"
Tâm Lý Học Xã Hội - C. George Boeree & Nguyễn Hồng Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Học]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Lý Học Xã Hội - C. George Boeree & Nguyễn Hồng Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Học]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tác giả: C. George Boeree, nguyên giáo sư Tâm lý học tại Đại học Shippensburg, Hoa Kỳ
Homepage: http://webspace.ship.edu/cgboer/
Biên dịch: Nguyễn Hồng Trang, 2006
Nguồn: http://www.kinhtehoc.com/
MỤC LỤC
PHẦN 1. GIỚI THIỆU VỀ TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI. 3 PHẦN HAI: SỰ NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI. 17 PHẦN BA: TỰ VỆ.. 44
PHẦN BỐN: ĐỊNH KIẾN.. 66
PHẦN NĂM: NHỮNG KỲ VỌNG XÃ HỘI. 74 PHẦN SÁU: SỰ TUÂN THỦ.. 88
PHẦN BẢY: SINH HỌC XÃ HỘI1. 107
PHẦN TÁM: KIẾN THỨC XÃ HỘI. 119
PHẦN CHÍN: KINH TẾ HỌC XÃ HỘI. 130 PHẦN MƯỜI: SỰ THUYẾT PHỤC.. 150
PHẦN 1. GIỚI THIỆU VỀ TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
SỰ TƯƠNG TÁC
Kurt Lewin (một người có ảnh hưởng quan trọng đến tâm lý học xã hội) đã từng nói "Không có gì hữu ích bằng một học thuyết hay." Và chỉ cần bạn không bao giờ để mất cái nhìn về thực tế, thì câu nói này khá đúng. Vấn đề của tâm lý học xã hội (và của tâm lý học nói chung) là không có ai đồng ý dựa trên học thuyết cả! Bởi vậy để giúp bạn tổ chức sắp sếp những quan niệm của mình, tôi đã hòa hợp các quan niệm vào trong một học thuyết "trong-khi-chờ-đợi."
Về cơ bản, học thuyết này coi trải nghiệm của con người như một vấn đề của sự tương tác giữa thế giới và cái tôi. Nói một cách đơn giản nhất, thế giới mang lại cho chúng ta những sự kiện; chúng ta biến những sự kiện này trở nên có ý nghĩa bằng cách giải thích và hành động dựa trên chúng.
Có một số chi tiết hiển nhiên ở đây: các cảm giác (do thế giới cung cấp, tác nhân kích thích), và các hành động (cung cấp cho thế giới, phản ứng lại). Đã có thời gian, các nhà tâm lý học cho rằng như thế là đủ. Nhưng bây giờ chúng ta đã hiểu biết hơn, chúng ta thêm vào hai chi tiết nữa, mà tôi gọi những chi tiết này là sự đoán trước và sự thích nghi.
Hơi khó để có thể giải thích được sự đoán trước. Chúng ta có một kiến thức nhất định về thế giới, một "mô hình" của nó. Mô hình này bao gồm tất cả mọi thứ từ những chi tiết nhỏ, chẳng hạn như bạn đi chiếc giày nào trước, đến những thứ phức tạp, chẳng hạn như bạn cảm thấy như thế nào về bản thân và về cuộc sống của mình. Chúng ta sử dụng mô hình này để tiên đoán--trông chờ, sự đoán--điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới hay trong 10 năm sau.
Nếu tôi nhắm mắt lại, tôi nghĩ rằng khi tôi mở mắt ra bạn sẽ vẫn còn ở đó, căn phòng vẫn ở nguyên đó... Nếu tất cả biến mất, tôi sẽ vô cùng ngạc nhiên.
Nếu tôi cứ tiếp tục nhắm mắt và tập trung vào việc dự tính, không tập trung vào bạn, và vào thế giới "ngoài kia", tôi có thể tưởng tượng ra bạn. Chúng
ta có thể hiểu được các hình ảnh và suy nghĩ như những sự dự đoán tạm thời tách riêng khỏi dòng sự kiện!
Chúng ta cũng có thể dự đoán trên cơ sở lâu dài hơn: Chúng ta dự đoán về việc trường đại học có thể làm và không làm gì đối với chúng ta, về tình yêu bất tử, về mặt trời mọc...
Cũng khó có thể giải thích được sự dự đoán. Đôi khi, chúng ta dự đoán không chính xác. Ví dụ, bạn nghĩ rằng bạn nhìn thấy một người bạn đang tiến lại gần mình, bạn chuẩn bị chào bạn của mình nhưng khi bạn giơ tay ra và bắt đầu mở miệng thì bạn lại nhận thấy rằng đó không phải là bạn của bạn mà là một người hoàn toàn xa lạ. (Nếu có thể, bạn chuyển cái giơ tay đó của mình thành hành động ngãi lưng, và việc mở miệng của mình thành hành động ngáp. Nếu đã quá muộn và bạn đã nói "chào bạn!", thì chỉ cần giả vờ như bạn biết họ. Điều này sẽ làm họ ngạc nhiên.)
Bất kỳ khi nào bạn mắc lỗi, bạn cần phải tìm hiểu xem, điều gì không ổn, cần phải làm gì với nó, và làm thế nào để làm cho nó có ý nghĩa. Khi bạn làm những việc này là bạn đang cải thiện khả năng hiểu biết của mình về thế giới và mối quan hệ của bạn với nó; bạn đang cải thiện "mô hình" của bạn. Đây chính là sự thích nghi. Trong ví dụ của chúng tôi, bạn có thể có một mô hình của thế giới bao gồm những người, vật rất giống ai, hay cái gì đó, những lỗi lầm gây lúng túng, và xu hướng làm tương lai chậm lại một chút trước khi trở nên quá hồ hởi với lời chào của mình. Sự thích nghi là điều cần phải học.
Việc thêm vào sự đoán trước và sự thích nghi này là rất quan trọng: Nó có nghĩa rằng những cư xử và trải nghiệm của chúng ta không chỉ là một chức năng của thực tế thông thường. Chúng ta, bản thân chúng ta, kiến thức của chúng ta về thực tế chắn chắn và thực chất là một phần của những cư xử và trải nghiệm của chúng ta. Không có "cái tôi", thực tế sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả.
Hãy nhìn vào hình vẽ trên. Một đứa bé còn ẵm ngửa có thể phản ứng với nó bằng cách lấy những quân cờ bỏ vào miệng. Một đứa trẻ con có thể coi chúng như những người tý hon hay "những ngón tay." Một người lớn không biết chơi cờ có thế nhìn chúng như những mảnh quân cờ trên một cái bàn cờ. Khi được hỏi hai quân cờ ở gần là quân gì, họ có thể trả lời
chúng là những quân cờ tháp. Người mới bắt đầu biết chơi cờ sẽ gọi chúng là quân cờ tháp, và có thể nói thêm rằng quân Hậu trắng có thể ăn quân Hậu đen (hoặc ngược lại). Họ "nhìn" các nước đi của quân cơ, luật chơi. Một người chơi cờ giỏi có thể nói rằng chỉ cần một (hay hai nước nữa) quân đen sẽ bị chiếu hết. Chẳng có câu nào sai cả; chúng đơn giản chỉ là những ý nghĩa khác nhau đối với cùng một sự việc mà thôi.
Bạn có thể hỏi: Sự việc thực sự ở đây là gì? Nhưng bạn hỏi vậy là có ý gì? "Thực sự" đối với ai? Người ta luôn nhìn sự vật và gán cho chúng ý nghĩa. Một nhà khoa học tự nhiên nhìn vào những quân cờ và chú ý đến cấu tạo hóa học của chúng, đó là họ đã gán ý nghĩa mà mình cho vào trong sự việc đấy.
Tất nhiên, hãy chú ý rằng "bàn cờ" ở đây là 6x6 chứ không phải là 8x8, không có quân vua đen, điều đó có nghĩa là ván đấu này đã kết thúc, và trên thực tế đây chỉ là hình vẽ mà thôi -- một tập những đường thẳng--và không phải là sự vật ba chiều. Tất cả những điều này nhằm nói lên rằng việc diễn giải góp phần như thế nào đối với "sự thực" ở đây.
Bởi vậy, để hiểu, dự đoán và kiểm soát những cư xử và trải nghiệm của con người, chúng ta cần phải hiểu các ý nghĩa mà họ gán cho sự vật thực tế. Đây không phải là một việc dễ dàng.
Sự Tương Tác Xã Hội
Tất cả những điều nói đến ở trên là chung chung và không mang tính đặc biệt xã hội. Trong những sự việc mà chúng ta gán nghĩa là người khác -- những sự việc rất có ý nghĩa, chúng ta thường đối xử với mọi người như chúng ta đối xử với những sự việc khác: lạm dụng chúng, không quan tâm đến chúng, coi chúng là đương nhiên... Tất cả các bạn đều cảm thấy điều này, tôi chắc chắn: bị đối xử như một sự vật chứ không phải một con người. Nhưng tôi tin rằng chúng ta thường đối xử với con người còn hơn thế: Chúng ta đối xử với họ như những sinh vật có ý nghĩa giống như bản thân chúng ta, giống như những con người. Đây là sự tương tác xã hội.
Hãy nghĩ xem điều này có ý nghĩa gì: Tôi không hoạt động một mình trong "hệ thống có ý nghĩa" của riêng mình, mà tôi hoạt động cả ở trong hệ thống của bạn, và bạn cũng hoạt động trong cả hệ thống của tôi. Để giao thiệp
được với bạn, tôi cần phải biết chút ít về suy nghĩ của bạn cũng như suy nghĩ của chính tôi. Chúng ta nhận biết được điều này khi chúng ta nói về việc "phân tích tâm lý của nhau" hay khi chúng ta nói "Tôi biết bạn đến từ đâu!"
Nếu bạn thích những định nghĩa, tôi cần phải cảnh báo với bạn rằng, các nhà tâm lý học rất ít khi đồng ý với nhau về các sự việc. Nhưng nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng tâm lý học là khoa học nghiên cứu về hành vi và trải nghiệm, thì chúng ta có thể nói rằng tâm lý học xã hội nghiên cứu về các hành vi và trải nghiệm xã hội. Nó có nghĩa là nghiên cứu về hành vi và trải nghiệm của chúng ta khi chúng ta đối diện với những người khác.
Tôi cần phải bổ sung thêm một điều nữa vào trong định nghĩa về tâm lý học xã hội, chúng ta có thể gán ý nghĩa cho thế giới, chúng ta có thể gán cho nó ý nghĩa xã hội khi nó phù hợp với chúng ta. Điều này có nghĩa là chúng ta giải quyết sự tương tác xã hội trong sự vắng mặt của người khác! Chúng ta tuân thủ đèn tín hiệu giao thông (một số chúng ta) khi đường phố vắng tanh vào lúc nửa đêm; chúng ta cười hoặc khóc với các nhân vật trong sách hay trên màn ảnh; chúng ta phản ứng với các tác phẩm của các nghệ sỹ, cho dù có nghệ sỹ đã chết hàng nghìn năm trước đây... Nói cách khác, sự tương tác xã hội bao gồm các cư xử và trải nghiệm ngụ ý hay biểu tượng có mặt của người khác, cũng như sự có mặt thực sự của họ.
Chúng ta có thể tiếp tục, bổ sung, loại trừ và sắp xếp lại các từ ngữ để tìm kiếm một định nghĩa hoàn hảo. Nhưng thay vào đó, có lẽ hãy đi tiếp và để nội dung quá trình nghiên cứu đưa ra một định nghĩa.
ẢNH HƯỞNG
Trong một chừng mực nào đấy, học thuyết của chúng ta khá lạnh lùng và máy móc.Thế các cảm giác thì sao? Đấy, chúng vẫn ở đấy, ở một mức độ nào đó, chúng có ở tất cả các hành động tương tác.
Hãy tưởng tượng: Vào lúc nửa đêm, bạn bỗng cảm thấy rất khát. Bạn dậy khỏi giường và hướng đến cái tủ lạnh. Trời rất tối, nhưng bạn thuộc căn hộ của mình như lòng bàn tay, bởi vậy bạn không bận tâm đến sáng tối. Cái bàn uống cà phê nằm ở giữa phòng và bạn có thể đoán được vị trí của nó, bạn thận trọng đi vòng qua nó. Có lẽ bạn đưa tay ra chạm vào thành bàn để
ẳ
khẳng định sự dự đoán của mình. Bạn gần như đã ở đó -- cách cái tủ lạnh khoảng hơn 2 m -- bỗng RẦM! bạn bước 1,5 m...có cái gì đó: Đây là điều không dự kiến trước!
Lúc đó bạn cảm thấy ra sao? Có lẽ là sợ hãi, ngạc nhiên, rất khiếp sợ. Cho dù có là cảm giác gì đi nữa, thì đó không phải là cảm giác thú vị gì. Hãy gọi đó là cảm giác lo lắng.
Cùng lúc đó, bạn bận rộn với việc "đưa ra các dự đoán" -- đưa ra dự đoán về bản chất thú tính, thực hiện những hành động có thể làm giảm bớt những lo sợ của bạn, vội vàng bật công tắc đèn lên. Đèn sáng ... bạn tưởng mình bắt gặp một kẻ giết người thần kinh bị cuồng tình dục...
Và trông kìa, đó là cái tủ lạnh. Bạn đã lau sạch nó lần đầu tiên trong vòng 30 năm qua, và quên không đóng cánh tủ lại. Bây giờ bạn cảm thấy thế nào?
Có lẽ bạn cảm thấy nhẹ nhõm, cảm giác dễ chịu.Bạn thở phào, có lẽ còn cười nữa. Mọi thứ có nghĩa trở lại. Cuộc sống lại trở lại đúng đường lối. Hãy gọi nó là sự vui thích.
(Hãy chú ý rằng bạn có thể vẫn cảm thấy một số cảm giác tiêu cực, cũng như cảm giác khuây khỏa ban đầu ở sau bạn -- giống như cảm giác khó chịu với sự ngu dốt của chính mình. Vấn đề đó vừa mới được giải quyết!) Một ví dụ khác: Hãy chú ý đến những người đang bước khỏi chiếc tàu dọc theo bờ biển. Hãy chú ý nụ cười băng giá của họ. Đó là cách họ nói "Vâng! Tôi vẫn còn sống!"
Hãy nói một cách chính xác hơn: Khi sự tương tác có vấn đề, chúng ta cảm thấy lo lắng. Ví dụ, (1) khi chúng ta dự đoán sai về điều gì đó -- giống như cái tủ lạnh ở trước mặt chúng ta -- chúng ta lo lắng.
Chúng ta cũng cảm thấy lo lắng khi (2) chúng ta dự đoán có nhiều hơn một khả năng cùng một lúc: những dự đoán mâu thuẫn. Ai trong số những người bạn cùng phòng với bạn thực sự là kẻ giết người? Mỗi khi bạn ở một mình với một người trong số bọn họ, bạn không biết là mình sẽ an toàn hay cần phải chạy đi thật nhanh nữa.
Và (3) chúng ta cũng cảm thấy lo lắng khi chúng ta phải đối mặt với điều không chắc chắn: con gián, hay con chuột, hay con rắn hay tiếp sau sẽ đi theo hướng nào? Có lẽ đây là căn nguyên của những nỗi sợ hãi phổ biến của những sinh vật con người.
Lo lắng có thể ở mức độ nhẹ, mức độ gây kích thích hay gây khó chịu: sút của bạn hết mực khi bạn đang ký séc ở một siêu thị địa phương.
Lo lắng cũng có thể ở mức độ căng thẳng hơn: sự thất vọng khi chiếc ô tô của bạn bị hỏng; nỗi lo lắng khi cái xe của bạn lao về phía trước một cách lảo đảo khi bạn đang lái nó trên đường quốc lộ; bực tức khi bạn phát hiện người yêu của mình ngoạm cổ gà đang sống.
Sự vui thích là cách giải quyết đối với những vấn đề gây lo lắng. Trên thực tế, chúng ta xây dựng và tạo nên sự hiểu biết của mình về thế giới khi chúng ta cảm thấy vui thích. Vui thích là một phần của cảm giác thích ứng, của kiến thức (dù bạn có tin hay không!).
Vui thích cũng có mức độ nhẹ nhàng: cảm giác thoải mái khi bạn hoàn thành trò chơi ô chữ, hay thắng trong một trò chơi hay một môn thể thao. Vui thích cũng có thể ở mức độ cao hơn: chẳng hạn như cảm giác nhẹ nhõm khi bạn nhận thấy chiếc tàu buôn đi đúng hướng; hay niềm vui của những khám phá khoa học, sáng tạo nghệ thuật hay trải nghiệm thần bí.
Chú ý rằng để giải quyết vấn đề thì đòi hỏi phải có vấn đề để giải quyết, sự vui thích phụ thuộc vào sự lo lắng.Thậm chí những thoải mái về mặt thể chất cũng hoạt động giống thế: bạn sẽ hưởng thụ nó nhiều hơn sau khi làm việc mà không có nó trong một thời gian, "nó" ở đây có thể là: thức ăn, đồ uống hay tình dục! Nếu hưởng thụ nó quá nhiều, nó sẽ không đem lại sự thỏa mãn tốt. (Chú ý rằng phản ứng của chúng ta đối với việc này thường là cố gắng làm nó nhiều hơn nữa! Do đó một số người trong chúng ta có thái độ loạn thần kinh đối với tình dục, ăn uống, đánh bạc, v.v.)
Đối mặt với một vấn đề không gây nên cảm giác lo lắng -- mà nó chính là sự lo lắng1 . Lo lắng chỉ là một cảm giác -- một mặt của tình huống. Điều tương tự cũng đúng với cảm giác vui thích. Vui thích không phải được sinh ra bởi việc giải quyết vấn đề, nó là sự giải quyết vấn đề. Lo lắng và vui
thích không khiến bạn phải tìm kiếm giải pháp; chúng không phải là "các lực tạo động cơ."
Nhưng chắc chắn rằng tình huống mà bạn cảm thấy lo lắng có thể là một nguyên nhân khiến bạn né tránh chúng trong tương lai. Hay nếu chúng là một trong những điều khiến bạn thấy thú vị, chúng có thể là một trong những điều khiến bạn tìm kiếm trong tương lai. Chính sự dự đoán về lo lắng hay yêu thích là động cơ ở đây.
Lo âu là sự dự đoán đau khổ của lo lắng. Từ kinh nghiệm của mình, bạn trông đợi tình huống trước khi bạn sẽ cảm thấy không dễ chịu. Bản thân sự trông đợi này là không dễ chịu: nó mâu thuẫn với mong muốn được hạnh phúc, thảnh thơi của cá nhân. Và bạn thường cố né tránh tình huống này.
Hy vọng là sự trông đợi thú vị của sự vui thích. Từ kinh nghiệm của mình, bạn trông đợi vấn đề trước khi nó sẽ được giải quyết, và đây là suy nghĩ hạnh phúc. Phụ thuộc vào các chi tiết, chúng ta có thể gọi điều này là sự háo hức, hay thậm chí là hăng hái, chẳng hạn như "Tôi nóng lòng mong nó bắt đầu!"
Sự lo lắng và vui vẻ "cơ bản" thường không xảy ra cùng một lúc -- vì một cái là vấn đề còn cái kia là giải pháp. Nhưng sự tiên đoán về lo lắng và vui vẻ -- đó là lo âu và hy vọng -- thường xảy ra cùng một lúc: chúng ta gọi nó là "các cảm xúc lẫn lộn."2
Lướt trên mặt nước sâu trên một tấm ván nhỏ với tốc độ 30 dặm một giờ có thể khiến bạn cảm thấy lo lắng; mặt khác lướt ván nước lại rất thú vị. Bạn cảm thấy vừa lo lắng vừa háo hức. Quyết định liệu có thử lướt ván không được đưa ra dựa trên sự cân bằng của hai cảm giác này đối với bạn. Chú ý rằng tôi nói "đối với bạn." Quyết định này mang tính rất chủ quan, nó dựa trên điều khiến bạn lo lắng và háo hức.
Sự dự đoán cũng có thể giúp chúng ta hiểu được các cảm giác khác, chẳng hạn như:
Tức giận là lo lắng với trông đợi có sự thay đổi bên ngoài. Vấn đề là "ở ngoài đó" và tức giận là sự tích tụ năng lượng cần để giải quyết nó. Hãy thử giữ đứa trẻ không cho nó bò xem, bạn sẽ thấy điều gì sẽ xảy ra.
Buồn chán là lo lắng với trông đợi có sự thay đổi bên trong. Vấn đề là "ở đây." Tôi nhận thấy rằng tôi phải thích nghi với nó. Sự sầu khổ là ví dụ rõ ràng nhất: bạn không thể kéo chúng quay lại; bạn chỉ có thể học cách sống với sự vắng mặt của nó. Nhiều trải nghiệm chính có liên quan đến cảm giác buồn chán, chẳng hạn như khi hiểu về hạn chế của chúng ta, hay những hạn chế của người chúng ta yêu.
Chú ý rằng tức giận còn có chút ít hy vọng; còn buồn chán thì khó chấp nhận hơn. Mọi người có xu hướng trở nên tức giận đối với những việc trước khi họ giải quyết nó để chấp nhận điều mà họ không thể thay đổi. Hãy nói về một số điều rất quan trọng đối với chúng ta: chúng ta chống lại những thay đổi chủ yếu trong cái tôi; nếu chúng ta có thể, chúng ta cố gắng khiến cho thế giới phù hợp với những trông đợi của chúng ta.
Đôi khi mọi người cứ khăng khăng giữ những trạng thái tình cảm đó. Một người luôn cố gắng khiến thế giới -- đặc biệt là người khác -- phù hợp với sự trông đợi của anh ta thì được gọi là người hiếu chiến, trạng thái cảm giác của anh ta là trạng thái thù địch.
Thông thường, điều mà anh ta thực sự cần làm là thay đổi bản thân anh ta, cần phải thích nghi. Nhưng vì một vài lý do -- chẳng hạn như văn hóa của anh ta -- việc nhượng bộ là điều cấm kỵ. Giống như những thoải mái về mặt thân thể, khi nó không đúng, thì chúng ta làm những việc mà chúng ta thường làm là làm thêm.
Tương tự như vậy, một người luôn cố gắng khiến bản thân mình phải phù hợp với thế giới -- đặc biệt là với sự trông đợi của người khác -- thì được gọi là người luôn phục tùng, trạng thái cảm giác của anh ta thường là trạng thái phiền muộn.Anh ta luôn cố gắng điều chỉnh bản thân mình theo người khác, và điều mà anh ta cần là cáu giận.
Trong xã hội của chúng ta, có một số khác biệt giữa nam giới và phụ nữ trong lĩnh vực này: nam giới được dạy từ thời thơ ấu rằng việc nhượng bộ là xấu; phụ nữ được dạy rằng tự phụ là xấu. Một số nam giới có xu hướng mắc kẹt vào trong những mô hình hiếu chiến, còn phụ nữ thì mắc kẹt vào trong những mô hình phục tùng. Tất nhiên không phải hoàn toàn là như vậy mà thường là như vậy. Tuy nhiên, thật là lý tưởng khi tất cả chúng ta, nam
giới cũng như phụ nữ cần phải biết "nhượng bộ" khi có lý, và "phục tùng" khi có lý!
Điều phổ biến nhất ở cả nam giới lẫn phụ nữ là sự né tránh: khi chúng ta thấy một vấn đề đang đến, chúng ta để mặc nó, cả về mặt thân thể lẫn tâm lý, cho sự lo lắng của mình và chạy mất. Bằng sự né tránh, chúng ta đang cố gắng để thoát khỏi tình huống cảm xúc và quay trở lại trạng thái thanh thản. Nhưng thật không may, nếu bạn né tránh các vấn đề và sự lo lắng của nó thì bạn cũng tránh luôn cả cảm giác vui thích của việc giải quyết vấn đề. Hãy nghĩ đến một số cách "tâm lý" thông thường mà chúng ta dùng để né tránh các vấn đề của cuộc sống: rượu, ma tuý, ti-vi. Mục đích của sự né tránh là trở nên không có ý thức hay ít nhất là không có ý thức về các vấn đề.
Ba "loại" này -- hiếu chiến, phục tùng và né tránh -- phổ biến đến nỗi một số nhà lý luận đã nêu vấn đề lên một cách độc lập (Adler, Horney, Fromm, và những người khác). Những loại này có thể thậm chí còn có cả yếu tố gien, vậy nên một số người chúng ta có xu hướng giải quyết vấn đề của mình bằng cách trở nên hiếu chiến, những người khác thì phục tùng, những người khác thì né tránh.
Một người chín chắn hơn có xu hướng gánh vác vấn đề với đôi mắt mở rộng hướng đến các giải pháp: họ đối mặt với nỗi khổ và sự lo lắng bằng hy vọng và sự say mê.
Để làm được điều này, chúng ta cần một số điều -- khả năng tập trung vào các mục đích của mình, và bỏ qua những đau đớn. Đây được gọi là sức mạnh ý chí, kỷ luật tự giác, nhu cầu đạt được mục tiêu, trì hoãn sự hài lòng. Đơn giản tôi gọi đó là ý chí. Chúng ta sẽ quay trở lại với ý tưởng này sau.
ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY
Trong phần này, chúng ta chuyển từ vấn đề mà chúng ta cảm thấy sang vấn đề chúng ta muốn. Như tôi đã nói ở trên, "cái tôi" là cái gán cho sự vật những ý nghĩa của nó. Một số triết gia và nhà tâm lý học cho rằng thứ duy nhất khiến con người (hay bất kỳ sinh vật sống nào) khác với thiết bị cơ học là con người gán cho sự vật ý nghĩa.
Chúng ta gán cho sự vật ý nghĩa bởi vì chúng ta có những mong muốn. Bởi vì có mong muốn mà một số thứ có giá trị đối với chúng ta, còn một số thứ
thì không; một số thứ có liên quan đến chúng ta, còn một số thứ thì không; và giá trị hay sự liên quan là một cách nói khác về ý nghĩa. Những nhà nghiên cứu về sự cư xử và các nhà lý luận khác, những người có hướng tiếp cận thiên về sinh vật học cho rằng những mong muốn của chúng ta chung quy lại cũng chỉ là mong muốn được sống. Do đó những nhu cầu cơ bản nhất của chúng ta là nhu cầu về thức ăn, nước uống, nghỉ ngơi, và tránh đau đớn. Những động cơ khác phức tạp hơn đều được coi là bắt nguồn từ những điều này.
