"Tam Giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam - Wilfred Burchett full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam - Wilfred Burchett full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo TAM GIÁC TRUNG QUỐC – CAMPUCHIA – VIỆT NAM Thông tin sách ∞ ∞ ∞ ∞ ∞ Tên sách: TAM GIÁC TRUNG QUỐC – CAMPUCHIA – VIỆT NAM Tác giả: Wilfred G. Burchett NXB Thông tin – Lý luận Số trang: 288 Xuất bản: 1986 ∞ ∞ ∞ ∞ ∞ Nguồn: thuvien–ebook Soát và tạo ebook bởi Bố và Mẹ Bủm Xì Thư viện ebook (tve–4u.org) Thời gian hoàn thành: 04/2016 Mục lục Mở đầu Phần thứ nhất: Đấu tranh giải phóng dân tộc I. Đảng cộng sản Đông–dương II. Khme Ít Xa–rắc III. Hội nghị Giơnevơ 1954 Phần thứ hai: Bối cảnh của tấn thảm kịch Campuchia IV. Sự trỗi dậy của Khme đỏ (phần 1) V. Sự trỗi dậy của Khme đỏ (phần 2) Phần thứ ba: Nội tình Campuchia những năm 1975–1979 VI. Những người sống sót làm chứng VII. Một xã hội nô lệ ở thế kỷ XX VIII. Làm thế nào để trở thành một người Khme đỏ “tốt” IX. Rèn đúc những người trong sạch cứng rắn Phần thứ tư: Những mối quan hệ tam giác X. Cuộc chiến tranh biên giới XI. Sự dính líu của Trung Quốc XII. Trung Quốc chuẩn bị tấn công Việt Nam Phần thứ năm: Campuchia sống sót – Cái gì đang chờ đợi ở phía trước XIII. Từ kháng chiến đến giải phóng XIV. Sống sót kỳ diệu XV. Tái bút Mở đầu Sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi đầy đủ tầm cỡ của những điều khủng khiếp do Khme đỏ gây ra đối với nhân dân Campuchia. Chẳng bao giờ có thể đếm hay phân loại xuể hàng triệu những bộ xương và đầu lâu vô danh dưới những hố chôn người và những nấm mồ tập thể. Đã có đầy đủ tư liệu để khẳng định rằng ban lãnh đạo Khme đỏ đã phạm phải những tội ác gần như có một không hai trong lịch sử đối với chính nhân dân của họ từ ngày 17/4/1975, khi các lực lượng Lon Non đầu hàng và họ lên nắm chính quyền cho đến ngày 7/1/1979, khi đến lượt họ, bị đánh đổ. Hồi những năm 1960, tôi đã cùng gia đình sống ở Campuchia 4 năm. Vợ tôi dạy môn lịch sử nghệ thuật tại trường Đại học Mỹ thuật Phnom Penh; 3 con tôi học tại trường trung học. Lẽ dĩ nhiên, bạn bè của chúng tôi là trí thức, văn sĩ, nhà báo, giáo viên, giáo sư đại học, các nhà ngoại giao và cả những nhân vật có tầm cỡ về chính trị nữa. Những người này nằm trong số những mục tiêu đầu tiên của các đội tra tấn và hành quyết. Nạn nhân đầu tiên là những ai đã từng du học ở nước ngoài hoặc biết tiếng nước ngoài, rồi dần dần, tiêu chuẩn bị giết mở rộng ra, gồm bất kỳ ai đeo kính hoặc biết đọc, biết viết. Trừ dăm ba người buông mình trôi theo bọn cầm đầu Khme đỏ, còn thì tất thảy những người mà tôi biết trong suốt một phần tư thế kỷ quan hệ thường xuyên với nước Campuchia đều đã bị giết. Nhiều người chết chỉ sau những trận tra tấn dã man. Mọi tội ác của bọn Quốc xã đều được Khme đỏ lặp lại và lặp lại “có sáng tạo”, phát minh thêm nhiều cái mới. Gơrinh, Gơben và những tên Quốc xã khác đều là những tên quỷ sứ, hiện thân của những gì được coi là tột cùng của “cái ác” trong thời đại của chúng ta. Thế nhưng, tội ác của chúng vẫn chưa thấm tháp vào đâu nếu đem so với những tội ác của Khme đỏ do bọn Pol Pot, Iêng Xary và Khiêu Xamphon cầm đầu. Hitle đã tiêu diệt người Do thái, người Slavơ, người Digan và những người không thuộc “chủng tộc Arien” khác. Còn Pol Pot thì quyết tâm tiêu diệt không chỉ người Việt, người Hoa, người Chàm theo đạo Hồi và các nhóm người thiểu số khác, mà cả những người thuộc giống Khme của chính bản thân hắn nữa. Hitle bắt người từ Pháp, Balan và các nước khác về làm nô lệ và buộc họ làm việc đến chết trong các trại lao động. Còn ban lãnh đạo Khme đỏ thì lại biến cả đất nước của họ thành một trại tập trung khổng lồ. Hitle đốt cháy và làm ô uế các giáo đường Do thái, ngược đãi các nhóm tôn giáo. Còn Khme đỏ thì lại đàn áp mọi hình thức lễ bái tôn giáo. Họ biến nhà chùa đạo Phật, nhà thờ đạo Hồi và nhà thờ Thiên chúa giáo thành các trung tâm tra tấn, thành chuồng lợn, thành kho chứa, hoặc đơn giản hơn, phá tan tành, biến chúng thành một đống gạch nát. Hitle đốt sách của các nhà văn chống phát–xít. Còn Pol Pot và bè lũ thì đốt tất cả sách vở và thư viện, chà đạp lên mọi di tích của truyền thống và nền văn hóa Campuchia. Hitle tìm cách dồn phụ nữ Đức trở lại vai trò “bếp núc, nhà thờ và con cái”. Còn Khme đỏ thì tách vợ khỏi chồng, cha mẹ khỏi con cái và thủ tiêu hoàn toàn cuộc sống gia đình. Có một số trí thức cánh tả, quen ngồi ghế bành ở phương Tây không muốn tin vào tất thảy vào những chuyện đã xảy ra. Họ bênh vực chính quyền Khme đỏ, coi đó là một “Cuộc thí nghiệm xã hội” có thể biện minh được. Việc họ từ chối thực tế không thể đứng vững nổi trước lời minh chứng áp đảo của những ai đã thực sự tới Campuchia, kể cả những đại diện của các cơ quan cứu trợ quốc tế – những người phải đụng chạm với cái phần còn lại ấy của xã hội Campuchia. Càng ngày người ta càng biết rõ hơn về những nỗi khủng khiếp đã diễn ra ở Campuchia. Những thực tế sáng rõ đã được làm nổi bật hẳn lên nhờ chính tầm cỡ của những nỗ lực quốc tế nhằm hàn gắn những vết tàn phá trên mọi mặt của xã hội Campuchia. Mỗi công dân Campuchia thật sự vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng. Không có người nào đã tiến hành công tác điều tra tại chỗ lại có thể hoài nghi về những gì đã xảy ra. Nhưng điều còn chưa sáng tỏ là những thực tế ấy đã xảy ra như thế nào và vì sao lại thế. Hiển nhiên là việc tìm ra câu trả lời có tầm quan trọng then chốt. Các học giả, văn sĩ, nhà báo và những người ọ g ọ g g g làm phim hiện đang làm việc. Còn giữa chúng ta với nhau, chúng ta có thể rọi một luồng ánh sáng nào đó để xem xét một trong những sự kiện đen tối nhất trong thời đại chúng ta đã xảy ra như thế nào và vì sao như vậy. Những chương tiếp theo trong cuốn sách này chính là sự đóng góp của tôi vào quá trình soi rọi luồng ánh sáng đó. Winfred Burchett Paris, tháng 7/1981 Phần thứ nhất: Đấu tranh giải phóng dân tộc I. Đảng cộng sản Đông–dương Trong quá trình nuốt chửng một cách khá ngon lành những bộ phận cấu thành của cái mà về sau này trở thành các Quốc gia Liên hiệp Đông Dương, trước hết, năm 1862, Pháp đoạt lấy 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Năm năm sau, họ chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây, khẳng định chủ quyền của họ đối với những vùng trồng lúa giàu có ở đồng bằng sông Mê kông. Ngày 18/2/1859, một đoàn quân viễn chinh hỗn hợp Pháp – Tây ban nha, đã chiếm được Sài Gòn; tạo chỗ đứng đầu tiên cho Pháp trong vùng. Rồi 30 năm sau đó, cả 3 vùng lãnh thổ Việt Nam – Nam kỳ ở miền Nam, Trung kỳ ở miền Trung và Bắc kỳ ở miền Bắc cùng với những lãnh thổ riêng rẽ là Campuchia và Lào ở phía Tây đã bị Pháp gộp cả lại để hình thành một đơn vị hành chính duy nhất là Đông Dương. Sự khác nhau trên các mặt văn hóa, ngôn ngữ và sắc thái tôn giáo giữa Campuchia với Lào, cũng như giữa hai nước này với Việt Nam hồi đó chẳng làm cho Pháp mảy may quan tâm. Sự quan tâm ấy thực sự chỉ bắt đầu từ năm 1930 khi Cụ Hồ Chí Minh lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, trực diện thách đấu bằng việc thành lập một Đảng Cộng sản Đông Dương duy nhất. Từ khoảnh khắc ấy trở đi, giờ cáo chung của ách thống trị thực dân Pháp đã điểm. Cụ Hồ Chí Minh là một con người có nhiều tài năng và một khối kiến thức khổng lồ. Người tuyệt đối kiên trì việc chấm dứt ách thống trị thực dân ở Đông Dương. Người đã nổ những phát súng đầu tiên vào năm 1919. Tháng 6 năm ấy Người công nhiên gửi tới các nước thắng trận tại Hội nghị Vec xây một bản kiến nghị. Đó là một văn kiện với lời lẽ giản dị không quanh co mà đi thẳng ngay vào vấn đề – tất cả 8 điểm của kiến nghị được trình bày gọn trong 1 trang giấy – cũng y như bản Di chúc Người viết sau đó nửa thế kỷ, khi Người biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Cốt lõi của 8 điểm này là việc Người đòi quyền con người cơ bản cho các dân tộc Đông Dương. Như đã có thể thấy trước, kiến nghị của Người bị đoàn Pháp và các đoàn khác tại Hội nghị Vec xây lờ đi nhưng đã gây nên niềm xúc động mạnh mẽ trong cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Pháp. Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức tại Đại hội Tua nổi tiếng (từ ngày 15 đến ngày 30/12/1920). Tại Đại hội này, Đảng Xã hội Pháp bị phân liệt khi phải lựa chọn nên đi theo Quốc tế Hai (Dân chủ – Xã hội) hay theo Quốc tế Ba (Cộng sản). Đến cuộc bỏ phiếu có tính chất quyết định, cụ Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế thứ Ba. Sau sự phân liệt, Lê ông Blom và Pôn Phơ rơ tiếp tục lãnh đạo Đảng Xã hội Pháp, thiểu số. Còn Pôn Macxen Casanh và Pôn Vayang Cutuyrie trở thành những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp mới ra đời với sự hậu thuẫn của đa số đại biểu. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sau bài phát biểu đầu tiên của mình trong Đại hội nói về vấn đề độc lập của xứ Đông Dương – với tư cách là đại biểu duy nhất của các xứ thuộc địa Pháp – ảnh hưởng của Người xuất hiện trên báo chí. Ngày hôm sau, cảnh sát tới để bắt người, nhưng các đại biểu đã dũng cảm đánh lui chúng và “Nguyễn – Nhà yêu nước” vẫn tiếp tục tham gia cuộc tranh luận, ngoan cường ủng hộ vấn đề mà Người tâm huyết. Nguyễn Ái Quốc dự định về nước thành lập một Đảng giống như Đảng Cộng sản Pháp mới, được sự hỗ trợ của Quốc tế. Sau khi đi nhiều nơi ở châu Âu, Người lên đường đi Liên Xô với hy vọng được gặp Lê nin. Người đến Lêningrat vào cuối tháng 1/1924, rét run lên trước cái lạnh của mùa đông nước Nga, mặc dù trên người đã có bộ đồ lông thú mà các thủy thủ trên con tầu Xô viết đã ép Người phải mặc. Hai ngày trước khi Người tới, Lê nin đã qua đời. Ca–sanh và Vayang Cutuyriê lúc đó có mặt ở Matxcova để dự lễ tang Lê–nin đã giới thiệu Người với những người có trách nhiệm. Kết quả là Người được dự một khóa nghiên cứu ngắn ngày về chiến lược và sách lược Cách mạng. Hơn một năm sau, Người xuất hiện ở Quảng châu, Trung–quốc. Về mặt công khai, Người là cố vấn về các vấn đề châu Á cho Mikhaiin Bôrôđin, đặc phái viên người Xô viết của Quốc tế Cộng sản bên cạnh Chính phủ cách mạng của Tôn Dật Tiên – người sáng lập, đồng thời là lãnh tụ của Quốc dân đảng.[1] Chỉ trong vòng vài tháng sau khi “lập nghiệp” ở Quảng châu, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo từ xa việc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Tổ chức này lại cho ra đời tổ chức Công đoàn đầu tiên của Việt Nam. Ở Pari, Người không chỉ vận động cho quyền tự do của dân tộc mình, mà còn tổ chức ra “Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” tập hợp các kiều dân của tất cả các nước thuộc địa đang sống ở Pháp. Người biên tập tờ Người cùng khổ (Le Paria) và bí mật phát hành khắp Đế chế Pháp. Ở Quảng châu cũng vậy. Tại đây Cụ Hồ Chí Minh tương lai, một nhà quốc tế chủ nghĩa lỗi lạc đã thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu Á”. Thành viên của Hội không chỉ là người Việt Nam, mà cả người Triều Tiên, Indonexia, Miến điện, Thái Lan và những người châu Á khác. Sau khi Tưởng Giới Thạch phá vỡ liên minh giữa Quốc dân đảng với những người Cộng sản Trung Quốc. Bô rô đin và các cố vấn khác của Quốc tế Cộng sản trở về Liên Xô, còn Nguyễn Ái Quốc thì chuyển căn cứ đến Xiêm (nay là Thái Lan) nới có một số đông người Việt Nam sinh sống. Luôn luôn bị mật vụ của cảnh sát Pháp bám gót, Người luôn thay đổi hình dạng, đi từ nơi này qua nơi khác, tổ chức và thức tỉnh sự giác ngộ của đồng bào mình, đào tạo họ và thường xuyên duy trì quan hệ với các nhóm cách mạng và phong trào độc lập ở trong nước. Người đã phải làm nhiều nghề để tự kiếm sống và đó cũng chính là những phương pháp tốt nhất để ngụy trang. Lúc thì Người là một nông dân làm mướn. Có khi Người lại là một nhà sư, đầu cạo trọc, tay cầm bát ăn xin; hoặc là một người đứng bán thuốc lá ở góc phố. Nhưng dù Người ở đâu, làm gì để kiếm sống, Người vẫn làm công tác vận động, tổ chức và đào tạo. Ở Xiêm, Người thành lập “Hội ái hữu Việt Nam” và xuất bản tờ “Tuần báo Nhân đạo”; báo này vượt biển vào Campuchia và từ đó vào Việt Nam. Liệu Nguyễn Ái Quốc thỉnh thoảng có tự mình vượt qua biên giới để xem những hạt giống mà mình gieo trồng đã nảy mầm ra sao không? Trong cuốn sách của Kiếcnam và Chanthu Bua[2] viết về những nhà vận động cộng sản đầu tiên được biết đến của Campuchia có một đoạn cực hay liên quan đến chuyện này: một ông Ben Krahom nào đó làm “culi” tại nhà máy điện Phnom Penh bị bắt cùng với vợ vì phân phát truyền đơn viết bằng tiếng Việt hô hào “vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc” và vì treo trên cây lớn “cờ đỏ có búa liềm Xô viết”. Cặp vợ chồng này khai rằng họ nhận được một số truyền đơn từ tay một công nhân cùng làm trong nhà máy điện và số còn lại là từ tay “một người cắt tóc rong”. Nghề cắt tóc rong chính là một trong những cách ngụy trang được Nguyễn Ái Quốc ưa thích. Nếu như đây không phải là đích thân nhà lãnh tụ cách mạng lưu động này, thì hẳn cũng là một vị mới nhập môn làm cách mạng học theo hình tượng của Người! Rõ ràng là những hạt giống của Nguyễn Ái Quốc đã được gieo xuống một mảnh đất màu mỡ: tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở các tỉnh cực bắc Bắc bộ Việt Nam. Vài tháng sau, Công hội đỏ cũng hoạt động trong vùng này. Và đến cuối năm 1929, ở Việt Nam đã có 3 Đảng Cộng sản, mỗi đảng mang một tên khác nhau tùy theo ý của ban lãnh đạo mình. Gần cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở lại Trung Quốc để dự một cuộc họp ở Quế lâm – khi đó là thủ phủ tỉnh Quảng tây của Trung Quốc có biên giới chung với Bắc Việt Nam – cùng với đại biểu của 3 tổ chức cách mạng nói trên. Đảng nào cũng muốn được công nhận là Đảng Cộng sản duy nhất. Như thường lệ, Nguyễn Ái quốc nói ngắn gọn nhưng đi thẳng vào vấn đế: Ở “Ở Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Quốc, cũng như ở các nước thuộc địa như Ấn độ, Nam dương và các nước khác, người ta chỉ có một Đảng Cộng sản duy nhất. Việt Nam không thể có đến 3 đảng. Chúng ta cần đoàn kết toàn thể dân tộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và để đạt được mục đích này cần phải có sự thống nhất về tổ chức. Tổ chức đó thể vẫn giữ tên cũ là “Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” hoặc lấy tên là “Đảng Cộng sản” nhưng cương lĩnh chính trị của nó phải là: độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội”.[3] Sau một cuộc tranh luận ngắn, những người có mặt nhất trí thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất. Sau đó, các đại biểu trở về nước báo cáo lại với tổ chức của mình, thỏa thuận vài tháng sau sẽ gặp lại ở Hồng công để chính thức hóa quyết định đó. Dù rằng tổng số giai cấp công nhân ở Việt Nam chỉ có 220 nghìn người – chưa đến một phần trăm dân số nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn nhất quyết yêu cầu Đảng phải được thành lập dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Một trong những lập luận của của Người là những tổ chức công hội đầu tiên ra đời chỉ sau khi Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội được thành lập. Nửa thế kỷ sau, tại Viện Nghiên cứu Lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Can, thành viên sáng lập phong trào công đoàn, đã giải thích cho tôi ý nghĩa của tất thảy những điều này: “Một nét đặc trưng của Việt Nam chúng tôi là công nhân xuất thân từ nông dân và vẫn duy trì những mối quan hệ gia đình họ hàng với thôn quê. Đây chính là điều mà Lênin đã từng có lần miêu tả là một ‘điều kỳ diệu’ mà rất nhiều người ao ước muốn có. Nó tạo thuận lợi lớn cho sự gắn bó giữa các vấn đề kinh tế và chính trị. Suốt nhiều thế kỷ, giai cấp nông dân đã chiến đấu trung thành dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến để đánh đuổi giặc ngoại xâm mà không hề được ban thưởng: quyền lợi của chính họ không được thỏa mãn. Sau khi đánh tan giặc ngoại xâm, bọn phong kiến lại quay lại với vai trò truyền thống của chúng, áp bức bóc lột giai cấp nông dân. Khi thực dân Pháp xâm lược kéo tới với kỹ thuật quân sự hiện đại hơn, người nông dân nhận ra rằng bọn phong kiến cầm quyền chẳng còn chút giá trị gì nữa. Thực ra, các tập đoàn phong kiến đối lập còn đua nhau kéo bọn thực dân cùng vũ khí hiện đại của chúng về phía mình! Khi một tập đoàn đè bẹp được đối thủ của mình, thì nó sẽ có thể bóc lột giai cấp nông dân dưới quyền nó được nhiều hơn. Nhờ khẩu hiệu thiết thực: Độc lập dân tộc và ruộng đất về tay nông dân! Mà giai cấp công nhân, thông qua Đảng của mình, đã ngay lập tức được sự ủng hộ của đông đảo nông dân. Nhưng còn một vần đề lớn: Thanh niên Hội – tiền thân của Đảng Cộng sản – mặc dù nhận thức được sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, lại có tới 90% thành viên là trí thức tiểu tư sản”.[4] Tôi tin rằng những gì diễn ra sau đó chỉ có thể diễn ra ở một nước Việt Nam hoàn toàn say mê với sức hấp dẫn của tính lý tưởng và tính hiện thực thể hiện trong đường lối mà Nguyễn Ái Quốc trình bày trong những bài báo ngắn được những người cách mạng Việt Nam truyền tay nhau. Nguyễn Can kể tiếp câu chuyện của mình về việc giới lãnh đạo “trí thức tiểu tư sản” tự rèn luyện trong thực tiễn sống và làm việc qua phong trào vô sản hóa như thế nào. “Ngay trước khi thành lập Đảng, họ đã bắt đầu đi vào nhà máy, công xưởng để tiếp thu tư tưởng của giai cấp công nhân. Ông Nguyễn Chí Thanh (sau này là Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, chỉ đúng thứ hai sau ông Võ Nguyên Giáp về uy tín quân sự) về làm thợ mỏ ở vùng mỏ Hồng Gai. Ông Nguyễn Lương Bằng (Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Cụ Hồ Chí Minh qua đời tháng 9/1969) đến Hải Phòng làm phu kéo xe tay; ông Lê Thanh Nghị sau này là người đứng đầu cơ quan kế hoạch hóa kinh tế cùng tới làm việc ở vùng mỏ Hồng Gai. Hầu hết lãnh tụ của chúng tôi đều tham gia phong trào này”. Cũng như đối với mọi việc mà Nguyễn Ái Quốc làm, tác động chiến lược lâu dài của mỗi một bước đi đều được chú ý xem xét từng li từng tí. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3/2/1930 tại Hồng công. