền Đức; đem đồ cúng tế tụ họp anh hùng trong hương được ba trăm người có hơn, đến trong vườn đào say sưa một trận. Ngày hôm sau, thu thập binh khí, chỉ hận không có ngựa để cưỡi. Trong lúc đang lo nghĩ, có người báo rằng: Có hai người khách dẫn chục người đi cùng, đang dắt một bầy ngựa đi về hướng trang ta! Huyền Đức nói: – Đây là trời giúp bọn ta làm nên việc lớn! Ba người rời trang nghênh đón. Đi đầu là hai người thương buôn, đó là đại thương gia đất Trung Sơn: một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song. Mỗi năm đều tới Bắc Địa bán ngựa, gặp ngay lúc giặc nổi, đang trở về quê. Huyền Đức mời hai người vào trang, bày rượu khoản đãi, kể rõ việc muốn vì dân trừ hại, giúp đỡ triều Hán. Trương Thế Bình, Tô Song cả mừng, xin đem năm trăm con ngựa tốt đưa cho Huyền Đức, lại tặng vàng bạc năm trăm lượng, sắt tốt một ngàn cân, để làm vốn liếng. Huyền Đức mời thợ giỏi rèn ra Song Cổ Kiếm. Quan Mỗ rèn Thanh Long Yển Nguyệt đao nặng tám mươi hai cân, lại có tên là Lãnh Diễm Cứ. Trương Phi rèn Trượng Bát Điểm Cương mâu; đều chế ra áo giáp che khắp người. Mọi việc xong rồi, bèn gọi hơn năm trăm người, tới gặp Trâu Tĩnh. Trâu Tĩnh dẫn đến gặp Thái thú Lưu Yên. Ba người lạy chào xong rồi, hỏi han tên họ, kể rõ gốc gác. Lưu Yên cả mừng nói: – Thì ra là con cháu nhà Hán. Nếu có công lao, ắt được trọng dụng. Nhân thể nhận Huyền Đức làm cháu, sai sửa sang quân mã. Có người báo: – Đại phương của Khăn Vàng là Trình Viễn Chí dẫn năm vạn người ngựa đến gần quận Trác. Lưu Yên sai Mã bộ Hiệu úy Trâu Tĩnh dẫn theo Lưu Huyền Đức làm tiên phong, đi trước phá địch. Huyền Đức cả mừng, bèn cùng Quan, Trương phóng ngay lên ngựa, đi lập đại công. Đoán xem làm sao thắng được? 2. LƯU HUYỀN ĐỨC CHÉM GIẶC LẬP CÔNG Huyền Đức tự dẫn hơn năm trăm người, chạy gấp tới trước chân núi Đại Hưng, cùng quân giặc chạm mặt. Hai bên đều bày bố thế trận. Huyền Đức cưỡi ngựa ra, bên trái có Quan Mỗ, bên phải có Trương Phi, vung roi mắng rằng: – Nghịch tặc phản quốc, sao không sớm hàng đi? Trình Viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu vung thương xông thẳng tới. Trương Phi trợn đôi mắt tròn, vung cây mâu dài trượng tám. Tay vừa vung lên, đã đâm trúng tim. Đặng Mậu ngã nhào xuống ngựa. Đời sau có người khen Ích Đức rằng: Muốn dạy kẻ dũng trấn ba nước. Trước thử thần mâu trượng tám đây. Trình Viễn Chí thấy Đặng Mậu đã chết, vỗ ngựa múa đao chạy tới đánh Trương Phi. Quan Mỗ phóng ngựa múa đao chạy ùa ra. Trình Viễn Chí trông thấy, tim gan đều vỡ vụn, trở tay không kịp, bị Quan Mỗ vung đao chém dạt làm hai đoạn. Về sau, có người khen Vân Trường rằng: Muốn có người tài yên bốn cõi. Hãy thử Thanh Long Yển Nguyệt đao. Bọn giặc trông thấy Trình Viễn Chí bị chém thì trở giáo, cởi giáp đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể. Chém được vài ngàn cái đầu, lập được công to rồi trở về. Thái thú Lưu Yên đích thân ra đón tiếp, khen thưởng ba quân. Lại có ngựa nhanh chạy tới báo rằng: “Thái thú Thanh Châu là Cung Cảnh có điệp văn báo gấp, nói rằng giặc Khăn Vàng bao vây thành đánh rát, xin cho cứu viện”. Lưu Yên cùng Huyền Đức bàn bạc. Huyền Đức nói: – Xin đi cứu họ. Lưu Yên sai Trâu Tĩnh dẫn năm ngàn quân, cùng Huyền Đức đi cứu viện. Huyền