"
Sushi Cho Người Mới Bắt Đầu - Marian Keyes full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sushi Cho Người Mới Bắt Đầu - Marian Keyes full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tặng Niall, Caitríona, Tadhg và Rita-Anne
LỜI CẢM ƠN
Xin cảm ơn biên tập viên tuyệt vời của tôi Lousie Moore cùng tất cả mọi người ở Michael Joseph và Penguin vì sự vất vả và lòng nhiệt tình của họ.
Xin cảm ơn tất cả mọi người ở Poolbeg.
Xin cảm ơn Jonathan Lloyd và tất cả mọi người ở Curtis Brown.
Xin cảm ơn Caitríona Keyes, Mammy Keyes, Rita-Anne Keyes và Lousie Voss, những người đã đọc cuốn sách này ngay khi nó được viết ra và không ngừng đòi hỏi nhiều hơn nữa.
Xin cảm ơn Eileen Prendergast, đặc biệt cảm ơn vì đã tặng tôi nhan đề cho cuốn sách này!
Xin cảm ơn Siobhan Coogan vì những thông tin của người trong cuộc trên cương vị một người mẹ.
Xin cảm ơn Cộng đồng Simon vì đã hào phóng chia xẻ thời gian và thông tin về tình trạng của những người vô gia cư.
Xin cảm ơn Morag Prunty và tất cả mọi người ở Irish Tatler vì đã giúp tôi khám phá thế giới tạp chí.
Xin cảm ơn tất cả những diễn viên hài mà tôi biết, không một ai trong số họ có chút gì giống như những nhân vật trong cuốn sách này!
Xin cảm ơn khách sạn Clarence.
Những người sau đây cũng đã giúp đỡ tôi rất nhiều bằng những lời khuyên và sự nhiệt tình của họ. Nếu như tôi có quên bất kỳ ai, xin hãy tha thứ cho tôi: Suzane Benson, Jenny Boland, Susie Burgin, Alish Connelly, Gai Griffin, Suzane Power, và Annemarie Scanlan.
Xin cảm ơn, như thường lệ, Tony yêu quý của tôi, vì tất cả.
PHẦN MỞ ĐẦU
“Khốn nạn thật,” cô nhận ra. “Mình đang bị suy nhược thần kinh hay sao ấy.”
Cô nhìn quanh chiếc giường mình đang nằm bẹp bên trên. Cơ thể đã quá-lâu-không-tắm của cô duỗi ườn thõng thượt trên tấm khăn trải giường đã-quá-lâu-không-thay. Những chiếc khăn giấy, ướt nhoèn và vo viên lại, vương vãi khắp tấm chăn lông. Phủ đầy bụi trên mặt tủ ngăn kéo là một đống sô cô la chưa hề được động tới. Trên sàn rải rác những tờ tạp chí mà cô không thể nào tập trung đọc nổi. Chiếc tivi trong góc vẫn miệt mài chuyển tải những chương trình truyền hình ban ngày chĩa thẳng tới giường cô. Phải rồi, chắc cũng chỉ do suy nhược thần kinh mà ra thôi.
Nhưng có gì đó không ổn. Cái gì nhỉ?
“Mình cứ tưởng...” cô hắng giọng. “Thì thế, mình cứ đinh ninh là...” Rồi cô chợt hiểu. “Mình cứ tưởng mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn thế này...”
1
Ở tạp chí Femme, không khí phấp phỏng đã kéo dài cả mấy tuần nay, một cảm giác như thể người ta đang sống trên đường đứt gãy địa chất vậy. Cuối cùng mọi phỏng đoán cũng vỡ òa khi người ta khẳng định đã nhìn thấy Calvin Carter, tay Giám đốc Điều hành người Mỹ, đang loanh quanh ở tầng trên cùng để tìm phòng vệ sinh nam. Có vẻ như ông ta vừa mới sang London từ trụ sở chính ở New York.
Bắt đầu rồi đây. Lisa siết chặt hai nắm tay vì phấn khích. Trời đánh thánh vật, cuối cùng thì nó sắp xảy ra thật rồi.
Cuối ngày hôm đó, cú điện thoại ấy được gọi tới. Lisa, cô có thể lên ngay trên tầng gặp ông Calvin Carter và Giám đốc Điều hành khu vực Anh quốc Barry Hollingsworth được không?
Lisa dập điện thoại xuống. “Chắc chắn rồi,” cô quát lên với nó.
Đồng nghiệp của cô chỉ ngước lên nhìn. Việc mọi người dập mạnh điện thoại rồi quát tháo là chuyện cơm bữa trong cái thế giới tạp chí này. Vả lại, họ đều đang mắc kẹt trong Địa ngục Hạn chót - nếu không chuẩn bị cho xong số tạp chí tháng này trước lúc chập tối, họ sẽ để vuột mất lượt đăng ký ở các nhà in và sẽ lại một lần nữa bị đối thủ sừng sỏ là tờ Marie-Clarie hớt tay trên. Nhưng Lisa quan tâm quái gì chứ, cô tự nhủ, vừa quày quả đi ra thang máy, sau ngày hôm nay cô sẽ chẳng còn việc gì ở đây nữa. Cô sẽ có việc ở nơi khác tốt hơn nhiều.
Lisa phải đợi ở bên ngoài phòng họp của ban giám đốc hai mươi lăm phút. Xét cho cùng, Barray và Calvin đều là những nhân vật cực kỳ quan trọng.
“Chúng ta nên để cô ta vào chưa nhỉ?” Barry hỏi Calvin, khi ông cảm thấy họ đã giết đủ thời gian.
“Mới được có hai mươi phút kể từ lúc cho gọi cô ta,” Calvin cáu kỉnh chỉ rõ. Hiển nhiên là Barry Hollingsworth chưa nhận ra ông ta, Calvin Carter, quan trọng đến nhường nào.
“Xin lỗi, tôi cứ tưởng là lâu hơn rồi chứ. Có lẽ ông phải hướng dẫn tôi cải thiện cú swing(1) của mình lần nữa mới được.”
“Được thôi. Nào, cúi đầu xuống và đứng yên. Đứng yên! Chân đứng vững, tay trái thẳng, và vụt!”
Cuối cùng Lisa cũng được phép bước vào, khi ấy, Barry và Calvin đã ngồi sau một chiếc bàn gỗ óc chó dài đến cả cây số. Trông cả hai đều có vẻ oai nghiêm cáu kỉnh.
“Ngồi xuống đi, Lisa.” Calvin Carter nhã nhặn nghiêng cái đầu tròn bạc trắng của mình, nói.
Lisa ngồi xuống. Cô vuốt nhẹ mái tóc nhuộm màu caramen của mình ra sau, khoe những lọn tóc được gẩy highlight miễn phí màu mật ong sao cho bắt mắt nhất. Miễn phí là bởi cô đã cho đăng đi đăng lại địa chỉ cái thẩm mỹ viện ấy trong mục “Những nơi cần đến” của tờ tạp chí.
Ngồi ngay ngắn trên ghế, cô đặt hai bàn chân xỏ trong đôi giày Patrick Cox của mình thật ngay ngắn bên cạnh nhau. Đôi giày này bị chật mất một cỡ - mặc dù đã không biết bao nhiêu lần cô yêu cầu phòng phụ trách báo chí của Patrick Cox gửi một đôi cỡ sáu, nhưng lần nào họ cũng gửi cho cô một đôi cỡ năm. Nhưng giày cao gót Patrick Cox miễn phí vẫn là giày cao gót Patrick Cox miễn phí. Một chi tiết vặt vãnh như nỗi đau dai dẳng ấy có quan trọng gì?
“Cám ơn cô đã đến,” Calvin mỉm cười. Lisa quyết định cô nên mỉm cười đáp lại. Nụ cười là một món hàng hóa như tất cả những thứ khác, chỉ mang ra đánh đổi lấy thứ gì đó hữu ích, nhưng cô tính trong trường hợp này một nụ cười là rất đáng. Dù sao thì không phải ngày nào một cô gái cũng được thuyên chuyển tới New York và trở thành phó tổng biên tập tạp chí Manhattan. Thế là cô nhoẻn miệng cười và khoe hàm răng trắng màu ngọc trai của mình. (Được như thế là nhờ chỗ kem đánh răng Rembrandt dùng cả năm vốn được quyên tặng làm phần thưởng cho một cuộc thi độc giả, nhưng Lisa nghĩ số kem đánh răng đó sẽ được đánh giá cao hơn nếu ở trong phòng tắm của mình).
“Cô đã ở Femme được...” Calvin nhìn mấy trang giấy được ghim lại trước mặt. “Bốn năm nhỉ?”
“Tháng tới là tròn bốn năm,” Lisa khẽ nói, với thái độ kết hợp rất khéo léo giữa cung kính và tự tin.
“Và cô đã làm biên tập được gần hai năm?”
ẳ
“Hai năm tuyệt vời,” Lisa khẳng định, cố kìm nén cảm giác thôi thúc chỉ muốn thọc ngón tay vào cổ họng và nôn thốc nôn tháo.
“Và cô mới hai mươi chín tuổi,” Calvin trầm trồ. “Chà, như cô biết đấy, ở Randolph Media này chúng tôi luôn tưởng thưởng cho sự chăm chỉ.”
Lisa long lanh ánh mắt rất duyên dáng trước lời dối trá sống sượng này. Như nhiều công ty khác ở phương Tây, Randolph Media tưởng thưởng cho sự làm việc chăm chỉ bằng khoản lương bèo bọt, khối lượng công việc ngày càng tăng, giáng chức, và buộc thôi việc với thông báo vào phút chót.
Nhưng Lisa thì khác. Cô đã làm tròn phận sự của mình ở Femme, đã chấp nhận những hy sinh mà thậm chí cô còn chưa bao giờ có ý định phải chịu đựng: hầu như sáng nào cũng đi làm từ bảy rưỡi, những ngày làm việc mười hai, mười ba, mười bốn tiếng đồng hồ, rồi khi cuối cùng cũng tắt được máy tính, cô lại phải tới dự những cuộc họp báo vào buổi tối. Cô thường xuyên đi làm vào thứ Bảy, Chủ nhật, và thậm chí là cả những ngày thứ Hai trùng vào dịp nghỉ lễ chung. Cánh nhân viên gác cửa căm ghét cô vì cứ khi nào cô muốn tới văn phòng thì có nghĩa là một trong bọn họ cũng phải đến mở cửa cho cô, và thế là mất toi trận bóng đá thứ Bảy hoặc chuyến đi chơi cùng với gia đình tới Brent Cross nhân ngày lễ.
“Chúng tôi còn khuyết một vị trí ở Randolph Media,” Calvin trịnh trọng nói. “Đó sẽ là một thách thức tuyệt vời đấy, cô Lisa ạ.”
Tôi biết, cô bực bội nghĩ. Đi thẳng vào chuyện chính đi.
“Công việc đòi hỏi phải chuyển công tác ra nước ngoài, đây nhiều khi cũng là một vấn đề cho bạn đời của người nhận nhiệm vụ.”
“Tôi còn độc thân.” Lisa nói chắc nịch.
Barry nhăn trán lại vì ngạc nhiên và nghĩ tới tờ mười bảng mà ông ta đã phải bỏ ra mua quà cưới cho ai đó vài năm trước. Ông có thể quả quyết đó chính là quà cho cô Lisa này, nhưng có lẽ là không, chắc tại đầu óc ông không còn được minh mẫn như trước nữa...
“Chúng tôi đang tìm tổng biên tập cho một tờ tạp chí mới,” Calvin nói tiếp.
Một tạp chí mới ư? Lisa điếng người. Nhưng tờ Manhattan đã xuất bản được bảy mươi năm rồi kia mà. Trong khi cô còn đang đánh vật với những hàm ý của thông tin đó, Calvin đã bồi thêm đòn quyết định. “Công việc ấy đòi hỏi cô phải chuyển sang Dublin.”
Cú sốc khiến đầu cô lùng bùng ù đặc, như thể hai tai cô nổ tung đến nơi. Cảm giác bị ruồng bỏ sao mà tê tái, mờ mịt. Thực tại duy nhất là cơn đau bất ngờ nhói lên từ những ngón chân co gập của cô. “Dublin?” Cô nghe thấy giọng nói nghẹn đặc của mình đang hỏi. Có lẽ... có lẽ... có lẽ ý họ là Dublin(2) kia, ở New York.
“Dublin, Ireland,” Calvin Carter nói, như dội tuột xuống một đường hầm dài, vang vọng, đập tan tia hy vọng cuối cùng của cô.
Không thể tin được chuyện này lại xảy ra với mình.
“Ireland?”
“Cái nơi bé tí ẩm ướt bên kia biển Ireland ấy,” Barry ân cần giải thích. “Nơi người ta uống rất nhiều,” Lisa yếu ớt nói.
“Và còn nói luôn mồm nữa chứ. Chính là nơi đó đấy. Nền kinh tế đang bùng nổ, với tỷ lệ dân số trẻ khổng lồ, nghiên cứu thị trường cho thấy nơi này đã chín muồi cho một tạp chí phụ nữ mới và năng động. Và chúng tôi muốn cô gây dựng nó, Lisa ạ.”
Họ đang nhìn cô chờ đợi. Cô biết theo thông lệ là phải thốt ra những lời lúng búng xen lẫn trong nước mắt nghẹn ngào rằng cô cảm kích đến nhường nào về việc họ đã tin tưởng cô nhiều đến thế và rằng cô hy vọng sẽ xứng đáng với niềm tin của họ.
“À vâng, thật tốt... cám ơn.”
“Danh mục đầu tư của chúng ta ở Ireland rất ấn tượng,” Calvin khoe khoang. “Chúng ta có những tờ Hibernian Bride, Celtic Health, Gaelic Interiors, Irish Gardening, The Catholic Judger...”
“Không, tờ The Catholic Judger sắp đình bản rồi,” Barry xen vào. “Doanh số bán ra giảm mạnh.”
“...Gaelic Knitting...” Calvin không đếm xỉa gì đến những tin xấu, “Celtic Car, Spud - đây là tạp chí về ẩm thực Ireland của chúng ta - DIY
Irish-Style và The Hip Hib.”
“The Hip Hip ấy ạ?” Lisa gượng phun ra một câu. Tốt nhất là cứ tiếp tục trò chuyện.
“The Hip Hib,” Barry nhắc lại. “Viết tắt của cụm Hip Hiberian(3). Tạp chí của cánh đàn ông trẻ. Kết hợp giữa Loaded và Arena. Cô sẽ gây dựng một phiên bản dành cho phụ nữ.”
“Tên là?”
“Chúng tôi nghĩ là Colleen . Trẻ trung, năng động, sôi nổi, sexy, đó là những tiêu chí mà chúng tôi đặt ra. Đặc biệt là phải sexy, Lisa ạ. Và tuyệt đối không có gì quá thông minh. Hãy quên đi những chuyên đề nặng nề về hủ tục cắt âm vật hay phụ nữ ở Afghanistan không có tự do. Đó không phải đối tượng độc giả mà chúng ta hướng tới.”
“Các ông muốn một tờ tạp chí hơi ngốc xít?”
“Cô nói đúng rồi đấy,” Calvin mỉm cười rạng rỡ.
“Nhưng tôi chưa bao giờ tới Ireland, tôi chẳng biết gì về nơi đó cả.”
“Chính xác!” Calvin đồng tình. “Đó chính xác là điều chúng tôi muốn. Không định kiến, chỉ còn một phương pháp tiếp cận tươi mới và chân thực. Lương giữ nguyên, gói hỗ trợ di chuyển hào phóng, cô có hai tuần bắt đầu từ thứ Hai.”
“Hai tuần? Nghĩa là tôi hầu như không có thời gian...”
“Tôi nghe nói cô có năng lực tổ chức phi thường lắm,” Calvin thích thú. “Hãy gây ấn tượng với tôi đi. Có câu hỏi gì nữa không?”
Cô không thể kìm được mình. Bình thường cô vẫn mỉm cười kể cả khi bị xát muối vào vết thương vì cô có thể nhìn thấy tiền đồ tươi sáng hơn. Nhưng lần này thì cô thực sự bị sốc.
“Thế còn vị trí phó tổng biên tập ở Manhattan thì sao?”
Barry và Calvin trao đổi với nhau một cái nhìn.
“Tia Silvano từ tờ The New Yorker đã trở thành ứng viên thành công đó,” Calvin cáu kỉnh thừa nhận.
Lisa gật đầu. Cô cảm giác như thế giới của mình đã sụp xuống. Cô ngay người như gỗ đứng dậy đi ra ngoài. “Khi nào thì tôi phải quyết định?” cô hỏi.
Barry và Calvin lại đưa mắt nhìn nhau.
Cuối cùng Calvin là người lên tiếng. “Chúng tôi đã có người thay thế vị trí hiện tại của cô rồi.”
Thế giới sụp đổ như một cảnh quay chậm khi Lisa nhận ra rằng đây là một sự đã rồi. Cô hoàn toàn không còn sự lựa chọn nào khác. Mắc kẹt trong một tiếng thét đông cứng lại, phải mất vài giây dài dằng dặc để cô hiểu ra rằng mình không thể làm được gì ngoài việc lê bước ra khỏi căn phòng này.
“Ta làm một trận golf nữa chứ?” Barry hỏi Calvin, sau khi Lisa đã đi khỏi.
“Muốn lắm nhưng không được rồi. Tôi còn phải sang Dublin để phỏng vấn những vị trí khác.”
“Ai đang là Giám đốc điều hành bên Ireland ấy nhỉ?” Barry hỏi.
Calvin cau mày. Lẽ ra Barry phải biết rõ chứ. “Một tay tên là Jack Devine.”
“Ồ, ra là hắn. Cũng là một tay bất trị đấy.”
“Tôi không nghĩ vậy.” Calvin vốn rất ác cảm với những người nổi loạn. “Chí ít thì anh ta cũng không nên thế.”
Lisa cố nhìn nhận sự việc theo chiều hướng tốt. Cô sẽ không bao giờ thừa nhận mình đã thất vọng. Nhất là sau tất cả những gì cô đã hy sinh.
Nhưng tai lợn nái thì sao có thể may thành túi lụa. Dublin không phải là New York, dù có nói thế nào đi nữa. Và gói hỗ trợ di chuyển “hào phóng” có thể bị kiện theo Đạo luật Miêu tả Hàng hóa. Tệ hơn thế, cô sẽ phải từ bỏ số di động của mình. Số di động của cô! Như thế có khác gì bị cắt mất một cánh tay chứ.
Không một ai trong số đồng nghiệp tỏ ra buồn lòng cho lắm trước sự ra đi của cô. Cô chưa bao giờ chia sẻ những đôi giày Patrick Cox với bất kỳ ai, kể cả là những cô nàng có bàn chân cỡ số năm. Và sự hào phóng đưa ra những lời nhận xét riêng tư bịa đặt, đầy ác ý về người khác đã mang lại
cho cô cái biệt hiệu Slanderella(4). Mặc dù vậy, vào ngày làm việc cuối cùng của Lisa, đội ngũ nhân viên của Femme cũng bị dồn lại và lùa lên phòng họp của ban giám đốc cho buổi chia tay theo thông lệ - những chiếc cốc nhựa đựng rượu vang trắng nhạt thếch có thể dùng tạm làm dung môi tẩy sơn cũng được, một chiếc khay bày lơ thơ mấy gói bim bim Hula Hoops và Skips, cùng với một tin đồn - không bao giờ thành hiện thực - là có món xúc xích cocktail đang được đưa đến.
Khi mọi người đang uống đến cốc vang thứ ba và có thể vì thế mà ít nhiều tỏ ra hào hứng hơn, bỗng ai đó suỵt suỵt ra hiệu im lặng và Barry Hollingsworth bắt đầu bài diễn văn như sách giáo khoa của mình, cám ơn Lisa vì tất cả và chúc cô mọi điều may mắn. Phải công nhận là ông ta hoàn thành công việc rất xuất sắc. Đặc biệt là vì ông ta đã nói đúng tên cô. Lần mới đây nhất có người chuyển đi ông ta đã có một bài diễn văn dài đến hai chục phút rất thống thiết, ca ngợi những phẩm chất và đóng góp độc nhất vô nhị của ai đó tên là Heather, trong khi Fiona, người sắp chuyển đi, đứng cạnh đó trong bẽ bàng.
Tiếp đến là màn trao tặng cho Lisa mấy tờ phiếu mua hàng trị giá hai mươi bảng ở Marks & Spencers cùng một tấm thiệp lớn có hình con hà mã với dòng chữ “Rất tiếc phải nhìn bạn ra đi” in nổi trên đó. Ally Benn, cựu phó tổng biên tập của Lisa, đã rất kỳ công để chọn món quà chia tay này. Cô ta đau đầu suy nghĩ rất lâu để tìm thứ gì sẽ khiến Lisa căm ghét nhất và cuối cùng kết luận rằng những phiếu mua hàng Marks & Spencers sẽ gây ra sự bực mình tột đỉnh (chân của Ally Ben đúng vừa xoẳn giày cỡ số năm).
“Chúc mừng Lisa!” Barry kết luận. Đến lúc này mọi người đều đã mặt đỏ bừng bừng và cười nói om sòm, thế là họ đều nâng những chiếc cốc nhựa trắng của mình lên, làm bắn tung tóe rượu vang lẫn với những mẩu bim bim vụn lên quần áo và, trong khi vừa cười khẩy vừa hích khuỷu tay vào nhau, cả bọn cùng rống lên: “Mừng Lisa!”
Lisa chỉ ở lại đủ lâu cho phải phép. Trước đây cô vẫn mong mỏi đến buổi lễ chia tay này, nhưng bao giờ cô cũng nghĩ mình sẽ lướt ra khỏi đây trên làn sóng vinh quang, nhoáng một cái đã được nửa đường tới New York. Chứ không phải bỗng nhiên bị chuyển hướng sang tạp chí của cái xứ Siberia này. Đúng là một cơn ác mộng.
“Tôi phải đi thôi,” cô nói với đám khoảng hơn chục phụ nữ gì đó từng làm việc dưới quyền mình hai năm qua. “Tôi còn phải đóng gói nốt đồ đạc.”
“Vâng, vâng,” họ đồng tình, trong một màn chúc tụng ầm ĩ vì say xỉn. “Vâng, chúc chị may mắn, vui vẻ nhé, hãy tận hưởng Ireland, bảo trọng, đừng làm việc vất vả quá...”
Đúng khi Lisa bước ra đến cửa, Ally kêu ré lên, “Chúng tôi sẽ nhớ chị.” Lisa khẽ gật đầu và đóng cửa lại.
“ ...như một cái lỗ trong đầu.” Ally bồi luôn không chút nao núng. “Còn rượu không?”
Họ ở lại cho đến khi uống hết giọt rượu vang cuối cùng, mẩu bánh Hula Hoop cuối cùng được một ngón tay đã được liếm nước bọt vét đi, rồi họ quay sang nhau và gặng hỏi với tinh thần phấn chấn tới độ nguy hiểm: “Giờ thì sao nhỉ?”
Họ xuống khu Soho(5), kéo bầy kéo lũ qua các quán bar trong một màn đập phá uống rượu tequila tối thứ Sáu của cánh nhân viên văn phòng. Cô nàng Sharif Mumtaz bé nhỏ (trợ lý trang quảng cáo) bị tách khỏi những người khác rồi được một người đàn ông tốt bụng đưa về nhà, chín tháng sau cô lấy anh chàng này làm chồng. Jeanie Geoffrey (trợ lý biên tập viên thời trang) được một người đàn ông mua cho cả chai champagne và còn tuyên bố cô là một “nữ thần.” Gabbi Henderson (mục sức khỏe và sắc đẹp) thì bị trộm thó mất túi xách. Còn Ally Benn (vừa được bổ nhiệm làm tổng biên tập) trèo hẳn lên mặt bàn tại một trong những quán rượu sôi nổi hơn cả trên phố Wardour và nhảy như một nàng điên cho đến khi cô ta ngã và bị rạn xương bàn chân phải.
Nói cách khác, đó là một đêm tuyệt diệu.
2
“Ted, cậu tới thật là đúng lúc!” Ashling mở toang cửa và ít nhất cũng một lần không buột ra cái câu cô vẫn dùng quá thường xuyên, nguyên văn là, “Ôi, khỉ thật, là Ted à.”
“Thật sao?” Ted rụt rè bước vào căn hộ của Ashling. Bình thường thì anh ta không được chào đón nồng nhiệt đến mức này.
“Tớ cần cậu cho tớ biết cái áo khoác nào trông hợp với tớ nhất.”
“Tớ sẽ cố hết sức.” Khuôn mặt đen đúa và gầy gò của Ted trông lại càng căng thẳng hơn. “Nhưng tớ là đàn ông.”
Cũng không hẳn, Ashling nghĩ, thầm tiếc nuối. Kể ra cũng thật đáng tiếc khi người chuyển đến căn hộ trên tầng cách đây sáu tháng, và ngay lập tức đã quyết định rằng Ashling là bạn thân nhất của anh ta, lại không phải một anh chàng cao lớn, đẹp trai có thể khiến tim các cô gái đập loạn nhịp. Và thay vào đó là Ted Mullins, tay công chức nghèo rớt, một diễn viên hài đầy tham vọng và ông chủ loắt choắt của một chiếc xe đạp.