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, vào đúng dịp Tết Canh Ngọ, hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản đã họp ở Cửu long (Hương cảng) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã tiến hành với sự tham gia của 2 đại biểu của An nam Cộng sản Đảng, 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và 2 đại biểu nước ngoài… Hội nghị nhất trí tán thành hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. (BT trích “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Sơ thảo – Tập 1, 1920 – 1954, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.90) Chẳng bao lâu sau, ngày 1/5/1930, tại hai tỉnh kề nhau Nghệ an (quê hương Cụ Hồ Chí Minh) và Hà tĩnh, một cuộc khởi nghĩa công – nông đã bùng nổ. Quân khởi nghĩa giành được chính quyền tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ hoặc giảm sưu thuế. Và trong hơn một năm rưỡi trời, đánh bại mọi âm mưu dập tắt cuộc khởi nghĩa của Pháp. Cuộc khởi nghĩa được mang tên là “Xô viết Nghệ–Tĩnh”. Đây là một trong những mốc có ý nghĩa của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Khi đó người Pháp dường như không để ý đến điều này nhưng đó chính là lời cảnh cáo nghiêm khắc rằng không còn là những kẻ đứng đầu triều đình phong kiến chống lại họ, được sự hậu thuẫn tạm thời của những “kẻ bầy tôi” là nông dân bị ràng buộc bởi nghĩa vụ nữa; cũng không còn là những nhà nho yêu nước dũng cảm đã tiếp nhận từ tay bọn phong kiến bất lực trách nhiệm bảo vệ chủ quyền dân tộc nữa, mà tiến hành cuộc khởi nghĩa này là một liên minh mới và bền chặt của các lực lượng công nhân và nông dân, mà lợi ích vật chất đồng nhất với lợi ích dân tộc. Sau cuộc khởi nghĩa Nghệ Tĩnh, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã mang một nội dung mới! Một trong những kết quả quan trọng của sự kiện này – và là một cái gì đó đặc thù của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam – là giai cấp công nhân đã có ảnh hưởng quan trọng đối với những trí thức sớm nhận ra nhân tố mới, nhân tố yêu nước mà họ đại diện. Nguyễn Can và người phụ trách công tác nghiên cứu của Viện, Lê Thanh Can, giới thiệu cụ thể về vấn đề này: “Do trí thức nắm bắt được những hiện tượng mới một cách dễ dàng, nên họ nhanh chóng hiểu được vì sao những phong trào trước đó của các học giả tư sản, các nhà sư và những người khác đều thất bại, dù họ rất dũng cảm và sẵn sàng hy sinh. Ở nước Việt Nam phong kiến và sau này, bị thực dân hóa, trí thức bị thống trị và không được độc lập theo đuổi hoạt động sáng tạo của mình. Họ nhận thấy ngay lập tức sự xuất hiện của một khối lãnh đạo ái quốc, trung kiên từ trong giai cấp công nhân”. Say sưa với chủ đề này, Lê Thanh Can nhấn mạnh rằng: mặc dù người Việt Nam chẳng bao giờ lãng quên hình ảnh của các vị ái quốc vĩ đại thời phong kiến – từ Hai Bà Trưng đã từng đánh đuổi bọn Trung Quốc chiếm đóng năm 43 sau Công nguyên, đến Trần Hưng Đạo đã 3 lần đánh tan quân Nguyên xâm lược hồi thế kỷ XIII và những vị khác như ba anh em Tây Sơn đánh bại bọn Mãn Thanh chiếm đóng vào thế kỷ XVIII – nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam – một lực lượng hoàn toàn mới đã ra đời và hoàn toàn thích hợp với những thách thức của kỷ nguyên thực dân này. “Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cả giai cấp tư sản sinh sau đẻ muộn ở Việt Nam, lẫn giai cấp nông dân trong những hình thức tổ chức chính trị riêng rẽ đều không có tính chất quyết định trong cuộc đấu tranh cứu nước trước đây, khi người Pháp mới đến. Giai cấp phong kiến đã từng đóng vai trò yêu nước quan trọng, nay họ đã rời bỏ đấu trường. Các nhà cầm quyền phong kiến đối lập đua nhau giành sự bảo hộ của Pháp”. (Đây là Hội nghị thành lập Đảng, lúc này chưa có điều kiện để tổ chức Đại hội – về vấn đề này, xem “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Sơ thảo” tập I, 1920 – 1954, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.130; Việc đổi tên Đảng xem các trang 140, 141; hoặc xem Văn kiện Đảng, tập 1, 1930 – 1935, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng TƯ xuất bản, Hà Nội, 1977, Tr.86, 187 – 188.BT) Ngày 30/4/1930, ít lâu sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các chi bộ cộng sản đã ra đời tại Thủ đô hành chính của nước Lào – Viên chăn và tại vùng mỏ thiếc Bo nèn gần đó. Cũng khoảng thời gian đó, các chi bộ khác đã được thành lập ở Phnom Penh và tỉnh Công pông Chàm sản xuất cao su của Campuchia. Chính sự ra đời của các chi bộ này đã mở đường cho việc chuyển Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội thành lập Đảng ở Ma cao, thuộc địa của Bồ đào nha tại Trung Quốc, tháng 10/1930, Đại hội tiến hành dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản có trụ sở tại Matxcơva. Điều này có ý nghĩa là, trong Điều lệ của Đảng mới ra đời này có câu: Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo tất cả các dân tộc ở Đông Dương trong cuộc đấu tranh giành “độc lập hoàn toàn cho Đông Dương và đem lại ruộng đất cho nông dân”. Giới lãnh đạo Trung Quốc và Khme đỏ nói rằng Việt Nam luôn luôn chủ trương một “Liên bang Đông Dương” dưới sự lãnh đạo của Việt Nam. Điều đáng chú ý là: sẽ hết sức phi lý nếu như Đại hội thành lập Đảng đề ra nhiệm vụ đấu tranh cho nền độc lập riêng rẽ cho Việt Nam, Lào và Campuchia trong khi người Pháp kiểm soát toàn Đông Dương về hành chính và quân sự như một đơn vị duy nhất. Tuy nhiên, theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, một nghị quyết của Đảng Cộng sản Đông Dương về vấn đề dân tộc hồi tháng 3/1935 đã viết: Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp khỏi Đông Dương, mỗi dân tộc sẽ có quyền tự quyết; dân tộc ấy có thể gia nhập Liên bang Đông Dương hoặc thành lập một quốc gia riêng; dân tộc ấy được tự ý gia nhập hoặc rút khỏi Liên bang; dân tộc ấy có thể theo bất cứ hệ thống nào tùy ý. Khối liên minh anh em phải dựa trên nguyên tắc chân thành cách mạng, tự do và bình đẳng”. Đây là phương châm chỉ đạo vấn đề dân tộc, được kiên trì tuân thủ trong mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Pháp g ọ g ạ ộ g g p (và về sau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ). Điều này phù hợp với những nguyên tắc quốc tế chủ nghĩa của Cụ Hồ Chí minh về quyền tự quyết của các dân tộc. Về sau, điều này đã được thể hiện trong việc Người dành cho các dân tộc thiểu số ở ngay chính Việt Nam quyền tự trị tối đa.[5] Về vấn đề quyền của các dân tộc Campuchia và Lào được tự do lựa chọn con đường của mình, khóa họp toàn thể lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp vào tháng 6/1941 đã thông qua một Nghị quyết cụ thể khác nữa. Vào lúc đó, Nhật đã kéo vào Đông Dương và chia sẻ quyền lực với chính quyền Vi si của Pháp. Nghị quyết viết: “Sau khi đánh đuổi Pháp và Nhật, chúng ta phải thực hiện đúng chính sách tự quyết dân tộc đối với các dân tộc Đông Dương. Nhân dân Đông Dương có thể hoặc tự tổ chức mình thành một Liên bang Dân chủ Cộng hòa hoặc vẫn là những quốc gia riêng rẽ”. Chẳng bao lâu sau khi giành được chính quyền từ tay Nhật – Pháp tháng 8/1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tháng 9 cùng năm đó, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán về công khai vì những lý do sách lược. Thực ra Đảng rút vào bí mật với ba chi nhánh hoạt động tích cực ở ba nước (Việt Nam, Lào và Campuchia). Vì Việt Nam phát triển hơn nhiều về mặt kinh tế và xã hội, nên Đảng Cộng sản ở đó mạnh hơn nhiều cả về tỷ lệ đảng viên lẫn tốc độ trưởng thành. Chỉ trong năm hoạt động bí mật đầu tiên, số lượng đảng viên của chi nhánh ở Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương hoạt động bí mật đã tăng từ 5.000 đảng viên lên 20.000 đảng viên. Đây là thời kỳ đấu tranh vũ trang chống lại thực dân Pháp đang tìm cách đặt lại ách thống trị trên cả 3 nước. Ba chi nhánh của Đảng bí mật này hoạt động thông qua các tổ chức mặt trận: Việt minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, Lào Ít xa la (Nước Lào tự do) và Ne khum Ít xa rắc (Mặt trận Khme Tự do). Tháng 2/1951, một Đại hội đặc biệt của Đảng Cộng sản Đông Dương, với sự có mặt của đại biểu các Đảng Campuchia và Lào còn đang trong thời kỳ trứng nước, đã tuyên bố thành lập một Đảng Lao động Việt Nam riêng biệt. Một nghị quyết thông qua tại Đại hội này nêu rõ rằng Đảng Lao động Việt Nam, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ giúp đỡ những người cộng sản ở Lào và Campuchia thành lập các tổ chức cách mạng phù hợp với điều kiện cụ thể ở mỗi nước. Các Ban hoặc các Ban Chấp hành Trung ương non trẻ cũng được thành lập cả ở Lào và Campuchia nhằm tổ chức việc lập các Đảng Cộng sản riêng rẽ. Từ đó, Đảng Cộng sản Đông Dương thật sự giải tán. Đảng Lao động Việt Nam có 76 nghìn đảng viên, Campuchia có khoảng 300 đảng viên và Lào có 170 đảng viên. Số lượng đảng viên giữa các Đảng có sự chênh lệch, một phần là do dân số mỗi nước một khác, nhưng chủ yếu là do mức độ phát triển kinh tế – xã hội và giác ngộ chính trị của quần chúng ở các nước này chênh lệch nhau quá nhiều. Các tổ chức vẫn tiếp tục hoạt động. Ngày 3/3/1951, tại cuộc họp chung, ba tổ chức của ba nước quyết định thành lập Liên minh Việt Nam – Khme – Lào nhằm phối hợp đấu tranh chống thực dân Pháp. Chính trên cơ sở quyết định này (công bố ngày 11/3/1951) mà bộ đội Việt Nam về sau đã vào Campuchia và Lào để kề vai chiến đấu cùng với quân đội giải phóng dân tộc Khme và Pathet Lào, các lực lượng vũ trang của Lào Ítxala. Lê Thanh Can nói tiếp: “Ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa ba dân tộc ở Đông Dương, gắn bó với nhau về địa lý, dân tộc (đặc biệt các dân tộc ít người ở vùng biên giới), kinh tế và trên hết, về quan hệ chính trị. Chúng ta có kẻ thù chung là thực dân Pháp và để chiến thắng, điều cốt yếu là ba dân tộc phải đoàn kết với nhau”. Không nghi ngờ gì nữa, chính trình độ đoàn kết có hiệu quả thực sự ấy đã dẫn tới thất bại của Pháp ở Đông Dương, mà tượng trưng là chiến thắng lịch sử của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Chiến thắng đó là sản phẩm của những nỗ lực quân sự thống nhất và có phối hợp. Trong khi các lực lượng của ông Võ Nguyên Giáp đóng vai trò chủ yếu tại Điện Biên Phủ, thì cũng phải kể đến vai trò hỗ trợ có tầm quan trọng sống còn của Pa thét Lào ngăn chặn âm mưu của Pháp đưa quân tiếp viện từ Lào tới giải vây cho cứ điểm đang bị vây hãm đó và của các lực lượng Khme Ít xa rắc đã giải phóng được một phần ba Campuchia và đang băm nát các tuyến giao thông của Pháp. Có những kẻ ra sức giải thích rằng sau khi Khme đỏ lên cầm quyền, mối quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam xấu đi là do “mối thù truyền kiếp” giữa hai dân tộc, những kẻ đó đã cố tình làm ngơ tình đoàn kết chiến đấu và sự phối hợp chặt chẽ của hai dân tộc đã có từ những ngày đầu tiên khi thực dân Pháp chiếm đóng Đông Dương. Thậm chí cả khi chưa có một tổ chức nào đứng ra phối hợp cuộc đấu tranh giải phóng Đông Dương, thì các sĩ quan Pháp cũng đã phải than thở là thường xuyên bị tấn công cùng một lúc trên cả hai mặt trận dọc biên giới Việt Nam – Campuchia. Người Việt Nam tấn công khi thấy người Pháp gặp khó khăn ở bên Campuchia và người Campuchia cũng làm tương tự. Do đó, chính việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương đã tạo nên thành tố cốt yếu cho chiến thắng. Với mục đích chủ yếu là giải phóng các dân tộc Đông Dương, Đảng đã động viên và tổ chức tình đoàn kết giữa ba dân tộc và phối hợp cuộc đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc của họ. Bất cứ một công trình nghiên cứu khách quan nào về vai trò của Khme đỏ dưới sự lãnh đạo của Pol Pot và Iêng Xari cũng đều phải đi đến kết luận rằng mục tiêu của Ban lãnh đạo Khme đỏ là phá hoại tình đoàn kết này và đẩy các dân tộc Khme, Lào và Việt Nam đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau. II. Khme Ít Xa–rắc Trong vòng một năm sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào bí mật và bắt đầu hoạt động thông qua các tổ chức mặt trận ở Việt Nam, Lào và Campuchia, tổ chức ở Campuchia – Khme Ít xa rắc – mở đầu một cuộc tấn công. Tháng 8/1946, du kích Khme Ít xa rắc tiêu diệt gọn một đồn quân của Pháp đóng ở Xiêm riệp và thu toàn bộ vũ khí. Từng bước, họ bắt đầu xây dựng những căn cứ du kích trên những vùng rộng lớn ở Tây Bắc, Tây Nam và Đông Nam Campuchia. Khẩu hiệu là “lấy súng địch đánh địch”, địch ở đây rõ ràng là lực lượng chiếm đóng Pháp. Sau khi khởi đầu một cách tốt đẹp, Khme Ít xa rắc thành lập những xưởng vũ khí ở trong rừng để chế tạo mìn, lựu đạn, ba dô ca hạng nhẹ và những vũ khí khác thích hợp với chiến tranh du kích. Từ năm 1946 đến 1949, các Ủy ban nhân dân được thành lập ở cấp huyện và cả ở cấp xã trong nhiều tỉnh; đơn vị tự vệ cũng được thành lập để bảo vệ dân làng. Với sự phát triển của những tổ chức này, những nhóm kháng chiến ở các vùng biệt lập được liên kết lại, cho đến khi xuất hiện một mặt trận quân sự – chính trị rộng lớn và thống nhất. Từ năm 1947 đến cuối năm 1949, không có một sự kiện quân sự nổi bật nào trong cuộc chiến tranh Đông Dương (Sự thực, trong năm 1947 có sự kiện nổi bật là quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong chiến dịch Việt Bắc, đã phá tan cuộc tấn công Thu Đông của giặc Pháp (từ ngày 7/10 đến ngày 19/11/1947) – Sơ thảo Lịch sử Đảng, Tr.550 – 557). Người Pháp tập trung vào việc “bình định”; còn các lực lượng kháng chiến thì tập trung xây dựng tổ chức và đặt cơ sở cho cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài trên cả ba nước Đông Dương. Thắng lợi của những người cộng sản Trung Quốc và việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ngày 1/10/1949 với triển vọng của một biên giới hữu nghị để vận chuyển vũ khí giữa Bắc Việt Nam và Trung Quốc – rõ ràng tình hình sẽ thay đổi. Chính phủ Pháp phái Bộ trưởng Chiến tranh, tướng Rơ ve sang thị sát tình hình Đông Dương. Theo sự đánh giá của ông ta – cũng như của M. Mắc Đô nan, Cao ủy Anh tại Đông Nam châu Á, người cùng đi với ông ta trong chuyến thị sát – thì miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào đã được “bình định”. Vấn đề duy nhất còn lại là tiêu diệt Việt minh ở miền Bắc Việt Nam. Theo họ, vấn đề chủ yếu là giữ vững đồng bằng sông Hồng; từ đó người Pháp có thể mở một chiến dịch để vây quét Quân đội Nhân dân Việt Nam của tướng Giáp. Đó chính là kiểu phân tích ệ g p p giản đơn, thực dân và sô vanh mà người Pháp (và sau họ là người Mỹ) vẫn tiếp tục tiến hành, trên cở sở giả định ngầm về xu thế của chính họ. Tuy nhiên, quyết định tập trung lực lượng của Pháp vào miền Bắc là điều mà Thái tử Sihanúc của Campuchia đã nhanh chóng lợi dụng. Ông ta dùng các cuộc đột kích của Khme Ít xa rắc, chiến đấu dưới ngọn cờ “độc lập dân tộc”, làm một căn cứ then chốt để thuyết phục người Pháp rằng ông ta phải là “nhà vô địch vinh quang” – của độc lập dân tộc. Ngày 8/11/1949, nước Pháp trao cho Campuchia một vài phục sức bên ngoài của một nền độc lập. Sihanúc còn được phép có lực lượng vũ trang riêng. Khme Ít xa rắc đã thận trọng không tấn công lực lượng của Sihanúc. Nhưng sau hậu trường, như một người lãnh đạo của Khme Ít xa rắc còn sống sót nói với tôi sau này: “Chúng tôi huy động nhân dân làm áp lực với Sihanúc với tư cách là người cha tinh thần của nhân dân trong vai trò kép của ông ta là Vua và là người đứng đầu hàng giáo phẩm Phật giáo. Phải làm cho ông ta hiểu nỗi đau khổ của nhân dân dưới chế độ thực dân và bước xuống bên cạnh nhân dân. Ông ta sẽ bị mất danh dự nếu cứ làm tay sai cho Pháp, là kẻ đã đưa ông ta lên cầm quyền. Đường lối lúc đó là tấn công quân Pháp về quân sự để nêu rõ với Sihanúc trách nhiệm của ông ta. Trong một chừng mực nào đó, chúng tôi đã thành công”. Trên mặt trận chính trị, cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp tháng 12/1947 đã mang lại 54 ghế cho Đảng Dân chủ và 21 ghế cho Đảng Tự do bảo hoàng. Việc những người Dân chủ ngày càng có cảm tình với Khme Ít xa rắc đã khiến cho Sihanúc, có lẽ dưới sức ép của Pháp, giải tán Quốc hội vào tháng 9/1949. Tiếp đó, ông ta cử một chính phủ cánh hữu gồm những người Dân chủ bảo thủ đứng đầu là Yêm Xambo, một người trong nhóm cánh hữu chống lại sự có mặt của Pháp với hy vọng thu lượm được ít nhiều lợi ích kinh tế mà việc người Pháp ra đi sẽ có thể đem lại. Sau khi lập nên chính phủ Yêm Sambo, mà ông ta có thể tin cậy ở sự phục tùng, Sihanúc trao cho Cao ủy Pháp một yêu sách 5 điểm: 1. Chủ quyền nội bộ thực sự cho Campuchia. 2. Tự do đặt quan hệ đối ngoại với các cường quốc chính trên thế giới và có đại diện tại Liên Hợp Quốc. 3. Từng bước và nhanh chóng giảm các quân khu của Pháp ở Campuchia và thay thế sự có mặt của Pháp ở đó bằng sự có mặt của quân đội Campuchia. 4. Ân xá cho tất cả các chiến sĩ kháng chiến. 5. Có thái độ rộng lượng đối với việc trả lại tự do và ân xá hoàn toàn cho các tù binh và tù chính trị và những người lưu vong – kể cả Sơn Ngọc Thành.