Những người theo học thuyết của Frớt cũng có quan điểm tương tự, và họ cho mong muốn giống như sự thôi thúc về tình cảm. Tuy nhiên, họ tập trung nhiều hơn vào nhu cầu sống bên trên tuổi thọ của cá nhân thông qua quá trình sinh sản. Vì sự sống của tất cả các nhu cầu và bản năng trên thực tế phụ thuộc vào sự sinh sản, do vậy coi quan hệ tình dục được là mong muốn chủ chốt cũng có lý!
Những nhà nghiên cứu khoa học nhân văn sử dụng từ "sự biến thành hiện thực"3 với nghĩa "mong muốn được duy trì và đề cao cái tôi." Bởi vậy "duy trì" chắc chắn bao gồm cả sự sống, với điều kiện nó được hiểu rằng chúng ta đang nói đến sự sống của cái tôi tinh thần cũng như cái tôi thể xác. Và "đề cao" có nghĩa là chúng ta làm nhiều hơn việc chỉ cố gắng để sống.
Ví dụ, những động vật cấp "thấp hơn" phản ứng với các vấn đề và rút ra bài học từ những lỗi lầm của chúng. Nhưng những động vật cấp "cao hơn" có những mong muốn thêm nhất định -- chẳng hạn như sự ham hiểu biết -- nó khuyến khích chúng nghiên cứu về các vấn đề tiềm năng trước khi bất kỳ sai lầm nghiêm trọng nào xảy ra. Mèo con, chó con và trẻ con là những động vật nổi tiếng về loại "đề cao" này. Đôi khi sự đề cao cũng được nhắc đến như động cơ năng lực.
Những sinh vật xã hội, chẳng hạn như bản thân chúng ta, dựa dẫm lẫn nhau đối với sự "duy trì và đề cao" của chúng. Một điều mà chúng ta cần, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cuộc sống, là sự quan tâm tích cực, sự chăm sóc, yêu thương đầy ý nghĩa... Đầu tiên, đây là vấn đề liên quan đến sự sống vật chất; sau này nó là dấu hiệu cho thấy rằng chúng ta nhận được sự ủng hộ ở xung quanh mình.
Con người nhận nhu cầu này ở một mức cao hơn: bởi vì chúng ta có đời sống tinh thần ở bên trong (nhờ vào sự dự đoán...), chúng ta có thể tiếp thu cả nhu cầu mà chúng ta có đối với sự quan tâm tích cực và sự thoả mãn hay không thỏa mãn của nó. Nói cách khác, chúng ta có mong muốn và nhu cầu đối với sự vị kỷ tích cực, nó cũng được biết đến như là lòng tự trọng.
Bác sĩ chuyên khoa thấy rằng, lòng tự trọng nghèo nàn -- phức cảm tự ti -- là một trong những nguồn phổ biến nhất gây ra các vấn đề về tâm lý. Hầu hết chúng ta đều có những phức cảm này về thứ này hay thứ khác: ngoại hình, trí thông minh, sức mạnh, các kỹ năng xã hội... Thậm chí cả những kẻ hay bắt nạt, những người xinh đẹp, những người khoe khoang khoác lác -- những người có mặc cảm tự tôn -- có thể được coi giống như những người có lòng tự trọng nghèo nàn!
Tôi muốn nói rằng tất cả những động cơ này đều có thực và có liên quan đến việc nhận thức con người. Và chúng ta có thể phân biệt người này với người khác bằng động cơ của từng người: Một số người chúng ta "sống để ăn"; những người khác là kẻ "nghiện tình dục"; những người khác muốn tìm hiểu khuyết điểm; những người khác bị điều khiển bởi cái tôi...!
"Tính trì trệ"
Một khía cạnh khác của động cơ hiếm khi được thảo luận là "tính trì trệ". Nếu bạn nghĩ về nó, thì hầu như tất cả các sự việc mà chúng ta nói đến đều liên quan đến việc quay trở lại của trạng thái không được nhấn mạnh. Khi chúng ta nói về các nhu cầu tự nhiên, chẳng hạn như chúng ta nói về sự điều bình: giống như một bộ ổn nhiệt điều khiển lò sưởi, chúng ta ăn khi các chất dinh dưỡng ở trong người chúng ta thấp, chúng ta dừng không ăn nữa khi chúng ta đã có đủ chất dinh dưỡng.
Điều tương tự cũng được áp dụng đối với các hiện tượng tâm lý: khi sự hiểu biết của chúng ta về các sự việc không đầy đủ, chúng ta không thể dự đoán, chúng ta nhặt nhạnh để nâng cao hiểu biết của mình; một khi chúng ta hiểu điều gì đó, và sự dự đoán của chúng ta đúng mục tiêu, chúng ta cảm thấy thỏa mãn. Trên thực tế , dường như chúng ta sống một cách vô thức thức! Sau tất cả, chúng ta cảm thấy lo lắng khi sự việc không tốt và vui vẻ khi sự việc được cải thiện, nhưng chẳng cảm thấy thế nào khi sự việc đang tiến triển đúng hướng.
Những việc được học một cách thấu đáo là vô thức. Đối với những hành vi cư xử nhỏ, chúng ta gọi nó là thói quen. Chẳng hạn như đánh răng: điều vặt vãnh là ngày nào chúng ta cũng đánh răng theo cùng một kiểu giống nhau như thể bạn đang chơi một chương trình.
Khi chúng có liên quan đến các hành vi cư xử xã hội, ta gọi chúng là các nghi thức. Lễ đăng quang, đám cưới, đám tang, việc đứng thành hàng, lần lượt nói chuyện, nói "xin chào, bạn có khỏe không," cho dù bạn có muốn biết hay không thì tất cả những điều trên đều là ví dụ về nghi thức.
Ngoài ra còn có các cách suy nghĩ và nhận thức khác mà chúng ta biết rất rõ đến nỗi chúng ta có khuynh hướng không ý thức về chúng: thái độ, các quy tắc, định kiến, sự phòng ngự...
Chìa khóa để nhận biết thói quen và nghi thức là các hành động theo thói quen hay nghi thức không mang sắc thái tình cảm (vì thế nó là vô thức). Xin hãy nhớ kỹ rằng, những sự việc "xung quanh" thói quen hay nghi thức có thể mang sắc thái tình cảm (ví dụ như một đám ma!), nhưng những việc đã làm được làm một cách máy móc nhiều hơn -- chẳng hạn như lái xe ô tô, một khi bạn đã biết cách -- cho đến khi sự việc trở nên tồi tệ!
Khi sự việc tồi tệ xảy ra, bạn trải nghiệm cảm giác lo lắng. Hãy tiến lên phía trước, nói với người nào hỏi bạn "Bạn có khỏe không" tất cả những cảm giác của bạn! Hay đứng nhầm chỗ trong thang máy. Hay làm gián đoạn sự trôi chảy của một nhà hàng (ví dụ bằng cách lấy yêu cầu của người khác) . Điều này được gọi là Garfinkling, đặt tên sau khi Harold Garfinkle sáng tạo ra nó. Nó sẽ cho bạn thấy các quy tắc cư xử mà những quy tắc này mang tính nghi thức đến nỗi chúng ta quên mất sự tồn tại của nó.
Dù sao đi nữa thì cũng hãy duy trì mọi thứ như chúng vốn có, giữ "luật lệ và trật tự" xã hội là một động cơ có sức mạnh to lớn.Ở dạng tích cực nhất của nó thì đó chính là mong muốn yên bình và mãn nguyện của chúng ta. Ở dạng tiêu cực nhất của nó thì đó chính là sự chống đối của chúng ta đối với bất kỳ điều gì mới hay khác biệt.
Những động cơ cao hơn
Ở
Ở đầu kia của hình ảnh là cái mà chúng ta có thể gọi là những động cơ cao hơn, chẳng hạn như sự sáng tạo và lòng trắc ẩn.
Có những lúc chúng ta, ở một khoảnh khắc nào đó "đưa cái tôi của chúng ta ra ngoài", hay đặt nó theo một cách khác, đó là khi chúng ta cảm thấy một sự đồng nhất với điều gì đó lớn hơn bản thân chúng ta. Nhiều người trải qua khoảnh khắc đó khi họ lần đâu tiên đứng trên bờ Grand Canyon hay bước vào trong những thánh đường lớn ở Châu Âu lần đầu tiên. Đại dương, vệ thành, những cây tùng, những con chim ruồi, âm nhạc, thậm chí một quyển sách hay một bộ phim hay cũng có thể làm được điều này. Chúng ta có thể gọi nó là tột đỉnh, hay trải nghiệm huyền bí, thuộc tinh thần, hay đơn giản gọi nó là sự ngạc nhiên.
Điều này cũng có thể xảy ra đối với một số hành vi nhất định. Những người leo núi nói về trải nghiệm tràn đầy (xem Czentimihalyi), khi tâm trí họ hoàn toàn bị xâm chiếm với nhiệm vụ lúc đó và họ trở thành "hoà đồng với với núi". Những vũ công, diễn viên, nhạc sĩ và vận động viên cũng nói đến những trải nghiệm tương tự như vậy.
Các hoạt động mang tính sáng tạo cũng có thể mang lại cho chúng ta những cảm giác đó. Nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, nhà khoa học, người làm nghề thủ công đã nói về thời điểm mà khi đó họ bị dẫn dắt bởi sự sáng tạo của mình chứ không phải bởi các thứ khác xung quanh.
Và chúng ta cũng có cảm giác đó khi chúng ta thực sự yêu ai đó, khi họ trở nên quan trọng hơn cả bản thân chúng ta. Albert Schweitzer nói rằng chỉ có những người phụng sự mới có thể thực sự hạnh phúc. Điều này được gọi là lòng trắc ẩn.
Trong tất cả những ví dụ này, chúng ta không chỉ thấy "việc duy trì và nâng cao cái tôi" mà ta còn thấy cả sự siêu việt của cái tôi, sự đánh mất cái tôi thật ngược đời lại dẫn đến sự mở rộng cái tôi. Hầu hết các tôn giáo và các triết lý đều coi những điều này là các giá trị cao nhất của chúng.
Tự do
Có một số điều thật kỳ lạ về con người: Trong khi, nhìn từ bên ngoài, cách cư xử của chúng ta có vẻ như hoàn toàn bị quyết định bởi những sức mạnh khác nhau mà những sức mạnh này hạ gục chúng ta -- di truyền, thế giới
vật chất, các áp lực xã hội -- thì đôi khi chúng ta có vẻ có khả năng "kéo ngược lại" trong đôi lát, ra khỏi dòng chảy của các sự kiện. Chúng ta có thể tạm dừng để phản ánh sự việc. Chúng ta có thể tưởng tượng và suy nghĩ về những sự việc không hiển diện tức thì.
Ví dụ: đôi khi một phần trong chúng ta -- hãy gọi nó là phần sinh lý học di truyền của chúng ta -- muốn được quan hệ tình dục, và muốn thực hiện điều đó ngay bây giờ. Phần khác của chúng ta -- hãy gọi nó là phần giáo dục xã hội -- muốn được kính trọng, cảm thấy an toàn, đức hạnh, được yêu mến hay bất cứ thứ gì. Nếu chúng ta hoàn toàn bị quyết định bởi các sức mạnh khác nhau, thì chúng ta đơn giản sẽ đi theo sức mạnh nào lớn hơn, và cuộc sống sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng chúng ta lại có khả năng cân nhắc các sức mạnh.
Đôi khi đây là một quá trình ý thức ít-hơn-đủ. Chúng ta có thể cân nhắc hai sức mạnh tình cảm trên phương diện của sự lo lắng và háo hức tương đối. Nhưng chúng ta có thể lùi lại một chút và thêm vào đó những xem xét hợp lý nhất định, xem xét những điều chẳng hạn như ý nghĩa của tội lỗi, lợi thế của việc nắm bắt, hay liệu sự thôi thúc có biến mất nếu bạn phớt lờ nó đi không. Lo lắng về sự việc theo cách này có vẻ không được thoải mái, nhưng đây là dấu hiệu cho thấy sự tự do lựa chọn của chúng ta.
Chúng ta cũng có thể tạo nên những lựa chọn mới.Chỉ có con người mới giải quyết cả khả năng cũng như thực tại! Khi sự việc có vẻ như là vấn đề hoặc của khả năng hoặc của thực tại, thì thật đáng nguyền rủa nếu như bạn làm và cũng thật đáng nguyền rủa nếu như bạn không làm, chúng ta có thể tạm dừng, phản ánh và tạo nên sự lựa chọn thứ ba, hay thứ tư, thứ năm.
Thậm chí cả khi dường như các lựa chọn hoàn toàn vắng mặt thì tự do vẫn còn. Nhà văn, triết gia Jean-Paul Sartre, sau khi phải đối mặt với sự tra tấn của Gestapo đã khám phá ra rằng ông có thể luôn luôn nói không! Ít nhất bạn cũng có sự lựa chọn về thái độ của mình đối với sự chịu đựng của bạn, dù nó có thể khó khăn.
Tất cả điều này gây nản lòng với bất kỳ ai tìm kiếm một khoa học cứng rắn về tâm lý học xã hội. Phần lớn thời gian chúng ta bị quyết định như những viên gạch rơi. Nhưng với sự cố gắng lớn nhất của mình, chúng ta
không tuân theo "những quy tắc ứng xử con người" -- chúng ta tự tạo nên bản thân!
1 distress
2 mixed emotion
3 actualization
PHẦN HAI: SỰ NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI
CẤU TRÚC TINH THẦN1
Chúng ta có thể gọi các khối cấu trúc cơ bản của ý nghĩa là sự tương phản: chúng ta chia thế giới ra nhiều mảnh nhỏ, chúng ta chia cái này từ cái kia, chúng ta tạo nên sự phân biệt. Chúng ta có thể sử dụng nhiều tên khác nhau để gọi: xây dựng, khái niệm, tri giác, phạm trù, v.v .. tất cả chúng hơi có sự khác nhau về ý nghĩa. Tuy nhiên về cơ bản chúng đều nói đến quá trình biến một thành hai: ít hay nhiều; cái này hay cái kia; có hai loại người trên thế giới; là họ hay là chúng ta; là cái này hay cái khác; là trắng hay đen; có hay không; cái gì đi lên tất phải đi xuống.
Hầu như chúng ta chỉ sử dụng đầu này hay đầu kia của sự tương phản ở một thời gian. Những đầu này được gọi là đặc điểm hay đặc biệt khi nó được dùng để nói đến đặc điểm, tính cách của con người. Nhưng những đầu kia thường luôn ở đó, bị che dấu ở vị trí kín đáo, Bạn không thể có đầu này mà không có đầu kia -- không thể tốt mà không có xấu, lên mà không xuống, có béo mà không có gầy...
Xin hãy chú ý rằng những sự tương phản này không nhất thiết phải nói được bằng lời. Con mèo của tôi nhận biết được sự khác biệt giữa thức ăn dành cho mèo loại đắt tiền với loại rẻ tiền, nhưng nó không thể nói với bạn về điều đó; một đứa trẻ còn ẵm ngửa có thể phân biệt được ai là mẹ nó còn ai không phải; động vật hoang dã phân biệt được đâu là khu vực an toàn còn đâu là khu vực nguy hiểm... Thậm chí cả người lớn đôi khi cũng "chỉ biết" mà không nói ra -- tương phản không có ý thức, điều gì ở một người mà bạn cảm thấy thích hay không thích?
Sự tương phản không trôi nổi xung quanh một cách độc lập. Chúng có liên quan với nhau và được sắp xếp thành nhóm. Ví dụ, chúng ta có thể định nghĩa một nhóm: "Phụ nữ là người nữ giới đã trưởng thành." Hay chúng ta có thể đi một bước xa hơn và sắp xếp các vật thành các phân nhóm, những cấu trúc hình cây mà chúng ta đã gặp ở sinh vật học: Mèo Xiêm là một loại mèo, nó thuộc loại động vật ăn thịt, nó thuộc loại động vật có vú, và là thuộc loại động vật có xương sống.
Hay chúng ta có thể sắp xếp sự tương phản vào trong các cấu trúc có tính thời gian, chẳng hạn như các quy tắc. Chúng được gọi là giản đồ hay kịch bản. Bạn có thể tìm thấy các ví dụ rõ ràng trong các quyển sách viết về các trò chơi bài, quy ước mặc nhận, hay sách ngữ pháp; nhưng bạn lại biết rất ít về các hệ thống quy tắc của bản thân, thậm chí chúng mang tính máy móc đến nỗi bạn không ý thức được chúng!
Không phải tất cả các tổ chức của sự tương phản đều được cấu trúc một cách chặt chẽ. Chúng ta có thể miêu tả: "Phụ nữ rất tinh tế." Ví dụ này cho thấy sự miêu tả có thể đối ngược với định nghĩa, và nó không nhất thiết đúng! Niềm tin cũng tương tự như vậy, nó được tổ chức lỏng lẻo hơn các sự phân loại. Trong khi các loài chim được định nghĩa là động vật có xương sống và có lông thì niềm tin của tôi lại cho rằng tất cả chúng đều bay được...có thể tôi đã sai! Khuôn mẫu là ví dụ của đức tin, quan niệm cũng vậy. Nhưng có một số niềm tin có cơ sở rất rõ ràng nên chúng ta có thể xem chúng như định nghĩa.
Ngoài ra còn có cả sự kể chuyện - những câu chuyện mà chúng ta có ở trong đầu. Giống như các nguyên tắc, chúng mang tính thời gian nhưng chúng lại linh hoạt một cách đáng ngạc nhiên. Chúng có thể là vấn đề liên quan đến trải nghiệm ghi nhớ cá nhân hay các bài học lịch sử được ghi nhớ hay chỉ thuần tuý là những câu chuyện tưởng tượng. Tôi ngờ rằng những điều này có đóng góp lớn đến khả năng nhận dạng của chúng ta, động vật không thể có được khả năng đó ở cấp độ mà chúng ta có.
Sự phát sinh
Một điều thú vị mà chúng ta có thể làm với sự tương phản và các đặc điểm có thể nói bằng lời là miêu tả một người với người khác - - có nghĩa là đưa ra một danh sách các đặc tính. Sau đó chúng ta có thể bắt đầu giao thiệp với họ một cách mang tính xã hội trước khi chúng ta thực sự gặp họ. Trên thực tế, họ có thể còn sống lâu, do đó chúng ta có cơ hội để hiểu thêm đôi điều về họ. Mỗi từ hay cụm từ mà chúng ta đưa ra hay nghe thấy đều thu hẹp thêm chút phạm vi trông đợi có thể. Anh ta là đàn ông? Vậy thì sao. Anh ta là đàn ông, khoảng 40 tuổi, mập mạp, là giảng viên khoa tâm lý... Ồ, tôi biết bạn nói đến ai rồi. Càng nhiều thông tin được đưa ra, thì sự dự đoán càng chính xác hơn.
Trong ngôn ngữ học, người ta nói ngôn ngữ có khả năng sinh ra. Điều đó có nghĩa rằng, với số lượng không nhiều các từ và một số lượng không lớn các quy tắc ngữ pháp, bạn có thể tạo ra (sinh ra) vô số những câu có
nghĩa. Sự sinh sôi này cũng là đặc điểm của tất cả hoạt động của con người. Điều này có nghĩa là việc bạn có thể kể ra bao nhiêu sự tương phản về vị giảng viên mập mạp hay về cái gì đi nữa thì cũng có vô số những đặc tính hay hành vi có thể mà một vị giảng viên 40 tuổi có thể tạo ra. Nói cách khác, vị giảng viên đó vẫn có thể làm bạn ngạc nhiên.
Vì chúng ta đang "xây dựng" để thử dự đoán về ông ta, vậy nên hãy thử thêm một điều nữa: Chúng ta thử dự đoán người khác bằng cách đặt bản thân chúng ta vào sự dự đoán của mình. Chúng ta giả sử rằng họ sẽ làm điều mà chúng ta làm nếu như chúng ta ở trong hoàn cảnh của họ và ở trong cùng một chuồng chim bồ câu mà chúng ta đặt họ vào đó. Tôi gọi điều này là "sự giả định thấu hiểu đồng cảm."
Con người dường như có xu hướng lớn trong việc giả định như vậy. Chúng ta thường làm điều này khi chúng ta đang cố dự đoán về các thứ và các động vật không phải là con người. Chúng ta có xu hướng theo thuyết hình người khi dự đoán về các con vật, ví dụ: tôi có xu hướng xem con mèo của mình có sức hấp, xảo quyệt, thậm chí có hình thái bệnh xã hội trong khi trên thực tế nó chẳng có chút chỉ số thông mình dù chỉ to bằng hạt đậu nào. Chúng ta thậm chí còn gán "linh hồn" cho cả những vật vô tri vô giác, điều này được gọi là thuyết duy linh. Bởi thế tổ tiên của chúng ta đã cố gắng làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ của những ngọn núi lửa, hay cám ơn sự hào phóng của tạo hóa...
Khi tất cả những sự dự đoán khác thất bại, chúng ta trông đợi người khác cũng giống mình.
Sự tương tác của các đặc tính
Một số điều ở trên khiến con người giống như người máy tính -- tất cả đều theo trật tự và rõ ràng. Tuy nhiên, dù tốt hơn hay xấu đi thì cũng chẳng có gì là rất rõ ràng trong việc sử dụng các đặc tính của chúng ta. Ý nghĩa của đặc tính có thể biến đổi chút ít, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh mà chúng và chúng ta ở trong. Ví dụ các đặc tính thay đổi khi có sự hiển diện của các đặc tính khác.
Nghiên cứu ban đầu về vấn đề này có đưa ra một danh sách các tính từ chỉ tính cách của con người, nghe cứ như thể chúng ta đang miêu tả một cuộc gặp gỡ giữa hai người khác phái mà trước đó họ chưa hề quen nhau: "Anh ấy rất "đáng yêu", có nhân cách tốt, làm việc ở một trung tâm buôn bán lớn, lái một cái xe xịn ..."
Ví dụ, hãy thử hình dung về người này:
Lạnh lùng, đẹp trai, thông minh, quan tâm.
So sánh sự hình dung của bạn với người này:
Nồng ấm, đẹp trai, thông minh, quan tâm.
Nếu tôi hỏi bạn chi tiết hơn, bạn có thể có một số suy nghĩ giống tôi: Số một là nhà vật lý, trông hơi giống James Bond, và là người quan tâm đến vấn đề chất thải hạt nhân; Số hai là nhà tâm lý học, là người đáng yêu, quan tâm đến hạnh phúc về mặt tình cảm của trẻ nhỏ.
Có một số đặc tính -- được gọi là những đặc tính trọng tâm -- "nặng hơn" những đặc tính khác, nó chịu trách nhiệm đối với sự thay đổi ở những đặc tính khác, trong khi nó vẫn có xu hướng giữ cho mình còn nguyên không bị thay đổi. Nồng ấm - lạnh lùng là một ví dụ. Hay hãy thử hình dung về người này:
Tráng kiện, dẻo dai, lạnh lùng, lực lưỡng, và ....là phụ nữ. Điều gì đã xảy ra vậy? Tất cả chúng ta đều biết những phụ nữ tráng kiện, dẻo dai, lạnh lùng, lực lưỡng; nhưng nam giới-phụ nữ có sự tương phản rất lớn và có ảnh hưởng lớn đến cách hiểu của chúng về những đặc tính khác.
Và cũng có vẻ như đặc tính đầu tiên mà chúng ta được nghe có ảnh hưởng lớn nhất. Hãy xem ví dụ sau:
Nổi tiếng, thân thiện, nồng ấm và xấu xí.
Và so sánh với ví dụ này:
Xấu xí, nồng ấm, thân thiện, nổi tiếng.
Ở ví dụ thứ hai, bạn dễ dàng hơn trong việc thích ứng những từ theo sau với từ đầu tiên (xấu xí), trong khi đó ở ví dụ thứ nhất, khuôn mẫu của bạn khiến bạn hình dung đến một người khá hấp dẫn.
Chú ý rằng, những điều này không xảy ra khi chúng ta miêu tả ai đó với một danh sách các tính từ chỉ đặc tính. Chúng xảy ra khi chúng ta lắp ráp những ấn tượng của mình về một người thật đang đứng ngay trước mặt chúng ta! Và ví dụ cuối cùng của chúng ta cũng cho thấy cách mà "các ấn tượng đầu tiên" hình thành. Thật vậy, ấn tượng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn.
Hãy đặt ấn tượng đầu tiên cùng với sự tương phản lớn nhất -- tốt-xấu -- và bạn có cái được gọi là hiệu ứng vầng hào quang2 : Nếu chúng ta vội vã đánh giá một người là tốt thì mọi thứ sau này sẽ được nhìn với một "vầng hào quang" ở xung quanh nó ... người này có thể không bao giờ làm sai! Nếu chúng ta nhìn một người là xấu, thì vầng hào quanh trở thành cái
sừng, móng guốc, và đuôi con vật, thậm chí những đặc tính tích cực cũng được diễn giải mang tính tiêu cực!
Sự suy đoán
Như tôi đã nói ở trên, sự tương phản không phải không được sắp xếp mà chúng có được tổ chức ở một cấp độ nào đấy. Điều này có nghĩa là từ một đặc điểm này chúng ta có thể suy ra đặc điểm khác. Thông thường, chúng ta đi từ một đặc điểm khá rõ ràng suy ra đặc điểm "trừu tượng", bị che dấu hay không chắc chắn hơn. Ví dụ, khi bạn nhìn thấy một người mặc trên mình bộ quần áo như ở trong phòng thí nghiệm, trên cổ cô ta đeo một cái ống nghe và có một giấy chứng chỉ treo ở trên tường, bạn có thể cho rằng người đó là một bác sĩ. Hay nếu bạn nhìn thấy ai đó đang cư xử rất thô lỗ với người khác, bạn có thể suy ra rằng cô ta là người rất khó chịu, có nghĩa là đặc tính bên trong cô ta sẽ khiến cô ta thô lỗ ở trong những tình huống khác và nó có thể cũng liên quan đến các hành vi cư xử khác.
