" Tại Sao Đàn Ông Thích Tình Dục Và Phụ Nữ Cần Tình Yêu - Allan & Barbara Pease full prc pdf epub azw3 [Kỹ Năng Sống] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tại Sao Đàn Ông Thích Tình Dục Và Phụ Nữ Cần Tình Yêu - Allan & Barbara Pease full prc pdf epub azw3 [Kỹ Năng Sống] Ebooks Nhóm Zalo Mục Lục LỜI CÁM ƠN GIỚI THIỆU CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 Why men want sex women need love Allan Barbara Pease 2009 Allan cùng Barbara Pease là hai tác giả thành công nhất trong mảng sách chuyên đề về các mối quan hệ con người . Tổng cộng họ đã viết được 15 đầu sách ân khách – trong đó có 9 quyển bán chạy nhất thế giới – và tổ chức nhiều buổi hội thảo chuyên đề ở gần 30 quốc gia mỗi năm. Sách của họ có mặt trên hơn 100 nước , được dịch ra 51 thứ tiếng và bán được hơn 25 triệu bản. Ngoài ra họ còn thường xuyên xuất hiện trên những phương tiện truyền thông khắp thế giới – công trình nghiên cứu của họ là chủ đề của 9 series truyền hình , một vở kịch sân khấu và một bộ phim ăn khách hang đầu với tổng số khan giả ước tính hơn 100 triệu lượt người.Công ty Pease International Ltd. Của họ chuyên cung cấp phim video, các khóa đào tạo cùng những buổi hội thảo chuyên đề cho nhiều doanh nghiệp và chính phủ trên khắp các châu lục . Chuyên mục hang tháng của họ về những mối quan hệ tình cảm đã thu hút hơn 20 triệu độc giả ở 25 quốc gia . Cặp vợ chồng này hiện đang sống tại Úc và Vương quốc Anh cùng 6 người con và 5 đứa cháu nội ngoại. Những cuốn sách ăn khách của họ gồm: The Defmitive Book of Body Language, Why Men Don’t Listen Women Can’t Read Maps, Why Men Don’t Have Clue Women Always Need More Shoes, Easy Peasey : People Skills for Life và Questions are the Answers. Why men want sex women need love . Allan Barbara Pease 2009. This translat of Why men want sex women need love is published by arrangement between Pease international , Australia and Nhan Tri Viet Co., Ltd., Vietnam through Dorie Simmonds Agency , UK Tại sao đàn ông thích tình dục và phụ nữ cần tình yêu Công ty TNHH Nhân Trí Việt giữ bản quyền bản dịch tiếng Việt, 2010. Được xuất bản độc quyền tại Việt Nam, phát hành trên toàn thế giới, theo hợp đồng chuyển nhượng bản quyền giữa Pease International, Úc và Công ty TNHH Nhân Trí Việt, thông qua Dorie Simmonds Agency, Anh. Không phần nào trong cuốn sách này được phép sao chép, lưu giữ, đưa vào hệ thống truy cập, hoặc truyền tải bằng bất kỳ hình thức hay phương tiện nào, điện tử, ghi âm, sao chụp, thu hình, phát tán qua mạng, hoặc dưới bất cứ hình thức nào khác khi chưa có sự cho phép bằng văn bản của chủ bản quyền. LỜI CÁM ƠN Xin chân thành cảm ơn những người đã đóng góp cho sự ra đời của quyển sách này, cho dù họ có biết điều đó hay không: Kelly Bradthe, Andrew và Joanne Parish, Decima McAuley, Rebecca Schell, Mchssa Stewart, Jasmine Pease, Cameron Pease, Brandon Pease, Bella Pease, Michael Pease, Adam Sellars, John Macintosh, Norman Leonard, Ken Wright, Amanda Gore, Daniel Clarke, tiến sĩ Janet Hall, Coi và Jill Haste, Kirsty và Scou Gooderham, Phil Gray, Shirley Neale và Danny Redman, Des Wilmore, Bernie để Souza, tiến sĩ James Moir, Helen và lan Belcher, Roger Longman, Ivanna Fugalot, tiến sĩ Gennady Polonsky, Christine Walding, Jeff Turner, John Lanesmith, Sally Benghofer, Rob và Sue Keam, Dave Stewart, David c. Smith, tiến sĩ John Tickel, giáo sư Graeme Jackson, Nicole Kilpatrick, Josephine và Rick, Glen Fraser, Tong Rick, tiến sĩ Michael Walsh, Augus Woodhead, Fiona Henger, Gary Crick, Anthong Gorman, Brian Tracy, Jenny Cooper, Ivor Ashfield, Trevor Veit, Jo Abbon, Alan Holliday, Graeme Shiels, shorty Tully, Kerri-Arme Kennerley, Sue Williams, Janine Good, Bert Newton, Graham Smith, Kevin Fraser, tiến sĩ Phillip Strieker, Emma và Graham Steele, và Glenda Leonard. Đặc biệt xin cảm ơn Dorie Simmonds cùng Ray và Ruth Pease GIỚI THIỆU Ở thời đại ngày nay, chúng ta chứng kiến nhiều sự việc lẫn tình huống liên quan đến giới tính mà ông cha ta chưa từng trải qua. Chúng ta có thể dùng các loại hormone, phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF - In Vitro Fertilization) để thay đổi khả năng sinh sản; tìm kiếm bạn đời thông qua trung tâm môi giới hay mạng Internet; cải thiện ngoại hình bằng mỹ phẩm hoặc giải phẫu thẩm mỹ; và tạo ra sự sống mới trong phòng thí nghiệm. Không loài nào có thể làm được những điều trên như chúng ta. Là con người, chúng ta còn là những chuyên gia trong việc nghiên cứu tập quán kết đôi của các loài khác, chúng ta có thể dự đoán những hành động của chúng, thậm chí còn điều chỉnh các hành động ấy, hoặc tác động vào gen để làm chúng thay đổi hình dáng bên ngoài. Thế nhưng đến lượt mình, chúng ta lại rất hiếm khi thành công trong việc tìm được người bạn đời ưng ý, chứ đừng nói là hiểu tường tận quy trình đang diễn ra. Hầu hết các loài động vật đều ít gặp rắc rối trong việc chọn lựa bạn tình và giải quyết các mối quan hệ. Với chúng, con cái động dục, con đực giao phối với con cái - thế là xong! Tình trạng có bạn tình - hay không có bạn tình - là đề tài bất tận trong các cuộc thảo luận của chúng ta và cũng là chủ đề nổi bật trong những cuộc buôn chuyện của phụ nữ ở khắp mọi nơi. Ít có điều gì có thể khiến chúng ta vừa vui vẻ, phấn chấn, vừa đau đớn, thất vọng nhiều như thế. Tình yêu luôn là chủ đề phổ biến trong âm nhạc, phim truyền hình, tiểu thuyết lãng mạn, tác phẩm văn chương, điện ảnh và thơ ca. Con người dù thuộc bất kỳ nền văn hóa nào cũng trải nghiệm tình yêu, đồng thời mọi nền văn hóa đều có từ để mô tả nó. Vậy tình yêu là gì? Câu hỏi này đã tồn tại trong hàng nghìn năm qua. Các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực khác nhau đã cố gắng khám phá ra bản chất của tình yêu và thuyết phục mọi người tin vào nó nhưng thực tế vẫn chưa có câu trả lời nào thỏa đáng. Do khó nắm bắt như vậy nên người ta vẫn không ngừng tìm cách định nghĩa, giải thích tình yêu. Tại sao chúng ta lại có ham muốn tình dục? Động lực nào thúc đẩy giới mày râu thích tìm đến tình dục? Điều gì khiến phụ nữ đòi hỏi sự cam kết gắn bó ở phái nam? Hầu hết các câu hỏi trên sẽ được trả lời trong sách, chúng tôi sẽ cho bạn biết lý do mà tình dục, tình yêu cùng sự lãng mạn bắt đầu; tiết lộ các nghiên cứu khoa học đã khám phá ra vị trí của tình yêu trong não; và quan trọng hơn, chỉ ra những điều bạn nên làm với nó. Bằng cách sử dụng các nghiên cứu khoa học, khảo sát, nghiên cứu tình huống lẫn lối diễn tả hài hước, chúng tôi sẽ khiến những kiến thức đó trở nên dễ nhớ. Đi tìm "một nửa" Đa số chúng ta được nuôi dạy rằng ngày nào đó, chúng ta sẽ tìm ra “một nửa” của mình - và đó là người đặc biệt sẽ sống bên ta đến trọn đời. Tuy nhiên, đối với phần đông mọi người, cuộc sống thực tế không giống những gì người ta mong đợi. Hầu hết các cặp tình nhân khi kết hôn đều tin rằng “chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi”, nhưng hiện nay, tỉ lệ ly hôn ở nhiều nước đã vượt qua con số 50%, và tỉ lệ ngoại tình ước tính khoảng 30-60%, trong đó phụ nữ chiếm phần thấp, còn phần cao thuộc về đàn ông. Đa số mọi người cho rằng thất bại trong chuyện tình cảm là vấn đề cá nhân, vì thế mà hàng triệu người trong chúng ta đã tìm đến các chuyên gia trị liệu. Tuy nhiên, không riêng gì con người, hầu hết các loài động vật đều gặp xung đột trong mối quan hệ. Tình dục giống như không khí, khi không có nó bạn mới mới nhận ra là nó quan trọng đến mức nào. Vào những năm 1980, người ta tin rằng khoa học đã nghiên cứu hầu như toàn bộ hành vi con người và thậm chí có thể thay đổi chúng. Nhưng hiện nay chúng ta biết rằng, đa số các hành vi của chúng ta đều đã được lập trình sẵn từ bên trong. Thực tế, từ cuối thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu hành vi con người đã khám phá ra một khối lượng lớn kiến thức khoa học nhằm chứng minh rằng: bẩm sinh, chúng ta đã có một bộ não được lập trình sẵn về cách hành xử. Chúng ta cũng biết là các yếu tố văn hóa cùng hàng nghìn tác động từ môi trường sống như thầy cô, bạn bè, cha mẹ, sếp đều ảnh hưởng đến cách suy nghĩ lẫn hành động của chúng ta. Kết quả là các tác động bản năng và xã hội quyện lại, gắn bó chặt chẽ với nhau. Hãy tưởng tượng bộ não của bạn có một hệ điều hành tương tự như máy vi tính. Bạn sinh ra đã có sẵn nó và khi bạn căng thẳng, não sẽ trở về các thiết lập “mặc định” (default) - đó là phần bản năng của chúng ta. Còn phần xã hội chính là môi trường sống, nó như phần mềm chạy trên phần cứng sẵn có. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào DNA của mình. Vùng thùy trán của não người phát triển nhằm cho phép chúng ta lựa chọn hành động của bản thân. Tuy nhiên, việc hiểu rằng chúng ta có mang theo những hành trang được thừa hưởng từ tổ tiên trong quá khứ cũng rất quan trọng. Sự phát triển của vỏ não - phần nào có vai trò thu thập thông tin từ các giác quan, lưu giữ ký ức cùng các quá trình suy nghĩ - đã cho phép chúng ta tư duy, lựa chọn và vượt lên trên những gì chúng ta được thừa hưởng. Thế nhưng, khi gặp các vấn đề về tình dục, tình yêu lẫn sự lãng mạn, phần được lập trình sẵn từ xa xưa vẫn thôi thúc chúng ta có những sở thích cũng như lựa chọn tương tự cha ông. Và như bạn sẽ thấy, đó là điều không thể tránh khỏi. Bộ não của bạn có một hệ điều hành với những vị trí mặc định. Nếu máy vi tính của bạn chạy quá công suất hay bị hư hại, nó sẽ tự khởi động với các thiết lập mặc định đã được cài sẵn bên trong - não của bạn cũng vậy. Môi trường nhân tạo của cái gọi là “sự bình đẳng” do chúng ta tạo ra (theo đó hai phải được cho là có những khao khát giống nhau) cũng chỉ là một phần mềm được xây dựng trên nền tảng của những quan điểm hợp thời mà thôi. Là đàn ông và đàn bà, chúng ta có sự mong muốn khác nhau về tình yêu và tình dục - không có cái nào tốt hơn hay xấu hơn, chúng chỉ đơn giản là khác nhau - và điều này chủ yếu do bản năng của chúng ta quy định, chúng ta có thể đưa ra các quyết định tỉnh táo về những gì chúng ta nghĩ mình muốn, nhưng phần bản năng trong chúng ta sẽ luôn thôi thúc chúng ta đi theo con đường của riêng nó. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy phụ nữ cũng quan tâm tới tình dục tương tự như đàn ông - hay nói theo cách của họ là “gần gũi” - và sẽ giải thích những hoàn cảnh, điều kiện, sự ưu tiên khác nhau, tác động khác nhau như thế nào đến lòng ham muốn chăn gối của nam và nữ. Chúng ta sẽ khảo sát việc đàn ông lẫn phụ nữ thực sự muốn gì, quan sát những cuộc tình vụng trộm, chuyện quan hệ qua đường, đồng thời tiết lộ nhiều điều về tình dục và tình yêu mà đa số mọi người đều chưa biết. Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ đưa ra các chiến thuật nhằm giúp bạn làm tăng giá trị của mình trên tình trường. Sự rắc rối trong vấn đề chăn gối của người phương Tây phát xuất từ đâu? Rất nhiều sự rắc rối liên quan đến vấn đề tình dục ở các nước phương Tây hiện nay đều có thể được quy trách nhiệm cho Nữ hoàng Anh Victoria cùng chồng bà là Hoàng tế Albert. Thời gian trị vì của Nữ hoàng Victoria kéo dài từ năm 1837 đến năm 1901, được mô tả bởi những giá trị đạo đức hà khắc, sự ức chế tình dục cao độ và ít khoan hồng dành cho tội phạm. Đồng tính nữ bị phủ nhận, còn đồng tính nam bị xem là bất hợp pháp. Nhờ có đế chế Anh mà các giá trị thời Victoria đã lan ra khắp thế giới. Vào giai đoạn thịnh vượng nhất của thời Victoria, việc che phủ chân của các đồ đạc trong nhà như chân bàn hay chân đàn piano nhằm ngăn chặn ham muốn tình dục trở nên phổ biến. Đồ tắm của nam lẫn nữ đều phải che kín toàn bộ cơ thể. Nữ hoàng Victoria thậm chí còn ban sắc lệnh rằng trong xã hội văn minh lịch sự thì ức gà phải được gọi là ngực. Bà ta cũng cấm các quảng cáo để lộ đồ lót phụ nữ. Và tương tự như bây giờ, phần lớn xã hội lúc đó xem việc khỏa thân đồng nghĩa với gợi dục. Phụ nữ thời Victoria được nuôi dạy rằng không bao giờ được phép thể hiện ham muốn tình dục trước hay đắm mình trong khoái cảm, đồng thời phải sống trong sự hy sinh thầm lặng cho chồng con, gia đình, đất nước. Người đàn ông thành công trong xã hội là nhờ một phần vào sự chịu đựng của vợ mình và người ta mặc nhiên cho rằng phụ nữ không có nhu cầu thể xác. Tư tưởng phổ biến lúc bấy giờ là phụ nữ không thích tình dục mà chính sự ham muốn của đàn ông buộc họ phải “nhắm mắt đưa chân”. Nhiều cuốn sách ở thời kỳ này còn gợi ý rằng người chồng đúng mực sẽ không đòi hỏi chuyện chăn gối với vợ mình quá một lần trong sáu tháng và đưa ra những lời khuyên nhằm giúp cánh đàn ông tiết chế các ham muốn của mình thường xuyên hơn. Nói chung, lời khuyên thường thấy nhất đối với phụ nữ trong thời kỳ này khi “gần gũi” chồng là nằm xuống, nhắm mắt lại và “nghĩ về nước Anh”. Rất có thể ông bà hoặc cụ cố của bạn đã được sinh ra trong thời Victoria và cho dù bạn có nhận ra hay không thì một số quan điểm của thời kỳ này vẫn truyền lại cho bạn qua cha mẹ bạn. Nếu bạn thấy ngượng ngùng khi nghe bàn về vấn đề giới tính, hoặc xấu hổ trước những câu chuyện hài hước liên quan đến tình dục và cố gắng lái sang đề tài khác, thì bạn có thể quy kết sự khó chịu ấy là do ảnh hưởng của những giá trị thời Victoria. Đây cũng là lý do tại sao các nước nói tiếng Anh, đặc biệt là nước Anh, lại có nhiều vấn đề về tình dục hơn so với những nước châu Âu khác không bị các giá trị đạo đức Victoria ảnh hưởng. Trong trường hợp bạn không dính líu gì đến văn hóa Victoria nhưng vẫn cảm thấy ngượng ngùng mỗi khi đề cập đến bất kỳ khía cạnh nào của vấn đề giới tính và tình dục thì có thể xem xét nguồn gốc của thái độ đó từ tôn giáo của bạn, hoặc từ những người lãnh đạo đã áp đặt quyền lực bằng cách buộc mọi người tuân thủ theo cái niềm tin méo mó về đạo đức của họ. Các con số thống kê Hiện nay, có khoảng một nữa số cuộc hôn nhân kết thúc trong đổ vỡ, phần lớn (85%) là do các bà vợ chủ động ly hôn. Người ta ước tính chỉ riêng ở Anh mỗi ngày có đến 3 người đàn ông đang trong thời kỳ thực hiện phần quyền trợ cấp nuôi con tìm đến cái chết để tự giải thoát. Hệ thống xã hội vận hành theo quy luật tiền kiếm càng nhiều, tiêu càng nhiều. Những người đàn ông này cảm thấy không thể tiếp tục đương đầu với khó khăn và lấy lại cuộc sống bình thường. Cuộc sống có thể rất tuyệt vời khi bạn kết hôn rồi có con; nhưng nếu hôn nhân tan vỡ, việc nuôi con có khả năng khiến bạn ngã bệnh hoặc thậm chí tự tử. Vì vậy, hiểu cách bộ não của bạn chọn bạn đời cho bạn rất quan trọng. Cuốn sách này được viết căn cứ vào những cuộc nghiên cứu khoa học hiện đại chứ không phải các câu chuyện dân gian, thần thoại, chiêm tinh, tiểu thuyết lãng mạn hay lý tưởng chính trị nào cả. Đa số những gì mà chúng ta sẽ thảo luận trong đây đều có chứng cớ. Chúng tôi đã đúc kết từ hàng loạt nghiên cứu, bao gồm các nghiên cứu thực tế, thí nghiệm khoa học, những cuộc khảo sát về các mối quan hệ từ nhiều nguồn khác nhau (trong đó có cả của chúng tôi), và từ nhiều dữ liệu khác mà chúng tôi thu thập được chúng ta lại hành xử hay suy nghĩ như vậy. Nếu phân tích thấy vấn đề nào không có chứng cứ khoa học hoặc thiếu thuyết phục, chúng tôi sẽ bỏ nó ngay. Hầu hết các dữ liệu nghiên cứu mà chúng tôi đề cập đều được dẫn ra ở cuối sách. Trong suốt sáu năm nghiên cứu và viết cuốn sách này, chúng tôi - những tác giả tuổi trung niên - đã sinh được hai đứa con thông qua thụ tinh trong ống nghiệm, đương đầu với bệnh ung thư tuyến tiền liệt cùng những tác động của nó, đồng thời gặp không ít trở ngại, khó khăn có thể làm hỏng hoặc kết thúc cuộc sống tràn đầy tình yêu thương của lứa đôi. Vì vậy, những gì chúng tôi viết ở đây không chỉ là các kết luận từ cuộc nghiên cứu mà còn là những trải nghiệm, quan sát, chiến thuật (và nhiều thứ khác nữa!) của cá nhân chúng tôi lẫn những người trình khám phá này. Hãy thưởng thức cuốn sách! Allan và Barbara Pease CHƯƠNG 1 TÌNH DỤC DƯỚI GÓC NHÌN SINH HỌC Sự đam mê, cuồng dại, lãng mạn, “nóng bỏng”, ám ảnh vì tình, quyến rũ hơn trong chuếnh choáng men rượu. v.v. là các từ vẫn thường được dùng để diễn tả những cảm xúc thăng hoa, phấn chấn, hạnh phúc, sung sướng mà hầu hết chúng ta đều sẽ trải qua theo cách nào đó và ở thời điểm nào đó trong cuộc đời. Đi cùng những cảm xúc này còn là nỗi đau đớn, thống khổ, tổn thương, phiền muộn, dày vò, thương tiếc. Trong hàng nghìn năm qua, các chuyên gia đã cố gắng, dù không thành công lắm, trong việc định nghĩa tình yêu lãng mạn. Và họ thường kết luận rằng đó dường như là một thứ tình cảm được điều khiển theo cách nào đó bởi những sức mạnh bên ngoài bản thân chúng ta, ví dụ: thần bí, siêu nhiên hoặc thuộc về tâm linh. Ấy vậy mà chúng ta lại không khó khăn gì trong việc tìm hiểu, phân loại các trạng thái tình cảm khác của con người, chẳng hạn như sự chán nản, lo âu, ám ảnh, sợ hãi. Từ những năm 1970, con người đã chứng kiến một nhu cầu tinh thần mãnh liệt về tình yêu. Nhu cầu này bắt nguồn từ sự đổ vỡ của cấu trúc xã hội vốn đã tồn tại hàng nghìn năm qua, ràng buộc chúng ta trong mối liên hệ mật thiết với gia đình, bạn bè hay người yêu. Chúng ta đã tiến hóa thành một chủng loài biết chăm sóc cho con cái của mình, bảo vệ, yêu nhau, phụ thuộc lẫn nhau, liên kết với nhau thành một xã hội với đơn vị là gia đình, ông bà chăm sóc cho các cháu trong khi cha mẹ chúng lao động hay tìm kiếm thức ăn. Vào buổi tối, ông bà kể chuyện cho cháu nghe rồi dạy chúng về cuộc sống lẫn những di sản mà chúng kế thừa. Mô hình gia đình này ngày nay chỉ còn tồn tại trong những nền văn hóa nguyên thủy, vài khu vực ở Trung Đông, châu Á, vùng Địa Trung Hải và các nước đang phát triển. Hiện thời, khi ngày càng có nhiều người sống một mình hay độc thân, thì kẽ nứt văn hóa này ngày càng mở rộng. Nếu hàng triệu năm trước hoặc hơn nữa, xã hội đã được tổ chức nhằm đưa đàn ông và phụ nữ đến với nhau thì xã hội ngày nay lại tách rời họ ra. Sự xói mòn trong cấu trúc gia đình cơ bản đã làm mất đi nhiều giá trị, khiến những đứa trẻ lớn lên mà không có cha và các cảm xúc bị rối loạn. Cùng mục đích nhưng khác đường đi Đàn ông và phụ nữ có hướng tiếp cận rất khác nhau về vấn đề tình yêu, tình dục; và những điều đó đã được khắc sâu trong quá khứ xa xưa của chúng ta. Căn bản hơn, giống như tổ tiên mình khi xưa, đàn ông ngày nay bị thu hút bởi dáng vẻ bên ngoài cũng như các dấu hiệu thể hiện sự trẻ trung, khỏe mạnh, sung mãn của người phụ nữ. Trong khi đó, phụ nữ lại chú ý đến sức mạnh, địa vị, sự cam kết gắn bó và khả năng chu cấp của người đàn ông. Thật ra, ham muốn lẫn xu thế tình dục của loài người không thay đổi gì nhiều sau hàng trăm nghìn năm qua. Tuy nhiên, tư tưởng này có thể ít được chấp nhận trong một thế giới “đúng đắn” về mặt chính trị, nơi mà quan điểm thời thượng là nam nữ có chung mong muốn, động lực, sở thích, khát khao. Nhưng càng đọc, bạn sẽ càng thấy quan điểm vừa nêu không đúng. Sự thật, trong sâu thẳm của lòng mình, bạn luôn biết nó hoàn toàn sai. Sở dĩ điều huyễn hoặc ấy tồn tại là nhờ những người mưu cầu quyền lực, chẳng hạn như các quan chức chính phủ, lãnh tụ tinh thần, nhóm vận động vì nữ quyền hay những người hoạt động vì mục đích chính trị nào đó. Nói cho đúng “quan điểm chính trị” thì đàn ông và phụ nữ có chung suy nghĩ, mong muốn; nhưng nếu bạn đã từng sống, làm việc chung hoặc quản lý họ, bạn sẽ thấy điều này chẳng đúng tí nào. Sức mạnh của tình yêu David Buss, giáo sư Tâm lý học tại Đại học Texas ở Austin, nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ cuộc nghiên cứu mang tính cách mạng của ông về sự khác biệt giới tính trong việc lựa chọn bạn tình của con người, ông cùng nhóm nghiên cứu của mình đã tìm kiếm những bằng chứng của tình yêu lãng mạn ở 147 nền văn hóa trên thế giới, và họ khám phá ra các dấu hiệu chứng tỏ sự tồn tại của loại tình cảm này trong các bức vẽ hang động, bản viết tay, thơ ca, âm nhạc, sách. Hầu hết mọi người