" Super Frankie - Tất Tần Tật Về Người Không Phổi PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Super Frankie - Tất Tần Tật Về Người Không Phổi PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI Chịu trách nhiệm xuất bản: NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI Số 4 - Tống Duy Tân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ĐT: (04) 38252916 – Fax: (04) 39289143 Email: nxbhanoi@yahoo.com.vn TỰ TRUYỆN SUPER FRANKIE - TẤT TẦN TẬT VỀ NGƯỜI KHÔNG PHỔI Frank Lampard & Ian McGarry Chịu trách nhiệm xuất bản: TỔNG GIÁM ĐỐC: VŨ VĂN VIỆT Biên tập: Phạm Thị Thu Trang Vẽ bìa: Jc Black Trình bày: Song Ngư Sửa bản in: Minh Vân - Thanh Thủy Liên kết xuất bản Công ty Cổ phần Sách TH Nhà sách THBooks Địa chỉ: Số 51, Ngõ 441, Đường Lĩnh Nam P. Lĩnh Nam, Q. Hoàng Mai, Hà Nội Tel: (84-24) 32011882 - 097.354.0078 Website: http://thbooks.vn Fanpage: http://m.facebook.com/THBooks Mã ISBN: 978-604-55-7169-9 In 1.200 cuốn, khổ 16x24 cm tại Công ty TNHH In và Thương mại Thuận Phát, thôn Yên Vĩnh, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Số xác nhận ĐKXB: 3246-2020/CXBIPH/20- 202/HN. Quyết định xuất bản số: 1614/QĐ-HN ngày 04/09/2020. In xong và nộp lưu chiểu năm 2020. Cho những người tôi yêu: Elen & Luna, Mẹ, Cha, Natalie và Claire LỜI CẢM ƠN X in chân thành cảm ơn những người đặc biệt đối với tôi: Grandad Bill Harris, Nanny Hilda, Millie, Mia, Stanley, Harry, Sandra, Jamie, Louise, Mark, Brian, Barbara cùng gia đình, Gwen cùng gia đình, Chú George cùng gia đình, Chú Ken cùng gia đình. Đặc biệt cảm ơn: Anh bạn tốt Ian McGarry vì đã làm việc cật lực với văn phong không thể chê vào đâu được. Steve Kutner, người bạn đặc biệt luôn dành cho tôi những lời khuyên hữu ích và chưa bao giờ từ chối cuộc gọi của tôi. Tôi cũng gửi lời cảm ơn đến Tel, Billy, Alex, Finney và Hodgey; Billy “Blood” McCulloch, JT, Eidur, Jody và tất cả những đồng đội tại câu lạc bộ Chelsea; những cổ động viên nhiệt thành của đội bóng và cả những người thầm lặng phía sau; Jose Mourinho, Roman Abramovich cùng Eugene Tenenbaum, Peter Kenyon, Claudio Ranieri, Ken Bates cùng Susannah, Sven-Goran Eriksson, Laura Pollard cùng Claire Gilmour, Terry Venables, Tony Carr, Frank Burrows, Johnny Edwards, Mark Risley, Chris Boukley, Roso Khan, Colin Quy, và Terry Creasey. Xin lỗi nếu tôi có quên tên ai, nhưng tận đáy lòng tôi muốn cảm ơn tất cả những người đã giúp đỡ tôi tận tình trong suốt sự nghiệp. F.L. Lời nói đầu CHƯA PHẢI LÀ TẬN THẾ M ột hành trình dài. Nhiều cầu thủ từng trải đã nói rằng, chỉ riêng quãng đường đi đến chấm 11m trong loạt sút luân lưu đã đủ khiến bạn phải căng thẳng tột độ rồi. Tôi hiểu cảm giác tra tấn ấy. Khoảnh khắc bạn rời vòng tay đồng đội và bước những bước đầu tiên, bạn sẽ cảm thấy mình rất cô độc, không biết con đường này sẽ dẫn mình đi tới đâu. Với một cầu thủ, có những quãng đường 60m khiến họ không thể nào quên trong suốt cuộc đời, chẳng hạn, quãng đường đi qua hàng ghế nhà thờ tới bục kết hôn, hay quãng đường tới nơi mà bạn sẽ phải chia tay một người thân vừa qua đời. Nhưng ít ra trong các trường hợp đó, bạn còn mường tượng trước được kết quả. Đường tới chấm phạt đền sẽ khiến các dây thần kinh của bạn căng thẳng tột độ, và ai mà biết được kết quả cuối cùng sẽ ra sao. Hãy tưởng tượng bạn đang ở trận tứ kết World Cup, mọi hy vọng của gia đình, bạn bè, đồng đội, thậm chí cả quốc gia, đều đổ dồn lên vai bạn, trong khi bạn đang nhích từng bước đến với định mệnh của chính mình. Tôi có thể nghe tiếng hò reo của các cổ động viên Anh để cổ vũ tinh thần cho mình, song nghe âm thanh đó, tôi cảm nhận được là họ cũng đang căng thẳng không kém. Tôi dán mắt vào cái khung gỗ hình chữ nhật màu trắng trước mặt. Mục tiêu cũng chẳng phải là quá khó khăn. 24 giờ trước tôi đã tập luyện rất nhiều cho khoảnh khắc này trên sân vận động Gelsenkirchen Arena. Sút, vào! Sút, vào! Sút, vào! Sút, vào! Tôi đá thành công cả bốn quả trong buổi tập hôm đó. Tôi biết mình phải làm gì. Lúc về khách sạn, tôi còn xem DVD tư liệu về thủ môn Ricardo của Bồ Đào Nha, mong tìm hiểu được cách mà anh ta bắt phạt đền. Tuy nhiên, những pha đổ người của anh ta dường như không theo một trật tự nào để tôi có thể bắt bài được, nên chỉ còn một cách duy nhất là chọn một góc khung thành rồi sút thẳng vào đó. Tôi đã làm như thế cho Chelsea và tuyển Anh rất nhiều lần rồi. Dù ở Stamford Bridge, Old Trafford, hay Nou Camp. Sút quả nào, tôi ghi bàn quả đấy. Tôi cũng đã từng gặp tình huống giống như thế này vào hai năm trước, ở sân vận động Estadio da Luz (Lisbon), tứ kết Euro 2004. Cũng Bồ Đào Nha. Cũng Ricardo. Cũng quãng đường đến khung thành ấy. Cũng áp lực tương tự. Tôi sút, tôi ghi bàn. Tôi biết mình phải làm gì. Trái với quan điểm của nhiều người, chẳng có gì