Chú ý rằng một số sự suy diễn của chúng ta còn quan trọng hơn cả định nghĩa, và những cái khác còn quan trọng hơn cả đức tin. Ví dụ những chứng chỉ đại học nhất định nào đó là có tính quyết định đối với việc người đó là bác sĩ hay không phải là bác sĩ; cách ăn mặc hay những cái khác có thể là quan trọng nhưng nó không mang tính quyết định.
Có một số cơ sở khác nhau đối với những suy diễn mà chúng ta đưa ra: (1) Một nụ cười thường được hiểu một cách chính xác là dấu hiệu của hạnh phúc bởi vì cười là một phần sinh vật của chúng ta. Không có nền văn hóa nào trên thế giới lại không hiểu nụ cười, cho dù có sự hiểu sai hay lạm dụng nụ cười.
(2) Trong nền văn hóa Mỹ của chúng ta "ngón tay giữa" là dấu hiệu của sự coi thường, bởi vì nó là một phần trong hệ thống giao tiếp văn hóa của chúng ta. Ngôn ngữ, cử chỉ, trang phục, nghi thức xã hội, nghề nghiệp, ngôn ngữ, cơ thể chính là văn hóa.
(3) Trong nền văn hóa của chúng ta, phụ nữ, theo truyền thống được coi là những người có khả năng cơ khí yếu kém. Tất nhiên, giả định như vậy dẫn việc cha mẹ không khuyến khích việc phát triển khả năng cơ học của con gái: nghĩ đến việc đó làm chi? Bởi vậy suy diễn là việc dự đoán sự hoàn thành ước nguyện của chính mình. Sự trông đợi tạo nên chính bản thân nó!
(4) Cuối cùng, nhiều sự suy diễn không thực sự đem lại kết quả. Chúng được tồn tại mãi bởi vì chúng ta thường bỏ qua hay phủ nhận các mâu
thuẫn -- có lẽ chúng đang đe dọa chúng ta -- hay bởi vì sự mâu thuẫn đơn giản không xuất hiện rõ ràng, như khi chúng ta có ít sự tiếp xúc với một số người. Chúng ta có thể gọi chúng là sự suy diễn mê tín.
SUY DIỄN DỰA TRÊN NGOẠI HÌNH
Có thể suy diễn đơn giản nhất mà chúng ta có thể đưa ra là suy diễn bắt đầu từ ngoại hình của người đứng trước chúng ta. Như các bạn thấy, ở đấy đúng là có sự mê tín, nhưng cũng có một số suy đoán bắt nguồn từ sinh vật học.
Nét mặt biểu lộ cảm xúc
Đầu tiên, chúng ta có xu hướng suy diễn về cảm xúc dựa trên nét mặt. Charles Darwin cho rằng động vật cũng như con người đều thể hiện tình cảm thông qua nét mặt, và một số nét mặt nhất định dường như biểu lộ các trạng thái cảm xúc đúng với con người trên khắp thế giới: nụ cười là dấu hiệu của hạnh phúc và sự nồng ấm dành cho người khác; khóc là biểu hiện của nỗi buồn, nhăn mặt cùng với lông mày hạ xuống là dấu hiệu cho thấy sự tức giận.
Cũng như vậy, cười thành tiếng được sử dụng khắp trên thế giới, nhưng nó là cách thể hiện phức tạp hơn. Nó có thể biểu thị hạnh phúc, nhưng nếu ai đó chào bạn bằng cách cười thành tiếng, bạn sẽ cảm thấy buồn cười -- cười thành tiếng có thể mang tính thù địch khi chúng ta nhạo báng sự không may mắn của người khác. Nói cách khác, cười thành tiếng phản ánh sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các cá nhân và sự giải tỏa căng thẳng, chẳng hạn như khi chúng ta kết luận rằng chúng ta không sợ người nào đó (đó là anh hề!) chút nào hết.
Các nhà nhân chủng học3 nói rằng những biểu hiện này cũng như những biểu hiện khác của cảm xúc thậm chí hiện hữu trong các nền văn hóa không có tiếp xúc với xu hướng chính của nền văn hóa thế giới.4
Không chỉ có sự biểu hiện mà cả những suy đoán chúng ta đưa ra từ những biểu hiện cũng có thể được xây dựng từ bên trong. Hãy để ý xem chúng ta cười nhu thế nào khi người khác cười, hay khi người khác khóc. Thậm chí cả những đứa trẻ cũng làm như thế! Điều này được gọi là "sự lây lan xã hội"5 và nó có thể giải thích một số hành vi cư xử đáng sợ của đám đông.
Nhưng cũng cần chú ý rằng một số biểu hiện là hạn chế văn hóa, chẳng hạn như việc nháy một bên mắt (trong nền văn hóa của chúng ta nó thể hiện
sự giễu cợt thích thú) hay lấy lưỡi đẩy má (thể hiện sự quan tâm đến tình dục ở Châu Mỹ La Tinh).6
Và hơn nữa, chúng ta có thể sử dụng cả các biểu hiện tự nhiên. Tất cả những nền văn hóa của Châu Âu sử dụng những biểu hiện của nét mặt một cách có chủ tâm và theo kiểu cách phóng đại. Những nền văn hóa khác, đặc biệt là Nhật Bản, sự biểu lộ cảm xúc thường bị đè nén, và họ sử dụng các khuôn mẫu có sẵn. Chỉ có một số ít nền văn hóa, chẳng hạn như nền văn hóa của người Nam Dương (Polynesians), thì cảm xúc mới được bộc lộ một cách trực tiếp và trung thực.
Tất nhiên, dù cuối cùng cảm giác tự nhiên hay sự thích nghi văn hoá của bạn có như thế nào đi nữa thì bạn vẫn có thể dùng nét mặt để nói dối. Cần phải có sự quan sát tinh tường mới có thể phát hiện được sự khác biệt giữa cảm xúc được đóng kịch với cảm xúc thật!
Cấu trúc khuôn mặt
Có lẽ chính cơ sở sinh học của nét mặt dẫn chúng ta đến việc đưa ra các suy đoán dựa trên cấu trúc khuôn mặt. Người có cái đầu hình khối là người trung thực nhưng đần độn, một cái cằm nhỏ có nghĩa là nhân cách yếu, lông mày cao có nghĩa là rất thông minh, lông mày thấp có nghĩa là người thô tục hay có sở thích tầm thường, đôi mắt sáng có nghĩa là gian xảo, khuôn mặt gọn là người cầu kỳ ...
Hầu hết những điều này đều là mê tín hay thậm chí là niềm tin mù quáng: một số bắt nguồn từ các đặc trưng được cho là của những nhóm dân tộc nhất định và những đặc điểm được cho là giống những động vật nhất định (chẳng hạn người Anh rập khuôn người Ai Len -- tất cả họ trông giống như yêu tinh, bây giờ vẫn thế?) Một số -- ví dụ khuôn mặt gọn hay nụ cười đẹp -- là kết quả của việc thường xuyên thể hiện sự ghê tởm hay tính hòa đồng. Hãy cẩn thận khi thể hiện nét mặt của bạn: nó có thể sẽ giữ mãi trạng thái như thế!
Cơ thể
Nếu khuôn mặt của bạn có thể nói lên một số điều về bạn, thì tại sao cơ thể của bạn lại không? William Sheldon thậm chí còn xây dựng một học thuyết (cùng với một số nghiên cứu hỗ trợ) cho rằng các dạng cơ thể khác nhau có mối liên hệ với các dạng tính cách khác nhau: người gầy (người ốm yếu gầy còm) là người dễ bị kích thích thần kinh (cerebrotonic), những người vạm vỡ (người có cơ bắp nổi cuồn cuộn) là người hầu (somatotonic), và những người béo là những người vui vẻ (viscerotonic).
Sheldon kiên định cho rằng rõ ràng có sự liên quan về mặt sinh vật học (hay, nói chính xác hơn là phôi học)
Nhưng đây cũng là vấn đề liên quan đến việc dự đoán sự hoàn thành ước nguyện của bản thân. Một cậu bé có vai rộng bị thúc giục phải trở thành cầu thủ bóng đá bởi ông bố quá sốt sắng của mình, hay cô bé mũm mĩm cô đơn tự cười mình để kết bạn.
Quần áo
Thật may mắn, chúng ta che đậy cơ thể mình bằng quần áo. (Tôi đã từng không mặc gì trên bãi biển, nhưng đó không phải là cảnh tượng đẹp!). Và quần áo cũng cho chúng ta một cơ hội khác để suy luận về con người. Rõ ràng là ở đây không hề liên quan gì đến yếu tố sinh học. Đầu tiên, quần áo mang lại cơ hội lớn để giao tiếp với bản thân, cả về mặt ý thức lẫn vô thức. Nó là cách để thể hiện bản thân.
Đôi khi, sự giao tiếp này được thể hiện trực tiếp, bạn có thể mặc chiêc áo sơ mi có in trên đó một khẩu hiệu chính trị hay in hình một ban nhạc yêu thích, ví dụ như in hình chữ thập, hay một ngôi sao của David, hay hình âm dương, hay biểu tượng hòa bình.
Nhưng nhìn chung, để giao tiếp, chúng ta cần dựa vào khuôn mẫu văn hóa của mình. Nếu không thì làm sao người khác có thể biết bạn đang cố gắng đưa ra lời tuyên bố gì? Đây là một ví dụ khác về hiệu quả của ngữ cảnh đối với sự nhận thức của một người.
Ví dụ, nếu một người ăn mặc cẩu thả, nhếch nhác (so sánh với chuẩn mực xã hội của bạn), thì điều đó có thể cho mọi người trong một nền văn hóa thấy rằng đó là kẻ lười biếng. Trong một nền văn hóa khác, việc ăn mặc như thế có thể nói lên rằng người đó quan tâm đến những thứ cao hơn. Trong nền văn hóa thứ ba, việc ăn mặc như vậy có thể cho thấy, người đó là một người thoải mái và phong lưu. Ở nền văn hóa thứ tư, điều đó có nghĩa rằng bạn là người mất lịch sự...
Trong một nền văn hóa, ăn mặc cẩu thả có thể có nghĩa là tốt ở một cuộc liên hoan gia đình ngoài trời, nhưng ăn mặc như thế lại là xấu khi tham dự đám tang của ông bác Joe.
Một điều lạ là: nếu bạn ăn mặc "theo quy ước" (ở bất kỳ nơi nào và vào bất kỳ lúc nào bạn có mặt) thì mọi người sẽ tin tưởng bạn hơn! Sự lệch lạc trong cách ăn mặc cũng ám chỉ sự lệch lạc trong các vấn đề khác.
Trên thực tế, bạn không cần phải chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Bạn có thể ở nguyên một chỗ và đợi vài năm nữa: thời trang Ở
sẽ thay đổi. Ở thập niên 50, môi son có nghĩa là người theo chủ nghĩa tự do; ở thập niên 60, nó có nghĩa là người theo đảng bảo thủ. Ngày nay thì ... tôi không biết. Sử dụng kính có nghĩa là người đó thông minh, đáng tin cậy, chăm chỉ (thường thì ai hay đọc sách mới dẫn đến khuôn mẫu này!); ngày nay, với sự sẵn có của kính áp tròng thì kính gọng đơn giản chỉ là sự lựa chọn.
Lại cũng cần chú ý rằng chúng ta có thể dùng trang phục để nói dối, thậm chí sử dụng trang phục nói dối còn dễ dàng hơn việc dùng nét mặt.7 Ví dụ chúng ta có thể "ăn mặc để thể hiện sự thành công," hay ít nhất cho một cuộc phỏng vấn.
Xin chú ý rằng những sự suy luận này không nhất thiết phải đi từ cái rõ ràng đến những điều ít được trông thấy -- chúng ta có thể làm ngược lại. Ví dụ, một người thủ thư viện trông sẽ như thế nào? Hãy tha thứ cho khuôn mẫu của tôi nhưng tôi hình dung đó là một người phụ nữ (cho dù tôi đã từng gặp nhiều thủ thư viện là nam giới), hơi già một chút, mặc một bộ véc thủ cựu (vải tuýt, trơn), đi tất màu tối, đi đôi giày chắc bền, tóc búi đằng sau, và đeo một cặp kính có dây nhỏ màu vàng. Tôi thấy xấu hổ về bản thân nhưng đó là thực tế của dự đoán sự hoàn thành ước nguyện xuất hiện ở đây: ai đó muốn trở thành một thủ thư viện, để phân biệt với người khác, có thể có xu hướng ăn mặc theo khuôn mẫu này.
Tính hấp dẫn
Hiệu quả lớn nhất của khuôn mặt và hình thể là tính hấp dẫn của chúng. Chúng ta có xu hướng xem những người xinh đẹp là những người đáng yêu hơn, thông minh hơn và thậm chí có đạo đức hơn -- chúng ta thích họ hơn. Điều này đã được đưa vào nghiên cứu: ví dụ, các nhà tâm lý học thấy rằng các giáo viên thích và trông đợi nhiều ở những đứa trẻ xinh xắn hơn những đứa trẻ không xinh xắn. Họ thậm chí còn đưa ra những lời biện hộ giúp những đứa trẻ xinh xắn khi chúng không đạt đến mức trông đợi của họ.
Tôi cũng lưu ý với bạn rằng nếu bạn biết một người trong thời gian càng lâu thì tầm quan trọng của sự hấp dẫn của họ đối với bạn càng giảm. Và cũng cần chú ý rằng có một số ngoại lệ trong những quy tắc khi chúng ta đưa ra suy đoán dựa vào sự hấp dẫn -- chú ý đến kiểu mẫu "tóc vàng hoe". Và cuối cùng đừng quên rằng vẻ đẹp nằm trong con mắt của kẻ đang yêu -- đánh giá này mang tính chủ quan (trừ các cuộc thi sắc đẹp) và nó không thể đo đếm được!
Giọng nói
Cùng với ngoại hình, chúng ta có thể đề cập đến cả giọng nói. Chúng ta có thể đưa ra một vài suy đoán dựa trên giọng nói của bạn, và nó cũng không phải không chính xác. Ví dụ, căn cứ vào giọng nói chúng ta có thể suy luận ra tầng lớp xã hội. Lấy ví dụ, ở Anh, chúng ta có thể dễ dàng phân biệt phương ngữ của tầng lớp thượng lưu ở Brideshead Revisited với phương ngữ của tầng lớp hạ lưu ở Upstairs Downstairs.
Điều này không chỉ có mỗi ở Anh, Ví dụ ở Long Island, bạn có thể nghe thấy một loạt các phương ngữ từ "Long Island Lockjaw," được đặt tên theo cách mà người nói cứ giữ hai hàm răng lại với nhau khi nói, đến phương ngữ của tầng lớp lao động, rất nổi tiếng với kiểu nói "Jeet yet?" và "Watcha doon?" ("What are you doing" - "Bạn đang làm gì?")
Chúng ta cũng có thể đoán nguồn gốc của một người nhờ giọng nói của họ. Ví dụ người Úc ("Ozzies"), nghiến răng khi họ nói "Strilian" và chúc bạn "G'die mite." ("Good night" - "Chúc ngủ ngon"). Tương tự như vậy chúng ta cũng có thể phân biệt người Mỹ với người Anh, người Scốt-len với người Anh, và người Liverpool với người London. Chúng ta thậm chí còn có thể phân biệt được người này ở vùng nào của London. Chẳng hạn chỉ có người "Cockney" London mới nói "vewwy li'oo" thay vì nói "very little." ("rất ít").8
Chỉ riêng việc phát âm chữ r thôi cũng nói được rất nhiều điều: Nếu phát ngôn viên Mỹ phát âm "fire" ("lửa") với chữ r nhẹ, thì người vùng trung Pennsylvanian nói "fiyur," với chữ r nặng, và người vùng Oklahoman nói "fahrr," người New York nói "fiyuh," và người Anh dòng dõi quý tộc nói "faah." Ở Massachusetts, chữ r thay đổi khi có chữ a đứng trước: "a nice caah." ("a nice car" - "một chiếc xe đẹp"). Và người đảo Rhode thường bỏ hầu hết các chữ r khi phát âm "thwee nice caahs." ("three nice cars." - "Ba cái xe đẹp").
Từ ngữ cũng có thể khác nhau ở các phương ngữ khác nhau. Một ví dụ về sự khác nhau này là số nhiều ở ngôi thứ hai: khi muốn nói "các bạn" nhiều người Mỹ nói "you guys." Người New York thường nói "youse" và thậm chí là "youse guys." Người miền Nam nói "you-all" hay "y'all." Và ở Appalachia họ nói "you-uns."
Ở Pennsylvania, bạn có thể thực hành cách phân biệt xem ai đến từ hạt nào bằng một số câu cơ bản: Nếu bạn đến từ vùng Lancaster (được phát âm là Lancster), bạn có thể nói "the lawn needs mowed," ("cỏ cần được
cắt") "the peanut butter is all," ("chỉ có bơ lạc") hay "outen the light." ("đèn ở ngoài"). Mặt khác nếu bạn đến từ Huntingdon, bạn có thể nói "leave him go" ("để anh ta đi") hay "I left the dog out," ("Tôi để con chó ở ngoài") hay "you-uns comin'?" ("Mời tất cả mọi người vào") hay thậm chí "thar she be! Thar be yer woman!" ("Đó là cô ta! Đúng là một phụ nữ!").
Nói chung, phương ngữ ở thành phố thường có cách phát âm yếu, thoáng, nhanh và to. Còn phương ngữ ở nông thôn thường chậm và kéo dài. Phương ngữ của tầng lớp thượng lưu thường chọn lọc hơn, chính xác hơn, rõ ràng và nhanh hơn. Thật đáng ngạc nhiên, điều này cũng đúng với các nền văn hóa khác nhau.
Một số phương ngữ còn có cách phát âm khác nhau dành cho nam giới và phụ nữ Tiếng Nhật nổi tiếng về điều này, trong tiếng Nhật không chỉ cách phát âm khác nhau, cấu trúc ngữ pháp khác nhau, mà thậm chí cả từ dành cho từng giới cũng khác nhau. Nhưng không chỉ có tiếng Nhật mới như vậy: Bạn đã bao giờ để ý thấy một số từ nhất định (những từ ngữ mang tính thô tục, tục tĩu) thường được nam giới sử dụng nhiều hơn phụ nữ? Hay phụ nữ có xu hướng nói vòng vo hơn, ít đối đầu, và kiểu cách hơn nam giới? Và ở Oklahoma ngữ âm thậm chí còn có sự khác biệt: Nam giới phát âm "thenk yuh," ("thank you" - "Cám ơn") trong khi phụ nữ phát âm "think yuu."
Chúng ta còn có thể suy đoán được cảm xúc, đặc biệt là sự lo lắng một cách khá chính xác, căn cứ vào âm vực của giọng nói, khoảng trống ngắt quãng mà bạn sử dụng (umm, and uh, you know...), việc nói lắp bắp... Khi âm vực giọng nói của bạn bắt đầu tăng lên thì tôi cá là bạn đang nói dối! Một người nói to thường là người hướng ngoại, còn một người trầm lặng thường là người hướng nội.
Cuối cùng, có một số suy đoán kiểu mẫu thường được điện ảnh và các loại hình tương tự như điện ảnh sử dụng: Một giọng nói có âm vực cao thường ám chỉ người nói là người nhỏ nhắn (cũng có lý) và là người tốt (xin chào, Minnie, heh heh!); một giọng nói có âm vực thấp ám chỉ bạn là người to lớn (điều này thường đúng) và là người xấu (TAO là cha mày đây!)...
SUY ĐOÁN DỰA VÀO HÀNH ĐỘNG
Mặc dù nét mặt thường được cho là điều thoảng qua, ngắn ngủi, là điều bạn có thể lưu giữ trong một bức ảnh nhưng trên thực tế nó cần có thời gian để hoàn thành. Nghiên cứu chỉ ra rằng chúng ta không giỏi trong việc
giải đoán nét mặt, chúng ta thường bỏ qua sự kiện, chỉ sử dụng những bức ảnh tĩnh của con người. Bạn nên hiểu rằng, tất cả mọi thứ trong tâm lý học xã hội đều liên quan đến bối cảnh, bao gồm cả bối cảnh của những hành động hoàn thành.
Dưới đây là một vài suy đoán chúng tôi đưa ra căn cứ trên các hành động.
Cử chỉ
Có lẽ hành động rõ ràng nhất là các cử chỉ, trong tâm lý học xã hội nó thường được gọi là biểu tượng. Phần lớn chúng là các phương tiện văn hóa dùng để trao đổi giao tiếp theo cách giống như lời nói vẫn làm.
Đơn giản nhất là các cử động có mục đích, đó là sự khởi đầu của hành động đại diện cho toàn bộ sự việc.
Có rất nhiều ví dụ cho thấy điều này: Khi chúng ta chào ai đó với cánh tay duỗi ra, đó là dấu hiệu cho thấy rằng chúng ta muốn ôm và có thể đó là cử chỉ cho thấy sự dễ chịu. Nếu chúng ta chào ai đó với bàn tay nắm chặt lại, điều này có thể mang ý nghĩa khác. Nếu chúng ta đặt bàn tay hay cánh tay để lên trên đầu, điều đó cho thấy sự tự bảo vệ, và nó cũng có thể được sử dụng để nói rằng bạn đã no, không thể ăn thêm được nữa.
Hành động có chủ ý được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới là sự chỉ trỏ. Chỉ trở bắt nguồn từ hành động muốn lấy cái gì đó. Hãy nhớ rằng ở một số nền văn hóa, người ta dùng cả bàn tau để chỉ trỏ. Một số nền văn hóa khác người ta có thể dùng cằm hay thậm chí dùng lưỡi để chỉ trỏ.
Trong khi một số hành động, chẳng hạn như chỉ trỏ được dùng phổ biến trên thế giới, thì có nhiều hành động nhất định chỉ được dùng đối với từng nền văn hóa chẳng hạn như đặt một tay lên má cho thấy sự buồn chán hay úp hai tay vào nhau rồi để dưới má ám chỉ đến việc cần được ngủ.
Hầu hết các cử chỉ có vẻ tuỳ ý, giống như lời nói. Nếu "bow-wow" là điều nhạy cảm dùng để gọi chó thì từ "chó" lại mang tính truyền thống. Một ví dụ hay về cử chỉ tuỳ ý là hành động "giơ ngón tay cái lên", hành động này biểu thị sự tán đồng, nó được bắt nguồn từ người La Mã cổ đại.
Ngoài ra còn có một số cử chỉ khác cũng biểu thị sự tán đồng: Trong tất cả các nền văn hóa, hành động vỗ tay, bật ngón tay, và dậm chân được sử dụng như là sự tán thưởng. Một cử chỉ nổi tiếng của người Châu Âu thể hiện sự tán thành là "nắm tay," khi đó tất cả các ngón tay của một bàn tay chụm vào và chỉ lên trên. Một số người nói, cử chỉ này bắt nguồn từ hành động cảm thấy vật chất ở chợ vì chất lượng của nó. Cử chỉ này cũng được
sử dụng để chỉ thứ gì đó rất tốt, nhỏ hay chính xác, và nó cũng có thể được sử dụng để nói "hãy lắng nghe tôi, đây thực sự là điều mà tôi muốn nói." Chúng ta có thể hôn đầu ngón tay và nói "thật tuyệt diệu!" Hay chúng ta có thể chạm đầu ngón trỏ và ngón cái lại với nhau và nói "okay!" Nhưng hãy cẩn thận: hành động đó cũng có thể mang nghĩa là số không (zero) hay những cái lỗ nhất định nào đó!
Chúng ta là những sinh vật mê tín, và do đó chúng ta có nhiều hành động mang ý bảo vệ: chúng ta bắt chéo các ngón tay của mình (hình chữ thập? hay một số biểu tượng cổ đại dành cho những người đang yêu?); chúng ta dùng ngón tay trỏ và ngón út chỉ vào ai đó để bảo vệ bản thân khỏi con mắt của quỷ; chúng ta lấy tay che miệng khi ngáp (để giữ không cho linh hồn của mình chạy mất).
Chúng ta cũng sử dụng điệu bộ để giao tiếp một cách kín đáo: Chúng ta dùng ngón trỏ kéo mí mắt dưới xuống, hay làm thành hình vòng tròn xung quanh mắt để nói với các bạn của chúng ta rằng hãy cảnh giác, quan sát kỹ. Chúng ta có thể sờ hay kéo dái tai để nói "hãy lắng nghe!" Chúng ta có thể vỗ nhẹ hay chà xát một bên mũi để nói "Tôi ngửi thấy có vấn đề!"
Một số cử chỉ gắn liền với những vấn đề liên quan đến tình dục: Đặt ngón cái nằm giữa ngón trỏ và ngón giữa để thể hiện biểu tượng của bộ phận sinh dục nữ, và nó được sử dụng để chỉ ham muốn tình dục. Các cử chỉ như dùng lưỡi đẩy má, hay nắm tay và dấu hiệu cho thấy sự đồng ý cũng ám chỉ ham muốn tình dục (điều này đưa ra giải thích khác về nguồn gốc của chúng).
Một số cử chỉ biểu hiện thái độ thù địch: Đánh nhẹ vào càm hay vào răng, hay cắn ngón tay cái, thể hiện sự từ bỏ hay coi thường. Lêu lêu ai thể hiện sự nhạo báng ("Tôi vẩy vũi chế giễu cậu!"). Giơ ngón tay trỏ và ngón tay út ra cho thấy người bị chỉ là người bị cắm sừng. (Nó bắt nguồn từ "đôi tai thỏ.").