[6] Tất cả những yêu sách này cuối cùng đều được đáp ứng và Campuchia tham gia Liên hợp quốc với tư cách một thành viên độc lập và có chủ quyền. Cuộc đấu tranh vũ trang tăng nhanh nhịp độ và quy mô. Việc chuyển quân Pháp từ Campuchia sang Bắc Việt Nam năm 1950 đã khiến cho hoạt động của Khme Ít xa rắc được dễ dàng, nhưng không mảy may cải thiện tình hình quân sự chung của Pháp. Đêm 16/9/1950, tướng Giáp mở một trong những chiến dịch quyết định của cuộc kháng chiến trường kỳ, một chiến dịch đã mở đường cho Điện Biên Phủ. Chiến dịch này, gọi là “Chiến dịch Biên giới”, kéo dài 6 tuần lễ. Khi chiến dịch kết thúc, toàn bộ vùng biên giới Bắc Việt Nam – Trung Quốc đã được nắm chắc trong tay Việt minh cả về chiều sâu lẫn chiều dài. Cao bằng, Lạng Sơn và Lào cai ở ngay sát vùng biên giới, cũng như Thái nguyên (đúng ra là Bắc cạn, chứ không phải Thái nguyên như tác giả đã viết – BT) và Hòa bình ở phía sau, nằm trong số các tỉnh lỵ được giải phóng. Việt minh đã khai thông được một biên giới với thế giới xã hội chủ nghĩa và như nhà viết sử Nguyễn Khắc Viện trình bày, đã thiết lập được “một hậu phương rộng lớn kéo dài từ Trung Quốc tới Tiệp Khắc”. Đó là thất bại lớn nhất của Pháp tính đến lúc đó và chỉ kém thất bại ở Điện Biên Phủ sau đó ba năm rưỡi. Tổng chỉ huy quân đội Pháp, tướng Raun Xalăng, bị triệu hồi và bị thay thế bằng một người chiến binh tiếng tăm lừng lẫy nhất nước Pháp, Thống chế Giăng Đờ Lát đờ Tátxinhi, cùng với 20 nghìn quân tăng viện. Đờ Lát thành công trong việc để mất các vị trí then chốt ở đồng bằng sông Hồng. Trong vòng vài năm, ông bị tướng Henri Nava thay thế, ông này đến nơi vào tháng 3/1953 với một kế hoạch nổi tiếng, được Oasinhton ủng hộ, nhằm “kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng”. Đúng một năm sau đó, trận Điện Biên Phủ bắt đầu. Cuộc vật lộn chính trị nội bộ ở Campuchia, việc các chính phủ được lập lên rồi sụp đổ và việc Sihanúc chà đạp các thể thức dân chủ mỗi khi chúng không mang lại kết quả như ông ta mong muốn – nhưng vấn đề mà một vài học giả rất quan tâm – chẳng có ý nghĩa gì mấy. Tương lai của Campuchia, đặc biệt vấn đề then chốt là nền độc lập của Campuchia, sẽ được định đoạt không phải bởi Đảng Dân chủ, đứng đầu là Hoàng thân Hay Cathun sau cái chết của Hoàng thân Yutêvong, hoặc Đảng Dân túy của Xônxan, hoặc Đảng Duy tân Khme của Lon Non, hoặc bất cứ Đảng nào khác đang tranh giành quyền lực. Tương lai của Campuchia sẽ được định đoạt bởi các thắng lợi của Việt minh trên chiến trường, với sự hỗ trợ của các phong trào giải phóng dân tộc Pathét Lào và Khme Ítxarắc được Việt minh ủng hộ. Điều không thể chối cãi được là các lực lượng kháng chiến Việt Nam đã gánh phần chủ yếu của cuộc đấu tranh. Người Pháp (và sau này là người Mỹ) đã coi Đông Dương như một chiến trường duy nhất. Cụ Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp và các nhà lãnh đạo đồng sự của họ cũng bị buộc phải làm như vậy. Nhưng trong cách làm thì họ rất tôn trọng những tình cảm dân tộc của các đồng minh Campuchia và Lào và đã giúp đỡ những người này giành độc lập và chủ quyền của chính mình. Mặc dù lực lượng chiến đấu chủ yếu trong cả ba nước là người Việt Nam, nhưng ở Campuchia và Lào họ vẫn chiến đấu trong các tổ chức của Khme Ítxarắc và Lào Ítxala. Trong nội bộ các tổ chức này, Ban lãnh đạo Việt minh đã làm hết sức để phát triển những cơ cấu chính trị và quân sự thực sự dân tộc của Khme và Lào. Chiến trường chủ yếu vẫn là Việt Nam cho đến khi kết thúc. Năm 1952, người Pháp có 237 tiểu đoàn ở Đông Dương. Trong số 54 tiểu đoàn chiến đấu, 50 tiểu đoàn được tập trung ở Việt Nam và trừ 10 tiểu đoàn, số còn lại đều tập trung ở miền Bắc. Trong số 179 tiểu đoàn “bình định” thì 30 tiểu đoàn được sử dụng ở Lào và Campuchia, còn lại 149 tiểu đoàn ở Việt Nam, trong đó 61 tiểu đoàn ở miền Bắc. Trong vòng một năm, số tiểu đoàn chiến đấu đã tăng lên 80 tiểu đoàn, trong đó 71 tiểu đoàn ở Việt Nam và 9 tiểu đoàn ở Lào. Đến tháng 3/1953, ở Campuchia chỉ có 2 tiểu đoàn “bình định” của Pháp và 5 tiểu đoàn của Quân đội Hoàng gia Khme do người Pháp chỉ huy. Chính những thắng lợi của Việt minh trên các chiến trường Việt Nam và Lào là nhân tố chính đã tạo điều kiện cho việc giành độc lập của Campuchia dưới chế độ quân chủ vào cuối năm 1953. Sihanúc là một trong số rất ít người đã nhận thức được điều đó và ông ta đã tận dụng mỗi thắng lợi trên bất cứ mặt trận nào để leo lên thêm một bậc trên chiếc thang độc lập. Ông ta đã đích thân tham gia vào hoạt động chính trị, điều thật hiếm đối với một người ở cương vị ông ta. Tháng 6/1952, ông giải tán Chính phủ và giữ ghế Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Tiếp đó, ông ta phát động cái mà sau này ông ta gọi là cuộc thập tự chinh Hoàng gia giành độc lập. Lúc đó, nước Pháp không chịu trao nền độc lập hoàn toàn cho Campuchia, với lý do rằng các căn cứ ở Campuchia là cần thiết cho người Pháp để đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Việt minh. Sihanúc giải thích lập trường của mình như sau: “Tôi nói rõ lập trường của tôi với người Pháp. Mặc dù tôi không muốn thấy Việt minh trên đất Campuchia, việc họ làm ở g y ệ p ệ ọ chính nước họ chẳng liên quan gì đến Campuchia và tôi không muốn Campuchia được dùng làm căn cứ hành quân chống lại họ. Tôi tiếp tục đòi độc lập hoàn toàn”. Nhằm làm cho Sihanúc hoảng sợ, do đó làm dịu bớt chiến dịch vì độc lập do ông ta tiến hành, người Pháp dựng lên một phong trào Khme Ítxarắc giả, bọn này tiến hành các cuộc tiến công khủng bố đặc biệt nhằm vào nền quân chủ. Sihanúc đối phó lại thật điển hình bằng cách khuyến khích một số sĩ quan và binh lính của quân đội Hoàng gia “đào ngũ” sang phía Khme Ítxarắc thật và bảo đảm họ không bị thiếu vũ khí. Trong một công hàm gửi Tổng thống Pháp Ôriôn ngày 5/3/1953, Sihanúc đã ca ngợi sức mạnh của lực lượng Khme Ítxarắc hơn cả những điều họ nói về bản thân họ. Ông ta cũng kiên quyết bác bỏ lập luận của người Pháp cho rằng họ cần duy trì chỗ đứng của họ tại Campuchia, cần phải giữ nơi đây làm một căn cứ để chiến đấu chống Việt minh… Ông ta viết: “Chính sách hiện nay của Pháp tại Đông Dương dựa trên tư tưởng cho rằng mục đích chính trong lúc này là thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống Việt minh, nhưng điều đó chẳng có gì liên quan đến lợi ích của nhân dân Campuchia thực lòng gắn bó với những tư tưởng tự do và độc lập”. Ông ta nói rằng 3/5 lãnh thổ Campuchia đã bị Khme Ítxarắc chiếm (nhưng họ nói chỉ chiếm 1/3). Nhưng, thay vào việc lấy đó làm một lập luận để yêu cầu người Pháp tiếp tục ở lại, Sihanúc lại dùng nó để đẩy mạnh yêu sách đòi độc lập, vạch rõ rằng Khme Ítxarắc đã bắt rễ sâu trong nhân dân, rằng sức mạnh của họ bắt nguồn từ việc họ chiến đấu dưới ngọn cờ độc lập dân tộc. “Là những người con của đất, nông dân và cả người thành phố[7] những lời tuyên bố yêu nước của họ đã được sự hưởng ứng thuận lợi của dân chúng và cả giới sư sãi, những người có ảnh hưởng to lớn khắp Vương quốc và họ có những người theo họ một cách trung thành trong quần chúng cũng như trong giới thượng lưu của dân tộc… Hiểm họa Ítxarắc tự nó là có thật… Những kẻ phiến loạn này thường phục kích các đội tuần tra của bảo an tỉnh, cảnh sát, quân đội và gần đây – một mình hoặc cùng với Việt minh – đã thu được những kết quả có tác động đối với dư luận… Tôi có thể trả lời gì được khi tuyên truyền của Ítxarắc chứng minh cho nhân dân và giới sư sãi rằng Campuchia không phải là thực sự độc lập? Giải pháp mà tôi đề nghị là giao cho Nhà Vua (Sihanúc) và Chính phủ của Người các trách nhiệm chính về cai trị đất nước. Việc này có thể bao gồm việc chuyển giao các đặc quyền cho đến nay vẫn do người Pháp nắm giữ; điều đó sẽ dẫn đến việc Nhà Vua và Chính phủ Hoàng gia phải tự tìm lấy những biện pháp cần thiết để thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình… Chỉ bằng cách đó chính sách của Pháp mới được nhân dân chúng tôi thông cảm và chấp nhận và tôi cần nhấn mạnh rằng, nhân dân chúng tôi đã trưởng thành nhiều hơn bao giờ hết, họ đòi hỏi những thuộc tính thực sự của độc lập…”. Câu trả lời của Chính phủ Pháp chắc chắn không phải là điều mà Sihanúc mong đợi: “Niềm hy vọng của tôi tăng lên khi tôi được mời sang Paris dự ăn trưa với Tổng thống Pháp Ôriôn ngày 25/3/1953. Người ta đã bảo đảm với tôi rằng những thông điệp của tôi gửi Chính phủ Pháp đã được nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng. Cuộc thảo luận trong bữa ăn trưa không mang lại kết quả gì; và Tổng thống Ôriôn cho biết rằng tôi rời đất Pháp về Campuchia càng sớm bao nhiêu thì ông ta càng hài lòng bấy nhiêu. Ông ấy còn đi xa đến mức đưa vào trong thông báo chính thức một câu thật xúc phạm, nói rằng Vua Sihanúc “phải trở về Phnom Penh trong vòng vài ngày…”. Tại sao một nước Pháp chỉ mới gần đây thôi đã phải trải qua cuộc đấu tranh của chính mình chống bọn chiếm đóng Quốc xã lại không thể hiểu được nguyện vọng của nhân dân Campuchia – thực tế là tất cả nhân dân các nước Đông Dương: đó là điều tôi không thể nào hiểu nổi. Điều khó hiểu hơn nữa là một Tổng thống thuộc Đảng Xã hội lại có thể có thái độ như vậy. Lại còn có những lời bóng gió nói rằng tôi có thể “mất Ngai vàng” nếu tôi đi quá xa. Phải chăng Ngai vàng là của họ để họ muốn cho thì cho, muốn lấy thì lấy?”[8] Bất chấp chỉ thị của “người bảo hộ”, Sihanúc lên đường đi Hoa Kỳ qua đường Canada ngày 13/4/1953, tin rằng có thể tìm được ở đó sự ủng hộ đối với yêu cầu cấp bách phải trao trả “độc lập hoàn toàn” cho ba quốc gia Đông Dương. “Đó là chủ đề chính của cuộc thảo luận một tiếng đồng hồ với Giôn Photxtơ Đalét. Phản ứng của ông ấy thật chua chát, tối thiểu là như vậy: “Hãy đánh bại Chủ nghĩa Cộng sản trong khu vực của ông! Sau đó, chúng tôi sẽ làm áp lực với Pháp để làm những gì cần thiết”. Đó là nội dung chủ yếu của lời khuyên kẻ cả của ông ấy. Ông ta khư khư giữ ý kiến về yêu cầu khẩn cấp phải diệt Việt minh và về tầm quan trọng của sự đóng góp của Campuchia vào việc đó… “Chúng ta đang ở thời điểm quyết định nhất của cuộc chiến tranh. Phải đánh thắng cuộc chiến tranh này. Vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta phải thống nhất lực lượng và phương tiện, chứ không phải cãi nhau và chia rẽ. Cuộc tranh chấp của ông với nước Pháp sẽ chỉ có lợi cho kẻ thù chung của chúng ta… Không có sự giúp đỡ của quân đội Pháp thì nước ông sẽ nhanh chóng bị bọn Đỏ chinh phục và nền độc lập của các ông sẽ đi đời”.[9] Hồi đó Sihanúc là một người thực tế, nếu xưa nay quả đã có người thực tế. Sự hiểu biết về lịch sử của chính đất nước ông ta đã cho ông ta thấy rằng nếu người Pháp thành công trong việc đánh bại Việt minh, thì chỉ qua một đêm tí chút nền độc lập mà ông ta giành được sẽ biến mất. Lịch sử thực dân hóa của Pháp trong khu vực là lịch sử liên tiếp dùng một nước làm căn cứ để khuất phục nước láng giềng. Việc giành độc lập thực sự cho Campuchia tùy thuộc vào thắng lợi toàn bộ của Việt minh. Sihanúc đã rút ra những kết luận khôn ngoan từ những cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo phương Tây. Trên đường từ Hoa Kỳ trở về, ông nhận được một bức điện của Đalét. Trong bức điện, Đalét một lần nữa kêu gọi ông ta hợp tác với Pháp “trong một thời điểm mà nguy cơ cộng sản xâm lăng Lào đã quá rõ ràng và Hoa Kỳ quyết tâm tăng cường và đẩy nhanh viện trợ để cứu nhân dân Khme khỏi sự xâm lược của cộng sản. Bình luận về bức điện này, Sihanúc về sau nhận xét: “Những người muốn làm tôi nản chí thích làm ra vẻ rằng, đâu đó trong quá trình phát triển của tôi, nhất định là tôi đã bị Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tẩy não. Nhưng chính những người như Vanhxăng Ôriôn, Giôn Photxtơ Đalét – và sau đó Risớt Níchxơn – phải chịu trách nhiệm về sự giáo dục chính trị của tôi. Trong con mắt những nhà lãnh đạo này, độc lập là một cái có thể mặc cả, chứ không phải vì lợi ích của đất nước nhỏ bé có liên quan”.[10] Bằng sự kết hợp một cách đúng đắn ngoại giao, hăm dọa và cuối cùng dùng lực lượng vũ trang của mình tước vũ khí vài đơn vị quân đội Pháp – với sự tính toán kỹ càng thời điểm của từng bước đi sao cho khớp với sự lúng túng tối đa về quân sự của Pháp ở Bắc Việt Nam và Lào – Sihanúc đã moi được từ nước Pháp những tiền đề của một nền độc lập hoàn toàn từ ngày 9/11/1953. Từ đó chỉ còn một bước ngắn tới Hội nghị Giơnevơ năm 1954 và sự công nhận quốc tế đối với nền độc lập hoàn toàn của Campuchia. Phần thưởng giành thêm được ở Giơnevơ là việc triệt thoái những kẻ thù tiềm tàng nguy hiểm nhất của ông ta – những du kích Khme Ítxarắc dày dạn chiến đấu và đồng minh Việt minh của họ, kể cả các cán bộ chính trị và quân sự đã cùng nhau chiến đấu trong thời kỳ đầu khó khăn nhất. III. Hội nghị Giơnevơ 1954 Khi các nhà viết sử vạch rõ trở ngại chủ yếu đối với cách mạng Campuchia, họ đã lưu ý đến những hậu quả của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương và đặc biệt là vai trò của Trung Quốc tại Hội nghị đó. Pol Pot và phe cánh không có lý do gì để tranh cãi về điều này, vì chúng không đóng vai trò gì trong việc đánh bại người Pháp. Nhưng các chiến sĩ kháng chiến Khme Ítxarắc có tham gia cuộc đấu tranh đó đã bị cướp mất tại Giơnevơ phần của họ trong thắng lợi chung của nhân dân ba nước Đông Dương đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Phần bàn về Đông Dương của Hội nghị Giơnevơ (Hội nghị này bắt đầu bằng những cuộc thảo luận thất bại về Triều Tiên) khai mạc ngày 8/5/1954. Dẫn đầu đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ngoại trưởng Phạm Văn Đồng. Ngày hôm trước ông đã nhận được một vũ khí cực kỳ thần diệu đối với một nhà thương lượng, đó là chiến thắng của tướng Võ Nguyên Giáp, bạn chiến đấu gần gũi của ông, đánh bại lực lượng ưu tú của quân đội viễn chinh Pháp trong trận Điện Biên Phủ lịch sử.[11] Trong phiên họp đầu tiên, ông Phạm Văn Đồng nêu vấn đề đại diện của Khme Ítxarắc và Lào Ítxala. Xét cho cùng đây là Hội nghị để chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương! Pháp là một bên tham chiến; các lực lượng kháng chiến Việt Nam, Campuchia và Lào là bên kia. Đại biểu của những người được phép bảo trợ – “Hoàng đế” Bảo Đại của Việt Nam, Vua Sihanúc của Campuchia và Vua Xavang Vathana của Lào – đã tham gia Hội nghị. Ngoại trưởng Pháp Gioócgiơ Biđôn cực lực phản đối sự có mặt của Khme Ítxarắc và Lào Ítxala, chế diễu rằng họ chỉ là những “bóng ma không tồn tại”. Đó là một câu nói khiếm nhã mà Biđôn đã từng dùng để nói về ông Phạm Văn Đồng trong một cuộc thảo luận tại Liên hợp quốc mấy tháng trước đó. Ông Đồng đã nhanh chóng nhắc lại với Biđôn điều đó. “Nhưng nay tôi đến đây để thảo luận với ông. Pathét Lào[12] và Khme Ítxarắc đang chiến đấu cũng như người Việt Nam đang chiến đấu. Họ không phải là những bóng ma. Tại Hội nghị này có những người đang cử động và nói năng và trong số đó có những cái bóng của những bóng ma thực sự, họ không đại diện cho thực tế. Họ đại diện cho một dĩ vãng đã vĩnh viễn qua rồi. Nhưng cũng như ông, họ muốn bám lấy những ảo tưởng. Đó chính là những bóng ma thực sự”. Đây là một cú đích đáng và càng đích đáng hơn vì toàn bộ đoàn đại biểu Pháp đang mặc comple màu đen để tang cho thất bại Điện Biên Phủ – Biđôn và đồng sự của ông ta vậy là đã vô tình nhấn mạnh trước thế giới tầm cỡ của thất bại đó và sự thật rằng đó là một sự kiện lịch sử, mà tầm quan trọng đã vượt xa khuôn khổ của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. Vấn đề “bóng ma” đã trở thành những đầu đề trên báo chí Pháp ngày hôm sau. Trong tất cả các phiên họp đầu tiên, ông Phạm Văn Đồng nêu đi nêu lại vấn đề đại diện của Khme Ítxarắc và Pathét Lào. Nhưng đó là một tiếng nói đơn độc. Trong khi Biđôn có thể trông cậy vào sự ủng hộ vững chắc của phương Tây (Anh và Hoa Kỳ), ông Phạm Văn Đồng bị cô lập về vấn đề đại biểu cũng như về các vấn đề then chốt khác. Đại biểu cho phe xã hội chủ nghĩa là Ngoại trưởng Liên Xô Viachétxláp Molotốp và Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Chu Ân Lai. Các đoàn đại biểu Khme Ítxarắc và Pathét Lào đến Giơnevơ thật giống như những “khách không mời mà đến”. Sự có mặt của họ được giữ hết sức bí mật và đoàn đại biểu duy nhất mà họ có liên hệ là đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuối cùng Chu Ân Lai thuyết phục ông Phạm Văn Đồng phải có một cách nhìn “thực tế” và “thực dụng” và không nên nếu vấn đề đại diện của Khme Ítxarắc và Pathét Lào ra các phiên họp toàn thể nữa. Và như vậy, vấn đề này bị chôn vùi trong một tiểu ban. Cuộc tranh luận tiếp tục gay go hơn bao giờ hết, về vấn đề các khu vực tập kết và các giới tuyến sẽ phân định chúng. Đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đấu tranh rất dữ cho Khme Ítxarắc có một vùng tập kết, nhưng không được sự ủng hộ của Chu Ân Lai về vấn đề này vì lý do đơn giản là Trung Quốc không có biên giới chung với Campuchia. Sau này, người ta biết rõ là trong khi người Việt Nam để cứu cách mạng Campuchia và Lào và bảo đảm cho các lực lượng cách mạng ở hai nước này ự ợ g ạ g y những phần thưởng chính đáng của thắng lợi chung, thì Trung Quốc chỉ quan tâm đến việc thiết lập những khu đệm để bảo đảm an toàn dọc biên giới của họ. Vì vậy, Chu Ân Lai ủng hộ việc lập một vùng tập kết cho Pathét Lào, nhưng vùng này phải được bố trí thế nào đó để phục vụ cho lợi ích an ninh của Trung Quốc hơn là lợi ích của cách mạng Lào. Cuộc thảo luận lớn là về việc phải phân chia nước Lào theo kinh tuyến hay vĩ tuyến. Các căn cứ kháng chiến mạnh nhất của Pathét Lào đều ở miền Trung hoặc miền Nam, nhất là các tỉnh Atôpơ, Xaravan và trên cao nguyên Boloven. Việc lập một khu đệm, trong đó có Phongxalỳ, một tỉnh dân cư thưa thớt ở cực Bắc có biên giới chung với Trung Quốc, là phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Ông Phạm Văn Đồng lại phải tiến hành một cuộc đấu tranh đơn độc với một phương Tây thống nhất chống lại ông, còn Chu Ân Lai thì đứng về phía họ. Bị cô lập và buộc phải thương lượng nhân danh các phong trào kháng chiến Campuchia và Lào, ông đã phải có những nhân nhượng không phải được biện minh bằng so sánh lực lượng hoặc thực tế chiến trường, mà là được thúc đẩy bởi lợi ích của Trung Quốc và tinh thần chung về “hòa hoãn” và “cùng tồn tại hòa bình” đang ngự trị trong phe xã hội chủ nghĩa châu Âu lúc bấy giờ. Vậy là các lực lượng cách mạng Lào phải rút khỏi các cứ điểm mạnh trong 10 tỉnh của Lào và tập kết vào 2 tỉnh cực Bắc là Phongsalỳ và Sầm nưa. Chu Ân Lai nói rằng điều đó sẽ tạo cho Bắc Việt Nam có một biên giới chung với Lào và, do đó có một “khu đệm”. Nhưng nó có nghĩa là Pathét Lào sẽ phải rời bỏ những vùng căn cứ quan trọng nhất của họ, rời bỏ nhân dân đã từng trung thành ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang của họ trong nhiều năm. Nhiều năm sau, một phụ tá cao cấp của ông Phạm Văn Đồng tại Hà Nội nói với tôi: “Đối với chúng tôi, vấn đề không phải là các khu đệm. Vấn đề là toàn bộ nước Lào, sự thống nhất và độc lập của nước Lào, sự bảo toàn các căn cứ để bảo đảm thắng lợi cuối cùng. Độc lập, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đó là khẩu hiệu của chúng tôi – chúng tôi đã làm mọi việc để những nguyên tắc này được chấp nhận và chúng tôi không bao giờ từ bỏ lập trường đó. Lập trường của chúng tôi là: ‘Chúng ta hãy thực tế. Cố bám lấy nguyên tắc bây giờ là không thực tế. Chúng ta hãy đề cập đến các vấn đề cụ thể. Những vấn đề quân sự – chấm dứt chiến sự. Sau đó sẽ đề cập đến nguyên tắc’. Họ không muốn nói đến quá khứ: ‘Việc đó sẽ chỉ đầu độc bầu không khí. Chúng ta hãy chỉ đề cập đến hiện tại thôi’. Không may cho chúng tôi có những đồng minh nhân danh ‘chủ nghĩa thực tế’ và ‘chủ nghĩa thực dụng’, cũng đã khuyên chúng tôi không nên ‘đầu độc bầu không khí’ mà phải nhượng bộ”. Theo dõi việc đưa tin về Hội nghị Giơnevơ từ ngày đầu đến ngày cuối, tôi và các nhà báo khác có quan hệ chặt chẽ với các đoàn xã hội chủ nghĩa – không nghi ngờ gì về việc đoàn Trung Quốc không ủng hộ mạnh mẽ đoàn Việt Nam. Nhiều năm sau Hội nghị, các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nói một cách trung thành: “Các kết quả đó đạt được qua thảo luận và thỏa thuận chung”. Điều đó đúng sự thật theo nghĩa đen, nhưng không đúng sự thật thực sự, dù chỉ là một nửa. Khi Hội nghị thảo luận đến vấn đề quy định một giới tuyến để quân đội Pháp rút về phía Nam và quân đội Việt Minh rút về phía Bắc, ông Phạm Văn Đồng đề nghị một đường ranh giới dọc theo vĩ tuyến 13. Trong tình hình thảm hại của lực lượng Pháp sau thất bại Điện Biên Phủ và số còn lại trong những lực lượng tinh nhuệ của họ thì đang bị bao vây ở đồng bằng sông Hồng và các nơi khác ở miền Bắc, đó không phải là một đề nghị không phải chăng. Đề nghị đó sẽ cho Việt Minh có 100km biên giới chung với Campuchia và sẽ bù đắp lại việc họ không giành được một vùng tập kết cho các lực lượng Khme Ítxarắc. Nhưng trước “chủ nghĩa thực tế” và “chủ nghĩa thực dụng” đó, từng bước ông Phạm Văn Đồng đã buộc phải lùi đường ranh giới của mình qua vĩ tuyến 14 (như vậy cũng vẫn cho Việt Minh có một biên giới nhỏ với Campuchia), rồi qua vĩ tuyến 15 tới vĩ tuyến 16, tới đó ông kiên quyết giữ lập trường. Đã hai lần trong lịch sử Việt Nam, vĩ tuyến 16 từng là ranh giới phân chia tạm thời. Sau Thế chiến thứ hai, khi Quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc kéo vào phía Bắc và quân đội Anh vào phía Nam (bề ngoài là để vây quét tàn dư của quân đội chiếm đóng Nhật và đưa chúng về Nhật), đường ranh giới giữa hai lực lượng này chạy dọc theo vĩ tuyến 16 và qua ngoại ô phía Nam của Đà nẵng. Khi đất nước bị chia cắt giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn vào thế kỷ 17, đường ranh giới cũng chạy dọc theo vĩ tuyến 16. Vĩ tuyến 16 trở thành giới tuyến logic – nếu cần phải có một giới tuyến. Nhưng người Pháp đòi một đường ranh giới dọc vĩ tuyến 17. Sau một cuộc gặp riêng giữa Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng mới của Pháp, Pie Măngđét Phrăng và Chu Ân Lai, Chu ủng hộ lập trường của Pháp.