là chắc chắn trong một quả penalty bất kỳ. Không bao giờ có chuyện lợi thế nghiêng về thủ môn hay người sút phạt trong bất cứ trường hợp nào. Tôi biết điều này nhờ vào lịch sử và thống kê. Tôi cũng đúc rút từ kinh nghiệm bản thân, vui có, buồn tủi cũng có. Tôi từng đá hỏng một quả phạt đền ở Old Trafford trong một trận giao hữu với Hungary ba tuần trước. Đó là lần đầu tiên tôi đá hỏng luân lưu ở tuyển Anh, cảm giác chẳng vui vẻ gì. Nhưng dù sao cũng chỉ là một trận giao hữu, nên không khiến tôi suy nghĩ nhiều cho lắm. Từ đó tôi bắt đầu tập luyện thường xuyên hơn. Bao thế hệ đi trước của tuyển Anh đã từng phải nhận rất nhiều chỉ trích vì xem nhẹ kỹ thuật đá phạt đền. Rút kinh nghiệm, chúng tôi không dám lơ là một chút nào. Tất cả cầu thủ trong đội đều phải tập sút phạt đền trong các buổi tập. Riêng tôi, vì được chọn làm người đá phạt chính của đội, nên tôi tập luyện nhiều hơn phần còn lại. Luôn là như thế. Chính xác là con số năm mươi. Tôi nhớ được là do thói quen ghi nhớ các con số. Năm mươi lần sút phạt và chỉ hai lần hỏng. Bốn mươi tám bàn thắng trên tổng số năm mươi bàn. Tôi chuyển sang ái ngại cho Paul Robinson và David James vì mỗi người chỉ cứu thua được một bàn. Họ đều là những thủ môn giỏi, nhưng sự tự tin và khả năng săn bàn nhạy bén đã giúp tôi giành lợi thế. Ở đội tuyển, chúng tôi khi ấy còn tập… đi từ vạch giữa sân lên chấm 11m để rèn thói quen giữ vững tinh thần, tĩnh tâm và tập làm quen với áp lực trĩu nặng từng bước đi. Thứ duy nhất tôi đã không chuẩn bị tâm lý là việc phải lên đầu tiên trong loạt sút luân lưu. Vinh dự đó đáng ra thuộc về Wayne Rooney, nhưng cậu ta trước đó đã phải lĩnh thẻ đỏ sau màn ẩu đả với Cristiano Ronaldo ở hiệp 2. Không có chỗ cho sai lầm, không có chỗ cho “giá như”. Đây là thời cơ để chúng tôi vào bán kết, đòi lại món nợ 2004. Năm nay là năm của nước Anh. Thời khắc của chúng tôi. Tôi nhìn trọng tài, ông bảo tôi đợi tiếng còi. Được thôi. Tôi cũng chẳng vội gì. Ricardo cố nhìn xem mắt tôi liếc về bên nào, nhưng tôi đã biết tỏng trò này rồi. Tôi đặt quả bóng xuống chấm 11m, rồi quay lại tính toán bước chạy. Tôi quyết định sút vào góc dưới bên trái. Có lẽ sẽ thành công. Góc dưới bên trái. Góc dưới bên trái. Tôi có thể nhìn thấy trái bóng bay vào trong trí tưởng tượng của mình. Tôi lao đến trái bóng và tung ra cú sút. Trái bóng nhanh chóng bay đi nhưng lại không như những gì tôi mong đợi, nó không bay vào góc trái và lực sút cũng không đủ mạnh. Ricardo đổ người và dễ dàng cản phá. Thế là hỏng ăn. Thế là đi tong. Người tôi cứng đơ. Tôi ngẩng lên nhìn bầu trời và tôi thấy mặt trăng. Tôi thấy Luna. Trong khoảnh khắc, tất cả những điều tồi tệ trong sự nghiệp bắt đầu ùa về, biến thành một liều thuốc độc, lan tỏa trong đầu tôi. Phản lưới nhà trong trận đấu đầu tiên của sự nghiệp lúc 5 tuổi, để thua trận chung kết giải của trường, bị chế giễu và la ó ở West Ham, để thua trận chung kết cúp FA trước Arsenal, bị loại ở bán kết Champions League. Tôi bịt miệng, cảm giác như ngạt thở. Tôi thấy kiệt sức. Tôi lại bắt đầu hành trình quay lại vạch giữa sân. Bên tai là tiếng cười chế nhạo của các cổ động viên Bồ Đào Nha. Tôi nhìn các đồng đội vẫn đang khoác vai nhau nhưng đầu đã cúi gằm xuống trong lúc tôi mệt mỏi lê từng bước về chỗ. Vài giờ sau, tôi xuống quán rượu trong khách sạn của đội ở Baden-Baden. Một cốc bia. Mọi người đã đi ăn tối nhưng tôi không còn tâm trạng để ăn. Đồng đội bắt đầu đi vào quán theo từng toán nhỏ. Chúng tôi uống và cuộc nói chuyện bắt đầu. Adrenalin truyền qua các mạch máu và tôi không thể nghỉ ngơi dù đã quá mệt mỏi. Các đồng đội của tôi cũng thế. Chúng tôi bắt đầu mổ xẻ từng chi tiết trong trận đấu, xả ra ấm ức về những gì đã diễn ra trong trận, về các quyết định của trọng tài, và cả Ronaldo nữa. Tôi mở điện thoại. Hàng loạt tin nhắn ập tới. Họ bảo rằng, đây không phải lỗi của tôi. Rằng tôi hãy ngẩng cao đầu. Rồi tôi sẽ trở lại mạnh mẽ hơn. Tôi biết họ có ý tốt nhưng tôi chẳng muốn nghe những điều này tí nào. Khi lên giường nằm, mắt tôi vẫn thao láo, không sao ngủ được. Tôi lại thấy cái khung gỗ hình chữ nhật màu trắng đó và mình lại đang sút luân lưu. Bùm, hỏng ăn. Bùm, hỏng ăn. Bùm, hỏng ăn. Chết tiệt! Tôi trở về Anh trong tâm trạng chán chường. Xe đi ngang khu tây London, tôi bắt đầu đếm số cờ treo trên nhà và xe. Mặt trời lên cao nhưng đường phố vắng ngắt. Cú sốc quá lớn, tôi hiểu cảm giác của họ. Tôi cũng chẳng có tâm trạng nào để chường mặt ra đường nữa. Tôi về nhà. Trò chuyện với bố mẹ. Lại thêm những lời an ủi, động viên, nhưng tôi không cần. Tôi biết mình không phải là tội nhân, và chắc chắn không có ai hà khắc với tôi hơn chính bản thân tôi. Mẹ bảo tôi hãy đối xử tốt với bản thân. Tôi nằm vật xuống giường, hy vọng mình có thể nghỉ ngơi. Tôi ngủ, nhưng khoảnh