Những ví dụ mà tôi vừa sử dụng có nguồn gốc từ Châu Âu. "Ngôn ngữ" cử chỉ được sử dụng khắp nơi trên thế giới. Ví dụ, ở những nước Hồi giáo, việc cho thấy bàn chân là cử chỉ cơ bản thể hiện sự kinh miệt. Điều này với người Mỹ thật khó hiểu, họ là những người có xu hướng bắt chéo chân lại với nhau và đó là điều lăng mạ những người chủ nhà theo đạo Hồi của họ.9
Một số cử chỉ đặc biệt kích thích sự tò mò của các nhà tâm lý học đó là các cử chỉ thể hiện sự ham muốn tình dục. Tất nhiên, phổ biến nhất là việc
sử dụng "ngón tay". Ngón tay đại diện cho dương vật và nói "Tôi muốn cưỡng hiếp bạn." Chúng ta có thể nhấn mạnh việc này bằng cách sử dụng toàn bộ cẳng tay (phổ biến ở Italy) hay bằng việc sử dụng hai ngón tay thay vì một (phổ biến ở Anh). Ở Úc, ngón tay cái, giật mạnh lên trên là hành động phổ biến thay thế, nó đã từng được sử dụng một cách tình cờ bởi cựu tổng thống Bush trong một chuyến đi thăm.10
Ví dụ cuối cùng này cho thấy mức độ nguy hiểm của những cử chỉ trong các tình huống giao thoa văn hóa: Ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, việc giơ hai ngón tay tạo thành hình chữ "V" sấp là dấu hiệu của sự chiến thắng, điều này bắt nguồn từ hành động giơ hai ngón tay ngửa ra của tạo thành hình chữ "V" của Churchill, nhưng ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ lại là giơ sấp tay bởi vì giơ ngửa tay tạo thành hình chữ "V" là cử chỉ tục tĩu, quay trở lại thời Constantinople cổ đại, vào lúc đó mọi người trát phân lên mặt những kẻ phạm tội khi chúng bị dẫn giải trên đường phố.
Các cử chỉ mang tính tích cực hơn là đó là các cử chỉ thể hiện sự chào hỏi, tình yêu và tình bạn: Ôm và hôn là những cử chỉ phổ biến nhất trên thế giới. Nhưng cần chú ý rằng ôm và hôn thể hiện những ý nghĩa khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Có ai hôn vào tay, vào má hay lên môi người chủ nhà không? Nếu hôn lên má thì sẽ hôn vào má trái hay má phải? Hôn cả hai má hay thậm chí hôn đến ba lần (điều này rất phổ biến ở Châu Âu ngày nay)? Bạn có hôn gió không? Liệu những quy tắc này có được áp dụng khác nhau đối với nam giới và phụ nữ không?
Một số nền văn hóa không sử dụng nụ hôn như lời chào. Văn hóa Châu Á đặc biệt tránh việc đụng chạm cơ thể. Người Eskimos cọ mũi để chào còn người Maoris cụng mũi vào nhau.
Ngay cả ôm cũng mang nhiều nghĩa khác nhau. Đàn ông Mỹ (và nhiều phụ nữ Mỹ) có vẻ như gặp một chút rắc rối đối với việc ôm: Thay vì "chỉ ôm đơn thuần" họ vỗ nhẹ vào lưng hay mông liên tục.
Có nhiều cách khác nhau để chào hỏi: ở nhiều vùng, giơ tay lên chào là rất phổ biến. Quay trở về thời gian trước, ta có thể thấy giơ tay lên chào là để cho người kia thấy trong tay người chào không có vũ khí. Các nền văn hóa châu Âu tiếp nhận điều này và phát triển thêm một bước xa hơn, siết chặt tay. Giống như thể hai chiến binh muốn cho nhau thấy sự tin tưởng, nhưng không thể biểu hiện và do đó họ cần nắm lấy bàn tay cầm vũ khí của nhau. Người Trung Quốc "bắt tay" của chính họ (chắp tay lại và bái), và người Ấn Độ giơ tay của họ ra trong buổi cầu nguyện.
Chú ý: Chúng ta bắt tay phải, không bắt tay trái. Trên thực tế, cả nền văn hóa Châu Âu lẫn Hồi giáo đều coi tay trái được là dơ bẩn. Tay trái là tay để tắm rửa -- là bàn tay bạn sử dụng để lau chùi cơ thể trong thời kỳ đồ lá, đồ đá hay cát. Ở nhiều nước ăn bằng tay trái là điều bị cấm kỵ.
Một kiểu chào hỏi khác là cúi đầu. Cúi đầu là biểu tượng của sự phục tùng, đó có thể là lý do tại sao cúi đầu phổ biến ở các nước Phương Đông chứ không phổ biến ở các nước Phương Tây. Ở Nhật Bản, mức độ gập đầu xuống cho thấy địa vị của người được chào. Nếu bạn chưa chắc chắn về địa vị, hãy cứ chào như thế cho đến khi nào mối quan hệ đúng được thiết lập. Sự phủ phục là một dạng tột cùng của cúi chào.
Cúi chào đối lập với các cử chỉ cho thấy sự thống trị, đó là bất kỳ hành động nào khiến một người ở cao, lên cao hơn người khác, chẳng hạn như đứng ở trên bục bệ hay quay đầu ra sau và nhìn xuống người khác. Ở tư thế thoải mái hơn người khác cũng là một cách để chỉ sự thống trị -- ví dụ bạn không được ngồi khi có sự hiện diện của những người trong hoàng gia.
Thật ngạc nhiên, cử chỉ gật đầu đồng ý và lắc đầu từ chối cũng là cử chỉ được sử dụng hầu khắp trên thế giới. Học thuyết của Erwin Straus nói rằng gật đầu đồng ý là hành động rút gọn của sự phục tùng, có nghĩa rằng "bạn đã đúng, và tôi cúi đầu đồng ý với ý kiến của bạn." Mặt khác, cử chỉ lắc đầu không đồng ý không đòi hỏi phải hạ thấp người hay đầu xuống. Bạn vẫn giữ thẳng người, chẳng hạn như bạn đứng thẳng dưới đất, và chỉ cần quay đầu sang một bên, giống như đứa trẻ từ chối thức ăn vậy.
Học thuyết của Erwin Straus nhận được sự ủng hộ trừ một số ngoại lệ sau: Ở mìên nam nước Ý và Hy Lạp, nhiều người hất đầu về phía sau để nói không. Trông nó hơi giống với việc nói có, nhưng trên thực tế làm như vậy chỉ cốt để phóng đại sự thẳng đứng của dáng điệu "không". Ngoài ra, ở một số vùng thuộc Ấn Độ, mọi người nói có bằng cách xoay đầu xung quanh một cái trục tưởng tượng chạy từ mũi ra đằng sau đầu. Một lần nữa, nếu nhìn thoáng qua, trông cử chỉ này cứ như thể họ nói không. Cử chỉ nói có gây ngạc nhiên này khiến cho hầu hết cơ thể của một số người Ấn Độ phải chuyển động.
Ngôn ngữ cơ thể
Điều gì khiến chúng ta quan tâm đến ngôn ngữ cơ thể. Ngôn ngữ cơ thể ít mang tính ý thức, ít thuộc ngôn ngữ hơn các cử chỉ. Chúng ta sử dụng và đọc ngôn ngữ cơ thể tốt hơn, nhiều hơn là chúng ta nghĩ.
Ví dụ, một dáng điệu thu gọn (cánh tay ép chặt vào hai bên, có thể gập lại; hai chân bắt lại với nhau, nếu ngồi thì gập lại, các cơ căng ra) chỉ sự căng thẳng, và hầu hết chúng ta đều đọc như thế. Một dáng điệu cơ thể thả lỏng tất nhiên là cho thấy sự thoải mái. Chú ý rằng chúng ta có thể giả vờ và do đó giấu giếm trạng thái cảm xúc thật của mình.
Trong khi việc thông tin về sự căng thẳng rõ ràng dựa trên con người sinh học của chúng ta thì phần lớn ngôn ngữ cơ thể lại thuộc văn hóa cho dù nó ít có ý thức hơn cử chỉ điệu bộ mà chúng ta nói ở trên. Trên thực tế, có nhiều sự khác biệt thú vị ở các nền văn hóa khác nhau, chẳng hạn như khi ta chú ý đến các động tác trong lúc nói chuyện. Một số nền văn hóa được cho là theo chủ nghĩa biểu hiện, đặc biệt là sử dụng cánh tay rất nhiều khi nói chuyện. Người Ý sử dụng các động tác của cánh tay rất rộng; người Do Thái cũng sử dụng tay rất nhiều nhưng họ giữ cánh tay của mình ở gần người nên cử động của nó thường liên quan đến chuyển động lên xuống; người Pháp có xu hướng cử động hướng ra đằng trước.
Ở một số nền văn hóa khác sự biểu hiện của cử chỉ khi nói chuyện ít hơn. Ở vùng Viễn Đông ta thấy có sự thận trọng liên quan đến sự cử động của cánh tay và bàn tay; người Nga có xu hướng nói chuyện trực diện, mặt đối mặt, nhất quyết, tay khoanh hai bên sường; người Mỹ nói chuyện không nhìn thẳng, hơi quay đi và đu đưa, chuyển từ chân này sang chân kia cứ như thể đang sốt ruột, và nếu có sử dụng bàn tay và cánh tay thì nó được đặt ở mức ngang hông.
Một khía cạnh nữa của ngôn ngữ cơ thể là hướng của nó: đây là dấu hiệu cho thấy sự quan tâm khi ta đối diện nói chuyện với ai đó. Khi chúng ta hơi quay mặt đi, điều đó có nghĩa là ta không hứng thú lắm. Khi chúng ta cứ nhìn xung quanh và nhanh chóng bỏ đi... Cũng cần chú ý rằng sự không hứng thú và ngôn ngữ cơ thể liên quan đến nó là phần lớn biểu thị sự "lạnh nhạt", cho thấy người sử dụng ở vị thế cao hơn. Đó là một phần lý do cho thấy tại sao thanh thiếu niên hành động buồn tẻ như vậy.
Sự giao tiếp bằng mắt
Nói chung, việc giao tiếp bằng mắt cũng cho thấy sự quan tâm tương tự như trên, nhưng ở những nền văn hóa khác nhau thì sự giao tiếp cũng mang ý nghĩa khác nhau. Sự khác biệt phổ biến nhất là việc nhìn xuống đối với những người ở vị thế thấp hơn, đặc biệt là phụ nữ. Ở nhiều nền văn hóa, ở chừng mực nào đó thì cả ở nền văn hóa của chúng ta, hạ mắt là dấu
hiệu của đàn bà! Tất nhiên điều đó cần được học; và một số người cần gạt bỏ nó để đạt đến mức độ của "sự quả quyết."
Đối với nền văn hóa của nhiều nước nhìn chằm chằm là một điều tốt. Trên thực tế bạn có thể cảm thấy sức nặng của cái nhìn chằm chằm. Ở một số nền văn hóa khác, chẳng hạn như ở Thổ Nhĩ Kỳ, đàn ông thường nhìn chằm chằm vào phụ nữ, đó là cách cho thấy ham muốn tình dục của họ. Thông thường, việc nhìn chằm chằm giữa hai người đàn ông với nhau là dấu hiệu của ý định muốn tấn công, thách thức khả năng sức mạnh.
Một khía cạnh sinh học của việc giao tiếp bằng mắt là việc nở đồng tử mắt khi chúng ta thích thú điều gì đó. Đồng tử mắt nở ra khi chúng ta bị kích động. Bởi vậy việc nhỏ thuốc mắt vào mắt của người mẫu để làm giãn đồng tử trước khi chụp hình quảng cáo trở nên phổ biến. Nhưng cũng cần chú ý rằng chúng ta cũng bị kích động khi tức giận, đừng cho rằng một người có hứng thú tình dục với bạn chỉ dựa vào mỗi yếu tố đồng tử của mắt không thôi.
THỜI GIAN VÀ KHOẢNG CÁCH
Khoảng cách cá nhân
Có những khoảng cách cụ thể mang tính văn hóa đối với những giao tiếp khác nhau -- các giao tiếp thường là: phát biểu trước đám đông, các cuộc trò chuyện thông thường, và những cuộc trò chuyện thân mật. Trong nền văn hóa của chúng ta, khoảng cách công chúng ở những cuộc nói chuyện với đám đông thường vào khoảng 3 mét -- đây là một phần trong những lý do tại sao mọi người có xu hướng không ngồi ở hàng ghế đầu trong lớp. Khoảng cách nói chuyện thông thường là vào khoảng 6 tất và khoảng cách khi tâm sự thân mật thường chỉ có vài cm.
Có một ví dụ minh họa cho cái được gọi là điệu ở bãi đỗ xe. Nếu tôi đưa bạn vào nơi rộng mở, chẳng hạn như một bãi đỗ xe, lôi kéo bạn vào một cuộc trò chuyện, và đứng rất gần với bạn, bạn sẽ cảm thấy không thoải mái và bắt đầu lùi xuống. Nếu tôi lại bước đến gần hơn, bạn sẽ lại tiếp tục lùi ra đằng sau. Bằng cách thay đổi các góc; tôi có thể "nhảy" với bạn vòng quanh chỗ đỗ xe. Hãy thử mà xem. Bạn sẽ nhận thấy bạn đứng quá gần bởi vì bạn cũng cảm thấy không thoải mái. Mọi việc có thể không ổn, tuy nhiên nếu bạn cho rằng sự tiến đến quá gần của tôi là một cố gắng để trở nên thân mật với bạn thì bạn có thể chạy mất hoặc đánh tôi.11
Ta có thể suy ra điều ngược lại. Hành động lùi lại hay bỏ đi của bạn có thể được xem là bạn không có hứng thú, không muốn tiếp tục cuộc trò
chuyện, do vậy người khác có thể nói lời tạm biệt và rời đi. Tất nhiên, cũng có một số người không hiểu được các dấu hiệu đó nên họ vẫn cứ tiếp tục nói chuyện với bạn thậm chí ngay cả khi bạn vội vàng bỏ đi.
Như tôi đã nói, các nền văn hóa khác nhau có khoảng cách nói chuyện khác nhau. Chằng hạn, khoảng cách nói chuyện của người Đức xa hơn, khoảng 1mét. Trong khi đó người Ả Rập có khoảng cách nói chuyện rất gần 5 tất hay thậm chí là 3 tất. Người Ả Rập coi đó là sự thoải mái mang tính xã hội, khi nói chuyện gần, họ cảm thấy sự ấm áp, hơi thở ẩm ướt và ngửi thấy mùi của người khác. Người Mỹ thường cảm thấy bất tiện khi nói chuyện với người Ả Rập và họ thường lùi ra đằng sau, người Ả Rập coi hành động đó là lạnh nhạt và bất lịch sự. Nhiều vụ khinh doanh mua bán quốc tế đã thất bại do khoảng cách cá nhân đó!
Tất nhiên, chúng ta cũng có những khoảng cách cá nhân ở đằng sau và ở hai bên. Trên thực tế, chúng ta có hình bao cá nhân. Ví dụ, tại một điểm đỗ xe buýt không đông người lắm, mọi người sẽ đứng tản mác ở mức độ thoải mái.
Một lần nữa, các nền văn hóa khác nhau có những hình bao cá nhân khác nhau, hình bao ở nam giới và phụ nữ cũng khác nhau. Nhưng chúng ta cũng cần phải chú ý đến tác động của bối cảnh: Hãy quan sát khoảng cách khác nhau của mọi người ở trong một bữa tiệc. Hãy chú ý sự khác nhau giữa những nhóm toàn là nam giới, toàn là nữ giới, và những nhóm có cả nam lẫn nữ. Hãy chú ý đến cách mà mọi người bị dồn nén chen chúc trong đám đông: Họ có chạm vào người họ đối mặt hay quay lưng lại với người đó? Thật là thú vị.
Hoàn cảnh làm thay đổi hình bao cá nhân của chúng ta. Ở thành phố New York vào lúc 3 giờ sáng, nếu có người đi bộ đằng sau chúng ta sẽ khiến chúng ta cảm thấy lo lắng. Nhưng vào giờ cao điểm tại bến xe điện ngầm, chúng ta có thể chen chúc nhau như nêm cối, và chúng ta bỏ qua, không chú ý đến các thông điệp liên quan đến tình dục hay sự khiêu chiến bởi sự vi phạm khoảng cách thân mật, cho dù chúng ta không cảm thấy thoải mái!
Hai ví dụ liên quan đến sự tác động qua lại của tình huống và hình bao cá nhân mà bạn có thể muốn tự mình quan sát đó là: hướng của mặt mọi người ở trong thang máy và sự đứng cạnh nhau tại nhà vệ sinh nam.
Hình bao cũng có thể khác nhau tùy thuộc vào trải nghiệm cá nhân. Một người bạn là cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam của tôi sẽ bắn vỡ đầu
bạn nếu như bạn ở đằng sau và tiến lại phía anh ta quá nhanh. Một số nhà nghiên cứu thấy rằng tội phạm có xu hướng có hình bao tương đối lớn. Câu hỏi được đặt ra là: Có phải họ phạm tội bởi vì hình bao quá lớn của họ cứ liên tục dấn lên hay họ đã xây dựng hình bao lớn để phản ứng lại với những trò chơi nguy hiểm mà họ chơi?
Thời gian
Nhà nhân chủng học E. T. Hall đã phân biệt hai khái niệm rộng về thời gian: thời gian monochronic (tồn tại hoặc xảy ra cùng một lúc) và thời gian polychronic (xảy ra trong thời gian dài). "M-time" là đặc trưng của nền văn hóa phương Tây hiện đại, công nghiệp hóa -- chẳng hạn như nền văn hóa của chúng ta. Còn "P-time" là đặc trưng của nền văn hóa mang tính truyền thống hơn -- chẳng hạn như nền văn hóa Châu Mỹ La Tinh và Trung Đông.
M-time đòi hỏi phải có các kế hoạch: Thời gian được coi như dảy băng hay con đường, và nó được chặt nhỏ thành từng khúc, mỗi một khúc được phân công cho một mục tiêu nhất định. Mỗi một đoạn đã được phân rõ thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc: mau lẹ; sự chậm chạm được coi là thói xấu nếu không muốn nói là tội lỗi. Thời gian là cụ thể: Nó có thể để dành hay sử dụng, bị mất hay đền bù...và thậm chí bạn còn hết cả thời gian. Chúng ta có đồng hồ và lịch, và chúng ta sử dụng chúng -- hay chúng sử dụng chúng ta.
M-time thực sự hơi độc đoán (tại sao một tiết học là 50 phút? Một tuần làm việc có 40 tiếng? Một học kỳ là 15 tuần?). Bạn phải học cách tuân thủ tất cả những chương trình này: trừ những ngày, năm, mùa không đến một cách tự nhiên. Bạn cũng cần giao tiếp với mọi người theo cách được quy định bởi m-time: một người (hay vài người) một lần, theo trật tự, riêng biệt... Cuộc sống được chia thành từng đoạn; cuộc sống xã hội được chia thành từng đoạn.
Mặt khác P-time khiến người Mỹ phát điên: điều đầu tiên khiến bạn khó chịu chính là sự thiếu quan tâm đến các cuộc hẹn. Bắt người khác đợi đến cả tiếng đồng hồ cũng không có gì là xấu cả -- nếu bạn phàn nàn, họ sẽ nói rằng họ đã bận nói chuyện với ai đó rất quan trọng -- và bạn cũng không muốn họ phải thúc giục ai đó quan trọng kia! Tại một cơ quan của chính phủ có thể có một sân nhỏ, ở đó có hàng chục người được hẹn đang ngồi đợi hay đi lại xung quanh, và một vài nhân viên chính phủ "lẫn vào" với họ, mọi người đợi đến hàng 15 phút. Nếu bạn cứ kệ thế -- có thể vấn đề của bạn chưa đủ quan trọng để khiến bạn phải tiến lên và ngắt lời!
P-time mang xu hướng của người Phương Đông, công việc kiểu Phương Đông và truyền thống Phương Đông: giống như vị linh mục không thể gặp bạn bây giờ được bởi vì có ai đó cần ông ta hay một nghệ sĩ sẽ đến chỗ bạn khi nào cảm hứng sáng tác của anh ta giảm bớt một chút, thời điểm hiện tại là bất khả xâm phạm. Mặt khác, "3:15 ngày 28 tháng 10," là một khái niệm trừu tượng. Đối với P-time, nó không có nghĩa gì cả.
Tất nhiên, đây là điều rất thiếu hiệu quả!
Ngược lại với P-time, chúng ta những người theo M-time thì kế hoạch không chỉ được tuân thủ trong công việc mà còn trong cả các hoạt động giải trí: ăn tối lúc 8 giờ, ngày nghỉ cuối tuần ở New York, kỳ nghỉ hai tuần gặp Roseanne lúc 9 giờ (di dịch trong vòng nửa tiếng), John chơi với con vào các thứ bảy, dành chút ít "thời gian quý báu" cho chúng, quan hệ tình dục vào lúc 10 giờ ngày thứ sáu.
M-time rất có hiệu quả, chúng ta sẽ không thể xây dựng một xã hội công nghệ cao mà không có nó. Nhưng nó cũng bị ghét bỏ. Nó biến chúng ta thành thứ gì đó giống với những cái máy mà chúng ta dùng thực hiện: đồng hồ đeo tay, đồng hồ bấm giờ, còi nhà máy, dây chuyền sản xuất, máy tính.
SUY ĐOÁN DỰA VÀO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM Hãy tưởng tượng bạn đang đi bộ trên đại lộ thứ 5 ở thành phố New York, bỗng nhiên một đứa trẻ từ trong ngõ lao ra, đẩy bạn ngã xuống đường rồi cướp lấy cái sắc tay hay cái ví của bạn -- trong đó là tất cả số tiền dành cho chuyến đi nghỉ của bạn. Bạn báo cho công an vụ cướp này và -- thật tuyệt vời! -- cuối cùng họ đã bắt được đứa bé ăn cắp. Bạn đã sẵn sàng treo cổ thằng quỷ con này lên phải vậy không?
Học thuyết về sự quy kết12 , học thuyết giải quyết sự suy đoán dựa vào tinh thần trách nhiệm, gọi thái độ hiện tại của bạn là sự quy kết bên trong về nguyên nhân-hậu quả, điều này có nghĩa là bạn quy trách nhiệm cho điều đã xảy ra với đứa bé. Nguyên nhân nằm trong bản thân thằng bé: nó là đứa trẻ hư thối.
Hãy quay trở lại câu chuyện, cuối cùng họ đã bắt được thằng bé đáng ghét. Nhưng từ cảnh sát bạn biết được rằng vụ cướp đó có liên quan đến băng đảng tội phạm ở địa phương, và rằng nếu thằng bé đó không tham gia vào vụ cướp thì nó và gia đình nó sẽ bị băng đảng này trừng trị. Và đứa trẻ đó mới có 12 tuổi.
Học thuyết về sự quy kết cho rằng, bây giờ bạn sẽ đưa ra sự quy kết bên ngoài về nguyên nhân-kết quả. Bạn vẫn giận điên người, nhưng không còn quá tức giận với đứa trẻ nữa. Bây giờ thì đó chính là môi trường của thành phố New York là xấu sa, là tình trạng của thế giới hay bất kỳ điều gì. Đứa trẻ vẫn là trung tâm, nhưng nguyên nhân hành động được xem là nằm bên ngoài nó.
Cha đẻ của học thuyết về sự quy kết Harold Kelley cho rằng cách chúng ta đưa ra sự quy kết cũng giống với cách mà các nhà khoa học (hay thám tử) đưa ra: đó là cách đặt câu hỏi.
Các nguyên tắc quy kết
Hãy xem xét câu hỏi về trách nhiệm sau: "Tại sao cái bánh (làm bằng bột, trong có trứng, kém...) của George lại chảy nhão ra?" Theo thuật ngữ của sự quy kết thì George là một người; cái bánh là một thực thể; mối quan hệ giữa chúng là "khiến cho nó bị chảy nhão ra." Chúng ta trả lời câu hỏi về trách nhiệm bằng cách hỏi thêm một vài câu hỏi nữa:
1. Câu hỏi để phân biệt13 : Liệu George có làm những thực thể khác (trứng, món trứng rán phồng, bánh táo, thịt cuộn...) chảy nhão ra hay nếu không khó có thể ăn được? Nếu không, sự việc cụ thể này (làm cái bánh bị chảy nhão) có sự khác biệt cao -- hiếm khi George làm thế. Nếu có, thì sự việc cụ thể này có sự khác biệt thấp -- George hay làm như vậy.
2. Sự đồng thuận14 : Liệu những người khác có xu hướng làm bánh chảy nhão hay làm thành món bánh hổ lốn không? Liệu có sự "đồng thuận" về vấn đề này không? Nếu không, thì sự việc cụ thể này có sự đồng thuận thấp -- ít người có cùng vấn đề với George trong chuyện cái bánh. Nếu có, thì vấn đề cụ thể này có sự đồng thuận cao -- mọi người đều làm cái bánh chảy nhão hoặc biến nó thành món hổ lốn.
3. Sự kiên định15 : Liệu George có thường xuyên làm bánh nhão không? Nếu không, mối quan hệ ở đây có sự kiên định thấp -- bánh mà George làm luôn rất ngon. Nếu có, ở đây có sự kiên định cao -- George luôn gặp rắc rối với những cái bánh.
Cái bánh (thực thể) George (người) Sự phá hủy (mối quan hệ)
Thực thể này có phân biệt được không?
Liệu có sự đồng thuận không?
Kiểu mẫu này có kiên định không?
(Nó có xảy ra với các thực thể khác không?)
(Nó có xảy ra với người khác không?)
(Nó có xảy ra thường xuyên không?)
Bằng việc trả lời những câu hỏi này chúng ta có thể đưa ra sự quy kết vượt xa hơn sự đơn giản nằm bên trong hay bên ngoài sự việc.
1. Nếu câu trả lời là George làm mọi món đều nhão nhoét, trong khi đó hầu hết mọi người không gặp vấn đề gì đối với những cái bánh, và hơn nữa món bánh của George luôn chảy nhão ra thì chúng ta có thể đưa ra sự quy kết rằng: George không có khả năng nấu nướng. Điều này cũng giống với sự quy kết bên trong.
2. Nếu chúng ta trả lời rằng George không gặp vấn đề này đối với các món khác, nhưng mọi người thường làm món bánh trở thành hổ lốn, và George đặc biệt thường gặp vấn đề với bánh, vậy thì chúng ta có thể đưa ra sự quy kết bên ngoài được gọi là sự quy kết thực thể: làm bánh là sự khó khăn.
3. Nếu chúng ta trả lời rằng George làm sai mọi thứ và tất cả mọi người đều gặp vấn đề trong việc làm bánh, và tất nhiên, George cũng gặp vấn đề này trước đây, chúng ta có thể đưa ra quy kết về con người-thực thể (một hoặc hai thứ đều thích đáng): George không có khả năng nấu nướng, và làm bánh là khó khăn đối với anh ấy.
4. Nếu chúng ta trả lời rằng George không phải làm món nào cũng nhão nhoét, và rằng hầu hết mọi người không gặp vấn đề gì với việc làm bánh, nhưng quả thực là George luôn gặp vấn đề với việc làm bánh thì chúng ta có thể đưa ra một sự quy kết khác về con người-thực thể mà ở đó cả hai thứ đều cần thiết, tôi gọi đó là quy kết quan hệ: George và việc làm bánh không thể "hòa thuận" với nhau được.
5. Nhưng nếu câu trả lời là George không bao giờ gặp vấn đề với việc nấu các món ăn nhão nhoét và những người khác cũng không gặp vấn đề với việc làm bánh, và George rất ít khi làm bánh bị nhão thì chúng ta có thể đưa ra sự quy kết về hoàn cảnh: đó là sự trùng hợp, một tai nạn, một ngày xấu.
Tất cả những điều này đòi hỏi cần phải có đôi chút thông tin -- X làm gì trong các hoàn cảnh khác, người khác làm gì, kinh nghiệm trong quá khứ
mà X có với tình huống đó... Chúng ta thường phải giải quyết các vấn đề một lần. Trong những hoàn cảnh đó, tất cả những điều mà chúng ta có thể làm là quan sát xung quanh, cố gắng hiểu sự việc bằng những thông tin mà chúng ta có trong tay:
1. Nguyên tắc coi nhẹ16 : Càng nhiều điều khiến bạn thấy những điều đó là hiển nhiên, thì tầm quan trọng của chúng lại ít hơn ta tưởng -- bao gồm cả người mà bạn nhìn vào. Đây là sự quy kết bên ngoài. Joe gặp một tai nạn nhỏ? Anh ta là kẻ ngố. Vào lúc hai giờ sáng? Anh ta buồn ngủ. Trời mưa? Đường trơn? Với cú phanh gấp? Joe chẳng giống kẻ ngố chút nào cả, anh ta giống một nạn nhân của hoàn cảnh hơn. Càng có nhiều lý do đưa ra cho sự việc đã xảy ra, Joe càng ít bị đổ lỗi hơn.17
Coi nhẹ cũng có thể làm giảm công trạng mà bạn gán cho ai đó: John chiến thắng trong cuộc đua xe với Khoa. Wow! Anh ấy lái chiếc Ferrari. Oh.
2. Nguyên tắc làm tăng thêm18 : Càng nhiều điều khiến bạn thấy những điều đó khó có thể xảy ra, thì tầm quan trọng của chúng lại nhiều hơn chúng ta tưởng -- đặc biệt là đối với con người. Đây là sự quy kết bên trong. Ông ấy đã chiến thắng trong cuộc thi thể thao ba môn phối hợp? Tốt. Ông ấy là người tàn tật? Thật giỏi! Ông ý 70 tuổi? Thật không thể tin được! Ông ấy vừa mới mất tuần trước? Đúng là con người! Càng có nhiều lý do đưa ra cho sự thất bại, bạn càng công nhận nhiều công trạng cho ông ấy hơn.
Nguyên tắc làm tăng thêm cũng có thể làm gia tăng sự đổi lỗi của bạn dành cho ai đó: Xe của John hết xăng. Quá tệ. Tôi đã cảnh báo anh ta là xăng còn rất ít. John đúng là kẻ đãng trí.
Thành kiến
Chúng ta ấp ủ quan điểm có lý về bản thân. Nhưng sự thật là chúng ta chỉ có chút ý sự có lý -- chúng ta có những thành kiến của mình.
1. Quy kết sai lầm cơ bản. Chúng ta có xu hướng nhìn người khác có động cơ thúc đẩy bên trong và phải chịu trách nhiệm đối với cách cư xử của họ. Điều này có thể là do nét nổi bật thuộc tri giác, điều đó có nghĩa là người khác là cái mà chúng ta thấy rõ nhất khi chúng ta nhìn vào họ; hay nó có thể là do chúng ta thiếu thông tin chi tiết về nguyên nhân khiến họ cư xử
như thế. Nhưng một số nhà tâm lý học xã hội cho rằng con người thường là nguyên nhân của hành vi của họ chứ không phải như các nhà nghiên cứu theo đuổi niềm tin quy kết sai lầm cơ bản. Nói cách khác, có thể chính các nhà nghiên cứu mới là những người có thành kiến!
Có lẽ ví dụ đáng buồn nhất về khuynh hướng đưa ra các quy kết bên trong cho dù chúng có được đảm bảo hay không đó là việc đổ lỗi cho nạn nhân. Nếu như việc thông cảm với ai đó hay đổ lỗi cho kẻ thực sự là thủ phạm vì lý do nào đó khiến chúng ta bất đồng, chúng ta có thể trút trách nhiệm lên nạn nhân đối với những đau đớn hay khổ sở của chính anh ta hay cô ta. "Anh ấy khiến nó xảy ra" và "Cô ấy yêu cầu điều đó", đó là những cụm từ rất phổ biến.19
2. Ảnh hưởng người làm-người quan sát. Mặt khác, chúng ta có xu hướng xem bản thân có động cơ thúc đẩy bên ngoài hơn. Như bọn trẻ con nói anh ta làm việc đó có mục đích nhưng tôi không thể giúp được. Điều này cũng có thể là nét nổi bật thuộc tri giác -- Khi tôi nhìn vào cách cư xử của mình, tất cả những điều tôi nhìn thấy là các nguyên nhân môi trường của nó; có thể đơn giản là chúng ta có nhiều thông tin hơn về các động cơ của chính mình.
Chúng ta có thể chơi với quan niệm nổi bật: Ví dụ, nếu chúng ta đang ngồi cạnh ai đó trong một cuộc thảo luận, chúng ta có xu hướng "nhìn nhận sự việc theo quan điểm của người mình ngồi cạnh," bao gồm cả việc nhìn người ở phía bên kia với hai bạn là kẻ hiếu chiến hơn -- có nghĩa là "ở bên trong" hơn. Mặt khác, nếu bạn thông cảm với ai đó, bạn có xu hướng quy kết các nguyên nhân bên ngoài đối với hành vi cư xử của họ -- "Em trai tôi không thể làm được, thưa ngài!" Một số bác sĩ trị liệu sử dụng các cuộn băng video của khách hàng của họ để khuyến khích việc nhận trách nhiệm. Ví dụ những người say rượu hiếm khi có được cái nhìn thực tế về cách cư xử của chính họ, họ có xu hướng tin rằng họ kiểm soát được, nhưng những băng video cho thấy sự loạng choạng và hành động đáng ghét của họ có thể có tác dụng.20
3. Thành kiến tự nhận21 . Thêm vào sự rối loạn này, chúng ta còn có xu hướng coi nguyên nhân dẫn đến thành công của chúng ta là chính bản thân chúng ta, nhưng nguyên nhân của thất bại lại là do các sự kiện bên ngoài. Nếu có hiệu quả, tôi đã làm; còn nếu không có hiệu quả, đấy là do ý Chúa.
Chúng ta có thể có nhiều thông tin về động cơ của chính chúng ta; nhưng chúng ta có thể không muốn thừa nhận chúng.
Một ngoại lệ đối với thành kiến tự nhận có thể thấy ở thái độ của con người đối với những máy móc phức tạp, chẳng hạn như máy vi tính. Khi có điều gì đó không ổn xảy ra, chúng ta có xu hướng đổ lỗi cho bản thân -- "Chắc rằng tôi đã làm sai điều gì!" Trên thực tế, vấn đề ở đây thường là do lỗi kỹ thuật hay phần mềm được thiết kế tồi.22
4. Giả thuyết thế giới công bằng23 : Đây là quan niệm cho rằng tất cả mọi cái đều phấn đấu cho điều tốt nhất: Nếu bạn là người tốt, những điều tốt đẹp sẽ đến với bạn; nếu bạn là người xấu; điều xấu sẽ xảy đến với bạn. Bây giờ, quan điểm này có vẻ không được thực tế lắm: chúng ta đảo ngược lại lý luận, và tin rằng nếu điều tốt đẹp đến với bạn, thì chắc hẳn là bạn đáng được nhận điều đó, và nếu điều xấu xảy đến với bạn thì cũng chắc hẳn là bạn đáng được nhận chúng.
Điều này giải thích cho tất cả những điều thuộc loại được cho là số phận, chẳng hạn như con người cảm thấy tội lỗi khi điều tồi tệ xảy ra mà họ không kiểm soát được, hay cho rằng nạn nhân của các thảm họa tự nhiên hay hành động tội lỗi không đáng phải chịu như vậy, những người khác còn đáng phải chịu hơn! Và chúng ta có xu hướng thích người may mắn và cảm thấy chúng ta xứng đáng được giàu có do nhận được thừa kế.
Như chúng ta sẽ thấy rõ hơn ở phần sau, dường như chúng ta không bao giờ suy nghĩ một cách hợp lý khi có dính dáng đến những chuyện cá nhân. Trên thực tế, có nhiều sự quy kết thiên kiến liên quan đến những hậu quả nghiêm trọng, những hậu quả này ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào và liệu chúng ta có thể phát hiện ra những dấu hiệu có chủ ý hay không. Thời gian trôi đi, chúng ta sẽ có thể khám phá ra nhiều điều hơn.
1 Mental Structure
2 halo effect
3 Anthropologists
4 TQ hiệu đính: ví dụ các người dân tộc VN như Hmong, họ đâu có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhưng nụ cười cũng là dấu hiệu đẻ chỉ hạnh phúc. Do đó, nụ cười là ví dụ, không thể là thể hiện bị ảnh hưởng đơn
thuần của văn hoá. Ngược lại, :lol: là thể hiện của văn hoá, vì chỉ có những người chat trên mạng, hiểu được :lol: là nụ cười trên mạng. 5 Social contagion
6 TQ hiệu đính, như ở VN, nhất là vào các quán cà-fê nổi tiếng, các bạn sẽ thấy rất nhiều người đá lông nheo. Đá lông nheo, trong các quán cà-fê này có thể mang ý nghĩa, "tôi thích bạn, muốn giao thiệp với bạn đó, nói chuyện với tôi đi".
7 TQ hiệu đính: để ý đến vấn đề tự ti và tự tôn. Gái cave thì ăn mặc hàng hiệu, làm như ta đây biết nhiều hiểu rộng, trong khi các vị giáo sư thì cũng vẫn quần tây áo sơ mi trắng như ngày nào đi dạy học.
8 TQ hiệu đính: ở VN, chúng ta có thể phân biệt được được người Bắc, Trung, Nam qua giọng nói. Đi xa hơn, chúng ta còn phân biệt được người miền Tây (Long Xuyên, Châu Đốc) và người miền Đông (Vũng Tàu, Bà Rịa).
9 TQ hiệu đính: nhớ lại trong thời gian chiến tranh giữa Mỹ và Irag không, Bộ Trưởng Bộ Thông Tin lấy chiếc dép đập lên tấm hình của Tổng Thống Bush. Theo văn hoá Hồi Giáo, họ ám chỉ sự kinh miệt.
10 TQ hiệu đính: ở VN, ngón trỏ và giữa làm thành hình con "chem chép", giống như âm hộ của phụ nữ.
11 TQ hiệu đính: ăn trông nồi, ngồi trong hướng. Đoạn trên, nói đến 1 ví dụ rằng ở những nơi thoáng như bãi đậu xe, bạn đứng nói chuyện với ai quá gần, họ sẽ lùi và giữ khoảng cách. Bạn tiếp tục tới gần, thì họ tiếp tục lùi. Nhưng nếu bạn tiến tới hoài, họ sẽ bỏ chạy hay từ chối nói chuyện với bạn. Nó đưa đến vấn đề, gần hay xa không có tuyệt đối, mà còn tùy thuộc vào bối cảnh. Ở nơi thóang, đứng xa hơn 1 tí.
12 Attribution theory
13 Distinctiveness
14 Consensus
15 Consistency
16 Discounting principle
17 TQ hiệu đính: có thể dùng nguyên tắc coi nhẹ này giải thích sự chấp nhận tham nhũng ở VN không?
18 Augmenting principle
19 TQ hiệu đính: ví dụ cho quy kết sai lầm, là ta đổ lỗi cho nạn nhân bị hãm hiếp rằng cô ta ăn mặc thiếu vải, đẻ biện hộ cho việc nam nhi có tính
dục cao. Chúng ta quy lỗi cho các cô làm đĩ, thay vì trách các ông thích mèo mỡ.
20 TQ hiệu đính: ví dụ rõ hơn về ảnh hưởng ngươi-làm-người-quan-sát là cậu say rượu đổ lỗi là đường đi không bằng phẳng, chứ không phải cậu ta đi xiêng xẹo.
21 Self-serving bias
22 TQ hiệu đính: ví dụ rõ hơn về thành kiến tự nhận là đưa ra các ý kiến phục vụ quyền lợi của mình, như khi cuộc hôn nhân đỗ vỡ, cậu ta nói rằng vợ tôi là người tồi. Nói thế để biện minh cho việc ly dị của mình là đúng. 23 The just-world hypothesis
PHẦN BA: TỰ VỆ
SỰ CÂN BẰNG
Nếu bạn nhớ lại, nỗi buồn có thể được dựa trên một số điều kiện: 1. Dự đoán không chính xác, ví dụ như khi bạn đưa tay ra định bắt tay ai đó -- và người đó đi qua bạn.
2. Dự đoán không chắc chắn, như với những con gián, con chuột hay những con vật tương tự.
3. Những dự đoán mâu thuẫn, như khi bạn cho rằng có hai hay nhiều khả năng có thể xảy ra cùng một lúc.
Hai điều đầu là những vấn đề trong mối quan hệ giữa "trí óc và thế giới," có nghĩa là giữa hiểu biết của bạn về sự thật và nhận thức của bạn về nó. Nhưng điều cuối cùng lại liên quan đến những mối quan hệ trong đầu bạn và điều có thể xuất hiện thậm chí không cần có sự dính dáng thực sự với thế giới. Khi bạn có những dự đoán mâu thuẫn, thì dù thế giới có như thế nào hầu như không phải là vấn đề, do đó đau buồn có thể là cái gì đó ở bên trong, rất cá nhân.
Chúng ta có xu hướng cho rằng thích nghi là học cách thức mới để giải quyết hiện thực khó khăn, hay ít nhất học cách chấp nhận hiện thực như nó vốn có, nhưng nó cũng có thể được hiểu, bất kể nguồn gốc nỗi buồn chán của chúng ta là gì, rằng thích nghi là sự phủ nhận hay bóp méo hiện thực và là các hành động giữ cho vấn đề tránh xa chúng ta thay vì giải quyết nó. Nói cách khác thích nghi có thể khiến chúng ta xa vời hiện thực.
Tôi gọi điều này là hiện tượng tâm lý tự vệ[1]. Nó liên quan đến việc lừa dối bản thân, nhưng giống như việc tự bảo vệ thân thể, nó không nhất thiết phải là điều gì đó mà chúng ta phải tránh bằng mọi giá: trong cuộc sống khó khăn này, chúng ta thường cần phải bảo vệ bản thân khỏi những rối loạn thường xảy ra. Hãy nhớ lấy điều đó.
Học Thuyết Cân Bằng
Fritz Heider, một nhà tâm lý học xã hội theo tâm lý học cấu trúc đã xây dựng một học thuyết liên quan đến những điều này và gọi nó là học thuyết cân bằng hay học thuyết "P-O-X".
Giả sử bạn là có một đứa con nhỏ. Một buổi chiều, con bạn đi nhà trẻ về và đưa cho bạn một món quà. Bạn bóc tấm giấy bọc bên ngoài gói quà ra và nhận thấy -- thật ngạc nhiên! -- một cái gạt tàn thuốc là bằng đất sét. Nó đúng là thứ đồ xấu nhất trên trái đất này và bạn không hút thuốc. Nhưng nghệ sĩ nhỏ của bạn lại đứng ngay ở đó, trước mặt bạn, với một nụ cười rộng ngoác miệng, mắt lấp lánh với niềm tự hào vô bờ bến.
Bạn nói với đứa con nhỏ của mình "Oh, cám ơn con rất nhiều; nó quả thật là đẹp; con rất có năng khiếu nghệ thuật; mẹ/bố rất thích; chúng ta sẽ đặt nó ở đây trên giá trưng bày, cùng với bộ sưu tập pha lê cổ!" Người nào không biết câu chuyện này sẽ chẳng hiểu tại sao bạn lại nói vậy.
Fritz Heider nhìn sự việc đó như thế này: Bạn là một người (P); con bạn là một người khác (O); cái gạt tàn thuốc là bằng đất sét là yếu tố thứ ba trong tam giác (X). Và có một số quan hệ giữa chúng:
Có hai kiểu quan hệ hoạt động trong phạm vi của tam giác này:
1. Các quan hệ đơn vị: Những sự vật và con người "thuộc về nhau," mà trong một số kiểu nó tạo nên một cấu trúc tốt. Bạn hãy nhớ lại phần giới thiệu tâm lý học về một số quan niệm nhận thức -- rằng chúng ta có xu hướng "phân loại" sự việc theo sự giống nhau, sự gần gũi, số phận chung, v.v.: Bởi vậy, hai con chó giống Ê-cốt, được dắt đi dạo sóng đôi, đi cùng một hướng tạo nên nhiều đơn vị hơn một con vịt và một con bò, cách nhau 100 fít, di chuyển theo những hướng khác nhau.
Về phần con người, chúng ta có thể coi họ thuộc về nhau nếu họ có cùng quốc tịch, tôn giáo, địa vị xã hội, thành viên trong cùng gia đình, v.v. -- điều đó có nghĩa là họ có thể được xếp vào cấu trúc xã hội. Chúng ta coi vật là thuộc sở hữu của con người nếu chúng là tài sản hay của cải hay các hành động và những cái tương tự.
2. Các quan hệ tình cảm: Các đánh giá của chúng ta về sự vật và con người; yêu, ghét, chấp nhận, từ chối, tôn kính, chỉ trích... Heider đơn giản hóa các vấn đề có chủ đích bằng cách chia tình cảm ra thành hai loại: yêu và ghét. Trong ví dụ của chúng ta, chúng ta có quan hệ tình cảm tích cực với đứa con, và con của bạn có quan hệ đơn vị tích cực với cái gạt tàn bằng đất sét. Cạnh cuối cùng của tam giác sẽ được điền vào, đó là mối quan hệ tình cảm của chúng ta với cái gạt tàn. Theo quan điểm của Heider thì ông dự đoán nó sẽ là quan hệ tích cực.
Heider nói rằng đầu óc của chúng ta có xu hướng tìm kiếm trạng thái cân bằng khi giải quyết những tình huống như vậy, ở đó các mối quan hệ giữa người này, người khác và sự vật là "hòa thuận." Ba mối quan hệ tích cực là hòa thuận. Hai mối quan hệ tiêu cực, với một mối quan hệ tích cực là hòa thuận:
"Tôi không thích John.
John có một con chó.
Tôi cũng không thích con chó."
Hình tam giác dưới ít hạnh phúc hơn, nhưng cũng không ít sự cân bằng. Mặt khác, chúng ta có xu hướng tránh những trạng thái mất cân bằng. Hai quan hệ tích cực với một quan hệ tiêu cực là không cân bằng:
"Tôi yêu con tôi.
Con bé đã làm chiếc gạt tàn này.
Tôi ghét chiếc gạt tàn đó."
Trong hình tam giác này, các mối quan hệ cần phải được thay đổi. Chúng ta có xu hướng thích nghi bằng cách thuyết phục bản thân rằng một trong những mối quan hệ là khác chứ không phải là như thế. Bạn có thể thuyết phục chính mình rằng con của bạn không phải là người làm ra cái gạt tàn; bạn có thể quyết định rằng bạn không thực sự yêu con mình nhiều như bạn nghĩ; hay bạn có thể quyết định rằng bạn thích cái gạt tàn. Ở một tầm nhìn
rộng hơn, chúng ta sẽ thấy cha mẹ làm cân bằng tam giác bằng cách "để mất" cái gạt tàn hoặc ghê gớm hơn, thể hiện sự thất vọng của họ, sử dụng sự đe dọa hay tội lỗi, và cách khác là bắt đứa trẻ phải trở thành đứa bé như họ mong muốn.
Cũng có tam giác không cân bằng với 3 mối quan hệ tiêu cực: "Tôi không thích John;
Tôi không thích chó;
John không thích chó."
Đôi khi chúng ta cảm thấy rằng chúng ta không nên chia sẻ thậm chí cả cảm xúc tiêu cực với ai mà chúng ta không thích, nhưng đây được hiểu là dạng yếu hơn của tam giác trước. Heider cảm thấy rằng sự tiêu cực ít có sức mạnh hơn sự tích cực trong công thức nói chung.
Heider không hạn chế học thuyết cân bằng của mình trong hình tam giác. Ví dụ, nếu chúng ta có một người và một vật, và chúng ta nhìn vào các mối quan hệ đơn vị và tình cảm giữa chúng thì chúng ta có thể thấy sự hòa thuận hay căng thẳng thúc ép hướng đến sự thay đổi. "Đây là quyển sách của tôi, và tôi thích nó" là cân bằng; "đây không phải là quyển sách của tôi, và tôi không thích nó" cũng là cân bằng nhưng theo cách ít có sức mạnh hơn cái trên. Mặt khác, "Đây không phải là quyển sách của tôi và tôi thích nó" là không cân bằng, và chúng ta có thể phải mua, mượn hay ăn cắp quyển sách. "Đây là quyển sách của tôi và tôi ghét nó" cũng là không cân bằng, và chúng ta có thể phải bán nó, cho ai đó, hay đốt nó đi.
Quay trở lại tam giác p-o-x: hãy tưởng tượng tình huống không cân bằng này: John thích bức tranh của người phụ nữ mà anh ta ghét. Anh ta có thể quyết định rằng mình không thích bức tranh nhiều như mình nghĩ. Anh ta có thể quyết định rằng anh ta không ghét người phụ nữ đó nhiều như anh ta nghĩ. Anh ta thậm chí còn có thể cho rằng cô ta không phải là người vẽ ra bức tranh đó. Bạn có thể thấy, tất cả những lựa chọn đó đều là sự phủ nhận hay bóp méo sự thật.
Còn có một sự lựa chọn khác: John có thể cố gắng sửa chữa sự không cân bằng bằng sự phân biệt, xây dựng một sự tương phản mới! Đó là anh ta có thể đi đến kết luận rằng, ngươi phụ nữ này là một họa sĩ giỏi nhưng nhân cách của bà ta rất kinh khủng. Trước kia John thực sự có chỉ một sự tương phản: giữa tốt và xấu, áp dụng cho hội họa, nhân cách, và bất kỳ điều gì khác. Nhưng bây giờ anh có hai sự tương phản: tốt với tranh xấu và tốt với nhân cách xấu, bởi vậy người tốt có thể thiếu tài năng, và người xấu lại có tài. Làm như vậy là anh ta đã mở rộng hệ thống xây dựng của mình, nới lỏng khuôn mẫu trong cách nghĩ. Heider nói rằng điều này có thể không được sử dụng nhiều như các phương pháp có tính chất tự vệ.
HỌC THUYẾT VỀ SỰ BẤT HÒA
Một học thuyết giống với học thuyết của Heider nhưng có phần nào đó tập trung vào các mối quan tâm khác, đó chính là học thuyết về sự bất hòa liên quan đến nhận thức của Leon Festinger. Nguyên tắc trung tâm rất đơn giản của nó là: "Một cá nhân cố gắng tạo ra sự hòa hợp và tránh sự bất hòa." Chúng ta trải nghiệm sự bất hòa khi chúng ta nhận thức được rằng các hành động của chúng ta trái với những đức tin nhất định. Hòa hợp, như bạn có thể hình dung, là sự có mặt yên bình của bất hòa, đồng nghĩa với "sự hòa thuận" của Heider.
Nếu tôi coi bản thân mình là một người trung thực, niềm tin đó ngụ ý rằng tôi không nói dối. Nhưng tôi lại bắt gặp mình đang nói dối. Đây là sự mâu thuẫn. Hay tôi biết rằng mình rất yêu cha mẹ. Điều này ngụ ý rằng tôi viết thư cho họ nhiều hơn một lần một năm. Nhưng rõ ràng là một năm tôi viết thư cho họ có một lần. Đây cũng là sự mâu thuẫn. Hay tôi không làm điều gì đó có hại cho bản thân. Hút thuốc lá không tốt đối với sức khỏe của tôi. Thế nhưng vào giờ phút này, tôi lại đang hút thuốc lá.
Sự bất hòa, giống với không cân bằng, đó là nó "bị thúc bách cần phải thay đổi." Ví dụ, tôi có thể thay đổi hành vi của mình, bỏ thuốc lá. Tôi có thể thay đổi niềm tin của mình rằng tôi không làm điều gì có hại cho bản thân, ít nhất đó là sự trung thực. Nhưng liên kết yếu nhất ở ví dụ này là sự kết nối giữa hai thứ: quan niệm rằng hút thuốc lá có hại đối với tôi. Tôi đã từng tự nói với bản thân mình những điều như "điều đó làm giảm cân," "lo lắng sẽ khiến mình chóng chết," "nghiên cứu này có những sai lầm,"
"thuốc lá chỉ là thứ giơ đầu chịu báng cho sự ô nhiễm công nghiệp," "họ sẽ tìm ra cách chữa trị nhanh chóng," "tôi chỉ hút có vài bao thuốc lá một người," và "điều đó sẽ không xảy đến với tôi." Cách này hay cách khác, chúng ta có xu hướng thay đổi niềm tin của mình -- "sửa chữa" chúng -- để làm giảm bớt sự bất hòa: chúng ta nói dối bản thân.
