"Tám" Chuyện Tiếng Anh - Nguyễn Vạn Phú full prc pdf epub azw3 [Ngoại Ngữm] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tám" Chuyện Tiếng Anh - Nguyễn Vạn Phú full prc pdf epub azw3 [Ngoại Ngữm] Ebooks Nhóm Zalo “TÁM” CHUYỆN TIẾNG ANH Nguyễn Vạn Phú Những điều tinh tế về tiếng Anh khó tìm thấy trong sách giáo khoa Published by Nguyễn Vạn Phú at Smashwords Copyright 2006-2013 Nguyễn Vạn Phú. Tạo lại eBook (10/01/‘16): QuocSan. MỤC LỤC: Smashwords Edition, License Notes Lời nói đầu Lỡ lời Vấn nạn giáo dục – ở đâu cũng thấy! Cấm dùng động từ Google! Hoa mỹ văn kinh tế Tìm từ chưa có trong từ điển Đừng mất cảnh giác Tiếng Anh giọng London Bão và chuyện chữ nghĩa Lại chuyện tai tiếng doanh nghiệp Liên tưởng WTO Nhìn ngược Dấu phẩy 2 triệu đô la Từ ngữ WTO Viết tắt Quen mà lạ Tiếng Anh và tử vi Không thể chỉ dựa vào từ điển Chuyện học và dạy Bài học cuối năm Dịch hay không? Nóng chuyện tỷ giá iPhone gây chấn động Doanh nhân trong năm Năm Hợi và doanh nghiệp Chả ai kém ai Cạnh tranh bằng giá Kỳ vọng quá lớn? Tiếng Anh ở Trung Quốc MBA là gì? Bỏ học vẫn nhận được bằng tiến sĩ Những câu thường nói Đồng đô la Mỹ đi về đâu? Tiếng Anh thời toàn cầu hóa Đưa tin về chứng khoán Đủ loại xì-căng-đan Ngôn ngữ chính khách Chơi ô chữ Tiếng Anh ở Malaysia Chứng khoán và mê tín Thi đánh vần iPhone và chứng khoán Nghề nào cũng có jargon! Chuyện bằng cấp Toàn cầu hóa và iPod Tương lai quảng cáo Mâu thuẫn Harry Potter và chuyện tiếng Anh Thị trường là chiến trường! Lại chuyện khủng hoảng Báo cũng viết sai Tiếng Anh trên mạng Trúng số độc đắc Rắc rối tiếng Anh ngân hàng iPhone và MBA Oxford bỏ gạch nối Khi nhà kinh tế học viết sách về nghệ thuật sống Từ chuyện kiểm toán… Chuyện trái ngược Lại nói chuyện văn phong kinh tế Thám tử kinh tế Tiếng Anh trong lời nhạc Tiền, vàng và dầu hỏa Khó hay dễ? Văn kinh doanh… sáo rỗng Nghĩa đen hỗ trợ nghĩa bóng Giải cứu mua nhà trả góp Tiếng Anh trong năm Smashwords Edition, License Notes This ebook is licensed for your personal enjoyment only. This ebook may not be re-sold or given away to other people. If you would like to share this book with another person, please purchase an additional copy for each recipient. If you’re reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use only, then please return to Smashwords.com and purchase your own copy. Thank you for respecting the hard work of this author. Lời nói đầu “Tám” chuyện tiếng Anh tập hợp hơn 70 bài viết trong gần hai năm cho chuyên mục cùng tên trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn do tác giả Nguyễn Vạn Phú phụ trách. Tập sách này dẫn dắt độc giả vào thế giới ngôn từ sống động trong những bản tin tiếng Anh với nhiều đề tài phong phú trải rộng trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế (thuật ngữ WTO) và kinh doanh (lương bổng giám đốc) tới giáo dục (bằng cấp tiếng Anh, trường điểm), từ chuyện vi mô (định giá iPhone) tới chuyện vĩ mô (điều chỉnh lãi suất và chính sách tiền tệ), từ ngôn ngữ ngân hàng và chứng khoán tới lối nói của nhà báo, từ chuyện chính khách và thương nhân lỡ lời tới chuyện có công ty thiệt hại 2 triệu đô chỉ vì dùng sai dấu phẩy. Độc giả cũng tìm thấy nhiều góc thư giãn như chuyện ngôn ngữ trong bộ sách Harry Potter, ca từ trong những bản nhạc lừng danh, lối dụng ngữ ngộ nghĩnh ở những xứ mà tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ, mê tín trong đầu tư chứng khoán, tử vi trong tiếng Anh… Tiếp tục phong cách của tập sách Chuyện chữ nghĩa tiếng Anh được đón nhận nồng nhiệt hồi cuối thập niên 1990, tác giả tránh sa vào lối mòn của những cuốn sách dạy và học tiếng Anh từng xuất bản ở Việt Nam: hoặc dịch song ngữ, hoặc giảng giải theo kiểu từ chương cứng nhắc. Thay vì thế, độc giả được khuyến khích tìm hiểu văn cảnh và “read between the lines” (ý tại ngôn ngoại). Xuyên suốt trong tập sách này là phương châm “hiểu sao cho đúng”. Để làm được điều tưởng dễ mà khó này, tác giả kéo độc giả vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường của việc trau dồi sinh ngữ. Tác giả cảnh báo những bẫy ngôn ngữ trong viết và dịch thuật tiếng Anh, phân biệt văn phong hoa mỹ sáo rỗng và tiếng Anh giản dị, hướng dẫn cách vượt qua những rào cản như thành ngữ và tục ngữ, hay nghĩa đen nghĩa bóng. Ngoài ra, độc giả còn được chỉ cách hiểu tường tận mọi ngóc ngách của một văn bản tiếng Anh với những kỹ thuật hữu ích như tìm từ chưa có trong từ điển, cách liên tưởng điển tích và sử dụng kiến thức về văn minh – văn hóa để hiểu hàm ý, dùng bài viết tiếng Anh của người bản xứ về kinh tế Việt Nam để học cách dịch những khái niệm thuần Việt sang tiếng Anh. Một tập sách như vậy chắc chắn đòi hỏi bề dày kinh nghiệm dạy tiếng Anh và viết báo (cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh) cũng như hiểu biết sâu về kinh tế kinh doanh. Tác giả Nguyễn Vạn Phú đáp ứng yêu cầu này với vốn sống tích lũy trong hành trình dài từ giảng dạy tiếng Anh đến làm báo cả tiếng Anh và tiếng Việt. Tập sách này là một vườn hoa lạ và kỳ thú mà bất kể là người không chuyên hay dân trong nghề, dù là để học tiếng Anh hay tìm hiểu thêm về chuyện thương trường, độc giả cũng có thể tìm thấy một góc riêng lý thú cho mình thưởng ngoạn. Trân trọng giới thiệu. Phạm Vũ Lửa Hạ – Canada Dễ nhầm vì khác nhau Liên quan đến việc Quốc hội Mỹ bỏ phiếu thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR – Permanent Normal Trade Relations) với Việt Nam, có một ủy ban với cái tên hơi lạ nên nhiều bản tin đã có nhiều cách dịch khác nhau. Đó là Committee on Ways and Means của Hạ viện Mỹ mà thường được gọi tắt là House Ways and Means Committee. Chính thức mà nói, đây là Ủy ban Tài chính và Thuế vụ, thế nhưng nhiều nơi, kể cả trong giới người Việt ở Mỹ, vẫn có những cách dịch khác như Ủy ban Chính sách thương mại, Ủy ban Phương tiện và Chính sách, Ủy ban Tiện ích, Ủy ban Ngân sách tài chính, Ủy ban Đường lối và Phương cách… đủ kiểu. Nhiệm vụ của ủy ban này là lo mọi chuyện liên quan đến tài chính về mặt lập pháp, như xem xét trước các dự luật về tăng, giảm thuế (tức là các phương tiện – means – thu ngân sách), về hệ thống an sinh xã hội (tức là cách – ways – chi tiêu ngân sách), các hiệp định thương mại quốc tế… Vì thế gọi là Ủy ban Tài chính và Thuế vụ có lẽ phù hợp hơn cả. Ở Hạ viện Mỹ còn một ủy ban khác gọi là Appropriations Committee (Ủy ban Chuẩn chi, Ủy ban Phân bổ ngân sách) với nhiệm vụ xác định mức chi tiêu ngân sách cụ thể cho bên chính quyền. Từ appropriate có hai nghĩa gần như trái ngược nhau: một bên là phân bổ, một bên là chiếm đoạt (appropriate funds for education – phân bổ ngân sách cho giáo dục; appropriate the family car – cả nhà chỉ có một xe mà một người cứ chiếm riêng cho mình). Có một điểm cũng khá lạ. Mọi người điều biết một dự luật ở Mỹ gọi là Bill, đến khi được lưỡng viện thông qua, tổng thống ký ban hành mới gọi là Act hay Law nhưng một trong những bộ luật căn bản của Mỹ là Bill of Rights (Bộ luật Dân quyền) vẫn gọi là Bill. Tên các cơ quan rất lạ ở Mỹ không thiếu. Ví dụ ở tiểu bang California, nơi quản lý và thu các loại thuế gọi là State Board of Equalization, còn thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp lại do Franchise Tax Board đảm nhận, nếu không cẩn thận dễ hiểu sai và dịch nhầm. Nói về chuyện nhầm lẫn, tuần rồi đã xảy ra một chuyện khá nực cười. TextTrust, một công ty Canada chuyên đi sửa lỗi chính tả trên các trang web phát hành một thông cáo báo chí, khoe rằng năm rồi họ đã kiểm tra chính tả 16 triệu trang web và phát hiện 10 từ thường bị viết sai nhiều nhất. Câu thông báo viết nguyên văn “16 million we pages” vào buổi sáng, đến chiều họ phải đính chính, xin sửa lại là “16 million Web pages”. Họ chỉ sai chừng đó thôi cũng đã muối mặt; báo chí trong nước lại nhầm, cho rằng họ viết sai nhiều từ khác như “independant” (đúng là independent); thật ra, đấy là 10 từ viết sai phổ biến nhất trên Internet theo phát hiện của TextTrust đấy chứ. Tờ Inquirer khi đưa tin này đã chọc quê TextTrust bằng một tít nhỏ “Shurley some mishtake” – cố tình viết sai chính tả câu “Surely some mistake”. Trong buổi tiệc chiêu đãi nhân hội nghị thượng đỉnh G-8 gần đây, theo tường thuật của Newsweek, khi Thủ tướng Đức Merkel kể chuyện có con gấu hoang bị bắn hạ tại Đức, Thủ tướng Nhật bỗng buột miệng nói: “Teddy bear. We must bear criticism. Unbearable”. Đầu óc liên tưởng của ông thật lạ. Teddy bear là con gấu nhồi bông (Teddy là tên thân mật của Tổng thống Theodore Roosevelt, trong một bộ phim hoạt hình, có cảnh ông cứu một con gấu con); bear trong câu thứ nhì là chịu đựng (lãnh đạo nước nào hình như cũng phải chịu cảnh bị phê bình từ khắp mọi phía); và unbearable có lẽ là cảm tưởng của ông Koizumi (không chịu nổi lời ong tiếng ve)! Trong hội nghị lần này, Tổng thống Bush bị nhiều phen hố to. Ngoài vụ nói riêng với Thủ tướng Anh nhưng bị các nhà báo ghi âm được: “What they need to do is get Syria to get Hizbullah to stop doing this shit, and its over” (ý nói chỉ cần buộc Syria bảo Hizbullah chấm dứt chọc phá Israel thì xung đột giữa Israel và Lebanon sẽ chấm dứt ngay, nhưng shit là từ thô lậu, không ai dùng giữa chốn ngoại giao quốc tế), ông Bush còn bị một vố khác. Lúc họp báo chung với Tổng thống Nga Putin, một nhà báo hỏi về tình hình dân chủ ở Nga, Putin đáp trả ngay: “We certainly would not want to have the same kind of democracy as they have in Iraq, I will tell you quite honestly” (Nói thiệt tình, chúng tôi không muốn có loại dân chủ như ở Iraq đâu). Câu này chưa được dịch sang tiếng Anh thì các nhà báo Nga đã cười to để tán thưởng, Tổng thống Bush cười theo thật tươi nhưng khi nghe dịch xong, miệng hết cười, cáu kỉnh bảo: “Just wait”. Có lẽ lần sau ông Bush phải chờ nghe dịch hết rồi cười. (TBKTSG, ngày 3-8-2006) Lỡ lời Đọc một mẩu tin trên báo trong nước vào cuối tuần trước, người ta có thể giật mình khi biết Coca-Cola tiếp tục được bình chọn là công ty hàng đầu thế giới “với tài sản ước tính trị giá khoảng 67,5 tỉ đô la”. Thế còn hàng chục công ty khác tài sản lớn hơn nhiều lần biến đi đâu? Hóa ra mẩu tin này dịch sai – “Coca-Cola remains the world's most valuable brand. Its brand value alone is worth $67 billion, according to the annual global survey by Interbrand in conjunction with BusinessWeek”. Đây là khảo sát về giá trị thương hiệu, một dạng tài sản vô hình chứ đâu phải là tài sản thiệt. Tổng trị giá tài sản sổ sách của Coca-Cola đến cuối năm 2005 chỉ vào khoảng 29,5 tỉ đô la. Còn nếu đọc kỹ các tin về khảo sát này, người ta sẽ biết thêm: “Coca-Cola, the world's most valuable brand, is worth about $525 million less than it was last year”. Như vậy, trong nhiều năm liền, giá trị thương hiệu của hãng này, dù vẫn đứng đầu thế giới, đã giảm mạnh, năm ngoái giảm trên nửa tỉ đô la, còn so với năm 2000, giảm đến 5,5 tỉ đô la. Một tờ báo nhận xét: “Coke has been [a decliner] for a few years. They're running the brand almost as a legacy asset. They're almost afraid to do stuff for fear of damaging the asset, rather than taking it to the next level.” Câu này ý nói Coca-Cola quản lý thương hiệu theo kiểu duy trì một di sản, không dám làm gì táo bạo vì sợ có hại cho thương hiệu thay vì tìm cách đưa thương hiệu lên một tầm cao mới. Ở đây cũng cần chú ý, khi báo chí nói Google trị giá đến 117 tỉ đô la là nói về cái market capitalization của nó (tức là trị giá toàn bộ cổ phiếu của Google trên thị trường) trong khi tổng giá trị sổ sách của nó vào cuối năm 2005 chỉ trên 10 tỉ đô la một chút. Trong khảo sát này, trị giá thương hiệu của Google lên đến 12,4 tỉ đô la (The survey estimated that Google's brand is worth $US12.4 billion to the company). Làm người phát ngôn cho các hãng phải luôn luôn cẩn trọng từng lời nói. Có lẽ người phát ngôn của hãng Apple thấm thía điều này hơn ai hết. Cuối tháng trước, khi trả lời phỏng vấn tờ Chicago Tribune về những trục trặc thường hay xảy ra cho loại máy nghe nhạc iPod, cô này nói, đại ý “failure rates for the device are low, and that an iPod is designed to last four years”. “Tỷ lệ hư hỏng thấp” ở đây là khoảng 5%, tức cứ 100 máy bán ra, có chừng năm máy hỏng hóc (các khảo sát độc lập cho thấy tỷ lệ thật vào khoảng 15%). Quan trọng hơn, giới tiêu dùng nổi giận khi nghe Apple tuyên bố chiếc iPod được thiết kế sao cho chỉ xài được trong vòng bốn năm thôi. Ngay lập tức, công ty phải đính chính – She said she told the reporter that the iPod was designed to last “for years”- not “four years”. “For years” là trong nhiều năm, ý nói bền lắm. Nói vậy thôi chứ nghe băng ghi âm sẽ biết ngay cô này muốn dùng từ “for years” hay “four years” vì cách nhấn nhá hai câu khác hẳn nhau. Loại từ nghe “giông giống” như thế này khá nhiều trong tiếng Anh. Ví dụ: “The dump was so full that it had to refuse more refuse”. Refuse trước mang nghĩa bình thường – từ chối, không nhận thêm; refuse sau lại mang nghĩa “rác”. Nhiều trang web sưu tầm hàng trăm câu như thế: There was a row among the oarsmen about how to row (row-cãi vã; row-chèo thuyền); The wind was too strong to wind the sail (wind-gió; wind-cuộn)… Một loại sai lầm khác, lần này là vì chiến lược, đã xảy đến cho Wal-Mart, tập đoàn bán lẻ nổi tiếng của Mỹ khi họ phải rút ra khỏi thị trường Đức vào đầu tháng này vì không hiểu hết đặc điểm văn hóa của thị trường. Tổng giám đốc Wal-Mart thú nhận: “Like, did you know that American pillowcases are a different size than German ones are?”. Từ like ở đầu câu cho thấy Wal-Mart hiểu sai nhiều điều, trong đó kích cỡ chiếc áo bao gối ở Đức khác ở Mỹ chỉ là một ví dụ. Một bài báo tổng kết: “After nearly a decade of trying, Wal-Mart never cracked the country as it discovered that its formula for success – low prices, zealous inventory control and a large array of merchandise – did not translate to markets with their own discount chains and shoppers with different habits”. Crack trong câu trên mang nghĩa thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường; zealous inventory control là kiểm soát nghiêm ngặt lượng hàng lưu kho – tức là một dạng quản lý Just-In-Time (cần bao nhiêu có bấy nhiêu hàng, chứ không trữ nhiều); còn did not translate to markets ở đây là [công thức thành công ở Mỹ] không có tác dụng [ở Đức]. Một tờ báo khác kết luận: “Wal-Marts experience in Germany, where it lost hundreds of millions of dollars since 1998, has become a sort of template for how not to expand into a country”. Phần cuối của câu này là một cách diễn đạt rất hay khi muốn đề cập đến các bài học… nên tránh và từ template (rất thông dụng trong ngôn ngữ tin học) được dùng với nghĩa “khuôn mẫu”, “mô hình”. Nhân tiện xin thông tin thêm, WalMart bán 85 siêu thị của mình tại Đức cho tập đoàn Metro. (TBKTSG, ngày 10-8-2006) Vấn nạn giáo dục – ở đâu cũng thấy! Tờ Economist tuần rồi có bài phân tích tình hình giáo dục tại Trung Quốc, trong đó có những từ miêu tả hệ thống giáo dục ở nước này rất gần với nền giáo dục nước ta. Ví dụ, các bạn có biết họ dùng từ gì để gọi các trường “điểm” không – “key schools”! “In June, a revision to the education law abolished the key-school system, which had caused much resentment”. Trước đó, “a two-tier system identified a few “key schools” that receive extra money and other favours in order to nurture pockets of academic excellence”. Two-tier thường dùng trong các cụm từ như chế độ hai giá (two-tier pricing system), hệ thống y tế công tư kết hợp (two-tier health care); ở đây là hai loại trường, trường điểm thì được nhiều ưu đãi hơn. “Nurture pockets of academic excellence” cũng là một cách diễn đạt rất văn vẻ tình trạng chỉ “bồi dưỡng một nhúm học sinh giỏi”. Bỏ trường điểm rồi thì học sinh sẽ tranh nhau vào trường có chất lượng cao và các trường này nhân cơ hội đó thu thêm phí: “Schools can charge high fees from students from outside their official catchment areas. This levy, which is known as a “school selection charge”, can amount to thousands of dollars.” Trong hai câu này có hai cụm từ đáng ghi nhớ “outside their official catchment areas” (học sinh khác tuyến) và “school selection charge” (phí chọn trường). Nhiều trường khác làm theo cách “dividing their intake into separate streams, they charge more for the classes with better teachers and facilities” – nghe cũng giống loại trường “tự chủ về tài chính” vì cũng chia đầu vào tuyển sinh thành nhiều loại, ai chọn lớp có thầy giỏi, cơ sở vật chất tốt thì phải trả thêm tiền. Trong khi đó, tờ Viewpoints của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á cũng có một bài về giáo dục tại Việt Nam. Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến cách dùng tiếng Anh để miêu tả một số hiện tượng độc đáo, chắc chỉ có trong nền giáo dục nước ta. Ví dụ câu: “Students throw their “Examination Floats” away after the examinations, right outside the examination halls”, chắc ít ai ngoài Việt Nam hiểu từ “Examination Floats” (phao thi). Trong bài này, tác giả đưa ra một sáng kiến đáng chú ý: “An opportunity is for a foreign investor to suggest to the Vietnamese government the installation of an independent examination system, very much like the arrangement that the Ministry of Education in Singapore has with Cambridge University”. Ý ông ta muốn nói nên mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài vào thiết lập hệ thống thi độc lập để đánh giá chính xác sức học của học sinh như mô hình Bộ Giáo dục Singapore hợp tác với Đại học Cambridge. Ở góc cạnh kinh tế, tuần rồi cũng có nhiều bài báo nước ngoài điểm tình hình kinh tế của Việt Nam như bài “Good moring at last” trên tờ Economist, khen là chính nhưng cũng có những cảnh báo đáng chú ý. “As Vietnam joins the global economy, it is becoming more vulnerable to volatile commodity prices and fickle bond-market investors, whose gyrations are largely outside its control”. Vulnerable trong câu này là “dễ bị tác động, dễ bị tổn thương”; “volatile commodity prices” chính là giá nguyên liệu đầu vào lên xuống thất thường; còn “fickle bond-market investors” ý nói đến các nhà đầu tư gián tiếp hay thay đổi, xoay chuyển dòng vốn (gyration) tùy nơi nào có lợi nhất. Tác giả miêu tả những điểm yếu của khối doanh nghiệp nhà nước rất gọn: “They are more graft-prone than private companies, and devour the lion's share of scarce land and credit while creating few new jobs”. Graft là tham nhũng, graft-prone là dễ xảy ra tham nhũng (như strike prone industries là những ngành dễ có đình công); devour thường đi thành cụm với the lion’s share (chiếm dụng phần lớn) – mà đúng là doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng phần lớn đất đai, tín dụng trong khi không tạo ra bao nhiêu việc làm mới cả. Trong khi đó, tờ Financial Times lại so sánh Thái Lan với Việt Nam, để cảnh báo “Thailand’s economic engine at risk of losing steam” – ở đây dùng hình ảnh đầu tàu xẹp hơi nước, mặc dù hiện nay có đoàn tàu nào chạy bằng hơi nước đâu nhỉ? Cũng những vấn đề muôn thuở: “Nothing is written in stone: fumbling administration, a loss of confidence, a failure to address basic education problems can all erode a nation's narrative”. Nhưng ở đây tác giả dùng các cụm từ đáng học: Nothing is written in stone ở đầu câu ý nói, không có gì là bền vững mãi cả; hai vấn đề đầu muốn nhắc đến những lộn xộn trên chính trường Thái Lan và narrative ở cuối câu dùng theo cách chơi chữ. Trước đây Thái Lan là một trong những câu chuyện phát triển kinh tế thần kỳ ở Đông Nam Á. Nay nếu các vấn nạn trên không được giải quyết, chúng sẽ làm xói mòn “truyền thuyết” này. Các từ này (stone, erode, narrative) kết hợp với nhau để câu văn tạo ra hình ảnh rất ấn tượng. (TBKTSG, ngày 17-8-2006) Cấm dùng động từ Google! Google gây sững sờ trong giới báo chí khi đầu tuần trước hãng dịch vụ tìm kiếm thông tin trên Internet này gửi thư cho nhiều tờ báo lớn, yêu cầu chấm dứt sử dụng từ Google như một động từ. Theo người phát ngôn của hãng này thì “It's important to make the distinction between using the word Google to describe using Google to search the Internet, and using the word Google to describe searching the Internet” – ý nói dùng từ Google để chỉ hành động tìm thông tin trên Internet qua dịch vụ Google thì không sao nhưng biến google thành động từ mang nghĩa “tìm thông tin trên Internet” chung chung là không được. Nghe oai thật, nên nhiều tờ báo mới phán: “The geeky-imaged outfit is getting too much like a typical bullyish corporation”. Geek là người say mê máy móc, kỹ thuật, outfit ở đây là công ty; bullyish là hơi ra vẻ ta đây, là kiểu lấy thịt đè người. Thậm chí, Google còn đưa ra ví dụ. Viết “I ran a Google search to check out that guy from the party” là chính xác; còn “I googled that hottie” là vi phạm bản quyền! (tờ Washington Post bèn chọc quê ngay từ “hottie” vì ai đời một công ty lớn lại dùng từ thô thiển này (hottie là tiếng lóng, chỉ một cô gái hấp dẫn) – “Not only is googled inappropriate, but apparently the word hottie is frowned upon as well”. Chẳng qua Google sợ thương hiệu của mình sẽ dần dà biến thành một từ chung, không còn giá trị thương mại nữa. Thật ra, tháng trước, từ điển Merriam-Webster's Collegiate Dictionary đã đưa “to google” vào ấn bản mới nhất của mình, với định nghĩa “to use the Google search engine to obtain information on the World Wide Web”; còn từ điển Oxford English Dictionary đưa từ này vào từ tháng 6 (nhưng từ Google được viết hoa). Loại từ biến hóa từ thương hiệu thành danh từ hay động từ chung có khá nhiều. Hoover thoạt tiên là tên công ty sản xuất máy hút bụi nhưng sau đó dân Mỹ dùng làm động từ chỉ chuyện hút bụi; hay chiếc máy hút bụi chung chung. Velcro, Xerox lúc đầu cũng là thương hiệu có đăng ký hẳn hoi nhưng sau một thời gian biến thành từ chung (loại khóa bằng hai miếng vải áp vào nhau, sao chụp bằng máy photocopy). Thậm chí, có nhiều từ ít ai biết đã từng là thương hiệu: “True welfare reform is being bypassed for Band-Aid solutions” – Band-Aid lúc đầu là tên sản phẩm băng dán cá nhân, trong câu này có nghĩa bóng [những giải pháp] hời hợt bên ngoài. “The street is lined with low-cost apartment buildings and strewn with blue dumpsters” (dumpster thoạt tiên là tên sản phẩm thùng rác của một hãng). Thậm chí nhiều người ở Việt Nam quen thuộc với các từ Formica (loại gỗ mặt bóng), Frigidaire (tủ lạnh), Jacuzzi (hồ tắm massage), Ping Pong, Aspirin… mà không ngờ chúng đã từng là thương hiệu. Cho nên làm sao Google cấm báo chí cho được. Biết đâu một thời gian nữa chúng ta sẽ nghe những câu như “Cứ google địa chỉ đó là ra ngay”. Một bài báo kết luận: “Google needs to realize the meme; that is, Google.com has juggernauted far beyond the point of no return. It's part of the language. Good luck in changing it back”. Meme là một từ mới được chế ra từ năm 1976, mang nghĩa “a unit of cultural transmission, or a unit of imitation”; juggernaut vừa là danh từ, vừa là động từ, có nghĩa “an overwhelming, advancing force that crushes everything in its path”. Mà cũng đúng là ngôn ngữ có quy luật riêng của nó, không thể đảo ngược được. Cũng liên quan đến một danh từ riêng khác, nếu chú ý, các bạn sẽ thấy báo chí bằng tiếng Anh hai tuần qua đã dần chuyển sang dùng từ Hizbullah thay cho từ Hezbollah khi nhắc đến lực lượng quân sự tại Lebanon, thậm chí tạp chí Time dùng từ Hizballah. Cũng từ này nhưng đài Al Jazeera ghi là Hizb Allah. Theo một số bách khoa từ điển, đây là cách ghi âm (transliteration) hai từ Hizb (có nghĩa là đảng, đội quân) và Allah (Thượng đế) ghép lại mang nghĩa “Party of God”; từ đầu đọc theo tiếng Ảrập hiện đại là Hizb còn đọc theo phương ngữ Lebanon hay tiếng Farsi (ngôn ngữ Iran hiện đại) là Hezb. Tiếng Hoa khi phiên âm ra tiếng Anh cũng có sự thay đổi như thế. Trước đây sách báo thường ghi theo phương pháp của Wade Giles (Peiching, Mao Tse-tung, Kung Tsu) nay đã chuyển sang hệ thống Pinyin phổ biến hơn, mang tính chính thức (Beijing, Mao Zedong, Kong Zi) (Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Khổng Tử). Cho nên đôi lúc thấy một từ tiếng Hoa ghi bằng tiếng Anh, phải xem nó được viết theo hệ thống nào mới tra cứu nhanh được. (TBKTSG, ngày 24-8-2006) Hoa mỹ văn kinh tế Dường như e ngại văn kinh tế, thương mại là khô khan nên nhiều tác giả cố ý dùng loại văn hoa mỹ, đầy màu sắc, hình ảnh, âm thanh và nhiều đặc ngữ khi viết. Ví dụ tít một bài báo trên Vietnam News vào cuối tuần trước: “Catching up to Vietnam: flip-flops invade US streets”. Flip-flop là dép xỏ chân, dép “Lào”, dép “lẹt xẹt”, ít ai mang để đi làm. Thế nên khi dân Mỹ đua nhau mang dép ra đường, đi làm, đi học, tác giả dùng cụm từ “invade US streets” cho có hình ảnh. Đây là một bài báo của hãng AFP, nguyên văn không có cụm “Catching up to Vietnam”. Có lẽ biên tập viên Vietnam News nghĩ rằng, chuyện này ở Việt Nam có gì là lạ nên mới thêm vào, ý nói “Chẳng thua kém gì ở Việt Nam”. Ở câu đầu, tác giả cũng dùng một động từ hình ảnh khi tả flip-flops đang “muscling out the pantyhose that once represented obligatory office attire for women even in stifling summer heat”. To muscle là dùng sức chen (vào-in; ra-out), ở đây là “loại bỏ”, “hất cẳng” cái “pantyhose” quen thuộc của quý bà. Năm ngoái, khi một đoàn vận động viên thể thao trẻ được Tổng thống Bush tiếp và chụp ảnh lưu niệm tại Nhà Trắng, ai nấy đều bất ngờ khi phát hiện bốn cô ở hàng đầu “showed their toes in brightly colored flip-flops”. Một bài báo khác trên tờ The Economist, khi mô tả việc Trung Quốc nới lỏng quản lý đồng nhân dân tệ, để nó dao động theo thị trường, đã viết: “Volatility, of sorts, creeps into the yuan dollar exchange rate”. Động từ creep là bò, trườn, rón rén lẻn vào; ở đây ý nói chỉ mới bắt đầu thấy chút ít dao động thôi – nhất là khi dùng kèm với cụm từ “of sorts”. Cần chú ý vì “out of sorts” lại là “cáu kỉnh, bẳn gắt” như “The teacher is out of sorts this morning”. Sau khi liệt kê các lần lên xuống trong tỷ giá nhân dân tệ/đô la Mỹ, tác giả viết: “These jumps have not come entirely out of the blue”. “Out of the blue” là từ trên trời rơi xuống, là bất ngờ – Then one day, completely out of the blue, I had a letter from her. Lối viết dùng từ hình ảnh hay đặc ngữ như thế thường thấy ở tít báo hay phần dẫn dắt vào câu chuyện nhằm thu hút người đọc. Khi tờ Time viết: How to clone Switzerland, rất dễ thắc mắc vì sao lại “nhân bản” Thụy Sỹ, hóa ra đây là bài nói về chuyện Singapore bắt chước mô hình ngành tài chính, ngân hàng của Thụy Sỹ như thế nào. Một trong những biện pháp là phạt thật nặng những nhân viên ngân hàng nào tiết lộ thông tin tài chính riêng tư của khách hàng, mà bài báo nhận xét, là “more draconian than Switzerland’s maximum punishment”. Draconian là khắc nghiệt, như a draconian legal code; draconian budget cuts. Từ này xuất phát từ tên của Draco, một chính khách thời Hy Lạp cổ đưa ra sắc luật tử hình ngay cả với các tội nhẹ. Hay bài viết về chuyện hãng máy tính Dell phải thu hồi trên 4 triệu viên pin máy tính xách tay vì nguy cơ gây cháy nổ, The Economist đặt tít “Too hot to handle”, vừa dùng theo nghĩa đen – pin nóng quá, không dùng được; vừa theo nghĩa bóng – vụ này gây thiệt hại cả tài chính lẫn uy tín cho Dell, rất khó xử lý. Một bài khác, tít chỉ có một từ “Microsharks”, một từ chưa thấy có trong các cuốn từ điển. Ở đây phải biết hai từ: shark – kẻ cho vay nặng lãi và micro đi kèm với các từ khác như microcredit – tín dụng nhỏ, để hiểu rằng microsharks nói đến những kẻ lợi dụng chính sách cấp tín dụng nhỏ cho dân nghèo để hưởng lợi. Lạ một điều, những đặc ngữ có từ business thường lại không dính líu gì đến kinh doanh cả. Chỉ xin kể một số câu ví dụ rất thông thường: As soon as I find my map and my keys we're in business (in business ở đây là bắt đầu được rồi). She screamed when she found herself facing the business end of his gun (business end trong câu này là họng súng). If you try any funny business you'll be sorry (funny business là có hành động bất thường). I'm not in the business of causing trouble (in the business of là không quen). Kids can work the Internet like nobody's business (like nobody’s business trong câu này là giỏi, nhanh). The changes the new government has made show they mean business (mean business là nghiêm túc, có ý định thật sự). Còn monkey business là trò ngu ngốc, trò nghịch ngợm như trong câu “So what kind of monkey business have you kids been up to while I was out?” và make it one’s business to do something là quyết tâm làm điều gì đó – He made it his business to find out what happened to the money. Mà tiếng Anh là vậy, it’s none of our business, thắc mắc làm gì cho mệt. (TBKTSG, ngày 31-8-2006) Tìm từ chưa có trong từ điển Tuần này, thay vì đi ngay vào các vấn đề thời sự, xin nêu một “chiêu thức” tìm các từ hay cụm từ chưa có trong từ điển. Trước đây, không tìm thấy chúng trong từ điển xem như thua. Ngày nay, bạn chỉ cần vào trang web quen thuộc của Google rồi gõ: define: [từ cần tìm] (nhớ có dấu hai chấm sau define). Ví dụ, cụm từ “soccer mom” mới ra đời vào đầu thập niên 1990, nay đã có mặt trong một số từ điển lớn, ấn bản mới (a typical American suburban woman with school-age children – giống như các bà mẹ loay hoay chuyện học của con ở Việt Nam) nhưng cụm từ “Volvodriving soccer mom” thì phải dùng công cụ define của Google để tìm định nghĩa: “Volvo-Driving Soccer Mom” is a song by the alternative rock/ punk band Everclear, from their album Slow Motion Daydream (2003). The song spoofs girls who experiment with drugs and sex in high school and college but later grow up to be conservative “soccer moms” (spoof là nhại). Ưu điểm của cách tìm này là nó sục sạo hết mọi glossary của nhiều trang web chuyên ngành cho nên nó cung cấp nhanh định nghĩa của các từ một cách chính xác. Tuần trước tờ Fortune có bài về dầu khí, trong đó có câu: “Some say BP might have avoided the shutdown if it had used smart pigs more often”. Đọc xong, chúng ta cũng đoán được smart pig chắc chắn không phải là con heo thông minh mà phải là một loại thiết bị gì đây. Sử dụng “chiêu thức” nói trên, chúng ta sẽ có ngay định nghĩa: “Smart pig – An internal inspection tool used in the pipeline industry to detect anomalies or irregularities on the inner walls of a pipeline”. Đọc một tài liệu kỹ thuật, thấy cụm từ “vacuum breaker”, nếu không dùng công cụ Google này, khó lòng biết được nghĩa của nó là van chống chảy ngược. Ngoài ra, gõ “define: từ cần tìm” cũng giúp chúng ta tiết kiệm nhiều thời gian khi gặp những cụm từ gồm các từ thông thường nhưng kết hợp lại để có nghĩa mới. Nếu phải tra cứu từ điển, dù từ điển trên máy tính cũng mất công nhiều hơn. Ví dụ, cũng vào tuần trước tờ Time có bài về một doanh nhân sớm phát chóng tàn, đã viết: “The decision to abandon a high-profile case against a dotcom poster boy marks the end of a sorry era”. Trong câu này có cụm từ poster boy (hay poster child), nay mang nghĩa “một mô hình mẫu mực, một tấm gương, một điển hình”. Ở đây muốn nói doanh nhân này từng là nhân vật chói sáng của thời kỳ bùng nổ các công ty dotcom, từng bị truy tố nay được miễn truy cứu trách nhiệm. Ở một câu khác, trên tờ Economist: “Giving land titles to the poor is no silver bullet”, thì silver bullet là một cụm từ đặc biệt (giải pháp đơn giản, hiệu quả cho một vấn đề khó). Thử tra một số cuốn từ điển Anh-Anh lớn thì thấy có nghĩa này nhưng các bạn cứ thử dùng cách define của Google nói trên sẽ bất ngờ khi thấy nó còn có nhiều