“Đầu tiên, cái màu đen này.” Ashling choàng chiếc áo khoác phủ lên cái áo “phỏng vấn” bằng lụa trắng và chiếc quần đen kỳ diệu giảm-ba-kí-lô chỉ-trong-tích-tắc.
“Vụ gì mà quan trọng thế?” Ted ngồi lên một chiếc ghế và quấn người mình quanh nó. Người anh ta toàn xương xẩu với khuỷu tay, vai nhọn và đầu gối cũng nhọn nốt, trông như một bức vẽ phác của chính anh ta vậy.
“Phỏng vấn xin việc. Chín rưỡi sáng nay.”
“Lại phỏng vấn! Lần này là cho cái gì đây?”
Ashling đã đăng ký dự tuyển vài công việc trong hai tuần qua, tất tần tật từ làm việc trong một trang trại kiểu miền Tây hoang dã ở Mullingar cho tới trả lời điện thoại ở một công ty PR.
“Trợ lý tổng biên tập cho một tạp chí mới tên là Colleen.”
“Cái gì? Một công việc thực sự à?” Khuôn mặt ủ dột của Ted sáng bừng lên. “Tớ thấy lạ là tại sao cậu lại nộp đơn xin vào mấy chỗ làm kia, cậu quá thừa tiêu chuẩn so với chúng.”
“Lòng tự trọng của mình thấp lắm,” Ashling nhắc, với một nụ cười rạng rỡ.
“Của tớ còn thấp hơn,” Ted vặc lại, nhất định không chịu lép vế.
“Dù sao cũng là một tạp chí cho phụ nữ,” Ted mơ màng. “Nếu được vào làm cậu có thể bảo cái đám ở Woman’s Place cứ việc bám lấy nó đi. Trả thù là một món ăn càng để lạnh càng ngon!” Anh ta ngửa đầu ra sau và bật ra một tràng cười ồm ồm bắt chước kiểu của Vincent Price(1). “Ha ha ha, hà hà hà!”
“Thực ra, trả thù chẳng phải món ăn gì hết,” Ashling ngắt lời. “Nó là một thứ cảm xúc. Hoặc cái gì đó. Mà cũng không đáng để bận tâm.”
“Nhưng sau cách mà chúng đã đối xử với cậu,” Ted ngỡ ngàng nói. “Cái ghế sofa của con mẹ kia bị hỏng có phải là lỗi của cậu đâu!”
Suốt nhiều năm, nhiều hơn cả những gì cô muốn nhớ, Ashling đã làm việc cho Woman’s Place, một tờ tuần san không mấy tên tuổi ở Ireland. Ashling làm biên tập viên mục văn chương, biên tập viên mục thời trang, biên tập viên mục sức khỏe và sắc đẹp, biên tập viên mục thủ công, biên tập viên mục nấu ăn, phụ trách mục tâm sự, biên tập viên sửa bản in và cố vấn tinh thần tất cả trong một. Kỳ thực thì cũng không đến nỗi vất vả như vẻ bề ngoài của nó, vì Woman’s Place được dồn ghép lại theo một công thức thử-nghiệm-và-kiểm-tra nghiêm ngặt.
Mỗi số tạp chí lại có một mẫu đan - hầu như lần nào cũng là để làm một tấm bọc cuộn giấy vệ sinh trong hình dáng một tiểu thư miền Nam. Rồi có một trang dạy nấu ăn nói về cách mua những miếng thịt rẻ tiền và ngụy trang chúng thành thứ gì đó. Số nào cũng có một truyện ngắn xoay quanh một cậu bé và một người bà, khởi đầu thì họ là kẻ thù không đội trời chung nhưng đến cuối truyện thì trở thành bạn bè thân thiết. Tất nhiên là có Trang Tâm sự - bao giờ cũng với một bức thư phàn nàn về một cô con dâu hỗn láo. Trang hai và trang ba là một dãy dài các câu chuyện “vui” miêu tả lũ cháu của độc giả và những trò dễ thương mà chúng đã nói hoặc làm. Mặt trong của bìa cuối là một bức thư sáo rỗng, trên danh nghĩa là của một vị mục sư, nhưng lần nào cũng là do Ashling viết vội vàng trong mười lăm phút cuối trước khi đến hạn chót của nhà in. Rồi còn có cả mục Mách nhỏ
Bạn đọc. Và một trong số đó được coi là con đường dẫn đến sự thất bại của Ashling.
Mách nhỏ Bạn đọc tập hợp những lời khuyên của các bà nội trợ(2) bình thường gửi tới chia sẻ với những độc giả khác. Bao giờ chúng cũng xoay quanh việc làm cho tiền của bạn cứ việc sinh sôi nảy nở và kiếm được cái gì đó mà không mất gì. Tiền đề của những lời khuyên này là bạn không cần phải mua bất kỳ thứ gì bởi vì bạn có thể tự làm ra nó từ những thứ cơ bản sẵn có trong nhà. Ví dụ điển hình nhất chính là nước chanh.
Ví dụ, tại sao phải mua dầu gội đầu đắt tiền làm gì khi bạn có thể tự pha chế cho mình từ một chút nước chanh và dung dịch rửa bát! Bạn thích có những lọn tóc highlight? Tất cả những gì bạn cần làm là vắt vài quả chanh lên tóc rồi ngồi ra nắng. Trong khoảng một năm. Còn muốn tẩy nước quả nam việt quất dính trên ghế sofa màu be? Chỉ cần pha lẫn nước chanh và giấm là xong ngay.
Chỉ có điều thực tế không phải vậy. Không phải với chiếc sofa của bà Anna O’Sullivan ở Hạt Waterford. Tất cả đều hỏng bét, thật khủng khiếp - vết nước nam việt quất lại càng bám chặt hơn đến nỗi ngay cả nước tẩy Stain Devil cũng không ăn thua. Và dù đã dùng cơ man nào là nước hoa xịt phòng Glade, cả căn phòng vẫn nồng nặc mùi giấm. Vì là một tín đồ Công giáo ngoan đạo, bà O’Sullivan cũng là một phụ nữ tin vào thuyết nợ máu phải trả bằng máu. Bà ta dọa sẽ kiện.
Khi Sally Healy, tổng biên tập của tờ Woman’s Place, tiến hành một cuộc điều tra, Ashling thú nhận chính cô đã tự bịa ra cái mẹo đó. Đúng cái tuần ấy không hiểu sao những mẹo do độc giả gửi tới đóng góp lại ít ỏi vô cùng.
“Tôi không nghĩ là có người lại tin vào chúng,” Ashling lúng búng biện minh.
“Cô làm tôi ngạc nhiên đấy, Ashling,” Sally nói. “Lúc nào cô cũng bảo tôi rằng cô không có trí tưởng tượng. Đó là chưa kể đến mục Thư của Cha Bennett, tôi biết là cô thuổng về từ tờ The Catholic Judger, mà tiện đây tôi cũng nói luôn - trước mắt cô cứ nghe và biết thế thôi - tờ ấy sắp phải đóng cửa rồi.”
“Tôi xin lỗi, chị Sally, chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa.”
“Tôi mới là người phải xin lỗi, Ashling ạ. Tôi sẽ phải để cho cô ra đi thôi.”
“Vì một sai lầm đơn giản vậy sao? Tôi không tin.”
Cô không tin cũng đúng. Lý do thực sự ở đây là ban giám đốc tờ Woman’s Place đang lo lắng trước con số phát hành sụt giảm, và đã thấy là tờ tạp chí ngày càng có vẻ ‘mệt mỏi’ nên họ đang tìm kiếm một con dê tế thần. Vụ làm ăn cẩu thả của Ashling xảy ra không thể nào đúng lúc hơn. Giờ thì họ chỉ việc cho sa thải cô thay vì phải tốn một khoản thanh toán cho việc cắt giảm biên chế.
Sally Healy như phát rồ lên. Ashling là nhân viên làm việc chăm chỉ và đáng tin cậy nhất mà người ta có thể tìm được. Cô giữ cho toàn bộ nơi này vận hành đâu vào đấy trong khi Sally đến muộn, về sớm và biến mất vào những buổi chiều thứ Ba và thứ Năm để đón con gái ở lớp múa balê và mấy cậu con trai tập bóng bầu dục về. Nhưng ban giám đốc đã nói toạc ra rằng hoặc Ashling hoặc chính chị ta phải ra đi.
Như để an ủi cho sự phục vụ trung thành lâu năm của cô, Ashling được phép tiếp tục công việc hiện tại cho tới khi cô tìm được công việc khác. Mà hy vọng là điều đó sẽ sớm xảy ra.
“Thế nào?” Ashling vuốt vuốt vạt trước của chiếc áo khoác và quay về phía Ted.
“Ổn.” Xương bả vai của Ted nhô lên rồi thụt xuống.
“Hay cái này sẽ khá hơn chăng?” Ashling khoác lên một chiếc khác mà Ted có cảm giác là giống hệt như cái đầu tiên.
“Ổn,” Ted lặp lại.
“Cái nào?”
“Cái nào cũng được.”
“Cái nào khiến tớ trông có eo hơn?”
Ted vặn vẹo. “Không phải lại nữa đấy chứ. Cậu đang bị ám ảnh với cái eo của mình đấy.”
“Tớ làm gì có eo để mà bị ám ảnh.”
“Tại sao cậu không phàn nàn luôn thể về vòng mông của mình đi, như những phụ nữ bình thường ấy?”
Ashling đã hầu như không có gì để nói khi bàn về chuyện eo ót nhưng, như thói đời vẫn thế, tin xấu liên quan đến ai, người đó biết cuối cùng. Phải mãi đến khi cô mười lăm tuổi và Clogagh, bạn thân nhất của cô thở dài, “Cậu may mắn thật đấy, chẳng có eo gì cả. Eo tớ bé tí và chỉ tổ khiến mông tớ trông càng to hơn,” thì cô mới phát hiện ra sự thật choáng váng đó.
Trong khi mọi cô gái khác mà cô biết đều dành cả những năm tuổi dậy thì của mình cho việc đứng trước gương trăn trở xem ngực bên nào to hơn bên nào, thì trọng tâm của Ashling lại thấp hơn một chút. Cuối cùng cô tự kiếm cho mình một chiếc vòng lắc và hăm hở lắc đấy lắc để ở vườn sau nhà. Suốt mấy tháng trời cô lắc và vặn, cả ngày lẫn đêm, đến nỗi vắt cả lưỡi ra ngoài khóe miệng. Các bà các mẹ nhà xung quanh đều nhìn qua tường rào vườn nhà mình, khoanh tay trước ngực và gật đầu với nhau chừng hiểu ý lắm, “Rồi thế nào nó cũng sớm lắc mình xuống mộ cho mà xem, cái con bé kia.”
Chỉ có điều cái trò lắc vòng không ngừng nghỉ đến ám ảnh đó cũng chẳng tạo ra chút gì khác biệt. Ngay cả đến bây giờ, sau mười sáu năm, đặc tính thẳng-tuột-từ-trên-xuống-dưới không thể giấu vào đâu được ấy vẫn còn nguyên trên cái bóng của Ashling.
“Không có eo đâu phải là điều tồi tệ nhất trên đời,” Ted đứng cạnh an ủi.
“Quả thật là không,” Ashling đồng tình với thái độ vui vẻ đến đáng lo ngại. “Người ta còn có thể có đôi chân xấu khủng khiếp nữa ấy chứ. Và như số phận đã an bài, tớ có cả hai.”
“Đâu phải như thế!”
“Đúng thế mà. Tớ thừa hưởng chúng từ mẹ. Nhưng chừng nào đó là tất cả những gì tớ thừa hưởng từ bà,” Ashling hồ hởi nói thêm, “tớ nghĩ trông tớ cũng không đến nỗi nào.”
“Tối qua tớ ở trên giường với bạn gái tớ...” Ted hăm hở thay đổi chủ đề câu chuyện. “Tớ bảo cô ấy rằng trái đất này phẳng.”
“Bạn gái nào? Mà sao lại có trái đất ở đây?”
“Không, thế là không được,” Ted tự lầm bầm với chính mình. “Tối qua tôi đang nằm trên giường với bạn gái mình... Tôi bảo cô ấy rằng trái đất phẳng. Bùm bùm!”
“Ha ha, tuyệt lắm.” Ashling gượng gạo nói. Điều tệ nhất khi trở thành bạn thân của Ted chính là cứ phải làm vật thí nghiệm cho những trò mới của anh ta. “Nhưng tớ có thể đưa ra một gợi ý được không? Hay là, tối qua tôi đang nằm trên giường với bạn gái mình. Tôi bảo cô ấy rằng tôi sẽ luôn yêu cô ấy và không bao giờ rời xa cô ấy... Bùm bùm,” cô nói thêm với vẻ giễu cợt.
“Tớ bị muộn rồi,” Ted nói. “Cậu có muốn ngồi yên sau không?”
Thường thường Ted vẫn cho cô đi nhờ tới chỗ làm trên xe đạp của mình, tiện trên đường tới chỗ làm của anh ta ở Bộ Nông nghiệp.
“Không, cám ơn, tớ đi hướng khác.”
“Chúc phỏng vấn may mắn nhé. Tối nay tớ sẽ ghé qua.”
“Cái đấy thì tớ không nghi ngờ lấy một phút,” Ashling khẽ lầm bầm đồng ý.
“Mà này! Bệnh viêm tai của cậu sao rồi?”
“Có vẻ khá hơn rồi. Tớ lại có thể tự gội đầu được rồi.”
3
Cuối cùng Ashling quyết định chọn chiếc áo khoác số một. Cô có thể tự quả quyết là mình nhìn thấy một khoảng hơi hõm xuống ở gần giữa phần ngực và phần hông của mình và như vậy đối với cô cũng là tốt lắm rồi.
Sau khi loay hoay mãi với công đoạn trang điểm, cô quyết định chọn cách trang điểm nhẹ nhàng để tránh gây ấn tượng lòe loẹt quá. Nhưng phòng trường hợp trông mình quá quê mùa, cô mang theo chiếc túi xách bằng da ngựa Pony hai màu đen trắng yêu thích của mình. Xong đâu đấy cô xoa tay vào bức tượng Phật Di lặc, thả viên thạch anh may mắn vào túi áo rồi quay ra ngao ngán nhìn chiếc mũ đỏ may mắn. Nhưng đội một chiếc mũ len đỏ đi phỏng vấn xin việc thì may mắn được đến đâu chứ? Đằng nào cô cũng không cần đến nó - lá số tử vi của cô đã nói hôm nay sẽ là một ngày tốt lành. Thiên thần Tiên tri cũng nói thế rồi.
Khi thả người xuống phố, cô phải bước qua một người đàn ông đang ngủ ngon lành trên bậc cửa trước. Rồi cô quay người trực chỉ hướng văn phòng tại Dublin của Randolph Media, sải bước dứt khoát giữa dòng người xe đông nghẹt của khu trung tâm Dublin, đồng thời nhắc đi nhắc lại trong đầu, Mình sẽ giành được công việc này, mình sẽ giành được công việc này, mình sẽ giành được công việc này... đúng đúng như Lousie L. Hay đã khuyên.
Nhưng nhỡ không được thì sao? Ashling không thể không tự hỏi.
Hừm, nếu vậy mình cũng không bận tâm, hừm, nếu vậy mình cũng không bận tâm, hừm, nếu vậy mình cũng không bận tâm...
Dù đã cố làm ra vẻ can đảm, nhưng trong thâm tâm Ashling hoàn toàn suy sụp vì câu chuyện oái oăm xảy ra với chiếc sofa của bà O’Sullivan. Suy sụp đến mức cô mắc lại chứng viêm tai vốn luôn tái phát mỗi lần cô căng thẳng.
Bị mất việc quả là chuyện trẻ con đáng xấu hổ, không phải là điều xảy ra với một người mua nhà bằng tiền vay thế chấp đã ba mươi mốt tuổi. Chẳng phải là cô đã quá ngưỡng cho tất cả những chuyện như thế này rồi hay sao?
Để ngăn cuộc đời mình khỏi xổ tung ra, cô đã hăm hở lao vào săn việc và thử thách bản thân với tất cả những gì le lói khả thi một chút. Không, cô không biết quăng thòng lọng vào cổ một con ngựa đực đang lồng lên, cô đã thú nhận như vậy trong cuộc phỏng vấn xin vào làm tại trang trại Miền Tây-hoang-dã ở Mullingar, thực tình thì cô cứ đinh ninh họ đang phỏng vấn tìm người làm công việc hành chính, nhưng cô rất sẵn sàng học hỏi.
Tại mỗi cuộc phỏng vấn cô đều nhắc đi nhắc lại rằng cô rất sẵn sàng học hỏi. Nhưng trong số tất cả những nơi cô đã nộp đơn, công việc tại Colleen mới là điều mà cô thực sự, thực sự, khát khao muốn có. Cô thích được làm việc với một tờ tạp chí trong khi những công việc liên quan đến tạp chí ở Ireland lại rất hiếm. Vả lại, Ashling cũng không phải là một nhà báo đích thực: đơn giản cô chỉ là một nhà tổ chức tốt, với khả năng để ý đến từng chi tiết.
Bộ phận tạp chí của Randolph Media nằm trên tầng ba một tòa nhà văn phòng trên bến cảng. Ashling đã phát hiện ra Randolph Media cũng đồng thời sở hữu một đài truyền hình nhỏ nhưng đang phát triển tốt, Channel 9, cùng một đài phát thanh có giá trị thương mại rất cao, nhưng hình như hai bộ phận này làm việc ở những cơ ngơi khác.
Ashling ra khỏi thang máy và rảo bước dọc hành lang về phía quầy lễ tân. Nơi này có vẻ thật bận rộn, người qua kẻ lại hối hả với những giấy những tờ trên tay. Ashling rùng mình vì phấn khích đến mức thấy hơi váng vất. Ngay trước quầy lễ tân, một người đàn ông cao lớn, tóc tai bờm xờm đang mải mê nói chuyện với một cô gái châu Á nhỏ bé. Họ đang thấp giọng thì thào và có điều gì đó trong cách trao đổi của hai người khiến Ashling hiểu rằng họ chỉ ước được gào toáng lên. Ashling vội vã bước qua; cô không thích những cuộc cãi vã. Thậm chí là của người khác cũng không.
Cô nhận ra mình đã đánh giá sai vấn đề trang điểm đến mức nào khi trộm liếc cô lễ tân. Trix - đó là cách cô ta được gọi căn cứ theo tấm biển tên - có vẻ ngoài lộng lẫy, bóng bẩy và tươi mát của một tín đồ theo trường phái bôi trát càng-nhiều-càng-ít. Lông mày cô nàng được tỉa mỏng gần như không còn tồn tại, đường viền kẻ môi được tô đậm và thẫm đến mức trông cô như có ria mép, và toàn bộ mái tóc vàng hoe được kẹp lại trong hàng chục chiếc cặp bướm bé xíu lấp lánh, bố trí đều chằn chặn. Chắc hẳn cô ấy
đã phải thức dậy sớm hơn mọi người đến ba tiếng đồng hồ để trang điểm ấy chứ, Ashling thầm nghĩ, rất lấy làm ấn tượng.
“Xin chào,” Trix gầm gừ bằng một chất giọng nghe như thể cô ta đốt tới bốn mươi điếu thuốc lá một ngày - mà ngẫu nhiên là đúng thế thật.
“Tôi có một cuộc phỏng vấn lúc chín r...” Ashling ngưng bặt vì có tiếng thét thất thanh phía sau mình. Cô ngoảnh đầu lại nhìn qua vai và trông thấy người đàn ông tóc tai bờm xờm đang mút ngón tay trỏ của anh ta.
“Em cắn anh!” Anh ta gào lên. “Mai, em làm anh chảy máu rồi đây này!”
“Hy vọng là anh mới tiêm phòng uốn ván,” cô gái châu Á phá lên cười khinh bỉ.
Trix tặc lưỡi, nhướng mắt lên trời rồi lầm bầm, “Một đôi tởm lợm, họ không lúc nào thôi cả. Chị ngồi đi,” cô ta bảo Ashling. “Tôi sẽ thông báo với ông Calvin là chị đang ở đây.”
Cô ta biến mất qua cánh cửa đôi và Ashling rón rén ngồi xuống một chiếc sofa kê bên cạnh cái bàn uống cà phê bên trên chất đống những số tạp chí hiện hành. Nhìn thấy chúng càng khiến đầu cô bỗng phừng phừng như bốc cháy đến nơi - cô khát khao công việc này đến chết mất. Trống ngực cô đập thình thịch, bụng thì óc ách đến cồn cào. Bất giác cô mân mê viên thạch anh may mắn của mình giữa ngón cái và ngón trỏ. Qua tầm nhìn mờ mờ vì hồi hộp đến run rẩy, cô chỉ loáng thoáng nhận thấy người đàn ông bị cắn lao vào trong nhà vệ sinh nam và đóng rầm cửa lại còn cô gái châu Á nhỏ nhắn đang hầm hầm bước về phía thang máy, mái tóc dài màu đen như một tấm rèm đong đưa qua lại.
“Ông Carter bảo chị cứ vào trong.” Trix trở ra và không sao giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Suốt hai ngày qua cô ta bị quấy rầy bởi những người đến phỏng vấn luôn căng thẳng, ai cũng phải chờ ngoài bàn của cô ta đến nửa giờ đồng hồ. Trong thời gian đó Trix đành phải nhịn việc nấu cháo điện thoại với đám bạn bè của mình và giải đáp những câu hỏi van vỉ của những người đến phỏng vấn xoay quanh cơ hội giành được công việc này của họ. Và để xát thêm muối vào vết thương, cô biết chắc chắn rằng tất cả những gì Calvin Carter và Jack Devine đang làm trong phòng phỏng vấn chỉ là chơi bài rummy.
Nhưng lần này Calvin Carter bị Jack Devine bỏ lại một mình, và ông ta thấy lẻ loi buồn chán. Thôi thì đành phỏng vấn ai đó còn hơn là không làm gì.
“Vào!” Ông ta ra lệnh, khi Ashling rụt rè gõ vào cánh cửa phòng.
Ông ta liếc một cái về phía người phụ nữ tóc tối màu diện bộ vest đen đi với quần dài và ngay lập tức thấy không có cảm tình với cô ta. Đơn giản là cô ta không đủ lộng lẫy cho tờ Colleen . Dù không biết nhiều lắm về chuyện tóc tai của phụ nữ, nhưng ông ta có cảm giác là trông chúng phải cầu kỳ hơn tóc của người phụ nữ này. Chẳng phải là bình thường trông chúng nên hơi có vẻ bù xù một chút hay sao? Rõ ràng là không nên cứ để buông thẳng tuột xuống vai như cô ta thế kia, đã thế lại màu nâu nữa? Và khuôn mặt mộc mạc khỏe mạnh kia cũng sẽ rất hợp nếu bạn là một cô vắt sữa bò, nhưng lại không ăn thua nếu bạn là trợ lý tổng biên tập đầy tham vọng của một tờ tạp chí phụ nữ quyến rũ...
“Ngồi xuống.” Calvin tự nhủ tốt hơn là cứ làm đủ các thủ tục trong vòng năm phút.
Nín thở với khát khao thể hiện mình, Ashling ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt ở giữa phòng và đối diện với người đàn ông đang ngồi phía sau chiếc bàn dài.
“Jack Devine, Giám đốc Điều hành tại Ireland, sẽ có mặt tại đây ngay thôi,” Calvin giải thích. “Tôi không biết có chuyện gì đang níu chân anh ta nữa. Trước hết,” ông ta hướng sự chú ý vào lý lịch xin việc của cô, “tốt hơn cô nên cho tôi biết phải phát âm tên cô như thế nào.”
“Ash-ling. Ash như trong ‘tàn’ thuốc lá, còn ling vần với từ ‘hát(1)’.”
“Ash-ling. Ashling. OK, tôi có thể nói được. Được rồi, Ashling, trong vòng tám năm qua cô đã làm việc trong những tạp chí...”
“Thực ra là một tạp chí thôi ạ.” Ashling nghe thấy ai đó hồi hộp cười một cách ngớ ngẩn và tuyệt vọng nhận ra đó chính là giọng mình. “Chỉ một tờ thôi ạ.”
“Và tại sao cô rời bỏ Woman’s Place?”
“Tôi đang tìm kiếm một thách thức mới,” Ashling rụt rè bày tỏ. Sally Healy đã dặn cô là phải nói như vậy.
Cánh cửa bật mở và người đàn ông bị cắn bước vào.
“À, Jack.” Calvin Carter cau mày. “Đây là cô Ashling Kennedy. Ash như trong ‘tàn’ thuốc lá, còn ling vần với từ ‘hát’.”
“Mọi chuyện vẫn ổn chứ?” Jack còn đang mải nghĩ những chuyện khác. Tâm trạng anh lúc này thật tồi tệ. Anh đã phải ở lại đến gần nửa đêm để đàm phán với mấy tay kỹ thuật viên ở đài truyền hình, lại còn phải gần như cùng một lúc tiến hành những cuộc đàm phán khác với một mạng truyền thông Mỹ để thuyết phục họ không bán series phim đoạt giải của mình cho RTE, mà bán cho Channel 9. Và cứ như thể khối lượng công việc vẫn còn chưa đạt đến mức giới hạn vậy, anh lại bị giao phụ trách thêm việc gây dựng tờ tạp chí mới ngu xuẩn này. Điều sau bét thế giới này cần đến là thêm một tờ tạp chí phụ nữ nữa! Nhưng, thành thật mà nói, nguồn gốc thực sự gây ra cơn bực dọc của anh là Mai. Cô làm anh phát điên. Anh ghét cô. Anh căm ghét cô. Thế quái nào mà đã có lúc anh nghĩ mình si mê cô như điên dại! Đừng hòng có chuyện anh sẽ trả lời điện thoại của cô. Không bao giờ nữa, đó là lần cuối cùng, lần cuối, cuối, cuối cùng...