Đức, Quan, Trương lên ngựa, nhằm hướng Thanh Châu mà đi, xa trông thấy bọn giặc đều xõa tóc, lấy khăn vàng buộc quanh trán, vẽ hình bát quái làm dấu hiệu. Quân giặc thấy có quân tới cứu, bèn chia binh đón đánh. Huyền Đức binh ít, không thắng nổi, lui ba mươi dặm hạ trại. Huyền Đức nói với Quan, Trương: – Giặc đông ta ít, ắt phải dùng kì binh, rồi sau mới thắng được. Bèn sai Quan Mỗ dẫn một ngàn quân mai phục ở bên trái núi, Trương Phi dẫn một ngàn quân mai phục bên phải núi, khi có tiếng chiêng làm hiệu lệnh thì nhất tề xông ra hưởng ứng. Ngày hôm sau, Huyền Đức, Trâu Tĩnh dẫn quân khua trống mà tiến. Bọn giặc hò hét, như thủy triều ùa tới. Huyền Đức bèn lui quân. Bọn giặc thừa thể truy đuổi, vượt qua dãy núi. Quân Huyền Đức đồng loạt đánh chiêng. Bên trái có Quan Mỗ, bên phải có Trương Phi, hai đạo quân cùng ùa ra. Quân Huyền Đức quay lại, ba đạo cùng đánh giết. Quân giặc thua to, đuổi đánh tới dưới chân thành Thanh Châu. Thái thú Cung Cảnh cũng đốc suất dân binh ra thành trợ chiến. Thế giặc tan lở, bị diệt cực nhiều. Bọn dư đảng đều thua chạy, bèn giải được vòng vây cho Thanh Châu. Thái thú khao thưởng quân lính. Trâu Tĩnh muốn trở về. Huyền Đức nói: – Gần đây nghe tin Trung lang tướng Lư Thực cùng thủ lĩnh giặc là Trương Giác đánh nhau ở Quảng Tông. Bị lúc xưa cùng Công Tôn Toàn thờ Lư Thực, nay muốn đi tới đó, cùng chung sức phá giặc. Trâu Tĩnh nói: – Lương thực thì có thể co kéo, nhưng binh mã thì không dám dùng càn. Bởi thế, Huyền Đức tự dẫn năm trăm người dưới trướng, nhằm hướng Quảng Tông mà đi. Trâu Tĩnh tự đem quân trở về. Huyền Đức cùng Quan, Trương tới trước trại của Lư Thực, sai người ngựa dừng lại. Người báo tin đi một lát, Thực gọi ba người vào trong trường. Làm lễ xong rồi, Lư Thực hỏi han tình hình của Huyền Đức, Huyền Đức kể rõ. Lư Thực cả mừng, ban thưởng xong xuôi, giữ lại trước trướng để sai phái. Bấy giờ bọn giặc Trương Giác có mười lăm vạn người, đóng đồn ở Quảng Tông. Lư Thực có hơn năm vạn binh, tuy thắng liền mấy trận nhưng thế giặc chưa suy. Thực gọi Huyền Đức vào, bảo rằng: – Ta nay vẫy giặc ở đây. Em giặc là Trương Lương, Trương Bảo ở Dĩnh Xuyên, cùng Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn giằng co. Ngươi nên đem quân mã dưới trướng, ta giúp thêm một ngàn quân, hãy đi đến đó thám thính tin tức, hẹn cùng đánh dẹp. Huyền Đức nhận lấy văn thư, cùng Quan, Trương xuyên đêm đi về Dĩnh Xuyên. Bấy giờ Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn cùng giặc đánh nhau to. Quân giặc bất lợi, bèn lui về Trường Xã, kết cỏ làm doanh trại. Tung bao vây bốn bề. Tung nói với Tuấn: – Nay quân giặc ở đây kết cỏ làm doanh trại, trừ phi dùng lửa đốt thì mới có thể thắng. Tuấn nói: – Sau khi gió lớn nổi lên, mới có thể dùng kế ấy. Lúc này nên sai quân sĩ mỗi người vác một bó cỏ. Đêm ấy, gió to nổi lên. Tung sai quân sĩ tinh nhuệ, lén bỏ ra trước. Canh hai đêm ấy, trong ngoài nhất tề nổi lửa. Tung, Tuấn đều dẫn quân gõ trống chạy ùa tới trại giặc. Lửa cháy ngút trời. Quân giặc kinh hoàng, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, đều bỏ chạy tứ tán. Đánh giết đến trời sáng, Trương Lương, Trương Bảo dẫn đám quân tàn, cướp đường chạy trốn, bỗng thấy một đội người ngựa, đều vẫy cờ đỏ, đương