Hầu hết những nghiên cứu về sự bất hòa đều có nói đến vấn đề về sự biện hộ không thỏa đáng, có nghĩa là các lý do đưa ra để giải thích cho hành động nào đó là chưa đủ thích đáng: Tôi đã nói dối bạn tôi. Điều này thường bất hòa với niềm tin của tôi rằng tôi là một người bạn tốt, không nói dối -- trừ khi tôi có "một lý do thực sự chính đáng" (có nghĩa là một sự biện hộ thỏa đáng), chẳng hạn như để cứu cuộc đời của cậu ta, hay có thể để cứu vãn tinh thần cậu ta. Nếu không có "lý do chính đáng" kiểu như vậy, thì đó là sự biện hộ không thỏa đáng.
Những phần thưởng không tương xứng
Ví dụ rõ ràng nhất về sự biện hộ không thỏa đáng là những phần thưởng không tương xứng -- chủ đề của thực nghiệm về sự bất hòa liên quan đến nhận thức nổi tiếng nhất:
Festinger và Carlsmith có những tình nguyện viên để thực hiện một nhiệm vụ buồn tẻ và cực khổ (chẳng hạn như nhập số liệu hay sắp xếp các ống chỉ) trong vòng vài giờ liền. Khi họ sắp sửa rời đi, những tình nguyện viên này được yêu cầu nói cho tình nguyện viên tiếp theo rằng công việc đó thực sự thú vị, và họ được trả tiền để làm việc đó. Một số người được trả một đô la. Một số khác được 20 đô la. Sau khi họ đã thi hành việc bẩn thỉu đó, người tham gia thực nghiệm đuổi theo họ và nói rằng anh ta quên đưa cho họ điền vào tờ tham thảo ý kiến. Trong tờ mẫu đó có những câu hỏi có liên quan đến họ thích công việc đến mức độ nào. Nếu họ nói dối với những tình nguyên viên đồng nghiệp và được hai mươi đô la, thì họ nói rằng công việc vô cùng chán. Còn nếu họ nói dối và được trả một đô la, thì họ nói rằng công việc không quá tệ! Nói cách khác, phần thưởng một đô la không tương xứng để biện hộ cho sự nói dối. Bởi vậy họ đã sửa chữa sự không hòa hợp bằng cách tự lừa dối mình về công việc.
Một vấn đề đạo đức từ câu chuyện này là, nếu bạn muốn thay đổi niềm tin của một người, hãy sử dụng ít phần thưởng nhất mà bạn có thể để xoay xở. Nếu bạn cho họ quá nhiều, họ sẽ biết tại sao họ lại làm thế: vì phần thưởng. Nếu bạn cho họ chỉ đủ để khiến họ làm, họ sẽ cần phải tự thuyết phục bản thân rằng họ làm nó vì lý do khác, chẳng hạn như vì họ thực sự muốn làm. Con người thật kỳ lạ.
Tại sao không phải mọi thứ đều vậy: Nếu bạn có thể khiến ai đó làm việc gì mâu thuẫn mà chẳng được gì cả, thì họ có thể sẽ tự thuyết phục bản thân mình rằng những việc đó chẳng mâu thuẫn chút nào hết.
Deci có đề tài làm về trò chơi lắp hình và công việc này đòi hỏi phải làm việc muộn đến hàng tiếng đồng hồ vào ban đêm. Một số người được nói là họ sẽ nhận được tiền; còn những người khác nghĩ rằng họ làm tình nguyện. Deci cho phép họ được nghỉ giữa giờ và trong thời gian đó họ được phép lựa chọn, đi lại thư giãn hay tiếp tục làm tiếp. Những người được trả lương có xu hướng dừng lại nghỉ ngơi, còn những người không được trả lương lại có xu hướng tiếp tục làm tiếp. Họ đã thuyết phục bản thân mình rằng, họ đang tự hưởng thụ trò chơi đó.
Nhưng cần chú ý rằng ở đây có cách hiểu khác nhau: Trò chơi xếp hình là một trò chơi thú vị, ít nhất thì cũng hơi thú vị. Liệu có phải chính vấn đề tiền lương tạo nên sự không hòa hợp? Có phải họ đã thuyết phục bản thân họ rằng vì họ được trả lương để làm việc đó, đó là công việc nên họ không thể có cảm giác tự hưởng thụ thú vị được, do đó họ cần phải nghỉ ngơi tại cơ hội đầu tiên?
Cách hiểu thứ hai này mang ẩn ý không tốt. Hãy nghĩ đến việc chúng ta khuyến khích bọn trẻ học để dành những ngôi sao vàng, những cái tem hình mặt cười, và điểm số như thế nào. Hãy nghĩ đến việc chúng ta khiến cho công việc trở nên đáng giá hơn bằng cách trả lương cao hơn như thế nào. Có thể phần thưởng bên ngoài mà chúng ta cung cấp cho cái gì đó càng lớn thì phần thưởng bên trong tự nhiên lại càng yếu hơn. Hãy chú ý sự khác biệt giữa việc thích thú đọc một quyển sách mà bạn chọn so với việc bạn bị bắt phải đọc một quyển sách! Chúng ta sẽ thấy quan niệm này một lần nữa.
Sự Đe Dọa Không Tương Xứng
Một kiểu khác của biện hộ không thỏa đáng[2] là sự đe dọa không tương xứng -- nếu bạn không làm điều gì đó mà bạn muốn làm, cho dù sự đe dọa là yếu, thì bạn có xu hướng tin rằng bạn đã không thực sự muốn làm điều đó đầu tiên -- hội chứng "nho chua"[3] (tức giận vì không đạt được điều mình muốn).
Nếu bạn không làm điều gì đó mà bạn muốn làm bởi vì bạn bị đe dọa, bạn sẽ trải nghiệm sự bất hòa một cách tự nhiên. Nhưng sự đe dọa càng mạnh thì sự bất hòa lại càng yếu; sự đe dọa càng yếu thì sự bất hòa càng lớn. Làm việc gì đó không thích hợp vì một trăm đô-la là có ý nghĩa; giống với việc đi ngược lại mong muốn của mình khi bị đe dọa mổ bụng moi gan. Dưới đây là một thử nghiệm:
Freedman để một con rô-bốt đồ chơi nhiều màu, sáng bóng, là một món đồ chơi trông rất hấp dẫn, không thể cưỡng lại được cho một lũ trẻ. Một số đứa trẻ nhận được lời cảnh báo nhẹ nhàng là không được sờ vào con rô bốt. Còn những đứa khác nhận được lời cảnh báo cấm sờ nghiêm khắc hơn. Sau đó, một người lớn khác cho phép chúng được sờ vào con rô-bốt. Những đứa trẻ nhận được lời cảnh báo nhẹ nhàng không được sờ trước đó không đụng vào con rô bốt; trong khi đó những đứa trẻ nhận được lời cảnh báo cấm sờ nghiêm khắc tiến ngay lại phía con rô-bốt. Các thử nghiệm khác cho thấy rằng những đứa trẻ nhận được lời cảnh báo nhẹ nhàng thực sự thay đổi sự đánh giá của chúng về rô bốt.[4]
Một lần nữa, ở đây lại có cách nhìn nhận khác nhau, vẫn phù hợp với sự bất hòa nhận thức, đó là đe dọa làm tăng sự đánh giá về con rô-bốt: hội chứng "trái cấm"[5].
Tội Lỗi
Bất hòa giúp chúng ta hiểu sự bóp méo sự thật mà chúng ta làm khi chúng ta cảm thấy tội lỗi: (1) Tôi là một người tốt; (2) Tôi làm việc x; (3) Việc x này không tốt. Vậy cuối cùng tôi có còn là người tốt không? Hay liệu tôi có thực sự làm việc x không? Không: việc x không quá xấu, có nghĩa là chúng ta hợp lý hóa.
Davis và Jones để mọi người xem chương trình phỏng vấn trực tiếp riêng biệt, sau đó hỏi một số người nói về người được phỏng vấn rằng họ có vẻ ngốc nghếch. Những người thí nghiệm (Davis và Jones) thấy rằng những
người đánh giá nạn nhân của họ một cách chung chung ít hấp dẫn hơn người khác.
Tất nhiên, những người lính hàng nghìn năm nay vẫn được dạy bôi nhọ kẻ thù -- coi chúng như những thứ rác rưởi không phải con người mà một người có thể "vứt đi" mà không bị trừng phạt. Đối với hầu hết tất cả mọi người thật quá đau đớn khi nghĩ rằng mình là kẻ giết những người tốt.[6]
Glass yêu cầu các chủ thể này gây sốc cho các chủ thể khác ( thường là dựng chuyện, "các lý do tốt") và thấy rằng những người nghĩ rằng bản thân mình là tốt thậm chí còn có xu hướng "làm nhục" các nạn nhân của mình hơn những người khác. Hãy cảnh giác với tính lúc nào cũng tự cho mình là đúng.[7]
Bersheid, cũng sử dụng tình huống cơ bản giống như thế, bà nói với một số chủ thể của mình rằng họ sẽ bị hoán đổi vị trí với người mà họ đang gây sốc. Đây có lẽ là tình huống khó xử ít gây bất hòa hơn, bởi thế cũng ít cần sửa chữa hơn, và ít xúc phạm đến "cộng sự" hơn. Những người lính cũng cần phải học cách tôn trọng kẻ thù của họ.
Triết gia Friedrich Nietzsche sống ở thế kỷ 19 đã nói "trí nhớ của tôi nói rằng tôi đã làm việc đó, sự kiêu hãnh của tôi nói rằng tôi không thể nào lại làm việc đó được, và cuối cùng, trí nhớ của tôi đã phải nhường bước." Sự Cám Dỗ
Mặt đối lập của tội lỗi là sự cám dỗ: Sẽ không làm việc gì trừ khi có khả năng nhận được một phần thưởng kha khá. Như chúng ta đã nói nếu ai đó lôi kéo bạn làm điều gì đó bất hòa -- chẳng hạn như trái với đạo đức -- và bạn chấp nhận, phần thưởng càng lớn, thì sự bất hòa càng yếu và ngược lại. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn từ chối phần thưởng, nếu bạn chống lại sự cám dỗ? Bây giờ chúng ta sẽ cho rằng phần thưởng lớn hơn, sự bất hòa lớn hơn.[8]
Judson Mills đã tiến hành một thực nghiệm cuối cùng về sự cám dỗ. Ông đã tạo nên một trò chơi cho trẻ con mà bọn trẻ có thể chơi dễ dàng -- hữu ích nhất -- chơi ăn gian. Một số đứa trẻ được nhận những giải lớn, một số chỉ được những giải nhỏ hơn. Tất nhiên, trong mỗi nhóm cũng có những đứa trẻ chơi ăn gian, và một số đứa không.
Trước khi chơi, Mills đã hỏi từng đứa trẻ riêng rẽ về thái độ của chúng đối với những điều khác nhau -- bao gồm cả việc ăn gian. Như bạn có thể hình dung, hầu hết bọn trẻ có thái độ tiêu cực đối với việc gian lận, nhưng chỉ là hơi tiêu cực thôi. Sau khi chơi, ông lại hỏi chúng về thái độ một lần nữa. Những đứa trẻ chơi ăn gian để nhận được giải thưởng lớn không thay đổi thái độ của chúng đối với việc gian lận. Những đứa trẻ không chơi ăn gian nhằm dành được giải thưởng nhỏ tỏ thái độ khoan dung hơn trước. Còn những đứa trẻ không ăn gian vì giải thưởng lớn có thái độ găy gắt hơn trước đối với việc ăn gian.
Chơi ăn gian -- giải thưởng lớn =>không thay đổi thái độ Không chơi ăn gian -- giải thưởng nhỏ => không thay đổi thái độ Chơi ăn gian -- giải thưởng nhỏ => có thái độ khoan dung hơn (tội lỗi!) Không chơi ăn gian -- giải thưởng lớn => có thái độ găy gắt hơn (cám dỗ!)
Vấn đề đạo đức của câu chuyện này là những người bị cám dỗ nhiều có xu hướng "thẳng tay" nhất đối với những việc nhỏ nhất mà họ bị cám dỗ. Điều này dẫn đến giả thuyết thú vị về những người cả thẹn đối với vấn đề tình dục, những người cực đoan về an ninh trật tự, và những người căm ghét tình dục đồng giới.
Nỗ Lực Thừa
Một cách khác mà chúng ta có "sự biện hộ không thỏa đáng" là thông qua những nỗ lực thừa: Bạn càng cố gắng làm việc gì chăm chỉ rồi phát hiện ra rằng chúng vớ vấn, thì bạn càng cảm thấy bất hòa hơn, và do đó bạn lại càng cố gắng để "sửa chữa" hơn. "Tôi đã làm việc X một cách chăm chỉ; X là một việc chẳng có giá trị gì; tôi không làm những việc vô nghĩa; do đó X không thể là một việc vô giá trị được."
Một thực nghiệm do Yaryan và Festinger tiến hành như sau: Những đối tượng tình nguyện tham gia thực nghiệm "phương pháp học tập" được yêu cầu học một danh sách các định nghĩa về từ để chuẩn bị cho một bài kiểm tra chỉ số thông minh (IQ), nhưng họ cũng được thông báo thêm rằng chỉ một nửa trong số họ thực sự được tham gia bài kiểm tra. Một nhóm những sinh viên được yêu cầu đọc qua danh sách và như vậy là đủ đối với họ để có thể tham gia kiểm tra; một nhóm khác được yêu cầu học thuộc danh
sách bởi vì họ sẽ không được phép mang theo danh sách đó khi làm bài kiểm tra. Sau khi họ đã đọc qua hay học thuộc danh sách, họ được yêu cầu dự đoán cơ hội mà họ sẽ là một trong những người được tham dự kiểm tra. Những người chỉ đọc lướt qua đã ước tính rằng -- như họ đã được thông báo --cơ hội của họ là 50%. Những người học thuộc lòng -- đối mặt với viễn cảnh rằng họ sẽ làm tất cả những thứ này mà chẳng được gì cả -- ước tính phóng đại cơ hội của mình, cho dù sự thật họ đã được thông báo trước về số người được tham gia kiểm tra (chỉ 50% trong số họ được tham gia). [9]
Trong một thế giới bình thường, chúng ta thấy quan điểm này được sử dụng để làm tăng thêm lòng trung thành: các hội học sinh đại học, các tổ chức quân sự, và các bộ lạc nguyên thủy bắt học sinh năm thứ nhất, học viên năm thứ nhất trường lục quân, hải quân và các cậu bé đến tuổi dậy thì phải trải qua một cuộc thử thách cực khổ. Sau đó, họ nói với bản thân "Tôi đã trải qua sự thử thách cực khổ và chắc chắn là nó đáng giá?" Một ví dụ rất quen thuộc đối với các sinh viên là: Chúng ta đôi khi lại nhớ những thầy cô nghiêm khắc nhất của mình với một thái độ tích cực -- cho dù sự nghiêm khắc đó có thực sự có ích đối với công việc học tập của chúng ta hay không.
Điều này cũng có thể có tác dụng đảo ngược: Nếu làm điều gì đó quá dễ dàng, chúng ta có thể đánh giá thấp, làm giảm mục đích. Ví dụ, chúng ta có thể tham gia một khóa học dễ dàng nhận được điểm A từ khóa học đó, sau đó chúng ta cho rằng khóa học đó chẳng có giá trị gì cả -- điều này có thể không đúng chút nào hết.
Tăng Cường Sự Bất Hòa
Một điều có thể làm tăng thêm sự bất hòa đó là sự không thể hủy bỏ được. Một khi đã làm xong việc gì đó, bạn không thể "đi ngược lại được", bạn nên vui vẻ với nó, thậm chí cho dù bạn có bóp méo sự thật về việc làm đó. Thậm chí những suy nghĩ tiêu cực có thể khiến bạn cảm thấy không thoải mái.
Knox và Inkster đã yêu cầu mọi người ở trên trường đua ngựa ước tính khả năng thắng cuộc của con ngựa họ yêu thích. Một số người trong bọn họ đang đợi để đặt cược, còn một số người khác thì vừa mới đặt cược rồi.
Trước khi đặt cược, cơ hội mà họ đưa ra cho con ngựa mình yêu thích là giống với những người đã đặt cược; sau khi đặt cược, họ còn cảm thấy tự tin hơn.
Bây giờ, tôi phải nói tôi ngờ rằng có một số người, giống tôi, biết rằng họ đã làm sai sau khi đã đưa ra quyết định, mọi người có vẻ gặp rắc rối trong việc sửa chữa sự bất hòa hay thậm chí khi thấy bản thân lôi kéo làm tăng sự không chắc chắn. Ví dụ, bản thân tôi luôn biết tôi đã mua nhầm đôi giày ngay sau khi đế giày có vết xước đầu tiên. Chúng ta sẽ quay lại với những câu chuyện này sau.
Một điều khác làm tăng bất hòa là sự lựa chọn: Lựa chọn từ một số lượng lớn những cách khác nhau dường như đòi hỏi rằng chúng ta phải cảm thấy hạnh phúc hơn với so với sự lựa chọn từ số lượng hạn chế. Nếu tôi chỉ có một vài sự lựa chọn, tôi không thể tự do lựa chọn được; tôi có thể hiểu ít hơn so với toàn bộ sự thỏa mãn bởi vì theo nghĩa đen tôi không có sự lựa chọn. Nếu tôi có nhiều sự lựa chọn, tôi có thể đưa ra một sự lựa chọn tốt hơn. Mua một cái xe hơi ở một cửa hàng có nhiều xe sẽ khiến cho người chủ mới của chiếc xe bảo vệ chiếc xe của mình hơn so với chiếc xe mua ở cửa hàng nhỏ hơn. Một anh chàng chưa vợ "thành công" sẽ có thể nhìn cô dâu của mình như một hình ảnh thu nhỏ của phụ nữ nói chung hơn là một người có quá khứ khiêm tốn.[10]
Có hai phương pháp nhỏ để giữ sự bất hòa ở mức nhỏ nhất. Hai phương pháp này được tóm tắt ngắn gọn là: sự chú ý có lựa chọn và ký ức có lựa chọn. Chúng ta sẽ chú ý nhiều hơn đến những thông tin ủng hộ sự lựa chọn của chúng ta, hay nhớ những thông tin này một cách rõ ràng hơn. Nói tóm lại, đây là một kỹ năng hữu ích.
Một thử nghiệm tiến hành quan sát những người đã quyết định mua một chiếc xe hơi cụ thể nào đó. Họ được nói rằng họ sẽ phải chờ vài phút để hoàn thành các thủ tục giấy tờ, và trong lúc chờ đợi đó họ có thể ngồi xem các ca-ta-log quảng cáo xe hơi. Điều mà họ không được nói cho biết là họ đang bị quay video, và sau đó người ta xem xét xem họ nhìn ngắm loại xe nào trong thời gian bao lâu. Điều mà các nhà nghiên thấy được là mọi người nhìn vào mẫu quảng cáo chiếc xe mình đã chọn mua lâu nhất, và nhìn ít nhất vào quảng cáo của những chiếc xe cạnh tranh tương tự như
ẳ
vậy. Nói cách khác, họ thực sự muốn khẳng định lại sự lựa chọn của mình và phớt lờ các khả năng tương tự khác.
Các Ngoại Lệ
Tôi đã nói rằng một số người không chỉ không thể sửa chữa những bất hòa mà còn thực sự làm cho mọi việc tồi tệ hơn đối với bản thân.Trong học thuyết của Hans Eysenck, ông nói rằng những người hướng nội hay thu mình vào trong là bởi vì họ không thể phủ nhận hay nói cách khác là không thể phớt lờ những sự kiện gây đau buồn, khó chịu -- họ không có những phương sách bảo vệ hữu hiệu giống như những người hướng ngoại. Nếu một người hướng ngoại bị tụt quần trong một bữa tiệc, ngày hôm sau, bạn khơi chuyện đó ra với anh ấy, anh ta có thể nói rằng "Yeah? Bạn không đùa đấy chứ?". Nhưng nếu điều tương tự xảy ra với người hướng nội, anh ta sẽ nhớ chuyện đó, có khi đến hàng thập kỷ sau vẫn nhớ. Bởi thế tôi mới nói rằng những người hướng nội là ngoại lệ đối với hiện tượng sửa chữa sự bất hòa, cho dù bản thân nó không bất hòa.
Eysenck cũng có một kích cỡ thứ hai của tính khí được gọi là loạn thần kinh chức năng[11]. Ông coi nó như một vấn đề của "sự hiếu động thái quá liên quan đến tình cảm," có nghĩa là sự phản ứng quá mức tình cảm. Trên thực tế sự hiểu biết truyền thống về chứng loạn thần kinh chức năng có liên quan đến lo lắng thái quá. Lo lắng là sự dự đoán đau khổ về nỗi đau buồn, nó khá giống với sự bất hòa. Bởi vậy tôi cho rằng sự loạn thần kinh chức năng ở mức độ cao sẽ làm tăng mô hình hướng nội (cũng như hướng ngoại) liên quan đến sự bất hòa và sửa chữa sự bất hòa. Kỳ lạ là, điều này rất phù hợp với những bệnh học tâm lý nhất định và với những giải thích nhất định của học thuyết Freud về những bệnh học tâm lý này. Có thể một trong số các bạn sẽ thực hiện một bài luận văn về nó.
SỰ BẢO VỆ
Như những nhà nghiên cứu về sự bất hòa nhận thức đã chỉ ra, sự bất hòa đáng kể nhất xuất hiện khi có sự phi lý giữa sự tự nhận thức và hành động thực tế của chúng ta. Điều này đã được rất nhiều nhà trị liệu-học giả chẳng hạn như Karen Horney, Carl Rogers, George Kelly, Albert Bandura, Viktor Raimy, và nhiều người khác xác nhận.
Đôi khi nói dối để ủng hộ cái tôi của chúng ta có thể không phải quá xấu. Nhưng nói dối sinh ra nói dối: "Chúng ta dệt nên một cái mạng rối rắm khi chúng ta nói dối!" Và trước khi bạn biết điều này, sự tự nhận thức và hành động thực tế của bạn cách rất xa nhau khiến bạn đối mặt với nhiều vấn đề.
Như Carl Rogers nói, càng có sự phi lý giữa điều về bản thân bạn và con người thực sự của bạn thì bạn sẽ càng thấy bản thân mình phải đối mặt với những tình huống đe dọa, và đáp trả lại nó sẽ khuyến khích bạn bóp méo sự việc ...
Freud có nói rất nhiều về vấn đề này: Cái tôi nghèo nàn ("Tôi") được bao quanh bởi những đòi hỏi thường xuyên xung đột của ba thực thể có sức mạnh: thực tế, xung động bản năng (đại diện cho xu hướng sinh lý), và cái siêu ngã (đại diện cho những đòi hỏi cha mẹ -- có nghĩa là xã hội). Ví dụ, một người có thể tức giận đến nỗi anh ta muốn đánh những đứa con của mình. Nhưng điều đó không đúng, anh ta không phải là người cha như thế, và ngoài ra, nếu làm như vậy vợ anh ta sẽ mang con đi và bỏ anh ta...
Khi tất cả những áp lực này trở nên quá lớn, cái tôi cảm thấy tràn ngập, như thế sắp cuốn trôi. Tất cả chúng ta thường cảm thấy chúng ta sắp mất tự chủ, phát điên lên, chết...
Đấy chính là lo lắng, và nó không quá khác biệt với sự bất hòa ở cường độ lớn. Để giải quyết nó, cái tôi lập nên những rào cản chống lại thực tế, xung động bản năng, và cái siêu ngã, hàng rào đó được gọi là các cơ chế bảo vệ, hay gọi là sự bảo vệ cho ngắn.
Freud, con gái của ông là Anna Freud, và những người theo học thuyết Freud đã xây dựng nên hàng chục lý thuyết về sự bảo vệ. Nhưng chúng ta sẽ không xem xét ở đây mà để lại chúng cho các học thuyết về nhân cách xem xét, thay vào đó, chúng ta chỉ tập trung vào hai sự bảo vệ mà Carl Rogers tập trung:
Sự phủ nhận[12] -- một thuật ngữ cũng được sử dụng bởi những người theo học thuyết của Freud -- là từ chối có mặt trong hiện tượng nhất định, đẩy chúng xuống phía sau và tránh không "giải quyết" chúng. Ví dụ một số sinh viên không bao giờ đi thi. Hay một bà góa xếp chỗ ngồi ở bàn ăn cho ông chồng đã mất của mình và trò chuyện với ông ta.
Rogers gộp cả cái mà Freud gọi là sự kiềm chế vào trong sự phủ nhận -- những ký ức về "sự phủ nhận". Khi còn là một đứa trẻ, bạn gần như đã bị chết đuối, nhưng bây giờ bạn không thể nhớ. (Nhưng bạn thực sự sợ những vùng nước rộng -- có nghĩa là bạn không bao giờ có thể phủ nhận thực tế).
Chú ý rằng chúng ta lại đang nói về sự chú ý có lựa chọn và ký ức có lựa chọn.
Chúng ta có thể biểu tượng hóa sự phủ nhận (và sự kìm nén):
Nó rất nguyên thủy, khó khăn nhưng gần với "mặt ngoài" của sự nhận thức.
Sự bóp méo hơi phức tạp, máy móc và khó nhận biết hơn. Nó có thể được biểu tượng hóa như sau:
Chúng ta "lén lút trốn xung quanh" sự đe dọa của hiện tượng -- nhận thức hay ký ức -- với chút ít sự nói dối, sự nhận thức sai lầm, quan niệm sai lầm ...
Điều này cũng được biết đến như sự giải thích duy lý. Khi thi trượt trong một kỳ thi, các sinh viên thường đưa ra nhiều giải thích cho thất bại của họ: giảng viên tồi, những câu hỏi bẫy, cuốn sách kỳ quặc, tối qua có tiệc -- hay bất kỳ lý do nào để tránh cho lòng tự trọng (sự ngu dốt, lười biếng, nghiện rượu, v.v.). Hãy nhớ rằng đôi khi những lời bào chữa lại là lý do -- đôi lúc chính là do giảng viên tồi! Điều này khiến cho sự bóp méo trở nên dễ dàng hơn và gây nguy hiểm về lâu về dài.