khi nghĩ đến tình yêu đều chỉ nhìn thấy mặt tốt đẹp của nó - họ tưởng tượng ra cảnh hai người nhìn nhau say đắm, nắm chặt tay nhau, cùng hát những bài tình ca, âu yếm nhau và cảm thấy ấm áp, mờ ảo - tất cả mọi thứ khiến họ “hạnh phúc đến cuối đời”. Tuy nhiên, tình yêu cũng có mặt trái của nó. Buss cùng các nhà nghiên cứu khác đã tìm ra những bằng chứng cho phần tiêu cực đó trong mọi thời kỳ lịch sử của con người, chẳng hạn như các loại bùa yêu thuốc lú, thần chú tình yêu, tự tử hay giết người vì tình. Trong thực tế, cứ bốn vụ sát nhân thì có một vụ liên quan đến tình cảm. Bởi thế, bạn có thể thấy cái chết của các cặp vợ chồng, những người yêu nhau, tình địch, kẻ thứ ba hay người bị phụ tình. Hầu hết mọi nền văn hóa đều có các trường hợp tương tự như câu chuyện Romeo và Juliét. Sự thôi thúc mãnh liệt của tình yêu khiến chúng ta ngập tràn trong niềm vui, sự tuyệt vọng, nỗi sợ hãi hay căm thù, nhưng thông thường thì tất cả các cảm giác đó đến cùng một lúc. Bởi vì kiểu tình yêu lãng mạn tồn tại ở khắp mọi nơi và trong mọi nền văn hóa nên hẳn nó phải có một nền tảng sinh học nào đó. Nói cách khác, nó không đơn giản chỉ là một truyền thống văn hóa như thờ cúng thần linh hay tín ngưỡng mà là điều gì đó rất mạnh mẽ và được “lập trình” sẵn trong mỗi chúng ta. Cơ chế sinh học của tình yêu Các nhà khoa học đã tìm hiểu hoạt động của não người khi đang yêu và kết luận rằng có ba hệ thống nào khác nhau dành cho việc kết đôi và sinh sản. Đó là nỗi ham muốn, tình yêu lãng mạn và sự gắn bó lâu dài. Mỗi hệ thống trên đều có liên quan đến những hoạt động khác nhau của hormone - đấy chính là nguyên nhân tạo ra các thay đổi cụ thể trong hành vi lẫn cảm xúc của những người đang yêu. Khi nhìn vào tình yêu theo ba hệ thống này, bạn sẽ dễ dàng đánh giá được một người đang yêu ở giai đoạn nào đồng thời dễ hiểu các hành động của họ hơn. Mục tiêu Chương 1 là nhằm giúp bạn hiểu được các chức năng cơ bản của não bộ trong việc điều khiển ham muốn, tình yêu lãng mạn và sự gắn bó lâu dài. Chúng tôi đã cố gắng giải thích vấn đề thật ngắn gọn cũng như đơn giản đến mức có thể. Hãy nhớ, khi chúng tôi nói về những vùng não cụ thể nào đó, các bạn cần hiểu rằng thông thường chúng là một phần trong toàn bộ hoạt động của bộ não. Chúng tôi cũng muốn cảm ơn giáo sư Graeme Jackson thuộc Học viện Nghiên cứu Não bộ ở Melbourne vì những lời khuyên của ông trong nội dung này. Ở đây, chúng tôi đã đơn giản hóa các vấn đề nhằm giúp quyển sách dễ đến hơn với độc giả, nhưng đồng thời cũng chú ý không đơn giản hóa quá mức những tư tưởng hay khái niệm. Bạn cần nắm bắt các ý cốt lõi của cuộc nghiên cứu bởi nó sẽ được nhắc đến nhiều lần ở những chương sau. Ngoài ra, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ y khoa cho những vấn đề thiên về kỹ thuật, nhưng bạn chỉ cần hiểu ý nghĩa của nó trong tương quan với cuộc sống yêu đương của bạn là đủ. Chúng tôi cũng sẽ thảo luận các nguyên tắc đúng với số đông, không bao gồm những trường hợp thiểu số hay ngoại lệ. Tình yêu được chứng minh là kết quả của một nhóm hóa chất cụ thể và quá trình vận hành của não trong một số vùng nhất định. Theo thuật ngữ khoa học đơn giản, tình yêu được sinh ra do sự kết hợp của các hóa đất có trong não, bao gồm dopamine, oxytocin, testosterone, oestrogen và norepinephrine. Cũng bằng cách gần giống như vậy, các hóa chất này dẫn đường cho những loài động vật có vú khác tìm được bạn tình phù hợp. Một khi bộ não của chúng ta đã xác định được đối tượng thích hợp dựa trên các tiêu chí mà chúng tôi sẽ đề cập sau, nó sẽ bắt đầu tăng tốc độ sản xuất ra những loại hóa chất cần thiết để tạo điều kiện thu hút người đó. Trong lịch sử nhân loại, hôn nhân là sự kiện được sắp đặt dựa trên tài sản, địa vị, sự ganh đua giữa các gia đình, liên kết các bộ tộc đồng thời có tính chính trị. Ngày nay, kiểu hôn nhân này nhìn chung đã biến mất khỏi thế giới phương Tây và hiện tại, hầu hết mọi người đều kết hôn vì tình yêu. Khi lựa chọn bạn tình, con người chỉ tập trung chú ý vào một đối tượng duy nhất. Điều này phân biệt chúng ta với đa số các loài động vật khác. Ví dụ, một anh chàng bồ câu trong thời gian tán tỉnh sẽ xù lông lên và tiếp cận với càng nhiều nàng bồ câu theo khả năng của mình càng tốt. Nhưng, con người thường chỉ có một danh sách ngắn các ứng viên đồng thời đặt trọng tâm vào một người duy nhất. Yêu từ cái nhìn đầu tiên Hiện tượng yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên (hay còn gọi là tình yêu sét đánh) đã được khoa học chứng minh và tác động của nó lên hầu hết các loài động vật đều giống nhau. Nếu bạn từng trải nghiệm tình yêu sét đánh, lúc đó, não của bạn đã tiết ra một lượng lớn chất dopamine và norepinephrine, khiến bạn cảm giác như mình đang say. Điều tương tự cũng xảy ra ở các loài động vật khác. Lấy ví dụ về con chuột đồng cái - loài vật trông khá giống chuột sa mạc. Nếu bạn cho nó tiếp xúc với một ít nước tiểu của chuột đồng đực, nó cũng sẽ trải qua những phản ứng hóa học hệt như con người: sự gia tăng nhanh chóng của dopamine và norepinephrine. Một nghiên cứu khác chứng minh rằng khi cho các con cừu cái trong thời kỳ động dục xem hình cừu đực, nồng độ norepinephrine trong não của chúng sẽ tăng lên đột biến. Tuy nhiên, tác động này chỉ kéo dài trong vài giây hay vài phút đối với động vật, nhưng có thể đến vài tháng hay vài năm đối với con người. Hiện nay, các nhà khoa học đều thống nhất rằng tình yêu sét đánh là có thực, và họ tin rằng, trong một xã hội ổn định - khi con người không phải chịu sự đe dọa của cái chết hay chiến tranh - thì ham muốn, tình yêu lãng mạn cùng sự gắn bó lâu dài là cách tốt nhất, hiệu quả nhất để đảm bảo sự tồn tại của loài người. Darwin bắt tôi làm điều đó Sự gia tăng các hormone tình dục, như testosterone và oestrogen, là nguyên nhân dẫn đến ham muốn. Các hormone này thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu thỏa mãn về thể xác. Suốt thời gian ham muốn, hai phần quan trọng của não trở nên hoạt động tích cực, đó là: vùng não dưới đồi (hypothalamus) (điều khiển các nhu cầu cơ bản như đói, khát) và hạch hạnh nhân (amygdale) (trung tâm kích thích các cảm giác). Dopamine được tiết ra rất nhiều trong suốt thời gian ham muốn và nó kích hoạt việc sản xuất testosterone, dẫn đến sự hấp dẫn về giới tính. Quá trình này xảy ra khi lần đầu tiên bạn nhìn thấy ai đó và ham muốn mãnh liệt mình “có” được họ. Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2006 ở Đại học Chicago cho thấy thậm chí trong cuộc trò chuyện tình cờ với người phụ nữ lạ, nồng độ testosterone của đàn ông cũng đã tăng lên một phần ba, và phản ứng hormone này càng mạnh thì hành vi của họ càng thay đổi sâu sắc. Cuộc nghiên cứu trên còn cho thấy nồng độ testosterone của những người đàn ông đã lập gia đình hay có con thấp hơn nhiều so với các anh chàng độc thân đang chơi trò ong bướm. Lý do là bây giờ những ông bố phải cáng đáng trách nhiệm làm cha mẹ, chăm sóc, dạy dỗ các con và có nồng độ oxytocin cao hơn những anh chàng độc thân vẫn đang mải mê tìm kiếm một nơi để truyền lại bộ gen của mình. Rõ ràng ham muốn tình dục đã tiến hóa để dẫn đến quá trình sinh sản nhằm bảo đảm sự tồn tại của giống loài. Trong những hoàn cảnh sống cực kỳ khó khăn, khi con người không đủ thời gian để dành cho sự lãng mạn, thì điều này càng trở nên quan trọng. Hơn nữa, một năm, phụ nữ chỉ sinh con một lần, nghĩa là, nếu không có ham muốn, loài người có thể phải đối mặt với nguy cơ diệt vong - bởi vì chúng ta sinh sản chậm. Tạo hóa khiến chúng ta hăng hái sinh sản. Đó là lý do tại sao con người trong hiểm nguy và các tình huống đe dọa tính mạng như thời chiến lại đột nhiên thấy mình ham muốn nhau hơn, thậm chí với những người lạ mặt. Nếu mạng sống con người bị đe dọa, họ có một thôi thúc cấp bách là phải truyền lại bộ gen của mình. Tóm lại, sự ham muốn, tình yêu sét đánh lẫn những khía cạnh ám ảnh hay khao khát chinh phục đối phương trong tình yêu mới chớm đều là những hành vi tiến hóa nhằm đẩy nhanh quá trình kết đôi và giúp cho việc sinh sản của con người đạt kết quả cao hơn. Hãy gắn bó với nhau Testosterone là hormone chính chịu trách nhiệm điều khiển nhu cầu tình dục, và lượng hormone này trong cơ thể đàn ông cao hơn nhiều so với phụ nữ (khoảng 10-20 lần). Đây chính là lý do khiến nhu cầu tình dục của họ lúc nào cũng mạnh mẽ, “khẩn thiết” hơn. Testosterone khiến nam giới có nhiều râu tóc hơn, to lớn hơn, mạnh mẽ hơn, hung bạo hơn và ham muốn tình dục hơn; nhưng họ lại có lượng oxytocin thấp hơn đáng kể so với nữ. Oxytocin (một loại “hormone hạnh phúc”) được nào tiết ra với hàm lượng lớn trong cơ thể cả hai phái ở giai đoạn cực khoái. Tuy nhiên, trong cơ thể nam, loại hormone này nhanh chóng tan đi. Đây là nguyên nhân tại sao những cử chỉ vuốt ve âu yếm nhau sau lúc gần gũi lại vô cùng quan trọng đối với nữ nhưng ít thành vấn đề đối với nam. Trong một nghiên cứu được tiến hành vào năm 2006, tiến sĩ Rebecca Turner, giáo sư môn Tâm lý học tổ chức của Đại học Quốc tế Alliant (Alliant International University) ở San Francisco, đã cho thấy rằng oxytocin chính là chất keo gắn kết tình cảm con người. Khi hai người đang có quan hệ tình cảm, hay như chúng ta vẫn thường nói là đang yêu nhau, nồng độ oxytocin trong cơ thể họ sẽ tăng cao. Loại hormone này mang lại cho họ cảm giác ấm áp, say say khi nghĩ đến người mình yêu. Do có lượng oxytocin cao hơn nên phụ nữ cũng yêu sâu đậm hơn nam giới lúc tình yêu mới chớm. Càng sản sinh nhiều oxytocin, phụ nữ càng quan tâm chăm sóc và gắn bó chặt chẽ hơn với đối tượng của mình, chỉ cần nghe tên người yêu, ngửi mùi hương quen thuộc có liên quan đến họ, mơ mộng về họ hay nghe một bài hát gợi sự liên tưởng đến họ cũng khiến nồng độ oxytocin trong cơ thể phái yếu tăng cao. Những bộ trang phục đắt tiền, lớp phấn trang điểm hoàn hảo, các vật trang sức đeo khắp người, thậm chí là