nghĩa khác mà từ điển không ghi. Tuy nhiên, đôi lúc phải cẩn thận, Google define nhiều lúc không lường trước cách chơi chữ của một số bài báo, ví dụ tờ Newsweek khi viết bài nhân một năm vụ bão Katrina, đã viết: “It’s cheaper to go Dutch”. Đây là một lối chơi chữ vì thành ngữ go Dutch thường dùng theo nghĩa ai ăn nấy trả tiền nhưng trong câu này chỉ có nghĩa bắt chước Hà Lan [để xây đập chống ngập lụt] lại rẻ hơn. Một cách nữa là vào cuốn từ điển bách khoa “nhân dân” Wikipedia (en.wikipedia.org), dù còn nhiều lời chê bai về tính chính xác nhưng vẫn đang là nguồn tham khảo lớn nhất hiện nay. Chẳng hạn khi báo Time tường thuật chuyện cơm không lành, canh không ngọt giữa chủ hãng phim Paramount Pictures và diễn viên Tom Cruise đã bắt đầu bằng câu: “Sometimes, dating the prom king is more trouble than it’s worth”. Vào trang này, gõ vào từ prom, chúng ta sẽ biết đây là buổi tiệc liên hoan dạ vũ cuối cấp của học sinh trung học, cuối buổi có bầu chọn Prom Queen và Prom King (cặp học sinh nam nữ được nhiều người chọn nhất). Như vậy ý tác giả muốn nói, chơi với một người hào hoa, phong nhã, người nổi tiếng, người được ưa chuộng chưa chắc đã đáng bõ công (Ở đây xin mở ngoặc nói thêm, dạ vũ loại này ở trường Úc và Anh gọi là ball, Canada và New Zealand gọi là formal). Một cách khác nữa là vào trang web Double-Tongued Dictionary (www.doubletongued.org) là nơi chuyên sưu tầm những từ mới, từ lạ. Ví dụ, bạn đọc một tài liệu về xây dựng, thấy có cụm từ “mother in-law unit”, đố kiếm được định nghĩa ở cuốn từ điển nào khác. Đây là loại phòng phụ, nhà phụ, cạnh nhà chính. Còn vì sao dân Mỹ xem loại phòng này là dành cho các bà mẹ vợ lại là chuyện khác, không dính líu đến vấn đề ngôn ngữ. Một từ mà trang web này mới đưa vào cuối tháng 8 là “bloody pocket syndrome” – the tendency of workers not to report injuries received while at work. (TBKTSG, ngày 7-9-2006) Đừng mất cảnh giác Đôi lúc gặp những từ quá quen thuộc, người ta dễ gán cho chúng cái nghĩa đã nghĩ trong đầu và… không hiểu gì cả. Trong một bộ phim, khi hai nhân vật chính hỏi nhau: “Do you work out?” “Oh, no. I don’t have time” – phụ đề tiếng Việt đã dịch sai thành: “Cô có làm việc bên ngoài không?” [!] Thật ra, work out ở đây là tập thể dục, loại tập bài bản, có dụng cụ đàng hoàng. Với các bài báo thời sự cũng vậy, nếu mất cảnh giác, chúng ta sẽ dễ hiểu nhầm khi “coi thường” các từ dễ. Trong bản tin của Bloomberg vào cuối tuần trước kể về chuyện một nhân viên giao dịch hàng hóa của Citigroup làm mất của ngân hàng này đến 20 triệu đô la đã viết: “At one point in December, 2002, she had $373 million in open positions”. Cả open lẫn position là từ quen thuộc nhưng khi dùng chung, chúng là từ chuyên môn trong giao dịch kỳ hạn. Nói ngắn gọn, khi dự báo giá thép sẽ giảm, mà chúng ta lại không có thép để buôn kiếm lời, chúng ta có thể vay thép, bán ra thị trường, đợi đến khi giá thép giảm thật sự, lấy tiền mua thép, trả lại cho chỗ cho vay, bỏ túi khoản chênh lệch. Như thế gọi là duy trì một vị thế “short position”. Vị thế ngược lại là “long position”. Các công ty giao dịch theo kiểu này thường phải giữ thế thủ – cứ có một short position thì phải kèm một long position để bù qua sớt lại – ai liều thì không cần bảo hiểm theo kiểu này, gọi là “open position”, tức là để hở sườn – Any deal which has not been offset or reversed by an equal and opposite deal. Thật ra, ngay cả khi các từ dễ không được dùng theo nghĩa chuyên ngành, nó cũng có thể có nghĩa đặc biệt. Tờ Economist khi bình luận về cuộc đua giành chức thống đốc bang California sắp tới đã viết: “Arnold Schwarzenegger knows how to work a crowd”. Nếu không chắc nghĩa của từ work trong câu này, chúng ta nên tra từ điển và sẽ thấy work còn có nghĩa to excite, to provoke – “The rock musician worked the crowd of young girls into a frenzy”. Bài này khi kể về cựu diễn viên điện ảnh cơ bắp Arnold nay là Thống đốc bang California còn có câu “… where he used to pump iron”. Pump là từ dễ, iron cũng là từ dễ – nếu lơ đãng, chúng ta sẽ mất cơ hội học cụm từ to pump iron là cử tạ, tập tạ. Một bài khác, giới thiệu cuốn sách mới của nhà kinh tế được giải Nobel, Joseph Stiglitz, cuốn Making Globalisation Work có tựa đề: “Joe has another go”. Joe là cách gọi thân mật; has another go là has another attempt – vì trước đó ông đã viết một cuốn khác về toàn cầu hóa. Đôi lúc, người ta dùng từ dễ, hóa ra lại làm khó nhiều người vì đã lỡ quen với từ khó. Như trong bài này có câu: The book also discusses patents, which encourage “me-too” drugs… Có lẽ nếu dùng generic drugs (loại thuốc Tây dùng cùng công thức như thuốc có bản quyền nhưng giá rẻ hơn), nhiều người sẽ thấy dễ hiểu hơn! Cũng có lúc, từ dùng vẫn nằm trong nghĩa quen thuộc nhưng hàm ý khác nên gây khó cho người đọc. “One study – conducted in Sweden, of all places – showed that female medical-research scientists had to be twice as good as men to win research grants”. Places ở trong câu này vẫn mang nghĩa nơi chốn nhưng ý tác giả nói – Thụy Điển là nơi được tiếng tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ nhất mà hóa ra lại như thế này. Hay câu này, trong một bài nói về chuyện cấm sử dụng điện thoại di động trên máy bay: “On most flights a few mobile phones are left on by mistate, so if they were really dangerous we would not allow them on board at all, if you think about it”. Cụm từ if you think about it nên hiểu “cứ nghĩ mà xem”. Cuối cùng, từ dễ hóa ra khó khi tác giả… chơi chữ. Tờ Fortune tuần trước có bài mang tựa đề: “Shaving the environment” – rất dễ tạo ấn tượng báo in sai chính tả. Hóa ra đây là chuyện xảy ra ở Philippines, nơi vừa xảy ra một vụ tràn dầu. Để cứu môi trường, Chính phủ Philippines kêu gọi người dân hiến tóc để làm thiết bị hút dầu theo kiểu thủ công – vì thế mới có chuyện “cạo đầu để cứu môi trường”. Một tựa khác “Good night and good luck” hoàn toàn không có từ nào khó cả nhưng tác giả dùng kỹ thuật liên tưởng. “Good night and good luck” là tên một bộ phim được đề cử sáu giải Oscar kể về cuộc đối đầu giữa nhà báo truyền hình Edward Murrow và Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy vào những năm 1950. Nay bài báo dùng lại tít này để kể về chuyện hãng truyền hình CBS cử Katie Couric làm người dẫn chương trình thời sự buổi tối với mức lương 15 triệu đô la mỗi năm với liên tưởng hy vọng Couric cũng thành công như Murrow ngày nào. (TBKTSG, ngày 21-9-2006) Tiếng Anh giọng London Không hẹn mà nên, hai tờ tạp chí Time và Newsweek tuần rồi đều có bài liên quan đến tiếng Anh và việc học ngoại ngữ nói chung. Tờ Newsweek bắt đầu bằng câu: “My Japanese-language teacher is white, weighs less than a kilo and fits nicely in my jacket pocket”. Thầy giáo gì mà nhẹ chưa đến một ký, bỏ vừa túi áo vét? Hóa ra đó là chiếc máy iPod và các chương trình podcast dạy ngoại ngữ. Podcast là một từ mới – chỉ các chương trình ghi âm như một dạng radio mà người dùng có thể tải về để nghe, chủ yếu trên các máy iPod. Hiện nay trên trang web bán nhạc iTunes của Apple có rất nhiều podcast miễn phí và trong đó có rất nhiều chương trình dạy ngoại ngữ. Nhiều đến nỗi Apple khoe: “Oh, what a dilemma. Now that you can find thousands of podcasts all in one place, how ever will you decide what to download? Call it kid-in-a-candy-store syndrome…”. Trong câu này có cụm từ kid-incandy-store syndrome (hội chứng đứa trẻ trong tiệm kẹo) rất hình tượng. Tác giả bài báo so sánh việc học theo cách đến lớp và học trên podcast để kết luận, the differences were stark. Stark ở đây là complete, extreme như stark contrast, stark poverty. Một bên theo miêu tả của tác giả, “we learned the polite and informal names for various family members, how to describe our pastimes and how to make small talk about the weather”. Đúng là không khí lớp học không giống ngoài đời, chẳng hạn chúng ta thấy giới trẻ gặp nhau đâu hỏi “How are you?” như khi mình học mà cứ “What’s up?”, “How’s it going?”… Bên kia thì khác, “On the entertaining podcast, New York-native Peter Galante and his Japanese colleagues wove instructive lessons around functional tips for navigating Japanese society--like what to do when you miss the last subway at night”. To weave around ở đây là xây dựng các bài học; functional tips là lời khuyên hữu dụng, còn navigating chỉ là xoay xở, tìm đường đi nước bước. Vì thế tác giả hỏi một câu ở dạng rhetorical question, tức là hỏi mà không cần trả lời, “Guess which lessons proved more useful in Japan?”. Nhìn ở góc cạnh quản trị, bài báo viết: “One talented teacher can now reach an unlimited number of audience with no distribution costs”. Ngày nay, các lĩnh vực hay chồng chéo nhau như thế, ở đây là kết hợp chuyện dạy, công nghệ thông tin và hiệu quả kinh doanh nên người ta dùng từ distribution costs, đừng dịch thành chi phí phân phối thêm khó hình dung. Nói câu này là để tác giả dọa: “Podcast language training threatens the hell out of any business in the industry who ignores the new technologies”. Thật ra đây là một câu trích một nhân vật được phỏng vấn trong bài nên mới có cụm từ the hell out of để nhấn mạnh. Nói “You did one hell of a job” (làm giỏi đấy); He ran like hell to catch the bus (chạy thục mạng để đuổi kịp xe buýt); How the hell can I go? (Tôi đi bằng cách quái gì đây?)… là nói trong vòng bạn bè chứ ai mà dùng để viết báo. Bài “Why can’ t the English learn how to speak English?” trên tờ Time nói chuyện khác – cách dân Anh luyện giọng để nói theo kiểu London cho oai. Bài báo bắt đầu bằng câu “Accent still matters…”. Matter ở đây là vẫn quan trọng, như chữ count (an opinion that counts for a great deal). Tác giả kể chuyện đi nhờ một voice trainer chỉnh giọng, được nghe phán: “Two vowels betray your background”. Betray ở đây là tiết lộ chứ không phải phản bội gì cả. Nói giọng Anh chuẩn theo kiểu phát thanh viên BBC gọi là RP, tức là received pronunciation. Nói theo kiểu này khó hòa đồng với người khác, vì theo lời tác giả, “men think I’ll boss them, employers think I’ll try and run the place”. Nếu dịch, đây là một câu điển hình cho sự khác biệt giữa tiếng Anh của người Anh viết và tiếng Anh của người Việt suy nghĩ ra: “đồng nghiệp (men) nghĩ tôi sẽ cưỡi cổ họ, sếp (employers) nghĩ tôi sẽ tìm cách hất chân họ…”. Nhưng thật ra, đa phần đến học luyện giọng là để loại bỏ cách phát âm theo vùng bởi, “despite premature announcement of a classless society, plenty of native English speakers still want to lose or lessen regional accents”. Cái này dân chuyên môn gọi là accent smoothing hay accent softening. Vì vậy giới luật sư hay sinh viên thích luyện giọng RP (mà giọng được ưa chuộng nhất gọi là lazy RP) để dễ thuyết phục thân chủ hay dễ kiếm việc làm. Có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên khi biết ở Anh, “accent was named as a cause of unfair treatment more often than race, gender or religion”. Tác giả, vì lỡ có giọng “RP hạng nặng” thừa hưởng từ gia đình nên phải tự hỏi: “So is lazy RP in the cards for me?” – giọng nói ở đây như là hai công cụ trái ngược, một bên là để hòa đồng, một bên là để tiến thân. Đặc ngữ in the cards là very likely to happen, như câu: “Some reports suggest that a tax cut is still in the cards” nhưng ở đây là “hợp với tôi nhất”. (TBKTSG, ngày 28-9-2006) Bão và chuyện chữ nghĩa Khác với những năm trước, kể từ trận bão Chanchu, báo chí trong nước đã bắt đầu quen dùng tên bão theo quy định của quốc tế chứ không gọi theo số nữa. Cơn bão mà văn bản chính thức, bản tin dự báo vẫn gọi là bão số 6 được tường thuật dưới tên Xangsane (theo tiếng Lào, có nghĩa là “Con voi”). Tuy nhiên, với cơ quan nhà nước thì khác. Không hiểu sao Việt Nam đã đóng góp 10 tên để Trung tâm Bão Tokyo lần lượt sử dụng để đặt tên bão (như Trà Mi, Hạ Long, Vàm Cỏ, Sông Đà, Sao La) mà cho đến bây giờ vẫn chưa áp dụng cách gọi theo quốc tế một cách chính thức. Gọi bằng tên riêng dễ nhớ và nhớ lâu hơn gọi bằng số chứ. Từ tiếng Anh liên quan đến bão có khá nhiều và dễ gây lẫn lộn. Đầu tiên là tropical depression (áp thấp nhiệt đới) khi gió dưới 63 ki lô mét/giờ. Trên mức này, ta có tropical storm (bão nhiệt đới nhỏ) và bắt đầu được đặt tên. Nếu gió mạnh hơn 118 ki lô mét/giờ, thì tùy vị trí địa lý mà có các tên gọi khác nhau. Ở vùng Biển Đông và Tây Bắc Thái Bình Dương, nó được gọi là typhoon; ở Bắc Đại Tây Dương, Đông Bắc Thái Bình Dương, người ta gọi nó là hurricane và ở Tây Nam Ấn Độ Dương nó chuyển thành tropical cyclone. Khổ nỗi trong các văn bản tiếng Anh, tất cả các hiện tượng trên được gọi chung một từ là tropical cyclone hay storm nên dễ nhầm. Ví dụ câu miêu tả chung: “A tropical cyclone tends to develop an eye, a small, circular, cloud-free spot. Surrounding the eye is the eyewall, an area about 16-80km wide in which the strongest thunderstorms and winds circulate around the storm's center”. Tuy nhiên, biết cách phân biệt này giúp chúng ta khỏi dịch sai typhoon thành cuồng phong, hay cyclone thành lốc, gió xoáy theo quán tính. Tuần trước, quan hệ giữa Malaysia, Indonesia và Singapore trở nên căng thẳng vì một câu phát biểu của cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Nguyên văn câu của ông là “…Malaysia and Indonesia have problems with the Chinese. They are successful, they are hardworking, and therefore, they are systematically marginalized”. Từ marginalize, được báo chí Việt Nam dịch chưa chính xác là “cách ly”, xuất phát từ từ margin có rất nhiều nghĩa. Margin nghĩa là lề (he jotted a note on the margin of the page), ngưỡng (he has crossed the margin of civilized behavior); cho nên marginalize là gạt ra ngoài lề, cho ra rìa (we must not marginalize the poor in our society). Ý ông Lý Quang Diệu muốn nói người Hoa ở Singapore được đối xử bình đẳng còn ở Malaysia hay Indonesia, họ bị gạt ra khỏi đời sống văn hóa, chính trị… một cách có hệ thống (tức là cố ý)! Chẳng lạ gì, cả hai nước Malaysia và Indonesia đã triệu tập đại sứ Singapore lên yêu cầu giải thích cho rõ chuyện. Cách đây hai tuần, Ngân hàng Phát triển châu Á cảnh báo những hiệp định thương mại song phương mà nhiều nước đang hăm hở ký có thể gây hại cho viễn cảnh phát triển của các nước đang phát triển. Một trong những lý do được đưa ra có dùng từ marginalize này “…bilateralism tends to marginalize weaker trading nations”. Ở đây, có lẽ sẽ có ích hơn nếu chúng ta chú ý đến các nghĩa có liên quan đến kinh tế của từ margin. Đầu tiên, margin thường được dùng trong cụm profit margin, gross profit margin để chỉ tỷ lệ lãi trên doanh thu, thường được dịch là biên lợi nhuận. Margin còn là chênh lệch giữa giá thị trường của một món thế chấp và trị giá khoản vay dựa vào thế chấp này. Trong quản trị có khái niệm marginal như trong cụm từ marginal cost: chi phí biên, tức là chi phí sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa. Tuy nhiên, từ margin được dùng trong chứng khoán nhiều hơn. Ở các nước, nơi giá cổ phiếu đã tương đối ổn định, chỉ cần có một ít tiền là đã có thể mua bán cổ phiếu khối lượng lớn. Lấy ví dụ cổ phiếu X giá 1 đô la Mỹ, muốn mua bán 1 triệu cổ phiếu này, người chơi đâu cần có đến 1 triệu đô la. Vì giá hàng ngày lên xuống dưới 1%, hiếm khi biến động đến 5-10% nên người chơi chỉ cần bỏ 200.000 đô la Mỹ vào tài khoản của công ty môi giới rồi vay thêm 800.000 đô la Mỹ để mua bán. Vì số cổ phiếu này cầm cố ngay tại công ty môi giới này nên có rủi ro gì, công ty cứ bán cổ phiếu cộng thêm tiền bảo chứng là yên tâm. Mua kiểu này gọi là margin buying hay buying on margin, tài khoản loại đó gọi là margin account… Giả thử công ty đặt mức bảo chứng tối thiểu (minimum margin requirement) là 10% và giá 1 triệu cổ phiếu sụt còn 850.000 đô la Mỹ, tiền bảo chứng trong tài khoản chỉ còn 50.000 đô la Mỹ nên công ty yêu cầu người chơi đóng thêm tiền hay bán chứng khoán, động thái này gọi là margin call. Vì chỉ cần có một ít tiền mà vẫn mua bán gấp nhiều lần nên margin buying chính là một hình thức leverage (đòn bẩy) trong tài chính. (TBKTSG, ngày 5-10-2006) Lại chuyện tai tiếng doanh nghiệp Chuyện đấu đá trong nội bộ hãng HP có đủ yếu tố cho một bộ phim trinh thám, hình sự hấp dẫn. Và khi báo chí viết về vụ này, họ cũng dùng nhiều từ tiếng Anh đáng chú ý. “At first, it seemed that the company’s chairman, Patricia Dunn, would carry the can alone for the use by a security firm working for HP of pretexting: using false pretences to obtain personal information”. Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) HP, bà Patricia Dunn, nghi ngờ các thành viên trong HĐQT để rò rỉ thông tin nội bộ cho báo chí nên đã thuê thám tử tư bên ngoài điều tra. Cụm từ “carry the can alone” là chịu tội một mình, là đưa đầu chịu báng. Đó là do bà này đồng ý cho các hãng thám tử sử dụng phương pháp bá đạo “pretexting”. Pretext là cớ, viện cớ; pretexting là mạo danh ai đó, gọi đến các công ty điện thoại, ngân hàng để lấy thông tin về người này. Có nhiều dạng mạo danh khác như phishing (gửi e-mail giả danh ngân hàng, hãng tín dụng để ăn cắp thông tin), quid pro quo (giả danh nhân viên hỗ trợ kỹ thuật gọi cho khách hàng để lừa đảo)… Các chiêu thức này có một tên chung, nghe rất kêu và dễ dịch nhầm – social engineering (techniques used to manipulate people into performing actions or divulging confidential information). Social engineering còn có một nghĩa nữa là tác động đến dư luận hay hành vi của xã hội, cũng thường dùng theo nghĩa xấu. Khi kể về câu chuyện này, các từ thường được dùng có boardroom (phòng họp -cho nên phòng họp trong công ty, xin đừng treo bảng meeting room), board of directors (hội đồng quản trị – xin đừng dịch là board of management), directors (thành viên hội đồng quản trị – xin đừng dịch là giám đốc). Lúc chuyện mới xảy ra, Tổng giám đốc HP Mark Hurd chối là không biết. Hóa ra ông này cũng đồng ý cho gửi e-mail mạo danh như một kỹ thuật điều tra và trước đó cũng đã được báo cáo về chuyện thuê thám tử. Cho nên sau này trong một cuộc họp báo Hurd mới nói: “I did not read it. I could have, and I should have”. Thật là một văn cảnh rất phù hợp để học cách dùng các “modal perfect” – could have, should have + past participle! Đằng sau cái lỗi xâm phạm đời tư đã rõ, thật ra vụ xì-căng-đan ở HP là hậu quả của những thay đổi gần đây trong quản trị doanh nghiệp ở Mỹ. Một bài báo viết: “To the old guard on the board, the corporate governance reforms introduced by Ms Dunn threatened to stifle the firms entrepreneurial culture”. The old guard ở đây là những tay cựu trào, entrepreneurial culture ý nói đến tinh thần dám làm, dám chịu, chấp nhận rủi ro để đạt mức thành công cao hơn. Khái niệm corporate governance (quản trị doanh nghiệp) là lèo lái doanh nghiệp để giữ cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế và xã hội, là duy trì tính giải trình trách nhiệm và minh bạch của công ty đối với cổ đông và xã hội. Đây là nhiệm vụ của hội đồng quản trị nên khác với corporate management (điều hành doanh nghiệp) là nhiệm vụ của ban giám đốc. Các từ trong ngoặc là tạm dịch chứ chúng chưa thể hiện được nội hàm của các cụm từ tiếng Anh. Vì thế, chuyện tuy đơn giản nhưng báo chí Mỹ tốn nhiều giấy mực để bàn tán, tranh cãi xem ai đúng ai sai, quyền hạn công ty đến đâu đối với chuyện nội bộ. Nhưng vì giả danh người khác để ăn cắp thông tin là chuyện vi phạm pháp luật nên theo tin mới nhất, bang California đã truy tố bà Dunn và bốn người khác ra tòa dù bà này đã từ chức chủ tịch vào tháng trước. Về thời sự kinh doanh khác, có một số câu đáng chú ý: “Microsoft's oft-promised operating system Vista will go into lockdown mode if it suspects you of buying the software from a car boot sale rather than an approved reseller”. Vì Microsoft đã lỗi hẹn nhiều lần về ngày ra mắt hệ điều hành Vista nên mới có cụm từ “oft promised”; lockdown mode là tự khóa lại, không chạy nữa; còn “car boot sale” là mua ngoài chợ trời, tức là mua phần mềm lậu. Riêng tờ Economist khi viết về chuyện hãng máy ảnh Leica nổi tiếng chuyển mạnh sang sản xuất máy chụp hình kỹ thuật số, đã chú thích một tấm ảnh bằng câu: “Looking past the negative”. Đây là một cách chú thích “bậc thầy” vì với chỉ một câu, người viết nói được nhiều ý. Ý thứ nhất là “Vượt qua khó khăn” (vì hiện nay Leica đang lỗ nặng); ý thứ hai là “Hướng về kỹ thuật số” (vì negative, ngoài nghĩa tiêu cực, khó khăn, còn là phim âm bản, dùng trong loại máy ảnh thường). (TBKTSG, ngày 12-10-2006) Liên tưởng Cái khó của tiếng Anh thời sự là sự liên tưởng mà người viết giả định ai cũng đã biết. Ví dụ khi viết về tân Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-Moon, tờ Time dùng tít: “The Teflon Diplomat”. Có thể chúng ta đã biết Teflon là thương hiệu của lớp màng dùng trong loại chảo không dính nhưng đâu phải ai cũng biết nghĩa bóng của từ này là “mềm dẻo, vừa lòng hết thảy, ai phê bình gì cũng không suy suyển”. Hoặc một bài khác trên tờ báo này, “From Russia, with loathing”. Tác giả buộc người đọc phải nhớ lại tên cuốn truyện và phim trong series điệp viên 007 James Bond – “From Russia with love” nhưng lần này là chuyện lực lượng an ninh Nga tấn công các sòng bài ở Moscow do người Georgia làm chủ do lình xình trong quan hệ giữa hai nước này. Vì thế tác giả đã dùng từ trái nghĩa với love trong tít báo để chuẩn bị cho người đọc. Nếu chú ý cách viết liên tưởng này, chúng ta có thể hiểu sâu hơn các bài viết thời sự mà không cần sử dụng đến từ điển. Khi đề cập đến vụ bê bối tình dục liên quan đến nghị sĩ Mark Foley ở Mỹ, có tờ dùng cụm từ “Grand Old Pedophiles”. Từ cuối thì tra từ điển cũng có thể biết là kẻ lạm dụng tình dục trẻ em nhưng vì sao lại “Grand Old”. Hóa ra Foley thuộc đảng Cộng hòa thường được viết tắt là GOP (Grand Old Party) – cũng là một cách chơi chữ khá hiểm. Nếu chỉ tập trung vào chuyện kinh doanh, chúng ta cũng thấy loại văn này không kém phần phổ biến. Tờ Newsweek khi đề cập đến sự bành trướng của các công ty Trung Quốc đã viết: “Expanding Chinese companies have finally discovered the Old World”. Dùng từ Old World là để đưa người đọc liên tưởng đến New World – cái tân thế giới mà Columbus và nhiều nhà thám hiểm châu Âu từng khám phá. Cho nên ở đây Old World mang nghĩa châu Âu chứ không phải cả châu Âu, châu Á, châu Phi như một cuốn từ điển Anh-Việt giải thích. Loại văn thời sự ít khi dùng thành ngữ nhưng mỗi khi có dùng lại rất đắt. Trong bài nói trên có câu: “What goes around comes around – and this time it’s the Chinese who are getting burned”. Trước đây các công ty phương Tây vào thị trường Trung Quốc thường phạm sai lầm là không chịu tìm hiểu khác biệt văn hóa kinh doanh. Nay, “có qua có lại, có đi có đến”, đến lượt người Hoa bị “phỏng tay”. Ý nói khi người Hoa vào thị trường châu Âu cũng phạm những sai lầm tương tự. Có những câu rất bình thường nhưng sự liên tưởng tạo cho nó hình ảnh để gây ấn tượng ở người đọc. “What [Bangkok dwellers] perhaps didn’t realize is that the coup d’état also delayed the arrival of rumbling vehicles of another sort: hundreds of light-rail carriages”. Lý do tác giả dùng cụm từ “rumbling vehicles of another sort” (tiếng rầm rập của một loại xe khác) trong câu trên là để đối chọi hình ảnh và âm thanh của loại xe tăng (do phe đảo chính sử dụng) và loại xe lửa trên cao (bị trì hoãn vì vụ đảo chính) để mở đầu cho một bài viết về tác động của cuộc đảo chính gần đây ở Thái Lan lên nền kinh tế. Ở một bài khác về thị trường địa ốc ở Mỹ, tác giả viết: “We are at the endgame for housing. Until recently, our national motto has been ‘in real estate we trust’”. “In God We Trust” là câu phương châm chính thức của Mỹ, được in ngay trên tờ giấy bạc. Tác giả dùng nó để làm mạnh thêm ý “in real estate we trust” để nói lên rằng mãi cho đến gần đây, thị trường địa ốc của Mỹ tạo niềm tin cho người tiêu dùng, là động lực tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài. Bây giờ nó đã trở thành một endgame – tức là đã vào cuộc cờ tàn. Tờ Fortune, khi viết về chuyện Trung Quốc không còn mặn mà với đầu tư nước ngoài nữa đã dùng: “The Forbidden City – China takes a break”. Cái tên chính thức của Tử Cấm Thành được dùng ở đây chỉ để làm mạnh thêm ý Trung Quốc muốn hạn chế dòng vốn đầu tư này. Cách dùng này khá dễ hiểu vì đôi lúc văn tiếng Việt cũng có cách dùng tương tự. “But even as Beijing prepared to roll out the red carpet for the U.S. Treasury Secretary, it was yanking the rug from under some of his old investment banking rivals”. To roll out the red carpet là trải thảm đỏ quá quen thuộc – nhưng nên chú ý cụm từ yank the rug from under (giật mạnh tấm thảm dưới chân). Một bài khác cũng trên tờ Fortune mang tựa đề: “The Axis of Diesel”. Sự liên tưởng ở đây là quá rõ, ý tác giả muốn nói đến một trục liên minh mới liên quan đến dầu diesel. Đúng như thế, câu đầu tiên của bài này là: “Mercedes, GM, even Honda, are betting on a new breed of green diesel. The goal? To leave hybrids in the dust”. Như vậy ba hãng này đang nghiên cứu một loại dầu diesel mới, thân thiện với môi trường hơn và sự liên tưởng trong câu này nằm ở cụm từ in the dust. Cuộc nghiên cứu này được xem như một cuộc đua với loại xe “lai” (dùng cả xăng lẫn điện) với mục đích cho loại xe này “ngửi khói”, cả trên đường đua lẫn trên thị trường. TBKTSG, ngày 19-10-2006) WTO Việt Nam sắp vào WTO. Có lẽ nên nhìn hoạt động của tổ chức này ở góc cạnh tiếng Anh xem thử có giúp chúng ta được gì trong việc chuẩn bị tham gia. Nói đến WTO trước hết là nói đến GATT, viết tắt từ General Agreement on Tariffs and Trade (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại). Thế nhưng vì sao từ thuế có lúc được dịch là tariff, có lúc là duty, có lúc là tax? Tariff chỉ các loại thuế nhập khẩu, thu ở cửa khẩu trong khi tax chỉ các loại thuế thu trong nội địa. Duty có thể dùng thay cho hai từ này nhưng có một khác biệt nhỏ – duty chỉ các loại thuế đánh lên hàng hóa, tài sản, giao dịch chứ không đánh lên người. Vì thế người ta nói import duties và income tax, chứ không dùng lẫn lộn. Ví dụ, báo chí có lần tường thuật phát biểu của một quan chức và nói: “He was careful to explain that “duty-free” does not mean “tax free” as far as a country’s internal consumption taxes are concerned”. Như vậy sản phẩm “duty-free” được miễn thuế khi nhập khẩu nhưng có thể phải chịu thuế VAT khi bán lại cho nên mới có chuyện nó không phải là “tax-free”. Từ “thuế” còn có thể gây khó khăn khi dịch là vì cùng một loại thuế, các nơi lại gọi khác nhau. Ví dụ, thuế giá trị gia tăng ở nước ta và châu Âu gọi là VAT (value added tax) nhưng ở Mỹ gọi là sales tax, một số nước khác như Úc gọi là goods and services tax (GST); thuế tiêu thụ đặc biệt mình thường dịch là special consumption tax nhưng thiên hạ thích nói excise tax hơn. Chú ý tariff còn có nghĩa biểu giá như giá điện, giá thuê nhà. Sự khác biệt khá tinh tế như trên thật ra xuất hiện ở nhiều từ chúng ta thường dùng mà không để ý. Ví dụ, khấu hao có hai từ amortization và depreciation; từ đầu dùng cho khấu hao tài sản vô hình, từ sau dùng cho khấu hao tài sản hữu hình. Công ty “con” cũng có vài từ, trong đó affiliate chỉ loại công ty mà công ty mẹ có đầu tư vốn nhưng không chiếm tỷ lệ kiểm soát còn với subsidiary thì công ty mẹ sở hữu cổ phần đa số, thậm chí lên 100% gọi là wholly owned subsidiary. Vì thế, để phân biệt hai loại hình, công ty hạch toán độc lập và công ty hạch toán phụ thuộc nên dùng từ subsidiary và division cho dễ hiểu. Trở lại chuyện WTO, một trong những nguyên tắc cơ bản của thương mại thế giới là most-favored-nation (MFN) thường được dịch là tối huệ quốc. Tài liệu chính thức của WTO giải thích: “Under the WTO agreements, countries cannot normally discriminate between their trading partners. Grant someone a special favour (such as a lower customs duty rate for one of their products) and you have to do the same for all other WTO members”. Theo tinh thần này, tối huệ quốc có nghĩa là không phân biệt đối xử, chứ đâu có ưu đãi gì. Vì thế, chính WTO cũng phải thừa nhận: “This sounds like a contradiction. It suggests special treatment, but in the WTO it actually means non-discrimination – treating virtually everyone equally”. WTO nói thêm cho rõ là sự đối xử đặc biệt này chỉ có nghĩa một nước thành viên dành sự đối xử “tốt” nhất cho một nước thì tự động các nước còn lại cũng sẽ hưởng đặc quyền này. Vì thế ngày nay nhiều người thích dùng từ “normal trade relations” (quan hệ thương mại bình thường) hơn. Nhân nói chuyện “các nước thành viên”, chúng ta đều biết có một số vùng lãnh thổ tuy là thành viên WTO nhưng không được xem là nước. Vì vậy, một tài liệu của WTO thường có phần “ghi chú” nói rõ: “The words country and nation are frequently used to describe WTO members, whereas a few members are officially customs territories, and not necessarily countries in the usual sense of the word”. Nguyên tắc cơ bản thứ nhì của WTO là “national treatment” (đối xử quốc gia). Cái này có nghĩa hàng hóa, dịch vụ… của nước khác khi đã vào thị trường một nước phải được đối xử bình đẳng như hàng hóa, dịch vụ trong nước. Lưu ý, WTO có khẳng định: “National treatment only applies once a product, service or item of intellectual property has entered the market” và cho ví dụ: “Therefore, charging customs duty on an import is not a violation of national treatment”. Hai nguyên tắc cơ bản này và một số ít nguyên tắc nữa là nền tảng để WTO hoạt động chứ bản thân WTO không là cái gì cả. Ngay chính WTO, trong một tài liệu chính thức, đã kể câu chuyện nửa đùa nửa thật sau để định nghĩa mình là gì. Participants in a recent radio discussion on the WTO were full of ideas. The WTO should do this, the WTO should do that, they said. One of them finally interjected: “Wait a minute. The WTO is a table. People sit round the table and negotiate. What do you expect the table to do?” (interject ở đây là nói xen vào, bỗng thốt lên). Cho nên nói WTO là cái bàn hóa ra cũng không sai! Hay như một thượng nghị sĩ Mỹ có lần phát biểu đùa rằng GATT là “Gentlemens Agreement to Talk and Talk!” còn WTO thì chuyển sang “Woman Talk Organization”. (TBKTSG, ngày 26-10-2006) Nhìn ngược Tuần này, nhân lúc xuất hiện khá nhiều bài báo và nghiên cứu về kinh tế Việt Nam, chúng ta thử xem người ta sử dụng tiếng Anh để miêu tả một số hiện tượng hay khái niệm quen thuộc như thế nào. Ví dụ, các bạn có biết họ dùng từ gì để nói Việt Nam có “cơ cấu dân số thuận lợi” không? – favorable demographics. Nếu cứ theo quán tính rất dễ nghĩ demographics là nhân khẩu học theo định nghĩa của các cuốn từ điển Anh-Việt! Khi nói đến thị trường cổ phiếu, họ thường dùng từ equity market vì equity chính là các cổ phần trong công ty, mà ta thường hay nói “vốn tự có” để phân biệt với vốn vay – debt. Lưu ý, khi miêu tả quy mô thị trường họ thường viết gọn “market cap” thay vì viết đầy đủ “market capitalization”. Báo cáo của Credit Suisse viết: “We estimate market cap could reach US$14 billion by 2010, while the government has a conservative US$10 billion target”. Câu này có nghĩa họ ước tính giá trị vốn hóa thị trường sẽ đạt 14 tỉ đô la Mỹ vào năm 2010 trong khi chỉ tiêu của Chính phủ dè dặt hơn ở mức 10 tỉ đô la Mỹ. Khái niệm vay tiền để mua nhà còn mới mẻ ở Việt Nam trong khi từ mortgage là quá quen thuộc với người Mỹ. Từ này cũng bị “chết dính” vì các định nghĩa của nhiều từ điển Anh-Việt là “thế chấp, cầm cố” – vừa thiếu chính xác, vừa dễ bị hiểu sai. Thông thường ít ai có đủ vài trăm ngàn đô la để mua ngay một căn nhà nên phải ký hợp đồng vay tiền ngân hàng, sau đó trả chậm hàng tháng gọi là mortgage financing. Một báo cáo viết: “Mortgage financing is only 12% of the total loan book but this is likely to change as the official deposit base grows – a probable boon to the real estate market”. Chú ý, dù đây là báo cáo dành cho giới tài chính nhưng họ viết rất nhẹ nhàng (total loan book – tổng dư nợ cho vay), (deposit base – tổng huy động tiền gửi) chứ không dùng các cụm từ “nghiêm chỉnh” (total outstanding loan, chẳng hạn). Để miêu tả về tiềm năng thị trường, một báo cáo đã đưa ra một góc nhìn đáng chú ý: “In short, Vietnam has been living for today. There have been few avenues for turning future earnings potential into consumption or investment today”. Thông thường, ở các nền kinh tế đã phát triển, người ta mua nhà, mua xe đều dựa vào thu nhập tương lai chứ không đợi có đủ tiền mới mua – đầu tư cũng vậy, phải dựa vào dòng tiền sẽ thu được (future cash flows), còn ở nước ta, cái gì cũng ăn chắc mới tính. Như vậy các từ “công cụ, phương tiện” được diễn đạt là avenues, “tiềm năng thu nhập tương lai” là future earnings potential… Nay họ đánh giá, tiềm năng thị trường Việt Nam là cao, không phải chỉ vì GDP tăng hàng năm mà do biến chuyển trong hành vi tiêu dùng và đầu tư, theo cách mua trả sau. Và cơ hội của nhà đầu tư là ở cả hai khía cạnh, chú ý khía cạnh thứ hai mới là quan trọng đối với họ: “First, it has the potential to drive economic and earnings growth even higher. Second, crucially, it provides investors a way to profit from this growth”. Báo cáo của Citigroup có một câu diễn đạt khái niệm tách bạch vai trò chủ quản và vai trò quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh rất gọn: “In May, a plan for banking sector reform was issued, under which the ownership role of the State Bank of Vietnam in the state-owned commercial banks will be separated from the supervision functions”. Gặp tình huống tương tự, nếu cố gắng dịch “cho sát” các cụm từ “chủ quản” hay “quản lý” sẽ gây khó hiểu đối với người nước ngoài. Một câu khác cho thấy cách diễn đạt giữa tiếng Anh và tiếng Việt thường khác nhau, cho nên sử dụng tiếng Anh thành thạo là quan sát xem người Anh viết như thế nào chứ không thể “sáng tạo” rồi bắt họ hiểu cho được. “The burden is therefore on the authorities to mobilize adequate fiscal revenue such as overhauling the personal tax code to cope with expected fall in trade-related revenue post WTO…”. Trong câu này, nguồn thu ngân sách được diễn đạt là fiscal revenue; nguồn thu từ ngoại thương sau khi vào WTO được dự kiến sẽ giảm là expected fall in trade-related revenue post-WTO. Một báo cáo khác của hãng luật Phillips Fox đề cập đến vấn đề: “Securities taxation – is the holiday over?”. Đi liền với từ thuế, người ta thường dùng tax holiday với nghĩa miễn, giảm thuế, nay đã gần hết thời hạn miễn, giảm thuế cho các công ty niêm yết nên mới có câu trên. Thế nhưng, người viết không bỏ lỡ cơ hội chơi chữ khi viết: When the holiday’s over, will the foreign tourists in Vietnam’s securities market return home? Nghe cũng hay cho dù câu này không có ý nghĩa gì lắm – việc các công ty niêm yết được giảm 50% thuế doanh thu trong vòng hai năm nếu niêm yết trước ngày 1-1- 2007 có tác dụng thúc đẩy các công ty đang chạy đua với thời gian để lên sàn trong năm nay chứ ít liên quan đến chuyện các nhà đầu tư nước ngoài ở lại hay bỏ về nước. (TBKTSG, ngày 2-11-2006) Dấu phẩy 2 triệu đô la Báo chí Canada tuần qua rộ lên chuyện tranh chấp giữa hai doanh nghiệp liên quan đến một dấu phẩy trong hợp đồng. Công ty Viễn thông Rogers ký hợp đồng với Công ty Aliant để được quyền mắc nhờ dây cáp quang trên 91.000 trụ điện do Công ty Aliant quản lý. Được ba năm, Công ty Aliant thông báo hủy hợp đồng, đòi tăng phí “mắc nhờ” này lên ba lần. Rogers lấy hợp đồng ra, chỉ vào một câu để bảo Aliant không được chơi ăn gian như thế: “This agreement shall be effective from the date it is made and shall continue in force for a period of five (5) years from the date it is made, and thereafter for successive five (5) year terms, unless and until terminated by one year prior notice in writing by either party”. Đại khái phần đầu nói hợp đồng có giá trị trong năm năm và sau đó tự động được gia hạn từng năm năm. Rogers cho rằng phần sau – về chuyện một trong hai bên có thể thông báo trước một năm bằng văn bản để hủy hợp đồng – chỉ áp dụng cho các lần gia hạn. Đến đây, ngữ pháp tiếng Anh được đưa ra để tranh cãi. Aliant cho rằng dấu phẩy trước cụm từ unless and until hàm ý phần đó áp dụng cho cả giai đoạn năm năm trước tiên lẫn các giai đoạn năm năm sau đó. Sau khi tham khảo các nhà ngữ pháp, Ủy ban Truyền thanh, Truyền hình và Viễn thông Canada xử Aliant thắng và Rogers phải gánh chịu thiệt hại lên đến chừng 2,3 triệu đô la. May mà trong tay Rogers còn một bản hợp đồng với nội dung tương tự bằng tiếng Pháp nhưng không có dấu phẩy nên bây giờ họ đang nộp hồ sơ kháng kiện. Canada là nước có đến hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Pháp! Liên quan đến từ ngữ tiếng Anh, tuần qua cũng xảy ra nhiều chuyện. Đầu tiên, hãng làm từ điển nổi tiếng Webster tuyên bố đã chọn được “từ trong năm” của năm 2006. Đó là từ CrackBerry – kết hợp hai từ crack (một loại ma túy mạnh) và BlackBerry (một loại thiết bị cầm tay giúp nhận, gửi e-mail mọi lúc, mọi nơi) – mang nghĩa nghiện nặng các thiết bị tương tự. Cụm từ diễn tả cảnh những người như thế say mê bấm bấm bàn phím là “Crackberry prayer”. Vào vòng chung kết bình chọn năm nay có nhiều từ khác như Pluto (sao Diêm Vương, vừa bị loại khỏi danh sách các hành tinh của Thái Dương hệ nên sẽ có nhiều từ điển phải sửa lại mục từ này); neuroeconomics (ngành nghiên cứu các phản ứng tâm lý trong việc ra quyết định liên quan đến tiền bạc); carbon footprint (hoạt động thường nhật của con người tác động lên môi trường). Tiêu chuẩn bình chọn, theo lời Tổng biên tập Michael Agnes, là “it’s merely one that made us chuckle, think, reflect, or just shake our heads”. Đúng là các từ này buộc chúng ta phải “cười thầm, ngẫm nghĩ hay chỉ biết lắc đầu”. Kế đến là chuyện Thượng nghị sĩ John Kerry lỡ lời. Chuyện này các báo đã tường thuật khá kỹ, chỉ có điều ít báo nói rõ vì sao câu này gây phản ứng. Ông Kerry, trong một buổi nói chuyện với sinh viên ở California, đã khuyên họ học hành cho đàng hoàng, kẻo không thì họ sẽ “get stuck in Iraq”. Nguyên văn câu này: “You know education, if you make the most of it, you study hard, you do your homework, and you make an effort to be smart, you can do well. If you don’t, you get stuck in Iraq”. Ý ông Kerry muốn chơi chữ, nhắm đến chuyện chê các nhà làm chính sách đương quyền của Mỹ, vì thiếu nghiên cứu sâu, thiếu “học hành” đến nơi đến chốn nên nay bị sa lầy ở Iraq. (Báo Time lại giải thích ý ông Kerry muốn nói “you get us stuck”). Tuy nhiên, ý này làm sao rõ bằng nghĩa đen của nó, rằng nếu sinh viên không chịu học hành sẽ phải đi lính và kẹt chân ở Iraq. Nói thế là chạm đến tự ái của hàng trăm ngàn lính Mỹ nên cuối cùng ông Kerry phải xin lỗi. Mới hay chơi chữ không phải là chuyện dễ. Trở lại chuyện ngôn ngữ chính thức ở đầu bài, có một điều ít ai biết – nước Mỹ chưa có ngôn ngữ chính thức và cho đến nay chỉ mới có 27 bang ở Mỹ công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức. Điều đó có nghĩa ở một số bang, chính quyền công nhận nhiều ngôn ngữ chính thức bên cạnh tiếng Anh như bang Louisiana (thêm tiếng Pháp), New Mexico (tiếng Tây Ban Nha). Phải đến tháng 5- 2006, Thượng viện Mỹ mới có dự thảo sửa đổi, tuyên bố tiếng Anh là ngôn ngữ “quốc gia” của Mỹ (từ dùng là national language chứ không phải official language). Hiện nay dự thảo này đang nằm ở Hạ viện Mỹ. Vì thế, nếu gặp câu “English has long been the de facto national language of the United States”, chúng ta hiểu người viết muốn nhấn mạnh từ de facto (trong thực tế) thường dùng để phân biệt với de jure (theo luật định). Nên nhớ, ngay cả Cục Điều tra dân số Mỹ (U.S. Census Bureau) khi in bảng câu hỏi điều tra phải dùng đến sáu thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Triều Tiên, tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Tagalog (ngôn ngữ của người Philippines). (TBKTSG, ngày 9-11-2006) Từ ngữ WTO Giống như nhiều tổ chức quốc tế khác, WTO có khá nhiều từ ngữ chuyên ngành, có thể gây khó khăn cho những ai chưa quen với chúng. Trước hết về thuế, có cụm từ “bound tariff rate” hay “tariff binding” có nghĩa là “thuế suất ràng buộc” tức là mức thuế suất trần mà một nước cam kết với các thành viên còn lại. Mức ràng buộc này là mức tối đa nhưng trong thực tế, có nhiều mặt hàng được tính thuế suất thấp hơn nên mới có thêm từ “applied rates” (thuế suất áp dụng, thuế suất thực tế). Cẩn thận với các từ này kẻo không như một số báo hiểu nhầm than rằng “thuế suất WTO” cao quá! Một từ thường dùng trong các văn bản đàm phán gia nhập WTO là “schedule” (chúng ta thường dịch là “biểu” hay “danh mục”). Đây là danh mục kèm theo lộ trình cắt giảm thuế hay bãi bỏ các hạn chế để thực hiện các cam kết. Thuế thường được tính theo giá trị hàng hóa, cách tính như vậy WTO gọi là “ad valorem” nhưng đôi lúc cũng được tính theo một con số nhất định bất kể giá trị – tiếng Việt gọi là “thuế tuyệt đối” và tiếng Anh là “flat-rate duties”. Một cách tính thuế nữa gọi là “tariff quota” (hạn ngạch thuế quan) – tức là tính thuế suất thấp đối với khối lượng nhập khẩu trong hạn ngạch và thuế suất cao đối với khối lượng nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Ví dụ trong thông báo chính thức của WTO khi Việt Nam tham gia tổ chức này có câu: “Vietnam has also reserved the right to charge applied duties in the form of specific duties (e.g. dollars per tonne) instead of percentages of the price (“ad valorem”) so long as the result stays below the committed ceilings”. Câu này nếu dịch chính xác là: Việt Nam cũng bảo lưu quyền được áp dụng thuế thực tế dưới dạng thuế tuyệt đối (ví dụ bao nhiêu đô la cho mỗi tấn) thay vì tính theo phần trăm của giá hàng (thuế phần trăm) với điều kiện là thuế tuyệt đối áp dụng không vượt quá mức thuế trần đã cam kết. Thứ đến, về trợ cấp trong nông nghiệp, WTO đặt ra những từ mang nhiều màu sắc. Chính sách trợ cấp thuộc loại có tác động lớn nhất đến sản xuất và thương mại và phải xem xét, cắt giảm theo lộ trình cam kết gọi là Amber box policies (màu hổ phách). Trợ cấp loại này gồm hỗ trợ giá thị trường, trả tiền trực tiếp cho nông dân hay trợ cấp đầu vào. Một Amber box policy khi cắt giảm sẽ chuyển dần qua Blue box policy, tức là loại trợ cấp chấp nhận được nhưng chỉ trong quá trình chuyển đổi với mục đích sau cùng là chỉ còn các Green box policies, là loại trợ cấp có tác động rất ít đến thương mại (ví dụ nghiên cứu, dự trữ an ninh lương thực, môi trường hay các chương trình điều chỉnh cơ cấu). Chú ý: Red box policies trên lý thuyết thì có nhưng trong thực tế chưa có chính sách nào được xếp vào loại này nên ít khi được đề cập. Nhiều sách về WTO ở nước ta khi dịch thường nhầm màu amber thành màu đèn đỏ! Để đo lường mức độ trợ cấp, WTO đặt ra một chỉ số gọi là AMS (Aggregate measure support – tổng lượng hỗ trợ). Ở đây có một quy định đáng lưu ý gọi là de minimis: Chỉ số AMS chỉ tính những hỗ trợ nếu nó vượt 5% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp (tỷ lệ này là 10% đối với các nước đang phát triển) nên trong thông cáo báo chí của WTO có câu: [Vietnam] will be allowed to support its farmers domestically with trade-distorting supports (“Amber Box” or “Aggregate Measurement of Support”) of up to 3,961.5 billion Vietnamese dong in addition to the usual allowance for developing countries (known as “de minimis”) of up to 10% of the value of domestic agricultural production. As with all WTO members, Viet Nam can also spend unlimited amounts on supports that do not distort trade (“Green Box” supports). Những từ nói trên giúp chúng ta hiểu rõ câu này và biết rằng đâu phải loại trợ cấp nào cũng bỏ. Thậm chí Việt Nam chưa đủ tiền để trợ cấp cho hết trong mức được phép. Về tên của các tổ chức, các hiệp định, văn bản WTO có nhiều từ như thế, và tiếng Việt cũng đã có những cụm từ tương đương chính thức, khi sử dụng phải chú ý. Ví dụ câu “Vietnam will apply the Technical Barriers to Trade, and Sanitary and Phytosanitary Measures agreements without a transition period” được dịch là “Việt Nam sẽ áp dụng Hiệp định Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại và Hiệp định về các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật mà không yêu cầu thời gian quá độ”. Technical Barriers to Trade gồm các quy định hay chuẩn mực như yêu cầu đóng gói bao bì, ghi nhãn. Còn Sanitary and Phytosanitary Measures là các biện pháp nhằm bảo vệ sức khỏe con người hay kiểm soát bệnh động thực vật. Hai hiệp định này nhằm yêu cầu các nước thành viên chơi đúng luật chung chứ đừng đặt ra những quy định làm khó hàng nhập khẩu. Loại hiệp định này có nhiều lắm mà thỉnh thoảng trong một số bản tin chúng ta có đọc thấy như Customs Valuation (Định giá hải quan), Pre-shipment Inspection (Giám định trước khi xếp hàng), Rules of Origin (Quy tắc xuất xứ), Safeguards (Tự vệ)… (TBKTSG, ngày 16-11-2006) Viết tắt Dạo này không biết sao thiên hạ thích viết tắt mà không thèm chú thích ở lần xuất hiện đầu tiên. Có lẽ do người viết nghĩ ai cũng đã biết như họ. Chẳng hạn, tuần rồi có nhiều người hỏi từ CPC xuất hiện nhiều lần trong bản cam kết dịch vụ của Việt Nam với WTO là gì mà trong bản tiếng Việt vẫn để nguyên, ví dụ “Dịch vụ kiến trúc (CPC 8671)”. Đây là từ viết tắt cụm từ Central Product Classification – là hệ thống phân loại các ngành (sector) và phân ngành (sub sector) dịch vụ của Liên hiệp quốc mà WTO cũng như các nước sử dụng, tên chính thức là Bảng phân loại sản phẩm trung tâm. Tương tự có từ HS (Harmonized Commodity Description and Coding System) dùng để xác định mã phân loại hàng hóa trong biểu thuế xuất nhập khẩu. Đấy là những từ chuyên ngành đã đành; văn báo chí cũng dùng nhiều từ viết tắt. Ví dụ, khi kể chuyện diễn viên điện ảnh Mel Gibson mấy tháng trước bị cảnh sát giao thông phạt, nhiều báo dùng tít: “Mel Gibson arrested on DUI suspicion”. DUI viết tắt của “Driving Under the Influence” là từ chính thức để chỉ tình trạng lái xe khi có hơi men hay sử dụng ma túy hay bất kỳ thuốc men gì có ảnh hưởng đến khả năng lái xe. Còn trong các bài phóng sự về cuộc chiến ở Iraq, bảo đảm thế nào cũng bắt gặp từ IED – như câu: “The convoy was hit by an IED”. Đây là từ viết tắt của Improvised Explosive Device (vật phát nổ tự chế, bom tự tạo), nếu đặt trên xe thì được gọi là VBIED (vehicle-borne IED). Các bài thời sự kinh doanh lại càng thích dùng từ viết tắt – nhiều lúc mới được sáng chế. Ví dụ Q smart phone là dòng điện thoại di động có bàn phím theo kiểu qwerty, tức là đủ các mẫu tự chứ không chỉ các phím số. Hay trong câu: “Fund manager prices IPO at 300p a share for London listing” thì IPO là Initial Public Offering (lần bán cổ phiếu đầu tiên ra bên ngoài) và p ở đây là pence. Để tập trung, chúng ta nên đọc một số báo cáo của các quỹ đầu tư nước ngoài về các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, xem các từ viết tắt của họ có nghĩa gì vì biết đâu chúng giúp chúng ta mua được cổ phiếu giá tốt. Từ thường gặp nhất là EPS (earnings per share) – tức là lợi tức trên mỗi cổ phiếu. For example, a corporation that earned $10 million last year and has 10 million shares outstanding would report earnings per share of $1. Chú ý, đôi bản báo cáo còn ghi thêm EPS fully diluted – đây là tình huống khi công ty chuyển hết mọi loại trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi… thành cổ phiếu thường để tính, lúc đó EPS sẽ giảm. Từ thứ nhì là P/E ratio (price-earnings ratio – hệ số giá-lợi tức), ví dụ “a stock selling for $25 a share and earning $5 a share is said to be selling at a P/E ratio of 5”. Mấy công ty được nhà đầu tư tranh mua vì kỳ vọng về “một tương lai tươi sáng” thường có hệ số này cao ngất ngưởng, còn các công ty đã ổn định như sản xuất điện chẳng hạn thì hệ số này thấp. Một từ khác là DPS – dividend per share – cổ tức trên mỗi cổ phiếu. Để phân tích dài hạn, các báo cáo này thường cung cấp các con số dưới dạng tỷ lệ phần trăm mà thỉnh thoảng các báo trong nước đã bắt đầu thấy có dùng. Chúng gồm ROA (Return on Assets – suất sinh lợi trên tài sản); ROE (Return on Equity – suất sinh lợi trên vốn). Hai cái này khác nhau vì trên bảng cân đối kế toán, chúng ta thường thấy hai cột luôn có giá trị bằng nhau – bên trái là assets (tài sản), bên phải là liabilities + equity (nợ + vốn), cho nên vốn chỉ là một phần của tài sản. Ở bảng báo cáo kết quả kinh doanh, ta lại thường thấy các từ viết tắt khác như EBIT (earnings before interest and tax – lợi tức trước khi trả lãi vay và thuế), hay thậm chí dùng luôn cụm từ dài ngoằng earnings before interest, taxes, depreciation and amortization EBITDA! Có lẽ, đọc xong câu sau với hàng loạt từ viết tắt như thế, ít ai dám nhảy vào lĩnh vực chứng khoán nữa: “We are looking at standard metrics like ROE, PBV, P/E, CAR and NPL before making any purchasing decisions into local banks”. Ngoài những từ đã giới thiệu, câu trên còn có PBV là price-book value (tức lấy giá cổ phiếu chia cho giá trị trên sổ sách của công ty); CAR là capital-assets ratio (tỷ lệ an toàn vốn, tức lấy vốn tự có chia cho tổng tài sản); NPL là non-performing loans (nợ khó đòi). Cuối cùng, xin giới thiệu một cách giải thích theo kiểu “trà dư tửu hậu” từ APEC mà ông Thomas Vallely, Giám đốc Chương trình Việt Nam tại trường John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard, khi trả lời phỏng vấn của Vietnamnet có nhắc đến – “A Perfect Excuse to Chat”. Nghĩ lại cũng đúng, diễn đàn APEC là nơi các nhà lãnh đạo trao đổi thoải mái về nhiều vấn đề cả đa phương lẫn song phương, không có giá trị ràng buộc. (TBKTSG, ngày 23-11-2006) Quen mà lạ Theo dõi các bản tin thời sự bằng tiếng Anh, đôi lúc chúng ta gặp những từ hay cụm từ, đọc trong văn cảnh thì hiểu nhưng giải thích hay diễn đạt cho gọn và chính xác bằng tiếng Việt thì khó. Lấy một ví dụ đơn giản nhất: Với câu “the $4 generic drug prescription has arrived at Target stores nationwide”, chúng ta có thể hiểu generic drug là dược phẩm có cùng công thức với thuốc có bản quyền (biệt dược), được sản xuất và bán với giá rẻ sau khi bản quyền biệt dược ấy đã hết hạn. Nhưng dịch bằng “thuốc nhái” thì không chính xác; “thuốc gốc” – không ai hiểu; “thuốc không nhãn hiệu” – lại càng dễ gây hiểu nhầm. Hiện đã xuất hiện một số từ có thể chấp nhận được như “thuốc thế phẩm”, “thuốc phiên bản”. Tờ New York Times vừa có một bài hay về chính sách đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc mang tựa đề: China vs. U.S.: Democracy Confronts Harmony. Stay Tuned. Cụm từ stay tuned thường được dùng trong các chương trình phát thanh, đại khái muốn nói còn nhiều cái hay nữa xin mời quý vị thính giả giữ nguyên tần số này, đừng chuyển sang đài khác. Ở đây ý của tựa đề muốn nói sự đối chọi giữa chính sách “dân chủ” của Mỹ và “hài hòa” của Trung Quốc sẽ còn nhiều chuyển biến và tác động trong thời gian tới, nên theo dõi. Việc diễn đạt cụm từ stay tuned này sang tiếng Việt cho ngắn gọn là điều khó. Tuần này hãy thử lấy một bài trên tờ Wall Street Journal để phân tích cái quen mà lạ này – một yếu tố gây khó cho những người học tiếng Anh ở nước ta vì đã quen lối văn của sách giáo khoa. Bài báo “Textile Fiasco” bắt đầu bằng cách nhắc lại chuyện PNTR với Việt Nam chưa được Hạ viện Mỹ thông qua để tô đậm thêm: “But this failure is an even bigger fiasco than it appears because of the White House’s pandering to the U.S. textile industry”. Pander là cố thỏa mãn, chiều theo một ai đó; ở đây tác giả chuẩn bị trước cho người đọc thấy cách Nhà Trắng chiều chuộng ngành dệt của Mỹ. Trong câu tiếp theo – It’s a case study in how protectionists never stay bought – chú ý cách dùng cụm từ stay bought. Bought ở đây là bị mua chuộc, đã dàn xếp có qua có lại, stay bought là đã thỏa mãn nên bây giờ ngồi yên, không phản đối nữa. Nhưng qua vụ PNTR vừa rồi, rõ ràng những người vận động hành lang cho xu hướng bảo hộ không chịu ngồi yên nên mới có câu “how protectionists never stay bought”. Nguyên do là trước đó, Chính phủ Mỹ đã nhượng bộ ngành dệt nội địa, cụ thể, “it agreed to allow quotas to be reimposed if there are import surges in Vietnam textiles to the U.S. once the deal is implemented”. Reimpose là tái áp đặt [hạn ngạch] và import surges là có sự gia tăng đột biến trong lượng hàng nhập khẩu. Thấy thế chưa đủ, Nhà Trắng còn đồng ý “self-initiate anti-dumping investigations” against Vietnamese apparel under certain circumstances. Trong các vụ kiện bán phá giá, thông thường các nhà sản xuất đứng ra khởi kiện, động từ thường dùng là initiate an action, nhưng trong trường hợp này, Chính phủ Mỹ sẽ là người khởi xướng các vụ điều tra chống bán phá giá đối với hàng may mặc từ Việt Nam trong một số trường hợp, nên mới có cụm từ self-initiate. Cả hai từ “initiate” và “action” trông quen thuộc nhưng ở đây dùng theo nghĩa khác nên thành lạ. Tờ Wall Street Journal phán: The government declared that it will serve as the textile lobby’s protectionist front man. Từ một tiếng lóng trong âm nhạc, chỉ người ca sĩ chính của một ban nhạc, front man nay mang nghĩa “kẻ đưa đầu chịu báng”, người đại diện theo nghĩa xấu. Tờ báo phê phán ai đời nhà nước đi làm thay doanh nghiệp chuyện kỳ lạ thế và còn bổ sung: More amazing still, the U.S. textile industry doesn't compete with apparel that American retailers import from Vietnam. Chú ý: chúng ta thường dùng từ garment (đếm được) để chỉ quần áo nhưng từ này thường đi kèm với từ khác chứ ít khi đi một mình (ví dụ: a garment factory); ở đây họ dùng từ chung hơn là apparel (không đếm được). Đúng là một bên ngành dệt một bên ngành may, cớ gì lại sợ cạnh tranh nhau. Bài báo so sánh: It would be as if the U.S. agreed to protect U.S. car makers against a surge in foreign automobile tires. Bảo hộ như thế tạo ra một tiền lệ nguy hiểm và trái với quy định của WTO. Nguyên nhân do đâu? Theo bài báo, What’s going on is that the U.S. textile industry is trying to protect its interests not in the U.S. but in Central America. Hóa ra khách hàng của ngành dệt ở Mỹ là các nhà sản xuất quần áo ở Trung Mỹ, nếu họ không cạnh tranh nổi với hàng nhập từ Việt Nam thì ngành dệt làm sao bán sản phẩm cho họ. Thật ra, hàng may mặc từ Việt Nam cũng mua vải dệt của Mỹ đấy chứ. Một từ được nhắc đến trong bài này và trong hàng loạt các bài báo gần đây là từ “lame-duck”. Một ông tổng thống đã thất cử nhưng vẫn điều hành chính phủ trong lúc chờ ông tổng thống mới lên nhậm chức gọi là “a lame-duck President”. Một quốc hội có nhiều nghị sĩ sẽ phải ra đi nhường chỗ cho những nghị sĩ mới đắc cử sẽ bắt đầu từ nhiệm kỳ mới sắp tới gọi là “lame-duck Congress”. Nghĩa bóng là vậy nhưng gọi là vịt què theo nghĩa đen e rằng chưa chính xác lắm. (TBKTSG, ngày 30-11-2006) Tiếng Anh và tử vi Thật là một ngạc nhiên thú vị khi biết Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố một công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học người Việt về… tử vi và số mệnh con người. Trong tài liệu dài 37 trang mang tựa đề “Superstition, Family Planning, and Human Development” của hai ông, TS. Đỗ Quý Toàn (WB) và ThS. Phùng Đức Tùng (Tổng cục Thống kê), các tác giả đã nghiên cứu tác động của tâm lý mê tín của người dân Việt Nam lên chuyện sinh con và rút ra kết luận những đứa sinh vào “năm tốt” hóa ra vừa có sức khỏe tốt hơn, lại được học hành đến nơi đến chốn hơn. Xin nói ngay, đây không phải là chuyện đoán số tử vi vì hai tác giả, trong phần abstract (tóm tắt) đã nhận xét: “In a society in which superstition is widespread, children born in auspicious years are more likely to have been planned by their parents, thus benefiting from more favorable financial, psychological, or emotional conditions for better human development”. Như vậy yếu tố kế hoạch hóa gia đình (nhân đó, chọn năm tốt để sinh con) dẫn đến sự chuẩn bị tốt về điều kiện tài chính, tâm lý, tình cảm nên trẻ có cơ hội tốt hơn để phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Ở đây, chúng ta chỉ lấy công trình nghiên cứu rất công phu này để tìm hiểu xem những khái niệm chấm số tử vi thường nghe được diễn đạt như thế nào bằng tiếng Anh mà thôi. Trước hết, “năm tốt” là auspicious years: “We find that birth cohorts in auspicious years are significantly larger than in other years” (cohort là từ trong ngành thống kê, chỉ nhóm người, quần thể, đoàn hệ). Theo các tác giả, số trẻ sinh vào năm tốt cao hơn các năm khác bình quân đến 7% – Years that are believed to bring good luck to either boys or girls have birth cohorts on average 7 percent larger than other years. Hai khái niệm cơ bản trong tướng số là Yin và Yang (Âm – Dương): “Yang is as positive, masculine, left, high and tough as Yin is negative, feminine, right, low and soft”. Chú ý cấu trúc so sánh trong câu trên, mang nghĩa trong khi… còn… Ví dụ: Alice is as beautiful as Mary is smart. Ngoài ra còn có ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ – the tension between Yin and Yang was related to the five elements: Metal, Wood, Water, Fire and Earth. Năm Âm lịch thường có hai yếu tố: Can (Gan – a celestial prefix) và Chi (Zhi – a terrestrial appellation). There are 12 terrestrial appellations also known as zodiac animals (Rat, Ox, Tiger,…), while a celestial prefix is a combination of Yin or Yang and one of the five elements, yielding a total of 10 prefixes. Có các từ terrestrial và celestial là vì từ chính thức người ta dùng Thiên Can và Địa Chi. Đáng chú ý là tử vi của Tàu gán năm Mão là con thỏ trong khi người Việt cho nó là con mèo. Ghép 10 Thiên Can và 12 Địa Chi, chúng ta sẽ có chu kỳ 60 năm, như Giáp Tý, Ất Sửu… Tử vi, tướng số là xem giới tính của trẻ có hợp với năm sinh không, dựa vào nhiều yếu tố. For example, a year characterized by Yin is on average more compatible with girls than with boys, while the reverse holds for Yang years. Compatible ở đây là hợp, còn hold for ở đây là trong trường hợp. Thực tế thì phức tạp hơn nhiều, như các tác giả nhận xét: A complete astral theme would also look at parents dates and times of birth and their compatibility with their childs to refine the horoscope. A complete astral theme ở đây là chấm số tử vi đầy đủ. Trong nghiên cứu này, có những từ tiếng Anh không liên quan đến tướng số nhưng cũng đáng chú ý. Các tác giả dùng từ marginal child defined as the child who would be born in the absence of an abortion ban – tức là đứa con “vỡ kế hoạch” để đối chiếu với đứa con “nằm trong kế hoạch” – planned child và đặt câu hỏi: Are “wanted” and “unwanted” children treated equally by their parents? Câu hỏi này cũng chính là đề tài của công trình nghiên cứu. Phương Tây cũng có horoscope, nhưng dựa vào vị trí của mặt trời (sun sign astrology) nên ta thường nghe hỏi: “Hey, what’s your sign?”. Một người nói: “I’m a Leo” có nghĩa anh ta sinh trong khoảng thời gian từ 24-7 đến 23-8. Hàng ngày, có hàng ngàn tờ báo hay website chuyên đoán số tử vi loại này và những tờ nào “dí dỏm” đoán theo kiểu hài hước tự đặt tên mục này là humorscope. Ví dụ: Capricorn (December 22 – January 20): You will accidentally step on someone's foot, and they will say “Ow!.” That's when I usually say “No pain, no gain”. Thật ra, ở những tờ báo lớn, những website có uy tín như Yahoo! các mục tử vi đoán số này do những chuyên gia tâm lý đảm trách. Họ viết sao cho ai đọc vô cũng thấy đúng cho mình. Một cây bút kỳ cựu mục này từng viết: “People are looking at the horoscope like they would a weather report or a stock report. What's up today? Basically is it a good day or a bad day? If it's a bad day, what do I need to know to get around it?”. Thỏa mãn được tâm lý tò mò này phải nói là đại giỏi. (TBKTSG, ngày 7-12-2006) Không thể chỉ dựa vào từ điển Một trong những khó khăn cho người học tiếng Anh ngày nay là tình trạng thiếu từ điển Anh-Việt đầy đủ, có cập nhật từ mới hay nghĩa mới. Sử dụng các cuốn từ điển được biên soạn dù công phu đến đâu nhưng đã cũ trên chục năm thì chắc chắn sẽ không tìm ra nhiều từ được sử dụng thường xuyên trên báo chí Anh-Mỹ. Xin lấy các tạp chí quen thuộc ra vào tuần trước để minh họa. Tờ Time có bài mang tựa đề: “How Abe lost his groove”. Các từ điển chỉ ghi groove là đường rãnh nòng súng, đường rãnh đĩa hát… chứ chưa bổ sung nghĩa mới của từ này là “A situation or an activity that one enjoys or to which one is especially well suited”. Vì thế nghĩa của tựa đề trên có thể hiểu thành: “Vì sao thời kỳ trăng mật của [Thủ tướng] Abe [với dân Nhật] lại chóng qua”. Ngay cả cụm từ in the groove được các từ điển giải nghĩa là trơn tru nhưng trong câu sau, hiểu như thế không chính xác: “If you want to be in the groove this summer, you’ll need a bikini”. In the groove trong câu này là in the popular fashion (hợp thời trang, đúng mốt). Hoặc lấy câu này: “To become a player in the search world, Technorati focused on the growing blogosphere”, chắc chắn chưa có cuốn từ điển nào cập nhật nghĩa của một từ mới xuất hiện – “blog” (nhật ký trên mạng), nói gì đến cách ghép chữ blogosphere (thế giới các blog). Khi viết về chuyện đồng đô la Mỹ mất giá, tờ này viết: “American Christmas shoppers in Paris aren’t the only ones suffering from sticker shock”. Các từ điển cùng lắm cũng chỉ giải thích sticker là miếng dán, nhãn dính… nhưng sticker shock ở đây phải hiểu là cú sốc vì giá [tăng]. Nhân dịp tuần rồi có nhiều tin bài liên quan đến Việt Nam, chúng ta thử xem có câu nào không thể chỉ dựa vào từ điển Anh-Việt để hiểu cho thấu đáo không. Phát biểu nhân dịp lưỡng viện Quốc hội Mỹ thông qua quy chế PNTR với Việt Nam, Tổng thống Bush nói: “This designation will advance our trade and investment relations with Vietnam and ensure that the United States shares in the economic benefits [of Vietnam's entry to the WTO]. Nghĩa của câu này không có gì đặc biệt ngoài từ designation – ở đây là sự thừa nhận, công nhận [tình trạng quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn]. Chú ý trong các bản tin, người ta thường dùng cụm từ Vietnam trade measure để thay cho từ bill (dự luật). Measure có nghĩa chung hơn vì có thể là bill và cũng có thể là resolution (nghị quyết) hay một memorial (kiến nghị). Nghĩa này không tìm thấy trong các từ điển Anh-Việt. Xin nhắc lại – một dự luật được Tổng thống Mỹ ký ban hành thì mới gọi là Act (đạo luật). Tuần qua, Liên hiệp quốc cũng tuyên bố sẽ chọn Việt Nam làm nơi thí điểm “cải cách hành chính” bản thân tổ chức này. Điều này là bởi ở Việt Nam có đến 11 tổ chức của LHQ đóng trong 10 trụ sở khác nhau. Bản tin viết về quyết định này bình luận: “The announcement follows renewed efforts globally by the U.N. to cut duplication and turf battles that waste money and resources for the poor, refugees, victims of natural disasters, food, health and environmental programs”. Turf là lãnh địa – turf battles là các cuộc đấu đá giành quyền lực, ảnh hưởng. Cũng trong dịp này, tạp chí Far Eastern Economic Review có một bài dài về chiến lược phát triển của Việt Nam. Trong câu: The country has taken the much traveled road of allowing