khắc sút hỏng quả phạt đền không tài nào rời khỏi tâm trí. Tôi nhìn quanh sân vận động, những lá cờ màu đỏ trắng bừng lên trong trận đấu giờ đã tắt ngóm. John và Rio ngồi thổn thức trên sân, không thể nguôi ngoai. Tôi chết lặng, không còn để ý những gì mọi người xung quanh nói với mình lúc đó nữa. Tôi cảm thấy ai đó sờ lên mặt mình. Ban đầu thì nhẹ nhàng nhưng sau đó thì mạnh dần lên. Có cái gì đó đè lên ngực tôi và sau đó là những cái tát nhẹ. Tôi mở mắt để xem đây là tỉnh hay mơ. Luna đang nằm trên người tôi. Vợ tôi, Elen, đứng bên cạnh giường, mỉm cười. “Bố, bố!” Con bé gọi. Tôi lặp lại những từ đó: “Bố ơi! Bố! Bố! Bố!” Luna ngoác mồm ra cười. Tôi cười theo. Elen cũng cười, rồi Luna lại khúc khích thêm một lúc nữa. Con bé đã nói được từ đầu tiên vào một thời điểm không thể hoàn hảo hơn. Giá như mà tôi vui vẻ, hồn nhiên được như nó! 36 tiếng đã trôi qua kể từ cái đêm tuyệt vọng, tăm tối ấy, và bây giờ ánh sáng đã len lỏi trở lại vào đời tôi. Khi đá hỏng quả penalty đó, tôi đã nghĩ mọi thứ sẽ chấm dứt. Khi chúng tôi hỏng quả thứ ba, tôi lại càng chắc chắn hơn. Tôi chưa bao giờ thấy mình rơi sâu xuống vực như thế này, và tôi không bao giờ muốn phải xuống đó lần nào nữa. Sau trận đấu, đã có những lúc tôi cảm thấy như sắp đến ngày tận thế. Nhưng chưa phải tận thế, chỉ là tận… World Cup thôi. Chỉ với một tiếng gọi phát ra từ miệng cô con gái bé bỏng mà tôi nhận ra được giá trị đích thực của cuộc đời, và hiểu rằng mình may mắn đến nhường nào. Tôi có một sự nghiệp thành công, và chưa bao giờ thành công như hai năm vừa qua. Một mùa giải mới lại sắp bắt đầu và tôi rất nóng lòng muốn giành thêm nhiều ạ p g g g danh hiệu với Chelsea, cũng như phải giành quyền tới Euro 2008. Tôi còn có nhiều việc với quỹ Teenage Cancer Trust, và hơn tất cả, là được bao bọc trong vòng tay và sự ủng hộ vô bờ bến của gia đình, của vợ và cô con gái bé bỏng. Bóng đá sẽ luôn là một phần quan trọng trong cuộc sống, nhưng gia đình mới là cuộc đời của tôi. Khi đọc câu chuyện của tôi, tin rằng các bạn sẽ hiểu điều đó. Chương 1 NHÀ LAMPARD VÀ NHÀ REDKNAPP T ừ hồi còn bé, tôi đã luôn cố vươn đến những thứ quá tầm. Đầu tiên là chuồng chim phía sau vườn nhà bác Sandra của tôi ở Bournemouth. Nó cao khoảng 6m tính từ mặt đất, được tạo ra bởi bàn tay của ông ngoại. Ông ngoại là một thợ mộc lành nghề, thường tự làm những món đồ chơi xinh xắn cho hai cô con gái. Chiếc lồng chim bằng gỗ quả là tuyệt đẹp. Dù không chứa bất cứ thứ gì trong đó, nhưng bác gái Sandra của tôi rất yêu nó, cũng như cách mà bác yêu khu vườn được chăm sóc cẩn thận của mình vậy. Còn tôi thì thích đến thăm bác và bác Harry, vì nơi này là một sự kết hợp hoàn hảo của những thứ quan trọng nhất với đời tôi: gia đình và bóng đá. Harry có một cá tính cực mạnh ngay từ thời đó. Sau này bác trở thành một trong những nhân tố quan trọng đối với cuộc đời tôi: huấn luyện viên của tôi khi tôi thi đấu chuyên nghiệp cho West Ham United. Bố tôi - trợ lý huấn luyện viên của Harry Redknapp ở sân Upton Park, và mẹ tôi - chị em song sinh với bác Sandra, thường chở chị em chúng tôi đến nhà Redknapp ở bờ biển phía Nam. Chị Natalie của tôi bằng tuổi anh Mark của Jamie, thậm chí giống cả về tính cách. Họ nhanh chóng kết thân với nhau. Chị Claire nhỏ hơn vài tuổi. Ba chị em tôi đứa nào cũng thích đến nhà Redknapp. Với riêng tôi, điều thích nhất của những chuyến đi đó là được đá bóng với ông anh họ Jamie. Anh ấy lớn hơn tôi 5 tuổi, vì vậy từ nhỏ tôi luôn noi gương anh ấy, theo đúng nghĩa đen. Chúng tôi thường đá bóng sau nhà tới hàng tiếng đồng hồ mà không gặp phải sự ngăn trở nào từ người lớn hay các chị. Jamie và tôi thường chơi cầm bóng, tôi sẽ đuổi theo anh ấy để cướp bóng. Tôi theo anh ấy khắp mặt sân, nhưng anh ấy chỉ việc che chắn bóng, hất tôi ra rồi sau đó dễ dàng đẩy bóng qua tôi. Chẳng sao cả, tôi đơn giản là chỉ muốn chơi bóng. Đôi lúc tôi cũng chạm được vào bóng, nhưng Jamie nhanh chóng lấy lại, còn tôi thì vẫn miệt mài cố gắng. Tôi thực sự là một thằng nhỏ cứng đầu. Tôi luôn cố gắng chạy và “chém” vào gót chân anh ấy. Tôi không buông tha hoặc chịu thua. Khi chúng tôi thấm mệt, Jamie liền chuyển qua trò đặc biệt của anh ấy. Anh ấy sẽ đặt bóng ở một góc nhất định với chuồng chim rồi sau đó cố gắng sút trúng đích. Anh ấy là người đầu tiên sút, rồi đến tôi. Tôi tỏ ra kém cỏi ở trò này vì quá nhỏ con để đưa bóng đến được vị trí mình muốn. Jamie thì ngược lại, anh ấy thật lành nghề. Dù đặt bóng ở đâu, ở bất cứ điểm nào tôi chọn, Jamie cũng đều làm cái “khung gỗ” đó rung bần bật với từng cú sút. Cái lồng chim tội nghiệp hứng chịu tới rã rời. Bác Sandra rõ ràng không vui, nhưng chúng tôi vẫn cứ tiếp tục chơi. Tôi bị Jamie mê hoặc hoàn toàn. Anh ấy luôn cố nghĩ ra những mánh khóe với những cú phất bóng, những