Anh ngồi đung đưa người sau bàn, cố gắng tập trung vào cuộc phỏng vấn - nếu không lão Calvin lại gắt như mắm thối lên. Loáng thoáng một hai lần anh biết mình được chờ đợi để đưa ra câu hỏi gì đó nghe có vẻ liên quan một chút, nhưng tất cả những gì anh có thể nghĩ được là có lẽ anh đang chảy máu đến chết mất. Hoặc chết vì bị bệnh dại. Sau bao lâu thì bắt đầu sùi bọt mép nhỉ? Anh tự hỏi.
Ngả hẳn người ra trên hai chân sau của chiếc ghế, anh giơ ngón tay bị thương của mình ra trước mặt, nhìn nó trừng trừng. Anh không thể tin được là cô đã cắn anh. Lần nữa. Lần trước cô đã hứa... Anh xoắn chặt mẩu giấy vệ sinh thêm chút nữa và máu đỏ tươi lại thấm tràn ra ngoài.
“Hãy cho tôi biết những điểm mạnh và điểm yếu của cô,” Calvin đề nghị Ashling.
“Thành thật mà nói rằng điểm yếu của tôi là công việc biên tập. Mặc dù có thể viết được những câu khái quát, lời mở đầu hoặc những mục nhỏ, tôi chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc viết những bài dài.”
Thực ra là không có chút nào, nếu cô nói một cách hoàn toàn thẳng thắn.
“Điểm mạnh của tôi là ở chỗ tôi rất tỉ mỉ, ngăn nắp và tích cực làm việc. Tôi là một người cấp phó rất hiệu quả,” Ashling sốt sắng nói, trích dẫn nguyên xi lời Sally Healy. Rồi cô ngừng lại và nói tiếp, “Xin lỗi, anh có cần một miếng Band-Aid(2) cho ngón tay của mình không?”
Jack Devine giật mình ngẩng đầu lên. “Ai cơ, tôi à?”
“Tôi không thấy quanh đây có ai khác đang chảy máu cả.” Ashling gượng nở một nụ cười.
Jack Devine lắc đầu quầy quậy. “Khô, không... Cám ơn,” anh gắt gỏng nói thêm.
“Tại sao lại không nhỉ?” Calvin Carter xen vào.
“Tôi không sao.” Jack ra hiệu bằng bàn tay lành lặn của mình.
“Lấy một miếng Band-Aid đi,” Calvin nói. “Nghe có vẻ là một ý hay đấy.”
Ashling đặt chiếc túi xách lên lòng và, chỉ sau một nhoáng lục lọi, cô đã lấy ra một hộp Band-Aid. Cô mở nắp hộp, gẩy gẩy qua bên trong, chọn lấy một miếng và chìa cho Jack. “Thử miếng này xem có vừa không.”
Jack nhìn miếng băng dính như thể anh chàng không biết phải làm gì với nó. Calvin Carter cũng hoàn toàn chẳng giúp được gì.
Ashling cố nuốt tiếng thở dài xuống, cô đứng dậy, cầm lấy miếng băng dính trên tay Jack và lột bỏ phần giấy chống thấm. “Chìa ngón tay của anh ra.”
“Vâng, thưa bà,” anh mỉa mai.
Rất nhanh chóng và chính xác, cô cuốn miếng băng dính quanh đầu ngón tay chảy máu. Trước sự ngạc nhiên của chính mình, lấy cớ kiểm tra xem miếng băng dính đã chắc chắn chưa, cô khẽ bóp một cái vào ngón tay anh ta và cảm thấy hài lòng pha lẫn xấu hổ khi nhận thấy vẻ nhăn nhó thoáng hiện ra trên mặt anh chàng.
“Cô còn có gì những gì nữa vậy?” Calvin Carter tò mò hỏi. “Aspirin chăng?”
Cô thận trọng gật đầu. “Ông có cần một viên không?”
“Không, cám ơn. Bút và giấy ghi chép?”
Cô lại gật đầu.
“Thế còn - và tôi thừa nhận lần này chỉ là đoán bừa thôi nhé - một bộ đồ khâu vá mini?”
Ashling bẽn lẽn ngập ngừng, rồi toàn bộ dáng vẻ bên ngoài của cô bỗng nhiên phấn chấn và sáng bừng hẳn lên khi cô khẽ bật cười thú nhận. “Thực ra thì, tôi có.” Cô mỉm cười rất tươi.
“Cô chu đáo ghê,” Jack Devine ngắt lời. Anh cố tình để câu đó nghe như một lời xúc phạm.
“Thì cũng phải có người như thế chứ.” Calvin Carter đã xem lại quan điểm ban đầu của mình về Ashling. Cô ta duyên dáng và mặc dù có để son dính vào răng đi nữa thì ít nhất cô ta cũng có thoa son. “Cám ơn cô, Ashling, chúng tôi sẽ liên lạc lại.”
Ashling bắt tay với cả hai người đàn ông, một lần nữa tranh thủ cơ hội để tặng cho vết thương của Jack Devine một cái bóp chặt đâu vào đấy.
“Này, tôi thích cô ta rồi đấy,” Calvin Carter phá lên cười. “Tôi thì không,” Jack Devine nói với vẻ ủ rũ.
“Tôi đã bảo tôi thích cô ta,” Calvin Carter nhắc lại. Ông ta không quen với việc bị phản đối. “Cô ta đáng tin cậy và tháo vát. Hãy để cô ta làm công việc này.”
4
Clodagh tỉnh giấc từ sớm. Không có gì lạ. Clodagh bao giờ cũng tỉnh giấc sớm. Đó là chuyện xảy ra khi bạn có con nhỏ. Nếu chúng không rống lên đòi ăn, thì chắc chúng đang nhào lên giường nằm chen vào giữa bạn và chồng bạn và nếu chúng không làm những chuyện đó thì tức là chúng đang ở trong bếp từ lúc sáu giờ rưỡi một buổi sáng thứ Bảy, khua chảo loảng xoảng một cách đáng sợ.
Sáng nay chúng đang thực hiện màn khua-chảo-loảng-xoảng-đáng-sợ. Rồi sau đó kiểu gì cô cũng phát hiện ra là Craig, đứa năm tuổi, đang bày cho Molly, đứa hai tuổi rưỡi, làm món trứng chiên. Từ bột mì, nước, dầu ôliu, nước xốt cà chua, nước xốt thịt, dấm, bột cacao, nến sinh nhật và tất nhiên, cả trứng nữa. Chín quả liền, cả vỏ. Căn cứ vào mức độ ồn ào Clodagh biết là có những chuyện khủng khiếp đang diễn ra trong căn phòng bên dưới, nhưng cô quá mệt mỏi, hoặc quá gì gì đó, để rời khỏi giường và can thiệp.
Mắt đăm đăm nhìn vào hư không, cô nằm nghe tiếng chân ghế miết trên sàn nhà mới lát lại bằng đá, những chiếc tủ chạn hiệu SieMatic vừa mua một tháng bị mở toang và đóng rầm lại, còn những chiếc chảo Le Creuset đang bị quăng quật một cách không thương tiếc.
Bên cạnh cô, Dylan vẫn ngủ ngon lành, anh trở mình, rồi quàng tay lên người cô. Cô rúc vào người chồng trong giây lát, tìm kiếm sự khuây khỏa. Rồi đột nhiên cứng đờ người với cảm giác miễn cưỡng quen thuộc và lại uể oải nhích xa ra khi cô cảm thấy cơn thèm muốn của anh đang ngóc dậy và vươn thẳng lên chọc vào bụng mình.
Sex thì không. Cô không thể chịu được chuyện đó. Cô muốn được âu yếm, nhưng cứ lần nào cô áp người mình vào người anh, tìm kiếm sự vuốt ve an ủi, là y như rằng anh lại dựng đứng lên. Đặc biệt là vào buổi sáng. Cô cảm thấy áy náy mỗi lần dứt khỏi anh. Nhưng không áy náy đến nỗi phải chiều theo ý chồng.
Vào buổi tối thì may ra anh còn có cơ hội, nhất là khi cô đã uống một vài ly. Cô không bao giờ bắt anh phải nhịn quá một tháng vì cô quá lo sợ hậu quả chuyện đó sẽ đem lại. Và thế là khi cái hạn chót kia lơ lửng hiện
ra, cô luôn bố trí cho mình một hình thức say khướt nào đó và thực hiện nghĩa vụ của một người vợ, mức độ nhiệt tình và sáng tạo của cô hoàn toàn tỷ lệ thuận với lượng rượu gin mà cô đã uống trước đó.
Dylan lại quờ tay kéo vợ và cô vội trườn người qua bên kia giường thoát khỏi tầm với của anh, bằng một sự nhanh nhẹn có được sau nhiều tháng thục luyện.
Một tràng những tiếng loảng xoảng cuồng loạn từ căn phòng bên dưới vọng lên.
“Lũ ranh con,” Dylan ngái ngủ càu nhàu. “Chúng nó làm nhà sập mất thôi.”
“Để em xuống quát cho chúng một trận.” Tốt hơn hết là nên ra khỏi giường.
Lúc sau, khi Ashling qua chơi sáng hôm đó, món trứng bác kiểu Pháp chỉ còn là một ký ức xa vời và đã bị thế chỗ bởi những thứ khủng khiếp trên bàn ăn sáng.
Khi Clodagh ra mở cửa, cô vẫn còn đang nhùng nhằng trong một cuộc đàm phán phức tạp về việc mặc áo len với cô bé Molly tóc màu nâu nhạt xinh như thiên thần. Molly cứ khăng khăng đòi mặc chiếc màu cam.
“Chào Ashling,” Clodagh lơ đãng nói, rồi giúi mặt mình xuống mặt Molly và nói dứt khoát với vẻ bực dọc, “Nhưng con quá lớn để mặc nó rồi, Molly. Con mặc nó từ hồi còn bé tí cơ mà. Sao con không mặc chiếc màu hồng xinh xắn này?”
“Khô...ooông!” Molly cố vặn vẹo để thoát ra.
“Nhưng con sẽ bị lạnh.” Clodagh nắm chặt lấy cánh tay Molly. “Khô...ooông!”
“Vào trong bếp đi, Ashling.” Clodagh lôi Molly qua phòng để áo mũ. “CRAIG! XUỐNG KHỎI CÁI GIÁ ĐẤY NGAY!”
Cậu bé Craig tóc nâu nhạt cũng xinh không kém gì thiên thần đã trèo vào chiếc tủ chạn trong bếp và đang tự đánh đu, hết cúi về trước lại ngả ra sau trên khung giá thép, chễm chệ trên những túi gạo và mì ống.
Ashling bước lại chỗ cái ấm đun nước và bật nó lên. Ashling và Clodagh cùng lớn lên cách nhau hai số nhà và đã trở thành bạn thân kể từ khi đối với Ashling thì ở nhà Clodagh còn an toàn hơn ở nhà mình.
Chính Clodagh là người đã cho Ashling biết sự thật về tình trạng không có eo của mình. Và cũng chính Clodagh là người khai sáng cho Ashling về những khía cạnh khác của con người cô khi nói, “Cậu thật may mắn khi có cá tính. Còn tớ, tất cả những gì tớ có chỉ là nhan sắc.”
Ashling không bao giờ mếch lòng vì điều đó. Clodagh không hề có chút ác ý nào, hoàn toàn bộc trực, và sẽ hoàn toàn phí thời gian để phủ nhận là cô xinh đẹp lạ thường đến nhường nào. Nhỏ nhắn và cân đối, với những lọn tóc dài và vàng óng ả đậm nét Scandinavia, cô làm cho giao thông như ngừng lại. Điều này cũng không có ý nghĩa cho lắm ở Dublin, nơi mà dòng giao thông hiếm khi nhúc nhích.
Ashling có một tin quan trọng. “Tớ tìm được việc rồi!”
“Khi nào?”
“Tớ biết tin được khoảng một tuần rồi,” Ashling thừa nhận. “Nhưng hôm nào tớ cũng phải làm đến nửa đêm, dọn dẹp đâu vào đấy để bàn giao cho người mới ở Woman’s Place.”
“Tớ đã nghĩ kể cũng hơi là lạ khi không thấy cậu liên lạc gì. Kể cho tớ nghe mọi chuyện xem nào.”
Nhưng cứ mỗi lần Ashling định kể, Craig lại nài nỉ đòi đọc cho cô nghe một cuốn sách lộn ngược. Mỗi khi ánh đèn sân khấu rời khỏi mình dù chỉ trong một giây thôi, là cu cậu vội chụp lấy nó kéo lại.
“Ra ngoài chơi xích đu đi con,” Clodagh dỗ dành cậu nhóc. “Nhưng đang mưa mà.”
“Con là người Ireland, phải quen với việc đó đi chứ. Đi đi. Ra!” Nhưng Craig vừa đi khỏi lại đến lượt Molly trở thành nhân vật chính. “Muốn!” Cô bé tuyên bố, chỉ thẳng vào cốc cà phê của Ashling.
“Không, đấy là của dì Ashling chứ,” Clodagh nói. “Con không uống được.”
“Cứ để cho cháu nếu nó muốn...” Ashling cảm thấy mình nên nói gì đó.
“MUỐN!” Molly nằng nặc đòi.
“Cậu không phiền chứ?” Clodagh hỏi. “Để tớ lấy cho cậu cốc khác.”
Ashling đẩy chiếc cốc qua mặt bàn, nhưng Clodagh đã chặn lấy nó trước khi nó đến chỗ Molly, làm cô bé kêu ré lên ăn vạ ầm ĩ.
“Mẹ chỉ thổi nó thôi mà,” Clodagh giải thích. “Để con không bị bỏng miệng.”
“MUỐN! MUỐN! MUỐN!”
“Nhưng còn nóng lắm! Con sẽ bị bỏng mất.”
“MUỐN CƠ! MUỐN CƠ! MUỐN BÂY GIỜ CƠ!!!”
“Ồ thôi được rồi. Từ từ thôi, đừng có làm sánh ra đấy.”
Molly bập miệng vào vành cốc, rồi giật bắn trở lại và bắt đầu hét ầm lên. “Nóng! Đau! Oa oaaaa!”
“Ối, mẹ kiếp,” Clodagh lầm bầm.
“Mẹ kiếp,” Molly phát âm, rành rọt từng chữ một.
“Đúng rồi,” Clodagh nói, với vẻ độc ác làm Ashling choáng váng. “Mẹ kiếp.”
Dylan lao sầm vào phòng, sau khi thấy nghe tiếng gào của Molly.
“Ashling!” Anh ta mỉm cười, đưa một bàn tay to đùng lên hất mái tóc màu vàng rơm của mình ra khỏi mặt. “Trông em tuyệt quá. Có tin gì từ mặt trận công việc không?”
“Em tìm được việc rồi!”
“Quăng thòng lọng vào cổ bọn ngựa trốn trại ở Mullingar à?” “Ở một tạp chí. Một tạp chí dành cho phụ nữ trẻ.”
“Có thế chứ! Tiền nhiều hơn không?”
Ashling tự hào gật đầu. Không phải một khoản kếch sù, nhưng cũng tốt hơn khoản lương bèo bọt điều chỉnh theo mức giá sinh hoạt mà cô vẫn nhận suốt tám năm qua ở Woman’s Place.
“Và không còn những bức Thư của Cha Bennett - à mà nhân tiện, em có biết tờ The Catholic Judger bị xóa sổ rồi không? Trên báo có đưa tin về
chuyện này đấy.”
“Vậy mọi chuyện hóa ra lại rất tốt đẹp, thực sự tốt đẹp,” Ashling mỉm cười sung sướng. “Vụ rắc rối với bà O’Sullivan ở Waterford có lẽ là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với em!”
Dylan tỏ ra thích thú - rồi hốt hoảng, vì một cơn rung chuyển dữ dội xảy ra trong vườn. Craig đã ngã khỏi chiếc xích đu, và căn cứ vào tiếng khóc và gào thét thì cu cậu đang rất đau. Ashling liền bắt đầu lục lọi trong túi xách tìm lọ Rescue Remedy(1).
Cho chính cô.
“Anh sẽ ra đấy chứ?” Clodagh hướng đôi mắt mệt mỏi về phía Dylan. “Em trông chúng cả tuần rồi. Rồi cho em biết mức độ bị thương của nó ở mức tối thiểu cần biết thôi.”
Dylan chạy ra ngoài.
“Cậu có cần tớ kiểm tra xem Craig thế nào không?” Ashling lo lắng hỏi. “Tớ có băng gạc đây.”
“Tớ cũng có mà.” Clodagh ném cho cô một cái nhìn bực bội. “Kể cho tớ nghe về công việc của cậu đi. Xin cậu đấy.”
“OK.” Ashling tiếc nuối nhìn về phía khu vườn lần cuối. “Đó là một tạp chí hào nhoáng. Còn bóng bẩy hơn Woman’s Place nhiều.”
Khi cô kể đến phần Jack Devine giận dữ cãi vã, rồi bị cô gái châu Á cắn, cuối cùng Clodagh cũng hào hứng hẳn lên.
“Tiếp đi,” cô giục giã, mắt lấp lánh. “Kể cho mẹ con tớ nghe! Không gì, đúng là không gì khiến tớ thấy thích thú hơn là nghe người khác bốp chát với nhau. Tuần trước ấy, một hôm tớ đang ở phòng tập thể dục đi ra thì có một một cặp ngồi trong chiếc xe đang đậu và bọn họ đang gầm lên với nhau. Ý tớ đúng là gầm ấy! Mặc dù cửa xe đã đóng kín mà tớ vẫn nghe thấy tiếng họ. Làm cả ngày hôm ấy tớ thấy dễ chịu vô cùng.”
“Tớ ghét những chuyện ấy,” Ashling thú nhận. “Nghe nặng nề bỏ xừ.”
“Nhưng tại sao chứ? Ồ, tớ đoán là với, ừm, hoàn cảnh của cậu... Nhưng với hầu hết mọi người chuyện đó thật thú vị. Người ta sẽ cảm thấy được an ủi là không phải mình mình đang gặp khó khăn.”
“Ai đang gặp khó khăn chứ?” Ashling cau mày lo lắng.
Clodagh có vẻ khó chịu. “Chẳng ai cả. Nhưng tớ thực sự phát ghen với cậu đấy!” Bất thình lình cô nổ tung. “Độc thân, bắt đầu một công việc mới, thật phấn khích làm sao.”
Ashling không biết nói gì. Đối với cô, cuộc sống của Clodagh chẳng khác gì Chén Thánh. Người chồng đẹp trai, tận tụy, cùng công việc kinh doanh phát đạt; ngôi nhà gạch đỏ theo phong cách thời Edward trang nhã trong khu sành điệu Donnybrook. Cả ngày chẳng phải làm gì ngoài việc
nấu món mì ống Barney bằng lò vi sóng, lên kế hoạch trang trí lại những căn phòng vốn dĩ đã hoàn hảo và chờ Dylan đi làm về.
“Và tớ cá là đêm qua cậu lại ra ngoài bù khú,” Clodagh nói gần như buộc tội.
“Ừ, nhưng... Chỉ là Sugarclub thôi mà, với lại hai giờ sáng tớ đã về nhà rồi. Một mình,” cô nhấn mạnh khi nói đến đây. “Clodagh, cậu có tất cả mọi thứ. Hai đứa con tuyệt đẹp, một người chồng quyến rũ...”
Anh ấy quyến rũ thật à? Clodagh ngỡ ngàng nhận ra rằng đó không phải là điều vẫn nảy ra trong đầu cô thời gian gần đây. Cô thừa nhận với vẻ nghi ngại rằng đối với một người đàn ông đã ngoài ba mươi thì cơ thể của Dylan cũng không đến nỗi tệ - bụng anh vẫn chưa chảy xệ xuống thành một xấp những lá mỡ nhão nhoét vì nốc bia như mấy ông bạn cùng tuổi. Anh vẫn còn quan tâm đến chuyện quần áo - thành thật mà nói, thì dạo này còn quan tâm hơn cả cô ấy. Và anh cắt tóc ở một hiệu làm tóc đúng nghĩa, chứ không phải ở chỗ lão thợ cạo gần nhà, người nào bước ra từ chỗ lão này trông cũng chẳng khác gì bố họ.
Ashling tiếp tục phản đối. “...và trông cậu rất quyến rũ! Sinh hai đứa rồi mà cậu vẫn có thân hình đẹp hơn tớ - mà tớ lại còn chưa có con chứ, mà nhiều khả năng là vẫn sẽ không có, nếu vận may của tớ với đàn ông không sớm cải thiện. Ha ha ha.”
Ashling thầm mong Clodagh sẽ mỉm cười, nhưng tất cả những gì cô nói là, “Cảm giác tất cả đều cũ rích. Đặc biệt là với Dylan.”
Ashling tuyệt vọng đưa ra một lời khuyên. “Các cậu chỉ cần hâm nóng lại cảm giác say đắm. Thử nhớ lại xem lần đầu các cậu gặp nhau như thế nào.”
Cô lấy cái trò này ở đâu ra ấy nhỉ? À đúng rồi, chính cô đã viết như vậy trong tờ Woman’s Place, cho một người phụ nữ sắp phát điên vì chồng bà vừa mới nghỉ hưu và suốt ngày ở nhà ám lấy vợ.
“Mình thậm chí còn không thể nhớ mình gặp anh ấy ở đâu nữa,” Clodagh thú nhận. “Ồ không, tất nhiên là mình nhớ chứ. Cậu đã đưa anh ấy tới bữa tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của Lochlan Hegarty, nhớ không? Chúa ơi, cảm giác như là lâu lắm rồi ấy.”
“Cậu phải cố làm cho mọi chuyện luôn thật mới mẻ,” Ashling trích lại nguyên văn. “Ra ngoài tận hưởng những bữa tối lãng mạn, thậm chí là có thể đi nghỉ cuối tuần thật xa. Tớ sẽ trông tụi trẻ bất kỳ khi nào cậu cần.” Cô chợt thấy hoảng hốt vì lời hứa bốc đồng của mình.
“Chính tớ đã muốn kết hôn.” Dường như Clodagh đang tự nói với chính mình. “Dylan và tớ dường như rất hợp với nhau.”
“Nói như thế còn là nhẹ đấy.” Ashling còn nhớ cảm giác rùng mình lan tỏa khắp bữa tiệc khi Clodagh và Dylan lần đầu tiên bập ánh mắt vào nhau. Dylan là anh chàng đẹp trai nhất trong nhóm mà anh chơi cùng, trong khi không thể phủ nhận rằng Clodagh là cô gái xinh đẹp nhất trong hội của cô và con người ta vẫn luôn bị hút về những người tương xứng với mình. Khi Dylan và Clodagh trao đổi ánh mắt định mệnh đó, thực tế là Ashling đang hẹn họ với Dylan - lần hẹn đầu tiên, và như thế, cũng là lần cuối cùng của cô. Chỉ với một cái nhìn đó vai trò của cô coi như đã được định đoạt. Nhưng cô hoàn toàn không oán trách gì hai người. Họ sinh ra là để cho nhau, tốt nhất cô nên độ lượng chấp nhận thực tế đó.
Clodagh mệt mỏi cười khẽ. “Mọi chuyện vẫn ổn, thật đấy. Hoặc ít nhất là cũng sẽ ổn sau khi tớ đã thay đổi cách phối màu trong phòng khách phía trước.”
“Lại trang trí nữa!” Hình như chưa được bao lâu kể từ khi Clodagh bố trí lại căn bếp của mình. Mà thực ra, hình như cũng không lâu hơn thế được bao nhiêu kể từ khi cô trang trí lại phòng khách.
Buổi chiều, trên đường từ chỗ Clodagh về nhà, Ashling tạt vào một cửa hàng Tesco để mua đồ ăn. Cô thảy hết gói này đến gói khác loại bỏng ngô nổ được bằng lò vi sóng vào trong giỏ, rồi quay ra trả tiền.
Người phụ nữ đứng trước cô trong hàng có dáng vẻ gì đó bóng bẩy và sành điệu đến nỗi Ashling bất giác nhận ra mình đang ngả hẳn ra sau để có thể chiêm ngưỡng cô ta rõ hơn. Giống như Ashling, cô ta cũng mặc quần thun dày, đi giày thể thao, và một chiếc áo len nhỏ, nhưng khác với Ashling, mọi thứ của cô ta đều có vẻ tinh tế và lộng lẫy. Kiểu như của các đồ vật trước khi chúng được giặt lần đầu tiên và mất đi vẻ long lanh mới coóng.
Giày thể thao của cô ta là đôi Nike màu hồng mà Ashling đã nhìn thấy trong một tờ tạp chí, nhưng là loại mà bạn chưa thể kiếm được ở Ireland. Chiếc ba lô bằng vải lụa dù màu hồng của cô ta cũng rất hợp với màu gel hồng ở dưới gót giày. Và mái tóc của người phụ nữ mới thật là tuyệt đẹp - óng ả và bồng bềnh, dày dặn và mượt mà - theo kiểu mà bạn không bao giờ tự có được.