Chú ý rằng đôi khi chúng ta tạo nên lý do, theo cách nhằm đoán trước sự tự hoàn thành ước nguyện. Ví dụ, một sinh viên có thể uống rượu say vào
đêm hôm trước khi thi. Khi thi trượt, anh ta có thể nói với bản thân mình rằng, đó là do rượu chứ không phải do sự ngu si của anh ta (đã uống rượu). Các nhà trị liệu gặp khó khăn khi chữa trị cho những người bóp méo sự thật một cách nghiêm trọng, chẳng hạn như những người đạo đức giả và những người mắc bệnh hoang tưởng. Đôi khi mạng lưới của sự nói dối phức tạp đến mức họ có thể dễ dàng nói dối với cả bác sĩ trị liệu của mình.
Ở mức độ tột cùng, việc bóp méo sự thật trở thành điều mà những người ủng hộ thuyết hiện sinh gọi là tập tục hay "bận công việc". Chúng ta không nhận ra vấn đề bởi vì chúng ta đã quá quen thuộc với tập tục của riêng mình rồi. Chiến tranh? Sự chết đói? Ô nhiễm? Sự bất công? Vô nhân đạo? Đợi một phút..., đây rồi, đó là do bánh xe số phận. Tập tục có thể được minh họa như sau:
Cùng với tập tục, không ai phải lo lắng gây trở ngại với những trải nghiệm hay tạo ra những giải thích duy lý. Các vấn đề vẫn không được nhận thức (bị phớt lờ) bởi vì chúng đã trở thành một phần của nền tảng xã hội. Bất kỳ khi nào chúng ta cảm thấy rằng sự việc phải như chúng vốn có, hay đó là điều tự nhiên, hợp lý, khi chúng ta nói rằng tất nhiên là chúng ta phải có chiến tranh, hay tất nhiên là có những người giàu, người nghèo, hay tất nhiên điều này phải bị cấm và tuyệt nhiên như vậy, thì chúng ta có thể phải đối mặt với sự bảo vệ rộng lớn của xã hội.
SỰ BẤT HÒA VÀ SỬA CHỮA BẤT HÒA XÃ HỘI
Chúng ta đang nói đến việc sửa chữa sự bất hòa, hầu như nó là vấn đề của sự thay đổi tinh tế hay thay đổi lớn của bản thân -- niềm tin, thái độ, cảm giác, hay bất kỳ điều gì. Bạn cũng có thể làm giảm sự bất hòa bằng cách thay đổi những điều "ở ngoài kia." Ví dụ, "Tôi là một người sạch sẽ; một người sạch sẽ phải giữ cho nhà sạch sẽ; nhà tôi giống như một cái chuồng lơn." Sự bất hòa có thể được sửa chữa bằng cách dọn nhà cho sạch sẽ.
Nhưng còn vấn đề này thì sao: " Tôi xứng đáng nhận được sự quan tâm từ bạn đời của mình; bạn đời của tôi không quan tâm đến tôi." Giả sử như bạn không thay đổi thái độ của mình, thì cần phải thay đổi người bạn đời của bạn. Chúng ta có thể bỏ người bạn đời đó và thử tìm một người khác (và người khác, và người khác nữa...). Hay chúng ta có thể lôi kéo người bạn đời hiện tại, làm cho họ cảm thấy tội lỗi, quấy rầy họ, đánh họ, hay bất kỳ
điều gì có tác dụng. Tôi gọi điều này là Sự Bất Hòa Xã Hội[13] và sửa chữa sự bất hòa xã hội.
Eric Berne, chuyên gia tâm thần học xã hội đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết về vấn đề này, Eric Berne cũng là người sáng tạo ra Phân Tích Giao Tiếp, và là tác giả của cuốn "Những trò chơi mà con người chơi". Berne là người theo học thuyết của Freud, nên ông cũng sử dụng những thuật ngữ mà Freud sử dụng. Berne giải thích chi tiết cái tôi bằng cách coi chúng có ba "trạng thái của cái tôi" mà ba trạng thái này tương ứng với 3 sức mạnh mà nó phải giải quyết: Một mặt của cái tôi mà mặt này gần gũi với sự thật nhất đó là người lớn; mặt gần gũi với xung động bản năng nhất là đứa trẻ; và mặt gẫn gũi nhất với cái siêu ngã là cha mẹ. Mặt mạnh của người lớn là lý trí; mặt mạnh của đứa trẻ là sự vui chơi, mà điều này có thể trở thành sự từ bỏ chủ nghĩa khoái lạc; và mặt mạnh của cha mẹ là đạo đức, điều này có thể trở thành việc lúc nào cũng tự cho mình là đúng. Berne minh họa cái tôi như sau:
Nếu chúng ta đặt hai cái tôi ở cạnh nhau, chúng ta sẽ có một biểu đồ đại diện cho các tương tác xã hội, mà Berne gọi sự tương tác này là giao tiếp. Dưới đây là các giao tiếp bổ sung:
Chúng đại diện cho các giao tiếp như " Bọn trẻ không kinh khủng?" "Chúng thật khủng khiếp!" (a) "Chơi thôi!" "Ồ, Vui quá!", (b) và "George, đứng thẳng lên!" "Ừ, em yêu nhỏ bé của anh!" (c). Đôi khi chúng ta không đồng ý với các giao tiếp mà chúng ta thực hiện, trong trường hợp đó chúng ta có sự giao tiếp chéo:
Ví dụ: "Martha, hãy xem tình hình tài chính của chúng ta." "Không thèm quan tâm?" (a) và "Martha, hãy xem tình hình tài chính của chúng ta." "Được rồi. Em phải bỏ ngay những sở thích ngu ngốc của em đi!" Đây chắc chắn không phải là những giao tiếp vui vẻ, và chúng ta thường thấy những giao tiếp này trong những mối quan hệ gặp trục trặc. Nhưng còn một loại giao tiếp nữa: Dưới vỏ bọc của sự giao tiếp bổ sung thường xuyên, chúng ta có thể có giao tiếp kín đáo đồng thời.
Một chàng cao bồi ở một nông trại nói với một vị khách thăm quan nữ "Lại đây, tôi sẽ dẫn cô đi xem chuồng ngựa." Cô gái nói "Cám ơn anh! Tôi rất
thích những cái chuồng ngựa, tôi thích chúng từ hồi tôi còn là một cô bé!" Mặc dù ta nhận thấy rằng họ cùng có một sở thích kỳ lạ là những cái chuồng ngựa, nhưng họ lại có vẻ đang tán tỉnh nhau nhiều hơn. Dưới vỏ bọc của người lớn-người lớn, họ đang chơi trò trẻ con-trẻ con. Theo thuật ngữ của Berne thì họ đang chơi một trò chơi.
Berne và các sinh viên của ông đã theo dõi hàng trăm trò chơi. Tôi sẽ cho các bạn xem, dưới đây là một vài kịch bản có liên quan đến việc trốn tránh trách nhiệm, một chủ đề rất phổ biến của các trò chơi:
"Hãy Xem Điều Mà Anh/Cô Khiến Tôi Phải Làm"
Ông bà White đang có màn dạo đầu trước khi quan hệ. Khi đã nóng lên đôi chút, bà White đột nhiên nói "Em hy vọng là bé Johnny đã ngủ." Ông White mất bình tĩnh vì chuyện đó và hét lên "Cô đã làm rồi đó! Cô đã phá hỏng cảm xúc của tôi! Bây giờ tôi cũng ngủ đây!"
Berne nói, thực sự đây là một trò chơi nhỏ mà ông bà White chơi thường xuyên. Bằng việc chơi trò chơi này, bà White muốn tránh quan hệ tình dục với ông, người mà bà không bao giờ cảm thấy thoải mái khi quan hệ cả, còn ông White thì tránh cảm giác thất bại bẽ bàng mà ông thường phải trải nghiệm, trong khi chẳng ai trong hai người phải thừa nhận sự dè dặt của mình.
Chính tôi/cái tôi, tôi đang viết những tác phẩm lớn trừ việc tôi không bao giờ có đủ thời gian, và liên tục bị gián đoạn... Thật tuyệt khi bạn tin tưởng vào khả năng của chính bản thân và đổ lỗi cho sự thiếu thành công của mình là do có sự can thiệp của những người/những điều khác.[14]
"Nếu Không Phải Vì Anh "
Một người phụ nữ than phiền về cuộc sống không niềm vui, phải h sinh bản thân làm một người nội trợ. "Nếu không phải vì anh" -- cô nói với người chồng độc đoán, phong kiến của mình -- "Em đã có thể đến trường và làm điều gì mình muốn."
Trên thực tế, cô đã vượt qua nhiều rắc rối để tìm và lấy được anh chàng này, anh chàng giúp cô không phải đối mặt với những thứ mà cô cảm thấy sợ nhất: phải đến trường, và đối mặt với thế giới kinh doanh. Tất nhiên,
anh ta cũng chơi một trò chơi nhỏ của riêng mình: bằng việc đóng vai một "anh chàng không tốt," anh ta cũng nhận được cái mà anh ta muốn. Các trò chơi thường là các hợp đồng xã hội nhỏ được thỏa thuận giữa những người chơi. Cả hai lôi kéo lẫn nhau vào việc duy trì trạng thái tù đày trong khi lảng tránh sự bất hòa (lo lắng, tội lỗi) liên quan đến việc chịu trách nhiệm. Việc đóng vai dễ dàng hơn so với việc đối mặt với những thử thách của cuộc sống.
Thêm Sự Bất Hòa Và Sửa Chữa Sự Bất Hòa Xã Hội
Nhà xã hội học Erving Goffman đặt tất cả sự bất hòa và việc sửa chữa sự bất hòa bên ngoài con người và đặt vào trong sự tương tác xã hội. Ông coi con người như những diễn viên đóng những vai nhất định trong một vở diễn. Sự so sánh ẩn dụ này là cơ sở của hướng tiếp cận kịch nghệ đối với tâm lý học xã hội.
Ví dụ, trong một cuộc gặp gỡ xã hội, nên giữ thể diện cho nhau. Ví dụ nếu John xúc phạm Mary, thì cả nhóm sẽ cảm thấy việc bị mất mặt của cô ấy như là điều gì đó giống với sự bất hòa. Mary hay ai đó trong nhóm sẽ hỏi John: "Anh đã nói cái gì?" "Anh không có ý như vậy, phải không?" "Và còn gia đình anh thì sao?", v.v… Nếu John vẫn muốn tiếp tục ở trong nhóm, anh ta sẽ phải sửa đổi ("sửa chữa sự bất hòa"): " Các cậu biết đấy, tớ chỉ đùa thôi!" "Ah Mary, cậu đúng là một người dễ mến!" "Trời ơi, tôi đúng là một kẻ ngớ ngẩn!" hay chỉ cần nói "Tôi xin lỗi!" Mary (hy vọng rằng) chấp nhận lời xin lỗi và tha thứ cho anh ta, John (hy vọng rằng) sẽ cám ơn Mary và mọi chuyện lại tiếp tục. Kiểu mẫu này -- xúc phạm, chất vấn, sửa chữa, chấp nhận, cảm ơn -- khá thực tế: Hãy cố gắng đừng chơi trò chơi kiểu như thế này.
Tất nhiên cũng có rất nhiều biến thể: người phạm lỗi có thể tự "chất vấn" bản thân; việc sửa chữa có thể được nhắc lại; người khác thực hiện việc sửa chữa, thậm chí đó là người bị xúc phạm; nhưng nếu không có sự sửa chữa nào được thực hiện thì nhóm sẽ tan rã hoặc người phạm lỗi (hay làm tổn thương) sẽ bị đuổi ra khỏi nhóm.
Tuy nhiên, các quy tắc cũng có thể được lạm dụng. Ví dụ, vấn đề không phải ai là người xúc phạm -- mà vấn đề là hành động đó cần được sửa chữa. Bởi vậy, bạn có thể tự xúc phạm bản thân! Một người thực sự xấu xí
nói "Tôi rất xấu xí!" và mọi người nói "Không!" "Sắc đẹp nằm trong con mắt của kẻ đang yêu," và "Tính cách của bạn thật tốt!" Hay một người thực sự ngớ ngẩn nói "Tôi rất ngu dốt" và mọi người đáp lại rằng " Không! bàn tay cậu thật khéo léo," và "Không phải lúc nào chúng ta cũng dùng tới chỉ số thông minh đâu!" Họ cần phải giữ thể diện cho người đó và cho nhau.
Điều đáng sợ hơn là việc làm mất mặt mang tính công kích chẳng hạn như moi móc: Những người có quyền thường xúc phạm đến người khác mà không bị trừng phạt -- họ có đủ khả năng. Những người có học thức thường xuyên làm việc này bằng cách cố gắng ám chỉ rằng những sở thích của họ là hoàn hảo, chẳng hạn "Tối qua bạn có xem chương trình hòa nhạc trên PBS không?" "Không, tôi không có ti vi."[15]
Chúng ta có thể đi một bước xa hơn và kết hợp cả hai phương pháp nói trên: Một người phụ nữ hấp dẫn, thon thả nói với những người bạn mập mạp của mình "Dạo này mình đang tăng cân! Mình khó có thể mặc vừa những đồ cỡ số 5 của mình nữa!" Và người thông minh nhất lớp (cũng là người mập) có thể đáp lại "Đúng, mình chỉ vừa cỡ 35 kg thôi!" Thật thông minh: họ làm mất mặt bạn bằng cách "làm mất mặt" bản thân họ, do đó bạn không thể làm gì họ được. Nghe hơi giống một trò chơi, phải vậy không?
[1] Self-defence
[2] Inadequate justification
[3] Sour grape
[4] Thí nghiệm này có liên hệ quan trọng trong việc giáo dục con cái. Nghiêm cấm quá quyết liệt đôi khi sẽ là việc hại chúng, vì khi chúng có cơ hội, chúng sẽ lập tức thi hành những điều chúng muốn.
[5] Forbidden fruit
[6] Đây cũng là lý do các vị lãnh đạo tôn giáo lại bôi nhọ tôn giáo khác, để tín đồ của mình thấy tôn giáo kia thật là tồi và không theo. [7] Làm nhục người khác để tự nâng cao giá trị của mình! Thật sự giá trị của họ cao, hay họ chỉ nghĩ rằng giá trị của họ cao.
[8] Khi một thể chế chính trị thối nát, thì có nhiều tham nhũng và bất công. Tiền và quyền lợi tham nhũng là phần thưởng đẻ người ta tham gia vào một thể chế thối nát.
[9] TQ hiệu đính: một khi ai đó bỏ công nhiều hơn trong công việc, họ nghĩ rằng việc họ làm là quan trọng.
[10] TQ hiệu đính: điều này có liên quan gì đến những vấn đề như: một người có nhiều bạn trước khi lập gia đình thì có cuộc hôn nhân vui vẻ hơn; quen biết nhau lâu dài hơn, thì sẽ ít có thất vọng sau khi thành vợ chồng. [11] Neoroticism
[12] Denial
[13] Social dissonance
[14] TQ hiệu đính: có thể liên tưởng chuyện làm tình này với chuyện khác tế nhị hơn, như khi một cô nói "em bận, không thể đi xem phim với anh chiều nay!", cậu bạn trai liền đồng ý "thôi thì khi khác nha". Như vậy cậu ta chiều bạn gái, hay câu ta đang lo lắng không biết kiếm đâu ra tiền để đi xem phim, và đây là cơ hội tốt để khỏi đi xem phim? Còn cô bạn gái, thật sự cô ta bận hay cô ta đang có những hoài nghi về quan hệ tình cảm của 2 đứa?
[15] TQ hiệu đính: một ví dụ cụ thể hơn cho người Việt ở VN là, "bạn có lên mạng đọc tin tức gốc bằng tiếng Anh không?" "Không, tôi không biết tiếng Anh". Người biết tiếng Anh, gián tiếp hạ nhục người không biết tiếng Anh, rằng bạn dốt cho nên bạn không cập nhật tin tức.
PHẦN BỐN: ĐỊNH KIẾN
KHUÔN MẪU
Chúng ta có ví dụ kịch bản về việc sử dụng sự tương phản trong dự đoán con người với xu hướng sử dụng các khuôn mẫu. Khuôn mẫu[1] là một loạt các đặc điểm bất di bất dịch và tương đối đơn giản được áp dụng một cách kiên định đối với một số nhóm người: Đàn ông là những kẻ hiếu chiến và có khát vọng tình dục quá độ; Đàn bà thường yếu đuối và nói nhiều; Những người béo thường vui vẻ và lười biếng; Người Hà Lan thường rất sạch nhưng bần tiện.
Rập khuôn là một phần bình thường thuộc chức năng của chúng ta -- đơn giản hóa mọi thứ chút ít giúp chúng ta nắm được tất cả những sự phức tạp của đời sống xã hội. Sẽ ổn nếu như thực tế vẫn là trọng tài phân xử cuối cùng của sự thật. Nhưng không phải điều này lúc nào cũng đúng. Dưới đây là một vài cạm bẫy tiềm năng:
1. Khái quát hóa tổng quát[2]: Lấy những đặc điểm gắn liền với một nhóm và gán chúng vào một cá nhân cụ thể trong nhóm đó. Một thành viên của một nhóm không nhất thiết phải phản ánh những đặc điểm liên quan đến nhóm đó, thậm chí nếu như những đặc điểm đó có chính xác. Các vy phạm không cần phải được gắn một cách triệt để; các chuẩn mực là điều hư cấu. Tác giả của các bạn là một người mập mạp, bởi thế xin các bạn hãy cho phép tôi được lấy "những người béo" ra làm ví dụ: Chúng ta có lý do xác đáng để tin rằng những người béo là những người chậm chạp. Nhưng tôi đã từng gặp những người béo có thể thắng đậm những người gầy trên sân quần vợt! Làm sao bạn có thể bị từ chối không được nhận vào làm chỉ bởi vì ngoại hình của bạn nói với người sử dụng lao động rằng bạn sẽ làm việc không có hiệu quả?
2. Khái quát hóa vội vã[3]: Lấy những đặc điểm gắn liền với một người và cho rằng chúng đúng với tất cả các thành viên trong nhóm của anh ta hay cô ta. Chúng ta thường xây dựng các khuôn mẫu của mình dựa trên những cơ sở mỏng manh, nông cạn nhất, chẳng hạn như:
Thông tin nghe được từ người khác: Rất nhiều, nếu không muốn nói là hầu hết các hình mẫu được xây dựng trên điều mà chúng ta nghe người khác nói -- gia đình, thầy cô giáo, bạn bè, phương tiện truyền thông của chúng ta, v.v...-- những người này có thể, trên thực tế lại nghe được từ những người khác. Ví dụ, bạn có khuôn mẫu về người Ả Rập từ đâu? Bạn đã từng thực sự gặp một người Ả Rập chưa? Nếu bạn đã biết họ, thì bạn biết họ rõ đến mức độ nào?
Thông tin đã lỗi thời: Thậm chí nếu những thông tin nghe được từ người khác chứa đựng đôi chút sự thật, thì nó có thể được dựa trên những trải nghiệm có từ rất lâu rồi. Liệu những người Ả Rập còn -- hay liệu họ có -- sống trong những túp lều nữa không? Hay đó chỉ là những điều bạn đã nhìn thấy trong những thước phim cũ? Nhiều khuôn mẫu được bắt rễ từ lòng căm ghét đối với những nhóm người định cư cách đây 100 năm hay lâu hơn thế.
Những ví dụ hạn chế: Khuôn mẫu là những thông tin nghe được từ người khác hay được dựa trên trải nghiệm cá nhân, nó cũng có thể được xây dựng dựa trên những trải nghiệm hạn chế đối với những nhóm ta chưa thực sự hiểu rõ. Nếu bạn đã thực sự gặp một số người Ả Rập, thì bạn gặp được bao nhiêu người, và liệu họ có thể đại diện cho tất cả những người Ả Rập hay không?
Hay lấy đồ ăn Ý ra làm ví dụ: Hầu hết người Mỹ cho rằng đồ ăn của Ý gồm có mì sợi, dầu ô-liu, và nước sốt cà chua; nhưng trên thực tế phần lớn đồ ăn của Ý là bánh mỳ, cá, bơ và nước sốt trắng. Hầu hết những người Ý nhập cư đến Mỹ đều đến từ miền Nam Ý, và đó là "ví dụ" về cách thức nấu ăn mà họ quen.
Tính chất mạnh: Điều gì là đáng chú ý nhất về một nhóm, điều gì khiến chúng khác biệt hơn so với bản thân chúng ta hay những người khác thì thường được xem xét một cách sai lầm là "bình thường". Người Ả Rập là những người giàu có nhờ dầu mỏ, người Hà Lan đi những đôi giày bằng gỗ, thổ dân da đỏ mặc những đồ bằng lông ... tất cả những điều này là
ngoại lệ, nhưng bởi vì chúng đặc biệt, nên chúng dễ dàng được chúng ta nghi nhớ.
Những người ở quần đảo Pô-li-nê-di là những người dâm dục, người Nhật cực kỳ lịch sự ... thậm chí ngay cả khi các đặc điểm đó chứa đựng một phần nhất định sự thật thì chúng thường che giấu những đặc điểm khác, những đặc điểm cũng đúng tương tự. Ví dụ, người ở quần đảo Pô-li-nê-đi có một số quy định khá nghiêm khắc về sự vừa phải, điều độ, và người Nhật Bản có thể rất thẳng tính, thậm chú hung dữ khi làm việc với những người ngoài.
3. Những kết luận không công bằng[4]: Chúng ta bổ sung thông tin mà những thông tin đó không hay đã không có ở đó. Các kết luận từ những quan sát mà chúng ta có thể đưa ra trong xã hội riêng của chúng ta có thể hoàn toàn không liên quan gì khi chúng ta nhìn vào xã hội khác. Ví dụ, trong xã hội của chúng ta, tắm một lần một tuần được coi là bẩn, và bẩn được xem là hành động phản xã hội, và phản xã hội là rất, rất xấu. Nhưng liệu chúng ta có quyền đưa ra những sự suy diễn như thế không? Liệu bẩn có nghĩa là xấu không? Một số nền văn hóa coi chúng ta là hơi bẩn: Ví dụ, người Nhật Bản lau rửa bản thân sạch sẽ trước khi bước vào bồn tắm. Hay lấy một ví dụ khác, ở ngoại ô quần áo rách rưới có thể có nghĩa là mắc chứng bệnh tâm thần, nhưng ở nơi khác nó có nghĩa là nghèo khổ.
Những kết luận không công bằng thường bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết: Chúng ta ít khi có tất cả những thông tin mà chúng ta cần để hiểu nhóm người khác. Thường có những lý do cho những hành vi cư xử "kỳ dị", những lý do này khiến cho những hành vi đó ít kỳ dị hơn. Ví dụ, ở một số quốc gia, họ không có nhiều nước và sự khô ráo làm bay hơi hầu hết mồ hôi của chúng ta. Ở những nước nghèo, đường ống dẫn nước và nước sạch không có mấy. Ở những nước hàn đới, việc tắm là hết sức nguy hiểm. Chúng ta quên mất rằng ông bà của chúng ta ít khi tắm nhiều hơn một tuần một lần. Hơn nữa, ở nhiều nơi, mọi người không có thái độ quá căng thẳng đối với mùi cơ thể -- bạn không cần phải khử trùng để trở nên sạch sẽ.
Ở đây cũng xuất hiện vấn đề về việc dự báo sự hoàn thành ước nguyện của chính mình: Mọi người thường trở thành những người mà chúng ta mong
muốn họ trở thành. Ví dụ đối với một người béo, trở nên "vui vẻ" có thể có nghĩa là sự chấp nhận. Đối với một số nhóm người dân tộc, bạn thể hiện niềm hãnh diện của mình bằng cách cường điệu "tính cách sắc tộc" của mình. Ví dụ, thổ dân da đỏ của những bộ lạc khác nhau tiếp nhận cách ăn mặc, tục lệ và nghệ thuật của nhau. Và chỉ người Mỹ gốc Hà Lan mới treo những đôi giày gỗ trên cửa ra vào của họ.
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta gặp vấn đề do tất cả những cái bẫy nêu trên đối với những điều bình thường được coi như khuôn mẫu. ĐỊNH KIẾN NHƯ LÀ BẤT HÒA[5]
Từ chính bản thân nó, khuôn mẫu chắc chắn có thể dẫn đến các vấn đề như sự phân biệt đối xử. Nhưng không phải là lý do gây ra sự nóng giận, bực tức mà chúng ta thường thấy ở những người có thành kiến. Định kiến thường được định nghĩa trên phương diện của những cảm xúc tiêu cực mạnh -- cảm xúc bắt nguồn từ đâu?
Hãy nhớ lại, sự đau khổ đến từ việc không dự đoán đúng -- từ những sự phi lý và bất hòa. Hãy xem xét một số phi lý có thể dẫn đến sự căm ghét: Sự phá vỡ công việc hàng ngày: Những người "khác" bạn có thể phá vỡ cuộc sống của bạn. Ví dụ, ở miền quê nước Anh, mọi người đặc biệt không thích dân gíp-xi. Dân gíp-xi vào làng quê yên bình ở Anh, trên những chiếc xe van, đậu ở lề đường, sống bên ngoài những chiếc xe goòng, chơi nhạc và nhảy múa, bán sức lao động của họ, bói toán, ăn cắp... và nói chung là họ khiến cho cuộc sống làng quê trở nên rối loạn.
Một ví dụ đơn giản nhất: Những người "mắc bệnh tâm thần" thường khiến chúng ta căng thẳng, lo lắng. Họ cư xử theo cách mà chúng ta không thể đoán trước được.
Đe dọa đến sự an toàn của nhóm: Những kẻ ngoài cuộc có thể đe dọa sự an toàn của nhóm nhiều hơn việc là chỉ đe dọa đến sự yên bình và tĩnh lặng. Chẳng hạn như những người gíp-xi, họ nổi tiếng ít nhất là về những rắc rối do họ gây ra. Những lao động nhập cư ở Châu Âu có thể mang theo các thói quen văn hóa bạo lực cùng với họ. Những đứa trẻ ở thành phố có thể mang những thói quen sinh hoạt tình dục bừa bãi của chúng về vùng ngoại ô, v.v....