cú qua người và gắp bóng. Anh ấy gần như ám ảnh với chúng, lúc nào cũng luyện tập. Còn tôi thì chưa từng quan tâm tới vấn đề đó, kể cả hiện tại. Điều này đôi lúc khiến tôi cảm thấy hơi xấu hổ. Một hôm, tôi được mời đóng quảng cáo cho Pepsi ở Barcelona, nơi đạo diễn có được những cầu thủ tốt nhất. Ông ấy là người Mỹ, tôi không chắc ông ấy có hiểu gì về bóng đá không nữa. Trước ngày thu hình phân đoạn của tôi, lần lượt những Ronaldinho hay Thierry Henry đã khiến ông ấy choáng ngợp bởi kỹ thuật điệu nghệ. Đạo diễn rõ ràng rất ấn tượng với họ. Đến lượt mình, tôi thay quần áo, đi lên trường quay rồi đợi hướng dẫn. “Rồi, Frank,” ông ấy nói. “Làm điều cậu cần làm đi.” Tôi nhìn ông ấy. “Làm gì cơ?” Tôi hỏi. “Ờ thì, mấy ‘trò tủ’ của cậu ấy. Cậu nổi tiếng vì trò gì?” Tôi vắt óc nghĩ vài giây. “Tôi tắc bóng, sút bóng. Ghi bàn từ hàng tiền vệ.” Đây không phải là câu trả lời ông ấy mong đợi, nhưng bóng đá không chỉ có mánh khóe. Ronaldinho và Henry là những cầu thủ tuyệt vời, họ có thể làm được những điều kỳ diệu chỉ với trái bóng trong chân. Tôi rất ngưỡng mộ những gì Jamie làm được từ hồi bé nhưng tôi chỉ được dạy những điều căn bản cho nhiệm vụ của mình, trong đó chẳng có một tí mánh khóe nào cả. Bố tôi có tầm nhìn bao quát về một mẫu hình cầu thủ thành công ở thời hiện đại. Mẹ khăng khăng với tôi rằng tôi nên giữ bóng và sút bóng ngay khi có thể, còn bố thì cố uốn nắn tôi. Ông dành thời gian chơi bóng với tôi ở khu vườn sau nhà, dạy tôi cách sút bóng chuẩn xác, khuyến khích tôi trở nên tự tin hơn. Hồi đó, tôi không biết nhiều về cuộc sống của bố bên ngoài mái nhà của chúng tôi. Chơi bóng với một hậu vệ của West Ham và Đội tuyển Anh không phải là trải nghiệm mà ai cũng có thể được trải qua ngày còn nhỏ. Nhưng với tôi, mọi thứ chỉ đơn giản là đùa vui với bố như mọi cậu bé khác mà thôi. Tôi rất thích việc đá qua đá lại quả bóng với ông, hoặc với những người chị của tôi, hơn là ra ngoài và tụ tập cùng những đứa trẻ đồng trang lứa. Tôi là một đứa trẻ khá nhút nhát và dè dặt trước đám đông. Cũng vì lý do đó mà tôi quả quyết rằng mình sẽ đi theo con đường của bố, và với tất cả lòng can đảm mà bản thân có được, tôi đã nhận lời tham dự trận đấu đầu tiên trong đời. Chúng tôi cùng nhau di chuyển đến Gidea Park, chỉ cách nơi gia đình tôi sống ở Romford có năm phút đi xe. Ban đầu tôi tưởng rằng sẽ chỉ là một buổi dạo chơi bình thường với trái bóng, nhưng hóa ra mọi thứ đều đã được sắp xếp. Có một đội bóng địa phương đang tập luyện ở đó, và bố tôi đã đến hỏi vị huấn luyện viên của họ xem tôi có thể tham gia được không. Khỏi phải nói lúc đó tôi đã hồi hộp và sung sướng đến nhường nào. Những đứa trẻ ở đó lớn hơn tôi nhiều, chắc hẳn phải tầm 7 tuổi. Tôi mới chỉ 5 tuổi mà thôi. Huấn luyện viên tên là Chris Snowskill, và con trai ông, Daniel, đang tập ở đó. Tôi đã được mời đến sân và cũng đã để lại ấn tượng khá rõ nét. Thật là ngốc nghếch, lúc đó tôi đã quá hăng hái, nhưng sự hăng hái đó chẳng giúp ích gì cho tôi cả. Ai đó đã chuyền quả bóng đến chân tôi, và cứ thế, tôi qua người rồi ghi bàn. Đó là bản năng. Bản năng. Tôi khá hài lòng và ngước nhìn đồng đội, chờ một sự thừa nhận từ họ. Nhưng rồi tôi nhận ra, có cái gì đó sai sai. Phải mất tới vài giây để tôi nhận ra được sự thật. Tôi quay người nhìn theo hướng của họ, à, ra là tôi đã đá phản lưới nhà. Một đứa trẻ đứng gần đó cất tiếng hỏi: “Thằng nhóc này là ai vậy?” Tôi thực sự xấu hổ về lỗi lầm của mình. Tôi đã rất háo hức lúc mới đến, nhưng rồi thật nhục nhã khi tự mình phá hỏng nó. Đó là ngày đầu tiên tôi thực sự chơi bóng. Kỷ niệm đầu tiên, và cũng khá đau đớn mỗi khi nhắc lại. Cho đến bây giờ, nó vẫn là một trong những dấu mốc quan trọng nhất đối với tôi. Đội bóng mà tôi tham gia hồi nhỏ có tên là Heath Park, cũng trở thành một phần quan trọng trong sự nghiệp của tôi. Tôi đá bóng cùng họ, dù cho thực tế là tôi quá nhỏ tuổi so với mọi người. Nhưng điều đó không quan trọng, dù sau đó tôi phải ở lại thêm một năm với lứa bạn cùng tuổi. Đó đúng là một môi trường tuyệt vời và tràn ngập niềm vui. Ở Heath Park, chúng tôi luôn có được những danh hiệu. Và nếu không phải là Heath Park, thì sẽ là đối thủ lớn nhất của chúng tôi, Senrab. Vùng Essex luôn được xem là cái nôi sản sinh ra những hảo thủ bóng đá, và ở thời kỳ của tôi, điều đó cũng không phải là ngoại lệ. Senrab nằm ở khu vực cực Đông của thành phố London, trải qua quá trình phát triển hết sức gian nan. Senrab là tập hợp của những con người ở tầng lớp lao động bình dân luôn mong muốn trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Heath Park thì lại hơi khác biệt một chút. Chúng tôi đều là những người con của vùng Essex. Heath Park và Senrab được biết đến là nơi mà nhiều danh thủ bắt đầu sự nghiệp. Những Ashley Cole, Ledley King, Lee