Trong cơn mê mẩn Ashling tò mò kiểm tra những món đồ trong giỏ mua hàng của người phụ nữ. Bảy lon đồ uống giảm cân Slimfast hương dâu, bảy củ khoai tây nướng, bảy quả táo và bốn...năm...sáu...bảy miếng sô cô la nhỏ gói riêng lẻ được nhặt từ giá bánh kẹo hỗn hợp. Thậm chí cô ta còn chưa dồn chỗ sô cô la vào chung một gói, nhìn có vẻ như cô ta định để mặc chúng như là bảy món hàng mua riêng biệt vậy.
Bản năng không thể cưỡng lại mách bảo Ashling rằng giỏ hàng khiêm tốn kia là tất cả những gì người phụ nữ mua cho một tuần. Hoặc là thế hoặc là cô ta đang mua đồ ăn cho ngôi nhà bí mật của Grumpy, Sneezy, Dopey, Happy(2) và có trời mới nhớ được tên của ba người còn lại là gì.
5
Trời đang mưa như trút khi máy bay của Lisa hạ cánh xuống sân bay Dublin đầu giờ chiều thứ Bảy. Khi mới cất cánh khỏi London, cô đã khờ khạo đinh ninh rằng có lẽ cô sẽ không thể nào cảm thấy tồi tệ hơn được nữa, nhưng chỉ cần thoáng nhìn khung cảnh ướt nhoẹt nước mưa của Dublin, cô lập tức nhận ra rằng mình đã sai.
Dermot, tay lái xe taxi đưa cô tới trung tâm thành phố, chỉ càng làm cô thêm chán chường. Anh ta là người thích tán gẫu và cởi mở trong khi Lisa lại không hề muốn tán gẫu và cởi mở tí nào. Cô thầm nghĩ, với cảm giác thèm thuồng, về gã điên khùng tâm thần mang tiểu liên Uzi, kẻ lẽ ra đang lái chiếc taxi của cô, giá như cô đang ở New York.
“Cô có người thân ở đây không?” Dermot hỏi.
“Không.”
“Bạn trai thì sao?”
“Không.”
Khi cô không chịu nói về mình, anh ta nói thay. “Tôi thích lái xe,” anh ta tâm sự.
“Hay gớm nhỉ,” Lisa cay độc nói.
“Cô có biết tôi làm gì vào ngày nghỉ không?”
Lisa phớt lờ anh ta.
“Tôi lái xe đi chơi một vòng! Tôi làm thế đấy. Không chỉ xuống Wicklow thôi đâu, đi xa lắm. Lên tận Belfast cơ, tới Galway hoặc chạy thẳng sang Limerick. Có hôm tôi còn đi tận tới Letterkenny, chỗ đó ở Donegal, cô biết đấy... Tôi yêu công việc của mình.”
Anh ta cứ thế thao thao bất tuyệt, trong khi họ nhích từng chút một qua những đường phố ẩm ướt và trơn nhẫy. Khi họ tới được khách sạn trên phố Harcourt, anh ta giúp Lisa chuyển mấy túi hành lý và chúc cô có khoảng thời gian dễ chịu ở Ireland.
Malone’s Aparthotel(1) là một dạng kinh doanh nhà trọ mới rất lạ đời - không có quầy bar, không nhà hàng, hoặc dịch vụ phòng hay thực sự là bất
kỳ thứ gì ngoại trừ ba mươi căn phòng, mỗi căn đi kèm với những góc nhỏ chật chội dùng làm bếp. Lisa đã được đặt hộ phòng ở đây trong hai tuần và hy vọng là hết khoảng thời gian ấy cô cũng đã tìm được nơi nào đó để sống.
Trong trạng thái như mê mụ, cô treo tạm một vài thứ lên mắc, nhìn ra khung cảnh xám xịt của con đường nhộn nhịp, rồi thả mình xuống những con phố ẩm ướt để tìm hiểu cái thành phố mà từ giờ trở đi được coi là nhà cô.
Và lúc này, khi cô đã thực sự ở đây, cơn choáng váng bổ nhào tấn công cô với sức mạnh chưa từng thấy. Làm thế nào mà cuộc đời cô lại xuống dốc khủng khiếp đến mức này? Lẽ ra ngay lúc này cô đang thả bước trên Đại lộ số Năm ở Manhattan mới phải, chứ không phải ở trong cái làng lầy lội này.
Cuốn sách hướng dẫn nói rằng sẽ chỉ mất khoảng nửa ngày để đi bộ vòng quanh Dublin và tham quan tất cả những thắng cảnh quan trọng nhất ở đây - cứ như thể đó là một điều tốt vậy! Chắc chắn rồi, chưa đến hai tiếng là đã đủ liếc qua những điểm chính - xem mục shopping thôi - cả ở bờ Bắc và bờ Nam sông Liffey. Còn tồi tệ hơn những gì cô chờ đợi: không có chỗ nào bán các sản phẩm của La Prairie, giày Stephane Kélian, Vivienne Westwood hoặc Ozwald Boeteng.
“Thật là rẻ tiền! Cái thị trấn một-ngựa-kéo(2) này,” cô thầm nghĩ, gần như phát cuồng, “đã thế lại còn là ngựa mặc đồ Hilfiger tung ra từ mùa trước nữa chứ.”
Cô chỉ muốn quay về nhà. Cô mong mỏi khủng khiếp được quay về London, và rồi qua lớp sương mù cô nhìn thấy một thứ khiến tim cô như nhảy lên - một cửa hàng Marks & Spencer!
Bình thường cô không bao giờ lai vãng tới những nơi như thế này: quần áo quá tồi tàn, đồ ăn lại quá hấp dẫn, nhưng hôm nay cô lao mình qua lối vào như thể một phần tử chống đối bị săn đuổi đang xin tị nạn chính trị ở đại sứ quán nước ngoài. Cô cố cưỡng lại cảm giác thèm được dựa người vào bên trong cánh cửa mà thở hổn hển. Nhưng chỉ có điều đó là cửa tự động. Rồi cô đắm mình trong khu hàng thực phẩm vì chỗ này không có cửa sổ và chẳng có gì xen vào cơn mộng tưởng của cô.
Mình đang ở chi nhánh trên High Street Kensington, cô cố đánh lừa bản thân. Chỉ lát nữa thôi mình sẽ ra khỏi đây và ghé vào cửa hàng Urban Outfitters.
Cô thơ thẩn lượn trước quầy hoa quả tươi. Không, mình đổi ý rồi, cô quyết định. Mình đang ở chi nhánh Marble Arch. Ngay khi xong ở đây mình sẽ đi ra phố South Molton.
Cô cảm thấy cực kỳ dễ chịu khi biết rằng loại salad dưa trước mặt cô lúc này cũng là một phần trong cộng đồng salad dưa có bán tại tất cả các chi nhánh Marks & Spencer ở London. Cô ấn nhẹ lên lớp giấy bóng xenlôfan bọc rất căng và trong lòng chợt dậy lên một cảm giác thân thuộc - dù chỉ thoảng qua nhưng có thật.
Khi đã lấy lại được bình tĩnh cô bước vào một siêu thị bình thường và mua mấy món đồ cho cả tuần. Một thói quen giúp cô tỉnh táo - và, chắc chắn nó đã từng có tác dụng trong quá khứ. Cô thơ thẩn quay về, trùm mũ chiếc áo lên để bảo vệ tóc mình khỏi cơn mưa lại bắt đầu trút xuống. Cô dỡ bảy lon Slimfast ra và xếp chúng ngay ngắn lên tủ chạn, khoai tây và táo được cho vào trong một cái tủ lạnh nhỏ còn bảy miếng sô cô la thì được nhét vào một ngăn kéo. Giờ thì sao nhỉ? Buổi tối thứ Bảy. Hoàn toàn cô độc trong một thành phố xa lạ. Chẳng có gì để làm ngoài việc ngồi trong phòng và xem... Đến lúc này cô mới nhận ra là trong phòng không có tivi.
Cô bỗng òa lên khóc nức nở, những giọt nước mắt nóng hôi hổi trào tuôn xối xả như một trận lũ ào qua. Cô biết phải làm gì bây giờ? Cô đã đọc hết đống tạp chí Elle, Red, New Woman, Company, Cosmo, Marie-Claire, Vogue, Tatler của tháng này, và cả những tạp chí Ireland mà cô sẽ phải cạnh tranh. Cô có thể đọc một cuốn sách, cô tự nhủ. Nếu như cô có một cuốn. Hoặc một tờ báo, chỉ có điều báo chí thật buồn tẻ và nặng nề... Ít ra thì cô cũng còn đống quần áo phải treo lên. Và thế là trong khi những con phố phía dưới chật cứng cánh thanh niên đang trên đường cho một đêm bù khú, thì Lisa hút thuốc và bận bịu rũ nào váy dài nào váy ngắn rồi áo khoác rồi treo lên mắc, gấp vuốt phẳng phiu áo len và áo cánh vào ngăn kéo, sắp xếp những đôi bốt và giày ngay ngắn như một buổi diễu binh, treo túi xách... Điện thoại bỗng đổ chuông, làm cô giật bắn mình, thoát khỏi những thao tác nhịp nhàng, thư thái.
“A lô?” Và ngay lập tức cô thấy ân hận vì đã nghe máy. “Oliver!” Ôi, đồ bám dai như đỉa. “Ở đâu mà anh... anh mò ra số này bằng cách nào vậy?”
“Mẹ em.”
Đồ bò già lắm chuyện.
“Thế khi nào em mới định nói cho anh biết hả, Lisa?”
Thực tình là không bao giờ.
“Sớm thôi. Sau khi em tìm được chỗ ở bên này.”
“Em đã làm gì với căn hộ của chúng ta vậy?”
“Cho người ta thuê thôi. Đừng lo, anh sẽ nhận được phần chia tiền thuê nhà của mình.”
“Và tại sao lại là Dublin? Anh tưởng em muốn tới New York cơ mà.” “Đây có vẻ là một bước thay đổi khôn ngoan hơn trong sự nghiệp.”
“Chúa ơi, em thật là cứng cỏi. Hừ, anh hy vọng là em vui vẻ,” Oliver nói, bằng một giọng cho thấy anh ta hy vọng điều hoàn toàn ngược lại. “Anh hy vọng là tất cả cũng bõ công.”
Rồi anh ta dập máy.
Cô nhìn xuống đường phố Dublin và bắt đầu run rẩy. Liệu có bõ công thật không nhỉ? Hừm, tốt nhất cô nên cố sống cố chết mà bảo đảm sẽ là như thế. Cô sẽ biến Colleen thành thành công lớn nhất trong ngành xuất bản tạp chí.
Cô rít một hơi thuốc thật sâu, rồi loay hoay châm lại điếu thuốc vì cô tưởng nó tắt rồi. Hóa ra là chưa, nhưng nó không hề làm nỗi đau dịu bớt đi chút nào. Cô cần thứ gì đó. Chỗ sô cô la trong ngăn kéo đang mời gọi, nhưng Lisa cố cưỡng lại. Cảm thấy mình đang ở dưới địa ngục cũng không phải cái cớ để vượt quá mức một nghìn năm trăm ca lo một ngày.
Cuối cùng cô đầu hàng. Cô nằm cuộn tròn trong một chiếc ghế bành, chậm rãi bóc lớp vỏ giấy và lướt hàm răng của mình dọc theo bên thành miếng sô cô la, nhẩn nha gặm từng miếng từng miếng tí ti một, cho đến khi sạch nhẵn.
Mất một tiếng đồng hồ.
6
Có tiếng chai lọ leng keng ngoài cửa phòng Ashling, báo hiệu Joy đã đến.
“Ted đang trên đường tới, cứ để hé chốt cửa.” Joy lách cách đặt một chai rượu vang trắng lên quầy bếp bé tí của Ashling.
Ashling đã chuẩn bị tư tưởng từ trước. Cô không hề thấy thất vọng.
“Phil Collins,” Joy nói, với một vẻ gian tà lóe lên trong mắt, “Michael Bolton hoặc Michael Jackson, và cậu phải ngủ với một trong số họ.”
Ashling nhăn nhó. “Hừm, dứt khoát không phải là Phil Collins rồi, và dứt khoát không phải là Michael Jackson và dứt khoát không phải là Michael Bolton.”
“Cậu phải chọn một người.” Joy nói trong khi loay hoay với cái mở nút chai.
“Chúa ơi.” Ashling nhăn mặt với vẻ ghê tởm. “Phil Collins vậy, mình nghĩ thế. Cũng lâu rồi mình không chọn anh ta. Được rồi, đến lượt cậu. Benny Hill, Tom Jones hoặc... để mình xem nào, ai tởm lợm thực sự nhỉ? Paul Daniels.”
“Sex trọn vẹn hay là chỉ...”
“Sex trọn vẹn,” Ashling quả quyết nói.
“Nếu thế thì Tom Jones vậy,” Joy thở dài và đưa cho Ashling một ly rượu vang. “Nào, giờ thì cho mình thấy cậu sẽ mặc gì đi.’
Đó là tối thứ Bảy và Ted sẽ có cuộc “thử vai” tại một buổi diễn hài. Đây là lần đầu tiên Ted biểu diễn trước ai đó ngoài bạn bè và người thân của mình, nên Ashling và Joy sẽ đi cùng để động viên, rồi tham gia đập phá bữa tiệc sau đó.
Joy - có cái họ rất đáng nhớ là Ryder - sống trong căn hộ bên dưới căn hộ của Ashling. Đó là một cô nàng thấp, tròn quay, tóc xoăn và nguy hiểm - xuất phát từ sự thèm khát vô độ của cô đối với rượu chè, chất gây nghiện và đàn ông, cộng với sứ mệnh cô đặt ra là biến Ashling thành tòng phạm của mình.
“Vào phòng ngủ của tớ đi,” Ashling mời và cả hai cùng lách người vào. “Tớ sẽ mặc chiếc quần túi hộp màu kem này cùng cái áo nhỏ kia nữa.” Ashling quay người khỏi tủ quần áo quá nhanh và dẫm lên chân Joy, khiến Joy nhảy dựng lên và va cùi chỏ vào chiếc ti vi xách tay nhỏ.
“Ối! Chẳng nhẽ cái hộp giày chật chội này không bao giờ làm cậu phát ngấy hay sao?” Joy thở dài, xoa xoa khuỷu tay.
Ashling lắc đầu. “Tớ thích sống trong thành phố, với lại có phải muốn gì là có nấy được đâu.”
Trong chốc lát Ashling đã mặc xong bộ quần áo đi chơi.
“Chắc tớ trông sẽ chẳng khác gì một cái nấm lùn với kiểu áo đó.” Joy khâm phục nhìn cô thèm muốn. “Thật là khủng khiếp khi có cơ thể hình quả lê!”
“Nhưng ít ra cậu cũng còn có eo. Này, tớ định sẽ làm gì đó với mái tóc của mình...”
Ashling đã mua mấy cái cặp bướm màu sau khi thấy Trix thành công như thế nào với chúng. Nhưng khi cô cài chúng lên vạt tóc phía trước của mình, rồi gạt hai lọn tóc lòa xòa trước mặt, hiệu quả lại không được như vậy.
“Trông tớ thật lố lăng!”
“Đúng thật,” Joy thông cảm đồng tình. “Này, cậu có nghĩ là cái tay Nửa-người-nửa-lửng(1) cũng sẽ có mặt ở bữa tiệc sau buổi diễn không?”
“Có thể, chẳng phải lần trước cậu cũng đã gặp anh ta tại một bữa tiệc cùng với Ted còn gì? Anh ta là bạn của mấy tay nghệ sĩ hài hay sao ấy nhỉ?”
“Ưmmm,” Joy mơ màng gật đầu. “Nhưng cũng mấy tuần nay rồi còn gì và từ hồi đấy đến giờ tớ chưa nhìn thấy anh ta. Anh ta biến đi đâu rồi nhỉ, cái tay Nửa-người-nửa-lửng quốc tế bí ẩn kia? Lấy bộ bài tarot ra đây, tụi mình sẽ tranh thủ xem chuyện gì sắp xảy ra.”
Hai người bước ra gian phòng khách nhỏ xinh, Joy nhón một quân từ trong cỗ bài ra, rồi chìa nó cho Ashling xem. “Mười thanh kiếm. Thế là như cứt rồi, đúng không?”
“Cứt thật,” Ashling đồng tình.
Joy chộp lấy cỗ bài và nhoay nhoáy bật qua từng quân cho đến khi cô tìm được quân mình thích. “Nữ hoàng Đũa thần, đấy, thế mới đúng chứ! Nào, cậu chọn một quân đi.”
“Ba chiếc cốc.” Ashling giơ nó lên. “Sự khởi đầu.”
“Có nghĩa là cậu cũng sẽ gặp một người đàn ông.”
Ashling phá lên cười.
“Cũng lâu lắm rồi kể từ hồi Phelim bỏ sang Australia phải không?” Joy tra khảo. “Đã đến lúc cậu quên anh ta đi được rồi đấy.”
“Tớ quên anh ta rồi mà. Chính tớ là người chủ động kết thúc chuyện đó, nhớ chứ?”
“Chẳng qua là vì anh ta không chịu làm cái việc hay ho đấy thôi. Tớ ấy là, thậm chí cả khi bọn họ không chịu chủ động làm cái việc hay ho ấy, tớ cũng không thể nào nói toạc ra được, mặc dù như thế sẽ tốt hơn. Cậu thật là mạnh mẽ.”
“Đó không phải là chuyện mạnh mẽ hay không. Chỉ là bởi vì tớ không thể chịu đựng được sự căng thẳng khi phải chờ đợi anh ta quyết định. Hồi đó tớ nghĩ mình sắp bị suy nhược thần kinh đến nơi rồi ấy.”
Phelim đã từng là người bạn trai hết yêu lại bỏ của Ashling suốt năm năm liền. Họ đã từng có những khoảng thời gian hạnh phúc và cả những khoảng thời gian không-hạnh-phúc-lắm chỉ vì Phelim luôn dao động vào phút chót khi bàn đến chuyện gắn bó một cách trưởng thành, trọn vẹn.
Để giữ cho mối quan hệ được êm ả, Ashling đã phải dành vô số thời gian cho việc tránh những vết nứt trên vỉa hè, vẫy tay chào những con ác là cô độc, nhặt những đồng xu rơi và nhờ đến cả lá số tử vi của cô và của Phelim. Túi cô lúc nào cũng nặng trĩu những viên sỏi may mắn, thạch anh hồng cùng với ảnh Đức mẹ Đồng trinh và cô đã xoa gần như bợt hết lớp sơn vàng trên bức tượng Phật Di lặc của mình.
Cứ mỗi lần họ quay lại với nhau là chiếc giếng hy vọng lại cạn thêm một chút, và rồi cuối cùng thì tình yêu của Ashling cũng tắt ngúm sau tất cả những lần lừng khừng của anh ta. Như mọi lần chia tay khác, lần cuối cùng diễn ra cũng không có gì là gay gắt. Ashling nói rất bình tĩnh, “Anh
vẫn luôn nói rằng anh căm ghét cảm giác bị giam hãm ở Dublin đến nhường nào, rằng anh muốn đi khắp thế giới, vậy hãy đi đi. Hãy thực hiện đi.”
Ngay cả giờ đây vẫn còn một sợi dây kết nối mong manh rung rinh giữa hai người, cho dù cách xa nhau mười hai nghìn dặm. Anh ta đã về nhà hồi tháng Hai để dự đám cưới của em trai và người đầu tiên anh ta đến thăm chính là Ashling. Họ đã bước tới ôm chầm lấy nhau và đứng yên, ghì chặt lấy nhau suốt mấy phút liền không dứt, mắt hai người cùng giàn giụa khóc thương cho cái tình cảnh oái oăm bỏ-thì-thương-vương-thì-tội của mình.
“Vô lại,” Joy hăm hở thốt lên.
“Anh ấy không thế đâu,” Ashling khăng khăng bênh. “Anh ấy không thể cho tớ thứ tớ muốn nhưng điều đó không có nghĩa là tớ căm ghét anh ấy.”
“Tớ căm ghét tất cả những tên bồ cũ của mình,” Joy hãnh diện. “Tớ chỉ mong đến lúc Nửa-người-nửa-lửng cũng trở thành một tên trong số ấy, để anh ta không còn hút hết hồn tớ như thế này nữa. Này, đêm nay anh ta mà cũng tới đó thì sao nhỉ? Tớ phải làm ra vẻ như có nơi có chốn rồi mới được. Chỉ cần... không, một chiếc nhẫn đính hôn thì quá đáng quá. Tuy nhiên, một vết cắn yêu thì sẽ ăn thua đấy.”
“Nhưng cậu định lấy đâu ra một vết cắn như thế bây giờ chứ?”
“Từ cậu! Đây,” Joy vén đám tóc xoăn trên cổ mình qua một bên. “Cậu có phiền không?”
“Có đấy.”
“Làm ơn đi mà.”
Và bởi vì cô là mẫu người rất hay chiều ý người khác, Ashling gạt bỏ sự ngần ngại qua một bên, rồi miễn cưỡng kề răng của mình lên cổ Joy và tặng cho cô bạn một vết bầm.
Công đoạn tặng vết bầm còn đang dở dang thì đột nhiên ai đó, “Ối” lên một tiếng. Họ ngước nhìn lên, đóng băng trong tư thế có gì đó thấm đẫm tội lỗi. Ted đứng như trời trồng, tròn mắt nhìn hai người. Anh chàng có vẻ
thất vọng. “Cửa để mở... Tớ không nhận ra là...” Rồi anh ta bình tĩnh lại. “Tớ hy vọng là cả hai cậu đều sẽ rất hạnh phúc.”
Ashling và Joy đưa mắt nhìn nhau rồi rú lên cười, cho đến khi Ashling thấy thương hại anh chàng và giải thích mọi chuyện.
Anh ta nhìn thấy bộ tarot trên bàn và vồ ngay lấy. “Tám Đũa thần, Ashling, thế có nghĩa là gì?”
“Thành công trong công việc,” Ashling nói. “Tối nay nhất định màn diễn của cậu sẽ thành công vang dội.”
“Thế à, nhưng liệu tớ có ghi nhiều điểm với các cô nàng không nhỉ?”
Ted trở thành một nghệ sĩ hài vì một và chỉ một lý do duy nhất - kiếm một cô bạn gái. Anh ta đã chứng kiến cảnh các cô nàng lăn xả vào mấy tay diễn viên hài làm việc tại rạp xiếc Dublin, và nghĩ rằng bằng cách này cơ hội câu gái của mình sẽ cao hơn là thông qua công ty dịch vụ mai mối. Cũng không hẳn là anh ta sẽ tới một công ty mai mối thực sự. Nơi duy nhất anh ta có chút gì dính dáng tới là công ty mai mối Ashling Kennedy - Ashling thường xuyên tìm cách ghép đôi cho tất cả những người bạn còn độc thân của mình. Nhưng người duy nhất trong đám bạm của Ashling mà Ted từng thích là Clodagh và thật không may, cô này lại có nơi có chốn rồi. Một nơi rất ấm nữa là khác.
“Lấy một quân khác đi,” Ashling mời mọc anh ta.
Anh ta rút được quân Người bị treo cổ.
“Nhất định là tối nay cậu sẽ gặp may mắn,” Ashling quả quyết. ‘Nhưng đó là Người bị treo cổ mà!”
“Thì đã sao.”
Ashling biết là nếu đặt một người đàn ông lên sân khấu, cho dù trông anh ta có xấu xấu bẩn bẩn đến đâu chăng nữa - và bất kể là ôm ghi-ta bập bùng hay nhảy nhót trong bộ áo gi lê và đi bít tất tím, hoặc nói một câu đại loại rằng bạn có thể đợi một chiếc xe bus suốt bao nhiêu lâu, và rồi ba cái tới cùng một lúc - bạn vẫn có thể bảo đảm rằng cánh phụ nữ sẽ thấy anh ta thật hấp dẫn. Thậm chí cả khi chỉ là đứng trên một chiếc bục nhếch nhác cao một bộ(2) trong căn phòng vuông, mỗi chiều hai mươi bộ, anh ta vẫn toát lên vẻ mê hoặc quyến rũ rất kỳ lạ.
“Tớ vừa quyết định thay đổi tiết mục của mình, phải hơi siêu thực một tí. Tớ sẽ nói về bọn cú mèo.”
“Cú mèo?”
“Cú đã làm nên thành công cho rất nhiều người đấy.” Ted tỏ vẻ đề phòng. “Cứ thử nhìn Harry Hill, Kevin McAleer(3) mà xem.”
Ôi, lạy Chúa. Ashling chán hẳn. “Thôi được rồi, tụi mình đi nào.”
Khi họ lục tục rời căn hộ, đã xảy ra chút chen lấn nho nhỏ ở phòng để áo mũ vì ai cũng cố tranh thủ xoa tượng Phật Di lặc.
Nơi biểu diễn hài là một câu lạc bộ ầm ĩ, chật cứng người. Tiết mục của Ted ở mãi phần giữa buổi biểu diễn và mặc dù các nghệ sĩ hài đích thực đều rất thông minh và dí dỏm, Ashling vẫn không thể nào thoải mái tận hưởng buổi diễn. Cô quá lo lắng cho màn ra mắt của Ted.