Chúng ta đã hiểu rằng trong khi một số nỗi sợ hãi có thể bắt nguồn dựa trên các khuôn mẫu vô căn cứ, thì một số nỗi sợ hãi lại có căn cứ. Động cơ để có những nhóm của riêng chúng ta là nhằm để có cuộc sống an toàn, đơn giản, có thể đoán trước được, những kẻ ngoài cuộc có thể đe dọa đến trật tự xã hội đó.
Đe dọa đến túi tiền: Tình trạng khỏe mạnh về kinh tế là mối quan tâm chủ yếu của hầu hết mọi người. Những người bị đe dọa về kinh tế bởi những người ngoài rất tức giận về việc đó, Trong lịch sử, chúng ta thấy... 1. Thành lập những nhóm để chống lại những nhóm mới; 2. Những nhóm nhập cư cũ chống lại những nhóm nhập cư mới hơn; 3. Những người da trắng nghèo khổ ở miền nam cũ chống lại những người da đen nghèo khổ; Những người thợ đường sắt Ai Len chống lại những người thợ đường sắt Trung Quốc;
4. Những người nuôi tôm Mỹ ở bang Texas chống lại những người nuôi tôm Việt Nam;
5. Những người lao động nghèo khổ chống lại những người hưởng trợ cấp;
6. Thành lập những nhóm lao động bản xứ chống lại những nhóm lao động nhập cư...
Đây là vấn đề thường gặp nhất của những nhóm người nghèo, có địa vị thấp, tức giận với những nhóm người nghèo hơn, có địa vị thấp hơn đang đe dọa thay thế vị trí của họ.[6]
Đe dọa đến tính toàn vẹn hay bản sắc của nhóm: Một nhóm dân tộc có thể được định nghĩa theo nhiều cách ... màu da, tập tục tôn giáo, ngôn ngữ, niềm tin chính trị, trang phục, các ngày kỷ niệm... Khi những sự việc xác định rõ đặc điểm của nhóm bị gây tổn thương ở chừng mực nào đó thì tương lai của nhóm đang bị đe dọa, mọi người "nông nóng."
Tương lai của nhóm được thấy rõ ràng nhất ở bọn trẻ, và bởi thế phần lớn sự quan tâm của chúng ta là: Điều gì sẽ xảy ra nếu bọn trẻ bắt đầu hành động giống những người không thuộc nhóm? ăn mặc giống bọn họ? nói
chuyện giống bọn họ? tin vào những điều mà bọn họ tin? hẹn hò với người ngoài nhóm? cưới người ngoài nhóm?
Nếu con bạn cưới ai đó thuộc tôn giáo khác, và con cái của chúng được nuôi dạy theo tôn giáo khác -- như thế là bạn đã "mất" cháu của mình. Bạn cũng có thể không bao giờ còn con nữa! Hay điều gì sẽ xảy ra nếu như con trai bạn cưới một cô gái người Đức và sang Đức để sống. Con trai bạn và cháu của bạn sẽ không còn là người Việt nữa. Con cháu của bạn là những người ngoại quốc! Hay nếu như các cháu của bạn lớn lên và nói tiếng Tây Ba Nha (Người ta nói rằng cách tốt nhất để lấy đi nền văn hóa của một người là lấy đi ngôn ngữ mà anh ta nói. Trừ người Ai-Len, còn nói chung điều này thường là đúng.)
Nếu con bạn cưới một người khác chủng tộc, cháu bạn sẽ thế nào? Da đen hay da trắng? Quan niệm truyền thống cho rằng nếu chúng là da đen thì "máu" của nhóm có địa vị cao hơn "đã bị làm ô uế" bởi máu của nhóm có địa vị thấp hơn. Ngày nay, con cái của những cặp vợ chồng thuộc hai chủng tộc khác nhau thường coi bản thân chúng là người hai chủng tộc, điều này chắc chắn được làm rõ. Nhưng hãy xem xét đến vấn đề về bản sắc nảy sinh khi bạn sống trong một xã hội lúc nào cũng khăng khăng bắt phải phân biệt rõ ràng, hoặc là thuộc chủng tộc này, hoặc là thuộc chủng tộc kia.
Có lẽ đến một ngày nào đó tất cả chúng ta sẽ chỉ coi bản thân là con người mà thôi.
Trên thực tế, những lý do có trước đối với sự tức giận là khá hợp lý. Chúng là những vấn đề mà chúng ta cần phải nỗ lực để giải quyết. Ngoài ra còn có nguồn gốc khác của sự phi lý ít hợp lý hơn: đó là phức cảm tự ti. Có điều gì đó không ổn đối với tôi -- và bạn là người đã nhắc nhở tôi về việc đó! Sự nghèo khổ hay ngu dốt hay đần độn hay thiếu thành công hay bất hạnh hay thiếu tự tin hay không thỏa mãn tình dục hay hôn nhân có vấn đề hay bất kỳ chuyện gì ... đều là lỗi của bạn. Xét cho cùng, trước khi bạn xuất hiện, tôi không hề gặp phải những vấn đề này -- hay tôi không chú ý quá nhiều đến chúng. Hay có lẽ tôi thậm chí không thể hiểu điều gì khiến tôi tức giận -- chắc chắn lỗi không thể là tôi được, mà nó phải là bạn.
Hơn nữa, những người yếu đuối, hay nản chí thường đánh mất những bản sắc nhỏ bé gây bối rối của họ trong những bản sắc của nhóm mình. Nhóm của tôi thật tuyệt, bởi thế có lẽ một phần nhỏ của sự tuyệt vời đó sẽ truyền sang tôi. Và sự căm ghét của người khác giúp duy trì sức mạnh của bản sắc nhóm, giống như việc sự nhiệt tình của chúng ta đối với đội mình ưa thích sẽ trở nên đặc biệt mạnh mẽ khi trận thi đấu trở nên sôi nổi.
Mục tiêu của sự tức giận của chúng ta có thể là một nhóm mà nhóm này gây cho chúng ta những đau khổ, khó chịu thực sự, chẳng hạn như sự tranh đua về kinh tế hay những điều khác đã được đề cập ở trên. Hay đơn giản, nó có thể là mục tiêu được xã hội, truyền thống thừa nhận (một anh chàng giơ đầu chịu báng). Cả hai cách, tôi đã được bố, mẹ, bạn bè, thầy cô giáo, những người thuyết giáo, truyền hình nói từ thời thơ ấu rằng chúng ta giỏi hơn họ và do đó tôi giỏi hơn bạn.
Nhưng đó là anh chàng da đen với Lincoln Continental của mình -- anh ta đã kiếm được tiền từ đâu? Và người phụ nữ đó, cô ta là luật sư -- tự hỏi cô ta đã làm gì để vượt qua vành móng ngựa? Và anh chàng da đen, người có tất cả các cô gái -- họ đã thấy gì từ anh chàng này nhỉ?
Họ nói dưới mặc cảm tự tôn che giấu mặc cảm tự ti.
Niềm tin mù quáng giống với việc sửa chữa sự bất hòa Hầu hết niềm tin mù quáng chỉ là cố gắng để duy trì tình trạng hiện tại: Chúng ta ở vị trí cao nhất -- hãy giữ nó như vậy.
Nhưng trong trường hợp mà nhận thức của chúng ta về người khác là sai lầm, chúng ta sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn. Khi chúng ta thực sự nhìn vào những cái khác này, chúng ta sẽ thấy dấu vết của lòng nhân đạo, tài năng, bản chất tốt đẹp của họ, chúng ta cũng thấy các lý do khiến họ cư xử như thế, và khả năng cạnh tranh bình đẳng của họ … và chúng ta cần phải bảo vệ chống lại tất cả những thông tin mâu thuẫn này.
Cuối cùng, thì những người tốt như chúng ta không làm tổn thương đến những người tốt khác (Bạn còn nhớ không?)
Điều cơ bản nhất cần làm là sự phủ nhận: Thông tin này cần phải mạnh hơn rất nhiều để ta vượt qua nó.Ví dụ, một phụ nữ có thể thấy rằng cô cần
phải làm việc gấp đôi trước kia để có được sự công nhận trong công việc. Hay chúng ta có thể thực hiện sự bóp méo. Bạn có thể dùng "trường hợp ngoại lệ:" "Chỉ có một hay hai lần thôi, lâu lâu mới xảy ra mà!" Điều này thường được đi kèm cùng với lời giải thích: "Mẹ của nó là người da trắng;" "Cô ta có những đức tính giống như đàn ông, có lẽ cô ta là người tình dục đồng giới."
Một cách khác để bóp méo là chất vấn những cách thức mà nhờ nó ai đó đã thành công: " Tất cả những người Ý thành công đến đó thông qua những mối quan hệ với bọn người xấu;" "Cô ta lang chạ đẻ được thành công[7]."
Một cách khác, khi bạn không thể chất vấn về khả năng của họ, thì hãy chất vấn những động cơ của họ: "Họ trở thành bác sĩ là vì tiền." Một số nhân viên trong lực lượng không quân đã từng nói với tôi một cách rất nghiêm túc rằng, "Có ba loại phụ nữ ở lực lượng không quân: thứ nhất là đồng tính, thứ hai là cuồng dâm, và thứ ba là những phụ nữ đang đi tìm chồng" Nói cách khác, họ có thể có khả năng, nhưng chắc chắn họ không cao quý gì hết.
Nhưng có một số cách để sửa chữa sự bất hòa còn tồi tệ hơn: Sự kỳ thị: Nhà cửa và công việc là những thứ bị phân biệt rõ nhất. Thứ ít rõ hơn là "sự phân biệt tổ chức" -- nhiều việc tưởng chừng như hợp lý, nhưng dầu sao cũng bị phân biệt: các bài kiểm tra khả năng đọc, viết để bầu cử, chiều cao quy định để được làm cảnh sát, quy định về những chiếc xe moóc ở làng quê Anh... Và cũng đừng quên sức mạnh của sự hoàn thành ước nguyện của chính mình[8]: Ví dụ, nếu chúng ta phủ nhận học vấn của những người nhất định, thì họ có vẻ như ngu dốt, có lẽ chúng ta không cần phải bận tâm giáo dục họ; nếu chúng ta chỉ cho phép họ làm những công việc dành cho người hầu làm thì có lẽ tất cả khả năng của họ chỉ có như vậy; nếu chúng ta không cho họ sống ở những căn hộ khang trang, có lẽ họ thích sống ở những nơi bẩn thỉu ...
Hơn nữa, chúng ta có thể đe dọa họ (ví dụ: sự thiêu đốt của Klan), thay thế họ (ví dụ: đặt con người vào những vùng dành riêng, hay các trại cải tạo tập trung), biến họ thành nô lệ (ví dụ: cưỡng bức lao động, hay nô dịch về kinh
tế, hay đơn giản chỉ là tình trạng nô lệ), hay đơn giản hủy diệt họ (ví dụ: điều Nazi cố gắng làm với người Do Thái, gíp-xi, những người tình dục đồng giới và những người khác).
Chú ý: Có thể dễ dàng nói rằng tất cả tội lỗi này là do trạng thái tâm lý của Nazi, hay do thói xấu của người da trắng, hay người châu Âu, hay nam giới, hay bất kỳ điều gì. Nhưng lịch sử cho thấy sự định kiến ở trong chính bản thân nó: Không có nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, chính phủ nào ... vượt qua những sai lầm tội lỗi đó. Khi một nhóm có quyền lực đối với nhóm khác, quyền lực đó có thể bị lạm dụng. Tôi e rằng đây là một kết luận bi quan.[9]
[1] Stereotype
[2] Sweeping generalization
[3] Hasty gerneralization
[4] Unjustified inferences
[5] Dissonance = sự bất hoà
[6] TQ hiệu đính: nếu điều này đúng thì nhận định của Marx sai, vì công nhân bốc lột chưa chắc hợp tác với công nhân bốc lột để chống lại các nhà tư bản, mà họ kình nhau vì miếng ăn. Tuy nhiên, hiểu được điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao các em bé bán vé số đánh nhau để được bán vài tấm vé số, đáng giá có vài ngàn 1 tấm. Tại sao họ không đoàn kết và phân chia thị trường, như mày bán chợ trên, tao bán chợ dưới?
[7] She slept her way to the top
[8] Self-fulfiling prophecy
[9] Với kết luân bi quan này, mà xã hội Mỹ được hình thành. Tất cả các đoàn thể, ngay cả tôn giáo và chính phủ đều có thể phạm sai lầm, cho nên cần có một thể chế kiểm soát lẫn nhau.
PHẦN NĂM: NHỮNG KỲ VỌNG XÃ HỘI
NHỮNG CHUẨN MỰC
Ở trên, chúng ta đã nói về sự tương phản, niềm tin, các điều lệ, v.v... Chúng ta đã tập trung và những đặc tính và những kết luận được suy ra từ các đặc tính đó. Trong phần này, chúng ta sẽ nói đến một tập hợp khác của sự tương phản và những kết luận được suy ra từ đó. Tôi gọi chúng là văn hóa xã hội hay những kỳ vọng chung, chúng bao gồm những chuẩn mực[1], vai trò[2], và địa vị[3].
Chính những điều bí ẩn nhất của thế giới, định luật tự nhiên (chẳng hạn như trọng lực) "hút chúng ta xuống," sự thống nhất, trật tự, sự đoán trước[4] được cho phép chúng ta sử dụng chúng phục vụ mục đích của mình. Hiểu biết quy luật của trọng lực và khí động lực ... cho phép chúng ta thiết kế và chế tạo những chiếc máy bay (theo nghĩa nào đó) "giải phóng" chúng ta khỏi những quy luật tự nhiên đó! Quyền lực của chúng ta có được từ sự hiểu biết về nền tảng trật tự thiên nhiên đó.
Thế giới xã hội cũng có trật tự của nó. Trật tự xã hội không nhất thiết phải giống với trật tự tự nhiên, và khi hiệu lực của luật pháp hay tục lệ có quyền lực lớn, thì cuối cùng chúng ta phải chọn có tuân theo hay không. "Bạn không thể có quan hệ tình dục với mẹ của mình" là một huấn thị có quyền lực to lớn, nhưng nó cũng không mạnh bằng "Bạn không thể đi xuyên qua bức tường gạch." (Kelvin, p. 21)
Tuy nhiên, cũng giống như trong thế giới tự nhiên, để có thể hoạt động trong thế giới xã hội, chúng ta cũng cần có trật tự. Trật tự xã hội được xây dựng dựa trên những kỳ vọng chung (niềm tin, điều lệ, giá trị) và được gọi là các chuẩn mực.
Các chuẩn mực được sử dụng như những tiêu chuẩn mà chúng ta dùng để đo độ thích hợp của các hành vi, nhận thức, niềm tin, thậm chí là cả cảm giác trong nhóm xã hội mà các chuẩn mực có liên quan. "Nhóm xã hội"[5] có thể là toàn bộ nền văn hóa hay xã hội, một nhóm văn hóa hay nhóm dân
tộc, một tổ chức hay cộng đồng, hay thậm chí có thể là một câu lạc bộ hay một toán người.
Từ chuẩn mực (norm) có cùng một gốc với từ "bình thường" ("normal") và cách đơn giản nhất để tìm ra các chuẩn mực ở nhóm hay xã hội là tìm xem cái gì được mọi người coi là bình thường. Bình thường (nếu bạn còn nhớ môn thống kê cơ bản) có nghĩa là "điều có khả năng xảy ra cao" -- và bạn có thể liệt kê các hành vi cư xử khác nhau và đề nghị mọi người đánh giá chúng. (Những đánh giá của họ được coi là xác suất chủ quan.)
Bạn đánh răng có thường xuyên không? Không bao giờ? Một năm một lần? Một tháng một lần? Một lần một ngày? Hai lần một ngày? Ba lần một ngày? Hàng giờ? Liên tục? Tôi tin rằng, trong xã hội của chúng ta đánh răng một hay hai lần một ngày được coi là bình thường. Một đứa trẻ có thể một ngày bỏ không đánh răng; một bác sĩ nha khoa có thể đánh răng sau mỗi bữa ăn.
Nhưng cần phải chú ý: Một chuẩn mực không cần phải được tất cả mọi người tán thành hay nói là tốt! Tất cả chúng ta nên đánh răng một ngày ba lần, và sử dụng loại chỉ mềm dùng làm bàn chải đánh răng, nhưng chúng ta lại không làm vậy -- điều đó sẽ không được xem là "bình thường." Tội phạm có thể là khác thường, nhưng thánh thần cũng là khác thường nốt.
Mặt khác, đôi khi chuẩn mực không phải là cái được hầu hết mọi người thực hiện. Thật thú vị khi so sánh điều mà mọi người nghĩ là bình thường và cái thực sự là bình thường (thuộc thống kê) trong những lĩnh vực riêng tư chẳng hạn như tình dục. Ví dụ, cách đây không lâu, các chuẩn mực xã hội vẫn quy định những điều cấm kỵ về việc thủ dâm, trong khi đó đại đa số mọi người vẫn làm việc đó.
Các chuẩn mực, cũng giống như thói quen, có vẻ như vẫn duy trì sự tồn tại của chính chúng: "Hành vi 'được miêu tả' bởi một chuẩn mực không chính thức bởi vì nó được cho là hợp lý. Tuy nhiên, bản thân sự hợp lý này được suy ra từ tần số xuất hiện của hành vi đó." (Kelvin, trang 87) Bởi thế chúng ta đánh răng một hay hai lần một ngày bởi vì điều đó là bình thường, và nó là bình thường bởi vì chúng ta đánh răng một hay hai lần một ngày.
Chú ý rằng một trong những nguồn thông tin phổ biến nhất về "tần số xuất hiện"[6] chính là truyền thống. Bởi vậy một chuẩn mực như "con trai mặc quần, con gái mặc váy" được chứng minh là đúng bằng cách nói "con trai có nghĩa là mặc quần; con gái có nghĩa là mặc váy," và đến lượt mình, nó được chứng minh là đúng bởi "luôn là như thế."
Ngoài thói quen và truyền thống ra, một nhóm hay xã hội cũng có thể củng cố những chuẩn mực bằng sự trừng phạt hay khen thưởng, đặc biệt là trừng phạt. Sau đó khi các chuẩn mực, sự trừng phạt và khen thưởng được chính thức hóa, thì chúng trở thành điều luật, pháp luật, hệ thống tư pháp, trại cải tạo, ghế điện...
Minh chứng kinh điển về cách cư xử mang tính quy phạm là minh chứng của Muzafer Sherif. Nếu tôi chiếu một điểm sáng lên trên tường trong một căn phòng tối đen như mực, nó trông như chuyển động -- một ảo giác được gọi là hiệu ứng tự vận động[7]. Nếu tôi hỏi bạn xem nó di chuyển bao xa, bạn có thể đoán là 5 hay 6 cm. Điều mà Sherif đã làm đó là cho một nhóm người xem điểm sáng đó và đọc to sự dự đoán của họ. Lúc đầu những dự đoán có khác nhau một vài cm, sau khi mỗi người nhắc lại điểm sáng, sự dự đoán của họ xích lại gần nhau hơn -- điều đó có nghĩa là nhóm này đang xây dựng một "quy phạm."
Nếu Sherif đặt một "người thay thế" -- một trong những người trợ lý của ông -- vào trong một nhóm và hướng dẫn anh ta đưa ra một sự dự đoán thổi phồng (14 hay 15 cm chẳng hạn), thì nhóm đó sẽ có xu hướng đưa ra những dự đoán cao hơn để hưởng ứng sự dự đoán của người thay thế đó. Nếu người thay thế đó cứ bám vào những sự dự đoán cao của mình, anh ta có thể khiến cho cả nhóm để ý đến sự dự đoán của anh ta. Sherif thậm chí còn thấy rằng những chuẩn mực cao giả tạo có thể kéo dài đến vài "đời" của cuộc thí nghiệm: Sau khi nhiều dự đoán được đưa ra, Sherif đổi người thay thế đầu tiên, sau đó thay những người ban đầu của nhóm bằng những người mới. Chuẩn mực cao đó sẽ dần dần mất đi.
Bởi thế, trong thế giới thực, chúng ta có rất nhiều chuẩn mực không hề có ích hay có liên quan, tuy nhiên chúng vẫn cứ tồn tại. Có rất nhiều ví dụ được tìm thấy trong các mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ.
Tuân theo chuẩn mực
Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng tuân theo chuẩn mực có gì đó không tốt -- biểu hiện của sự yếu đuối, ngu ngốc, thậm chí là nô lệ phát xít. Nhưng trước nhất, cuộc sống chúng ta chứa đầy những sự tuân theo chuẩn mực, mà phần nhiều chúng ta thậm chí không để ý đến bởi vì chúng ta cứ thế tuân theo thôi. Cuối cùng, theo định nghĩa, tuân theo chuẩn mực là điều bình thường.
Mặc quần áo: Bạn có thể nghĩ bản thân mình là người theo chủ nghĩa cá nhân cao, và có thể chỉ ra những sự đa dạng về phong cách xung quanh bạn. Nhưng bạn cũng chú ý đến những nét tương đồng: Khi bạn nhìn các bạn sinh viên ở xung quanh, chú ý đến những quần bò, áo sơ mi và những bộ đồng phục may sẵn rẻ tiền. Và điều gì sẽ xảy ra nếu một bạn sinh viên đến lớp với chiếc áo tuxedo (áo lễ phục mặc vào buổi chiều), áo dài the mặc vào buổi tối, áo tắm hai mảnh, không mặc gì, hay mặc ki-mô-nô hay xari (áo quần của phụ nữ Hin-đu), mặc quần áo của người khác giới ... điều này là không "đúng", phải vậy không -- có lẽ nó cho thấy người mặc có dấu hiệu bị mắc bệnh tâm thần. Điều đó có nghĩa là chúng ta có thể đưa ra kết luận từ bất kỳ hành động nào liên quan đến nhận thức của con người.
(Hãy nhớ rằng mặc những bộ quần áo phù hợp với hoàn cảnh sẽ giúp mọi người thấy rằng bạn là người đáng tin cậy? Mặc những bộ quần áo không đúng với hoàn cảnh sẽ cho thấy điều ngược lại.)
Thứ hai, hãy tưởng tượng xem sẽ ra sao nếu như mọi người mặc, hành động, nói mà không thèm quan tâm đến "phong cách," "truyền thống," các chuẩn mực, không để ý đến những mong đợi, dự tính của người khác? Bạn sẽ sống trong sự không thể dự đoán gây khó chịu liên miên. Tất cả các bạn đã từng gặp những người "khác thường", những người mà bạn không bao giờ có thể đoán trước được: Hãy tưởng tượng xem nếu tất cả mọi người đều hành động như thế thì sao? Sự hơi khó chịu sẽ tăng lên đến mức không thể chịu đựng được. Đó chính là điều mà nhiều người đã trải nghiệm khi họ đến những vùng khác trên thế giới và không biết các chuẩn mực, tục lệ ở đó: đấy chính là cú sốc văn hóa.
Hãy tưởng tượng xa thêm chút nữa, nếu điều đó xảy ra với những đứa trẻ thì sao - người còn đang học hỏi để phỏng đoán ý con người. Tuổi thơ
thậm chí sẽ trở nên khó nhọc hơn tuổi thơ đã có. Không phải tự nhiên mà chúng ta duy trì những chuẩn mực thoải mái nhất định trong gia đình, không hành động một cách điên rồ trước mặt lũ trẻ, và tất cả chúng ta đôi khi cảm thấy luyến tiếc "cuộc sống đơn giản" ở quê hương mình. Chúng ta phát triển "lên" mang tính cá nhân rõ rệt từ cơ sở của sự kiên định.
Có một số cách khác nhau để miêu tả chuẩn mực. Cách đơn giản nhất là làm nổi bật những điểm khác nhau của hành vi được quy định và hành vi bị cấm. Hành vi được quy định là hành vi "phải" tuân theo, là những nghĩa vụ, những điều khiến bạn trở thành thành viên của một nhóm. Những hành vi bị cấm là những điều "không được" làm, những điều cấm kỵ. Những nhóm nhỏ sẽ khai trừ bạn nếu như bạn phạm phải những điều đó (giống như "không có giầy, không phục vụ"). Các xã hội sẽ tống bạn vào tù, thể chế hóa, rút phép thông công, lưu đầy, hay tử hình bạn.
Một cách khác để nói đến các khái niệm về trạng thái bình thường và điều có thể xảy ra đã được đề cập đến ở trên: Trục hoành thể hiện những hành vi cư xử đang được bàn đến; trục tung thể hiện mức độ bình thường của hành vi:
Chúng ta cần thêm vào một điều: một dòng phân chia các hành vi chấp nhận được (acceptable) và những hành vi không chấp nhận được (unacceptable), bởi thế ta có hình sau:
Nếu chúng ta coi "một bộ quần áo thích hợp dành cho các giảng viên đại học" như là hành vi, chúng ta có thể thấy áo tuxedo và áo dài the mặc vào buổi tối chiếm vị trí một đầu của đường cong, và bộ đồ tắm hay không mặc gì là đầu kia của đường cong. Ở giữa chúng, bất kỳ trang phục nào từ bộ đồ bò xanh đến bộ com-lê sọc nhỏ được coi là có thể chấp nhận được. Và, có lẽ tại "đỉnh" của sự chấp nhận được, chúng ta sẽ thấy phong cách mà tôi gọi là "lịch sự như giáo sư" -- đối với nam giới: có một miếng đắp ở khuỷu tay áo vét, nơ bướm ở cổ, v.v.; với phụ nữ: váy len, áo cổ nhỏ, những đôi giày phù hợp với hoàn cảnh chứ không chạy theo thời trang.
Sherif đã xây dựng cách thứ ba để miêu tả các chuẩn mực mà nó là sự thỏa hiệp giữa đường cong dần dần và sự đột ngột "phải tuân theo - bị cấm". Đó là một tập hợp những hành vi trong một miền chấp nhận mà điều này là rất quan trọng đối với các thành viên; ngoài ra còn có cả những miền từ chối
"""