chiếc xe thể thao mới cáu cũng không che giấu nổi những cảm xúc của người phụ nữ. Nếu cô ấy cảm thấy được yêu thương và trân trọng, các hormone trong cơ thể cô ấy sẽ đẩy máu lên làm ửng hồng gò má, khiến cô bừng sáng đồng thời tỏa hơi ấm ra xung quanh. Ngược lại, cũng rất dễ nhận biết một cô gái cảm thấy mình không được yêu thương và bị phớt lờ. Các nghiên cứu của David Buss cho thấy trong giai đoạn yêu đương, lượng testosterone trong cơ thể nam giới giảm xuống, trong khi nồng độ oxytocin tăng lên nhằm đẩy nhanh quá trình gắn kết tình cảm. Điều đó khiến họ trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng và dễ chịu hơn. Ngược lại, cũng ở giai đoạn này, lượng testosterone trong cơ thể phụ nữ tăng cao với sự phấn khích, tự tin khi bắt đầu mối quan hệ. Sự gia tăng đó khiến họ ham muốn tình dục hơn, vì vậy ảo giác được tạo ra là cả nam lẫn nữ đều có nhu cầu như nhau về tình dục. Và khi giai đoạn yêu đương say đắm kết thúc (thường là sau 3-9 tháng), nhu cầu tình dục của phụ nữ sẽ trở về “trạng thái mặc định”. Lúc này, các bậc mày râu có cảm giác rằng người yêu của mình không còn ham muốn như trước trong khi phụ nữ lại nghĩ là anh chàng như đang nghiện tình dục. Nhiều mối quan hệ đã kết thúc ở giai đoạn này. Tại sao những người đang yêu lại quá say mê nhau Những sự thay đổi hành vi trong suốt giai đoạn tình yêu lãng mạn có nhiều điểm tương đồng với chứng loạn tâm thần (psychosis), và nhìn từ quan điểm hóa sinh, tình yêu say đắm cũng gần giống như tình trạng lạm dụng thuốc. Bác sĩ John Marsden, người đứng đầu Trung tâm nghiên cứu quốc gia vương quốc Anh về Hành vi Nghiện đã phát hiện rằng tình yêu cũng gây nghiện tương tự như cocaine hay tốc độ. và ông kết luận: tình yêu lãng mạn là chiếc “bẫy treo”, chủ đích giữ hai người yêu nhau đủ lâu bên nhau để gắn bó. Tiến sĩ Nhân chủng học Helen Fisher, tác giả cuốn “Giải phẫu tình yên” (The Anatomy of Love), đã mô tả việc yêu ai đó là “chuỗi phản ứng hóa học đặc biệt diễn ra trong não đồng thời có sự tương đồng với bệnh tăm thần”. Theo tiến sĩ Fisher, những vùng não hoạt động khi bạn dùng cocaine cũng được kích hoạt lúc bạn yêu, và bạn cũng trải qua cảm giác phấn chấn tột độ như thể đang say thuốc. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn chỉ ra mối liên hệ giữa tình yêu lãng mạn với chuỗi phản ứng thần kinh có sử dụng hormone dopamine - một hóa chất liên quan mật thiết đến trạng thái sung sướng, khao khát và đê mê. Như có dòng điện chạy dọc sống lưng Những hóa chất do não tiết ra khi bắt đầu một tình yêu mới dẫn đến nhiều cảm giác lẫn phản ứng vật lý mà khoảng 90% những người chớm yêu đều thừa nhận rằng họ cảm thấy chúng, trong đó bao gồm: mất ngủ, ăn uống không ngon, đỏ mặt, phấn chấn, bối rối, sung sướng, nôn nao, thở gấp, chóng mặt, run đầu gối, hồi hộp, đổ mồ hôi tay và nói lắp bắp. Nhiều phản ứng trong số này là do sợ bị người mình yêu từ chối, vì thế tình yêu mới giống như một cú va đập mạnh giữa sự phấn khích và nỗi lo lắng. Những người mới chớm yêu không chỉ cảm thấy các cảm xúc trên mà còn không ngừng tìm kiếm trên gương mặt của người mình yêu những dấu hiệu chứng tỏ tình yêu của mình được đáp trả. Carole King đã tóm tắt một cách hoàn hảo các phản ứng hóa học mà chúng ta trải qua khi yêu trong một bài hát của bà vào năm 1970 như sau: “Tôi cảm thấy cả Trái đất đang rung chuyển dưới chân mình” (I feel the Eanh move under my feet). Trong bài hát này, bà đã mô tả cảm giác nóng, lạnh, mất kiểm soát cảm xúc, cảm thấy con tim mình rung lên và bầu trời như đổ sụp xuống khi người yêu của bà ở gần bên. Thật ra, đây cũng là những phản ứng thông thường khi nghiện thuốc. Tình yêu có thể được ví như một chuyến tàu lượn siêu tốc tuyệt vời và xảy đến bất ngờ với đa số mọi người, chúng ta hiếm khi dự báo hay điều khiển được nó. Các cảm giác của tình yêu đến từ phần cơ bản nhất của não bộ (mà chúng ta gọi là vỏ nào hay chất xám) và vượt lên trên cả suy nghĩ lẫn lý trí để khiến những người đang yêu hành động mù quáng, chuyện này cũng tương tự như khi đối mặt với một con sư tử, bản năng chống-trả-hay-bỏ-chạy sẽ khiến bạn chạy đi - một hành động hoàn toàn trái ngược với kế hoạch thoát thân mà bạn vạch ra lúc bình tĩnh. Cảm giác hạnh phúc của tình yêu đã truyền cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ sáng tác ra những bản nhạc, giai điệu mê hồn hay các bài thơ mạnh mẽ, đầy xúc cảm. Tuy nhiên, yêu say đắm cũng có thể là nguồn cơn của sự ghen tuông và nghi kỵ. Những bằng chứng khoa học gần đây cho thấy tình yêu còn giúp cải thiện sức khỏe. Thậm chí các nghiên cứu sâu hơn đang chứng minh rằng tình yêu có khả năng chữa lành bệnh ung thư cùng những loại bệnh tật khác. Ngoài ra, tình yêu còn tạo động lực cho chúng ta tiếp tục chung sống với người đem đến cho mình sự khổ đau, như trường hợp bị người yêu hành hạ, ngược đãi. Mất ăn, mất ngủ Những người đang yêu thường được cho là “tương tư”. Họ nói họ không thể ăn, ngủ cho đàng hoàng và lặp đi lặp lại những hành vi ám ảnh như gọi điện thoại cho người yêu 20- 30 lần một ngày. Các hành vi này giờ đây đã được chứng minh là do sự kết hợp giữa lượng serotonin thấp với lượng oxytocin cao. Serotonin là chất dẫn truyền thần kinh, mang lại cho chúng ta sự nhạy cảm lẫn ý thức cao độ về những gì đang diễn ra xung quanh và cảm giác hạnh phúc trọn vẹn. Sự suy sụp hay rối loạn ăn uống cũng có liên quan đến lượng serotonin thấp và các loại thuốc chống trầm cảm chính là nhằm tăng lượng chất này trong cơ thể. Thông thường, lượng oxytocin ở phụ nữ cao hơn nam giới khoảng 30%. Kết hợp điều này với lượng serotonin thấp, chúng ta sẽ hiểu vì sao phái yếu dễ có khuynh hướng “điên lên” vì một ai đó hay thậm chí luôn ám ảnh, nhớ nhung về họ. Vào năm 2007, Seuge Brand cùng các đồng nghiệp của ông tại bệnh viện Đại học thuộc chuyên ngành Tâm thần ở Basel, Thụy Sỹ, đã phỏng vấn 113 người ở độ tuổi 17. Trong số đó, 65 người nói rằng họ mới yêu gần đây. Brand nhận thấy những thanh niên đang yêu này ngủ ít hơn, hành động ám ảnh hơn và có “nhiều ý tưởng điên rồ cũng như năng lượng sáng tạo”. Các bạn trẻ đang yêu dễ tham gia vào những hành vi mạo hiểm như lái xe bạt mạng hay nhảy bungee. Brand cũng chỉ ra rằng các bạn trẻ mới bắt đầu yêu đương sâu đậm trông không khác gì những bệnh nhân mắc chứng hưng cảm nhẹ (hypomania). Nói cách khác, đôi khi chúng ta khó mà phân biệt được đâu là một bạn trẻ đang yêu và đâu là một người điên. Tiết lộ từ những bức hình chụp quét não Các kỹ thuật chụp hình não như cộng hưởng từ chức năng (fMRI) và từ não đồ (MEG) đã mở ra nhiều cơ hội mới trong nghiên cứu cơ thể người, vì nhờ đó, chúng ta có thể tìm hiểu cơ chế hoạt động của não mà không làm tổn thương đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu hoạt động của não trong tình yêu và tình dục đã bắt đầu phát triển từ năm 2002, sau khi hai nhà sinh học thần kinh là Andreas Bartels và Semir Zeki thuộc Trường University Collage London tiến hành cuộc nghiên cứu về các nam nữ thanh niên vừa chớm yêu đồng thời tự nhận rằng mình đang “yêu điên cuồng”. Khi xem hình của người yêu, nào của họ hoạt động rất khác so với khi xem hình của bạn thần. Hình chụp quét não cho thấy sự hấp dẫn lãng mạn kích hoạt những vùng não tập trung nhiều thụ thể đối với dopamine. Dopamine, như đã nhắc trong phần trước, là chất dẫn truyền thần kinh có tác động đến niềm vui và động lực, thường được gọi là “hormone hạnh phúc”. Sự gia tăng của dopamine lẫn norepinephrine dẫn đến sự chú ý cao độ, trí nhớ ngắn hạn, hiếu động thái quá, mất ngủ và hành vi hướng đến đối tượng. Khi các đôi trai gái lần đầu quyến rũ nhau, họ có những dấu hiệu cho thấy lượng dopamine tăng cao như: đầy sức sống, ít cảm thấy đói hay buồn ngủ, tập trung sự chú ý và vui thích mãnh liệt với từng chi tiết nhỏ nhất trong mối quan hệ. Bartels cùng Zeki đã so sánh các bức hình chụp quét não (bằng kỹ thuật cộng hưởng từ - MRI) của nhiều người trong 3 trạng thái: đang ham muốn tình dục, đang cảm thấy hạnh phúc và đang say cocaine. Kết quả, họ phát hiện chúng hầu như giống nhau. Có thể chính bạn cũng đang nghiện yêu; hãy chấp nhận điều đó! Các bức hình chụp quét não sau đây cho thấy vùng não được kích hoạt khi "yêu điên cuồng" cũng sáng lên khi say Cocaine. Như vậy, cho dù bạn đang say cocaine hay say tình, hai cảm giác đó cũng giống nhau. Hơn nữa, việc chụp quét não còn phát hiện rằng hoạt động não của các bà mẹ khi họ nhìn con mình cũng tương tự hoạt động nào của những người đang yêu lúc họ nhìn nhau. Từ điều này, Bartels và Zeki kết luận: cả tình yêu nam nữ lẫn tình mẫu tử đều có liên quan đến ý thức duy trì nòi giống của con người, vì người yêu hay đứa bé đều là dấu hiệu hứa hẹn rằng DNA của họ sẽ được truyền lại cho thế hệ sau. Bản đồ của tình yêu và tình dục trong não Vào năm 2005, tiến sĩ Lucy Brown, giáo sư ngành Khoa học thần kinh thuộc Đại học Dược Albert Einstem ở New York, đã hợp tác với Helen Fisher thuộc Đại học Rutgers (Mỹ) - một trong những nhà nhân chúng sinh vật học nổi tiếng nhất thế giới - trong công trình nghiên cứu sử dụng kỹ thuật cộng hưởng từ - MRI để chụp quét não của 17 nam nữ thanh niên. 17 thanh niên này vừa mới bắt đầu yêu và họ tự cho rằng mình đang yêu say đắm - tức là họ hoặc đang ham muốn tình dục hoặc đang ở trong giai đoạn đầu của tình yêu lãng mạn. Nghiên cứu các bức ảnh này giúp giải thích những nguyên nhân sinh lý của các cảm nhận mà chúng ta cảm thấy khi đang yêu - tại sao tình yêu lại có quyền năng lớn như vậy và tại sao chúng ta lại vô cùng đau buồn, tuyệt vọng khi bị đối tượng từ chối. Brown cùng Fisher đã tiến hành nghiên cứu vùng não nhân đuôi (caudate nucleus) và chòm não (ventral tugmental) trong bộ não người. Vùng não nhân đuôi có liên quan đến sự thèm muốn, ký ức, cảm xúc, khả năng chú ý; còn chòm não là phần não mà từ đó các tế bào dopamine được bơm tới những khu vực khác của não. Những khu vực này đều sáng lên trong các ảnh MRI trên khi đối tượng nghiên cứu xem ảnh người yêu. Hơn nữa, Brown và Fisher còn so sánh dữ liệu MRI trên với những nghiên cứu khác về phản ứng “hưng phấn” của đàn ông trước ảnh phụ nữ hay các dữ liệu đã phân tích về những cặp đôi ở người và vật đã sống chung trong thời gian dài. Kết quả, hai nhà khoa học phát hiện rằng khi chúng ta yêu, chỏm não sẽ đổ đầy dopamine vào nhân đuôi. Nhân đuôi sau đó gửi tín hiệu nhằm lấy thêm dopamine, và càng nhiều dopamine, chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc. Ngoài ra, Brown và Fisher cũng khẳng định rằng “tình yêu điên dại” gây ra cảm giác tương tự như nghiện chất kích thích. Nguyên nhân là do hoạt động của hormone. Brown và Fisher cũng khám phá ra nhân đuôi là vùng não liên quan đến tình yêu lãng mạn, còn sự gắn bó lâu dài tập trung ở vùng phía trước lẫn nền não trong mặt bụng của nhân vỏ hến (ventral putamen) và cầu nhạt (pallieum). Những cảm giác liên quan đến sự khao khát, ham muốn tình dục nằm ở các vùng khác nhau, nhưng đa phần thuộc về bán cầu não trái. Điều quan trọng là nghiên cứu này đã xóa bỏ những bí ẩn của tình yêu diễn ra trong não và cho phép chúng ta có cái nhìn khách quan hơn về tình yêu. Tại sao nam, nữ lại cảm nhận khác nhau về tình yêu? Fisher và Brown, trong những nghiên cứu chung và riêng, đã phân tích các bức ảnh chụp quét não của 3.000 sinh viên đang yêu. (Các bức ảnh này được chụp trong lúc họ đang xem hình của người yêu.) Từ đó, hai ông phát hiện vùng nhân đuôi và vách ngăn hoạt động mạnh hơn ở những đối tượng nghiên cứu là nữ. Như đã đề cập, nhân đuôi là vùng não liên kết với ký ức, cảm xúc, sự chú ý; còn vách ngăn - hay được gọi là “trung tâm khoái lạc”/vỏ xương đính sau - là khu vực liên quan đến việc tạo ra các hình ảnh trong não đồng thời gợi nhớ ký ức. Ngược lại, não của những nam sinh viên trong cuộc nghiên cứu này lại hoạt động mạnh hơn ở khu vực vỏ thị giác và xử lý hình ảnh thị giác, trong đó bao gồm cả phần não chịu trách nhiệm kích thích ham muốn tình dục. Bartels và Zeki cũng đã đưa ra những kết luận tương tự như vậy trong cuộc nghiên cứu của họ. Các hình chụp quét não tiếp theo sau đây minh họa cho nghiên cứu của tiến sĩ Brown và chỉ ra vị trí của tình yêu trong não. Ngoài ra, chúng còn giải thích tại sao nam, nữ lại suy nghĩ rất khác nhau về tình yêu. Nhưng hình ảnh này chụp não của đàn ông và phụ nữ khi họ đang nhìn vào hình của người mà họ yêu say đắm. Như bạn có thể thấy, não của đàn ông có ít vùng sáng hơn so với phụ nữ, nhưng nếu quan sát hình màu, ta sẽ thấy chúng hoạt động mãnh liệt hơn trong khi các vùng não của phái yếu tuy rộng hơn nhưng hoạt động lại không mạnh bằng. Phái yếu không chỉ có nhiều vùng não được kích hoạt hơn mà vị trí của chúng cũng hoàn toàn khác biệt so với nam giới. Đây là bằng chứng cho thấy tại sao nam, nữ lại có cái nhìn rất khác nhau về tình yêu. Trong một nghiên cứu khác, Brown và Fisher đã cho các đối tượng nghiên cứu xem những bức ảnh khiêu dâm rồi tiến hành chụp quét não của họ. Tuy nhiên, trong lần này, hai nhà khoa học không thấy các vùng não trên sáng lên. Và như đã đề cập từ lúc đầu, các nhà khoa học phát hiện chỉ có vùng não dưới đồi (nơi điều khiển nhu cầu đói, khát) và hạch hạnh nhân (nơi kiểm soát ham muốn tình dục) là sáng lên. Điều cốt lõi là não trong tình yêu và não trong tình dục không giống nhau bởi chúng sử dụng những hệ thống khác nhau. Tóm lại, khoa học cho thấy trong giai đoạn chớm yêu, có hai tiến trình hoàn toàn khác nhau được sử dụng để đánh giá phái, đàn ông dùng đôi mắt của họ như một công cụ chủ yếu để đo lường khả năng tình dục của phái nữ, trong khi phụ nữ lại dựa vào trí nhớ để xem xét khả năng trở thành người bạn tình lâu dài của anh ta. Ham muốn tình dục lẫn tình yêu có những vị trí khác nhau trong não và chúng không phải là một. Bộ não đàn ông đánh giá như thế nào về sự hấp dẫn ở phụ nữ? Khi Bartels và Zeki cho đàn ông xem các bức ảnh chụp những người phụ nữ hấp dẫn, họ nhận thấy não của các đấng mày râu này hoạt động mạnh lên ở hai vùng: một có liên quan đến kích thích thị giác và một liên quan đến ham muốn (chà, ai mà đoán ra điều này nhỉ?). Phần lớn đàn ông đều thích hình dáng bên ngoài đồng thời thường xuyên ngắm phụ nữ, mơ tưởng về họ, thích đọc sách báo khiêu dâm, bởi thế điều vừa nêu không có gì đáng ngạc nhiên với đa số chúng ta. Ngoài ra, Bartels và Zeki còn phát hiện rằng khi những vùng não nêu trên của đàn ông sáng lên thì các vùng não điều khiển việc đánh giá đạo đức cũng mờ bớt!?! Mạng lưới thị giác ở nào của nam giới đã tiến hóa trong hàng triệu năm qua bởi họ cần nhìn ra người phụ nữ nào có khả năng sinh ra những đứa con khỏe mạnh để duy trì nòi giống. Nếu gặp được một cô gái trẻ, khỏe, đàn ông sẽ trở nên ham muốn và từ đó bắt đầu quá trình kết đôi. Đây chính là lý do khiến họ yêu nhanh hơn phụ nữ - bởi họ có nhiều động cơ trực quan hơn, và những thông tin thị giác ngay lập tức gửi tín hiệu đến nào để kích hoạt quá trình tiết hormone ồ ạt. Điều này cũng giúp giải thích tại sao các đấng mày râu hay yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thực chất, phái mạnh sử dụng đôi mắt của họ chủ yếu để đánh giá tiềm năng của người phụ nữ. Khi bị kích thích, cơ thể họ tràn đầy các hormone đồng thời trở nên ham muốn. Các hormone này có khả năng làm lu mờ lý trí và vì vậy dễ khiến họ đưa ra những quyết định không tốt nhất đối với mình. Điều vừa nêu sẽ trở thành vấn đề khi sự ham muốn che khuất cả đầu óc của anh ta. Tuy nhiên, nếu phụ nữ nào đã có kinh nghiệm về đàn ông, thì họ chẳng bao giờ ngạc nhiên về điều này. Các bức ảnh chụp quét não trong nghiên cứu của David Buss đã chỉ ra rằng những hành vi trên là hiện tượng phổ quát và có ở hầu hết mọi nền văn hóa. Bộ não của phụ nữ đánh giá như thế nào về sự hấp dẫn ở nam giới? Nghiên cứu các ảnh chụp quét não của phụ nữ mang lại nhiều kết quả khác hẳn so với đàn ông. Ở phụ nữ, khi đánh giá sự hấp dẫn của đàn ông, một số vùng não liên quan đến việc gợi nhớ ký ức được kích hoạt. Trong quá trình tiến hóa, đây là chiến lược thích hợp nhằm ghi nhớ chi tiết mọi hành vi của phái nam. Hàng trăm nghìn năm qua, phái yếu đã nhận lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng con cái cho đến khi chúng tự lập. Làm mẹ là một công việc vô cùng phức tạp và nó còn khó khăn hơn nhiều đối với phụ nữ so với bất kỳ loài động vật có vú nào. Người mẹ cần sự hỗ trợ, bảo vệ trong suốt quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc con cái. Ở thời kỳ tiền sử, nếu người bạn đời của phụ nữ chết đi, họ sẽ phải dồn hết sức lực để tìm người thay thế. Không giống như cánh đàn ông tiếp cận phụ nữ chỉ thông qua sự đánh giá ngoại hình, phụ nữ không thể chỉ nhìn một người đàn ông và biết liệu anh ta có thật thà, đáng tin cậy, đủ sức giết một con ngựa vằn bằng hòn đá cách đó 50 mét hoặc chịu chia sẽ thức ăn cho cô hay không. Phụ nữ ngày nay cũng áp dụng quá trình đánh giá tương tự như vậy để có thể nhớ những điều đại loại như: hôm qua, người đàn ông mà cô quan tâm đã nói gì, anh ta đã nói gì cách đây ba tuần hoặc ba tháng, anh ta đối xử như thế nào với trẻ con, liệu anh ta có tốt bụng và rộng lượng, anh ta cư xử ra sao với mẹ mình, quá trình làm việc lẫn tài sản của anh ta; và từ toàn bộ những điều đó, phụ nữ sẽ cân nhắc xem liệu anh ta có khả năng trở thành người bạn đời tương lai của mình hay không. Khi quan sát ngoại hình của một người đàn ông, phụ nữ sẽ nhớ lại tất cả những người đàn ông khác mà cô quen biết rồi liên tưởng đến tính cách riêng của họ. Sau đó, bộ não của cô bắt đầu giải mã các nét tính cách của người đàn ông đang ngồi trước mặt cô dựa theo những gì cô thấy được trên gương mặt của anh ta. Quá trình vừa nêu cũng giống như cô đang chơi trò xếp hình trong đầu mình về tính cách của người đàn ông mà cô quan tâm bằng cách ghép các mảnh tính cách của những người đàn ông khác. Điều này không có nghĩa là cô đúng. Nó chỉ đơn giản là cô đang xây dựng trong đầu mình tính cách của người đàn ông mà cô quan tâm dựa trên cơ sở những người đàn ông cô quen biết. Trong khi não của phái yếu đang nhớ lại dữ liệu về nhiều người đàn ông để đánh giá khả năng làm bạn đời của một người đàn ông, thì đàn ông lại lộ liễu ngắm nhìn thật lâu, thật kỹ cô nàng. Bây giờ chắc bạn đã hiểu vì sao phụ nữ không bao giờ quên còn đàn ông thì luôn bị bắt gặp nhìn chằm chằm vào phụ nữ rồi chứ. Tại sao ham muốn tình dục không có tính lâu dài? Trong nghiên cứu của mình, nhà tâm thần học Donatella Marazziti ở Đại học Pisa, Ý đã xem xét những thay đổi của hormone có liên quan đến chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive-compulsive disorder - viết tắt là OCD), đặc biệt, bà tập trung chú ý đến serotonin - một hóa chất có tác dụng an thần. Quá ít serotonin dẫn đến tính nóng nảy, tình trạng ám ảnh, tinh thần trầm uất, lo lắng. Các loại thuốc họ Prozác có thể giúp cải thiện tình trạng này bằng cách thúc đẩy quá trình tiết serotonin trong não. Do bị cuốn hút bởi cách mà những người mắc chứng OCD lẫn những người đang yêu đều có thể dành hàng giờ cho một vật hay người nào đó, và cả cách mà họ tuy biết sự ám ảnh của mình là vô lý nhưng vẫn không tài nào kiểm soát nổi, Marazziti đã đo lượng serotonin của 20 bệnh nhân OCD và 20 người đang “yêu điên cuồng”. Sau đó, bà so sánh kết quả này với kết quả đo được từ 20 người không bị OCD và 20 người không yêu. Trong khi những người bình thường có lượng serotonin bình thường thì hàm lượng này thấp hơn 40% ở những người bị OCD hay đang yêu. Để ước lượng được con số trên, các nhà khoa học đã đo mức độ hoạt động của loại protem chuyên chở serotonin có trong tiểu cầu của họ. Thí nghiệm này có thể giải thích vì sao trong giai đoạn đầu của tình yêu lãng mạn, các cặp yêu nhau thường bị ám ảnh bởi hình ảnh của người mình yêu. Sau đó một đến hai năm, Marazziti đã