[13] Vấn đề vĩ tuyến 17 hay 16 có tầm quan trọng chiến lược trọng yếu. Giữa hai vĩ tuyến đó có quốc lộ số 9 nối Lào với bờ biển Việt Nam. Người Pháp muốn giữ quốc lộ 9 để duy trì sự kiểm soát đối với Lào. Ông Phạm Văn Đồng muốn có nó để có thể tiếp tục sự ủng hộ của Việt Minh đối với Pathét Lào. Người phụ tá của ông Phạm Văn Đồng, sau này thông báo cho tôi về những gì thực sự đã diễn ra ở Giơnevơ, bình luận: “Người Pháp tìm mọi cách để có thể có được con đường này. Chính tại cuộc gặp gỡ ở Bécnơ giữa Chu và Măngđét Phrăng, người Trung Quốc đã nhượng bộ. Trước cuộc họp đó và sau lưng chúng tôi, họ đã thảo một dự thảo Hiệp định, mà những chi tiết cuối cùng đã được hoàn tất tại Bécnơ. Chúng tôi đứng trước một sự đã rồi. Nhưng còn một vấn đề, chung tôi kiên trì và không chịu nhượng bộ. Chu Ân Lai khuyên chúng tôi đặt Hà Nội, Hải Phòng và Quốc lộ 5 nối liền hai thành phố đó dưới sự kiểm soát của Liên quân Pháp – Việt! Điều đó phù hợp với người Trung Quốc vì khu vực phía Bắc con đường Hà Nội – Hải Phòng vẫn có thể cung cấp một khu đệm đáng kể để bảo vệ biên giới phía Nam của Trung Quốc. Chúng tôi bác bỏ điều này, cũng như bác bỏ một cố gắng sau đó của Pháp muốn đẩy giới tuyến lên đến vĩ tuyến 18. Nhìn lại, chúng tôi thấy người Trung Quốc đã làm hết mọi việc có thể làm – mà chúng tôi phải trả giá – để tranh thủ Chính phủ mới ở Pháp. Quan hệ của họ với Mỹ vẫn còn xấu và họ cần một người bạn phương Tây”. Vấn đề lớn thứ hai gắn liền với vấn đề xác định giới tuyến là việc quy định thời gian tuyển cử. Tất cả mọi người dự hội nghị đều đồng ý về nguyên tắc rằng tuyển cử sẽ được tiến hành sau khi cách ly các lực lượng chiến đấu. Ông Phạm Văn Đồng muốn tuyển cử ở Việt Nam được tiến hành càng sớm càng tốt. Người Pháp muốn tuyển cử bị trì hoãn càng lâu càng tốt, cũng như họ muốn giới tuyến càng bị đẩy lên phía bắc càng tốt. Người Trung Quốc ủng hộ người Pháp về thời gian cũng như về không gian. Chu Ân Lai nói rõ với người Pháp rằng Trung Quốc đến Giơnevơ trước hết là bảo vệ quyền lợi của chính mình chứ không phải vì lợi ích của các lực lượng cách mạng Đông Dương. Điều này trở nên sáng tỏ một cách tàn nhẫn trong một cuốn sách về Hội nghị Giơnevơ, dựa trên những tài liệu về Hội nghị chưa hề được công bố của nhà viết sử và chuyên gia về châu Á người Pháp Phrăngxoa Gioayô. Tác giả kể lại một cuộc họp giữa Chu Ân Lai và Antony Iđơn tại Giơnevơ một ngày trước khi Bộ Ngoại giao Anh công bố quan hệ ngoại giao giữa hai nước sẽ được nâng lên hàng đại sứ. “Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã nói riêng với Iđơn là ông ta nghĩ rằng có thể ‘thuyết phục được Việt Minh rút khỏi Lào và Campuchia’. Qua đó, Trung Quốc đã đi một bước rất dài theo quan điểm của người Campuchia, người Lào, người Anh và người Pháp. Điều đó bao hàm việc thừa nhận rằng Việt Minh đúng là kẻ xâm lược ở hai nước đó, ngược lại với quan điểm lâu nay của Việt Minh. Đó cũng là coi các vấn đề Lào và Campuchia không giống như vấn đề Việt Nam. Ngoài ra, Chu Ân Lai còn nói sẵn sàng công nhận tính hợp pháp của các Chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia ngay khi nào ông ta được bảo đảm rằng q p g y g ợ g không một căn cứ quân sự nào của Mỹ được xây dựng ở hai nước này”.[14] Trung Quốc thực sự đã quyết định quay lưng lại các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Lào và Campuchia để cầu xin ân huệ của các Chính phủ Anh và Pháp. Hiển nhiên là Iđơn đã nhanh chóng truyền đi điều đó. Buổi chiều ngày Chu Ân Lai gặp Iđơn (ngày 16/6), các đoàn đại biểu Vương quốc Lào và Campuchia cực lực đòi phải “rút toàn bộ” quân đội Việt Minh ra khỏi lãnh thổ của họ. Chu Ân Lai bèn đưa ra một đề nghị 6 điểm, trong đó kêu gọi chấm dứt chiến sự đồng thời ở Lào, Campuchia và Việt Nam. Trong đó đề nghị rằng đại diện các “bên tham chiến” (có nghĩa là Việt Minh và Pháp, không đả động gì đến Khme Ítxarắc và Pathét Lào) phải thương lượng ở Giơnevơ để chấm dứt chiến sự, rằng phải “xác định trong một cuộc thương lượng khác về số lượng và các loại vũ khí cần thiết để tự vệ có thể đưa vào các nước này”. Gioayô ghi nhận rằng Trung Quốc đã có những nhượng bộ đáng kể, bởi vì điều đó có nghĩa là: “Nó cho phép trang bị quân đội Chính phủ hiện nay đang tranh đấu chống du kích Pathét Lào và Khme Ítxarắc, và trong tương lai có thể đẩy lùi mọi hoạt động mới của Việt Minh ở bên ngoài biên giới Việt Nam”.[15] Trên thực tế, điều đó có nghĩa là Trung Quốc tìm cách phá vỡ tình đoàn kết cách mạng giữa lực lượng nhân dân ba nước Đông Dương và góp phần tạo điều kiện cho việc tiêu diệt Pathét Lào và Khme Ítxarắc, vì rằng sẽ cấm toàn bộ mọi nhân viên quân sự và vũ khí mới các loại, trừ những gì cần thiết cho việc “tự vệ” của các quốc gia tay sai của Pháp. Gioayô nhận xét rằng ông Phạm Văn Đồng đã “kiên trì giữ vững lập trường cứng rắn của mình” để bảo vệ Pathét Lào và Khme Ítxarắc. “Ông tuyên bố: logic của sự thật đòi hỏi người ta phải công nhận phong trào giải phóng ở hai nước này và bác bỏ những lời khẳng định có dụng ý xấu của những ai muốn giải thích rằng các phong trào đó là do ảnh hưởng từ bên ngoài. Đoàn đại biểu Việt Minh chào mừng mối thiện cảm và kính trọng các phong trào đó, sản phẩm của sự áp bức dã man tàn bạo, bắt nguồn sâu xa từ trong nhân dân và không thể nào tạo nên một cách giả tạo và từ bên ngoài được”.[16] Gioayô bình luận một cách lạnh lùng: “Đó là những lời lẽ gay gắt đến mức mà người ta có thể tự hỏi là những lời lẽ đó nhằm vào ai trong bối cảnh đó”. Chắc chắn là Chu Ân Lai hiểu, nhưng điều đó không ngăn cản ông ta. Ngày hôm sau, ông ta nói với Biđôn vừa bị mất nhiệm rằng: “Đúng là quân đội tình nguyện Việt Nam đã vào lãnh thổ Lào và Campuchia do những yêu cầu của các hoạt động quân sự trước đây. Phần lớn lực lượng đó đã không còn ở đó nữa. Nhưng những lực lượng còn lại cũng sẽ rút về nốt”.[17] Về cuộc họp nổi tiếng ở Bécnơ, Gioayô kể lại rằng một trong những đều bất ngờ của nó là Chu Ân Lai, trong lời mở đầu đã nói rằng ông ta đã “thúc đẩy Việt Minh nhích lại gần không những với nước Pháp mà với cả Việt Nam của Bảo Đại”. Tiếp đó Gioayô tóm tắt bản báo cáo về cuộc họp mà Măngđét Phrăng gửi ngày hôm sau cho các đại sứ quán Pháp ở London và Oasinhtơn. “Ông ta nêu lên 5 điểm đáng ghi nhớ. Trước hết, Trung Quốc đã không tìm cách đòi sự đền bù nhỏ bé nhất nào đối với những nhượng bộ của họ về vấn đề Lào và Campuchia. Thứ hai, Chu Ân Lai không những khẳng định lại sự đồng ý cần thảo luận các vấn đề quân sự trước các vấn đề thuần túy chính trị, mà còn – đây là điều chủ yếu – lần đầu tiên tuyên bố rằng, sau giải pháp quân sự, giải pháp chính trị có thể tiến hành theo nhiều bước trong một thời gian khá dài. Thứ ba, trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã thừa nhận sự cần thiết phải đẩy nhanh việc thương lượng về vấn đề tập kết quân đội Việt Nam – Chu Ân Lai đã nói đến thời hạn 3 tuần lễ – và còn nói thêm rằng Việt Minh cũng mong muốn Hội nghị nhanh chóng đi đến kết quả. Thứ tư, Trung Quốc đã không hề đề cập đến vấn đề Pháp công nhận về ngoại giao, cũng như vấn đề Đài loan và vấn đề Trung Quốc gia nhập Liên hợp quốc. Người ta bèn nhanh chóng báo cho Đài bắc biết tin này. Cuối cùng Chu Ân Lai không tìm cách đòi chính phủ mới của Pháp phải có nhượng bộ đặc biệt gì. Tóm lại, người đứng đầu nền ngoại giao Trung Quốc đã không hề tìm cách khai thác những khó khăn chính trị mà nước Pháp đang trải qua”.[18] Về ba điểm đầu, lập trường của Trung Quốc đối lập hoàn toàn với lập trường của người Việt Nam và các bạn chiến đấu Khme và Lào của họ. Họ đã bị cướp đi khả năng khai thác các thế mạnh trên chiến trường để giành những giải pháp chính trị thuận lợi. Việc đẩy nhanh thủ tục tập kết là có lợi cho người Pháp, vì nó giúp họ rút lực lượng ra khỏi các vị trí không thể giữ được. Kéo dài giải pháp chính trị – trì hoãn càng lâu càng tốt cuộc Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước – cũng có lợi cho Pháp. Việc khăng khăng đòi các thủ tục ngừng bắn cũng lại có lợi cho Pháp, vì nó cho phép có một giải pháp quân sự trước khi người Pháp bị buộc chặt vào những mục tiêu chính trị cụ thể mà lại không có những phương tiện cần thiết để đạt những mục tiêu đó. Măngđét Phrăng đã cam kết sẽ từ chức nếu ông ta không đạt được một Hiệp định ngừng bắn trước nửa đêm ngày 20/7. Phiên họp bế mạc đã được định vào 9 giờ sáng ngày 20. Các nhà báo chờ đợi tại Trung tâm báo chí của Hội nghị sẽ khó quên được đêm đó. Đã sắp đến 9 giờ tối; rồi đồng hồ điểm 9 giờ mà chẳng có một lời nào từ phòng họp. Nhiều phút, rồi nhiều giờ trôi qua, uýtky chảy tràn trề ở quầy rượu và kim đồng hồ nhích dần tới nủa đêm. Đến giờ đó, nhiều nhà báo Mỹ chạy tới buồng điện thoại để thông tin cho các báo và hãng thông tấn của họ rằng Măngđét Phrăng đã thua canh bạc này và không còn cách nào hơn là từ chức vào ngày mai. Nhiều giờ nữa trôi qua. Đã quá chậm để có thể đưa tin cho những đợt cuối cùng của các báo hàng ngày ở London. Hầu hết các nhà báo bỏ về, nhiều người tin rằng cuộc chiến tranh mở rộng là điều sẽ diễn ra trước mắt đối với Đông Dương. Điều gì đã xảy ra? Oantơ Biden Smít, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ, đã được cấp trên trực tiếp của ông ta Giôn Phostơ Đalét – để lại tại Hội nghị Giơnevơ để tìm hết cách ngăn cản việc đi đến một Hiệp định.[19] Biden Smít đã từ chối tham gia bất cứ một giai đoạn cuối cùng nào của công việc. Tuy nhiên ông ta yêu cầu mọi tài liệu chủ yếu phải được mang đến cho ông ta tại khách sạn. Ông ta cũng cùng với đại biểu của Vương quốc Campuchia và Vương quốc Lào âm mưu tạo ra càng nhiều trở ngại vào giờ phút chót càng tốt. Bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn cản một giải pháp trước nửa đêm 20/7! Biết đâu trong một cơn hờn giận, Măngđét Phrăng lại sẽ chẳng xuôi tay và từ chức. Đó là một hy vọng, được phản ánh qua những tin tức mà các nhà báo và các nhà bình luận Hoa Kỳ (đặc biệt là anh em nhà Alsop), vẫn lởn vởn trong đầu Biden Smít và Đalét cho đến phút cuối cùng. Cuối buổi chiều ngày 20/7, Xam Xary, phái viên riêng của Quốc vương Norodom Sihanúc, đã có một hành động phá hoại bộ phận dự thảo văn kiện. Iđơn, Molotop, Chu Ân Lai và Măngđét Phrăng đã thỏa thuận với nhau là các quốc gia liên kết (nước Việt Nam của Bảo Đại, các Vương quốc Campuchia và Lào) không được tham gia vào bất cứ liên minh quân sự nào; cũng không được chấp nhận việc thiết lập bất kỳ một căn cứ quân sự nào của nước ngoài. Chỉ có trường hợp ngoại lệ duy nhất đối với điều khoản thứ hai này là ở Lào, nước Pháp được phép duy trì hai căn cứ huấn luyện quân sự. Chu Ân Lai – mà kinh nghiệm về sự đối đầu phải trả giá cao của Trung Quốc đối với Mỹ ở Triều Tiên vẫn còn mới mẻ – đặc biệt kiên trì trong việc bịt kín bất kỳ một lỗ hổng nào mà Hoa Kỳ sau này có thể dùng để tiến vào Đông Dương. Chu Ân Lai và Măngđét Phrăng có lợi ích giống nhau về điểm này, ông Phạm Văn Đồng cũng thế. Nhưng nước Pháp bị mắc kẹt trong một cái bẫy do chính họ đặt ra. Pháp đã trao cho Campuchia bộ phục sức bên ngoài của một nền độc lập vào tháng 11/1953. Vào phút thứ 59 của giờ 11, Xam Xary lên tiếng khẳng định rằng Vương quốc Campuchia, một quốc gia độc lập và có chủ quyền, không thể chấp nhận bất cứ một hạn chế nào đối với sự lựa chọn của mình về những mối liên minh đối ngoại hoặc ngay cả đối với quyền cho phép Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Dường như đây chỉ là sáng kiến cá nhân của Xam Xary (Xam Xary sau này đã tham gia một cuộc đảo chính chống Sihanúc và liên minh với Sơn Ngọc Thành, kẻ thù quyết liệt nhất của Sihanúc, được CIA ủng hộ). Trưởng đoàn đại biểu Campuchia Tép Phan ngày hôm đó đã từng họp với Chu Ân Lai trong 2 tiếng đồng hồ không nêu lên vấn đề nào như vậy. Với mục đích để kéo dài thời gian, quả bom của Xam Xary đã có tác dụng. Nhưng tại một cuộc họp vào 2 giờ sáng ngày 21, Iđơn, Măngđét Phrăng và Molotop – trong khi Chu Ân Lai vắng mặt – đã đồng ý đưa vào trong văn bản một đoạn nói rằng: “trong trường hợp nền an ninh bị đe dọa”, Campuchia sẽ được phép thiết lập căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ của mình. (Đây là điều mà sau này Sihanúc kiên quyết chống). Với lý do để cho “cân xứng”, Măngđét Phrăng đòi áp dụng điều khoản đó đối với Lào. Phải đến phiên họp bế mạc Hội nghị vào 3 giờ 30 phút chiều 21/7, ông Phạm Văn Đồng mới được biết về hai biện pháp mới này nhằm tăng cường sự bao vây tiềm tàng đối với Bắc Việt Nam.[20] Bài phát biểu ngắn của ông Đồng tại phiên họp bế mạc phản ánh sự cay đắng của ông khi phải chấp nhận những quyết định do sự áp đặt của người khác, bè bạn cũng như đối thủ. Các nhà báo không được dự phiên họp này (cũng như mọi phiên khác), nhưng Gioayô đã tóm tắt những gì đã xảy ra: “Ông Phạm Văn Đồng chỉ có một câu cám ơn hai đồng chủ tịch, chứ không có một lời nào biết ơn đối với Trung Quốc. Liệu có thể giải thích sự im lặng này một cách nào khác hơn là dấu hiệu về sự bất bình của Việt Minh đối với đồng minh của họ, những người tuy là nguồn ủng hộ vững chắc trong quá trình thương lượng, nhưng vẫn không ngần ngại tìm cách hạn chế những yêu cầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mỗi khi lợi ích dân tộc của chính họ đòi hỏi?” Tối 22/7, ông Phạm Văn Đồng và các thành viên khác của đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến dự một cuộc chiêu đãi của Chu Ân Lai để “chúc mừng thắng lợi của Hội nghị”. Họ chờ đợi một cuộc “chúc mừng giữa những người đồng chí”. Họ rất ngạc nhiên khi thấy đoàn đại biểu Liên Xô đã không được mời, trong khi các đoàn đại biểu của “Hoàng đế” Bảo Đại, Vương quốc Lào và Campuchia lại có mặt. Chu Ân Lai trước hết nâng cốc chúc mừng Hoàng đế Bảo Đại rồi đến Vua Lào và Vua Campuchia. Người phụ tá cao cấp của ông Phạm Văn Đồng (mà tôi đã trích dẫn trước đây) nói với tôi: “Chúng tôi hầu như không thể tin ở mắt và tai mình nữa. Về sau, chúng tôi thấy vấn đề rõ hơn. Trung Quốc muốn các nước Đông Dương nằm trong túi mình và hy vọng rằng ba Vương quốc ở đây sẽ được duy trì như những nước triều cống kiểu như Thiên hoàng trị vì đế quốc Trung hoa với những quốc gia phiên thuộc! Trung Quốc không thể coi thường hơn nữa nội dung xã hội của các quốc gia ấy cũng như của các lực lượng cách mạng ở đó. Nhìn lại những gì xảy ra sau này với Khme đỏ ở Campuchia và việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam rõ ràng đã được khởi động bởi thái độ của Trung Quốc tại Hội nghị Giơnevơ và đặc biệt là cuộc chiêu đãi cuối cùng này”. Chu Ân Lai đã bố trí để tại cuộc chiêu đãi các trưởng đoàn Campuchia và Lào, Tép Phan và Phủi Xananicon ngồi cùng một bàn với vài phụ tá cao cấp của Chu Ân Lai. Tại bàn do Chu Ân Lai chủ trì, Ngô Đình Luyện (em Ngô Đình Diệm, người mới được CIA đưa lên cầm quyền ở Sài Gòn) được xếp ngồi giữa Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngô Đình Luyện và Tạ Quang Bửu đã từng học cùng tại Pháp và Chu Ân Lai tìm hết cách làm cho hai người gợi lại những kỷ niệm thời thanh niên. Có lúc, Chu gợi ý Ngô Đình Luyện sang thăm Bắc Kinh. Khi Luyện hỏi sang đó với danh nghĩa nào, Chu Ân Lai trả lời: “Tại sao các ngài không đặt một công sứ quán ở Bắc Kinh?” Nhận thấy ông Phạm Văn Đồng giật nảy người phản ứng, Chu Ân Lai lạnh lùng nói rằng việc ông Phạm Văn Đồng gần gũi với Trung Quốc hơn về mặt tư tưởng không loại trừ việc Sài Gòn có đại diện ngoại giao tại Bắc Kinh. “Dù sao, hai ngài đều chẳng phải là người Việt Nam cả sao và tất cả chúng ta đây chẳng phải là người châu Á cả đó sao?” Đây nữa lại là một viên thuốc đắng mà ông Phạm Văn Đồng phải nuốt tại Giơnevơ. Lý do khiến Chu Ân Lai ủng hộ việc đẩy lùi càng lâu càng tốt cuộc Tổng tuyển cử để tái thống nhất đất nước đã trở nên quá rõ ràng. Trung Quốc quan tâm tới việc mở rộng ảnh hưởng của chính mình ở Sài Gòn hơn là giúp Việt Minh giành thắng lợi chính trị và tái thống nhất đất nước.[21] Sextơ Roning, đã từng là quyền trưởng đoàn đại biểu Canada tại phần bàn về Triều Tiên của Hội nghị và đã được lưu lại làm quan sát viên trong quá trình thương lượng về Đông Dương, nhận xét: “Chính những nhân nhượng của Chu và những nhân nhượng mà ông ta buộc Cụ Hồ Chí Minh phải chấp nhận đã giúp Măngđét Phrăng đạt được các hiệp nghị về Việt Nam, Lào và Campuchia. Mặc dù tướng Giáp đã chiến thắng các lực lượng quân sự của Pháp ở Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng đã phải nhân nhượng điều quan trọng nhất khi ông chấp nhận sự chia cắt tạm thời của Việt Nam trong thời gian 2 năm. Nhân nhượng đó cuối cùng đã ngăn cách việc tái thống nhất”.[22] Nhà ngoại giao Canada nói gần đúng. Thực ra, nhân nhượng lớn nhất của Cụ Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng là đồng ý tham dự Hội nghị Giơnevơ. Các lực lượng của họ đang ở thế chiến thắng. Cùng với chiến thắng của Pathét Lào và Khme Ítxarắc, họ có thể chấm dứt sự có mặt về quân sự của Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng việc đó không phù hợp với điều mà Trung Quốc coi là lợi ích của mình trong khu vực. Như Gioayô đã viết, Trung Quốc có một “cách nhìn về một Đông Dương đa dạng trong đó Lào và Campuchia phải là đối trọng của Việt Nam”, một cách nhìn mà “sau cuộc ngừng bắn, đã trở thành một trong những hằng số của chính sách của Trung Quốc ở Đông Dương”.