Bowyer và J. Lloyd Samuel đều chập chững những bước đi đầu tiên trong sự nghiệp ở đây. Kể cả tài năng trẻ John Terry cũng xuất phát từ Senrab. John nhỏ hơn tôi ba tuổi, và dù chúng tôi chưa bao giờ chạm mặt nhau ở cấp độ trẻ, nhưng tôi đã được nghe nhiều điều về cậu ta. Nơi tôi lớn lên, hai từ “bóng đá” dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người. Nó chảy trong huyết quản của mọi cá nhân, dĩ nhiên, tôi cũng vậy. Ai nấy đều bàn tán liên tục mỗi khi có một trận đấu bóng, và dành sự quan tâm đến bóng đá ở đủ mọi cấp độ. Ngày nay, bọn trẻ đều đến học viện của các câu lạc bộ chuyên nghiệp để tập. Số khác lại chọn tham gia những khóa học do FA tổ chức. Nhưng với chúng tôi, những trận bóng vào Chủ nhật mới là nơi khởi đầu tất cả. Có một điều khá kỳ lạ là, khi chúng tôi tiếp đón Senrab trong khuôn khổ giải đấu, thì họ có thể thắng. Nhưng nếu đó là một trận đấu cúp, thì phần thắng luôn nghiêng về phía chúng tôi. May mắn thay, đội chúng tôi giành chiến thắng trong hầu hết các trận đấu, thường là nhờ vào sự ổn định hơn phần còn lại. Sức mạnh của Heath Park chính là “tinh thần đồng đội”. Đối thủ có một vài cá nhân nổi trội hơn, nhưng sự đối địch giữa chúng tôi vẫn luôn ở mức cực kỳ căng thẳng. Các cầu thủ trung thành với câu lạc bộ mà họ gắn bó và người ta vẫn thường bàn tán xem ai là cầu thủ giỏi nhất, ai có thể làm nên sự nghiệp bóng đá lẫy lừng. Luôn có những sự bàn tán về người tiếp theo vươn lên chuyên nghiệp, và tại Heath Park, đó không phải là Frank Lampard. Một đồng đội của tôi - Michael Black - ai cũng chắc chắn rằng anh ấy sẽ nổi tiếng. Michael nhanh, mạnh, kỹ thuật và rất khó đánh bại. Anh ấy có thể coi là “Wayne Rooney vùng Essex” của thời ấy, và luôn nổi bật nhất trong cả đám. Tôi nhìn vào Michael, và đưa ra quyết định của riêng mình. Tôi phải cố gắng được như anh ấy. Thực tế, tôi chỉ muốn bản thân mình trở nên tốt hơn qua từng ngày mà thôi. Đó là những gì tôi cảm nhận được đầu tiên, và là tiền đề để tôi bước vào sự nghiệp. Heath Park và Senrab luân phiên thống trị vùng Essex, và trong suốt nhiều năm liền, chiếc cúp cứ di chuyển qua lại giữa chúng tôi. Tôi vẫn tận hưởng niềm hạnh phúc, cho dù tôi là đứa nhỏ nhất trong nhà, đồng nghĩa với việc tôi có căn phòng nhỏ nhất. Nhưng điều đó vẫn không thể ngăn cản tôi lấp đầy căn phòng nhỏ đó bằng những chiếc cúp và huy chương. Chúng tôi tập luyện suốt tuần, và ra sân thi đấu vào cuối tuần. Huấn luyện viên sẽ phát triển thể lực cho các cầu thủ, đồng thời nâng cao hiểu biết chiến thuật. Khi chúng tôi xỏ giày ra sân, thứ duy nhất mà đôi tai tôi nghe thấy được, không chỉ là giọng nói của huấn luyện viên thôi đâu… Hầu hết phụ huynh của những đứa trẻ đều đến sân. Bọn họ sẽ đưa ra những “lời khuyên” gần như ngay lập tức cho đội bóng từ phía trên khán đài, và họ luôn hò hét ầm ĩ. Bạn nghĩ rằng bố tôi là trung tâm của mớ hỗn độn chiến thuật này, phải không? Ngược lại, ông ấy luôn đứng sau những gia đình khác, với chiếc cổ áo dựng đứng lên và hoàn toàn yên lặng. Có vẻ như ông e ngại hậu quả mình sẽ gây ra nếu lao ra bên ngoài đường piste và la hét om sòm. Hơn thế nữa, ông ấy biết tôi sẽ như thế nào nếu ông làm vậy. Chỉ cần biết rằng ông đang đứng xem trận đấu đã đủ khiến tôi lo lắng rồi, nên bố tôi đã lựa chọn giải pháp yên lặng. Rất nhiều lần, bố tôi lựa chọn núp sau những cái cây hay bức tường, để tôi không thể thấy được ông. Nhưng ông thường không giữ được lớp “ngụy trang” của mình lâu. Khi tôi về đến nhà, ông sẽ ngay lập tức hỏi rằng ngày hôm nay tôi chơi bóng như thế nào. Tôi trả lời: “Thường thôi bố ạ”, chỉ để nghe ông giảng đạo. Và rồi bố tôi sẽ thao thao bất tuyệt về những cơ hội mà tôi đã bỏ lỡ, những tình huống mà đáng lẽ ra tôi đã có thể làm tốt hơn. Và nhờ thế, tôi nhận ra rằng, ông đã ở đó từ đầu. Bố luôn là bệ phóng cho tôi, huấn luyện viên của tôi, người truyền cảm hứng và hơn thế nữa. Tôi có quá nhiều thứ để cảm ơn ông, dù cho có đôi lúc tôi cực kỳ ghét ông đi chăng nữa. Tôi đã muốn trở thành một cầu thủ bóng đá từ khi còn rất nhỏ. Bố cũng biết điều đó, và có khi mong muốn của ông còn mãnh liệt hơn cả tôi. Ông đã giới thiệu cho tôi những bài tập có thể rèn giũa thêm thể lực và tôi luyện về tinh thần, tất cả nhằm mục đích khiến tôi trở thành “phiên bản hoàn hảo nhất của chính mình”. Một số bài tập rất vui, nhưng mẹ tôi lại không nghĩ như vậy. Ông đặt chướng ngại vật khắp sàn nhà và cầm bóng, ném về phía tôi. Tôi phải bắt lấy nó, ngồi dậy ngay lập tức trước khi ông lại ném thêm những đợt bóng mới. Chúng tôi tập qua tập lại như vậy cho đến khi tôi quá mệt và cần được nghỉ. Mẹ tôi sẽ hét lên qua cửa phòng, như thế này: “Be bé lại một chút đi!” Bà nói, “và đừng có làm lộn xộn mọi thứ thêm nữa.” Cả hai chúng tôi đều đứng yên, không phát ra một tiếng động