tiến hành kiểm tra lại nhóm đối tượng này và phát hiện rằng hormone ham muốn của họ đã hoàn toàn biến mất, còn lượng serotonin thì trở về mức bình thường, cho dù họ vẫn đang ở bên nhau. Những người yêu nhau thường hay thề nguyền với người kia rằng họ luôn yêu như thưở ban đầu, nhưng hormone của họ lại “kể một câu chuyện” hoàn toàn khác. Tạo hóa thật khôn khéo: nó đã thay đổi lượng hormone của chúng ta từ từ trong một thời gian đủ dài để hướng chúng ta nhắm đến mục đích tiến hóa - sinh con. Cũng sử dụng cùng một phương pháp để chọn tình nguyện viên, vào năm 2005, Enzo Emanuel cùng các đồng sự của ông ở Đại học Pavia, Ý, đã điều tra xem liệu chất dẫn truyền neurotrophin có liên quan đến tình yêu lãng mạn không. Sau đó, họ báo cáo rằng có sự tập trung quá mức bình thường các yếu tố tăng trưởng thần kinh trong máu của những tình nguyện viên đang yêu đắm đuối, và sự tập trung này tăng song song cùng cảm giác lãng mạn. Giống như Marazziti, nhóm nghiên cứu của Emanuel cũng phát hiện rằng sau một đến hai năm, tất cả các hóa chất tình yêu đều trở nên cạn kiệt cho dù khi đó hai người vẫn ở bên nhau. Như vậy, cả cảm xúc mãnh liệt lúc chớm yêu lẫn sự tập trung của những yếu tố tăng trưởng thần kinh đều không phải là nhân tố quyết định cho sự tồn tại lâu dài của một mối quan hệ. Thú vị thay, vào năm 2008, một nhóm nghiên cứu của Đại học Stong Brook ở New York, do tiến sĩ Anhur Aron đứng đầu, đã tiến hành quét não của những người yêu nhau được 20 năm rồi đem so sánh kết quả đó với các đôi tình nhân vừa chớm yêu. Họ phát hiện khoảng 10% số cặp yêu nhau 20 năm vẫn có những vùng não được kích hoạt và các phản ứng hóa học tương tự như những đôi tình nhân mới. Vậy là một số chúng ta vẫn còn có hy vọng. Trong khi đó, tại bệnh viện Whitchurch ở Cardiff, xứ Wales, nhà hóa sinh Abdulla Badawy đã chứng minh rằng bia rượu làm giảm nồng độ serotonin trong não. Hàm lượng serotonin thấp dẫn đến mất khả năng kiềm chế và tạo ra ảo giác khiến một người có vẻ ngoài bình thường ngồi trong góc quán rượu cũng trở nên hấp dẫn đến mức khó tin. Toàn bộ nghiên cứu trên đã đưa ra một thông điệp rất rõ ràng dành cho những người đang tìm kiếm một tình yêu bền vững: hãy chờ đợi hai năm trước khi quyết định gắn bó lâu dài về mặt tình cảm hay tài chính với ai đó - và nhớ cẩn thận khi bạn đến nhấm nháp ở quầy bar. Nhưng, nếu tất cả các chất dẫn truyền cảm giác lãng mạn đều biến mất trong vòng hai năm thì chất keo nào đã giữ hai người yêu nhau tiếp tục sống chung với nhau trong suốt một thời gian dài? Không phải tất cả các chất đều biến mất - và chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này trong những chương tiếp theo. Chuyện gì xảy ra khi bạn bị “đá”? Một lý do khiến những người mới yêu cảm thấy tim như ngừng đập là khả năng và nỗi sợ không được đối phương đáp lại trọn vẹn, đồng thời giấc mơ có thể kết thúc bất kỳ lúc nào. Trong một thí nghiệm khác, tiến sĩ Fisher, Brown và Aron đã thực hiện quét não 40 nam nữ thanh niên vừa mới bị người yêu chia tay. Cũng giống như nghiên cứu của Brown và Fisher vào năm 2007 về các cặp mới yêu, lần này, các nhà nghiên cứu đã so sánh hai nhóm hình ảnh: một nhóm được chụp lúc đối tượng đang nhìn hình người bạn, còn nhóm kia là lúc họ nhìn hình người yêu cũ. Kết quả cho thấy khi bạn nhìn hình người mới chia tay mình, những vùng não liên quan đến nỗi đau thể xác, hành vi ám ảnh cưỡng chế, sự liều lĩnh và khả năng kiểm soát nỗi giận dữ đều được kích hoạt. Ba nhà khoa học còn phát hiện rằng khi bị bỏ rơi, các vùng não này thậm chí còn sáng hơn khiến bạn càng cảm thấy người đã từ chối mình hấp dẫn hơn. Tương tự như phản ứng chống-trả-hay bỏ-chạy, não của bạn sẵn sàng cố gắng thêm ít nhất một lần nữa để thu hút lại sự chú ý của đối phương nhằm tránh bị đau đớn. Đây là cơ chế xử lý tình huống của não. Tuy nhiên, khi cuối cùng bạn chấp nhận sự thật rằng mình đã bị từ chối và ruồng bỏ thì những vùng não liên quan đến sự tuyệt vọng sẽ được kích hoạt. Khi các đối tượng nghiên cứu trên nhìn vào hình của người yêu cũ, hệ thống dopamine - một hệ thống liên quan đến cơn nghiện và sự sung sướng - trong não của họ cũng được kích hoạt. Điều này không xảy ra khi họ xem hình của bạn bè. Ảnh chụp quét não những người thất tình trên đã giải thích lý do vì sao một mối tình tan vỡ lại có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Khi một người bị từ chối, các hormone hạnh phúc như dopamine sẽ biến mất, và thay vào đó là những hóa chất gây ra sự trầm cảm, từ đó làm hệ miễn dịch suy giảm, khiến bệnh tật nhiều hơn. Kinh nghiệm cho thấy, cứ một năm trong mối quan hệ cũ, bạn sẽ phải mất khoảng một tháng để giải tỏa tâm lý và các hormone trở lại trạng thái ổn định, bình thường. Giả sử, mối quan hệ cũ của bạn kéo dài hai năm, thì bạn sẽ phải mất khoảng hai tháng mới quên được nỗi đau đồng thời tươi tỉnh trở lại. Điều này giải thích tại sao những cụ ông, cụ bà lớn tuổi khi mất đi người bạn đời đã sống cùng mình 50 năm có thể sẽ không bao giờ vượt qua nổi nỗi đau trái tim tan vỡ. Tóm tắt Về cơ bản, ham muốn tình dục là kết quả của sự kết hợp nhiều loại hóa chất do não giải phóng vào màu. Các hóa chất này kích thích việc sản xuất hormone, chủ yếu là testosterone và oestrogen. Hoàn cảnh xung quanh cũng góp phần kích hoạt nào giải phóng hóa chất. Ví dụ: một bài hát, một mùi hương đặc biệt hay một người có vẻ ngoài nào đó. Khi càng lớn tuổi, lượng hormone, đặc biệt là testosterone trong cơ thể chúng ta càng giảm. Tiêm testosterone ngày nay đã trở nên phổ biến ở cả nam nữ tuổi trung niên khi ham muốn tình dục của họ đang dần suy giảm. Chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này nhiều hơn ở phần sau, nhưng điều quan trọng là bạn phải biết rằng những tưởng tượng lãng mạn, cảm giác yêu thương tâm trạng buồn vui thất thường mà bạn có thể trải nghiện lúc chớm yêu đều là kết quả của các hóa chất trong cơ thể, vì vậy, đó không phải là cuộc gặp gỡ bí ẩn giữa hai tâm hồn như nhiều người vẫn nghĩ. Ít nhất thì khoa học đã tiết lộ nhiều điều về tình yêu, nỗi ham muốn, tình dục và sự gắn bó lâu dài mà hàng nghìn năm nay bị che giấu trong vẻ ngoài bí ẩn cùng những điều tưởng tượng. Ngành khoa học này cũng giống như hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) dành cho tình yêu trong bộ não. Vài người đã trở nên lo lắng về điều này và cho rằng những nghiên cứu kiểu như vậy sẽ làm mất đi sự kỳ diệu, phấn khích, lãng mạn của tình yêu. Nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược. Khi hiểu được điều gì đang thôi thúc mình lựa chọn như vậy và tình yêu có nền tảng khoa học lẫn sinh học chứ không phải là một thế lực siêu nhiên, bạn sẽ có thể kiểm soát tốt hơn sự lựa chọn của mình đồng thời cải thiện những điểm mình còn yếu kém trong trò chơi tình ái, bất chấp sự thật rằng não của bạn đã được lập trình theo cách khác. Thay vì viện cớ “hormone của tôi khiến tôi hành động như thế”, bây giờ, bạn có thể nắm quyền chủ động và quyết định hướng đi của mình. Cùng với các yếu tố sinh học trong cơ thể, những yếu tố khác cũng gây ảnh hưởng nhưng bạn sẽ có khả năng kiểm soát được tất cả chúng sau khi đọc xong sách này. Khi hãng BMW lần đầu tiên cho ra đời chiếc xe ô tô có hệ thống định vị toàn cầu GPS, một số người đã phản đối rằng nó làm mất đi niềm vui của việc lái xe và khám phá những vùng đất mới. Thật ra, những gì mà GPS làm là để người lái không phải nản chí lẫn bực bội khi tốn thời giờ vô ích trong các ngõ cụt hay đi nhầm đường. Đôi khi đi lạc cũng rất thú vị, nhưng với công nghệ mới, bạn luôn có sẵn phương án dự phòng bên mình, và đó là nội dung của những chương tiếp theo. • Thực chất, niềm ao ước và nhu cầu tình dục của chúng ta đã không hề thay đổi trong hàng trăm nghìn năm qua. • Tình yêu, sự khao khát, lãng mạn lẫn nỗi ham muốn tình dục đều là các phản ứng hóa học được kích hoạt trong não. • Khoa học đã chứng minh rằng nam, nữ có cài nhìn không giống nhau về quan hệ yêu đương và tình yêu được phân bố ở những vùng hoàn toàn khác nhau trong bộ não của hai phái. • Khi hiểu rằng sự ham muốn lẫn các cảm giác của mình là do những phản ứng hóa học trong não điều khiển, bạn có thể học cách xử lý chúng, thay vì ngược lại. CHƯƠNG 2 CUỘC NÓI CHUYỆN THẲNG THẮN VỀ TÌNH YÊU VÀ TÌNH DỤC Trước tiên chúng ta hãy đề cập đến câu hỏi này: Tại sao con người lại quan hệ tình dục? Có lẽ bạn nghĩ câu trả lời đã quá hiển nhiên hoặc câu hỏi trên thật ngu ngốc. Bạn hãy nghĩ đi - tình dục, sự lãng mạn, tình yêu đều là những quá trình đeo đuổi tốn nhiều thời gian và tiền bạc. Ăn tối, đi nghỉ mát, nhắn tin gọi điện thoại triền miên, các quà tặng xa xỉ, cưới xin, ly thân rồi ly hôn đều rất mất thời gian và tốn kém. Tất cả là vì cái gì? Rốt cuộc cũng chỉ để tiếp tục dòng gen di truyền của bạn. Tất cả chỉ là để duy trì DNA của chúng ta. Đối với con người, tình dục - vốn đã được lập trình sẵn - còn phục vụ cho nhiều mục đích khác. Nhờ nó mà người ta củng cố quyền lực, địa vị hay chơi đùa, gắn bó với người khác - điều này cũng xảy ra ở một số loài linh trưởng như khỉ Bonobo chẳng hạn. Nhưng không phải tất cả mọi loài đều cần quan hệ tình dục để sinh sản. Một số loài thực vật, vi khuẩn, động vật không xương sống (như giun) không quan hệ tình dục - chúng chỉ đơn giản là tự nhân đôi chính mình. Đây gọi là sinh sản vô tính, vấn đề là sinh sản vô tính tạo ra thế hệ con hoàn toàn giống với bố/mẹ nên chúng cũng không khỏe hơn hay có khả năng thích nghi tốt hơn bố/mẹ chúng, vì vậy, chúng ít có khả năng sống sót hơn khi môi trường thay đổi. Một con cái được sinh sản vô tính chỉ có thể sống trong điều kiện môi trường mà mẹ nó thích nghi được[1, nhưng môi trường thì luôn thay đổi. Bằng cách kết hợp gen của hai cá thể khác nhau, chúng ta có khả năng sinh ra một thế hệ con khỏe mạnh hơn và thích nghi tốt hơn cả bố lẫn mẹ. Hiện tượng này đã được Manhew Goddard ở Đại học Auckland, New