[23] Gioayô, người đã có một công trình nghiên cứu cực kỳ đồ sộ không chỉ về công việc hàng ngày của Hội nghị Giơnevơ mà cả về hậu quả của nó, nhận thấy rằng thái độ của Trung Quốc ở Giơnevơ là phù hợp với chính sách cổ truyền của Trung Quốc, dù là dưới chế độ hoàng đế, cộng hòa hay xã hội chủ nghĩa. Thái độ đó hoàn toàn xa lạ đối với mọi khái niệm của chủ nghĩa Quốc tế Vô sản và tình đoàn kết cách mạng. Những việc làm đó hoàn toàn không xứng đáng với cái giá mà nhân dân Việt Nam, Lào và nhân dân Khme đã phải trả. Gioayô viết: “Chúng ta hãy tìm cách trả lời câu hỏi này. Liệu chính sách của Trung Quốc đối với Đông Dương năm 1954 là có gần gũi hay không với chính sách cổ truyền của đế chế Trung hoa trong khu vực này? Một trong những nét nổi bật nhất của chính sách đó là Trung Quốc thường xuyên muốn duy trì hòa bình ở sườn phía Nam bằng cách thiết lập một sự cân bằng dựa trên sự kình địch giữa các quốc gia khác nhau trong khu vực. Một ‘nền hòa bình kiểu Tàu’ (pax sinica) giống như việc khử tác động của các lực ngược chiều. Một chính sách rất gần gũi với chính sách ‘chia để trị’ cổ xưa ở hình thức sơ đẳng nhất, bằng lòng với việc chống bất cứ một ý muốn nào có thể phá vỡ thế cân bằng và buộc nó phải can thiệp trực tiếp. Nhằm mục đích đó, đế chế xưa kia luôn luôn quan tâm gìn giữ sự hài hòa trong mối quan hệ với các nước láng giềng hùng mạnh nhất, đồng thời duy trì quan hệ trực tiếp, càng nhiều càng tốt với các nước láng giềng nhỏ yếu… Trong thời gian Hội nghị Giơnevơ, ít nhất là trên ba điểm, Trung Quốc đã ngăn cản mục đích của Việt Minh bằng chính sách cổ điển của họ. Trước hết, ngày 16/6, trong khi đề nghị tách vấn đề Lào và Campuchia khỏi vấn đề Việt Nam, Trung Quốc đã góp phần tăng cường tính chất đại diện của các Chính phủ Vương quốc Viêng Chăn và Phnom Penh ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ; đồng thời làm tiêu tan những hy vọng của Việt Minh nhằm thành lập ở sườn phía Tây và Tây Nam những Chính phủ Cách mạng trung thành với Việt Minh. Cũng như vậy, ngày 23/6, tại Bécnơ, trong khi cho Măngđét Phrăng biết rằng ông ta (Chu Ân Lai) sẽ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhích lại gần Việt Nam của Bảo Đại, rồi ngày 19/7, tại Giơnevơ, trong khi đề nghị một thời hạn 2 năm để tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt Nam, Chu Ân Lai đã tỏ rõ ý của Trung Quốc là về phần mình, Trung Quốc không phản đối việc Việt Minh bị đàn áp ở miền Nam… Như vậy là, một Đông Dương mà cuộc Cách mạng, cũng như quá trình thực dân hóa của Pháp trước đây, đã làm thống nhất lại, sẽ nhường chỗ cho một Đông Dương đa dạng, mà tượng trưng là bữa tiệc cuối cùng của Chu Ân Lai”.[24] Một ngày sau khi kết thúc Hội nghị Giơnevơ, ông Phạm Văn Đồng tiếp một nhóm nhà báo trong khu vườn tòa biệt thự dùng làm trụ sở của ông tại Vécxoa, trên sườn đồi dẫn xuống hồ Lêman êm đềm tuyệt đẹp. Một trong những câu hỏi của chúng tôi lúc đó là: liệu Hoa Kỳ có thành công – như những người phát ngôn của họ đã bắt đầu lớn tiếng tuyên bố – trong việc biến Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 thành một Nam Triều Tiên từ vĩ tuyến 38 và biến giới tuyến tạm thời thành một ranh giới chia cắt vĩnh viễn hay không? Một nụ cười làm sáng lên gương mặt u buồn, khắc khổ của ông: “Người Mỹ đến Giơnevơ với những kế hoạch của họ; chúng tôi có kế hoạch của chúng tôi. Trước tiên, họ không muốn có Hội nghị Giơnevơ. Thay cho việc ngừng bắn, họ muốn mở rộng chiến tranh với sự can thiệp của Mỹ như ở Triều Tiên. Nhưng như các bạn đã thấy, đã có ngừng bắn. Rồi các bạn sẽ thấy là chúng tôi sẽ thực hiện được việc thống nhất đất nước”. Về những tin tức nói rằng Hoa Kỳ đang đổ đôla vào để biến Nam Việt Nam thành một “thiên đường” khiến cho nhân dân không muốn thống nhất, ông trả lời một cách tự hào: “Không thể nào mua được bằng đôla Mỹ một dân tộc đã từng không tiếc xương máu vì thống nhất và độc lập. Không thể nào duy trì được ở miền Nam – ngay cả bằng viện trợ Mỹ – một chính phủ công khai chống lại sự thống nhất của đất nước. Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay là củng cố miền Bắc để giữ gìn hòa bình và thống nhất nước Việt Nam bằng tuyển cử tự do”.[25] Gương mặt ông lại trở nên u buồn và mắt ngấn lệ, ông nói chậm rãi: “Tôi không biết rồi chúng tôi sẽ giải thích như thế nào về tất cả những gì đã được quyết định ở đây cho đồng bào miền Nam”. 26 năm sau (tháng 4/1980), tôi nhắc lại với ông việc này và ông đáp: “Chúng tôi lẽ ra đã có thể giành được hơn nhiều, nhiều lắm. Chúng tôi đã thỏa thuận trước với người Trung Quốc về mọi vấn đề – Nhưng Chu Ân Lai đã họp kín với Măngđét Phrăng và tất cả đều bị biến đổi. Nếu lúc đó chúng tôi cứ tiếp tục chiến tranh thì có lẽ chúng tôi đã thắng và được tất cả. Phải nói rằng người Trung Quốc đóng một vai trò cực kỳ nguy hiểm trong suốt cuộc thương lượng và đã phản bội chúng tôi một cách đê tiện nhất”. Việc các nhà lãnh đạo Việt Nam giữ gìn điều bí mật về vai trò của Trung Quốc tại Hội nghị Giơnevơ là một điều đáng khâm phục về tính thận trọng, ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa – nhưng cũng là một điều đáng tiếc khi họ không thông báo rộng rãi trong một chừng mực nào đó những việc đã xảy ra sau hậu trường ở Hội nghị. Tôi đã từng theo dõi đưa tin về Hội nghị Giơnevơ, đã từng thường trú ở Hà Nội trong nhiều năm để đưa tin về việc thi hành các quyết định của Hội nghị, đã từng có vô số cuộc nói chuyện với Cụ Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyên Giáp và những người khác, nhưng tôi chẳng hề được một gợi ý xa xôi nào về những gì xảy ra sau hậu trường ở Giơnevơ, cho mãi đến khi Trung Quốc đã phạm điều phản bội tột cùng bằng cách xâm lược Việt Nam! Rõ ràng Việt Minh đã có những hy sinh đáng kể trong khi chấp nhận các Hiệp nghị Giơnevơ. Nhưng họ đã tạo nên ấn tượng rằng họ đã tự nguyện chấp nhận những hy sinh đó vì lợi ích của đường lối chung về “cùng tồn tại hòa bình” lúc đó đang thịnh hành trong thế giới xã hội chủ nghĩa. Hơn một phần tư thế kỷ sau, người phụ tá của ông Phạm Văn Đồng, khi thông báo cho tôi về những gì đã thực sự xảy ra ở Giơnevơ bình luận: “Chúng tôi đã học được một bài học lớn qua những mưu đồ của Trung Quốc – trong những cuộc thương lượng ngoại giao, điều quyết định là phải nắm chắc mọi việc trong tay mình. Đừng để cho người khác can thiệp vào! Chỉ thương lượng vì lợi ích của chính mình. Chính vì vậy mà tại Hội nghị Paris chúng tôi đã giữ vững quyền kiểm soát – điều này làm cho người Trung Quốc hết sức bất bình. Chúng tôi đã tiến hành chiến tranh và có đủ khả năng lập lại hòa bình, hoặc ít ra là bảo đảm cho mình một thế thắng trong trường hợp phải cần đến một vòng nữa trên trường đấu. Mọi điều mà Trung Quốc và Níchxơn, Kítxinhgiơ đã thỏa thuận trong các cuộc hội đàm ở Bắc Kinh đều nhằm áp đặt các điều kiện, để lợi dụng các chiến thắng của chúng tôi trên chiến trường. Nhân dân Trung Quốc là bạn của chúng tôi. Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã lợi dụng xương máu của chúng tôi vì lợi ích của chính họ; dùng tình hữu nghị Việt – Trung vào mục đích bành trướng của chính họ. Vì những sự phản bội ở Giơnevơ, cuộc đấu tranh của chúng tôi đã phải kéo dài thêm 20 năm; những kinh nghiệm của chúng tôi về quân sự, chính trị và ngoại giao đã chứng minh một điều: phải tuyệt đối độc lập. Đây là một thực tế sống đụng đến xương máu của chính mình”. Ngoài các khía cạnh khác, Hội nghị Giơnevơ còn là một cuộc thao diễn khổng lồ về đạo đức giả. Người Pháp và đồng minh của họ, vốn chưa hề gọi khu vực này bằng cách nào khác hơn là “Đông Dương”, nay bỗng giơ tay kinh hãi khi phát hiện ra rằng các chiến sĩ giải phóng dân tộc cũng coi đó là một chiến trường g p g ộ g ộ g chung và họ đang chiến đấu chống mọi kẻ thù chung là thực dân Pháp, quan thầy của các “Quốc gia liên hiệp Đông Dương”. Nếu điều này không phải là thực tế thì tại sao lại có một Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương? Một trong những lời tuyên bố kinh tởm, đạo đức giả nhất về mặt này là của ngài Antoni Iđơn, đại diện của cường quốc đã giúp đỡ về mặt quân sự và vật chất cho người Pháp trở lại Đông Dương sau Thế chiến thứ hai. Sau đây là một trích đoạn trong tuyên bố của Iđơn tại Hội nghị Giơnevơ ngày 10/6/1954, trong đó ông ta bác bỏ cả quyền của Khme Ítxarắc và Pathét Lào được tham gia Hội nghị lẫn quyền của quân đội Việt Minh được chiến đấu trên đất Lào và Campuchia. “Về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa, nhân dân hai nước này khác hẳn nhân dân Việt Nam. Quân xâm lược Việt Minh không chỉ vượt qua một biên giới chính trị. Họ đã vượt qua biên giới ngăn cách hai nền văn minh lớn ở châu Á – Văn minh Ấn độ và văn minh Trung hoa”.[26] Biểu hiện xuất sắc đó của “luật này cho người giàu, luật khác cho người nghèo” vận dụng vào nền ngoại giao quốc tế lẽ ra đã thu hút được sự chú ý của báo chí, nếu như Iđơn đã không tiến hành trước những biện pháp nhằm che dấu vết chân của mình. Ông ta tiết lộ rằng ngay từ đầu phần bàn về Đông Dương của Hội nghị, trong một cuộc họp với quyền trưởng đoàn đại biểu Hoa Kỳ, Oantơ Biden Smít và Ngoại trưởng Pháp Gioócgiơ Biđôn, ông ta đã đề nghị: “Rằng các cuộc đàm phán phải được tiếp tục tại các phiên họp hẹp, bao gồm những người đứng đầu của cả chín đoàn đại biểu, mỗi người chỉ mang theo hai hoặc ba cố vấn. Sẽ không cung cấp cho báo chí một tường thuật nào về tiến trình đàm phán. (Đề nghị này được tán thành và hôm sau, Molotop và Chu Ân Lai cũng chấp nhận)… Tình hình quân sự có thể buộc chúng ta phải nhân nhượng cộng sản ở Việt Nam và họ muốn áp dụng những nhân nhượng này vào cả Lào và Campuchia. Chúng ta phải ngăn chặn điều này bằng bất kỳ giá nào. Một đằng là cuộc nội chiến ở Việt Nam, một đằng là Việt Minh trực tiếp xâm lăng Lào và Campuchia; không thể đề cập đến chúng trên một cơ sở như nhau”.[27] Vậy là, tại Giơnevơ, các cường quốc phương Tây, với sự đồng lõa của Trung Quốc, đã chia cắt, thậm chí xóa bỏ Đông Dương, với hy vọng tiêu diệt các lực lượng cách mạng ở Lào và Campuchia và hạn chế thắng lợi của Việt Minh vào khu vực phía Bắc vĩ tuyến 17. Đây là một điều báo trước về những gì Trung Quốc sẽ làm năm 1975, khi họ tìm cách thuyết phục Việt Nam đừng mở cuộc tổng tiến công để thống nhất đất nước. Khi lời thuyết phục này thất bại và cuộc tấn công đã thành công, Trung Quốc bèn ủng hộ Khme đỏ trong những cuộc phiêu lưu quân sự điên rồ chống Việt Nam, đồng thời dựng lên những tổ chức chính trị đối lập ở Lào, nòng cốt là những lính đánh thuê người Mẹo thừa hưởng của CIA, nhằm “chia để trị” các nước trước đây thuộc Đông Dương. Hiệp định Giơnevơ quy định rút lực lượng Việt Minh khỏi Campuchia. Điều đó tất yếu là phần lớn lực lượng Khme Ítxarắc, vốn gắn bó, xen kẽ một cách chặt chẽ với họ, cũng phải rút đi. Nếu họ ở lại Campuchia, họ sẽ bị đặt vào một thế yếu không thể nào chịu nổi. Trong thời gian 300 ngày để quân đội và cán bộ Việt Minh rút về phía bắc vĩ tuyến 17 và quân đội viễn chinh Pháp rút vào phía nam vĩ tuyến 17, đại bộ phận quân đội và cán bộ Khme Ítxarắc cũng đã rút ra Bắc Việt Nam. Phần thứ hai: Bối cảnh của tấn thảm kịch Campuchia IV. Sự trỗi dậy của Khme đỏ (phần 1) Việc Khme đỏ trỗi dậy, cầm quyền và suy tàn chắc chắn sẽ là chủ đề tranh cãi trong nhiều thập kỷ tới giữa các nhà viết sử, các nhà khoa học chính trị và xã hội, các nhà tư tưởng, các nhà nghiên cứu về châu Á và những người khác. Câu hỏi cơ bản là bằng cách nào mà những quái thai của nhân cách và đạo đức cách mạng như Pol Pot, Iêng Xari cùng một nhúm thân nhân[28] và bè lũ có thể leo dần lên đến tột đỉnh và thực hiện các chính sách diệt chủng của chúng. Những núi đầu lâu và xương người, mà chúng ta vẫn còn tìm thấy khắp nơi ở Campuchia, đang lặng lẽ gào thét đòi hỏi câu trả lời. Hàng triệu người trên khắp thế giới cũng đang đòi hỏi phải trả lời. Không có một lời giải thích nào. Hầu hết những người biết được những gì đã xảy ra trong nội bộ giới cầm quyền và những người không tán thành, đều đã bị thủ tiêu. Những kẻ thắng cuộc thì không muốn giải thích về những phương pháp và động cơ không thể nào bào chữa được của chúng. Cộng với sự hiếm hoi về tài liệu và sự mâu thuẫn thường xảy ra giữa các tài liệu có được, là việc thiếu những lời khai của những giới cầm quyền cao cấp Khme đỏ càng làm cho việc sắp xếp lại thành một lời giải thích đầy đủ, trở nên cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, các cuộc điều tra được tiến hành cho đến nay đã làm sáng tỏ một số điểm then chốt để hiểu được những mâu thuẫn đã khiến cho một bộ phận của ban lãnh đạo phong trào cách mạng ở Campuchia phản bội lại phong trào đó. Khme đỏ chưa bao giờ là một tổ chức đồng nhất. Thực ra, từ “Khme đỏ” là do Sihanúc đặt ra để chỉ cánh đối lập cực tả ở Campuchia. Khác với từ “Việt Minh” trong cuộc kháng chiến chống Pháp – một tên gọi tắt Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội – Mặt trận Tổ quốc, đã giương ngọn cờ giải phóng dân tộc – “Khme đỏ” là một nhãn hiệu do một người ngoài cuộc gắn cho phong trào. Nhãn hiệu này đã được dùng cho những đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Campuchia, cho những sinh viên Campuchia mà về sau được gọi là “nhóm Paris”, cũng như những người đi theo cả hai nhóm. Những kinh nghiệm và viễn cảnh khác nhau giữa những người kỳ cựu và “nhóm Paris” đã dẫn đến những bất đồng liên tục và cơ bản về mục tiêu và sách lược của phong trào. Ngay trong nội bộ “nhóm Paris” tình hình cũng như vậy, nhưng bất đồng ít hơn và hầu hết là về sách lược. Cuộc đấu tranh ngày càng tăng cường, thì phe Pol Pot trong “nhóm Paris” càng đối phó với những bất đồng bằng cách đơn giản là sát hại những người chống đối lại chúng về lý luận cũng như về tổ chức. Có một điểm mà hầu hết các nhà quan sát đều nhất trí là phong trào cách mạng đã ra đời trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, bắt nguồn tận trong bản thân Vương quốc Campuchia. Khi người Pháp bắt đầu công cuộc thực dân hóa Campuchia bằng cách thành lập một “xứ bảo hộ” năm 1863, họ đã ghép một hệ thống thực dân lên một nền quân chủ chuyên chế. Các phong trào dân chủ chẳng có mấy cơ hội nảy nở và chúng nếu có trông thấy ánh mặt trời thì hầu như tất cả đều “hữu sinh vô dưỡng” – nếu chế độ quân chủ không bóp chết chúng, thì chắc chắn các nhà cầm quyền mới, thực dân sẽ bóp chết chúng. Không có một tầng lớp trí thức đáng kể và các vị sư sãi (Phật giáo) là người đại diện cho cơ cấu trí thức hạ tầng duy nhất và rất hạn chế. Mặc dù triết lý của Đạo Phật là thụ động và không bạo lực, các vị sư sãi đã giữ một vai trò chiến đấu, tiên phong trong việc chống thực dân, một phần vì bọn này đã du nhập vào cùng với chúng một tôn giáo xa lạ – đạo Cơ đốc. Mặc dù các vị lãnh đạo Phật giáo đã tỏ ra hết sức anh hùng và thỉnh thoảng được sự ủng hộ của giới tu hành cấp dưới và quần chúng Phật tử, họ không thể cung cấp một cơ sở tư tưởng cho cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài chống một cường quốc thực dân hiện đại. Tuy vậy, các nhà viết sử cũng cần ghi nhận rằng giới tu hành Phật giáo ở Campuchia, cũng như ở Việt Nam và Lào, đã đóng một vai trò p g ệ g ộ yêu nước quan trọng – nhiều người đã chịu hy sinh to lớn – trong cuộc đấu tranh chống cả bọn xâm lược Pháp và Mỹ.[29] Khi Campuchia giành được độc lập – dù tính là tháng 11/1953, khi người Pháp trao trả ít ra là độc lập danh nghĩa cho Sihanúc, hay là tháng 7/1954, khi nền độc lập của Campuchia được ghi vào Công pháp quốc tế ở Giơnevơ – thì nước này vẫn là một quốc gia nửa phong kiến. Mặc dù chế độ nô lệ đã được chính thức bãi bỏ, nhưng những tàn tích của nó vẫn tồn tại.[30] Và tình trạng của ít ra là một bộ phận nông dân Campuchia cũng gần giống tình trạng mà một viên quan cai trị người Pháp đã mô tả năm 1939: “Những ngọn đòn của số phận giáng vào người nông dân tay trắng; bệnh tật, tang tóc và thiên tai biến anh ta thành miếng mồi ngon của bọn cho vay nặng lãi người Trung Quốc. Từ đó, anh ta vật lộn cật lực, cày và cày thêm nữa, với niềm hy vọng không thể nào đạt được là trả xong món nợ mà việc cho vay nặng lãi cứ làm phình to lên mãi. Mùa màng của anh ta tất nhiên bị thất thu, gia đình anh ta phải đi làm đầy tớ, trước tiên là trẻ con và đàn bà, cho đến ngày mà, bất chấp mọi hy sinh anh ta đã chịu đựng, các chủ nợ tàn nhẫn tước hết của cải của anh ta. Anh ta chẳng còn cách nào khác, ngoài việc đến ở nhà một người bà con mà vận may đã làm trở nên khấm khá, hoặc đi tu”. [31] Làm thế nào để tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng trong khi không có giai cấp tư sản lẫn giai cấp công nhân? Đó rõ ràng là một vấn đề lớn được đặt ra trước ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương, người đã tự đặt cho mình nhiệm vụ phải giúp đỡ người Campuchia xây dựng các tổ chức cách mạng và Đảng Cộng sản của chính họ. Trong một cuộc nói chuyện tại Hà Nội tháng 5/1980, nhà viết sử và xuất bản sách Việt Nam, Nguyễn Khắc Viện đã tóm tắt tình hình cho tôi: “Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã phát triển trong một không khí hỗn loạn về tư tưởng, bao gồm những quan điểm dân tộc, truyền thống và một số quan điểm hiện đại. Không có quan điểm rõ ràng, thống nhất. Yếu tố duy nhất rõ ràng là đoàn kết với người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Tình đoàn kết vượt qua biên giới đó phát triển thì tình hình được sáng tỏ. Cuộc đấu tranh và tình đoàn kết đó suy yếu, thì tình hình bên trong Campuchia trở lại hỗn loạn. Sihanúc phản ánh sự hỗn loạn đó. Trong một thời gian dài, ông ta tự mâu thuẫn và dao động, không thấy rõ chính mình muốn gì. Có lúc, ông ta là một nhà độc tài gia trưởng; lúc khác, là một người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc và đôi khi, ông ta kết hợp cả hai vai trò. Xu hướng yêu nước thúc đẩy ông ta có lập trường thân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Hoa Kỳ. Khía cạnh độc tài chiến ông ta bóp chết các phần tử dân chủ, những người lẽ ra có thể là đồng minh của ông ta – cứ như vậy, nhân dân Khme bị đẩy trở lại tình trạng hỗn loạn và thành quả tốt đẹp giành được trong thời kỳ đấu tranh chống Pháp đã bị mây mù che phủ. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân này, tình đoàn kết của ba nước Đông Dương tượng trưng cho một sự đoạn tuyệt với quá khứ phong kiến – dân tộc chủ nghĩa, nhưng cái đà đó về sau không còn nữa. Đó là một nhân tố giúp cho sự trỗi dậy của những người sau này gọi là Khme đỏ; bản thân họ là một sản phẩm của sự hỗn loạn về tư tưởng đã nói ở trên”. Vai trò của những người cộng sản kỳ cựu và của lực lượng du kích Khme Ítxarắc ở Campuchia trước Hội nghị Giơnevơ đã được bàn đến rồi. Trong những năm cuộc giải phóng dân tộc được tiến hành mạnh mẽ nhất, hầu hết những người lãnh đạo sau này của Khme đỏ vẫn còn là sinh viên ở Paris. Người đến Paris đầu tiên, năm 1946 là Keng Vanxắc, sau này trở thành người dìu dắt Iêng Xary và Pol Pot. Y là con của “một viên quan lại điển hình, tay sai của thực dân Pháp”, như chính y đã kể với tôi hơn 30 năm về sau. Keng Vanxắc theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Xanh Clu nổi tiếng, ở ngoại ô Paris, sau đó làm chuyên gia tiếng Campuchia cho một trường còn nổi tiếng hơn nữa, đó là Viện nghiên cứu về châu Phi và phương Đông ở London.