nào, dù chỉ là một chút. “Đúng thật là… chắc hai bố con anh nghĩ rằng căn phòng này có thể tự làm sạch đấy.” Khi cảm thấy mình đã có thể nói được, bố tôi mới cất tiếng, “Thằng bé cần phải trở nên cứng rắn nhất có thể,” với hy vọng sẽ làm dịu đi ngọn lửa giận đang cháy dữ dội của vợ. Mẹ tôi sau đó sẽ quay đi, ra khỏi phòng và đóng sầm cửa. Rồi bố sẽ quay sang cười với tôi và hai bố con lại tiếp tục tập luyện. Khi bố còn ở West Ham, ông có mua một đôi giày điền kinh để tập chạy tốc độ với toàn đội. Tuy là không được “thừa hưởng” lại đôi giày đó của ông, nhưng tôi cũng đã nhiễm thói quen đó. Tôi bắt đầu tập chạy lúc 10 tuổi thì phải. Tôi ra ngoài sân vườn, bắt đầu chạy qua lại liên tục, vì nghĩ điều này là rất quan trọng khi muốn bắt kịp đối thủ hoặc thoát khỏi sự đeo bám. Tôi làm vậy hằng ngày. Mẹ thì rất không vui, vì bà đã phải tốn rất nhiều công sức để trồng nên một vườn hoa đẹp đẽ, vậy mà tôi lại phá tan cả khu vườn. Đôi lúc bố sẽ giám sát tôi, đôi lúc thì không. Nếu ông thấy tôi đang làm bài tập về nhà, hoặc đang ngồi xem ti-vi trong phòng, ông sẽ hỏi: “Hôm nay con đã tập chạy chưa?” Tôi cảm thấy tự hào mỗi khi đáp lại: “Dạ rồi ạ!” Mà nếu tôi có chưa làm đi chăng nữa, ông cũng không bao giờ quát mắng. Ông sẽ chỉ nói với tôi rằng, nếu con không chịu tập, thì có ngày những điều tồi tệ sẽ xảy đến. Không trừng phạt, hay bất cứ gì cả. À không - có sự trừng phạt - đó là tôi sẽ không thể nhanh hơn, thể lực cũng không thể tốt hơn được. Với tôi, chừng đó đã là quá đủ. Tôi sẽ ra ngoài sân tập chạy, bất chấp thời tiết ra sao. Tôi thậm chí còn làm như vậy kể cả khi đã là một cầu thủ chuyên nghiệp. Tôi vẫn tập luyện cùng mọi ộ y g ệp ập yệ g ọ người tại sân tập Chadwell Heath của West Ham. Nhưng khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại một mình, tôi bắt đầu chạy qua chạy lại trong phòng tập gym. Thỉnh thoảng tôi có gặp bố đi ngang qua, và tôi chỉ gật đầu cười với ông. Tất nhiên, ông sẽ không hỏi tôi đang làm gì - kể cả sau khi tôi đã lên đội Một của West Ham đi chăng nữa. Bố tôi là như vậy. Ông không bao giờ yêu cầu tôi phải làm gì. Ông luôn luôn để tôi được tự do làm theo sở thích của mình. Nhưng, không chỉ có tôi được ông đối xử như vậy. Hồi Rio Ferdinand và tôi còn là đồng đội ở West Ham, ông thường giữ Rio ở lại hàng giờ sau buổi tập để luyện đánh đầu. Rio thì khỏi phải nói, đó là một cầu thủ thiên tài. Cậu ta có thể dễ dàng làm những thứ mà các cầu thủ khác phải chật vật mãi vẫn không được. Nhưng khi đặt mình vào vị trí của một cầu thủ phòng ngự, có vẻ như Rio lại không giỏi chơi đầu cho lắm. Vậy nên cậu ta đã phải cùng bố tôi tập luyện, tập luyện một cách điên cuồng. Bài học quan trọng nhất mà bố tôi muốn truyền đạt, là sức mạnh tinh thần, thứ mà những cầu thủ ở đẳng cấp thế giới đều cần phải có. Lấy ví dụ như Gianfranco Zola, anh ấy thường ở lại thêm sau mỗi giờ tập của Chelsea để luyện sút bóng. Trong khi các cầu thủ khác đều đã đi tắm hoặc thư giãn, thì Franco lại lựa chọn đứng trước khung thành và tập luyện rất lâu. Bùm. Bùm. Bùm. Anh ấy cứ như một con quái vật vậy. Kể cả là Franco, một trong những cầu thủ vĩ đại nhất tôi từng có cơ hội được sát cánh, luôn tự cho rằng mình cần phải luyện tập thêm. Đây là điều thường xuyên xảy ra với các cầu thủ giỏi. Wayne Rooney cũng làm như vậy mỗi khi có đợt tập trung Đội tuyển quốc gia. Và, tôi cũng vậy. Bố tôi đã giới thiệu, cài tư tưởng đó vào bộ nhớ của tôi, và nó trở thành một phần không thể thiếu trong chặng đường phát triển sự nghiệp của Frank Lampard. Ngày nay, tôi có gặp một vài cậu nhóc tự cho rằng mình là siêu sao chỉ vì có được hợp đồng với Chelsea. Họ sở hữu những con xế hộp đắt tiền và chỉ chờ để phóng chúng đi sau mỗi buổi tập. Nhưng cũng có những cầu thủ sẽ nán lại sân và tập luyện thêm nữa. Tôi cũng tận dụng cơ hội để chỉnh lại “thước ngắm” của mình, và sẽ có những cầu thủ trẻ muốn học hỏi. Tôi lại tập chạy, như một thói quen, và tập luyện với bóng trong nhiều giờ liền. Kể cả trước khi tôi ký hợp đồng với West Ham, bố đã thường xuyên dẫn tôi đến sân tập Chadwell Heath của câu lạc bộ, vào những ngày các cầu thủ được nghỉ tập, để rèn luyện thêm cho tôi. Ông sẽ ném quả bóng vào tường, sau khi để tôi đứng quay lưng lại với bóng. Quả bóng sẽ nảy theo nhiều hướng khác nhau, tôi sẽ phải phản ứng với bất kỳ hướng nào mà bóng bay đến. Ông nghĩ rằng để có thể trở thành một tiền vệ giỏi, một cầu thủ cần phải biết kiểm soát và điều khiển bóng theo ý muốn. Tôi với bố vẫn tiếp tục tập luyện kể cả khi trời có mưa gió bão bùng như thế nào đi chăng nữa. Ông ấy thực sự bị ám ảnh về những điều này, và ông cũng làm cho tôi bị ám ảnh theo. Lúc đó, tôi mới chỉ 14 tuổi. Tôi nhớ rằng Tony Cottee là một tài năng trẻ của West Ham, và tôi được bố kể lại rằng hai bố con