kéo tới chặn đường. Kẻ đi đầu trong đám ấy bước ra là một vị anh hùng mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài, đởm lược hơn người, cơ mưu xuất chúng, cười Tề Hoàn, Tấn Văn không có tài khuông phò, chế Triệu Cao, Vương Mãng không ủ mưu ngang dọc, dùng binh phảng phất Tôn, Ngô, bụng thuộc nằm lòng Thao, Lược, được bái làm chức Kỵ đô úy, là người quận Tiếu, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Đức, là cháu hai mươi bốn đời của Thừa tướng nhà Hán là Tào Tham. Tằng tổ của Tháo là Tào Tiết*, tự là Nguyên Vĩ, là người nhân từ khoan hậu. Có người hàng xóm làm lạc một con lợn, là cùng giống với lợn của nhà Tiết, bèn gõ cửa nhận là của mình. Tiết không tranh giành, bảo người ấy lùa về. Hai hôm sau, con lợn đi lạc tự trở về. Chủ nhân cả thẹn, đem trả về cho Tiết, lại vái lạy để nhận tội. Tiết cười rồi nhận lại, làm người khoan hầu như thế đó. Tiết sinh bốn con trai, con thứ tư tên là Đằng, tự là Quý Hưng, dưới triều Hoàn đế làm chức Trung thường thị, sau phong Phí đình hầu. Con nuôi là Tào Tung vốn là con nhà họ Hạ Hầu, chuyển sang cho Tào Đằng làm con. Do đó mà mang họ Tào. Tung là người trung hiếu, thuần nhã, làm chức Tư lệ Hiệu úy. Linh đế bái làm Đại tư nông, chuyển sang làm Đại hồng lư. Tung sinh Tháo, lúc nhỏ tên tự là A Man, có một tên là Cát Lợi. Tháo lúc còn bé thích thả chim ưng và xua chó, mê ca múa, thổi sáo, đánh đàn; khi trẻ tuổi thì cơ cảnh, lại có quyền số*, hay làm du đãng, không có chừng mực. Thúc phụ lấy làm kỳ lạ, mách với Tào Tung. Mỗi lần như thế, Tung đều lấy roi đánh Tháo. Tháo chợt nghĩ ra một kế. Một hôm, trông thấy thúc phụ đi tới, bèn giả vờ ngã lăn ra đất, mặt và miệng méo đi. Thúc phụ hoảng sợ hỏi han. Tháo nói: – Tự dưng bị trúng phong. Thúc phụ trở về bảo với Tung. Tháo len lén trở về. Tung kinh ngạc, mới hỏi rằng: – Mày bị trúng phong, đã khỏi rồi ư? Tháo nói: – Tự con không có bệnh tật gì cả. Vốn là thúc phụ không yêu mến con, nên mới nói vu như vậy thôi. Tung bèn tin lời ấy. Về sau thúc phụ có nói những lỗi lầm sai trái của Tháo, Tung đều không nghe. Do đó, Tào Tháo được mặc sức rong chơi, không lo đến sự nghiệp. Thời bấy giờ không ai cho là người lạ, duy có Kiều Huyền một lần trông thấy Tào Tháo, chỉ tay mà nói rằng: – Thiên hạ đang loạn, không phải là người có tài trùm đời thì chẳng thể cứu vãn được. Người yên được thiên hạ là ông đó chăng? Người Nam Dương là Hà Ngung gặp Tháo, nói rằng: – Nhà Hán sắp mất. Người yên thiên hạ ắt là người này đây. Người Nhữ Nam là Hứa Thiệu có danh tiếng lớn. Tháo tới gặp rồi hỏi rằng: – Ta là loại người nào đây? Thiệu không đáp. Lại hỏi, Thiệu nói: – Thầy là năng thần thời trị, gian hùng thời loạn đấy. Tháo cười rồi cảm ơn*. Năm hai mươi tuổi, Tháo được cử Hiếu liêm, làm quan Lang, bổ làm Lạc Dương Bắc bộ úy. Lúc mới đến nhận chức, ở bốn cửa của huyện đều chế hơn chục cây gậy năm màu, có người nào phạm vào lệnh cấm thì cũng không tránh né kẻ hào kiệt, đều dùng gậy để trách phạt. Linh đế đang yêu tiểu hoàng môn Kiển Thạc. Thúc phụ của y cầm dao đi đêm. Tào tuần đêm bắt được, lấy gậy trách phạt. Do đó, trong ngoài không ai dám phạm, uy danh chấn động gầm trời. Sau, được làm Đốn Khâu lệnh. Nhân lúc Khăn Vàng nổi dậy, bái Tháo làm Kỵ đô