Zealand, chứng minh vào năm 2007. Trong nghiên cứu của mình, ông đã so sánh hai loại lúa mì - một sinh sản hữu tính và một sinh sản vô tính. Trong điều kiện môi trường ổn định, cả hai dòng lúa này đều cho sản lượng tương đương, nhưng khi các nhà khoa học tăng nhiệt độ phòng thí nghiệm lên nhằm tạo môi trường khắc nghiệt hơn, thì dòng lúa sinh sản hữu tính thích nghi tốt hơn nhiều. Sau 300 thế hệ, tỉ lệ sinh trưởng của dòng lúa này tăng đến 94%, còn ở dòng lúa sinh sản vô tính chỉ có 80%. Định kiến xã hội đã thay đổi ra sao theo thời gian? Trước những năm 1940, tuổi 42 vẫn được coi là trung niên. Những người tuổi 50 không còn gì để mong chờ ngoài việc về hưu, và 60 nghĩa là đã già. Nhưng rồi những người như Rod Stewart, Mickjagger, Sean Coanery, David Bowie, Cher, Hugh Hefner, Madonna, Joan Collin, Paul McCartney đã thách thức quan niệm này, và họ không phải là hiện tượng cá biệt. Thế kỷ 21 sẽ là thời gian tốt đẹp cho những người trên 40 tuổi. Đây là lớp người được sinh ra hoặc sống vào những năm 1960, 1970 - giai đoạn tác động mạnh mẽ đến lối sống và văn hóa hiện đại. Những người thuộc thế hệ này đang tận hưởng sức khỏe, tuổi thọ, đồng thời biết cách quay ngược bánh xe thời gian của quá trình lão hóa. Mãi đến nữa sau thế kỷ 20, một phụ nữ ngoài 40 tuổi vẫn được xã hội nhìn nhận như một người đã ổn định, yên bề gia thất, dành nhiều thời gian cho gia đình, thành thạo máy cắt bánh mì hơn máy massage. Cuộc đời họ thật buồn chán, tẻ nhạt, thiếu vắng sự lãng mạn, tình dục và niềm phấn khích - hệt như thời Victoria. Hiện nay, mẫu phụ nữ trên 40 tuổi có dáng dấp lẫn thái độ đều giống với phụ nữ tuổi 30 hơn. Đấy là thế hệ con người đầu tiên không chấp nhận quá trình lão hóa. Sau đấy là những con số thống kê về sự thay đổi trong vài khía cạnh xã hội ngày nay. Các con số này được thu thập vào năm 2008, do các Cục Thống kê và Dữ liệu, Trung tâm Sức khỏe Quốc gia của gần 30 nước phương Tây cung cấp; trong đó có Anh, Úc, New Zealand, Mỹ, Canada, Đức, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha: 1. Độ tuổi trung bình hiện nay của chú rể là 34, còn cô dâu là 32. (Thêm 3 tuổi nữa cho cả hai đối tượng này để có độ tuổi trung bình khi họ kết hôn lần thứ hai.) 2. Vào năm 2008, độ tuổi trung bình của những phụ nữ làm mẹ lần đầu tiên là 30 và 1/6 các cặp vợ chồng dùng biện pháp thụ tinh trong ống nghiệm để thụ thai vì kém khả năng sinh sản. 3. Từ năm 1988 đến năm 2007, độ tuổi ly hôn trung bình của đàn ông đã tăng từ 37,6% lên 44,2%; còn ở phụ nữ là từ 34,8% lên 41,3%. 4. Khi kết hôn, chỉ có 36% các cặp chọn làm lễ ở nhà thờ. 5. Khoảng 80% các cặp ngủ riêng vì một người không chịu nổi tiếng ngáy của người kia. Những chuyện như trên chưa từng xảy ra ở các thế hệ cha ông và chúng cho thấy có sự thay đổi lớn trong thái độ của chúng ta đối với các mối quan hệ. Hiện nay, con người được nghiên cứu như thế nào? Con người đang ngày càng được nghiên cứu theo tiêu chuẩn tiến hóa của các nhà nghiên cứu hành vi động vật. Những mảng nghiên cứu này bao gồm tâm lý học tiến hóa, sinh vật học tiến hóa, sinh thái học hành vi con người và sinh vật xã hội học loài người. Nói chung, chúng ta gọi tất cả những lĩnh vực trên là “tâm lý học tiến hóa loài người” (human evolutionary psychology - viết tắt là HEP) bởi chúng có chung mục tiêu là tìm hiểu hành vi con người xét về phương diện tiến hóa. Nhiều nhà nghiên cứu HEP đã bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình bằng việc nghiên cứu hành vi động vật, và vì vậy nghiên cứu HEP cũng gần giống như nghiên cứu hành vi của các loài động vật khác, bởi nó dựa trên nguyên tắc hành vi con người cũng tiến hóa theo cùng cách với hành vi động vật. Nhưng có một điểm khác: trong nghiên cứu HEP, đối tượng có thể nói. Điều này vừa thuận lợi vừa khó khăn cho các nhà nghiên cứu. Hiểu được HEP nghĩa là chúng ta có thể dự đoán chính xác hơn cách phản ứng của con người. Ví dụ, những con công trống đã tiến hóa với bộ lông rực rỡ vì các nàng công mái lúc nào cũng thích những chàng công có lông đuôi lộng lẫy, sặc sỡ và lòe loẹt. Công mái sẽ phớt lờ các chàng công có bộ lông xấu xí bởi vì chỉ có những con công trống yếu ớt mới không có khả năng tạo ra bộ lông đuôi đẹp mắt. Tác động tiến hóa đã loại ra những con công trống trông xấu xí bởi vì bọn công mái không chịu kết đôi với chúng. Tương tự loài công, chiến lược tìm kiếm bạn đời của con người cũng diễn ra ở cấp độ vô thức. Giống như các loài động vật khác, con người luôn có chiến lược trong quá trình kết đôi và họ chưa bao giờ bắt cặp bừa bãi - bất kể chúng ta thích nghĩ gì đi nữa. Lấy ví dụ đơn giản, phái yếu luôn tìm kiếm một người đàn ông có khả năng chu cấp lương thực, chỗ ở cùng sự bảo vệ. Bởi thế, những đấng nam nhi thiếu các điều kiện trên ít có cơ may truyền lại bộ gen của mình cho thế hệ sau. Tại sao yêu và được yêu lại quan trọng đến vậy? Kể từ khi ngành Y được chính thức xác lập vào thế kỷ 18, các bác sĩ cảm thấy rất khó chấp nhận bất kỳ quan điểm nào về tuổi thọ con người mà chỉ có lý thuyết suông. Ngày nay, những cuộc nghiên cứu tiết lộ rằng yêu và được yêu sẽ giúp chúng ta sống lâu hơn, đồng thời không có yếu tố nào khác - như di truyền, chế độ ăn uống, lối sống hay thuốc men - có tác dụng rõ ràng như tình yêu. Tiến sĩ Dean Ornish, tác giả cuốn sách mang tính đột phá Stress, Diet and your Heart, là nhà tiên phong trong việc nghiên cứu tuổi thọ con người, đồng thời là nhà khoa học đầu tiên trong lĩnh vực y học chứng minh rằng căn nguyên lẫn cách chữa trị các căn bệnh như bệnh tim đều nằm ở lối sống và những mối quan hệ yêu thương xác thực mà chúng ta có được trong cuộc đời. Vào đầu những năm 1950, ông đã báo cáo kết quả của công trình nghiên cứu mang tên Mastery of Stress ở Đại học Harvard. Trong công trình này, các nhà nghiên cứu đã gửi bản câu hỏi cho 156 người đàn ông khỏe mạnh để đánh giá cách họ cảm nhận về bố mẹ mình, sau đó xếp hạng mối quan hệ của họ với bố mẹ từ “gần gũi, ấm áp” đến “căng thẳng, lạnh nhạt”. 35 năm sau, các nhà nghiên cứu phát hiện 91% những người tự cho rằng mình không gần gũi mẹ bị mắc các căn bệnh nghiêm trọng ở tuổi trung niên; và con số này chỉ có 45% đối với những người tự nhận mình gần gũi mẹ. Khi đánh giá mức độ gần gũi bố, 82% những người ít thân thiết, gần gũi bố bị bệnh nghiêm trọng; còn trong nhóm người gần gũi bố, con số này là 50%. Đáng kinh ngạc là 100% những người tự nhận mình không có mối quan hệ gần gũi với cả bố lẫn mẹ đều bị chẩn đoán là mắc các căn bệnh nghiêm trọng khi họ bước vào tuổi trung niên. Các nhà nghiên cứu thuộc khoa Y ở Đại học Case Western Reserve, Cleveland, Ohio đã gửi bản câu hỏi đến 8.500 đối tượng là đàn ông không có tiền sử loét tá tràng rồi theo dõi họ trong 5 năm. Kết quả là sau 5 năm, người ta thấy có 254 đối tượng bị loét tá tràng, nhưng đáng ngạc nhiên là ở những đối tượng đã trả lời “Vợ tôi không yêu tôi” thì số ổ loét nhiều gấp ba lần so với các đối tượng nói rằng mình được vợ yêu thương. Trong một thí nghiệm khác cũng kéo dài 5 năm, nhóm nghiên cứu trên đã theo dõi 10.000 người đàn ông đã lập gia đình và không có tiền sử đau thắt ngực. Kết quả, những người đàn ông trả lời “Có” cho câu hỏi “Vợ bạn có yêu bạn không” ít bị đau thắt ngực hơn, bất chấp các nguy cơ khác có khả năng gây ra căn bệnh này trong cuộc sống của họ. Những nhà khoa học cũng phát hiện rằng, nguy cơ mắc bệnh của người đàn ông càng cao, thì tình yêu của người vợ càng giúp anh ta giữ được sức khỏe. Các cuộc nghiên cứu hiện đang tiến hành cho thấy cảm xúc đóng vai trò rất quan trọng. Nó như một lớp đệm giúp chúng ta chống lại căng thẳng và từ đó giảm nhiều bệnh tật. Như vậy, có phải điều này nghĩa là nếu một người nào đó có mối quan hệ xấu với bố mẹ thì họ sẽ bị chết vì một căn bệnh như ung thư không? Thật may mắn là không! Nghiên cứu trên còn cho thấy một mối quan hệ gần gũi, yêu thương lúc trưởng thành sẽ mang lại cảm giác an toàn đồng thời bù đắp những mất mát trong tình cảm với bố mẹ trước đó. Tuy nhiên, nếu một người tiếp tục gặp các mối quan hệ xấu tương tự như hồi còn bé thì họ có thể sẽ trở thành những bệnh nhân tiềm năng của các chứng bệnh nghiêm trọng sau này. Ngày nay, nhiều cuộc nghiên cứu ở khắp mọi nơi cho thấy những người có gia đình sống thọ hơn và có tỉ lệ tử vong vì bệnh thấp hơn so với những người độc thân, ly thân, mất đi bạn đời hay ly hôn. Không những thế, khả năng sống được hơn 5 năm sau khi bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư của những người đã có gia đình cũng cao hơn. Các cuộc nghiên cứu trước đấy còn cho thấy những người đã kết hôn có sức khỏe tốt hơn so với các cặp sống không hôn thú. Đó là vì hôn nhân mang lại cảm giác an toàn trong tình cảm hơn (đặc biệt là đối với phụ nữ), bởi nó thông báo cho những người khác biết rằng người bạn đời của họ không còn “tự do” nữa. Hôn nhân đồng nghĩa với ít căng thẳng hơn, nhiều cảm giác an toàn hơn và tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể. Linda Waite, chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Dân số Hoa Kỳ, đã tiến hành một cuộc nghiên cứu và phát hiện rằng hôn nhân kéo dài cuộc sống cho cả hai phái. Trung bình, đàn ông kết hôn sống thọ hơn đàn ông không kết hôn 10 năm; còn ở phụ nữ, con số này là 4 năm. Tóm lại, những người đã kết hôn sống lâu hơn đồng thời ít bị bệnh hơn so với những người không kết hôn. Bảy dạng tình yêu Đối với nhiều người, đặc biệt là đàn ông, tình yêu là sự bí ẩn lớn. Khi phụ nữ nói “yêu”, họ khó lòng biết được thật ra cô ta muốn nói gì. Nàng nói với chàng “em yêu anh”, và sau đó là “yêu sushi”, “yêu con cún”, “yêu mua sắm”, v.v. Bây giờ thì chàng cảm thấy lúng túng vì không biết mình nằm ở đâu giữa mấy cuộn sushi California, việc mua sắm quần áo và những con chó săn giống Labrador của nàng. Vấn đề là hầu hết các ngôn ngữ hiện đại chỉ có duy nhất một từ dùng để chỉ thứ tình cảm nhiều sắc thái mà chúng ta gọi là “tình yêu”. Ngôn ngữ cổ có nhiều kiểu tình yêu và mỗi kiểu lại được diễn tả bằng một từ khác nhau. Tiếng Ba Tư cổ có 78 từ, tiếng Hy Lạp có 4, tiếng La tinh có 5, còn tiếng Anh chỉ có 1. Ngày nay, tình yêu được chia thành 7 loại: 1. Tình yêu lãng mạn - hấp dẫn về thể xác, cảm giác giới tính, lãng mạn và hormone hoạt động. 2. Tình yêu thực dụng - yêu công việc, mua sắm hay bánh pizza. 