Như một quả bóng bay bằng chì, đấy là nếu có suy ra được chút gì đó từ màn biểu diễn của một tay ra mắt lần đầu khác. Đó là một gã trai nhỏ bé lông lá, rất quái dị, và màn biểu diễn của gã thì gần như hoàn toàn là “đóng vai” Beavis và Butt-head(4). Khán giả không hề tỏ ra khoan dung. Trong lúc họ la ó và gào thét, “Cút xuống đi, đồ điên,” tim Ashling thắt lại vì lo cho Ted.
Rồi cũng đến lượt của Ted. Ashling và Joy vỗ tay, như những bậc cha mẹ đầy tự hào nhưng cũng vẫn lo lắng một cách chính đáng. Chỉ trong chốc lát, tay họ đã trơn nhẫy vì mồ hôi đến nỗi đành phải thôi không vỗ nữa.
Dưới ánh sáng của ngọn đèn sân khấu duy nhất, trong Ted thật mỏng manh và dễ bị tổn thương. Bất giác, anh chàng xoa bụng, vén vạt áo phông lên, thoáng phô ra phần cạp của chiếc quần lót hiệu Calvin cùng khoảng bụng hẹp mọc đầy lông đen. Ashling gật gù. Điều đó có thể khiến các cô nàng chú ý.
“Một con cú bước vào trong quầy bar,” Ted bắt đầu. Khán giả đều ngước mắt lên long lanh chờ đợi. “Nó gọi một cốc vại sữa, một gói khoai chiên giòn và mười điếu thuốc. Thế là người phục vụ quầy quay sang đám bạn mình thốt lên, ‘Nhìn xem này, một con cú biết nói.’ ”
Một vài tiếng khúc khích ngượng ngùng cất lên, nhưng cơ bản là sự im lặng chờ đợi đang ngự trị. Khán giả vẫn đang chờ đến điểm nút của câu
chuyện.
Với vẻ căng thẳng, Ted bắt đầu một phần mới. “Con cú của tôi không có mũi,” anh chàng tuyên bố.
Vẫn là sự im lặng. Ashling đã gần như bấm thành những vết lõm sâu trong lòng bàn tay vì căng thẳng.
“Con cú của tôi không có mũi,” Ted nhắc lại, giọng nói pha lẫn tuyệt vọng.
Đột nhiên Ashling chợt hiểu ra. “Nó ngửi như thế nào(5)?” cô la lên, bằng giọng hơi run rẩy.
“Kinh khủng!”
Bầu không khí vẫn ngột ngạt vì nghi hoặc. Mọi người quay sang người ngồi cạnh mình, mặt nhăn nhó theo kiểu cái-quái-gì-ấy-nhỉ...?
Và Ted gượng nói tiếp. “Tôi gặp một người bạn của mình và anh ta hỏi, ‘Tớ nhìn thấy cậu đi trên phố Grafton với cô nàng nào thế?’. Và tôi trả lời, ‘Chẳng có cô nàng nào hết, đó là con cú của tớ!’ ”
Và bất thình lình có vẻ như mọi người bỗng hiểu ra. Thoạt tiên tiếng cười cất lên rất nhỏ, nhưng bắt đầu to dần và vỡ òa, cho đến khi toàn bộ khán giả đều cười rũ rượi. Nói một cách công bằng, đó là đêm thứ Bảy và họ đều đã say khướt.
Ashling nghe thấy những người phía sau cô đang xuýt xoa. “Anh chàng của cậu nhắng quá đi mất. Cực kỳ độc đáo luôn.”
“Cái gì màu vàng mà lại tinh khôn?” Ted mỉm cười rạng rỡ.
Lúc này khán giả đã nằm gọn trong lòng bàn tay của anh chàng, tất cả nín thở, chờ đợi câu chuyện. Ted mỉm cười nhìn quanh phòng. “Món bánh trứng cú!”
Trần nhà gần như vỡ tung ra.
“Cái gì màu xám và lại có một chiếc vali?”
Một khoảng im lặng ngây ngất.
“Một con cú đang đi nghỉ. Đó là một con cú màu xám, tất nhiên rồi.” Xà nhà lại rung lên.
“Bạn đang tuyển người.” Ted thừa thắng xông lên và khán giả phấn khích ồ lên cổ vũ. “Bạn phỏng vấn ba con cú và lần lượt hỏi từng con xem thủ đô của Rome là gì? Con thứ nhất nói nó không biết, con thứ hai trả lời là Italia còn con thứ ba nói Rome là một cái thủ đô. Vậy bạn sẽ nhận con cú nào vào làm việc?”
“Con cú có ngực to nhất!” ai đó từ phía sau gào lên và một lần nữa tiếng cười cùng tiếng vỗ tay ồ lên ầm ĩ như một đàn chim đang vỗ cánh. Mấy diễn viên hài đã thành danh - những tay đã đồng ý cho Ted lên biểu diễn cũng chẳng qua là để ban ơn và ngăn anh ta không lẵng nhẵng làm phiền họ nữa - đưa mắt nhìn nhau lo lắng.
“Cho hắn xuống đi,” Billy Xe đạp càu nhàu, “thằng oắt con!”
“Tôi phải đi rồi,” Ted buồn bã thông báo với khán giả sau khi Mark Dignan ra một cử chỉ cắt cổ họng giục giã.
“AAAAAAAWWWWWWWWW”, khán giả cùng ồ lên phản đối dữ dội vì cụt hứng.
“Chúng ta đã tạo ra một con quái vật khốn kiếp!” Billy Xe đạp thì thầm với Archie Cung thủ (tên thật là Brian O’Toole.)
“Tôi là Ted Mullins, người nghệ sĩ hài vừa kể cho các bạn một lô những câu chuyện cười cũ. Hay tôi nên nói là chuyện cười cú(6) nhỉ?” Ted nháy mắt. “Và các bạn quả là những khán giả tuyệt cú mèo!”
Giữa những tiếng reo hò cuồng loạn, tiếng huýt sáo, dậm chân và vỗ tay như sấm, anh đĩnh đạc rời khỏi sân khấu.
Lát sau, trong lúc mọi người đang chen lấn tìm đường ra, Ashling nghe thấy hết người này đến người khác bàn tán về Ted.
“Cái gì màu vàng mà lại tinh khôn? Lúc ấy tớ tưởng chết vì cười mất.” “Tay Ted đó đúng là tuyệt cú mèo. Sexy nữa.”
“Tớ thích cái cách anh ta vén...”
“...vạt áo phông chứ gì. Ừ, tớ cũng thích.”
“Cậu có nghĩ là anh ta có bạn gái rồi không?”
“Kiểu gì chẳng có rồi.”
Bữa tiệc được tổ chức trong một khu nhà mới xây dọc theo bến cảng. Vì là bữa tiệc diễn ra trong căn hộ của Mark Dignan, và rất nhiều vị khách khác cũng là diễn viên hài, Ashling đã chắc mẩm sẽ phải cười đến váng đầu suốt cả buổi tối. Nhưng mặc dù căn phòng đông chật người và ầm ĩ, bao trùm lên tất cả vẫn là một bầu không khí tẻ nhạt lạ thường.
“Tất cả bọn họ đều ngậm tăm vì sợ có kẻ đánh cắp những câu nói và ý tưởng của mình,” Joy vốn đã quá quen với những vụ đàn đúm kiểu này, giải thích. “Khi không có một đội ngũ khán giả trả tiền, cậu đừng hòng hy vọng mấy gã này sẽ tỏ ra hài hước một cách vô tư nhé. Mà này, anh ta đâu ấy nhỉ?”
Joy bắt đầu lượn lờ quanh phòng tìm Nửa-người-nửa-lửng còn Ashling tự rót cho mình một cốc rượu vang trong gian bếp nơi Billy Xe đạp đang quấn một điếu cần sa. Vì anh ta thấp tịt như một chú lùn nên cô có thể mỉm cười với anh ta và nói, “Đêm nay anh thật là hài hước. Chắc hẳn anh phải rất hài lòng với công việc của mình nhỉ.”
“À, cũng không hẳn,” anh ta dấm dẳng. “Tôi đang viết một cuốn tiểu thuyết, cô biết đấy. Đó mới điều tôi thực sự muốn làm trong đời.”
“Tuyệt thật,” Ashling khích lệ.
“Ồ không, không tuyệt lắm đâu,” Billy hăng hái nhấn mạnh. “Nó rất chân thực, rất nặng nề. Rất tàn nhẫn. À mà cái bật lửa của tôi đâu ấy nhỉ?”
“Cho phép tôi,” Ashling đánh một que diêm và châm điếu cần sa cho anh ta. Cô có cảm giác là anh ta thực sự cần nó.
Qua những đám đông trong phòng khách, cô nhìn thấy Ted ngồi chễm chệ trên một chiếc ghế bành, một hàng ngay ngắn những cô nàng hâm mộ đang mon men lại gần để thử vận may. Một nhân vật dáng vẻ ủ rũ, với một dải màu xám rất đậm chạy dọc qua phía trước mái tóc dài màu đen đang đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm làn nước đen như mực của sông Liffey. A ha, Ashling tự nhủ. Mình cá kia là Nửa-người-nửa-lửng quốc tế đầy bí ẩn. Joy ở ngay cạnh đó, hăng hái làm ra vẻ phớt lờ anh ta.
Trong tình huống với Nửa-người-nửa-lửng lúc này, Ashling quyết định để mặc cô bạn. Đang vừa nhẩn nha đi một vòng, vừa nhấp rượu vang, cô chợt trông thấy Mark Dignan. Vì anh ta cao hơn suýt soát bảy bộ và lại có
đôi mắt lồi nhất mà cô từng nhìn thấy ở một người không phải mới bị bóp cổ nên cô cũng muốn thử tán gẫu với anh ta một chút.
Nhưng anh ta đã vội gạt đi lời khen ngợi của cô dành cho màn biểu diễn của mình bằng một cái xua tay như đuổi tà. “Hãy đợi đến khi cuốn tiểu thuyết của tôi được xuất bản.”
“À, vậy là anh cũng đang viết một cuốn tiểu thuyết. Thế, ừm... nội dung là về cái gì vậy?”
“Nói về một người nhìn nhận thế giới trong tất cả sự thối nát của nó.” Đôi mắt của Mark thậm chí còn lồi thêm ra nữa. Nếu anh ta không để ý, chúng sẽ rớt ra thảm mất, Ashling lo lắng thầm nghĩ. “Cuốn tiểu thuyết rất nặng nề,” Mark khoe khoang. “Kiểu như, nặng nề không thể tin nổi. Anh ta căm thù cuộc sống còn hơn cả bản thân cuộc sống.”
Mark nhận ra mình vừa vô tình nói ra điều gì đó có vẻ dí dỏm nên anh ta hớt hải liếc vội xung quanh để bảo đảm là không có ai nghe thấy.
“Ờ, chúc may mắn nhé.” Đồ chết tiệt đáng thương. Ashling bỏ đi, nhưng lại bị níu lại bởi một người đàn ông có vẻ xởi lởi và nhiệt tình cứ khăng khăng rằng Ted là một nghệ sĩ hài vô chính phủ, một người theo chủ nghĩa phi cấu trúc hậu hiện đại đầy châm biếm trong toàn bộ thể loại này. “Anh ấy nắm lấy hình thức tấu hài cơ bản rồi phá vỡ nó hoàn toàn. Thách thức sự kỳ vọng của chúng ta về những gì được xem là hài hước. Mà nhân tiện, cô có muốn nhảy không?”
“Gì cơ? Ở đây à?” Ashling hoàn toàn bị bất ngờ. Đã lâu lắm rồi mới có một người đàn ông xa lạ mời cô nhảy. Nhất là trong phòng khách của ai đó. Mặc dù lúc này khi cô nhìn quanh, mọi người - tất nhiên là toàn các cô nàng - đều đang ném mình theo những giai điệu của Fat Boy Slim. “Ồ không, cám ơn,” cô xin lỗi. “Bây giờ thì sớm quá, tôi vẫn còn thấy hơi thiếu tự nhiên.”
“OK, một tiếng nữa tôi sẽ lại mời cô.”
“Tuyệt lắm!” cô thốt lên với vẻ giả tạo, hùa theo vẻ mặt tha thiết của anh ta. Một tiếng đồng hồ cũng chưa thể khiến cô đủ say. Cả một đời cũng không.
Một lát sau, cô thích thú nhận ra Joy đang hôn phớt qua mặt của Nửa người-nửa-lửng.
Cô nhẩn nha lượn thêm một chút. Mặc dù đó là một bữa tiệc khá dở hơi, cô ngạc nhiên nhận thấy mình rất hài lòng khi ở cùng một đám đông và hài lòng khi ở ngoài rìa của chính đám đông đó. Cảm giác thỏa mãn như vậy thật hiếm hoi: tất cả những gì Ashling biết là cô hầu như không bao giờ có cảm giác trọn vẹn. Ngay cả trong những lúc mãn nguyện nhất, vẫn luôn có gì đó thiêu thiếu, ở ngay trong sâu thẳm con người cô. Giống như cái chấm nhỏ li ti vẫn hiện lên trên màn hình đen kịt lúc bạn tắt ti vi đi ngủ mỗi đêm.
Nhưng đêm nay cô thấy thật bình tĩnh và thư thái, một mình nhưng không hề cô đơn. Ngay cả khi những người đàn ông duy nhất buông lời tán tỉnh không phải mẫu mình thích, cô vẫn không hề cảm thấy thất bại khi quyết định ra về.
Ra đến cửa cô lại gặp anh chàng Nhiệt tình. “Đã về rồi sao? Chờ một chút đã.” Anh ta nguệch ngoạc gì đó lên một mẩu giấy, rồi đưa cho cô.
Cô chờ đến khi mình đã ra hẳn bên ngoài mới mở mẩu giấy. Đó là một cái tên - Marcus Valentine - một số điện thoại và lời chỉ dẫn, “Bellez moi(7)!”
Đó là chuyện nực cười nhất của cô suốt buổi tối hôm đó.
Mất mười phút để cô cuốc bộ về nhà - ít nhất thì trời cũng đã tạnh mưa. Khi cô về đến cửa trước khu căn hộ của mình, có một người đàn ông nằm ngủ ngay ở đó.
Vẫn là người đã nằm đây hôm trước. Chỉ có điều anh ta trẻ hơn cô vẫn tưởng. Nhợt nhạt và gầy gò, ghì chặt lấy tấm chăn dày bẩn thỉu màu cam của mình, trông anh ta không khác gì một đứa bé.
Sau một hồi lục lọi trong ba lô, cô tìm thấy một đồng một bảng và khẽ khàng đặt nó xuống cạnh đầu anh ta. Nhưng nhỡ đâu lại có kẻ nẫng mất thì sao, cô thầm lo, và đẩy đồng xu vào dưới mép chăn. Rồi, bước qua người anh ta, cô lách người vào trong.
Đúng lúc cánh cửa vừa khẽ đóng tách lại sau lưng, cô nghe thấy một tiếng, “Cảm ơn,” được thì thầm nhẹ đến nỗi cô cũng không chắc có phải mình đã tưởng tượng ra hay không nữa.
Trong lúc Ted đang thành công vang dội tại Funny Farm, Jack đang ra mở cánh cửa trước nhà mình tại một góc ảm đạm trông ra biển của khu Ringsend.
“Tại sao anh không gọi cho em?” Mai gặng hỏi. “Anh không bao giờ có đủ thời gian cho em cả.” Cô đẩy người anh để lách qua và bước thẳng lên cầu thang. Cô bắt đầu cởi cúc chiếc quần jean của mình.
Jack đăm đăm nhìn ra biển, nơi mặt nước ban đêm gần như đen kịt và sâu thăm thẳm giống như đôi mắt anh. Rồi anh đóng cửa lại và chậm rãi bước theo cô lên tầng.
Cùng lúc đó, trong một ngôi nhà ngôi nhà gạch đỏ sành điệu mang phong cách thời Edward, Clodagh dốc cạn cốc rượu gin thứ tư và hạ quyết tâm. Hôm nay đã là tròn hai mươi chín ngày.
7
Ashling tỉnh dậy lúc mười hai giờ ngày Chủ nhật, với cảm giác thư thái và chỉ hơi chếnh choáng. Cô nằm trên ghế sofa hút thuốc cho đến khi xem hết tập phim The Dukes of Hazzard. Rồi cô ra ngoài đi mua bánh mì, nước cam, thuốc lá và báo - một tờ lá cải rẻ tiền và thêm một tờ khổ lớn để làm
đối trọng với tờ lá cải.
Sau khi tự nhồi đến mức sắp phát ngấy vì những câu chuyện ngoại tình được thêm mắm thêm muối, cô quyết định đi dọn dẹp căn hộ của mình. Việc này chủ yếu bao gồm công đoạn mang khoảng hai chục chiếc đĩa còn vương vãi đồ ăn thừa và cốc nước uống dở từ phòng ngủ ra bồn rửa trong bếp, nhặt một cốc kem Haagen Daz rỗng lên khỏi nơi nó nằm lăn lóc dưới gầm ghế và mở toang các cửa sổ. Cô cũng chỉ lau chùi lấy lệ, nhưng cô xịt dung dịch lau sàn Mr. Sheen ra quanh phòng và ngay lập tức mùi hương của nó làm cô cảm thấy tự hào vì sự chỉn chu của mình. Cô thận trọng ngửi bộ vỏ chăn, ga gối. Tuyệt, kiểu gì cũng phải được thêm một tuần nữa.
Rồi, cho dù cô biết chắc nó không thể biến đi đâu được, cô kiểm tra để chắc chắn rằng bộ vest mà cô vừa cho đi giặt khô về chưa bị ăn trộm mất. Nó vẫn được treo trong tủ quần áo của cô, cạnh một cái áo sạch. Mai là một ngày trọng đại. Một ngày cực kỳ trọng đại. Không phải thứ Hai nào cô cũng bắt đầu một công việc mới. Thực ra là đã tám năm rồi và cô thấy hồi hộp khủng khiếp. Nhưng cũng phấn khích nữa, cô khăng khăng tự nhủ, cố không đếm xỉa đến cảm giác nôn nao trong bụng.
Giờ thì sao? Hút bụi, cô quyết định, bởi vì nếu làm tử tế đây sẽ là bài tập tuyệt vời cho phần eo. Lôi ra chiếc Dyson màu đỏ tươi và xanh vỏ chanh của mình. Thậm chí đến tận bây giờ cô vẫn không thể tin nổi là mình đã bỏ ra ngần ấy tiền cho một món đồ gia dụng. Khoản tiền mà lẽ ra cô đã có thể dễ dàng tiêu vào vài chiếc túi xách hay mấy chai rượu vang. Kết luận duy nhất mà cô có thể rút ra là cuối cùng thì cô cũng trưởng thành. Điều này thật nực cười vì trong thâm tâm, cô vẫn mới mười sáu tuổi và đang cố quyết định xem mình sẽ làm gì sau khi ra trường.
Cô bật công tắc và hăm hở cúi xuống, vặn vẹo mạnh từ phần eo, bắt đầu đi dọc sàn gian phòng treo mũ áo bên ngoài. Cũng thật may cho người
hàng xóm còn đang rất chếnh choáng của cô ở căn hộ phía dưới (Joy) là công việc này không kéo dài cho lắm - căn hộ của Ashling nhỏ đến mức lố bịch.
Nhưng cô yêu nó biết bao. Nỗi lo sợ lớn nhất của cô về việc mất việc là cô sẽ không còn khả năng thanh toán tiền vay thế chấp. Ashling đã mua căn hộ này ba năm trước, khi cuối cùng cô cũng hiểu rằng Phelim và cô sẽ không đứng chung tên mua một ngôi nhà thôn quê với những khóm hồng quanh cửa ra vào. Việc làm này của cô mang ít nhiều yếu tố đánh liều được ăn cả ngã về không - một cách tự nhiên, cô đã hy vọng rằng Phelim sẽ sầm sầm chạy tới khi khoản tín dụng đang được rót về và hổn hển đồng ý đăng ký mua ngôi nhà liền kề ba phòng ngủ trong một khu ngoại ô cách xa trung tâm. Nhưng tim cô trĩu nặng vì thất vọng khi anh ta không làm vậy, và vụ mua bán cứ thế diễn ra. Tại thời điểm ấy, đó có vẻ như là một sự thừa nhận thất bại. Nhưng giờ thì không. Căn hộ này là nơi nương náu, là cái tổ và cũng là ngôi nhà đầu tiên thực sự là của cô. Cô đã sống trong các phòng trọ suốt từ khi mười bảy tuổi, ngủ trong những chiếc giường của người khác, ngồi trên những chiếc sofa lồi lõm mà chủ nhà mua về vì rẻ tiền chứ không phải vì mức độ thoải mái.
Ashling không có lấy một mẩu đồ đạc nào khi cô mới chuyển tới đây. Ngoài mấy thứ thiết yếu như một cái bàn là và một đống khăn tắm xơ xác, mấy tấm khăn trải giường và vỏ gối không đồng bộ, tất cả đều phải mua sắm mới từ đầu. Chuyện đó làm Ashling lên một cơn tam bành hiếm hoi. Cô cáu điên lên và giận dữ đến sôi tiết với ý nghĩ phải chuyển mục đích sử dụng số tiền mua quần áo của hết tháng này sang tháng khác vào việc sắm sửa tất cả những thứ ngu xuẩn kia. Ghế chẳng hạn.
“Nhưng chúng ta không thể ngồi phệt xuống sàn được,” Phelim đã gào lên.
“Em biết,” Ashling thừa nhận. “Em chỉ không nghĩ ra là sẽ như thế này...”
“Nhưng em là người có óc tổ chức ghê lắm cơ mà.” Anh ta ngỡ ngàng. “Anh cứ đinh ninh em sẽ rất tuyệt với những việc như thế này. Nói thế nào nghỉ? Nghệ thuật xây tổ ấm.”
Trông cô hoang mang và ủ ê đến nỗi Phelim phải dịu dàng nói, “Ôi, em yêu, để anh giúp nhé. Anh sẽ mua cho em một món nội thất nào đó.”
“Em cá là một chiếc giường,” Ashling khinh khỉnh nói.
“À, nhân tiện em nhắc đến nó...” Phelim rất thích chuyện ân ái với Ashling. Mua cho cô một chiếc giường không có gì là khó khăn. “Liệu anh có đủ khả năng không nhỉ?”
Ashling nhẩm tính. Giờ đây sau khi cô đã sắp xếp lại vấn đề tài chính của Phelim, anh chàng đã trở nên rủng rỉnh hơn nhiều. “Em nghĩ thế,” cô sưng sỉa nói. “Nếu anh mua nó bằng thẻ tín dụng của mình.”
Cay đắng và bực bội, cô đăng ký vay tiền ngân hàng, rồi tự mua cho mình một chiếc sofa, một chiếc bàn, một tủ đựng quần áo và vài chiếc ghế. Và cô dứt khoát ngần ấy là quá đủ rồi. Suốt hơn một năm liền cô nhất định không chịu mua rèm cửa. “Mình chỉ cần không lau rửa cửa sổ là xong,” cô nói. “Như vậy sẽ không ai có thể nhìn vào trong.” Và cô chỉ chịu kiếm cho mình một tấm rèm cho bồn tắm sau khi những vũng nước trên sàn phòng tắm của cô bắt đầu thấm xuống căn hộ của Joy bên dưới. Nhưng rồi đến một lúc nào đó những ưu tiên của cô đã thay đổi. Mặc dù cô hoàn toàn không phải mẫu người trang trí nhà kiểu Ninja giống như Clodagh, nhưng hiển nhiên là cô có quan tâm. Tới mức độ cô sở hữu không chỉ một mà là hẳn hai bộ vỏ chăn ga gối (một bộ mang phong cách hiện đại màu chàm và một bộ trắng tinh mang hơi hướng Thiền đạo với tấm chăn có họa tiết vuông in lõm). Mới rồi cô còn dốc túi bỏ ra bốn mươi bảng cho một chiếc gương mà cô thậm chí còn không cần đến, chỉ vì cô nghĩ trông nó cũng xinh. Đã đành là lúc đó cô đang ở thời kỳ tiền kinh nguyệt và đầu óc cô không được minh mẫn lắm, nhưng dù sao vẫn thật khó hiểu. Và hiển nhiên là sự thay đổi vĩ đại trở nên trọn vẹn vào cái ngày cô xỉa ra hai trăm bảng cho chiếc máy hút bụi này.
Có tiếng gõ cửa. Joy, mặt trắng bệch như một hồn ma, lách vào trong.
“Xin lỗi, tớ mải dọn dẹp quá,” Ashling chợt nhận ra. “Tớ làm cậu mất giấc à?”
“Không sao đâu. Đằng nào tớ cũng phải về Howth thăm mẹ nữa.” Joy làm vẻ mặt đau khổ. “Tớ không thể lần lữa mãi được, tớ đã làm thế bốn Chủ nhật rồi còn gì. Nhưng làm sao mà tớ chịu nổi chứ? Kiểu gì bà cũng lại làm một bữa tối toàn thịt nướng, rồi cố nhồi nhét bắt tớ ăn cho mà xem, rồi bà sẽ dành cả buổi chiều mà cật vấn tớ, xác định xem tớ có hạnh phúc không. Cậu biết các bà mẹ như thế nào rồi đấy.”