foreign direct investment to flow in and drive exports thì taken the much traveled road là đi theo con đường nhiều nước khác đã đi. Còn với câu “This strategy, coupled with strong government infrastructure spending has produced very good outcomes in the past 20 years of doi moi”, chính sách kích cầu đầu tư được diễn đạt thành strong government infrastructure spending (đầu tư ngân sách mạnh cho cơ sở hạ tầng). Một trong những đặc điểm trong một flight plan (chiến lược cất cánh) cho Việt Nam theo tờ tạp chí này là: Vietnam should make sure that its comparative advantages in a market economy are in specific areas that do not target mass markets in the way Chinese comparative advantage does”. Câu này ý nói Việt Nam phải phát huy lợi thế so sánh ở các lĩnh vực cụ thể (phân khúc thị trường riêng) chứ đừng nhắm đến thị trường đại chúng như kiểu Trung Quốc. Mặc dù đưa ra những dự báo tốt cho nền kinh tế Việt Nam trong vài ba năm tới, tác giả cũng có lời cảnh báo: Of course, there is always the possibility of Vietnam being beset by hubris”. To be beset by hubris là “ngủ quên trên chiến thắng”. In this scenario Vietnam does little to try to exert itself but instead sits proudly on its current achievements and becomes a hard-toplease player in the globalized world. Trong các dự báo, người ta thường dùng từ scenario (kịch bản) để đưa ra những giả định. Cái kịch bản “tự mãn” này có thể làm nảy sinh tâm lý “nhà đầu tư cần mình, chứ mình cần gì nhà đầu tư” mà tác giả diễn đạt thành “a hard-toplease player”. (TBKTSG, ngày 14-12-2006) Chuyện học và dạy Đã vào mùa tuyển sinh của các trường đại học Anh-Mỹ và báo chí ở các nước này cũng bắt đầu đề cập đến những vấn đề muôn thuở của giáo dục đại học, năm nay nổi lên chuyện “chất lượng” hay “công bằng”. Về mặt ngôn ngữ, có lẽ nên bắt đầu bằng cụm từ “affirmative action” như trong câu: “When elite colleges began practicing affirmative action in the late 1960s and 1970s, they gave an admissions boost to Asian-American applicants as well as blacks and Hispanics”. Dưới áp lực của các phong trào đòi bình đẳng, bỏ kỳ thị chủng tộc, các trường học, cơ quan, doanh nghiệp chủ trương ưu tiên cho người da màu trong tuyển sinh, tuyển dụng… với sự châm chước về mặt chất lượng – gọi là affirmative action. Sau một thời gian, chủ trương này lại bị phê phán là một hình thức kỳ thị khác nên bị bãi bỏ, thậm chí còn quay sang hướng ngược lại. Thế là “mèo lại hoàn mèo”, nhiều sinh viên gốc Á kiện các trường đại học Mỹ không công bằng trong tuyển sinh. Một trong những vụ kiện như thế do anh Jian Li, một người Mỹ gốc Hoa, khởi xướng đang thu hút sự chú ý của báo chí Mỹ. Despite racking up the maximum 2400 score on the SAT and 2390 – 10 points below the ceiling – on SAT2 subject tests in physics, chemistry and calculus, Mr. Li was spurned by three Ivy League universities, Stanford University and Massachusetts Institute of Technology. Như vậy, anh chàng này học rất giỏi nhưng vẫn bị các trường từ chối (từ thường dùng là reject, báo chí dùng từ spurn cho ấn tượng hơn). Ivy League là từ để chỉ tám trường đại học nổi tiếng ở vùng Đông Bắc nước Mỹ, bao gồm các trường Brown, Columbia, Cornell, Dartmouth, Harvard, Princeton, the University of Pennsylvania, và Yale. Câu này còn thêm từ SAT cũng nên biết. Trước đây, người ta nói nó viết tắt từ Scholastic Aptitude Test rồi Scholastic Assessment Test (kỳ thi kiểm tra khả năng, năng khiếu học tập) nhưng bây giờ nơi tổ chức các kỳ thi này bảo nó là SAT chứ không viết tắt từ chữ gì cả! SAT giống như kỳ thi tuyển sinh đại học vì kết quả thi thường được các trường sử dụng để cân nhắc việc tuyển sinh; trường bình thường chỉ cần thi SAT (toán, tiếng Anh), trường “xịn” đòi thêm SAT II (nhiều môn). Điểm như anh chàng này mà bị từ chối thì cũng hơi lạ. Jian Li chọn trường Princeton để kiện với mục đích: His complaint seeks to suspend federal financial assistance to Princeton until the university “discontinues discrimination against Asian-Americans in all forms by eliminating race preferences, legacy preferences, and athlete preferences”. Race preferences thì đã rõ, legacy preferences là chủ trương của một số trường ưu tiên cho con em cựu sinh viên, còn athlete preferences là ưu tiên cho học sinh có năng khiếu thể thao, để nhờ đó mà “vinh danh màu cờ sắc áo” của trường. Vụ kiện đang được thụ lý nhưng dù sao, hiện nay Li vẫn đang học ở một trường danh tiếng không kém Yale. Nhân vụ này, người ta công bố khảo sát xem thử học sinh Mỹ gốc Á có bị kỳ thị không và phát hiện: Asian applicants admitted to the University of Michigan in 2005 had a median SAT score of 1400 on the 4001600 scale then in use. That was 50 points higher than the median score of white students who were accepted, 140 points higher than that of Hispanics and 240 points higher than that of blacks. Câu này có từ median đáng chú ý, nên phân biệt với từ mean. Có một dãy số 2, 3, 3, 3, 4, 6, 7, 8, 9, chẳng hạn thì số nằm ở giữa dãy này (số 4) gọi là median; cộng chúng lại chia bình quân (5) thì ta có từ mean; và số xuất hiện nhiều lần nhất (số 3) gọi là mode. Tranh luận giữa chất lượng với công bằng cũng thường thấy ở giáo dục đại học các nước khác. “Last week, when a German government committee anointed three institutions as elite universities – a sort of Teutonic Ivy League – Karlsruhe made the cut while Heidelberg did not”. Từ elite (đẳng cấp cao, tinh hoa) thường bị “dị ứng” đến nỗi người ta hay nói: “Elite is a dirty word”. Nay vì cạnh tranh, Đức phải thừa nhận khái niệm này, xếp hạng ba trường thuộc diện Ivy League của Đức. Ở đây thành ngữ make the cut (được chọn, được giữ lại) thường được dùng trong việc chọn vào đội tuyển thể thao. Quyết định này đã “sent spirits soaring at Karlsruhe and swooning at Heidelberg” (một trường phấn khởi một trường xịu xuống) và cũng đã “set off a national discussion about the nature of excellence, the necessity of focusing on science and technology and the wisdom of culling the great from the merely good”. Chúng ta thấy người ta vẫn tranh luận về bản chất của “chất lượng cao”, về ưu tiên cho khoa học, kỹ thuật. Ở phần cuối câu trên có từ culling, thường gặp trong mùa cúm gà vừa qua vì nó được dùng để miêu tả chuyện “tiêu hủy đàn gia cầm”; ở đây cull được dùng theo nghĩa bình thường là chọn lọc. Kết quả của việc “Seeking quality, German universities scrap equality” là trước mắt, các trường, trước đây hoàn toàn miễn học phí, sẽ “charge tuition of 500 euros, or $630, per semester”. Mức học phí này xem ra vẫn còn quá rẻ so với các trường ở Mỹ. (TBKTSG, ngày 21-12-2006) Bài học cuối năm Chuyện thị trường chứng khoán Thái Lan xảy ra vào đầu tuần trước nhưng tuần này vẫn còn nhiều bài báo phân tích đủ góc cạnh vì nó gợi nhớ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á cách đây gần 10 năm. Có báo so sánh sự khác biệt: “Instead of being provoked by a strong U.S. currency, Thailand is reacting to a weak dollar. That speaks volumes about just how far the once-mighty greenback has fallen”. Như vậy, cả hai lần đều do đồng đô la Mỹ, ngày xưa mạnh, hôm nay yếu. Để tránh lập lại, người viết dùng ba từ U.S. currency, dollar, greenback và nếu cần có thể dùng hàng chục từ khác để chỉ đồng tiền của Mỹ. Các mệnh giá cụ thể cũng có nhiều từ lóng như 1.000 đô la được gọi là grand, 100 đô la gọi là C-note hay large (twenty large tức là 2.000 đô la). Trong câu trên có cụm từ speak volume – là một minh chứng hùng hồn, một bằng chứng rõ ràng. Có cả 10 năm để nhìn lại nên bây giờ người ta viết về cuộc khủng hoảng 1997 rất gọn. “In the 1990s, Thailand ran a large current account deficit for years… with few, if any, consequences”. Trong cán cân thanh toán (balance of payments) có hai khoản chính là current account (tài khoản vãng lai) và capital account (financial account) (tài khoản vốn); lúc đó Thái Lan bị thâm hụt tài khoản vãng lai nhưng không hề hấn gì vì tiền nước ngoài đổ vào không ngớt. Có tiền không biết làm gì, người ta đổ vào thị trường địa ốc, thị trường chứng khoán, làm cho đồng baht lẽ ra phải mất giá mạnh. “Yet Thailand stubbornly kept the baht fixed to a basket of currencies, of which the dollar was the biggest component”. Để diễn tả chủ trương gắn đồng tiền một nước vào đồng tiền một nước khác, ngoài từ fix như trên, người ta còn thường dùng từ peg. Câu “Pegged renminbi an effective subsidy” phải hiểu thành đồng nhân dân tệ được gắn chặt với đồng đô la Mỹ thực tế là một dạng trợ cấp. Khủng hoảng nổ ra khi “Speculators saw opportunity and pounced. They placed massive bets that Thailand wouldn’t be able to maintain the value of its currency”. Từ pounce thường dùng để chỉ chuyện “mãnh thú vồ mồi” ở đây rất ấn tượng nhưng chuyện cá cược phải hiểu theo nghĩa bóng: Khi đoán trước đồng baht sẽ mất giá, giới đầu cơ “cược” bằng cách vay tiền baht rồi đổi ra tiền đô. Ví dụ vay 40 triệu baht mua 1 triệu đô la Mỹ, khi đồng baht mất giá, họ bán 1 triệu đô được 50 triệu baht, chẳng hạn, và bỏ túi gần 10 triệu baht tiền “thắng cược” sau khi trả lại 40 triệu baht và một ít chi phí. Rất dễ đoán hậu quả: “The country’s central bank watched its currency reserves plummet”. Sau khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, Thái Lan lúc đó đành tuyên bố thả nổi đồng baht. Đồng tiền này ngay lập tức sụt mất 20% còn thị trường chứng khoán đến cuối năm đó, sụt mất hơn một nửa. Lần này, tiền nước ngoài cũng đổ vào Thái Lan nhưng đó là do đồng đô la Mỹ suy yếu nên đồng baht tăng giá quá mức chịu đựng của nhà xuất khẩu. Chính quyền Thái Lan đã có một quyết định mà tờ The Nation gọi là “The 820 Billion Baht Blunder”: “30 percent of foreign exchange brought into the country, excluding funds from exports, would have to be put in a non-interest bearing account for one year”. Có biện pháp này, gọi là capital controls, là vì trong một tuần đầu tháng 12, có đến 950 triệu đô la đổ vào thị trường chứng khoán so với mức 300 triệu đô la mỗi tuần trong tháng 11. Tờ The Nation đặt tít như vậy là bởi ngay sau đó, “Thailand’s SET index shed 15 percent of its value, or $22.9 billion, equal to 820 billion baht”. Ở đây cần lưu ý, báo chí nói sau đó Chính phủ Thái Lan đành phải hủy bỏ lệnh hôm trước nhưng thật ra chỉ bỏ một phần: “Finance Minister Pridiyathorn Devakula said curbs on foreign investment in bonds and other debt instruments would remain”. Debt intruments là các loại giấy nợ như bills, bonds, notes, CDs, commercial paper, and banker's acceptances. Trái phiếu (bond) là từ nói chung, ngắn hạn dưới một năm gọi là bill, trung hạn gọi là note, kỳ hạn dài hơn 10 năm gọi là bond, CD là chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit). Như vậy đưa tiền vào Thái Lan mua bán cổ phiếu thì được nhưng mua bán trái phiếu và các loại giấy nợ khác thì vẫn phải giữ lại 30% trong tài khoản không tính lãi. Mặc dù sau đó thị trường chứng khoán Thái Lan có phục hồi nhưng cái mất lớn hơn nằm ở chỗ khác. Đại diện một ngân hàng nhận xét: “Policy decision-making seems to be at odds with the workings of capital market”. To be at odds with là chỏi với; còn workings ở đây là cơ chế vận hành. Một nhận xét khác: “The fact that a lot of portfolio money has come to Asia makes them that much more vulnerable to any sudden policy changes”. Portfolio money là tiền đầu tư gián tiếp. Đây là những góc nhìn từ nhà đầu tư, đồng tiền liền khúc ruột; còn hiện tượng các nước châu Á hiện nay bị trở thành con tin của đồng đô la yếu và dòng chảy vốn đầu tư toàn cầu như thế nào xin trở lại vào dịp khác. (TBKTSG, ngày 28-12-2006) Dịch hay không? Nhiều người cứ tưởng cách hiểu tiếng Anh nhanh nhất là dịch sang tiếng Việt trước đã. Chính sai lầm này là trở ngại lớn nhất cho người Việt học tiếng Anh vì hiểu không liên quan đến dịch và dịch là một kỹ năng khó, hầu như không cần thiết nếu chỉ học một ngoại ngữ để sử dụng chứ không phải đi làm phiên dịch viên. Xin lấy chương đầu tiên của cuốn Eat the Rich nổi tiếng của P. J. O’Rourke làm ví dụ. Đây là một cuốn sách về kinh tế nhưng được viết với giọng văn dí dỏm, châm biếm rất có duyên nên đọc rất lôi cuốn, dù đồng tình hay phản đối những lập luận của người viết. Tác giả mở đầu bằng thắc mắc: “Why do some places prosper and thrive while others just suck?”. Nếu gắng dịch câu này, đến từ suck, chắc ta sẽ bị khựng lại liền. Suck là một từ dạng thông tục, trong khi nghĩa chính thức là bú, mút thì nghĩa thông tục của nó rất đa dạng. Thức ăn dở quá – it sucks; bộ phim quá tệ hại – it sucks… nói chung chê cái gì, người ta thường nói it sucks. Như vậy, đâu cần dịch câu trên làm gì cho mệt, chỉ cần hiểu tác giả tự hỏi vì sao có nước, có vùng ngon lành, có nơi lại lụn bại, không ngóc đầu lên nổi là đủ. Khi đã nhận ra cách đặt vấn đề của tác giả, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa của các câu sau đó – chỉ để làm rõ ý trên. It’s not a matter of brains. No part of the earth is dumber than Beverly Hills, and the residents are wading in gravy. Nếu cố gắng, ta sẽ dịch được câu: “Đấy không phải là vấn đề trí khôn. Không có nơi nào trên trái đất này ngu ngốc hơn Beverly Hills nhưng dân ở đấy đang sống trong nhung lụa”. Dịch như vậy cũng không giúp gì cho việc hiểu câu văn mà còn có nguy cơ làm ý tác giả bị hiểu sai. O’Rourke muốn chọc quê dân nhà giàu ở khu Beverly Hills sang trọng gần kinh đô điện ảnh Hollywood, nơi ở của các minh tinh màn bạc, rằng họ chỉ là những con búp bê xinh đẹp mà không có đầu óc. Gravy nghĩa đen là nước xốt thịt nhưng nghĩa bóng là tiền bạc, của cải, có đôi chút hàm ý phi pháp. Thử đọc tiếp, chúng ta sẽ thấy các câu sau vẫn tiếp tục mạch văn châm biếm này: “In Russia, meanwhile, where chess is a spectator sport, they’re boiling stones for soup”. Cả hai lối so sánh hàm hồ này chỉ để minh họa ý tưởng: chỉ số thông minh của một dân tộc không quyết định dân tộc đó phát triển mạnh hay không. Khi nhận ra mạch văn, chúng ta cũng dễ đoán nghĩa của các cụm từ mơ hồ: “Maybe culture is the key, but wealthy regions such as the local mall are famous for lacking it”. Ở đây ý tác giả muốn “khều” nhẹ rằng các trung tâm mua sắm, dù bề ngoài rất hào nhoáng, lại là nơi thiếu văn hóa! Một câu khác: “In 1000 B.C., when Europeans were barely using metal to hit each other over the head, the Zhou dynasty Chinese were casting ornate wine vessels big enough to take a bath in. Yet, today, China stinks”. Để bác bỏ yếu tố văn minh trong việc giúp một đất nước trở nên thịnh vượng hay không, tác giả so sánh dân châu Âu cách đây khoảng 3.000 năm còn bận đâm chém nhau với vũ khí thô sơ thì người Trung Hoa dưới triều nhà Chu đã biết làm các vại rượu khổng lồ có hoa văn công phu. Chữ stink vừa dùng theo nghĩa đen để nối với cái ý “take a bath” vừa dùng theo nghĩa bóng để chê Trung Quốc ngày nay. Câu này làm sao dịch cho hết ý! Ngay cả tựa sách Eat the Rich cũng rất khó dịch vì nó là một dạng “đồng dao”: Eat the rich, kill the poor, screw every other sonofabitch. Nếu chúng ta đã đồng ý với nhau, dịch là công đoạn không cần thiết khi đọc để hiểu tiếng Anh, hãy thử đọc một bài báo ngắn trên tờ The Economist số ra tuần rồi về dự báo thị trường chứng khoán năm 2007. “Investors are enthusiastic about buying fixed-income assets, even though yields are low by historical standards”. Vì thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động cách đây mấy năm nên nhiều khái niệm chưa có tiếng Việt tương đương, càng tốt cho lời khuyên không cần dịch. Chẳng hạn fixed-income assets phải hiểu là các công cụ đầu tư đem lại tiền lãi ổn định, ở đây muốn nói chủ yếu đến các loại trái phiếu. Như vậy câu trên có thể hiểu là nhà đầu tư hiện thích mua trái phiếu [hơn cổ phiếu] cho dù lợi suất thấp hơn so với trước đây. Một câu khác: “Emerging-market bond spread are close to all-time lows”. Lợi suất (yield) của trái phiếu ở những thị trường mới nổi lúc nào cũng cao hơn lợi suất của trái phiếu Chính phủ Mỹ – chênh lệch giữa chúng gọi là spread. Hiểu được khái niệm này rồi, chúng ta sẽ thấy phần đầu câu trên có nghĩa mức chênh lệch này hiện đang ở mức rất thấp – tức là trái phiếu của các nước đang phát triển cũng không hấp dẫn gì lắm. Nhưng “pension funds and insurance companies in the developed world have become more cautious and are increasingly buying bonds in an attempt to match their liabilities”. Đương nhiên rồi, cẩn thận thì mua trái phiếu an toàn hơn cổ phiếu, để có gì vẫn còn những khoản chắc ăn, bù cho các khoản phải chi trả. (TBKTSG, ngày 4-1-2007) Nóng chuyện tỷ giá Chuyện tỷ giá giữa các đồng tiền không chỉ là đề tài của báo chí ở Việt Nam mà còn nóng ở nhiều nước khác. Thật ra, vấn đề không phải là tỷ giá mà như tờ Economist viết: “Worldwide, an abundance of liquidity has lured investors into riskier assets in search of higher returns”. Thông thường, liquidity được hiểu là tính thanh khoản, tức là mức độ dễ dàng chuyển các loại tài sản thành tiền mặt, ở đây là sự dồi dào đồng tiền “nhàn rỗi”. Và hệ lụy của việc thế giới dư thừa tiền, cụ thể ở đây là đô la Mỹ, là việc các nước châu Á phải đối diện một tình thế tiến thoái lưỡng nan: how to curb domestic liquidity when foreign capital is flooding in. Tiền ở ngoài đưa vào phải chuyển thành nội tệ nên sẽ xảy ra tình trạng cung nội tệ tăng lên tức là domestic liquidity. Về lý thuyết, có những biện pháp “chống đỡ” tình trạng này. Một là để cho đồng tiền trong nước tăng giá như đã xảy ra ở Thái Lan. Nhưng, tờ Economist bình luận: “Thailand could have allowed the baht to rise further, but it had already gained against all other Asian currencies last year, raising concerns about exporters’ competitiveness”. Tiền tăng giá có thể diễn đạt bằng các từ rise, gain, strengthen, appreciate; mất giá là depreciate. Một cách khác, “Some economists argue that Thailand should simply have cut interest rates to stem capital inflows, making bonds less attractive to foreign investors”. Argue ở đây không phải là tranh cãi mà chỉ là lập luận, cho rằng, nhận định rằng. Cắt giảm lãi suất tức là triệt tiêu cái “higher returns” nói ở đoạn đầu. Nhưng cả hai cách trên đều không ổn vì: “Lower interest rates would simply add to the problem, generating higher credit growth, inflation and asset prices. Similarly, central-bank intervention to hold the baht down by buying dollars would also boost the money supply”. Lãi suất thấp, người ta sẽ vay tiền nhiều hơn (higher credit growth), cuối cùng tiền trong lưu thông sẽ tăng thêm (boost the money supply). Chẳng lạ gì khi tờ báo này cho biết: “Other Asian countries are also looking for ways to discourage foreign capital inflows”. Thật là chuyện trái ngược, trước đây các nước trải thảm đỏ mời mọc, nay tìm cách ngăn chặn dòng vốn nước ngoài chảy vào. Ví dụ, “In December South Korea raised reserve requirements on foreign currency debt to make it harder for banks to borrow from abroad”. Câu này ý nói Hàn Quốc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ (chú ý từ debt ở đây là tiền gửi). Họ còn làm mạnh hơn bằng cách khuyến khích các ngân hàng và doanh nghiệp vay đô la từ Ngân hàng Trung ương để đầu tư ra nước ngoài. “Banks can exchange up to $5 billion worth of Korean currency into dollars at the central bank and invest the money in overseas securities markets”. Cho nên nếu ta thấy có một số quỹ đầu tư Hàn Quốc nhảy vào thị trường chứng khoán Việt Nam thì cũng đừng lấy làm lạ. Còn, “China has kept its restrictions on portfolio capital inflows, helping it to hold down its exchange rate”. Trong khi đó, giới đầu tư tài chính vẫn còn đủ “ngón nghề”, như hình thức “carry trade” – tức là vay bằng loại tiền có lãi suất thấp như đồng yen, chuyển sang tiền có lãi suất cao để đầu tư. Vì những diễn tiến này cho nên chúng ta sẽ thường đọc thấy những mẩu tin như: Government mulls issue of US$1 billion in currency stabilization bonds (tính chuyện phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm ổn định tỷ giá); Countries with large holdings of dollars in their foreign-exchange reserves are showing a new willingness to dump the dollar in favor of the rising euro (chuyển dự trữ ngoại tệ bằng đô la sang euro)… Buồn cười là một số báo đưa tin: “Anecdotal evidence suggests that drug dealers and money launderers now prefer euros to dollars”. Anecdotal evidence là các bằng chứng riêng lẻ, rải rác theo kiểu “giai thoại” chứ không phải dựa trên khảo sát khoa học. Ở thế giới ngầm, giới giang hồ chọn loại tiền nào chứng tỏ tiền đó ổn định nhất. Riêng ở Việt Nam, tờ Wall Street Journal đưa tin: “Vietnam widened the trading band for its currency, a move observers said is part of a long-term effort by the country to liberalize its currency regime but that won’t lead to strengthening in the dong”. Trading band là biên độ giao dịch, được nới lỏng từ cộng trừ 0,25% lên 0,5%. Tuy nhiên, tờ báo này cũng nhận định, về ngắn hạn, “the latest move may be tied more to short-term shortages in the supply of dong than longer-term goals”. Thiếu tiền đồng là vì dòng vốn trực tiếp, gián tiếp đổ vào nhiều, Ngân hàng Nhà nước mua không hết nên có động thái nới lỏng biên độ giao dịch. Về dài hạn, tờ báo này cho rằng: “The central bank is expected to continue to push its daily parity rate lower to weaken the dong over the long term”. Daily parity rate ở đây chính là tỷ giá bình quân liên ngân hàng hàng ngày; to push… lower đôi lúc được diễn đạt ngược lại trong tiếng Việt nên chú ý kẻo nhầm. (TBKTSG, ngày 11-1-2007) iPhone gây chấn động Chưa từng thấy chuyện một hãng giới thiệu một chiếc điện thoại di động mới mà báo chí khắp thế giới lại tranh nhau đưa tin, viết bài bình luận sôi nổi, kể cả các tờ báo lớn, chuyên bàn chuyện “đại sự”. Ấy là chuyện “Apple drops a bombshell with iPhone” như tít rất chân phương của CNN hay tít rất độc đáo của International Herald Tribune: “The thingamabob that does the job is Apple's new iPhone”. Bombshell ngoài nghĩa quả bom ra còn có nghĩa một cú ngạc nhiên gây choáng váng. Còn thingamabob hay thingamajig được dùng khi ta không biết dùng từ gì để diễn tả nó – theo kiểu “cái đó đó”. Trước hết, cần nhớ chiếc điện thoại này đến tháng 6-2007 mới bán ở Mỹ, dân châu Á phải đợi đến đầu năm 2008 mới có mà mua. Từ để diễn tả một vật chỉ mới ở dạng phiên bản mẫu, chưa sản xuất đại trà là prototype: “The iPhone is still in an advanced prototype stage”. Khi viết: “The name iPhone could be doing Apple a disservice”, ý của tác giả muốn nói hai chuyện – tranh chấp tên iPhone mà hãng Cisco cũng đang sử dụng cho sản phẩm của họ và, ý này mạnh hơn, tên iPhone chưa nói lên hết tính năng của thiết bị này. (Nếu tra cứu từ điển và thấy họ giải thích to do somebody a disservice là báo hại ai, chơi khăm ai một vố, thì chính cuốn từ điển này báo hại bạn vì có thể làm bạn hiểu sai). Những người được sử dụng thử chiếc iPhone không tiếc lời khen ngợi: “The iPhone’s beauty alone would be enough to prompt certain members of the iPod cult to dig for their credit cards”. Đấy là nói về hình thức bên ngoài; trong câu này có cụm từ iPod cult là những người say mê iPod và dig for their credit cards là dốc tiền ra mua (kể cũng lạ, thành ngữ thông dụng thời trước là dig [deep] into their pockets). Quan trọng hơn là chức năng bên trong: “But its Mac OS X-based software makes it not so much a smart phone as something out of the film Minority Report”. Hệ điều hành của máy Mac là OS X, cả câu ý nói nhờ các phần mềm chạy trên nền OS X, iPhone không chỉ đơn thuần là một chiếc điện thoại thông minh mà còn là một thiết bị như từ trong bộ phim khoa học viễn tưởng Minority Report đi ra. Trong bộ phim này của đạo diễn Steven Spielberg, nhân vật chính do Tom Cruise đóng, điều khiển các màn hình ảo bằng các ngón tay. BBC trích lời một chuyên gia rằng: “Steve Jobs is right when he says that no one wants a stylus”. Chắc các bạn đã từng thấy nhiều người sử dụng cây bút chọt lên màn hình cảm ứng của loại điện thoại PDA, cái đó gọi là stylus. Một người khác có ấn tượng mạnh về chức năng “automatically detects when the user has rotated the device from portrait to landscape and changes the contents of the display accordingly”. Các từ portrait (màn hình đứng) landscape (màn hình ngang) chắc đã quá quen thuộc với dân yêu thích tin học nhưng những người thuộc thế hệ cũ ắt vẫn còn quen với nghĩa bình thường của chúng hơn (chân dung và phong cảnh). Thấy các báo khác khen quá nên một tác giả sốt ruột tự hỏi: “So is this iPhone hoopla only evidence of Apple's public-relations panache, or does it signal a seismic shift in the mobile communications market?”. Trong câu này có mấy từ đáng lưu ý: hoopla là quảng cáo rùm beng; panache là sự phô trương; và seismic shift ở đây là sự dịch chuyển gây chấn động, một sự chuyển hướng căn cơ. Chính tác giả này cũng phải trả lời: “Both, analysts say”. Bây giờ chúng ta hãy xem một tờ báo chuyên nghiệp bình luận như thế nào. Tạp chí PC World trong bài “20 Things We Don't Know About the iPhone” đặt vấn đề về giá. “Prices quoted by Jobs – $599 for the 8GB model and $499 for the 4GB phone – are the discounted prices that require a twoyear Cingular contract”. Ở các nước như Mỹ, giá chiếc điện thoại di động rẻ như cho không vì người mua phải ký hợp đồng một hay hai năm với hãng cung cấp dịch vụ và hàng tháng phải trả tiền thuê bao ở mức nào đó. Cho nên giá iPhone qua nhà cung cấp độc quyền Cingular chưa phải là giá thật. Từ đó, ta mới thường thấy các từ unlocked phone, tức là loại điện thoại “có trợ giá” này thường bị khóa mã, phải bẻ khóa mới dùng ở thị trường khác được. Một vấn đề khác PC World đặt ra là “How well will the iPhone sync with Windows applications?”. Các loại điện thoại thông minh thường kết nối để “đồng bộ hóa” với máy tính – động từ là sync, danh từ là synchronization. Có chuyện này vì Apple với Microsoft như mặt trời với mặt trăng từ lâu. Một câu hỏi thú vị khác là: “Will the iPhone kill sales of iPods?”. Ấy là vì Apple đang ăn nên làm ra nhờ doanh thu từ máy iPod nên nếu người dùng ngưng mua iPod để chờ iPhone thì liệu “Will investors conclude that Jobs's keynote was a big mistake if iPod profits go down the drain for two quarters?”. Keynote ở đây là nói gọn cụm từ keynote address; go down the drain là trôi sông, đổ biển. Hãy chờ xem. (TBKTSG, ngày 18-1-2007) Doanh nhân trong năm Tạp chí Fortune vừa bình chọn doanh nhân trong năm của châu Á trên số báo ghi ngày 22-1-2007. Đó là Tổng giám đốc Sunil Mittal của hãng điện thoại di động lớn nhất Ấn Độ – Bharti Airtel. Câu chuyện lập nghiệp của ông này rất thú vị nhưng ở đây chúng ta chỉ chú ý đến tiếng Anh dùng trong bài này. Trong câu dẫn vào bài, tác giả viết: “India’s Sunil Mittal has built a mobile-phone empire by turning outsourcing on its head”. Cụm từ to turn something on its head là thay đổi hoàn toàn, làm chuyện ngược lại. Từ outsourcing là một từ thời thượng, thường hiểu theo nghĩa các công ty phương Tây chuyển một số công đoạn sản xuất hay dịch vụ sang các nước đang phát triển như Ấn Độ để tiết kiệm chi phí. Nhưng Mittal làm ngược, outsourcing công việc của mình cho các hãng phương Tây! Hai câu sau sẽ làm rõ ý đó: “In 2004 he signed contracts worth $400 million to hand over operation of Bharti’s entire phone network to Sweden’s Ericsson, Germany's Siemens and Finland’s Nokia”. Như vậy ông ta giao việc điều hành mạng điện thoại di động cho các công ty này và trả phí dựa trên lưu lượng cuộc gọi. “That same year, Mittal signed a ten-year, $750 million contract with IBM, farming out the bulk of Bharti’s informationtechnology services, including billing, management of customer accounts and even operation of the Bharti intranet”. Động từ to farm out ở đây tương tự như outsource. Thoạt tiên, chiến lược này bị mọi người trong công ty phản đối dữ dội. “In the telecom world, turning your network over to another firm is heresy”. Heresy có nghĩa nguyên thủy là dị giáo, ở đây là một ý tưởng điên rồ, dị biệt. Thế nhưng, chính cách làm này đã “free Bharti to do what it does best – marketing, devising new services for its customers, and searching for new business opportunities”. Cái này trong ngôn ngữ quản trị gọi là tập trung vào core competencies (năng lực lõi). Kết quả là, “[Bharti Airtels] wireless subscriptions have shot past the 30 million mark. For the fiscal year ending this March, the company is expected to report revenue of more than $4 billion, up from $509 million in 2003”. To shoot past the 30 million mark là Ở nhanh chóng vượt qua mốc 30 triệu thuê bao. Ở nhiều nước, năm tài chính (fiscal year) khác với năm theo lịch (calendar year), như ở đây tính từ đầu tháng 4 năm này đến cuối tháng 3 năm sau. “Analysts expect earnings to exceed $800 million this year as major rivals bleed red ink”. Lạ một điều bản báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty tránh tối đa việc dùng từ profit, họ dùng income hay earnings, nghe có vẻ ít “lý tài” hơn chăng? Và có lẽ chúng ta đã biết in the red là thua lỗ, in the black là làm ăn có lãi nhưng ở đây dùng động từ bleed red ink rất hình tượng. Thật ra ngày xưa trong sổ sách kế toán người ta hay dùng mực đỏ để chỉ những khoản lỗ chứ không có máu me gì ở đây cả. Phần lớn bài viết dành để kể những chặng đường khởi nghiệp lúc Mittal còn trẻ, đáng chú ý nhất là giai đoạn ông nhảy vào ngành điện thoại di động. “When the government invited bids for mobile licenses in cities across India, Bharti sat on the sidelines, unwilling to match the sky-high offers of competitors”. Nên nhớ hầu như ở nước nào cũng tổ chức đấu thầu quyền khai thác mạng điện thoại di động với giá phải trả cho chính phủ rất cao. Nói Bharti “sat on the sidelines” có nghĩa đứng ngoài cuộc đua tranh này (tiếng Anh ngồi; tiếng Việt lại đứng!). On the sidelines cũng thường được dùng trong văn báo chí khi phóng viên tường thuật một việc gì đó “bên lề” một sự kiện chính. “Later, when rivals who overpaid went bust, it picked up assets on the cheap”. To go bust là vỡ nợ; trong chơi bài xì dách, là khi rút bài lố, cộng lại quá 21 điểm. Cũng nên để ý cụm từ on the cheap – [mua lại] với giá rẻ mạt. Đây là đặc ngữ có nghĩa chính là bằng phương tiện rẻ (to travel to Europe on the cheap). Đặc ngữ cheap at twice the price cũng là cực kỳ rẻ. Bây giờ Mittal đang chuẩn bị nhảy vào một lĩnh vực mới – bán lẻ, lần này liên doanh với một tên tuổi nổi tiếng khác là hãng Wal-Mart của Mỹ. Dự án này không dễ thành công vì “India’s restrictions on foreign retailers reflect fears that global giants will run roughshod over mom-and-pop stores”. To run roughshod over là chèn ép, đè bẹp; còn mom-and-pop stores là các cửa hàng tạp hóa nhỏ, kiểu kinh doanh gia đình. Hơn nữa, theo Fortune, “Wal-Mart, a lightning rod for criticism in its home market, has stumbled in several efforts to expand overseas”. Người viết dùng hình tượng cột thu lôi (lightning rod) rất hay vì ở đây hiểu theo nghĩa Wal-Mart liên tục chịu điều tiếng dư luận ở ngay tại Mỹ vì quan hệ với nhân viên rất xấu và cũng đã thất bại ở nhiều thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, Mittal xem đây là một thách thức mới khi nói: “As an entrepreneur, I need to scale a few more peaks before I hang it up”. Đặc ngữ hang it up là give up, quit, còn scale a few more peaks là đạt thêm một ít đỉnh cao nữa. Âu đó cũng là phẩm chất của một doanh nhân hàng đầu. (TBKTSG, ngày 25-1-2007) """