3. Tình yêu cao cả - yêu Tổ quốc, yêu chính nghĩa, Thượng Đế hay tôn giáo. 4. Tình yêu ám ảnh - ghen tức, ám ảnh hoặc các cảm xúc nhất thời nhưng vô cùng mạnh mẽ. 5. Tình yêu bằng hữu - dành cho bạn bè, hàng xóm. 6. Tình yêu cộng đồng - dành cho đồng đội và những người cùng chí hướng. 7. Tình yêu gia đình - yêu trẻ con, bố mẹ, anh em. Vậy, khi lần đầu nghe một phụ nữ nói rằng “em yêu anh”, đàn ông thường nghĩ gì? chỉ mới gần đây thôi, anh ta cảm thấy mối quan hệ giữa hai người đang cực kỳ tốt đẹp - nhiều yêu thương, nhiều tiếng cười và những buổi hẹn hò vui vẻ. Thế nhưng bây giờ anh ta đang vẽ ra viễn cảnh của sự ràng buộc, hôn nhân, gia đình nhà vợ, con cái, nỗi nhàm chán, từ bỏ các thú vui, sự hành hạ về tinh thần, v.v. Với phụ nữ, tình yêu đồng nghĩa với sự chung thủy một vợ một chồng, xây dựng tổ ấm, gia đình và những đứa con - tuy tất cả những thứ được phái yếu cho là quan trọng này lại có thể khiến một số đàn ông kinh hoàng! Bản đồ tình yêu của chúng ta “Bản đồ tình yêu” là một bản thiết kế về những điều mà chúng ta cảm thấy hấp dẫn. Chiếc phiếu chấm điểm ngầm này được chúng ta dùng để đánh giá mức độ thích hợp của bạn tình. Cách chúng ta quyết định ai là người chinh phục trái tim mình được xác định bởi cả phần bản năng sẵn có trong não lẫn những tiêu chí được hình thành từ thưở ấu thơ của chúng ta. Các tiêu chí này dựa trên những điều chúng ta đã thấy và trải nghiệm, chẳng hạn: các từ ngữ hay lời nói của bố mẹ, những điều họ cho là quyến rũ, đáng sợ hay ghê tởm, các điều mà bạn bè thời bé cho là tốt hay xấu, những điều mà thầy cô nghĩ là đáng trách hay đáng khen, và nhiều thứ vụn vặt khác mà chúng ta từng tiếp xúc. Các nhà khoa học sau khi nghiên cứu về cách chọn lựa bạn đời của con người đã tin rằng bản đồ tình yêu bắt đầu hình thành khi chúng ta lên 6 tuổi rồi hoàn thiện dần cho đến tuổi 14. Nhưng có hai điều chắc chắn là: phụ nữ dùng khả năng chu cấp của đàn ông để làm thước đo cơ bản, còn đàn ông dựa vào vẻ trẻ trung, sức khỏe và sắc đẹp của phụ nữ để đánh giá họ. Lúc 4 tuổi, bạn muốn kết hôn với bố, mẹ, người chăm sóc, anh hay chị của mình. Các nhà khoa học phát hiện rằng chúng ta không còn bất kỳ sở thích “lãng mạn” nào như trên vào lúc chúng ta 7 tuổi - khi những người ở xa, mơ hồ, bí ẩn hơn trở nên hấp dẫn ta. Tình trạng không thích người thân thuộc diễn ra là do nồng độ của một loại hóa chất có trong não - đã được minh chứng qua thí nghiệm nổi tiếng “chiếc áo thun đẫm mồ hôi” (the sweaty T-shirt). Trong thí nghiệm này, người ta yêu cầu phụ nữ ngửi áo thun của một số người đàn ông rồi đánh giá mức độ hấp dẫn của chúng. Kết quả, hệ miễn dịch của người đàn ông nào càng gần với hệ miễn dịch của người phụ nữ tham gia thí nghiệm - ví dụ như anh trai, chú, cha - thì áo thun của họ càng ít lôi cuốn hơn. Áo thun của người có hệ miễn dịch càng khác xa với các cô thì càng gây thích thú. Hiện tượng này cũng tồn tại ở những loài động vật có vú khác và nó như một quá trình tiến hóa nhằm tránh giao phối với các cá thể quá gần gen - điều có thể dẫn đến những vấn đề sinh học cho thể hệ sau. Đây chính là kết quả của sự chọn lọc tự nhiên: cá thể dễ thích nghi nhất sẽ sống sót. Bên cạnh đó, thời điểm cũng là yếu tố quan trọng trong sự hấp dẫn. Nếu bạn đang trải qua các sắc thái cực đoan trong tình cảm như nỗi thất vọng, cô đơn, ly hôn hoặc đang ăn mừng chiến thắng, não của bạn sẽ tìm kiếm những người có thể thỏa mãn nhu cầu tình yêu của bạn ở thời điểm đó. Hoàn cảnh thay đổi dẫn đến sự thay đổi của nồng độ hormone và bản đồ tình yêu trong não bạn bắt đầu hoạt động. Môi trường thay đổi cũng gây tác động tương tự. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy khi đi nghỉ mát hay tham dự hội thảo công việc, khi đang phấn khích, thư giãn hay thoát khỏi những ràng buộc gia đình thường ngày, lượng dopamine trong cơ thể chúng ta thường tăng cao, khiến chúng ta yếu lòng hơn đồng thời dễ rơi vào tình yêu hay bắt đầu một “phi vụ” tình cảm mới. Trong cả hai trường hợp, tác nhân thật sự chính là hormone. Cách Hollywood cùng các phương tiện truyền thông tác động lên quan điểm của chúng ta Mỗi diễn viên là một kẻ nói dối chuyên nghiệp, và diễn viên nào thuyết phục được chúng ta tin vào nhân vật của họ nhất sẽ đoạt giải Oscar. Thế giới Hollywood toàn là những hình ảnh giả mạo, sự lãng mạn được dàn dựng và vẻ quyến rũ nhân tạo, nhưng nhiều người (cả đàn ông lẫn phụ nữ) đều cứ kỳ vọng thể hiện chúng trong cuộc đời thật. Các diễn viên tạo ra những ảo ảnh đầy thuyết phục đồng thời sử dụng các hiệu ứng đặc biệt trên màn ảnh mà chúng ta không thể nào làm được trong thực tế. Nhưng những hình ảnh giả tạo này đã ăn sâu vào đầu óc chúng ta suốt hai thế hệ qua và kết quả là phái yếu đang cố gắng bắt chước theo một nữ minh tinh hoàn hảo nào đó trên màn ảnh, còn đàn ông thì hy vọng sẽ trở nên hấp dẫn, cuốn hút, lãng mạn hơn bất kỳ thời đại nào trong lịch sử con người. Lần gần đây nhất bạn đến ăn tối ở một nhà hàng sang trọng trên chiếc Limousine hào nhoáng, xức nước hoa chanel, mặc đồ Versace, đeo đồng hồ Rolex, đẹp đẻ dưới mái tóc hoàn hảo và dáng vẻ của một vị thần, rồi dùng bữa trong nên nhạc của 30 nhạc cụ là khi nào? ô, đó chính là hình ảnh mà bạn đang cố gắng vươn đến cũng như mong muốn sẽ đạt được. Những hình ảnh trên là các mức độ phi thực tế mà truyền thông ngày nay đang liên tục nhồi nhét vào đầu chúng ta, và đó chính là áp lực mà mỗi chúng ta đều phải chịu đồng thời sẽ sống theo nó. Nhiều phụ nữ ảo tưởng rằng họ có thể tìm được một người chồng giàu có, đẹp trai như nam siêu sao điện ảnh Hollywood, Brad Pitt, trong khi thực tế họ đã có một ông chồng làm nghề sửa xe ở nhà với thu nhập trung bình. Ranh giới giữa thực tế và tưởng tượng trở nên mơ hồ. Khi bắt đầu một mối quan hệ tình cảm mới, nhiều người đàn ông, do bị kích thích bởi các mong muốn phi thực tế của phụ nữ, đã cố gắng thể hiện khiến phụ nữ ảo tưởng rằng họ có thể đạt được một số hình ảnh trên. Phải yêu thích những anh chàng như trong phim Days of Our Lives[2]> bởi anh ta biết chính xác các điều phụ nữ muốn đồng thời luôn đáp ứng chúng. Tuy nhiên, trước sau gì thì phụ nữ cũng nhận ra rằng chồng mình thật ra chỉ là người đàn ông bình thường và thế là ảo tưởng hồi còn quen nhau tan biến, chính những kỳ vọng viễn vông đó đã góp phần lớn vào sự đổ vỡ của các cuộc hôn nhân. Mỗi ngày, phụ nữ tiếp xúc với hàng trăm hình ảnh về “những người đàn ông kiểu mới” trong các tình huống lãng mạn giả tạo. Đây là những người đàn ông có vẻ ngoài phong trần nhưng lại suy nghĩ, nói năng, hành xử “giống” phụ nữ. Họ có cơ thể săn chắc, quần áo đắt tiền, ngực đầy lông, râu tóc cắt tia gọn gàng, đồng thời thích nghe phụ nữ tâm sự về các mối quan hệ lẫn cuộc sống của họ. Những hình ảnh này xuất hiện nhan nhân trên khắp các tờ tạp chí dành cho phụ nữ khiến một số phụ nữ cảm thấy mình là người duy nhất không lấy được một anh chàng hấp dẫn như trong phim The Young and The Restless[3]. Kết quả là, nhiều cuộc nghiên cứu tiết lộ rằng, những phụ nữ dành nhiều thời gian để đọc các cuốn tiểu thuyết lãng mạn về những chuyện tình tưởng tượng chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống của mình mặc dù các nhà nghiên cứu cũng phát hiện là họ thường dễ đạt khoái cảm khi quan hệ tình dục hơn so với những phụ nữ không đọc. Tại sao thế kỷ 21 lại khắc nghiệt hơn đối với đàn ông? Các bậc mày râu được sinh ra trước những năm 1960 là thế hệ đàn ông cuối cùng được nuôi dạy rằng để hấp dẫn phụ nữ, họ cần phải có việc làm, sở thích riêng cùng một nhà kho chứa đầy dụng cụ làm vườn. Họ nên bước tới mở cửa cho phụ nữ, không bao giờ dùng những từ ngữ khó nghe khi nói chuyện với các nàng, uống nhiều bia và tôn thờ John Wayne cùng Cary Grant. Đó hầu như là tất cả những gì đã từng là tiêu chuẩn để trở thành một người đàn ông thật sự. John Wayne[4] là hình mẫu lý tưởng của phái nam bởi vì ông ta vô cùng cộc cằn, nghiêm khắc nhưng lại tôn trọng phụ nữ và rất công bằng. Từ những năm 1970, cùng với sự trỗi lên của nhiều xã hội phương Tây cổ vũ cho nữ quyền, mức mong đợi của phụ nữ vào đàn ông lẫn mối quan hệ tình cảm của họ đã thay đổi. Phụ nữ ngày nay kỳ vọng nhiều hơn đối với nam giới - hơn tất cả những gì mà các thế hệ phụ nữ xưa từng dám mơ tưởng. Mãi đến trước những năm 1970, các cô gái vẫn phải tìm cho mình một người đàn ông để được xã hội tôn trọng, sinh con hợp pháp hay thậm chí là vay tiền ngân hàng. Hiện nay, tình trạng này không còn tồn tại nữa. Giờ đây, phụ nữ được tự do đòi hỏi nhiều hơn ở nam giới. Vì vậy, nhiều đấng mày râu đã cố gắng không ngừng để đáp ứng những kỳ vọng của họ, nhưng do các tiêu chuẩn bổ sung của phụ nữ thường mang ý nghĩa cô ta đòi hỏi cánh đàn ông phải suy nghĩ như mình - ví dụ: nhận ra sự buồn bã, thất vọng của người khác, luôn nói về những cảm xúc hay bàn luận về các vấn đề mà không cần đưa ra giải pháp (đây là những thứ không nằm trong bản năng của đàn ông) - nên họ cảm thấy bối rối, hoang mang, rồi lui về các giá trị mà trước đây vẫn được gọi là hành vi “nam tính”. Những hành vi này bao gồm: cực kỳ quan tâm đến các chi tiết máy xe ô tô, những loại động cơ, máy vi tính, tỷ số thể thao và tất cả những thứ ít liên quan đến kỹ năng giao tiếp. Xã hội nữ quyền ngày nay không thích các hành vi trên của nam giới, và thỉnh thoảng cố định nghĩa chúng như một căn bệnh. Vài đấng mày râu đã bị gắn mác là bệnh tâm thần trong khi thực tế họ chỉ đang thể hiện một hành vi nam """