úy, dẫn năm ngàn quân bộ, kỵ, đi tới Dĩnh Xuyên trợ chiến. Gặp ngay lúc Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tào Tháo chặn đường đánh giết một trận, chém được hơn vạn cái đầu, đoạt được rất nhiều cờ xí, chiêng trống, ngựa chiến. Lương, Bảo liều chết đánh nhau mới thoát được. Tháo tới gặp Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn. Ban thưởng xong rồi, bèn sai Tháo dẫn quân truy kích. Tháo mừng mà ra đi. Đây nói Huyền Đức dẫn Quan, Trương tới Dĩnh Xuyên, nghe thấy tiếng hô chém giết, nhìn thấy ánh lửa chiếu sáng trong đêm, vội dẫn quân kéo đến thì quân giặc đã thua chạy. Huyền Đức dâng thư cho Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn, kể rõ việc của Lư Thực. Tung nói: Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, ắt đi tới chỗ Trương Giác ở Quảng Tông. Ngươi nên xuyên đêm trở về giúp đỡ, không nên trì hoãn. Huyền Đức lạy chào, dẫn quân trở về. Đang đi trên đường, bỗng gặp một đội quân, ước chừng hơn ba trăm người, đang hộ tống một cỗ xe tù, trông ra thì người ngồi trong đó là Lư Thực. Huyền Đức cả kinh, rời yên xuống ngựa, hỏi rõ nguyên do. Thực nói: – Ta vây Trương Giác, đã có thể thắng. Vì Giác dùng yêu thuật do đó mới chưa thu được toàn cuộc. Nay bề trên sai tiểu hoàng môn Tả Phong tới tra xét, đòi ta phải hối lộ. Ta cười nói: “Trong quân thiếu tiền, lấy gì cung phụng cho thiên sứ?”. Tả Phong ôm hận, trở về tâu bề trên rằng: “Giặc ở Quảng Tông hết sức dễ phá. Lư Thực đắp lũy cao mà không đánh, làm trễ nãi lòng quân, để đợi ông trời tự diệt bọn đó”. Vì thế, thánh thượng nổi giận, sai Trung lang tướng Đổng Trác thay thế, bắt ta trở về kinh sư hỏi tội đó. Trương Phi nghe xong cả giận, muốn chém bọn quân lính hộ tống, để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại, nói: – Triều đình tự có công luận. Em há được táo* bạo như thế! Quan Công cũng ngăn cản. Quân sĩ xúm lại giải Lư Thực đi mất. Quan Công nói: – Lư Trung lang tướng đã bị tước mất quân quyền, người khác lĩnh binh. Chúng ta không có chỗ đi, chi bằng trở về quận Trác. Huyền Đức nói: – Phải. Bèn dẫn quân nhắm hướng bắc mà đi. Được hai ngày, đột nhiên nghe phía sau núi nổi lên tiếng hò hét, sát khí bốc trời. Huyền Đức dẫn Quan, Trương phóng ngựa lên chỗ cao mà nhìn, thấy quân Hán thua to, ở phía sau đây núi khắp đồng, quân Khăn Vàng tràn đất kéo tới, cờ hiệu ghi chữ lớn Thiên Công tướng quân. Huyền Đức nói: – Đây chắc là Trương Giác rồi, có thể đánh gấp đi. Ba người dẫn quân, gióng trống ùa ra. Trương Giác đang lúc đánh bại Đổng Trác, thừa thể truy đuổi, chợt thấy phía sau núi có một đội người ngựa vụt xuất hiện, kẻ đi đầu là Huyền Đức, bên trái có Quan Công, bên phải có Trương Phi xông lên chém giết. Quân Giác đại loạn. Đuổi đánh đến hơn năm mươi dặm, cứu được Đổng Trác về trại. Ba người đến gặp Đổng Trác. Trác hỏi: – Hiện làm chức gì? Huyền Đức đáp rằng: – Là kẻ chân trắng. Trác rất khinh thường, không thèm ban thưởng. Huyền Đức đi ra. Trương Phi cả giận nói: – Bọn ta xông pha huyết chiến, cứu được thằng chân ngựa kia; trở lại xem người khác chẳng ra gì. Ta không giết đi, thì khó nguôi được cơn giận! Bèn cầm đao vào trong trường muốn giết Đổng Trác. Đoán thử tính mạng Đổng Trác ra sao. Hãy nghe hồi sau phân giải. """