[32] Trở lại Paris, Keng Vanxắc trở thành một trong ba người thuộc “Ủy ban Chính trị” của một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác gồm các sinh viên Campuchia lần lượt đến Paris từ năm 1949. Trong số họ có Rốt Xamaun, Thun Mun, Hu Yun, Pohung Pon, May Phát, Mây Nam, Xiêng An, Iêng Xary, Tốc Phơn và Xalốt Xa. Tham gia Ủy ban Chính trị cùng với Keng Vanxắc là Iêng Xary và Xalốt Xa (y chỉ tiết lộ với cô bạn gái người Pháp rằng tên thật của y là Pol Pot). Nhiều người trong số sinh viên này lúc đầu là những người yêu nước lý tưởng chủ nghĩa, nguyện cống hiến tài năng mà những điều kiện hiếm hoi được tiếp cận các lý thuyết cách mạng hiện đại – nhờ theo học ở Paris – để cải tạo xã hội Campuchia nhằm phục vụ lợi ích của những người nghèo khổ, nhất là nông dân. Với số liệu dồi dào và các tư liệu khác, những sinh viên này đã chứng minh rằng, mặc dù hầu như không có quan hệ địa chủ – tá điền trực tiếp như ở Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nơi khác ở châu Á, giai cấp nông dân vẫn bị bóc lột và thường bị bọn con buôn và cho vay nặng lãi làm cho khánh kiệt và mất hết ruộng đất. Trong quá trình học lấy bằng cử nhân và tiến sĩ, một số sinh viên cánh tả Campuchia, nhất là Khiêu Xamphon, Hu Nim và Hu Yun, đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc đầu tiên về hệ thống kinh tế – xã hội và những triển vọng đổi thay. Nhưng người ta không phải lúc nào cũng biết chắc được liệu những điều mà những nhà lãnh đạo tương lai của Khme đỏ viết trong những luận án ở Paris là dựa trên sự điều tra thực tiễn hay nghiên cứu lý thuyết. Điều tối thiểu mà người ta có thể nói được là những lời khẳng định kiểu dưới đây, trích trong luận án của Hu Yun, đã báo hiệu trước các chính sách của họ sau này: “Chúng ta có thể so sánh việc thành lập các tổ chức thương mại trong thời kỳ thuộc địa như một mạng nhện lớn bao trùm khắp Campuchia. Nếu chúng ta coi nông dân và người tiêu dùng như những con ruồi, con muỗi bị sa vào mạng nhện, chúng ta có thể thấy rằng họ là miếng mồi cho bọn thương nhân, tức con nhện đã chăng lưới. Hệ thống thương mại, việc bán và trao đổi nông sản ở nước ta bóp nghẹt sản xuất, làm khô kiệt nông thôn và kìm hãm nông thôn thường xuyên trong cảnh đói nghèo. Những cái mà chúng ta quen gọi là ‘thành phố’ hoặc ‘thị trấn’ là những máy bơm hút kiệt sức sống của nông thôn. Mọi thứ hàng hóa mà các thành phố và thị trấn cung cấp cho nông thôn chỉ là những miếng mồi. Vùng nông thôn rộng lớn nuôi sống các thành phố và thị trấn. Các thành phố, các thị trấn với bề ngoài tươi mát và hiện đại, sống trên mồ hôi nước mắt của nông thôn, cưỡi trên lưng nông thôn… Những người lao động trên ruộng đất, cấy, gặt, chịu đựng toàn bộ gánh nặng của thiên nhiên, dãi dầu mưa nắng, với những ngón tay xương xẩu, với da bàn tay và bàn chân khô nẻ, chỉ nhận được 26%… trong khi những người khác, làm việc trong bóng mát, không đụng đến cái gì khác ngoài đồng tiền, nhận được có khi tới 74%… Nông thôn nghèo nàn, da bọc xương và khốn khổ, bởi vì hệ thống thương mại áp bức nó. Cây mọc ở nông thôn, nhưng quả lại đi ra thành phố”.[33] Các luận án tiến sĩ do Hu Yun và Khiêu Xamphon viết tại trường Đại học Sorbon ở Paris đều nói nhiều đến sự bóc lột trực tiếp và gián tiếp đối với nông dân Campuchia. Khiêu Xamphon khẳng định rằng tình trạng lạc hậu kéo dài của các cơ cấu Campuchia sau ngày độc lập là do những điều kiện của việc Campuchia “gia nhập các hệ thống kinh tế quốc tế” (chủ yếu là của Pháp và Hoa Kỳ), việc này ngăn cản – thậm chí chặn đứng mọi khả năng thoát khỏi những cơ cấu kinh tế – xã hội “nửa thực dân nửa phong kiến” của đất nước. Trong lập luận của y, vì một sự phát triển kinh tế tự trị, thậm chí tự cấp tự túc, người ta có thể thấy mầm mống của những quan điểm đã khiến Khme đỏ tự cô lập hầu như hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài (trừ Trung Quốc) sau khi chúng nắm được chính quyền. “Chấp nhận sự hợp tác quốc tế là chấp nhận một cơ chế trong đó sự mất cân đối về cơ cấu sẽ trầm trọng thêm, tình trạng trầm trọng này có thể kết thúc bằng một sự bùng nổ bạo lực, vì rằng nó sẽ không tránh khỏi tình trạng làm cho đông đảo nhân dân ngày càng không chịu đựng nổi. Thực ra nhân dân cũng đã thấy được những mâu thuẫn đang khóa chặt sự hợp tác của nền kinh tế trong khuôn khổ thị trường hàng hóa và tư bản quốc tế. Vì vậy, sự phát triển có ý thức và tự chủ là một tất yếu khách quan”.[34] Nhìn lại, người ta có thể hình dung được điều mà Khiêu Xamphon đã cảm thấy sẽ phải xảy đến với giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản mới ra đời của Campuchia. Những điều y viết trong luận án hóa ra lại là một sự mô tả tương đối chính xác, tuy có giảm bớt đi, về những gì thực sự đã xảy ra dưới chế độ Khme đỏ. “Theo ý chúng tôi, những biện pháp thiết yếu phải được tiến hành sẽ giống như một chương trình chính trị – xã hội nhằm triệt bỏ những quan hệ kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa trước đây và thiết lập một hệ thống tư bản dân tộc đồng nhất, hơn là một chương trình kỹ thuật nhằm động viên các phương tiện tài chính. Hãy hiểu đúng đề nghị của chúng tôi… Chúng tôi không đề nghị thủ tiêu các giai cấp đang chiếm đoạt phần lớn thu nhập. Cải cách về cơ cấu mà chúng tôi đề nghị không nhằm thủ tiêu khả năng cống hiến của các tập đoàn này. Chúng tôi cho rằng, trái lại, có thể và phải tìm cách giải phóng tiềm năng cống hiến của họ bằng cách cố gắng cải tạo những địa chủ, người buôn bán trung gian và cho vay nặng lãi ấy thành một giai cấp của những người sản xuất nông nghiệp hoặc công nghiệp. Vì vậy, chúng tôi sẽ tìm cách tách họ khỏi những hoạt động phi sản xuất và đưa họ tham gia vào sản xuất. Trong các thành phố, chúng tôi sẽ cố gắng thúc đẩy một phong trào nhằm chuyển tư bản từ khu vực thương mại, hiện đang ở trong tình trạng teo dần lại, sang những khu vực trực tiếp sản xuất… Nhưng để tiến hành một cuộc cải tạo triệt để như vậy, chúng ta không thể bằng lòng với những biện pháp lẻ tẻ. Ít ra là lúc đầu, một hệ thống hoàn chỉnh những biện pháp thật nghiêm khắc, theo ý chúng tôi, là tuyệt đối cần thiết. Và trong số những biện pháp này, trước hết, phải có những biện pháp liên quan đến quan hệ với thế giới bên ngoài. Không có một giải pháp thỏa đáng cho mối quan hệ từ bên ngoài, thì chúng tôi không tin rằng lại có thể nói một cách có giá trị cải cách cơ cấu và phát triển tự chủ…” Trong số những người đầu tiên từ Paris trở về có Xalót Xa (tên thực của y – Pol Pot – mãi đến những năm 1960 người ta mới biết). Trở về cùng một nhóm nhỏ các sinh viên năm 1953, y liên hệ với Đảng dân chủ, một nhóm trí thức “đứng giữa” đứng đầu là Hoàng thân Canthun, một người anh em họ tiến bộ của Sihanúc. Cùng với Xalốt Xa có Khiêu Pônary, về sau trở thành Ủy viên Ban chấp hành Đảng Dân chủ và là vợ của y. Ít lâu sau khi nhóm này trở về, Xalốt Xa và một nhóm hỗn tạp các phần tử đối lập, gồm cánh hữu, cánh tả và trung tâm, được Sihanúc mời ra lập Chính phủ. Đây là một trong những hành động của Sihanúc nhằm làm mất tín nhiệm của các lực lượng đối lập trước khi họ được củng cố. Nó cũng báo hiệu trước chiến lược của ông ta là thuyết phục các chính đảng hiện có giải thể và hợp nhất với Xangkum (cộng đồng xã hội chủ nghĩa bình dân) của ông ta, nhằm giành cho Xangkum 100% số ghế trong cuộc tuyển cử năm 1955 đã được Hiệp nghị Giơnevơ quy định. Xalốt Xa coi lời mời này như một bước đầu tiên nhằm đàn áp cánh tả và y bỏ vào rừng. Ở đó, trong tỉnh Kôngpông Chàm, có cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Khme trứng nước, về sau gọi là Đảng Pracheachon (Nhân dân Cách mạng) – đến Kôngpông Chàm, Xalốt Xa và vài sinh viên khác mới về nước tiết lộ rằng họ từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp trước khi rời nước Pháp và nay muốn gia nhập Đảng Cộng sản Khme. Theo Quyết định của Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 2/1951 về việc sẽ thành lập ba đảng riêng và việc Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giúp các đồng chí Lào và Campuchia thành lập đảng của họ. Phạm Văn Ba, một người Việt Nam, phụ trách công tác tổ chức ở Kôngpông Chàm (về sau, Phạm Văn Ba trở thành đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam ở Paris, và sau đó nữa, ông là đại sứ Việt Nam bên cạnh Chính phủ Khme đỏ của Pol Pot tại Phnom Penh). Sau này Phạm văn Ba nói với tôi: “Hồi đó, trong trường hợp có đơn xin gia nhập Đảng, bao giờ chúng tôi cũng phải xác minh với Đảng Cộng sản Pháp, nếu người xin gia nhập nói họ là đảng viên Đảng này. Nguy cơ nhân viên mật vụ của Pháp thâm nhập là rất lớn. Nếu được Đảng Cộng sản Pháp xác nhận thì người đó đương nhiên trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Khme mà không cần thêm thủ tục gì. Đúng hạn, chúng tôi được trả lời rằng tất cả họ đều từng là đảng viên Đảng bộ tiếng Khme của Đảng Cộng sản Pháp. Hồi đó, Đảng Cộng sản Pháp tập hợp đảng viên người nước ngoài thành những đảng bộ theo tiếng mẹ đẻ của họ. Về sau, chúng tôi được Đảng Cộng sản Pháp thông báo thêm rằng toàn bộ ‘nhóm Paris’ đều chịu ảnh hưởng của lý thuyết Trotxky và các lý thuyết cực tả khác.[35] Lúc đó Xalốt Xa đã được phân công vào Ban dân vận, do tôi lãnh đạo”. Việc thành lập Đảng Pracheachon là một quá trình lâu dài, do những điều kiện khó khăn thời chiến. Bước đầu tiên là tách khỏi Đảng Cộng sản Đông Dương ở cơ sở, điều này thường có nghĩa là rút hết người Việt Nam sinh tại địa phương ra khỏi đảng bộ, để cho Đảng mới thực sự là Campuchia. Tiếp đó, việc tách rời được tiến hành ở cấp huyện. Nhưng chỉ sau chiến thắng Điện Biên Phủ mới thành lập được một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời ở cấp toàn quốc. Nhiệm vụ đầu tiên của Pol Pot là nghiên cứu cặn kẽ tình hình nông thôn để phân định rõ các hình thức bóc lột khác nhau, tình hình tư tưởng nông dân và quan hệ giữa công nhân và nông dân, nhằm đề ra một đường lối đúng đắn trong cương lĩnh tương lai của Đảng. Phạm Văn Ba mô tả Pol Pot là một người trẻ tuổi “năng lực trung bình, nhưng có khát vọng rõ rệt về quyền lực và những phương kế ngang tắt để leo lên tột đỉnh”. Y không đóng vai trò gì quan trọng trong cuộc kháng chiến. Sau khi hoàn thành cuộc điều tra và phân tích, y được cử đi học tại một trường dành cho cán bộ Đảng. “Về sau, y rõ ràng lấy làm khó chịu vì không có trong danh sách những người được vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Sau khi đạt được Hiệp nghị ở Giơnevơ về việc tập kết lực lượng chiến đấu Việt Minh và Khme Ítxarắc ra miền Bắc Việt Nam, một ủy ban hỗn hợp gồm các sĩ quan Pháp và Việt Nam được thành lập để giám sát việc triển khai lại các lực lượng này. Một số cán bộ Khme Ítxarắc và đảng viên Cộng sản được để lại để tiếp tục công tác bí mật; vì vậy Xalốt Xa được phân công đến vùng Phnom Penh với cương vị Thành ủy viên của Đảng Pracheachon, để tổ chức sinh viên hoạt động cách mạng. Rõ ràng y đã dùng cương vị này để tập hợp một số sinh viên làm nòng cốt cho việc xây dựng phe cánh của y trong Đảng. Có thêm những người thuộc “nhóm Paris” trở về Campuchia. Dựa vào quyết định năm 1951 về việc thành lập một Đảng Cộng sản Khme riêng, họ tuyên truyền cổ động cho việc thành lập một đảng không có mọi quan hệ với Đảng bộ Khme của Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây và từ bỏ việc tiếp tục quan hệ với Đảng Lao động Việt Nam. Vì hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng kỳ cựu – nhất là những người hiểu được nhu cầu về một nền dân chủ từ cơ sở và mối liên hệ giữa các chính sách dân tộc và quốc tế – đã tập kết ra miền Bắc Việt Nam, “nhóm Paris” đã có thể nắm lấy quyền lãnh đạo phong trào cách mạng. Giá như lúc đó ở Campuchia cũng có một tổ chức cách mạng mạnh như tổ chức mà Việt Minh để lại ở miền Nam Việt Nam thì những người từ Paris trở về có lẽ đã phải sát nhập vào đó và đã có thể xuất hiện những chính sách thực tế dựa trên tình hình cụ thể khách quan. Thực ra “nhóm Paris” khinh thường các đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Đông Dương, coi họ là những “lão nhà quê” ít kiến thức lý luận. Những người kỳ cựu cho rằng “nhóm Paris” hoàn toàn chẳng biết gì về tình hình trong nước Campuchia và chỉ được trang bị bằng những câu trích dẫn đúng chỗ của Mác và Lênin. Ngay từ những cuộc gặp gỡ đầu tiên, giữa hai nhóm này đã nảy sinh chia rẽ. Một trong những bất đồng đầu tiên và quan trọng giữa “nhóm Paris” và những người kỳ cựu là về việc Sihanúc hay đế quốc Mỹ là nguy cơ lớn nhất. “Sihanúc” là lập luận của Pol Pot và Iêng Xary. “Đế quốc Mỹ” là ý kiến của những người kỳ cựu. Cuộc tranh cãi này kéo dài đến tận ngày 18/3/1970. Một thời gian sau, nhà viết sử Nguyễn Khắc Viện – ngày nay là một trong những học giả được trân trọng của Việt Nam – nói về Khme đỏ: “Sai lầm lớn nhất của họ là coi Campuchia như là một nước nằm trong một khoảng trống – cô lập trong lãnh thổ của chính mình. Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng suy nghĩ như vậy thì chúng tôi có lẽ đã chẳng đoàn kết với các lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật. ‘Nhóm Paris’ đã không nhìn cuộc đấu tranh của Campuchia trong bối cảnh của cuộc đối đầu lớn với đế quốc Mỹ, mà lại tách khỏi cuộc đối đầu đó… Trong các cuộc đấu tranh cách mạng chân chính, hoặc là các khái niệm về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế được hòa quyện vào nhau, hoặc là cách mạng sẽ biến thành một kiểu chủ nghĩa dân tộc bí ẩn, tách rời những lợi ích chân chính của nhân dân”. Trong khi Pol Pot và Iêng Xary tăng cường số người theo chúng trong bộ phận bí mật của Đảng Pracheachon, thì Khiêu Xamphon, Hu Yun và Hu Nim hoàn thành việc học tập ở Paris và trở về Phnom Penh để đeo đuổi sự nghiệp trong nghề dạy học và làm việc với Chính phủ. Ngay sau khi từ Paris trở về, Khiêu Xamphon và Hu Yun được bổ dụng vào khoa Luật và khoa Kinh tế của trường Đại học Phnom Penh. Trong số học trò của họ có Nguyễn Hữu Phước, một người Việt Nam gốc Campuchia, sau này là thầy phụ đạo về toán cho Pitơ, con trai tôi và đã tìm cách thoát được sang Paris để tránh các chiến dịch tàn sát chống người Việt Nam. Anh ta có cảm tưởng gì về hai người lãnh đạo Khme đỏ tương lai sau này? “Là giáo sư, cả hai đều dạy theo các sách giáo khoa được chỉ định. Hai người bao giờ cũng đi với nhau, Khiêu Xamphom có dáng dấp dịu dàng hơn Hu Yun, nhưng thực tế lại cứng rắn hơn. Nói chuyện riêng, cả hai đều khẳng định rằng xã hội tương lai phải dựa trên quần chúng nông dân và các giai cấp khác đều phải bị tiêu diệt. Tôi có nhiều lần nói chuyện với Khiêu Xamphon, ngoài các bài giảng trên khoa. Y tỏ ra sắt đá hơn Hu Yun về sự cần thiết phải xây dựng xã hội mới từ số không, dựa trên quần chúng nông dân. “Họ là những người trong sạch”. Y cứ nhắc đi nhắc lại. “Phải thanh toán mọi thứ của xã hội cũ. Chúng ta phải trở về với thiên nhiên và dựa vào nông dân”. Những tư tưởng như vậy là một yếu tố bất biến trong cuộc nói chuyện với Khiêu Xamphon. Nhưng y cũng tin tưởng vào vai trò của một số trí thức chọn lọc, y cho rằng họ là những người xứng đáng nhất để cai trị đất nước và vạch ra một con đường tắt đi tới tiến bộ xã hội và kinh tế. Pol Pot và Iêng Xary chống lại điều này và sợ rằng việc truyền bá những tư tưởng như vậy sẽ dẫn đến sự ô nhiễm tư bản chủ nghĩa”. Từ năm 1958 đến 1963, Khiêu Xamphon, Hu Nim và Hu Yun đều phục vụ trong chính phủ của Sihanúc. Hu Yun làm tại Bộ Thương nghiệp và Công nghiệp từ tháng 4 đến tháng 7/1958, tại Cục Ngân sách từ tháng 7/1958 đến tháng 2/1959 và tại Bộ Y tế từ tháng 6/1959 đến tháng 4/1960. Y trở lại Bộ Tài chính từ tháng 8 đến tháng 10/1962 và sau đó chuyển sang Bộ Kế hoạch cho đến tháng 2/1963. Đời hoạt động nghề nghiệp tích cực của y dưới quyền Sihanúc kéo dài ngót 5 năm. Trái lại, cuộc đời thường và vật chất của y chưa đầy hai năm, trước khi y tự cắt mạch máu của mình bằng một cái thìa gãy bằng kim loại tại trung tâm tra tấn và thủ tiêu TunXleng! Khiêu Xamphon làm Quốc vụ khanh về thương nghiệp cho Sihanúc từ năm 1962 – ụ g g ệp 1963, trong khi Hu Nim, sau này bị đồng bọn Khme đỏ tra tấn đến chết tại Tun Xleng, sử dụng vốn kiến thức về luật được đào tạo tại Pháp trên cương vị đứng đầu một số Vụ và Bộ khác nhau. Ở Phnom Penh, việc Pol Pot leo lên cương vị lãnh đạo trong Đảng Pracheachon trở nên thuận lợi khi Tuxamớt, bí thư bộ phận bí mật, mất tích năm 1962 trên đường về thăm gia đình. Lúc đó, người ta bàn tán nhiều về việc liệu ông đã bị mật vụ của Sihanúc giết, hay là do “thanh toán lẫn nhau” trong nội bộ Đảng Pracheachon. Theo lời Sihanúc thì Tuxamớt bị phe cánh của Pol Pot – Iêng Xary sát hại, nhằm bảo đảm cho Pol Pot leo lên cương vị lãnh đạo trong đảng.[36] Pol Pot và phe cánh lợi dụng việc Tuxamớt mất tích để triệu tập một “Đại hội bất thường” nhằm bầu một bí thư mới của Đảng. Do đảng hoạt động trong điều kiện bí mật, việc triệu tập một đại hội đông đủ và tiến hành các phiên họp bình thường là cực kỳ khó khăn. Vì vậy, những người dự họp chủ yếu thuộc khu vực Phnom Penh và Pol Pot được bầu làm bí thư Đảng. Năm 1963 bắt đầu bằng sự xáo động trong sinh viên, mà thúc đẩy tình hình này lại là lĩnh vực biệt tài của Pol Pot và Iêng Xary, người đồng nghiệp giáo viên và anh em đồng hao của y. Ở Xiêm Riệp, các cuộc biểu tình diễn ra đặc biệt dữ dội. Sihanúc đã phản ứng quá mức và thanh trừng khỏi chính quyền các phần tử cánh tả, thân Pracheachon. Vì vậy, Khiêu Xamphon bị cách chức Quốc vụ khanh phụ trách kế hoạch hóa kinh tế. Pol Pot và Iêng Xary coi đây là một kiểu “bố cáo” đáng ngại nên cùng một số trí thức khác bỏ vào rừng. Về sau, Sihanúc đã viết về thời kỳ này: “Chính vào lúc này, năm 1963, Lon Non đã bắt đầu lập các hồ sơ với những “bằng chứng” rằng cánh tả đang âm mưu lật đổ tôi. Tôi không thể nói là tôi có bằng chứng rằng CIA đã trực tiếp hoặc gián tiếp dính líu vào âm mưu này của Lon Non nhằm đánh lạc hướng tôi, Tuy nhiên, có lý do để giả định rằng sau khi bị vạch trần một cách triệt để như vậy, năm 1963, CIA sẽ chẳng ngần ngại dựng lên một cái gì đó chống lại cánh tả. Dù sao thì những lợi buộc tội dối trá và những bằng chứng giả cũng đã trở thành chuyện hàng ngày và được Lon Non dùng làm cớ để tiến hành một trong những cuộc săn người chống lại cánh tả, trong đó những người bị tình nghi bị hành quyết ngay khi bị bắt giữ. Kết quả là đợt đầu tiên các trí thức và những người khác, trong đó có hàng trăm người từ Phnom Penh, rời bỏ các thành phố đi vào các căn cứ kháng chiến cũ”.[37] Đến lúc đó, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã được tiến hành mạnh mẽ ở bên kia biên giới, ở miền Nam Việt Nam. Đó là thời kỳ “chiến tranh đặc biệt”, trong đó Hoa Kỳ cung cấp “cố vấn” quân sự, vũ khí các loại, vận chuyển, hỗ trợ đường không – nghĩa là tất cả, trừ quân đội chiến đấu. Đó là thời kỳ mà Sihanúc, trên cương vị Quốc trưởng, ngày càng có lập trường công khai thù địch đối với sự can thiệp của Hoa Kỳ vào khu vực.. Kết quả là ông ta trở thành đối tượng của nhiều âm mưu đảo chính và ám sát, nằm trong một kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm thay thế ông ta bằng một tên bù nhìn được CIA ủng hộ. Những âm mưu này nằm trong một quá trình đã dẫn tới cuộc đảo chính của Lon Non năm 1970. Trong số những kẻ đồng lõa chủ yếu của Lon Non năm 1970 có Xiríc Matắc, Long Bôrét và Yêm Xambua, tất cả đều đã dính vào âm mưu chống Sihanúc năm 1963. Pol Pot sử dụng cương vị Bí thư Đảng Cộng sản Khme hoạt động bí mật để đẩy mạnh chiến dịch đấu tranh vũ trang chống Sihanúc, trong khi Lon Non và CIA cũng đang ra sức làm đúng như vậy. Đường lối của “nhóm Paris” tiếp tục gây nên sự chống đối đáng kể trong nội bộ đảng, và là nguyên nhân bất đồng giữa phe Pol Pot, đang nắm giữ ưu thế trong ban lãnh đạo đảng và Đảng Lao động Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Pol Pot và Lon Non lại cùng đeo đuổi một mục đích. Sau nhiều tháng điều tra ở vùng biên giới và hơn 4 tháng ở Campuchia năm 1981, Ben Kiếcnam, một chuyên gia nổi tiếng người Australia về các vấn đề Campuchia nói tiếng Khme và Chanthu Bua, vợ ông ta người Khme, đã kết luận: “Nhãn quan dân tộc chủ nghĩa của Pol Pot cũng là một nhãn quan truyền thống, có thể so sánh với nhãn quan của Lon Non… kẻ đã nói toạc ra hy vọng ‘thống nhất’ những người Khme ở Campuchia, Thái Lan và Việt Nam; người Chàm ở Campuchia và Việt Nam; người Thượng ở Campuchia và miền Nam Việt Nam và cả người Mông ở Thái Lan và Miến điện”.