Chà, có và không, Ashling thầm nghĩ. Cô quá quen với những câu hỏi “Có hạnh phúc không?” Chỉ có điều Ashling mới là người thường quan tâm đến mức độ hạnh phúc của mẹ cô, thay vì điều ngược lại.
“Giá kể bà ăn bữa trưa ngày Chủ nhật vào một khoảng thời gian văn minh hơn thì tốt,” Joy phàn nàn.
“Kiểu như tối thứ Ba chứ gì,” Ashling cười nhăn nhở. “Mà này, tớ đoán là cả ngày nay cậu cũng chưa gặp Ted đúng không.”
“Chưa thấy đâu cả. Tớ đoán là đêm qua cậu ta gặp may và đang nhất định không chịu rời phòng ngủ của cô nàng tội nghiệp đó.”
“Đêm qua cậu ta xuất sắc đến bất ngờ. Vậy cậu có định cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra với Nửa-người-nửa-lửng không hay để tớ phải bức cung bằng bạo lực đây?”
Nét mặt Joy tức khắc tươi hẳn lên. “Anh ta đã qua đêm với tớ. Bọn tớ cũng không thực sự làm chuyện kia nhưng tớ đã thổi kèn cho anh ta và anh ta nói sẽ gọi điện cho tớ. Tớ băn khoăn không biết anh ta có gọi hay không nữa.”
“Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân,” Ashling cảnh báo với vẻ khôn ngoan từng trải.
“Không thấy là cậu đang nói với ai sao? Đưa cho tớ -” Joy cúi người về phía bộ bài tarot “ - để tớ xem chúng nói gì nào. Nữ hoàng à? Nó có nghĩa là gì nhỉ?”
“Sự sinh nở. Cậu nhớ phải uống thuốc đấy nhé.”
“Ôi dào. Mà đêm qua cậu xoay sở thế nào? Có gặp anh chàng tử tế nào không?”
“Không.”
“Cậu sẽ phải cố gắng nhiều hơn đi. Cậu đã ba mươi mốt rồi, đám đàn ông tốt sẽ nhanh chóng biến mất cho mà xem.”
Mình không cần một người mẹ nữa, Ashling tự nhủ. Một khi có Joy bên cạnh.
“Cậu cũng đã hai mươi tám,” Ashling trả miếng.
Ừ
“Ừ, và tớ ngủ với hàng tấn đàn ông.” Joy gặng hỏi với giọng dịu dàng hơn. “Cậu không thấy cô đơn à?”
“Tớ vừa mới ra khỏi một mối quan hệ kéo dài năm năm - cũng phải mất một thời gian mới vượt qua được chuyện như vậy.”
Phelim cũng không phải là người tàn nhẫn nhưng việc anh ta không có khả năng cam kết lâu dài đã để lại tác động kiểu như chính sách tiêu thổ kháng chiến(1) đối với thái độ của Ashling về tình yêu. Từ khi anh ra đi, nỗi cô đơn như một cơn gió lạnh lẽo gào rú thổi qua lòng cô, nhưng cô hoàn toàn không đủ sẵn sàng cho việc gắn bó với một người đàn ông mới. Và phải thừa nhận rằng cô cũng không hẳn chìm ngập trong những lời săn đón.
“Đã gần một năm rồi, đến lúc cậu quên hẳn Phelim được rồi đấy. Công việc mới, khởi đầu mới. Tớ đọc ở đâu đó là có tới một trăm năm mươi phần trăm mọi người gặp nửa kia của mình trong công việc. Cậu có nhìn thấy anh chàng quyến rũ nào khi đi phỏng vấn không?”
Ngay lập tức Ashling nghĩ tới Jack Devine. Một tay khó chịu. Một kẻ tàn phá thần kinh lão luyện.
“Không.”
“Chọn một quân bài đi,” Joy thúc giục.
Ashling tách bộ bài ra và giơ một quân lên.
“Tám thanh gươm, có nghĩa là gì nhỉ?” Joy hỏi.
“Thay đổi,” Ashling miễn cưỡng thừa nhận. “Sự xáo trộn.”
“Tốt, lẽ ra phải từ lâu rồi mới đúng. Được rồi, tớ phải đi đây. Tớ chỉ lên xoa tượng Phật Di lặc để cầu là mình không bị nôn trên xe bus thôi... Mà thật ra, quỷ tha ma bắt Phật đi. Có cho mình vay tiền đi taxi được không?”
Ashling đưa cho Joy tờ mười bảng và hai túi nhựa đựng rác to đùng, hai cái túi kêu leng keng đến mức làm cô phát ngượng. “Vứt chúng vào máng đổ rác hộ tớ nhé, cám ơn.”
Ở Malone’s Aparthotel cách đó một phần tư dặm, báo Chủ nhật đang nặng trĩu trên tay Lisa. Cô đã đọc tất các báo của Ireland - chậc, cả mấy
trang xã hội nữa cơ đấy. Và chúng mới vớ vẩn làm sao! Dường như chúng chẳng có gì khác ngoài những tấm ảnh mấy cha chính trị gia béo nứt béo trương, sặc mùi giả lả mị dân và tham nhũng. Hừ, những thứ như thế này sẽ không có chỗ trong tạp chí của cô.
Cô châm thêm một điếu thuốc khác và ủ rũ thơ thẩn quanh phòng. Người ta thường làm gì mỗi khi không làm việc nhỉ? Họ gặp gỡ bạn bè, tới quán rượu, hoặc phòng tập thể dục, hoặc đi mua sắm, hoặc trang trí nhà cửa, hoặc đi chơi với chàng của mình. Cô nhớ những điều đó biết bao.
Cô thèm khát một cái tai biết cảm thông và nghĩ tới việc gọi điện cho Fifi, người gần nhất với một người bạn thân mà cô có. Nhiều năm trước, họ đã cùng là nhân viên tập sự ở tờ Sweet Sixteen. Khi Lisa chuyển sang trang Chuyên đề của tờ Girl, cô xoay xở cho Fifi công việc của trợ lý biên tập trang Sắc đẹp. Khi Fifi kiếm được công việc làm cây viết chính cho trang Chuyên đề của tờ Chic, cô mách cho Lisa biết khi họ đang kiếm một trợ lý tổng biên tập. Khi Lisa rời đi để trở thành trợ lý tổng biên tập của tờ Femme, Fifi đảm nhiệm luôn vị trí trợ lý tổng biên tập tờ Chic của Lisa. Mười tháng sau khi Lisa trở thành tổng biên tập của Femme, Fifi cũng trở thành tổng biên tập của Chic. Từ trước tới giờ lúc nào Lisa cũng có thể rên rỉ với Fifi - cô ta hiểu rõ những rủi ro và khó khăn trong cái nghề được coi là hào nhoáng của họ, trong khi tất cả những người khác đều khó chịu vì ghen tị.
Nhưng điều gì đó đang ngăn Lisa không cầm điện thoại lên. Cô nhận ra mình đang xấu hổ. Và cả điều gì đó giống như cay cú. Mặc dù sự nghiệp của hai người vẫn gần như phát triển song hành, nhưng Lisa luôn là người tiến xa hơn trên đường đua. Sự nghiệp của Fifi là cả một cuộc vật lộn trong khi Lisa luôn thăng tiến vùn vụt qua các bậc thang. Cô đã trở thành tổng biên tập trước Fifi gần một năm, và mặc dù Chic và Femme đang ở trong một cuộc cạnh tranh gần như trực diện, lượng phát hành của Femme vẫn nhiều hơn khoảng trên một trăm nghìn bản. Lisa đã sung sướng chắc mẩm rằng vụ thăng tiến sang tờ Manhattan sẽ đẩy vọt cô về phía trước đến nỗi Fifi sẽ hoàn toàn không thể đuổi kịp cô được nữa. Nhưng thay vào đó cô lại bị tống sang Dublin và thế là Fifi bỗng, mặc nhiên, trở thành người dẫn đầu.
Oliver, Lisa thở hổn hển, hạnh phúc đột nhiên len lỏi trỗi dậy trong lòng. Mình sẽ gọi cho anh ấy. Nhưng cảm giác sung sướng như một làn sóng mật ong ấm áp ngay lập tức biến thành acid. Trong giây lát cô đã vụt quên khuấy đi mất. Mình không nhớ anh ta, cô tự răn mình. Mình chỉ đang buồn và chán nản.
Cuối cùng, cô gọi điện cho mẹ - có lẽ bởi vì đó là một ngày Chủ nhật nên làm thế sẽ mang tính truyền thống - nhưng sau đó cô cảm thấy tồi tệ khủng khiếp. Đặc biệt khi Pauline Edwards rất khát khao muốn biết tại sao Oliver lại phải gọi cho bà để tìm số điện thoại của Lisa ở Dublin.
“Bọn con đã ly thân.” Bụng Lisa quặn lại với những cảm xúc sôi sục. Cô không muốn nói đến chuyện này - và tại sao mẹ lại không gọi điện cho cô nếu quả thật bà ấy lo lắng đến thế? Tại sao bao giờ cô cũng phải gọi cho bà ấy?
“Nhưng tại sao các con lại phải ly thân, hả con yêu?”
Lisa cũng chưa hoàn toàn hiểu tại sao. “Thì thế đấy,” cô nói cộc lốc, chỉ mong cho qua chuyện này thật nhanh.
“Các con đã thử cái trò tư vấn đó chưa?” Pauline ngập ngừng hỏi, chỉ sợ cơn thịnh nộ của Lisa lại trút xuống đầu mình.
“Tất nhiên.” Lisa nói với vẻ cộc cằn bực bội. Hừ, họ đã đi nghe một buổi tư vấn, nhưng Lisa đã quá bận để đi nghe thêm bất kỳ buổi nào sau đó.
“Các con sẽ ly dị sao?”
“Con nghĩ là như vậy.” Trong thực tế, Lisa cũng không biết nữa. Ngoại trừ những câu mà họ đã hét vào nhau giữa cơn giận dữ - “Tôi sẽ ly dị anh!” “Không, cô không thể vì tôi mới là người ly dị cô!” - thì chưa có gì cụ thể được bàn bạc. Thực ra thì cô và Oliver hầu như không nói gì với nhau kể từ khi ly thân nhưng, không hiểu sao, cô muốn nói như vậy để làm mẹ mình đau khổ.
Pauline thở dài buồn bã. Anh trai Lisa là Nigel đã ly dị năm năm trước. Bà sinh lũ con của mình khi đã khá lớn tuổi, nên bà không sao hiểu nổi cung cách trong thế giới của chúng.
“Người ta bảo hai phần ba số cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị,” Pauline thừa nhận, và bỗng nhiên Lisa chỉ muốn hét lên rằng cô sẽ không ly dị và mẹ cô là một mụ già khốn kiếp khi gợi ra điều đó.
Nỗi lo lắng của Pauline dành cho con gái giằng xé với nỗi sợ của bà đối với cô. “Có phải là bởi vì các con... khác nhau?”
“Khác nhau, là sao hở mẹ?” Lisa gắt gỏng.
“Thì, vì nó là người... da màu?”
“Da màu!”
“Đó là từ không chuẩn,” Pauline vội vã sửa lại, rồi rụt rè ướm thử. “Da đen?”
Lisa tặc lưỡi và thở dài nặng nề.
“Người Mỹ gốc Phi?”
“Trời đất ơi, mẹ, anh ấy là người Anh!” Lisa biết là cô đang tàn nhẫn, nhưng thật khó có thể thay đổi những thói quen cả đời này.
“Nếu vậy thì là người Anh gốc Mỹ-Phi chăng?” Pauline tuyệt vọng nói. “Dù có là gì đi nữa, nó cũng rất đẹp trai.”
Pauline nói câu này thường xuyên chỉ để chứng tỏ rằng bà không hề có thành kiến. Mặc dù tim bà đã gần như ngừng đập vì hoảng sợ khi bà gặp Oliver lần đầu tiên. Giá kể bà được cảnh báo trước rằng bạn trai của con gái bà là một người da đen cao sáu bộ, bảnh bao, lực lưỡng. Người da màu, người Mỹ gốc Phi, mặc xác từ nào đúng hơn. Bà chẳng có gì phản đối họ cả, chẳng qua là vì quá bất ngờ thôi.
Và một khi đã quen với anh ta, bà có thể bỏ vấn đề màu da qua một bên và nhận ra rằng anh ta thực sự là rất đẹp trai. Đấy là nói một cách khiêm tốn.
Một hoàng tử khổng lồ bằng gỗ mun, với làn da mịn màng bóng láng phủ căng trên đôi gò má cao, đôi mắt hình quả hạnh nhân và những lọn tóc bện mỏng uốn lượn rủ xuống tận quai hàm. Anh ta bước đi uyển chuyển như đang nhún nhảy và từ cơ thể anh ta toát ra mùi nắng. Pauline cũng nghi ngờ - mặc dù bà không bao giờ có thể diễn đạt ý nghĩ đó rõ ràng một cách có chủ ý - rằng “súng ống” của anh thuộc hàng cực khủng(2).
“Nó có người khác à?”
“Không.”
“Nhưng biết đâu đấy, Lisa con yêu. Một anh chàng đẹp trai như nó.”
“Thế càng tốt.” Nếu bà cứ nói mãi đến chuyện này, thế nào cuối cùng nó cũng trở thành sự thật cho mà xem.
“Con sẽ không thấy cô đơn chứ, con yêu?”
“Con sẽ không có thời gian để mà cô đơn,” Lisa gắt. “Con còn cả một sự nghiệp để nghĩ đến.”
“Mẹ không hiểu con lại cần sự nghiệp làm gì. Mẹ chẳng có sự nghiệp gì hết mà cũng đâu có sao chứ.”
“Ôi, thật vậy sao?” Lisa gầm lên. “Lẽ ra mẹ nên làm việc gì đó sau khi bố bị chấn thương lưng và chúng ta phải sống nhờ vào trợ cấp thương tật của bố.”
“Nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng ta đã rất hạnh phúc đấy thôi.” “Con thì không.”
Pauline chìm vào im lặng. Lisa có thể nghe thấy tiếng thở của bà qua điện thoại.
“Mẹ nên dập máy thì hơn,” cuối cùng Pauline nói. “Gọi thế này chắc tốn nhiều tiền của con lắm.”
“Xin lỗi, mẹ,” Lisa thở dài. “Con không có ý đó. Mẹ đã nhận được gói bưu phẩm con gửi chưa?”
“Ồ rồi con ạ,” Pauline hồi hộp trả lời. “Kem thoa mặt và son môi. Tuyệt lắm, cám ơn con.”
“Mẹ đã dùng đến chúng chưa?”
“À...” Pauline bắt đầu.
“Mẹ chưa dùng,” Lisa buộc tội.
Lisa gửi cho Pauline cơ man nào là nước hoa và mỹ phẩm đắt tiền mà cô kiếm được trong quá trình làm việc. Cô khát khao muốn thấy bà được tận hưởng chút xa hoa. Nhưng Pauline nhất định không chịu từ bỏ những
thứ Pond’s và Rimmel của mình. Thậm chí có lần bà còn nói, “Ôi, những thứ của con quá tốt đối với mẹ, con yêu ạ.”
“Chúng chẳng có gì là quá tốt đối với mẹ cả,” Lisa đã nổi điên.
Pauline không thể nào hiểu nổi cơn giận dữ của Lisa. Tất cả những gì bà biết, là bà khiếp sợ những ngày mà người đưa thư gõ cửa nhà mình và vui vẻ thông báo, “Lại một gói bưu phẩm của cô con gái trên London gửi về này.” Sau đó, không sớm thì muộn Pauline sẽ phải trả lời điện thoại để trình bày báo cáo tiến độ.
Trừ khi đó là một gói sách. Lisa vẫn thường gửi cho mẹ mình những bản đọc thử của Catherine Cookson và Josephine Cox, với niềm tin sai lầm rằng bà sẽ thích những thứ tâm lý lãng mạn kiểu Lọ Lem thời nay đó. Cho đến một hôm Pauline nói, “Cuốn sách mà con gửi cho mẹ mới tuyệt làm sao chứ, con yêu, cái cuốn về một tên ác ôn ở East End có thói quen đóng đinh nạn nhân của mình vào bàn bi-a ấy.” Hóa ra là người trợ lý của Lisa đã đóng gói nhầm sách, và nó đánh dấu một bước khởi đầu mới trong cái sự đọc của Pauline Edwards. Giờ đây bà mê mải với những cuốn hồi ký về dân gangster và tiểu thuyết trinh thám giật gân của Mỹ, càng nhiều cảnh tra tấn càng tốt, còn những tác phẩm của Catherine Cookson thì được gửi cho mẹ của ai đó.
“Mẹ chỉ mong con có thể về thăm chúng ta, con gái yêu. Đã lâu lắm rồi.”
“Ừm, vâng,” Lisa ậm ừ nói lảng. “Con sẽ về sớm thôi.”
Đừng hòng nhé! Cứ mỗi lần về thăm là ngôi nhà nơi cô đã lớn lên dường như lại càng trở nên nhỏ bé hơn và cực kỳ tồi tàn đến phát sợ. Trong những căn phòng chật chội chất đống các món đồ nhếch nhác rẻ tiền, cô cảm thấy mình trở nên bóng nhoáng và xa lạ, với những chiếc móng tay giả và đôi giày da trơn loáng, bối rối nhận ra rằng có lẽ chiếc túi xách của cô còn đắt tiền hơn cả chiếc sofa Dralon mà cô đang ngồi lên. Nhưng mặc dù bố mẹ cô hết xuýt xoa lại tấm tắc đầy vẻ kính cẩn trước vẻ lộng lẫy của cô, kỳ thực là họ sợ đến rúm người khi ở bên con gái mình.
Lẽ ra cô có thể ăn mặc giản dị trong những lần về thăm bố mẹ, để cố thu hẹp khoảng cách. Nhưng cô cần càng nhiều thứ càng tốt, để ốp lên
người như một bộ áo giáp, đó là cách để cô không bị hút lại, bị tống khứ về với quá khứ của mình.
Cô căm ghét tất cả những chuyện đó, rồi căm ghét chính mình.
“Tại sao bố mẹ không qua đây thăm con nhỉ?” Lisa hỏi. Nếu như họ đã không chịu đi chặng đường có nửa tiếng tàu hỏa từ Hemel Hempstead tới London thì chuyện họ sẽ bay sang Dublin càng khó hơn.
“Nhưng tình hình sức khỏe bố con không được tốt và...”
Khi Clodagh tỉnh giấc sáng Chủ nhật cô vẫn còn thấy hơi chếnh choáng nhưng vô cùng sảng khoái. Tạm thời cô có thể yên tâm rúc vào người Dylan và phớt lờ sự cương cứng của anh với một lương tâm trong sạch.
Khi Molly và Craig xuất hiện, Dylan ngái ngủ xua chúng đi, “Xuống dưới nhà đập phá các thứ đi, để mẹ và bố chợp mắt thêm một chút.”
Thật kinh ngạc là chúng bỏ đi thật, thế là Clodagh và Dylan cứ nằm gà gật trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê.
“Người em thơm thế,” Dylan vùi mặt vào tóc Clodagh và nói líu ríu. “Như bánh quy ấy. Thật ngọt ngào... ngọt ngào...”
Một lát sau cô thì thầm nói với anh, “Em sẽ cho anh một triệu bảng nếu anh làm cho em ít đồ ăn sáng.”
“Em muốn ăn gì đây?”
“Cà phê và hoa quả.”
Dylan xuống nhà và Clodagh nằm duỗi thẳng cẳng như một con sao biển thỏa mãn trên giường cho đến khi anh quay lên, một tay cầm chiếc cốc, tay kia cầm quả chuối. Anh đặt quả chuối vào giữa háng và để nó chúc xuống dưới, rồi khi Clodagh ngước nhìn, anh giả vờ thở hổn hển và xoay ngoắt quả chuối lên, như một người đang run rẩy vì cương cứng. “Tại sao thưa bà Kelly,” anh thốt lên. “Bà thật là quyến rũ!”
Clodagh bật cười, nhưng lại nhận ra cảm giác tội lỗi quen thuộc đang bắt đầu trườn vào không một chút thương xót.
Sau đó họ ra ngoài ăn trưa, tới một trong những nơi khiến bạn không cảm thấy mình là những kẻ bị ghét bỏ vì mang theo hai đứa trẻ con. Dylan đi kiếm một cái đệm cho Molly ngồi lên và trong lúc Clodagh vật lộn giằng
một con dao ra khỏi tay Molly cô thoáng nhìn thấy Dylan đang ngọt ngào tán gẫu với một cô phục vụ bàn - một cô nàng nai tơ mới lớn mặt đang đỏ lựng vì được ở cạnh một người đàn ông đẹp trai đến thế.
Người đàn ông đẹp trai đó là chồng cô, Clodagh nhận ra, vậy mà đột nhiên, thật lạ lùng, cô hầu như không biết anh ta. Choáng váng vì cảm giác thoắt ẩn thoắt hiện thật mơ hồ khi biết một ai đó rõ đến nỗi bất thình lình cô chợt nhận ra mình hoàn toàn không biết anh ta. Dường như sự quen thuộc đến nhàm chán đã che mờ đi vẻ quyến rũ của mái tóc vàng rực của anh, cả nụ cười làm da anh gợn sóng thành những lớp dấu ngoặc đơn quanh khóe miệng, đôi mắt màu nâu vàng nhạt hầu như lúc nào cũng tràn ngập ánh nắng. Cô ngạc nhiên và hoang mang trước vẻ đẹp của anh.
Hôm qua Ashling đã nói câu gì ấy nhỉ? Hâm nóng lại cảm giác say đắm.
Trong đầu cô hiện ra một hình ảnh: cô đang thở hổn hển vì khát khao, háng cô căng lên vì ham muốn, được đặt nằm ngửa ra trên cát... Cát? Không, chờ chút đã, đó không phải Dylan, đó là Jean-Pierre, anh chàng người Pháp quyến rũ đến rụng rời chân tay, người đã lấy đi đời con gái của cô. Lạy Chúa, cô thở dài, lần đó mới kỳ diệu làm sao. Mười tám tuổi, du lịch bụi dọc khu nghỉ mát Riviera của Pháp, anh là người đàn ông quyến rũ nhất mà cô từng bập mắt vào. Mà cô thì có những tiêu chuẩn rất cao, cô thậm chí còn chưa bao giờ chịu hôn mấy anh chàng mà cô đi chơi cùng khi ở nhà. Nhưng ngay phút đầu tiên nhìn thấy ánh mắt u sầu đến tê tái, cái miệng hờn dỗi đầy quyến rũ và thứ ngôn ngữ cơ thể mang đặc phong cách xứ Gô loa ấy của Jean-Pierre, cô đã quyết định rằng anh chính là người đàn ông sẽ được nhận phần thưởng cao quý, chính là sự trinh trắng của cô.
Quay lại với Dylan, thuở say đắm ban đầu. À đúng rồi. Cô nhớ cảm giác gần như phát khóc khi cô cầu xin anh làm chuyện đó với mình. “Em không thể chịu được nữa, ôi xin hãy cho nó vào luôn đi!” Nằm trườn trên băng ghế sau chiếc xe của anh, để mặc cho hai đầu gối mở tách ra... Không, khoan đã, đó cũng không phải là Dylan. Lần đó là Greg, chàng cầu thủ bóng đá người Mỹ có suất học bổng một năm ở Trinity(3). Thật tệ là cô lại gặp anh chỉ đúng ba tháng trước khi anh phải về nước. Đó là một anh chàng cầu thủ đẹp trai, kiêu bạc, người lực lưỡng đầy cơ bắp, và vì lý do nào đó cô cảm thấy ở anh có một sức quyến rũ không thể nào cưỡng nổi.
Tất nhiên cô cũng đã cảm thấy như vậy với cả Dylan. Cô lục lọi trong quá khứ của mình để tìm kiếm những ký ức cụ thể và rũ bụi lôi ra kỷ niệm sâu đậm nhất. Lần đầu tiên cô nhìn thấy anh. Ánh mắt của họ - đúng theo nghĩa đen - gặp nhau giữa một căn phòng xô bồ và trước khi cô kịp tìm hiểu điều đầu tiên về anh, cô đã biết tất cả những gì cô cần biết.
Nhiều hơn Clodagh năm tuổi, anh khiến cho tất cả những chàng trai khác trông giống những cậu nhóc mặt đầy tàn nhang, vắt mũi chưa sạch. Từ anh toát lên một vẻ tự tin lịch lãm và đĩnh đạc khiến anh trở nên cực kỳ hấp dẫn. Anh mỉm cười, anh bỏ bùa mê, bản thân sự có mặt của anh cũng đủ khiến cho người ta cảm thấy ấm áp, phấn chấn - và yên tâm: cho dù công việc kinh doanh của anh mới chỉ bắt đầu cô đã có niềm tin sắt đá rằng Dylan sẽ luôn làm mọi chuyện đâu vào đấy. Và anh mới ngon lành làm sao!
Khi ấy cô mới hai mươi tuổi, choáng ngợp trước vẻ đẹp của chàng trai tóc vàng và mê muội với vận may của mình. Anh thích hợp với cô đến nỗi hoàn toàn không còn phải nghi ngờ gì về việc anh chính là người cô sẽ lấy làm chồng. Thậm chí khi bố mẹ cô khăng khăng rằng cô vẫn còn quá trẻ để
hiểu cả suy nghĩ của chính mình, cô đã không thèm đếm xỉa đến lời khuyên của họ. Dylan là người dành cho cô, cũng như cô là người dành cho Dylan.