nhà Cottee cũng thường đến sân và làm điều tương tự như nhà Lampard đang làm. Đó là cách khích tướng rất hay của bố tôi, kiểu như “nó cũng tập như con kìa, và giờ thì xem nó đang ở đâu” ấy. Trong tâm thức của tôi, Tony Cottee làm được, tôi cũng phải làm được. Điều này không hề bình thường với một thằng nhóc 14 tuổi chút nào, phải không? Tính ra thì cuộc sống của tôi cũng rất khác so với những người bạn cùng trang lứa. Bọn họ không bao giờ phải tập luyện kiểu như vậy, nhưng thật mừng là bố tôi đã nhận ra vấn đề sớm hơn cả. Ông ấy luôn nắm quyền chủ động vì lý do đó. Ông ấy luôn biết được trận đấu sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Hồi bố tôi còn thi đấu, những trận bóng thường diễn ra với tốc độ chậm hơn và bớt tính cạnh tranh hơn so với hiện tại. Hoàn toàn khác biệt. Những đội bóng bây giờ đã có ý thức chiến thuật hơn và thể lực khỏe hơn. Ông đã thấy được điều đó, nên muốn tôi phát triển thêm cả về tốc độ lẫn thể lực. Tôi thường xuyên phải thực hiện các bài tập trong tiếng hò hét, và đôi khi là cả quát mắng của bố. Còn nhớ hồi 11 tuổi, tôi đã chơi một trận đấu không được tốt cho lắm. Bố đã rất giận dữ, còn tôi thì không hề biết mình đã sai ở đâu. Ông bắt tôi ngồi xuống, lấy giấy bút ra, và diễn giải cho tôi về tầm quan trọng của việc kèm người ở hàng tiền vệ. Trước đó, nếu có người ban bật trái bóng xung quanh tôi, thì tôi sẽ chỉ chăm chăm lao vào cướp bóng và để cho cầu thủ đối phương vượt qua dễ dàng. Đây là một trong số những điều đã ăn vào máu tôi khi mới 11 tuổi, trong khi những cầu thủ trẻ khác thì chỉ được dạy điều này trong những giáo án luyện tập bài bản. Việc kèm người chắc chắn chẳng vui vẻ gì, và đó sẽ là điều cuối cùng mà tôi lựa chọn. Tôi, cũng giống như bao đứa trẻ khác, chỉ muốn nhận bóng và tự do chơi bóng mà không phải suy nghĩ gì. Nhưng càng lớn lên, bạn sẽ càng nhận ra tầm quan trọng của việc này. Tôi là một đứa trẻ vô cùng hiếu thắng. Và mẹ luôn là người cổ vũ, động viên, khích lệ tôi làm tốt hơn nữa. Bố là người đã nhìn ra những điểm mạnh, điểm yếu của tôi, nhưng mẹ mới là người luôn động viên tôi tự lực và cố gắng. Tôi có một bức ảnh chụp hồi còn ở trại hè, mà cho đến bây giờ mẹ vẫn nhắc đến. Thú thật, hồi đó tôi không phải là một đứa trẻ ưa nhìn, với một khuôn mặt to và hàm răng hơi khấp khểnh. “Ai mà ngờ đứa trẻ này lại là một huyền thoại của Chelsea và Đội tuyển Anh cơ chứ?” Bà nói bằng một giọng bông đùa. Tôi không phải người duy nhất trong gia đình có vinh dự được khoác lên mình chiếc áo Tam sư. Bố tôi, rồi ông anh Jamie cũng vậy. Chúng tôi lớn lên cùng nhau, thực sự không hề bình thường khi được lớn lên trong một bầu không khí đậm chất bóng đá đến như vậy. Hồi nhỏ, tôi đã tưởng rằng gia đình nào cũng giống như nhà mình, nhưng tôi đã sai. Bobby Moore đã từng đến nhà để gặp bố tôi. Tôi sẽ đi vào trong phòng, còn hai người họ sẽ bàn đủ loại chuyện, từ về West Ham cho đến bóng đá nói chung, trong khi mẹ tôi bận rộn chuẩn bị trà bánh. Ai mà ngờ, một huyền thoại từng vô địch World Cup cùng Đội tuyển Anh lại đang ngồi đây, trong chính ngôi nhà của tôi được cơ chứ? Kể cả khi chúng tôi gặp mặt và tiếp xúc với bác Harry, tôi vẫn chưa hề nhận ra sự đặc biệt trong gia đình của mình. Chỉ có chúng tôi mà thôi. Chúng tôi vẫn thường xuyên đến nhà của bác Harry ở Bournemouth để nghỉ ngơi, cứ như là đang đi biển nghỉ mát vậy. Tôi còn một người anh họ nữa, tên là Mark, cũng là một cầu thủ đầy tài năng nhưng sự nghiệp bị dang dở vì một chấn thương đầu gối. Cứ mỗi lần chúng tôi ngồi với nhau là lại bàn về bóng đá. Thi thoảng cũng có trường hợp ngoại lệ, nhưng không nhiều. Mùa hè ở nhà Redknapp thật tuyệt vời, và tôi nhớ rằng họ đã chuẩn bị một bữa tiệc thật to cho sinh nhật của Jamie. Bữa tiệc kéo dài hai ngày, và khi xuất hiện, tôi đã thực sự bị sốc. Một vài cầu thủ Liverpool cũng góp mặt, bao gồm cả Robbie Fowler. Trevor Sinclair cũng ở đó, nhưng lúc ấy anh ta vẫn chưa nổi tiếng lắm. Đây là dịp mọi người trình diễn độ “chất chơi” cũng như gu ăn mặc của mình. Jamie rất sành điệu, và luôn nắm bắt gu thời trang rất nhanh. Sau vài lần quay lại Bournemouth, tôi cũng muốn mẹ mua cho ít quần áo để trông sáng sủa hơn. Trong dịp cụ thể này, thứ được ưa chuộng nhất vẫn là quần jeans và áo phông Ralph Lauren. Đã có một bữa tiệc BBQ hoành tráng ở sân sau nhà và mọi thứ diễn ra thực sự điên rồ. Có rất nhiều cô gái xinh đẹp xuất hiện, và nhân vật chính của chúng tôi, Jamie Redknapp, trông như một ông hoàng, là tâm điểm của cuộc chơi này. Thật là không thể tin nổi. Tôi cứ đứng đó một mình mà thôi. Tôi trẻ hơn Jamie khá nhiều, và tôi cũng sẽ không đổ lỗi cho anh ấy vì đã không để ý đến mình đâu. Với tôi, anh ấy như một người anh trai ruột thịt vậy. Hiển nhiên rồi, khi bạn lớn lên cùng với một người