[38] Cả Pol Pot và Lon Non đều muốn khôi phục Đế chế Ăngco cổ đại, nhưng đế chế của Pol Pot chỉ những người Khme “trong sạch” về chủng tộc và những người về chính trị trong sách theo tiêu chuẩn của y sẽ sống sót. Kiếcnam và Bua viết: “Năm 1963 Pol Pot và Iêng Xary đã bí mật rời Phnom Penh ra vùng dân tộc ít người ở Đông Bắc và có lẽ đã sống ở đó phần lớn của 5 năm tiếp theo. Vừa là bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Khme, Pol Pot vừa là Bí thư Khu ủy Đông Bắc từ năm 1968 đến 1970, vào thời kỳ một số dân tộc ít người trong khu đã nổi dậy chống chế độ Sihanúc. Ít ra là tháng 5/1970, khi Pol Pot ở nước ngoài (Bắc Kinh), cả Iêng Xary và Xônxen cùng ‘phụ trách khu Đông Bắc’. Tháng 7/1975, Pol Pot tuyên bố rằng phong trào của y đã ‘ra khỏi núi rừng’ và những vùng nông thôn ‘hẻo lánh’. Năm 1978, y nói với các nhà báo Nam Tư rằng y biết ‘rất rõ các dân tộc ít người’ và coi họ thuộc những người ủng hộ y mạnh mẽ nhất”.[39] Tất nhiên, việc tổ chức người thượng (hoặc “dân miền núi” như người ta thường gọi) không có gì sai trái. Cụ Hồ Chí Minh cũng làm việc đó. Nhưng Người tổ chức họ chủ yếu là để giúp họ tự giải phóng chứ không phải để dùng họ làm những người lính xung kích được rèn luyện và nhồi sọ để tiêu diệt dân thành phố. Những người cách mạng Việt minh tin tưởng ở nhân dân – dù là người Thượng ở vùng biên giới, nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu long hoặc các đồng bằng ven biển hay công nhân và những người dân thành phố khác – và xây dựng hoạt động của mình trên chỗ dựa đó.[40] Một nhân tố quan trọng của tấn thảm kịch ở Campuchia là những người thắng trong cuộc tranh chấp quyền lực đẫm máu ở trong giới lãnh đạo cao cấp nhất chẳng những không hề tìm cách bắt rễ sâu về tổ chức trong lòng nhân dân, mà còn khinh thường nhân dân một cách sâu sắc. V. Sự trỗi dậy của Khme đỏ (phần 2) Năm 1967, Khiêu Xamphon, Hu Yun và Hu Nim biến mất sau khi bị Sihanúc công khai tố cáo là đã xúi giục một cuộc nổi loạn của nông dân ở Battambang. Lúc đó, người ta đồn rằng tất cả đã bị Sihanúc sát hại. Thực ra, họ đã trốn vào rừng để tham gia các lực lượng du kích chống Sihanúc. Đến lúc Khme đỏ nắm được chính quyền năm 1975, đặc biệt Khiêu Xamphon đã biến chất, từ chỗ là một trong những trí thức tiến bộ xuất sắc nhất của Campuchia thành một tên phát–xít. Trong luận án tiến sĩ của y, Khiêu Xamphon đã tán thành sự phát triển của một giai cấp tư sản dân tộc và việc tiến tới một xã hội công bằng hơn bằng cách cải tạo nên giai cấp tư bản của chính Campuchia nhằm phát triển các tài nguyên của đất nước, coi đó là một giai đoạn lâm thời trước khi xây dựng một xã hội Xã hội chủ nghĩa. Vì sao về sau y lại đi đầu trong những chính sách cực tả, nhảy qua mọi bước trung gian, hòng đạt tới “chủ nghĩa cộng sản trong nháy mắt”? Có ý kiến nói rằng thời gian ngắn ngủi làm Quốc vụ khanh về thương nghiệp năm 1962 – 1963 đã làm cho Khiêu Xamphon tin rằng con đường duy nhất để cứu nước là dùng các phương pháp cách mạng – kể cả đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ Sihanúc và giết sạch giai cấp trung lưu ăn bám. Một ý kiến khác nói rằng việc tiếm quyền của Lon Non và Xiríc Matắc – tên này là anh em họ và là người kình địch quyết liệt trọn đời của Sihanúc, đồng thời là một kẻ cầm đầu mọi phần tử thối nát nhất trong cộng đồng kinh doanh mại bản của Campuchia – đã đẩy nhanh những hậu quả tai hại của sự “hợp nhất quốc tế” mà Khiêu Xamphon đã từng kiên trì báo trước. Đây là một điểm mà Uyliam Socros đã lưu ý trong cuốn sách quan trọng và có sự điều tra tuyệt vời: “Tiết mục phụ: Kítxinhgiơ, Níchxơn và việc tàn phá Campuchia”: “Từ đầu năm 1971 đến tháng 4/1975 (và về một số mặt thì sau đó nữa), viện trợ của Hoa Kỳ là yếu tố bao trùm trong hầu hết mọi khía cạnh của các vấn đề chính trị, kinh tế và quân sự ở Campuchia. Vì rằng chủ thuyết đòi hỏi phải tỏ ra rằng Hoa Kỳ không đích thân dính líu vào công việc của đất nước nhỏ bé này, viện trợ kinh tế cũng như quân sự, được cung cấp mà không có ràng buộc mấy. Các quan chức của Đại sứ quán ‘kín đáo’ theo dõi tiền do họ cung cấp ảnh hưởng đến những người nhận viện trợ như thế nào. Các khoản viện trợ đầu tiên là để giúp Campuchia nhập khẩu những hàng hóa thanh toán bằng nguồn tài chính do xuất khẩu mang lại. Mặc dù có sự trì trệ về kinh tế dưới thời Sihanúc, năm 1969 xuất khẩu gạo, cao su và ngô đã mang lại 90 triệu đôla, một tỷ lệ đáng kể trong tổng sản phẩm quốc dân là 450 triệu đôla. Đến cuối năm 1970, Chính phủ đã chi tiêu hơn gấp 5 lần thu nhập và không thu được một đồng nào từ nước ngoài… Viện trợ kinh tế mỗi năm càng được đổ thêm vào Campuchia nên kinh tế càng sa sút. Người ta có nhìn vào chỉ số giá cả tiêu dùng về thực phẩm; các con số là do Chính phủ cung cấp, có lẽ có thổi phồng chút ít nhưng không nhiều lắm. Nếu lấy 100 là chỉ số giá cả năm 1949, thì tháng 3/1970 – tháng cuối cùng của chế độ Sihanúc, chỉ số lên đến 348. Đến cuối năm 1970, chỉ số là 523; cuối năm 1971 là 828; cuối 1972 là 1.095; cuối 1973 là 3.907 và cuối 1974 là 11.052”.[41] Liệu còn có thể có sự xác nhận nào quan trọng hơn về sự phân tích của Khiêu Xamphon hơn một thập kỷ trước đó? Các sự kiện đã biện minh một cách bi thảm những điều tiên đoán của y và hẳn đã đề cao y trong con mắt của “nhóm Paris”, đặc biệt là các phần tử cấp tiến nhất. Rồi đến những cuộc ném bom B52 của Mỹ tàn phá phần lớn những cơ cấu xã hội và kinh tế sẵn có của Campuchia. Socros cung cấp tài liệu rất đầy đủ về cuộc leo thang ném bom, từ “Chiến dịch Ăn sáng” ngày 18/3/1969, bên phía Campuchia dọc biên giới với Việt Nam, đến những cuộc ném bom hủy diệt vào nửa đầu năm 1973. “Trong vòng 14 tháng tiếp theo đó, đã có 3.630 vụ ném bom B52 xuống những nơi nghi là có căn cứ cộng sản dọc theo nhiều vùng biên giới Campuchia. Sau ‘Ăn sáng’ là ‘Ăn trưa’, sau ‘Ăn trưa’ là ‘Ăn nhẹ’, sau ‘Ăn nhẹ’ là ‘Ăn tối’, sau ‘Ăn tối’ là ‘Tráng miệng’, sau ‘Tráng miệng’ là ‘Ăn khuya’; cứ thế chương trình lan rộng từ vùng ‘Đất thánh’ này đến vùng ‘Đất thánh’ khác. Toàn bộ chiến dịch này được gọi là ‘Thực đơn’”.[42] Hầu hết các cuộc ném bom xảy ra trước khi Sihanúc bị lật đổ và Hoa Kỳ chính thức tham chiến bên cạnh Lon Non. Sau đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia trở thành mục tiêu của các máy bay ném bom khổng lồ của Hoa Kỳ, chưa kể lực lượng không quân của Nam Việt Nam được phát triển nhanh chóng. Cường độ các cuộc ném bom tăng lên sau khi Hiệp định tháng 1/1973 về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký tại Paris và các hoạt động của không quân Hoa Kỳ ở Việt Nam ngừng lại. Việc ném bom trở thành điên loạn trong 6 tháng trước khi Quốc hội Hoa Kỳ buộc Níchxơn và Kítxinhgiơ phải đình chỉ ngày 15/8/1973. “Nhà Trắng phớt lờ sự thỏa thuận với Quốc hội là sẽ không tăng cường độ ném bom trong 45 ngày cuối cùng. Tháng 6 có 5.064 phi vụ chiến thuật ở Campuchia; tháng 7, con số này tăng vọt lên 5.818 phi vụ và trong nửa đầu tháng 8, có 3.072 phi vụ. Trong 45 ngày đó, việc ném bom chiến thuật đã tăng lên 21%. Các cuộc ném bom của B52 cũng tăng, mặc dù loại máy bay này hầu như đã được huy động hết. Đến ngày 15/8, khi chiếc máy bay Mỹ cuối cùng thả hết hàng, tổng số bom ném xuống từ ‘Chiến dịch Ăn sáng’ là 539.129 tấn. Gần một nửa số này, tức 257.465 tấn, được ném xuống trong 6 tháng cuối cùng (trong Thế chiến thứ hai, 160 nghìn tấn bom đã được ném xuống Nhật bản). Trên những bản đồ Campuchia của không quân, hàng nghìn dặm vuông thuộc những vùng đông dân phì nhiêu, được đánh dấu màu đen do sự tàn phá này”.[43] Bao trùm lên toàn bộ tình hình đó là việc Khme đỏ bị ám ảnh bởi cuộc Cách mạng văn hóa bên Trung Quốc: để cho nông dân “cải huấn” trí thức; đặt nông dân – ít ra là về lý thuyết – lên bậc thang cao nhất của xã hội Trung Quốc; săn lùng và tàn sát cán bộ kỳ cựu của đảng và cả giai cấp tư sản dân tộc trước đây từng được dễ dãi chấp nhận. Những người như Pol Pot và Xonxen, từng theo các khóa nghiên cứu ở Bắc Kinh trong thời kỳ cao điểm của Cách mạng Văn hóa, nhận được một liều thuốc mạnh về tuyên truyền chống Việt Nam và đã truyền cho đồng bọn trong giới lãnh đạo. Khiêu Xamphon, thường được mô tả là “ôn hòa”, nhưng chính là kẻ khát máu nhất, khi đụng đến vấn đề quan hệ với Việt Nam hoặc với các chiến sĩ kỳ cựu Khme đỏ bị “ô nhiễm” do đã chiến đấu kề vai sát cánh với người Việt Nam chống Pháp. Vandi Kaom, một tiến sĩ xã hội học và giáo sư triết học được đào tạo tại Paris, ngày nay là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Thống nhất cứu nước Khme, đã phân tích cho tôi như sau về sự tha hóa của Khiêu Xamphon: “Khi Khiêu Xamphon từ Paris trở về, phong trào cánh tả – những người cho rằng phải thay đổi cơ cấu của Campuchia thì mới giải quyết được vấn đề của đất nước – được tăng cường mạnh mẽ. Tham gia Chính phủ, y đã tìm cách giải quyết các vấn đề kinh tế bằng những giải pháp cấp tiến, nhưng giải pháp này, do thực tế tình hình, chỉ là ‘ảo tưởng tả khuynh’. Vì vậy, y sớm rời khỏi Chính phủ. Cuộc đảo chính của Lon Non và sự can thiệp của Hoa Kỳ đã đẩy nhanh việc tàn phá các cơ cấu sẵn có và Khiêu Xamphon bắt đầu tìm kiếm những tư tưởng mới, giải pháp mới. Y nhìn sang Trung Quốc. Trước đó y đã tiếp thu đường lối Mao–ít rằng cách mạng phải do giai cấp nông dân lãnh đạo. Trung Quốc đã lợi dụng tình trạng rất lúng túng trong tư tưởng của ban lãnh đạo Khme đỏ lúc bấy giờ để áp đặt đường lối của chính họ về phong trào cách mạng, bao gồm việc phá hủy các kế hoạch của những nhà cách mạng kỳ cựu muốn đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là yếu tố bao trùm trong chính sách diệt chủng sau này. Không tranh cãi với những người đối lập: phải tiêu diệt họ tận gốc rễ! Khi Sihanúc thành lập Chính phủ Kháng chiến ở Bắc Kinh, Khiêu Xamphon được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Thực ra, y chỉ là một nhân vật hữu danh vô thực. Chính Pol Pot phụ trách các vấn đề quân sự ngay từ đầu. Nhưng Khiêu Xamphon vẫn là nhà tư tưởng tối cao. Iêng Xary là người thực hiện, là người liên lạc chủ yếu với Bắc Kinh và Hà Nội. Nay đã có đầy đủ tài liệu để chứng tỏ dứt khoát rằng Pol Pot và Ban lãnh đạo Khme đỏ nằm dưới sự đỡ đầu của Bắc Kinh. Nếu người Trung Quốc muốn có một lãnh tụ có uy tín lớn, có lẽ họ đã chọn Khiêu Xamphon chứ không phải Pol Pot, nhưng Pol Pot là một người máy của Trung Quốc, không phải là người yêu nước Campuchia. Cuộc đấu tranh chống Lon Non tiếp diễn. Khiêu Xamphon bắt đầu đưa những khái niệm mới vào triết lý của y. Từ tư tưởng cơ bản cho rằng con người vốn là tốt nhưng đã bị nền văn minh làm cho hư hỏng, rằng nền ‘văn minh’ được thể hiện bằng một xã hội công nghiệp hóa thì con người càng hư hỏng, y tiếp thu thêm một tư tưởng nguy hiểm hơn nhiều, đó là sự chuyên chính của một nhóm nhỏ trí thức ưu tú và cả sự giáo dục cũng bị y coi là nguồn gốc làm hư hỏng quần chúng. Chỉ cần một hệ thống xã hội thật đơn giản để duy trì sự ‘trong sạch’ và sự lành mạnh của con người. Một trong những câu nói ưa thích của y là: ‘Con người càng được giáo dục thì càng trở nên dối trá’. Nhóm ưu tú sẽ làm công việc suy nghĩ, quần chúng sẽ làm công việc lao động – họ càng lao động thì càng ít có thời giờ để suy nghĩ vô ích. Rõ ràng là Khiêu Xamphon đã thừa kế những tư tưởng đó của các hoàng đế cổ đại và của học thuyết về quyền lực tối cao của lãnh tụ. Hoàng đế ở gần trời nhất, do đó biết tất cả! Nhân dân chỉ cần lao động và tuân lệnh! Con người và ruộng đất, mặt trời và nước, đó là tất cả những gì cần thiết cho một cuộc sống trong sạch, bình yên. Về một khía cạnh nào đó, Khiêu Xamphon đã thực hành điều mà y thuyết giáo. Y sống một cuộc đời rất giản dị và làm việc ngoài đồng hồi y làm đại biểu Quốc g ị ệ g g y ạ hội. Sau khi Khme đỏ giành chính quyền, y đi xe đạp trong khi Pol Pot, Iêng Xary và những người lãnh đạo khác đi xe Merxedet có tài xế lái”. Năm 1970, khi Khiêu Xamphon, Hu Yun và Hu Nim xuất hiện trở lại, đáp ứng lời kêu gọi của Sihanúc về việc gia nhập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Campuchia (FUNK) chống Lon Non do ông ta đứng đầu, trong nội bộ Khme đỏ có ba phái khác biệt: 1. Nhóm sôvanh, dân tộc cực đoan và phân biệt chủng tộc, đứng đầu là Pol Pot, Iêng Xary, Xonxen, vợ của chúng và Khiêu Xamphon, muốn hình thành một xã hội “cộng sản” độc đáo theo kiểu riêng của Campuchia, chứ không phỏng theo Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam hay bất cứ mô hình nào khác. Chúng chịu sự cổ vũ và ảnh hưởng mạnh mẽ của “Chủ nghĩa Mao” và cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, có bằng chứng rằng, trong khi xun xoe trước những nhà lãnh đạo Trung Quốc và phụ thuộc nặng nề vào sự ủng hộ vật chất của họ, trong thâm tâm Pol Pot vẫn coi thường họ. 2. Một nhóm, đứng đầu là Hu Nim, Hu Yun, Phúc Chay và Tin Op đấu tranh đòi áp dụng mô hình Cách mạng Văn hóa Trung Quốc vào điều kiện Campuchia. 3. Một nhóm, đứng đầu là Xô Phim, Keo Môni, Chu Chét và những người khác, tán thành xây dựng một nước Campuchia xã hội chủ nghĩa bằng cách theo mô hình Việt Nam. Nhóm này chủ yếu gồm những đảng viên kỳ cựu thuộc Đảng bộ Khme của Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây và những người ủng hộ lập trường quốc tế chủ nghĩa của họ. Mỗi nhóm có căn cứ riêng và trung tâm quyền lực riêng; Pol Pot lúc đầu ở Đông Bắc trong vùng người Thượng, Hu Nim ở miền Nam và Tây Nam trong vùng núi Voi và núi Đậu Khấu; còn Xô Phim ở các tỉnh đông dân ở miền Đông nằm giữa sông Mê kông và biên giới Việt Nam. Chỉ có nhóm thứ ba tôn trọng thỏa thuận với Sihanúc ở Bắc Kinh về việc đoàn kết trong cuộc đấu tranh vũ trang chung chống chế độ Lon Non. Hai nhóm đầu đều ra sức tiêu diệt các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc của Sihanúc và các lực lượng của nhóm thứ ba. Các nhóm của Pol Pot và Hu Nim vẫn coi Sihanúc – chứ không phải đế quốc Mỹ – là kẻ thù chủ yếu của cách mạng Campuchia. Chúng tin rằng phải quan niệm cuộc đấu tranh trong nước chúng tách biệt khỏi cuộc đụng đầu toàn cục ở Đông Dương và cuộc đấu tranh trên thế giới chống đế quốc Mỹ. Nhưng Pol Pot không thể tha thứ cả đến mức độ sai lệch trong sự hào hứng của Hu Nim và Hu Yun đối với Cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Có lẽ y sợ rằng nhóm Hu Nim sẽ thắng cuộc trong trận chiến đấu giành ân huệ của Trung Quốc.[44] Hầu hết những người lãnh đạo “khu miền Đông” của Xô Phim về sau đều bị giết hết, chủ yếu là sau những cuộc khởi nghĩa quân sự chống Pol Pot bị thất bại. Một số ít sống sót, trong đó có Hêng Xomrin, tuy không phải là đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng là một chiến sĩ hăng say của nhóm “khu miền Đông” chống Pol Pot. Mâu thuẫn giữa các phe phái Khme đỏ là một trong những nút thắt khó gỡ nhất trong tấn thảm kịch Campuchia. Vài tài liệu cơ bản (số tài liệu này rất ít) liên quan đến quá trình tháo gỡ là: (a) một cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Khme, xuất bản ở Khu miền Đông năm 1973; (b) một báo cáo dài của Pol Pot ngày 22/7/1975 khi các lực lượng vũ trang của các chiến khu được chuyển giao cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Khme; và cuốn “Sách đen” công bố tháng 9/1978, mở đầu cách trình bày của Pol Pot về lịch sử Đảng Cộng sản Khme và quan hệ của Đảng với Việt Nam. Đem so sánh cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Khme của Khu miền Đông với hai tài liệu kia thì thấy nổi lên một điều có ý nghĩa to lớn. Việc nghiên cứu kỹ càng các tài liệu đó cho thấy một mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, mâu thuẫn này thường bị che mờ. Cuốn “Sách đen” là mưu đồ rõ ràng nhất của Khme đỏ nhằm chứng minh “sự thống trị của Việt Nam”. Đó cũng là sự tổng hợp đầy đủ nhất về tư tưởng của ban Lãnh đạo Khme đỏ mà thế giới bên ngoài có được. Hình thức và nội dung của cuốn “Sách đen” nói lên sự man rợ mà chúng đã dùng để thủ tiêu các đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây, rồi đến những người ngay trong nội bộ Ban lãnh đạo Khme đỏ đã đặt dấu hỏi về sự khôn ngoan, lợi ích và có lẽ cả đạo đức của hành động đó. Dưới đầu đề: “Dùng ngọn cờ cách mạng để chiếm đoạt lãnh thổ”, người ta tìm thấy cách trình bày của Khme đỏ về cống hiến của Việt Minh đối với việc đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Với cách gọi “Việt Nam – kẻ thù số một”, chúng coi bọn cầm quyền phong kiến Việt Nam, chế độ bù nhìn Sài Gòn, mà còn cả Việt Minh và Việt Cộng – những người bạn chiến đấu của Campuchia chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chế độ bù nhìn Sài Gòn – đều là kẻ thù. “Từ năm 1946 đến 1954, dưới chiêu bài của ‘tình đoàn kết cách mạng’ chống thực dân Pháp, người Việt Nam đã tìm cách chiếm đoạt lãnh thổ Campuchia. Dưới ngọn cờ cách mạng, người Việt Nam đến Campuchia và lập các chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương để nắm nhân dân Campuchia. Chúng dùng công cụ đó để tìm cách chiếm đoạt Campuchia… Lúc đó, những người Khme tiến hành cuộc đấu tranh ở Campuchia không có lập trường độc lập. Họ dựa hoàn toàn vào người Việt Nam. Họ không hiểu rõ họ làm cách mạng cho ai và vì cái gì. Chính vì vậy mà người Việt Nam đã có thể dễ dàng vào Campuchia. Chúng chia Campuchia thành các khu: Đông, Tây Nam và Tây Bắc. Ở đó, chúng muốn đặt ai lên thì đặt. Chúng thay họ làm mọi việc và muốn làm gì thì làm. Nhân dân Campuchia, nạn nhân của các hành động xâm lược và thôn tính của người Việt Nam và đã liên tiếp mất một phần lớn đất đai của vùng Hạ Campuchia, nuôi một mối hận thù sâu sắc đối với bọn Việt Nam xâm lược, thôn tính và nuốt sống đất ọ ệ ợ g đai của Campuchia. Nhân dân Campuchia biết rõ những hành động phản trắc, những sự lẩn tránh và đạo đức giả của bọn Việt Nam. Nhân dân Campuchia bao giờ cũng sôi sục một mối thù sâu sắc”.