“Của con này, Molly!” Anh quay lại với tấm đệm mà ba cô nàng mới lớn đã tranh nhau đưa nó cho anh. Đến lúc này Clodagh mới để ý là Molly đã đổ được nửa lọ muối vào trong bát đường.
Sau bữa trưa họ lái xe ra bãi biển. Đó là một ngày đầy nắng và lộng gió, vừa đủ ấm để cởi bỏ giày và lội nghịch trong làn sóng. Dylan nhờ một người đàn ông đang dắt chó đi dạo chụp hộ bức ảnh bốn người đang chụm sát vào nhau trên bãi cát sạch sẽ và vắng vẻ, mỉm cười rạng rỡ trong khi gió thổi tung những lọn tóc vàng nhạt phủ lòa xòa trên mặt họ, Clodagh túm chặt lấy một bên váy để giữ nó khỏi dính vào đôi chân ướt của cô.
8
Lisa có mặt tại chỗ làm từ lúc tám giờ sáng thứ Hai. Hãy bắt đầu như thể đã thành công. Cô giận dữ nhận ra tòa nhà vẫn khóa im ỉm. Cô lang thang một vòng khá lâu trong không khí ẩm ướt và cuối cùng đi kiếm một cốc cà phê. Ngay cả chuyện đó cũng phải chờ một lúc. Thật không giống với London nơi các quán cà phê đã mở cửa ngay từ lúc tinh mơ.
Đến chín giờ sáng, khi cô rời khỏi quán cà phê, trời bắt đầu mưa. Vòng tay lên đầu che tóc, cô hối hả chạy, đôi guốc gót cao bốn inch của cô trượt trên vỉa hè trơn nhẫy. Đột nhiên cô dừng phắt lại và rít lên với một thanh niên mặc áo khoác có mũ trùm đầu đang đi qua, “Chẳng nhẽ ở cái nước nhà quê này lúc nào trời cũng mưa à?”
“Tôi không biết,” anh ta trả lời với vẻ e dè. “Tôi mới hai mươi sáu tuổi.”
Đến cửa trước, Lisa được một cô gái tên là Trix đón tiếp. Khắp người cô ta nổi hết cả gai ốc trong một chiếc váy hai dây mỏng tang và đang phải nhảy choi choi đổi hết bàn chân đi giày to gộc này sang bàn chân đi giày to gộc kia cho đỡ lạnh. Khi nhìn thấy Lisa, mặt cô ta sáng bừng lên đầy ngưỡng mộ và vội vàng vất điếu thuốc lá xuống đất.
“Chào chị,” cô ta gầm gừ, rồi phả nốt hơi khói thuốc cuối cùng. “Đôi giày giết người! Tôi là Trix, trợ lý riêng của chị. Trước khi chị hỏi, xin tự giới thiệu tên tôi là Patricia, nhưng sẽ chẳng ích gì nếu gọi tôi như thế vì tôi sẽ không trả lời đâu. Tôi từng là Trixie cho đến khi bọn người ở cách chỗ tôi hai số nhà có một con chó xù cũng tên như vậy, vì thế bây giờ tôi là Trix. Trước kia tôi là nhân viên lễ tân và chân loong toong nhưng vừa mới được thăng chức, nhờ có chị đấy. Xin lưu ý chị, họ vẫn chưa cử ai thay thế tôi... Đằng này, thang máy đi lối này.”
“Tôi xin thừa nhận ngay rằng khả năng đánh máy của tôi không phải là tốt nhất,” Trix giãi bày trong lúc họ đi lên. “Nhưng khả năng nói dối của tôi thì siêu hạng, thừa sức được sáu mươi từ một phút. Tôi có thể nói rằng chị đang bận họp với bất kỳ ai chị không muốn tiếp và họ sẽ không bao giờ nghi ngờ gì. Trừ khi chị muốn họ nghi ngờ. Tôi cũng biết cách dọa dẫm nữa, chị thấy không?”
Lisa tin cô ta.
Mặc dù mới có hai mươi mốt tuổi và mơn mởn như một quả đào tơ, Trix đã có một vẻ cứng cỏi mà Lisa nhận ra ngay. Hình ảnh từ những ngày còn trẻ của chính cô.
Cú sốc đầu tiên trong ngày là Randolph Media Ireland chỉ chiếm một tầng nhà - trong khi văn phòng ở London lấp đầy toàn bộ một tòa nhà mười hai tầng.
“Tôi phải đưa chị tới gặp Jack Devine,” Trix nói.
“Anh ta là Giám đốc Điều hành Ireland, đúng không?” Lisa nói.
“Thật vậy sao?” Trix có vẻ ngạc nhiên. “Tôi đoán là thế. Dù sao anh ta cũng là sếp, hoặc anh ta nghĩ vậy. Tôi chẳng bao giờ làm theo những lệnh vớ vẩn của anh ta cả.
“Chắc chị sẽ muốn được trông thấy anh ta tuần trước.” Cô ta đột nhiên hạ thấp giọng xuống. “Như một con gấu bị nhọt ở mông ấy. Nhưng hôm nay anh ta lại tí tởn rồi, điều đó nghĩa là anh ta đã quay lại với cô bồ. Những trò ầm ĩ của cái đôi này - họ làm cho Pamela và Tommy(1) trông giống như nhà Walton trong phim Walton’s Moutain.”
Những cú sốc tiếp theo đã được dành sẵn cho Lisa - Trix dẫn Lisa vào một văn phòng rộng không có vách ngăn với khoảng mười lăm bàn làm việc. Mười lăm! Làm thế nào mà một đế chế tạp chí có thể được vận hành từ mười lăm chiếc bàn làm việc, một phòng họp và một gian bếp nhỏ?
Một ý nghĩ khủng khiếp lao ầm vào cô. “Nhưng... thế bộ phận thời trang ở đâu?”
“Kia.” Trix hất đầu về phía chiếc giá mắc quần áo được xếp trong một góc phòng, trên đó treo lủng lẳng một cái áo khoét nách màu hồng xấu xí rõ ràng là có liên quan tới tờ Gaelic Knitting, một chiếc váy phù dâu, một chiếc váy cưới và ít quần áo nam giới.
Lạy Chúa! Bộ phận thời trang ở Femme chiếm trọn vẹn một căn phòng. Chật cứng những mẫu thời trang từ tất cả các cửa hàng sang trọng nhất, có nghĩa là từ nhiều năm nay Lisa đã không hề phải mua quần áo mới. Cần phải làm điều gì đó! Ngay lúc này trong đầu cô đã rộn lên những kế hoạch liên lạc với những quan hệ của mình trong xứ sở thời trang - nhưng Trix
đang giới thiệu với cô hai nhân viên đã ở trong phòng từ trước. “Đây là Dervla và Kelvin, họ làm việc cho những tạp chí khác, vì vậy họ không phải là nhân viên của chị. Không giống tôi,” cô ta nói với vẻ tự hào.
“Dervla O’Donnell, rất vui được gặp cô.” Một phụ nữ to lớn, trạc bốn mươi, mặc chiếc áo vải rộng trang nhã, bắt tay Lisa và mỉm cười. “Tôi phụ trách Hibernian Bride, Celtic Health, và Gaelic Interiors.” Lisa chỉ cần liếc qua cũng biết ngay rằng người phụ nữ này từng là dân hippy.
“Còn tôi là Kelvin Creedon.” Một người đàn ông ăn diện đến nhức mắt, tóc tẩy thành màu bạch kim, với cặp kính gọng đen của Joe Ninety, xiết chặt tay Lisa. Cô nhận ra ngay rằng cặp kính này chỉ là để làm điệu và mắt kính là loại trong suốt. Khoảng hơn hai mươi một chút, cô thầm đoán tuổi anh ta. Từ anh chàng toát ra vẻ tràn trề sinh lực, trẻ trung và sành điệu. “Tôi phụ trách The Hip Hib, Celtic Car, DIY Irish-Style và Keol, tạp chí âm nhạc của chúng ta.” Một lô lốc những chiếc nhẫn bạc của anh ta làm đau tay Lisa.
“Ý anh chị là sao cơ?” Lisa hoang mang hỏi. “Anh chị biên tập tất cả những tạp chí đó sao?”
“Rồi còn nghiên cứu và viết bài nữa chứ.”
“Tự làm hoàn toàn sao?” Lisa không thể ngăn mình buột miệng hỏi. Cô hết nhìn Kelvin lại quay sang Dervla.
“Với sự giúp đỡ của mấy tay cộng tác viên linh tinh,” Dervla nói. “Chắc chắn tất cả những gì chúng tôi phải làm là phọt ra các thông cáo báo chí.”
“Mọi chuyện cũng không đến nỗi tệ lắm kể từ khi The Catholic Judger phải đình bản.” Dervla hiểu lầm Lisa sốc vì lo lắng. “Nhờ thế mà tôi có thêm các buổi chiều thứ Năm để làm việc khác.”
“Vậy chúng là các ấn phẩm hàng tuần hay hàng tháng?”
Dervla và Kelvin quay mặt nhìn nhau, hai người há hốc miệng trong im lặng trước khi cùng đồng thời phá lên cười sằng sặc không sao kìm nổi. Cả đời họ chưa bao giờ nghe thấy điều gì buồn cười đến thế.
“Hàng tháng!” Dervla thốt lên, không tin vào tai mình.
“Hàng tuần!” Kelvin còn có vẻ khá hơn một chút.
Dervla chợt nhận ra Lisa đang cau mặt nên chị ta vội bình tĩnh lại. “Không. Hầu hết là một năm hai số. Tờ The Catholic Judger thì ra hàng tuần, nhưng tất cả những tờ còn lại đều được ra theo số Mùa xuân và số Mùa thu. Trừ trường hợp có thảm họa nào đó.”
“Còn nhớ số Mùa thu năm 1999 chứ?” Chị ta quay sang Kelvin. Rõ ràng là Kelvin cũng nhớ vì tiếng cười lại ré lên.
“Virus máy tính,” Kelvin giải thích. “Xóa sạch mọi thứ.”
“Hồi đó thì không buồn cười chút nào...”
Nhưng rõ ràng là bây giờ thì có.
“Xem này.” Dervla dẫn Lisa tới chỗ một chiếc giá bên trên trưng bày các mẫu tạp chí bóng nhoáng. Chị ta chìa cho cô một tập giấy mỏng tang tự xưng là Hibernian Bride, số Mùa xuân năm 2000.
Đó không phải là một tờ tạp chí, Lisa thầm nghĩ. Đó chỉ là một tập brochure. Đúng ra chỉ là một tờ rơi. Cũng không hơn gì một tờ thông báo. Chết tiệt, chỉ đáng coi là mảnh giấy nhắc việc.
“À, còn đây là Spud, tạp chí về thực phẩm của chúng ta.” Dervla chìa thêm một tập brochure khác cho Lisa. “Shauna Griffins phụ trách biên tập nó với cả tờ Gaelic Knitting và Irish Gardening.”
Một nhân viên khác cũng vừa mới đến. Quá tẻ nhạt đến mức thậm chí còn không đáng gọi là tầm thường, Lisa ghê tởm thầm nghĩ - người tầm thước, bắt đầu hói và lại còn đeo nhẫn cưới. Giấy dán tường hình người. Phải khó khăn lắm cô mới có thể hạ cố mở miệng chào anh ta.
“Đây là Gerry Godson, trưởng phòng mỹ thuật. Anh ta hơi kiệm lời một chút,” Trix bô bô nói. “Đúng là anh không nói nhiều nhỉ, Gerry? Nháy mắt một cái là đúng, nháy hai cái là biến mẹ cô đi và để cho tôi yên.”
Gerry nháy mắt hai cái, và vẫn giữ nguyên vẻ mặt trơ trơ như đá. Rồi đột nhiên anh ta cười toe toét, bắt tay Lisa và nói, “Chào mừng cô đến với Colleen . Thời gian qua tôi vẫn làm việc với các tạp chí khác ở đây, nhưng từ giờ trở đi tôi sẽ chỉ làm cho một mình cô thôi.”
“Cả tôi nữa,” Trix nhắc anh ta. “Tôi là trợ lý riêng của chị ấy, anh biết đấy, và tôi sẽ là người truyền đạt mệnh lệnh.”
“Chúa ơi,” Gerry càu nhàu với vẻ thích thú.
Lisa cố gượng mỉm cười.
Trix dồn dập gõ nhẹ lên cửa phòng Jack, rồi mở ra. Jack ngẩng lên. Đang ngồi đăm chiêu tư lư, mặt anh có vẻ hơi ủ rũ và thất thần, còn đôi mắt đen như trái mận gai như ẩn chứa những điều bí mật. Rồi anh nhìn thấy Lisa và mỉm cười như đã nhận ra cô, cho dù họ chưa gặp nhau lần nào cả. Tất cả sáng bừng lên.
“Lisa?” Cách tên cô vang lên khi được thốt ra từ miệng anh làm thức dậy điều gì đó thật ấm áp trong cô. “Mời vào, ngồi đi.” Anh đi vòng qua bàn và bước tới bắt tay cô.
Linh tính nặng như chì của Lisa bỗng được nghỉ xả hơi một chút. Cô có cảm tình với phong thái của tay Jack này. Cao ráo không? Có! Ngăm đen không? Có! Lương cao không? Có! Anh ta là một giám đốc điều hành cơ mà, cho dù đó chỉ là một công ty con ở Ireland.
Và có điều gì đó hơi không chính thống ở người đàn ông này khiến cô thấy phấn khích. Mặc dù anh ta mặc vest, cô vẫn cảm thấy đó chẳng qua là do bắt buộc, và và tóc anh ta cũng dài hơn so với những gì được coi là có thể chấp nhận ở London.
Vậy nếu anh ta có bạn gái rồi thì sao? Từ khi nào điều đó lại trở thành một trở ngại thế nhỉ?
“Tất cả chúng tôi đều rất phấn khởi về Colleen ,” Jack quả quyết. Nhưng Lisa nhận ra vẻ chán chường ẩn sâu bên trong tuyên bố của đối phương. Nụ cười của anh ta đã biến mất và Jack lại quay về với vẻ nghiêm nghị và ủ rũ.
Sau đó anh bắt đầu giới thiệu cho Lisa về “nhóm” của cô. “Đây là Trix, trợ lý riêng của cô, rồi đến trợ lý biên tập của cô, một người phụ nữ tên là Ashling. Cô ấy có vẻ rất được việc.”
“Tôi cũng nghe nói thế,” Lisa khô khan nói. Nguyên văn những từ mà Calvin Carter nói là, “Cô đề ra ý tưởng, còn cô ta sẽ lo thực hiện.”
“Tiếp đến là Mercedes, người chủ yếu sẽ làm công việc biên tập thời trang và sắc đẹp, nhưng cũng sẽ tham gia biên tập chung. Cô ấy mới chuyển sang từ tờ Ireland on Sunday - ”
“Đó là cái gì?”
“Một tờ báo Chủ nhật. Có cả Gerry, Giám đốc mỹ thuật của cô, người vẫn kiêm luôn cả các ấn phẩm khác. Cũng giống như Bernard, người sẽ phụ trách các công việc hành chính, quảng cáo, vân vân... trên tờ Colleen .”
Đến đây Jack dừng lại. Lisa chờ đợi anh ta cho cô biết thêm về khoảng tầm tám nhân viên nữa. Nhưng Jack không động tĩnh gì.
“Tất cả đấy à? Năm nhân viên thôi sao? Năm người?” Cô choáng váng không tin nổi vào tai mình. Ở Femme ngay cả thư ký của cô cũng còn có riêng một thư ký!
“Cô cũng sẽ có ngân sách rộng rãi dành cho cộng tác viên,” Jack hứa hẹn. “Cô có thể đặt hàng một số bài viết và sử dụng đội ngũ tư vấn, cả thường xuyên và thời vụ.”
Lisa như hóa rồ. Làm thế nào mà cô lại ra nông nỗi này, trong cái hoàn cảnh khủng khiếp này cơ chứ? Sao lại thế? Cô đã có một kế hoạch cho đời mình. Cô vẫn luôn biết rõ mình đang đi đâu và lần nào cô cũng đến được đích. Cho tới tận bây giờ, khi đột nhiên cô bị ném vào cái vũng nước tù này.
“Vậy... vậy những chiếc bàn còn lại thuộc về ai?”
“Dervla, Kelvin và Shauna, những người phụ trách biên tập tất cả các tạp chí khác của chúng ta. Rồi tiếp theo là trợ lý riêng của tôi, bà Morley, Margie ở bộ phận quảng cáo - cô ấy tuyệt lắm, một con Rottweiler(2) nòi hẳn hoi! - Lorna và Emily ở phòng kinh doanh rồi hai cô nàng Eugene ở bộ phận kế toán.”
Lisa mỗi lúc một cảm thấy khó thở, nhưng cô phải cố cưỡng lại cảm giác thôi thúc muốn lao vào phòng vệ sinh và bưng mặt hét toáng lên thì Ashling, người trợ lý biên tập, đang được dẫn vào trong văn phòng.
“Xin chào, lại được gặp anh.” Ashling rụt rè mỉm cười với Jack Devine.
“Xin chào.” Anh gật đầu, không hề có chút xởi lởi nào như khi anh chào Lisa. “Tôi không nghĩ là các cô đã gặp nhau. Đây là Lisa Edwards - còn đây là Ashling Kennedy.”
Ashling thoáng lộ vẻ ngỡ ngàng, rồi tươi cười nhìn Lisa, công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ trước làn da hoàn mỹ, bộ vest thắt eo quyền lực, cùng cặp chân huyền ảo trong đôi nịt tất loại 10-denier(3). “Tôi rất vui khi được gặp
chị,” cô tuyên bố với vẻ hồ hởi xen lẫn hồi hộp. “Tôi rất hào hứng với tờ tạp chí này.”
Ngược lại, Lisa không thấy có tí ấn tượng gì với Ashling. Người phụ nữ này đã biến sự tềnh toàng thành cả một loại hình nghệ thuật. Tất cả chúng ta đều có thể để tóc buông thế kia, không uốn xoăn mà cũng chẳng duỗi thẳng, nếu chúng ta cũng bê tha như cô ta, Lisa khinh bỉ nghĩ bụng. Chẳng ai trong chúng ta vừa sinh ra đã có ngay một mái tóc mượt mà và cầu kỳ cả, đó là điều bạn sẽ phải kỳ công theo đuổi. Cứ nhìn Trix mà xem, đã đành là kiểu trang điểm của cô ta còn lâu mới đáng gọi là tinh tế, nhưng ít nhất cô ta cũng còn thể hiện ít nhiều cố gắng.
Rồi đến lượt Mercedes xuất hiện và Lisa cũng không dám chắc lắm về cô này. Trông cô ta có vẻ lộng lẫy và ít nói, ngăm đen và uốn éo như rễ cam thảo.
Người duy nhất Lisa chưa gặp là Bernard, và hóa ra anh ta là kẻ tồi tệ nhất trong cả đám này. Chiếc áo len không tay màu đỏ mà anh ta mặc bên ngoài áo sơ mi và cà vạt của mình rõ ràng là có từ thời nó được tung ra thị trường thời trang lần đầu tiên, và thành thật mà nói thì đó là tất cả những gì cô cần biết về anh ta.
Lúc mười giờ, nhóm Colleen , cùng Jack và trợ lý riêng của anh là bà Morley tập trung ở phòng họp để giới thiệu làm quen. Lisa ngạc nhiên khi thấy bà Morley hóa ra không phải là mẫu người thơm nức và được việc như cô nàng Moneypenny(4), mà là một bà khọm già khoảng sáu mươi tuổi, mặt mũi nhăn nheo. Jack đã thừa kế lại bà ta khi anh nhận bàn giao từ tay Giám đốc Điều hành trước, điều này mãi về sau Lisa mới phát hiện. Anh cũng có thể thuê người mới, nhưng vì lý do nào đó đã quyết định không làm thế, và bởi vậy nên bà Morley tỏ ra vô cùng tận tụy. Quá tận tụy là khác, theo đánh giá chung của mọi người.
Trong khi bà Morley ghi biên bản, Jack nhấn mạnh lại những nội dung chính - Colleen sẽ phải là một ấn phẩm hấp dẫn và sành điệu dành cho phụ nữ Ireland trong độ tuổi từ mười tám đến ba mươi. Nó sẽ phải thật phóng khoáng, cởi mở về vấn đề giới tính, và vui nhộn. Tất cả mọi người phải tập trung suy nghĩ, đề xuất xây dựng các chuyên mục.
“Hay là thực hiện một mục về gặp gỡ đàn ông ở Ireland?” Ashling rụt rè lên tiếng. “Có thể tháng này bố trí cho một cô gái tới công ty mai mối nào đó, tháng sau thì để cô ta tìm kiếm trên mạng, tháng sau nữa lại cho cô ta đi cưỡi ngựa...?”
“Ý tưởng không tệ lắm,” Jack miễn cưỡng nói.
Ashling mỉm cười gượng gạo. Cô cũng không biết mình có thể tiếp tục duy trì cái trò này được đến bao giờ - ý tưởng vốn không thực sự là sở trường của cô. Chuyên mục này thật ra là gợi ý của Joy - cũng chỉ vì Joy hy vọng sẽ trở thành con chuột bạch đầu tiên. “Đằng nào thì tớ cũng phải luôn cố công tìm đàn ông mà,” cô nói. “Biết đâu lần này tớ lại còn được trả tiền cho việc đó cũng nên.”
“Còn ý tưởng nào khác không?” Jack giục giã.
“Hay là mục thư của một nhân vật nổi tiếng?” Lisa đề xuất. “Tìm một nhân vật nổi tiếng nào đó của Ireland. Kiểu như...” Nói đến thì cô hoàn toàn ngắc ngứ, vì cô chẳng biết nhân vật nổi tiếng nào của Ireland cả. “Kiểu như... kiểu như...”
“Bono,” Ashling tử tế gợi ý. “Hoặc là một trong nhưng cô gái của nhóm The Corrs.”
“Chính xác,” Lisa nói. “Khoảng một nghìn từ, về những chuyện như bay bằng vé hạng nhất, đi dự tiệc với Kate Moss và Anna Friel. Táo bạo mà hào nhoáng.”
“Tốt lắm.” Jack tỏ ra hài lòng. Nhưng nỗi kinh hoàng đã quay lại xâm chiếm Lisa. Một lần nữa cô choáng váng trước cả núi công việc đang chờ mình ở phía trước. Gây dựng một tạp chí hoàn toàn mới ở một đất nước hoàn toàn xa lạ!
“Vậy còn thư của một nhân vật không nổi tiếng thì sao nhỉ?” Trix đề nghị bằng cái giọng khê đặc của mình. “Mọi người biết thế nào rồi đấy - Tôi là một cô gái bình thường, đêm qua tôi uống say bí tỉ, tôi đang cắm sừng bạn trai, tôi căm ghét công việc hiện tại, tôi ước có nhiều tiền hơn, tôi đã xoáy một lọ sơn móng tay ở cửa hàng Boot’s...”
Tất cả mọi người đều đang gật gù nhiệt tình cho đến khi cô ta nói đến tới phần ăn trộm lọ sơn móng tay, tới đây màn gật bù bỗng chậm dần và
ẳ
dừng hẳn lại. Tất cả đều từng làm thế nhưng không đời nào có người chịu thú nhận cả.
Trix nhận ra điều đó ngay lập tức và hồi lại đầy tự tin “... mẹ tôi ghét bạn trai tôi - cả hai người - tôi đã tẩy tóc và bị bỏng da đầu, đại loại những chuyện như thế.”
“Ý tưởng hay,” Jack nói. “Mercedes, có sáng kiến nào không?”
Từ đầu đến giờ Mercedes ngồi vẽ nguệch ngoạc, đôi mắt đen thẫm của cô nhìn xa xăm và thờ thẫn. “Tôi sẽ lăng xê càng nhiều nhà thiết kế Ireland càng tốt. Tham dự các buổi biểu diễn tốt nghiệp tại các trường thiết kế thời trang...”
“Sao lại có thể thiển cận như thế được nhỉ?” Lisa ngắt lời một cách cay độc. “Chúng ta phải giới thiệu các nhà thiết kế quốc tế nếu muốn được độc giả nhìn nhận một cách nghiêm túc.”
Đừng hòng có chuyện cô sẽ mặc những thứ đồ may kiểu cây nhà lá vườn mang phong cách nghiệp dư mà đám bạn Mercedes vá víu vội vàng trong phòng ngủ của họ! Những tạp chí đích thực như Femme chỉ chụp ảnh các mẫu quần áo được văn phòng báo chí của các hãng thời trang quốc tế gửi tới. Những bộ quần áo này chỉ là cho mượn nhưng khá thường xuyên chúng sẽ “thất lạc” sau khi chụp ảnh. Theo lẽ tự nhiên, tội lỗi sẽ trút xuống đầu các cô người mẫu - hãy đối diện với sự thật đi, chẳng phải tất cả bọn họ đều có những thói quen xấu như liên quan đến heroine đấy thôi? Và nếu những món quần áo đó xuất hiện trong tủ của Lisa, thì cũng chẳng ai hơi đâu để ý làm gì. Chậc, thực ra thì tất cả mọi người đều rất để ý, nhưng về chuyện này họ cũng chẳng thể làm được gì. Và đó là một món hời mà Lisa không bao giờ có ý định từ bỏ cả.