[45] Tháng 5/1980, tôi hỏi ý kiến của ông Nguyễn Khắc Viện về “mối hận thù truyền kiếp” mà Khme đỏ dùng để giải thích sự hung hăng của chúng đối với Việt Nam. Ông trả lời: “Giữa nhân dân tất cả các nước đã từng gây chiến tranh với nhau, có những tàn dư của ‘hận thù truyền kiếp’. Ngày nay, những phần tử phản động đã nhấn mạnh những khác biệt về văn hóa và những cuộc tranh chấp phong kiến trong lịch sử. Những người tiến bộ thì nhấn mạnh truyền thống đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Thái độ đối với vấn đề này là sự thử thách để xem ai là phản động, ai là tiến bộ. Vấn đề của chúng tôi với nước Campuchia của Khme đỏ không phải là một vấn đề giữa hai nước xã hội chủ nghĩa, như ở phương Tây người ta thường nói, mà là một vấn đề với những lực lượng đã biến thành cách mạng giả danh, cộng sản giả danh. Đằng sau cái điều điên rồ của Pol Pot là chính sách có tính toán của Bắc Kinh dùng hắn làm công cụ, trước hết để đánh ngang sườn và sau đó để chinh phục Việt Nam. Không có cái điên rồ và tính tự cao tự đại của Pol Pot thì Bắc Kinh không thể tạo ra được một nước Campuchia chống Việt Nam! Trong lịch sử đã có những tiền lệ về việc khai thác cái điên rồ đó. Hítle là một thằng điên, nhưng bọn trùm tư bản vùng Rua đã khéo sử dụng cái điên rồ của hắn để xúc tiến âm mưu thống trị toàn thế giới của chính chúng”. Hình ảnh về “mối hận thù truyền kiếp” mà Khme đỏ đã dày công tuyên truyền thật khác với những cảm tưởng mà tôi đã thu lượm được – và lúc đó đã công bố – trong những cuộc gặp gỡ với những người cách mạng kỳ cựu Khme trong chuyến đi thăm Campuchia lần đầu tiên năm 1965. Một trong những trung tâm chính của hoạt động kháng chiến chống Pháp là tỉnh Côngpông Chàm, trong công nhân đồn điền cao su Chúp, đồn điền cao su lớn thứ hai trên thế giới. Lúc đó, tôi đã viết: “Ở Phnom Penh, tôi may mắn gặp một cán bộ cũ của Khme Ítxarắc đã từng làm công tác tổ chức ở Chúp và chúng tôi đã cùng nói chuyện với một số công nhân đồn điền cũ khác. Một công nhân già cười khoái trá khi chúng tôi nói về những ngày kháng chiến: ‘Chúng [người Pháp] hy vọng vào việc chia rẽ chúng tôi với người Việt Nam. Nhưng chúng không hiểu rằng khi người ta cùng làm, cùng đau khổ và cùng chết, thì chủng tộc chẳng có nghĩa lý gì. Chúng gọi người Việt Nam (họ làm phu hợp đồng trong đồn điền) là Việt Minh và thường theo dõi họ chặt chẽ. Còn đối với người Campuchia chúng tôi, chúng không làm phiền chúng tôi đến thế. Vì vậy, chúng tôi thường làm công tác liên lạc. Chúng tôi thành lập công đoàn bí mật và các chi nhánh Khme Ítxarắc khắp các đồn điền…”.[46] Ông kể tiếp về cuộc đình công đầu tiên ở đồn điền, về việc ban quản đốc Pháp phải nhân nhượng sau ba ngày, mặc dù chúng đã ra sức chia rẽ nhân viên văn phòng và công nhân nhà máy với phu đồn điền. “Người công nhân già tiếp tục: ‘Đối với chúng tôi lúc đó thật là vĩ đại, thật mới. Trước đó, chưa hề bao giờ có chuyện như vậy, cả những công nhân cao tuổi nhất cũng chưa hề thấy bao giờ. Đặc biệt sung sướng là những người từng mang gạo cho cán bộ Ítxarắc. Chúng tôi thấy rõ cán bộ đã nói đúng khi nhấn mạnh rằng đoàn kết là quan trọng, rằng không được để cho bọn Pháp chia rẽ người Campuchia và người Việt rằng đoàn kết thì nhất định thắng”.[47] Các tác giả của “Sách đen” và thủ trưởng trực tiếp của chúng, Iêng Xary, có lẽ có thể được tha thứ về sự dốt nát của chúng đối với những gì đã toát ra từ cuộc chiến tranh chống Pháp. Hồi đó, chúng đang bận nghiên cứu chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trốtxki, chủ nghĩa Titô, chủ nghĩa vô chính phủ và các lý thuyết khác ở Paris. Nhưng sau đó, vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, chúng đã có mọi điều kiện để nhận ra rằng tình đoàn kết gắn bó chặt chẽ giữa các lực lượng cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương là nhân tố quyết định thắng lợi chung của họ. Trong tác phẩm “Nông dân và chính trị ở Campuchia, 1942 – 1979”, Ben Kiếcnam và Chanthu Bua so sánh cuốn “Lịch sử Đảng” của khu miền Đông với những lời khoác lác của Pol Pot. Trước hết, cuốn Lịch sử Đảng viết: “Các điều kiện thành lập Đảng ở nước ta về nguyên tắc không khác các điều kiện cách mạng dẫn đến việc thành lập các đảng mácxít – lêninit trên thế giới. Qua những gì mà chúng ta biết được về nước Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam… tất cả đều theo một nguyên tắc giống nhau, đó là phong trào cách mạng của nhân dân; mà nhân dân là công nhân (ở các nước công nghiệp) hoặc là nông dân (ở các nước nông nghiệp chậm phát triển). Việc thành lập Đảng chắc chắn là theo ‘Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản’ của Mác và Ănghen, Đảng của các học trò của Lênin, của Đại Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10, cách mạng dân chủ nhân dân Trung Quốc và cách mạng khắp thế giới”.[48] Trong bài diễn văn tràng giang đại hải trước khoảng 3.000 đại biểu quân đội cách mạng ngày 22/7/1975, Pol Pot khoe khoang: “Chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, vĩnh viễn và dứt khoát, có nghĩa là chúng ta đã thắng mà không cần có sự liên hệ hay dính líu của nước ngoài nào. Chúng ta đã dám tiến hành đấu tranh trên một lập trường hoàn toàn khác hẳn lập trường của cách mạng thế giới. Cách mạng thế giới tiến hành đấu tranh với mọi sự viện trợ hàng loạt của các lực lượng bên ngoài, về vật chất, kinh tế và tài chính. Còn chúng ta, chúng ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng chủ yếu trên các nguyên tắc độc lập, tự chủ và tự lực cánh sinh. Trên toàn thế giới, kể từ ngày có đấu tranh cách mạng và chủ nghĩa đế quốc ra đời, chưa hề có một nước nào, một dân tộc nào và một quân đội nào đã có thể đuổi sạch bọn đế quốc và giành toàn thắng như chúng ta đã làm”.[49] Tất nhiên, đây là chuyện nói càn. Các chiến thắng quyết định chống chế độ Lon Non là do các lực lượng Việt Nam và chính Khme đỏ đã công khai yêu cầu họ can thiệp.[50] Điều duy nhất mà Pol Pot có thể khoe khoang một cách “chính đáng” là việc y đã nghiền nát các đối thủ, từ những người đi theo Sihanúc, đến các lực lượng được Việt Nam đào tạo và cuối cùng là các đồng chí Khme đỏ của chính y, những người đã từ là bạn biến thành thù, mà không cần đến các lực lượng bên ngoài. Nói toạc ra hơn, trong khi các bộ chỉ huy Khu miền Đông và trong một chừng mực nào đó, Khu Tây Nam có hợp tác trong việc đánh bại Lon Non và các lực lượng Hoa Kỳ – Sài Gòn, thì phe cánh của Pol Pot trong Ban lãnh đạo Khme đỏ tập trung các nỗ lực quân sự và chính trị vào việc thủ tiêu các đối thủ tiềm tàng và những người mà chúng cho là đối thủ. Kiếcnam và Bua cũng vạch rõ sự đánh giá khác nhau về Hội nghị Giơnevơ năm 1954 của Pol Pot, của nhóm Khu miền Đông và cả của Hu Yun thuộc nhóm ủng hộ Cách mạng Văn hóa. Pol Pot và phe cánh mô tả Hội nghị Giơnevơ như là một vụ bị “Việt Nam bán đứng”, trong đó các thành quả của Cộng sản mà phe cánh Pol Pot chẳng có tí đóng góp nào,“bị tan thành mây khói”. Pol Pot coi đây là điển hình về sự “phản trắc” của Việt Nam. Trong cuốn Lịch sử Đảng của Khu miền Đông, kết quả của Hội nghị đã được trình bày khác hẳn. “… chiến thắng đế quốc Pháp và tay sai… cùng với thắng lợi đã giành được của Đảng và nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân toàn thế giới, Đảng Campuchia đã có thể ‘buộc giai cấp phong kiến, tư sản và phản động, bọn địa chủ, phải theo đuổi chính sách trung lập’”.[51] Nghe nói rằng tại một cuộc mítinh tháng 5/1972, Hu Yun có lẽ cảm thấy cần phải biện hộ cho vai trò của Trung Quốc tại Hội nghị Giơnevơ, đã phát biểu: “Các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bị thiệt hại nặng sau Thế chiến thứ hai và những người xã hội chủ nghĩa châu Á bị suy yếu nhiều do các cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và Triều Tiên, đã đánh giá quá cao sức mạnh của đế quốc lúc bấy giờ và đã gây sức ép buộc các lực lượng cách mạng Đông Dương đang gặp khó khăn(!) chấm dứt chiến sự và chấp nhận hiệp ước hòa bình với các lực lượng đế quốc”.[52] Đây là một sự đánh giá về Hội nghị Giơnevơ có hiểu biết hơn nhiều so với luận điệu thô bạo của Pol Pot về việc Việt Nam cố tình “bán đứng” Campuchia. Kiếcnam và Bua có trích dẫn lời một người đã chính tai nghe Hu Yun nói rằng y “thấy rõ rằng những người Cách mạng Việt Nam cũng đau lòng (về Hiệp nghị Giơnevơ) như người Campuchia”. Sự “đau lòng” của người Việt Nam càng tăng thêm vì họ đã bảo vệ mãnh liệt lợi ích của Campuchia và Lào. Người ta có thể lập luận một cách hợp lý rằng người Việt Nam hiểu rõ bảo vệ lợi ích Campuchia và Lào cũng là bảo vệ lợi ích của chính họ, sự liên quan giữa các lợi ích này là điều mà Pol Pot và đồng lõa hoàn toàn bỏ qua. Về thực chất, chính sự khác biệt này giữa quan điểm dân tộc và quan điểm quốc tế về sau đã khiến Pol Pot từng bước đi theo con đường vị chủng và diệt chủng. Trong một đoạn nói về việc phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam chống chế độ Ngô Đình Diệm năm 1959 – 1960, các tác giả “Sách đen” nói rằng cán bộ cách mạng ở miền Nam Việt Nam đã thâm nhập vào Campuchia để tìm kiếm sự ủng hộ. Quả đúng như vậy, nhưng sự ủng hộ mà họ tìm kiếm là của khoảng 600 nghìn người gốc Việt sống tại Campuchia. Theo “Sách đen” thì: “Khẩu hiệu của họ là ‘Đoàn kết giữa ba nước! Campuchia, Lào và Việt Nam là bạn bè kết nghĩa gắn bó, đấu tranh chống kẻ thù chung’. Nhân dân và Cách mạng Campuchia đã tin rằng chúng chân thành. Thực ra, người Việt Nam dùng những khẩu hiệu này để che giấu các hoạt động chia rẽ và phá hoại và để chui vào phong trào Cách mạng Campuchia. Chúng gây dựng tình hữu nghị với cán bộ và nhân dân Campuchia để sau đó đưa họ vào tổ chức của chúng. Chúng tổ chức những người đã tiến hành đấu tranh chống thực dân Pháp và đưa họ trở lại vào Đảng Cộng sản Đông Dương”.[53] Tiếp đó là một lời chú thích đáng chú ý về sự ngắn ngủi mà chúng dùng để gạt bỏ một sự kiện có tầm quan trọng sống còn trong lịch sử cách mạng Đông Dương: “Đảng Cộng sản Đông Dương giải tán năm 1951, nhưng chỉ về hình thức. Trên thực tế, Đảng này vẫn tiếp tục tồn tại. Vào thời điểm Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức giải tán, người Việt Nam đã thành lập cho mỗi nước một đảng. Nhưng ở Campuchia,‘Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia’ (Pracheachon) chỉ tồn tại trên danh nghĩa”.[54] Đây là một vụ nói càn trắng trợn! Đảng Cộng sản Đông Dương đã thực sự giải tán theo sáng kiến của cụ Hồ Chí Minh sau khi tình thế đã rõ ràng là chủ nghĩa thực dân Pháp sẽ thất bại và quan niệm của nó về một đơn vị hành chính “Đông Dương” duy nhất nhất định sẽ sụp đổ. Như đã quy định trước đó 20 năm, khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng sẽ được thay thế bằng các đảng riêng biệt cho Việt Nam, Campuchia và Lào vào thời điểm thích hợp. Bất cứ nhà nghiên cứu độc lập nào về những sự kiện chính trị ở ba nước trong thời kỳ đó cũng sẽ đồng ý rằng các đảng riêng biệt – ngụy trang thành các “mặt trận” vì những lý do cách mạng rất chính đáng – thực sự đã được thành lập với sự giúp đỡ của Việt Nam. Vả lại, còn ai xứng đáng hơn người Việt Nam để giúp đỡ họ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, một cuộc đấu tranh nhất định sẽ kéo dài nhiều năm và có lẽ hàng thập kỷ. Những người cách mạng Campuchia và Lào chắc chắn đã nhận ra rằng đối phó với một kẻ thù chung – lúc bấy giờ là chủ nghĩa thực dân Pháp – họ cần những chiến lược chung và phối hợp với nhau. Trong “Sách đen”, sự giúp đỡ của Việt Nam, vào thời kỳ gay cấn nhất khi đế quốc Mỹ tìm cách thay thế thực dân Pháp tại các quốc gia Đông Dương trước đây, đã bị xuyên tạc: “Thông qua tiếp xúc, người Việt Nam tìm hiểu xem ai nhất trí và ai không nhất trí với chính sách đấu tranh vũ trang của Đảng Cộng sản Campuchia. Chúng lôi kéo những người lập trường không vững. Chúng bí mật tổ chức họ và tổ chức một chính quyền song song. Chúng kích động và đả kích Đảng Cộng sản Campuchia, nói rằng chính sách của đảng là sai lầm, là “tả khuynh”, phiêu lưu… Đối với những người Campuchia từng học tập ở miền Bắc Việt Nam, chúng phân phối cuốn ‘Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản’ của Lênin. Chúng tăng cường đả kích Đảng Cộng sản Campuchia khi cuộc đấu tranh vũ trang ở Campuchia bị bẻ gãy năm 1958. Đồng thời, chúng đặt các mối tiếp xúc ở cấp khu hành chính nhằm thúc đẩy sự bất đồng và chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản Campuchia. Đồng thời, chúng phá hoại nền kinh tế Campuchia, một mặt, chúng buôn lậu qua chợ đen; mặt khác, chúng ăn cướp lương thực, thực phẩm của nhân dân: nông sản, lợn, gà… Đó là những kinh nghiệm cay đắng đến với nhân dân và cách mạng Campuchia. Từ năm 1965, cuộc đấu tranh giữa những người cách mạng Campuchia và Việt cộng trở nên gay go, mãnh liệt. Người Việt Nam đến Campuchia không chỉ để tìm nơi ẩn náu, mà còn để tìm cách thôn tính và nuốt chửng Campuchia. Mặc dù chúng ở trong tình thế cực kỳ khó khăn, người Việt Nam vẫn tiếp tục chuẩn bị khắp nơi các lực lượng chiến lược nhằm lật đổ chính quyền cách mạng Campuchia khi thời cơ thuận lợi. Ở vùng Đông Bắc Campuchia, người Việt Nam gặp khó khăn trong việc thực hiện chiến lược của chúng, vì ở đó có Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia”.[55] Trên cơ sở những kinh nghiệm của bản thân tôi từ năm 1965 đến 1968 – ở sâu trong vùng giải phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ở các vùng chiến sự với các lực lượng Mỹ – Sài Gòn và cư trú tại Campuchia trong những năm đó – tôi có thể vạch trần câu chuyện của “Sách đen” là hoàn toàn nhảm nhí. Chính tháng 2/1965, Hoa Kỳ bắt đầu ném bom có hệ thống miền Bắc Việt Nam và tháng 3 bắt đầu đưa quân chiến đấu tham gia cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Nghĩ rằng, vào thời điểm gay go này của cuộc đối đầu với cường quốc đế quốc hùng mạnh nhất, người Việt Nam lại hướng nghị lực của họ vào việc lật đổ một “chính quyền cách mạng” không có thực nào đó ở Campuchia, thì quả là đẩy trí tưởng tượng đến những giới hạn lố bịch nhất. Ý kiến này lẽ ra không đáng được nhắc đến, nếu như một số chiến sĩ có uy tín của “cánh tả” ở thế giới phương Tây đã không nuốt phải nó và phun ra trở lại. Hơn nữa, nói rằng Việt Nam gặp khó khăn ở vùng Đông Bắc Campuchia “vì ở đó có Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia” là nói láo, có lẽ nhằm ghi nhận rằng chính ở vùng Đông Bắc Pol Pot đã tập hợp những người sống sót trong cuộc khởi nghĩa thất bại của y chống Sihanúc. Dựa vào cuộc điều tra rất kỹ lưỡng của họ về vấn đề này, Kiếcnam và Bua kết luận: “Việc thủ tiêu các cán bộ chủ chốt của đảng vào những thời điểm khác nhau của những năm 60 và 70, trong những điều kiện mà nạn nhân rõ ràng bị bất ngờ, cũng là một phương tiện để xây dựng vị trí của nhóm Pol Pot. Việc nhóm này tiến hành cac hoạt động trong vòng bí mật đã được nêu bật khi Iêng Xary, trong một cuộc thảo luận riêng năm 1973 với các cán bộ và đại diện của Cách mạng Campuchia tại châu Âu, đã nói rằng ở Campuchia không có Đảng Cộng sản thực sự hoạt động (điều này cũng có thể liên quan đến việc nhóm này, ở thời điểm đó, vẫn không hoàn toàn kiểm soát được Đảng, một đảng dứt khoát là có tồn tại). Trên một phạm vi rộng hơn nhiều, thật khó mà hiểu được sự hung bạo tàn nhẫn của các lực lượng vũ trang Pol Pot, nếu không giả định là chúng đã được huấn luyện để thiết lập quyền uy theo cách đó và đó cũng là cách duy nhất để chúng thực hiện các chương trình. Rõ ràng là trong Đảng Cộng sản Campuchia đã có những căng thẳng đáng kể ngay từ giữa những năm 1960 và giữa những người lãnh đạo của Đảng đã có những hố ngăn cách sâu rộng về tư tưởng và sách lược. Thế thì, làm sao mà họ lại có thể hoạt động chung với nhau lâu như vậy, trong cùng một phong trào? Một phần của câu trả lời là nói chung, họ không hoạt động chung với nhau. Đảng thì nhỏ (nhất là trong những năm 1960), nhiều đảng viên thì ở Bắc Việt Nam hoặc Trung Quốc, còn những người khác lại thuộc các nhóm du kích độc lập, phân tán khắp nông thôn”.[56] Trong những cuộc nói chuyện với Ốc Xakun và bác sĩ In Xakon, Giám đốc và Phó Giám đốc phòng Thông tin của GRUNK (Chính phủ Vương quốc Đoàn kết Dân tộc Campuchia) ở Paris (năm 1970 – 1975) tôi được bảo đảm rằng trong nội địa Campuchia không có Đảng Cộng sản, rằng – như tôi đã công bố lúc bấy giờ – mọi cố gắng để thành lập một Đảng hướng về Liên Xô đều thất bại. Tôi và những người khác tìm hiểu thì được bảo đảm rằng Khme đỏ đã hoàn toàn gắn bó với phong trào kháng chiến của FUNK – GRUNK. Điều này cũng đã được nhắc đi nhắc lại trong các cuộc gặp gỡ ở Bắc Kinh với các nhân vật như anh em Thium Praxít và Thium Mun – về sau xuất hiện như những trụ cột của chế độ Khme đỏ – và trong các cuộc gặp mặt giữa tôi và Iêng Xary ở Bắc Kinh cũng như tại các hội nghị quốc tế. Cuộc gặp cuối cùng là trong một bữa ăn sáng tại Hội nghị cấp cao các nước Không Liên kết tại Angiê tháng 9/1973. “Chúng tôi bao giờ cũng sẽ giữ Sihanúc làm Quốc trưởng”, lúc bấy giờ Iêng Xary nói, khiến tôi cứ suy nghĩ mãi về việc “chúng tôi” ở đây, những người có quyền quyết định như vậy, là ai? Tôi tìm cách hỏi khéo, y cười nhẹ nhàng và nói: “Các lực lượng cách mạng chân chính của nhân dân Campuchia”. Công bằng đấy chứ! (Một trong những điều may rủi nghề nghiệp của một nhà báo là anh ta không có khả năng làm công việc của một máy phát hiện nói dối). Do bức màn bí mật dày đặc bao phủ công việc xây dựng Đảng đầy mưu ma chước quỷ ở Campuchia, thật khó biết được những gì đang xảy ra, ngay cả lúc người ta ngồi trên lễ đài ở Phnom Penh trong những năm 1960. Và với việc tấn thảm kịch lớn nhất của thế giới đang đến độ cao trào ở bên kia biên giới, sự xung đột phe phái giữa những người cách mạng Campuchia còn non yếu chẳng có gì là quan trọng. Kiếcnam và Bua nhắc đến những cuộc tranh chấp phe phái, chắc chắn đó là những bóng dáng đáng ngại về những điều sẽ xảy ra. “Vài người (lãnh đạo) sẵn sàng thỏa hiệp hơn người khác về lợi ích của đoàn kết nội bộ và có thể có hại cho chính họ sau này. Đoạn đáng buồn sau này là một trong những điều hài hước lớn nhất trong cuốn Lịch sử Đảng, viết năm 1973, năm mà những cuộc thanh trừng nội bộ của Pol Pot nổ ra gay gắt, chống lại xu hướng trong đó có các tác giả của văn kiện này (tất cả số này về sau đều bị hành quyết). Chia rẽ về quan điểm chính trị, kèm theo là sự phân biệt về nhân sự thành những nhóm bè phái, khiến chúng ta phải đề phòng và là một nguy cơ đối với Đảng. Các vấn đề này gây ra lo ngại và đau thương bởi vì, đáng lẽ tấn công kẻ thù bên ngoài, chúng ta lại đem máu thịt của chính mình làm mồi cho kẻ thù. Trong thời kỳ từ năm 1960 đến 1967 trong lịch sử của mình, Đảng đã đối phó thắng lợi với nhiều trở ngại nghiêm trọng để xây dựng đoàn kết nội bộ về mọi mặt. Đó là thành tựu chủ yếu của Đảng”.[57] Kiếcnam và Bua bình luận: “Đây là thời kỳ Pol Pot giành được cương vị lãnh đạo Đảng”. Chẳng có thêm bao nhiêu tài liệu về thời kỳ này. Trong số những người có thể – và sẵn sàng – kể lại những gì đã xảy ra, chỉ có rất ít người sống sót qua cuộc khủng bố và diệt chủng mà Pol Pot và phe cánh của y trong Khme đỏ sau đó đã gây ra cho nhân dân Campuchia. """