Mercedes ném về phía Lisa một cái lườm khinh bỉ và tinh quái. Lisa ngạc nhiên nhận ra cô không hề bối rối tí nào.
“Còn gì nữa không?”
“Hay là...?” Ashling chậm rãi lên tiếng, không dám tin là chính cô đang nói. Cô nghi ngờ rằng mình đang có một sáng kiến độc đáo, nhưng cô cũng không dám chắc chắn. “Hay là một chuyên mục riêng của một người đàn ông? Tôi biết đây là một tạp chí phụ nữ, nhưng liệu chúng ta có thể có một mục kiểu như từ A đến Z về những gì đàn ông nghĩ trong đầu không? Anh
ta thực sự có ý gì khi nói, ‘Anh sẽ gọi cho em.’ Mà thật ra,” cô reo lên vì phấn khích, “sao không trình bày luôn quan điểm từ phía phụ nữ nữa nhỉ? Một mục chàng và nàng chẳng hạn?”
Jack hướng về phía Lisa một cái nhướng mày dò hỏi.
“Cái đó vừa mới được đưa ra cách đây năm phút còn gì,” Lisa nói gọn lỏn.
“Vậy à?” Ashling tẽn tò nói. “OK.”
“Hôm nay là ngày mười hai tháng Năm,” Jack kết thúc cuộc họp. “Ban giám đốc muốn số đầu tiên được tung ra các sạp báo vào cuối tháng Tám. Nghe có vẻ là một quãng thời gian khá dài đối với những người vừa đến từ các ấn phẩm hàng tuần như các bạn, nhưng thực ra thì không đâu. Sẽ có rất nhiều công việc khó khăn đấy.”
“Nhưng cũng thú vị nữa,” anh bổ sung, vì anh biết là mình nên làm thế. Cho dù anh có đang hy vọng thuyết phục ai đi nữa, thì đó chắc chắn cũng không phải là chính anh. “Và nếu có bất kỳ vấn đề gì, cánh cửa phòng tôi luôn mở rộng.”
“Điều đó cũng chẳng ích gì nếu anh không ở trong văn phòng,” Trix nhơn nhơn nói. “Ý tôi là,” cô ta vội vàng nói thêm khi thấy mặt Jack tối sầm lại, “anh thường phải qua bên đài truyền hình, duy trì hòa bình.”
“Thật không may,” Jack hướng câu này về phía Lisa, “đài truyền hình và đài phát thanh của chúng ta lại ở những địa điểm khác, cách đây khoảng nửa dặm. Do yêu cầu về diện tích nên văn phòng của tôi đặt tại đây, nhưng tôi vẫn phải dành một khoảng thời gian thích hợp ở bên kia. Nhưng nếu cô cần tôi mà tôi lại không có mặt ở đây, cô có thể gọi điện bất cứ lúc nào.”
“OK,” Lisa gật đầu. “Và với Colleen thì số lượng phát hành chúng ta nhắm tới là bao nhiêu vậy?”
“Ba mươi nghìn bản. Có thể chúng ta sẽ chưa đạt được con số đó ngay từ đầu, nhưng hy vọng chúng ta sẽ đáp ứng được sau khoảng sáu tháng.”
Ba mươi nghìn bản. Lisa kinh hoàng - nếu lượng phát hành của Femme mà tụt xuống dưới ba trăm năm mươi nghìn bản, một số cái đầu cứ gọi là lăn lông lốc.
Sau đó Jack cho Lisa biết về ngân sách dành cho cộng tác viên của cô, nhưng có gì đó nhầm lẫn thì phải - hình như nó bị thiếu mất một số không. Ít nhất là một số.
Thế đấy. Cô nhận ra mình đang lịch sự xin phép rời khỏi phòng và, như thể đang ở trong một giấc mơ, cô lướt về phía phòng vệ sinh nữ, vào tới nơi cô tự khóa mình trong một ngăn nhỏ. Cô bàng hoàng thấy mình đang khóc nấc lên. Khóc vì thất vọng, tủi nhục, cô đơn, vì tất cả những gì cô đã mất. Mọi chuyện cũng không kéo dài cho lắm, vì thật ra cô cũng không hẳn là một kẻ hay khóc lóc, nhưng cuối cùng khi bước ra khỏi ngăn vệ sinh tim cô bỗng đập loạn lên khi cô trông thấy ai đó đang đứng cạnh bồn rửa tay. Cô nàng Ashling tầm thường và nhạt nhẽo, hai tay vòng giấu ra sau lưng. Đồ khốn tọc mạch!
“Tay nào?” Ashling hỏi.
Lisa không hiểu.
“Chọn một tay đi,” Ashling nói.
Lisa cảm thấy chỉ muốn tát cho cô ta một phát. Tất cả cái lũ ở đây đều thật điên rồ.
“Phải hay trái?” Ashling thúc giục.
“Trái.”
Ashling xòe những thứ đang nắm trong bàn tay trái ra trước mặt Lisa. Một gói khăn giấy. Rồi đến tay phải. Một lọ Rescue Remedy.
“Thè lưỡi ra nào.” Ashling nhỏ vài giọt lên cái lưỡi đang bối rối của Lisa. “Loại này chuyên dành cho những trường hợp bị sốc và tổn thương tâm lý. Thuốc lá không?”
Lisa giận dữ lắc đầu, rồi lưỡng lự và để mặc cho Ashling cắm một điếu thuốc lên miệng mình, và châm lửa luôn cho cô.
“Nếu cô muốn sửa lại đồ trang điểm,” Ashling gợi ý, “thì tôi có kem dưỡng ẩm và mascara đây, có thể không được tốt như đồ cô vẫn dùng, nhưng tạm thời thế cũng tốt.” Cô vừa nói vừa lục lọi.
“Có người bảo cô vào đây à?” Lisa đang nghĩ tới Jack Devine. Ashling lắc đầu. “Chỉ có mình tôi đoán ra thôi.”
Lisa cũng không biết là có nên thất vọng hay không nữa. Cô không hề muốn Jack nghĩ rằng cô là kẻ mau nước mắt, nhưng kể ra cũng dễ chịu khi biết là anh có quan tâm...
“Tôi không mấy khi bị thế này.” Khuôn mặt của Lisa lộ vẻ khó chịu. “Tôi không muốn nhắc lại chuyện này nữa.”
“Tôi đã quên rồi.”
9
Đến cuối ngày đầu tiên thì Ashling cũng gần như suy sụp. Chếnh choáng với cảm giác nhẹ cả người vì không phải vật vã chen lấn trên xe bus hoặc tàu điện, cô lảo đảo đi thẳng về nhà. Cô thật may mắn. Ít nhất thì cô cũng có một ngôi nhà để đi về, cô thầm nhủ - Lisa lại còn phải ra ngoài lùng kiếm nơi ở.
Ashling khoan khoái thả người vào trong căn hộ của mình, hất tung đôi giày ra khỏi chân và kiểm tra máy trả lời tự động. Ánh đèn màu đỏ nhấp nháy thật tình tứ và vui mắt khi Ashling bấm nút “play.” Cô khát khao cảm giác có bầu bạn hoặc mối liên hệ nào đó, để giúp cô vượt qua một ngày lạ lùng đầy thử thách. Nhưng thật đáng thất vọng khi tất cả những gì có trong máy là một lời nhắn của ai đó tên là Cormac thông báo sẽ chuyển một tấn đất bổi tới vào sáng thứ Sáu. Lại trò nhầm số chết tiệt.
Thả người lên ghế sofa, cô chộp lấy điện thoại và gọi cho Clodagh. Nhưng cô chỉ vừa kịp nói xong câu xin chào, Clodagh đã bắn tằng tằng cả một tràng: “Tớ đang có một ngày như trong địa ngục!”
Trên nền một dàn hợp xướng la hét chói tai, Clodagh cất cao giọng than thở. “Craig bị đau bụng và tất cả những gì nó ăn trong bữa sáng là một lát bánh mì phết bơ lạc. Rồi đến bữa trưa nó nhất định không chịu ăn gì cả thành ra tớ nghĩ hay là không biết tớ có nên cho nó một cái bánh quy sô cô la hay không nữa, mặc dù lần nào ăn đồ ngọt nó cũng trở nên hiếu động quá mức, thế là cuối cùng tớ cho nó một cái bánh kem trứng vì tớ nghĩ là như thế cũng còn tốt hơn là bánh có sô cô la - ”
“Ừ, ừ,” Ashling gật đầu thông cảm, trong khi tiếng la hét xung quanh gần như át hẳn tiếng Clodagh.
“ - nó cũng chịu ăn, thế là tớ thử cho nó ăn cái nữa nhưng nó chỉ liếm mỗi phần kem thôi và mặc dù không bị sốt nhưng trông nó có vẻ nhợt nhạt và IM NGAY! CÓ ĐỂ MẸ GỌI ĐIỆN LẤY NĂM GIÂY KHÔNG THÌ BẢO. Ôi, khốn kiếp thật, tớ không thể chịu đựng chuyện này thêm được nữa!”
Lời cầu xin của Clodagh nghe thật thiểu não và tiếng gào rú thậm chí còn kinh hoàng hơn.
ẳ
“Đó là Craig phải không?” Ashling hỏi. Chắc hẳn là cơn đau phải dữ dội lắm. Nghe như thể thằng bé đang bị mổ phanh bụng ra vậy.
“Không, đó là Molly.”
“Thế con bé bị làm sao?”
Ashling láng máng nghe được mấy từ trong màn khóc lóc của Molly. Đâu như là mẹ rất hư thì phải. Thực ra thì, có vẻ hình như mẹ rất ghê gớm. Và Molly không thích mẹ. Một cơn nức nở cực kỳ điên cuồng cho Ashling biết rằng Molly GHÉT mẹ.
“Tớ đang giặt ‘tấm chăn bảo vệ(1)’ của con bé,” Clodagh nói như đang thanh minh. “Ở trong máy giặt rồi.”
“Ôi, lạy Chúa lòng lành.”
Cứ lần nào bị tách ra khỏi tấm chăn bảo vệ của mình là Molly lại giãy lên đành đạch. ‘Tấm chăn’ đã từng là một chiếc khăn lau bát đĩa, trước khi nó bị Molly mút mát suốt ngày và mục nát thành một miếng giẻ rách vô định hình, hôi rình, mép vải ngả màu cháo lòng.
“Nó bẩn lắm rồi,” Clodagh tuyệt vọng nói. Cô quay mặt khỏi điện thoại. “Molly,” cô cầu khẩn. “Nó bẩn lắm rồi. Eo ôi, bẩn, khiếp!” Ashling kiên nhẫn lắng nghe trong khi Clodagh chắt lưỡi làm ra vẻ ghê sợ. “Nó có thể gây hại cho sức khỏe, nó có thể khiến con bị ốm đấy.”
Tiếng khóc lóc lại tăng thêm vài nấc và Clodagh quay lại trên điện thoại. “Mụ khọm già ở lớp mẫu giáo nói rằng Molly sẽ không được phép mang cái chăn theo nữa nếu như nó không được giặt giũ thường xuyên. Tớ biết làm gì bây giờ? Dù sao đi nữa, tớ cũng không nghĩ đấy là viêm ruột thừa...”
Phải mất một giây Ashling mới kịp nhận ra là họ đã quay lại chuyện của Craig.
“...bởi vì thằng bé không hề nôn và quyển bách khoa toàn thư y tế gia đình nói rằng đó là một dấu hiệu chắc chắn. Nhưng dù sao cũng phải đề phòng mọi khả năng, đúng không?”
“Tớ nghĩ thế,” Ashling nói với vẻ nghi ngại.
“Sởi, thủy đậu, viêm màng não, bại liệt, e-coli,” Clodagh khổ sở tuôn một tràng, “Chờ chút, Molly muốn ngồi lên đầu gối tớ. Con có thể ngồi lên đầu gối mẹ nếu con hứa sẽ yên lặng. Con sẽ yên lặng chứ? Phải không nào?”
Nhưng Molly không có hứa hẹn gì hết và một tràng những tiếng lịch kịch và lạch xạch cho thấy là cuối cùng thì con bé vẫn được cho phép trèo lên đầu gối Clodagh. Cũng thật may là màn la hét đến điếc tai của nó yên ắng dần thành những tiếng khụt khịt và thở hổn hển để gây sự chú ý.
“Và cứ như tớ còn chưa đủ mệt đứt hơi ấy, lão Dylan khốn nạn lại còn gọi điện báo là không những lão sẽ lại về muộn, mà tuần tới lão còn phải đi dự một hội nghị qua đêm nào đó nữa.”
“Dylan khốn nạn,” Ashling nghe rõ tiếng Molly đang ê a với cách phát âm rất tròn vành rõ chữ. “Dylan khốn nạn, Dylan khốn nạn.”
“...Chưa kể là thứ Sáu này lão lại còn đi dự bữa tối gì đó ở Belfast!”
Lại có thêm tiếng khóc từ bên ngoài vọng vào. Tiếng khóc của nam giới. Dylan khốn nạn - về nhà sớm và đau khổ vì bị cả vợ và con gái rủa xả chăng? - Ashling nhăn mặt tự hỏi. Không, căn cứ vào những lời kêu ca ỉ eo, nhõng nhẽo về một cơn đau bụng, đó hẳn phải là Craig.
“Tối thứ Sáu này tớ sẽ chạy qua vậy,” Ashling đề nghị.
“Tuyệt quá, thế thì - ĐỂ YÊN ĐẤY! CON CÓ ĐỂ CÁI CHẾT TIỆT ẤY Ở YÊN ĐÓ KHÔNG! Ashling, tớ phải đi thôi,” Clodagh nói và đường dây im bặt. Đó là cách mà những cuộc trò chuyện qua điện thoại với Clodagh vẫn thường kết thúc. Ashling bần thần ngồi nhìn chiếc điện thoại. Cô cần nói chuyện với ai đó. Thật may là Ted có thể tới đây bất kỳ lúc nào, bình thường cô vẫn xem lại giờ khi anh ta đến. Sáu giờ năm mươi ba phút.
Nhưng đến bảy giờ mười phút, khi cô đã nhai hết nửa gói khoai tây chiên Kettle và vẫn chưa thấy Ted đâu, Ashling bắt đầu lo lắng. Cô hy vọng là anh chàng không bị tai nạn. Anh ta là một con quỷ khi ngồi trên chiếc xe
đạp của mình và lại còn không đội mũ bảo hiểm. Đến bảy rưỡi cô gọi cho anh ta. Thật ngạc nhiên, anh ta ở nhà!
“Tại sao cậu không ghé qua?”
“Cậu muốn tớ ghé qua không?”
“À... có, tớ nghĩ thế. Hôm nay là ngày đầu tiên của tớ ở chỗ làm mới.” “Ôi, chết tiệt, tớ quên mất. Tớ xuống ngay đây.”
Vài giây sau, Ted xuất hiện - và trông anh ta khác hẳn. Rất khó tả, nhưng không thể phủ nhận được. Ashling không gặp anh ta suốt từ tối thứ Bảy - bản thân chuyện này đã thật khác thường, nhưng cô quá lo lắng về công việc mới nên đến tận bây giờ mới để ý. Không hiểu sao trông anh chàng có vẻ bớt ẻo lả và còn rắn rỏi hơn hẳn. Ted vẫn xâm nhập vào không gian của người khác như một thế lực không thể nào chặn nổi, nhưng giờ đây trong phong thái của anh ta có vẻ gì đàng hoàng, đĩnh đạc rất mới mẻ.
“Chúc mừng cậu về đêm thứ Bảy,” Ashling nói.
“Tớ nghĩ là tớ có một cô bạn gái mới,” anh ta thú nhận, và toét miệng cười ngoác tận mang tai. “Thực ra thì ít nhất là một người.” Nhìn vẻ mặt háo hức của Ashling anh ta bèn giải thích, “Cả ngày hôm qua tớ ở với Emma, nhưng tối mai tớ sẽ gặp Kelly.”
Đúng lúc đó thì Joy đến. “Càng chờ càng mất hút. Nửa-người-nửa-lửng sẽ không bao giờ gọi điện nếu tớ cứ ngồi chờ bên điện thoại. Thôi được rồi! Bill Gates, Rupert Murdoch hoặc Donald Trump - tớ đã xác định tớ sẽ chọn những ông trùm công nghiệp để tôn vinh công việc mới cậu.”
“Nhưng thế thì dễ quá.” Ashling không thể tin nổi là cô lại được tha bổng một cách đơn giản như vậy. “Donald Trump, tất nhiên rồi.”
“Ôi, thật sao?” Joy xịu mặt. “Tớ nghĩ là tóc ông ta hơi chải chuốt và bồng bềnh quá. Tớ thấy khó có thể tôn trọng một người đàn ông còn tốn thời gian chăm chút tóc hơn cả tớ. Chậc, đúng là mỗi người mỗi gu.”
Rồi cô với tay lấy túi xách và huơ huơ một chai Asti Spumante. “Cho cậu đấy. Chúc mừng công việc mới.”
“Asti Spew-mante(2),” Ashling thốt lên. “Cám ơn cậu.”
“Spew-mante?” Ted khâm phục.
“Spew-mante,” Joy khẳng định. “Không gì khác ngoài điều tốt đẹp nhất.”
Sau khi tất cả đã cùng cười ngặt nghẽo và nghiêng ngả với trò nói nhại từ “Spew-mante,” Joy thở hổn hển, tròn mắt chờ đợi được thông báo tin tốt
lành, “Sao nào? Ngày đầu tiên của cậu trên cương vị người của một tạp chí hào nhoáng thế nào rồi?”
“Tớ có một cái bàn làm việc đẹp, một cái máy tính Mac Apple tốt -” “Một người sếp tốt chứ?” Joy hỏi một cách đầy ý nghĩa.
Ashling cố định hình những ý nghĩ trong đầu mình. Cô bị mê mẩn trước vẻ quyến rũ lộng lẫy được phô ra một cách rất khéo léo của Lisa và tò mò về cảm giác bất hạnh toát ra từ cô ta. Cô đã nhận ra Lisa chính là người phụ nữ trong siêu thị mà hàng gì cũng mua thành bảy món, và bản thân cô cũng thấy rất hứng thú với điều đó. Nhưng thật là một sai lầm khi theo cô ta vào phòng vệ sinh nữ. Lúc đó cô chỉ mong muốn giúp đỡ, để rồi cuối cùng cô lại thành ra người vô tâm và tự phụ.
“Cô ta rất đẹp.” Ashling không muốn đề cập chi tiết đến nỗi tiếc nuối của mình. “Rồi mảnh mai và thông minh lại còn có toàn quần áo tuyệt vời nữa chứ.”
Ted, gã đàn ông lăng nhăng mới trình làng, sáng mắt lên, nhưng Joy chỉ buông một câu khinh bỉ, “Không phải sếp đấy. Anh chàng đẹp trai bị bạn gái cắn vào ngón tay cơ mà.”
Ashling cũng chẳng hề cảm thấy dễ chịu hơn chút nào khi nghĩ đến Jack Devine. Cô chỉ vừa bắt đầu công việc mới của mình và cả hai người sếp của cô đều không có vẻ gì là thích cô cho lắm.
“Làm sao cậu biết là anh ta đẹp trai?” cô hỏi.
“Nghe có vẻ thế. Đàn ông mà dở hơi thì ai thèm cắn chứ.” “Đúng đấy,” Ted nói xen vào. “Nó chẳng bao giờ xảy ra với tớ cả.” Nhưng tất cả có thể đang sắp sửa thay đổi, Ashling nghi ngờ. Joy lay cô. “Sếp cậu thế nào?”
“Anh ta - ừm - rất nghiêm nghị,” Ashling loay hoay chọn từ. Rồi trong một cơn bốc đồng cô thừa nhận, “Có vẻ anh ta không ưa tớ.” Cô cảm thấy vừa dễ chịu vừa khó chịu hơn khi nói ra điều đó.
“Sao lại không?” Joy gặng hỏi.
“Ừ, tại sao chứ?” Ted cũng muốn biết. Làm sao lại có người không thích Ashling nhỉ?
“Tớ nghĩ là vì hôm đấy tớ đưa cho anh ta miếng Band-Aid.” “Như thế thì có gì là sai nào? Cậu chỉ cố gắng giúp đỡ thôi mà.”
“Tớ ước là tớ không làm thế,” Ashling thừa nhận. “Bọn mình kiếm gì đó ăn đi.”
Họ gọi điện cho nhà hàng Thái Lan giao đồ ăn tận nhà trong khu phố và, đúng như mọi khi, gọi thừa quá nhiều. Thậm chí cả sau khi họ đã ăn đến căng bụng, vẫn còn thừa không biết bao nhiêu mà kể.
“Lần nào chúng ta cũng phải gọi thừa quá nhiều mấy cái món Thái này,” Ashling tiếc rẻ nói. “OK, chúng ta muốn dùng tủ lạnh của ai để nhét đống đồ thừa này trong hai ngày để rồi ném đi nhỉ?’
Joy và Ted nhún vai nhìn nhau rồi cùng quay lại nhìn Ashling. “Có lẽ là tủ lạnh của cậu thôi.”
“Tớ lo lắm,” Joy nói. “Bánh may mắn(3) của tớ nói rằng tớ sẽ phải chịu một điều thất vọng. Hãy đọc lá số tử vi của tụi mình đi.”
Rồi họ lấy ra quyển Kinh Dịch và loay hoay thử vài lần cho đến khi tìm được lời giải mà họ muốn. Sau khi đã cố thử và thất bại trong việc tìm được thứ gì đó mà tất cả mọi người đều muốn xem trên truyền hình, Joy nhìn ra ngoài cửa sổ hướng về phía Snow, câu lạc bộ bên kia đường. Mấy cô nàng ngoài cửa vẫn hay cho họ vào không mất tiền vì họ là người trong khu.
“Có ai muốn qua bên kia đường nhảy nhót tí không?” Cô nàng ra vẻ vô tình gợi ý. Vô tình quá đấy.
“KHÔNG!” Ashling nói, nỗi sợ hãi khiến giọng cô nghe rất dứt khoát. “Tớ phải giữ cho mình tỉnh táo nhất khi đi làm sáng ngày mai.”
“Tớ cũng có công việc cơ mà,” Joy nói. “Người xử lý hồ sơ đòi thanh toán bảo hiểm nhanh nhất phương Tây. Thôi nào, chỉ uống một chút thôi.”
“Cậu hoàn toàn không hiểu tí gì về khái niệm đó cả. Tớ ngạc nhiên là thậm chí cậu còn nói được câu đó. Nếu tớ ra ngoài với cậu để uống ‘chỉ một chút thôi’ ấy thì kiểu gì tớ cũng thức đến tận năm giờ sáng, đầu đau như búa bổ, nhảy nhót theo nhạc của ABBA, đón mặt trời mọc trong một căn hộ xa lạ với một lũ đàn ông thậm chí còn xa lạ hơn, những người mà tớ chưa bao giờ gặp trước đó và càng không bao giờ muốn gặp lại sau này.”
“Hồi trước tớ chưa bao giờ nghe thấy cậu kêu ca lần nào.” “Xin lỗi, Joy. Có lẽ chỉ vì tớ hơi quá lo lắng về công việc thôi.”
“Tớ sẽ đi cùng với cậu,” Ted đề nghị với Joy. “Nếu cậu không sợ tớ đánh bạt mấy anh chàng đi chỗ khác.”
“Cậu!” Joy bật cười khinh bỉ. “Tớ không nghĩ thế đâu.’
Phải hơn chín giờ tối Dylan mới về tới nhà. Clodagh đã xoay sở đưa được cả Molly và Craig lên giường, đó quả là một phép màu thực sự.
“Chào em,” Dylan mệt mỏi nói, lẳng chiếc cặp tài liệu của mình vào tường phòng để áo mũ và rút cà vạt. Nuốt cơn giận vì mấy cái khóa cặp lại cào xước sơn tường, cô cố gồng người đón nhận nụ hôn của anh. Giá kể anh bỏ qua khâu đó cô còn thích hơn. Nó chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt cả, chẳng qua chỉ là một thói quen khó chịu.
Cô mở miệng định tuôn một tràng về cái ngày kinh khủng của mình, nhưng anh đã kịp nhanh hơn cô. “Lạy Chúa, ngày hôm nay của anh mới thật là! Chúng đâu rồi?”
“Trong giường.”
“Cả hai đứa à?”
“Vâng.”
“Chúng ta có nên gọi điện cho Tòa thánh Vatican để báo về một phép màu không nhỉ? Anh chỉ lên ngó qua chúng một chút rồi anh xuống luôn đây.” Lúc quay xuống anh đã kịp thay bộ vest của mình thành quần thun dài và áo phông.
“Có tin gì mới không?” Cô hỏi, háo hức chờ đợi những thông tin và không khí sôi động của thế giới bên ngoài.
“Không. Có gì ăn tối không em?”
À, ăn tối.
“Hết Craig bị đau bụng lại đến lượt Molly lên cơn ăn vạ...” Cô mở cửa tủ lạnh tìm kiếm nguồn cảm hứng. Chẳng có gì ăn thua cả. Cả tủ đá cũng không giúp được gì hơn. “Anh ăn Alphabetti Spaghetti cùng bánh mì nướng giòn nhé?”
"""