như vậy, bạn sẽ luôn nhìn vào đó như một hình mẫu để noi theo. Tôi đã được đi cùng đến Cyprus với Jamie, Don Hutchison và một vài người bạn của Jamie ở Bournemouth. Tôi cũng không chắc nữa, nhưng may là tôi đã thuyết phục mẹ đồng ý rồi. Mùa hè đó, tôi còn được đến Bermuda cùng với gia đình. Bố tôi có nhiệm vụ huấn luyện thêm cho cựu chân sút West Ham là Clyde Best. Tôi bôi vội một ít kem chống nắng vào mặt và chạy ngay ra ngoài đó. Tin được không? Tôi đang đi nghỉ với những hảo thủ của Liverpool và trông tôi thật tệ. Họ mới tuyệt làm sao. Jamie đáng ra không cần phải có trách nhiệm với đứa em họ như tôi, nhưng anh ấy vẫn trông chừng tôi mặc kệ bộ dạng nom thật kỳ cục của tôi. Sau đó, khi chúng tôi đi tới quảng trường chính của thị trấn, đám đông đã chờ sẵn chỉ để xin chữ ký và chụp ảnh cùng Jamie. Anh ấy đối xử rất tốt với tất cả những ai tiếp cận mình. Sau tất cả, mọi người đến đây để thư giãn và nghỉ ngơi cơ mà. Tôi để ý thấy rằng, khi rơi vào tình huống như vậy, mỗi cầu thủ sẽ có những cách phản ứng khác nhau. Tôi đã thấy có nhiều người dễ nổi nóng và xua đuổi mọi người - đặc biệt là sau khi uống một vài cốc bia. Nhưng Jamie thì luôn tỏ ra lịch sự. Tôi rất muốn đạt đến phong độ như anh ấy, và tôi ngưỡng mộ những gì mà anh đã và đang làm. Không nghi ngờ gì nữa, một khi bạn trở nên nổi tiếng, bạn sẽ có ít thời gian dành cho mọi người hơn. Kể cả bây giờ, nếu bạn đang bế con trong tay hoặc đang rất vội vã, thì chắc hẳn bạn vẫn sẽ muốn ký tên cho người hâm mộ chứ? Tôi thực sự ngưỡng mộ Jamie - anh ấy có thể đương đầu và chịu áp lực rất tốt - cho dù lúc đó mới chỉ 22 tuổi. Anh ấy dám đối diện với mọi thứ và có đủ can đảm để vượt qua chúng. Chúng tôi không thể có nhiều thời gian gặp nhau trực tiếp được vì khoảng cách địa lý quá xa, nhưng anh ấy vẫn thường cho tôi những lời khuyên bổ ích qua điện thoại và tôi có thể gọi cho Jamie bất cứ khi nào tôi muốn. Anh ấy luôn có thời gian dành cho tôi và luôn biết tôi muốn gì. Thậm chí khi đã 18, tôi vẫn phải học hỏi từ anh ấy. Jamie đã đến Chadwell Heath để tập phục hồi sau một chấn thương gặp phải ở Liverpool. Chúng tôi bày ra một trò khá thú vị. Hai anh em sẽ lấy sơn vẽ lên tường một hình khung thành, và ở mỗi góc sẽ khoanh tròn một vòng tròn đúng bằng quả bóng. Mỗi một vòng tròn sẽ đánh một số khác nhau, và Jamie chờ đến khi tôi tập xong thì bắt đầu bày trò. Anh bắt đầu bước lên và hô lớn: “Một” - quả bóng bay thẳng đến vòng tròn đầu tiên. “Bốn” - góc khác, nhưng kết quả vẫn vậy. “Hai” - lại một lần nữa. Và cứ thế. Rồi sau đó đến lượt tôi. Tôi thấy may mắn vì đã đưa được bóng vào phạm vi khung thành, chứ chưa nói đến việc sút vào vòng tròn. Nhưng Jamie không hề chê cười hay tức giận gì cả. Anh ấy bước sát lại gần tôi và bắt đầu cho tôi những lời khuyên. Jamie là như thế đó. Luôn thích giúp đỡ người khác. Vì vậy, nên khi hai chúng tôi chạm mặt nhau trên sân cỏ, cảm giác sẽ hơi kì lạ một chút. Tôi, cùng với West Ham, đã gặp Liverpool của Jamie, và chúng tôi chạm trán nhau ở hàng tiền vệ. Trong một tình huống tranh chấp bóng, chân của Jamie đã vào cao hơn quả bóng một chút, và đập vào đầu gối tôi. Ngay sau đó, anh ấy hoảng loạn vì nghĩ rằng mình đã làm tôi đau. Jamie là một người sống rất tình cảm, và trong một khoảnh khắc, anh ấy đã lo lắng cho tôi, với tư cách đối thủ trên sân cỏ. Cán cân đã đổi chiều khi chúng tôi lại đối đầu nhau thêm lần nữa, lần này thì Jamie đã chuyển đến Tottenham. Tôi đã quyết liệt hơi quá mức và suýt chút nữa khắc lên khuôn mặt ưa nhìn của Jamie một vết sẹo. Tôi đã trải qua đúng cái cảm giác mà anh ấy đã chịu đựng nhiều năm trước đây. Kết quả là anh ấy phải phẫu thuật, khâu 30 mũi quanh miệng. Bây giờ, Jamie vẫn mang câu chuyện đó ra kể lại cho tôi nghe. Thú thật là vào lúc đó tôi đã rất hoảng sợ. Tôi rất tôn trọng Jamie - mối quan hệ giữa chúng tôi đã trở nên khăng khít hơn trong nhiều năm qua. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều, và cho dù bản thân gặp nhiều khó khăn và kém may mắn bởi những chấn thương nghiêm trọng, nhưng trong cái nhìn của anh với tôi chưa bao giờ có sự ghen tị. Jamie luôn mang lại sức ảnh hưởng tích cực và là động lực để tôi tiến lên. Jamie luôn hiểu được người khác muốn gì, đang suy nghĩ gì cũng như cách mà mọi người nhìn cuộc sống này. Anh ấy luôn khiến cho người đối diện cảm thấy thoải mái, và đấy là lý do anh ấy vẫn sẽ thành công, nếu có chọn nghiệp huấn luyện viên đi chăng nữa. Tôi vẫn luôn ước rằng mình có được tinh thần như Jamie, và tinh thần đó đã ăn vào máu thịt, vào từng tế bào của tôi, vào tất cả những môn thể thao mà tôi chơi. Tôi cũng đã từng chơi cricket, và cũng đủ tốt để được chơi cho Essex ở lứa U12 đến U15. Thời điểm đó, cả một tuần của tôi được trải dài với toàn những môn thể thao. Vào tối thứ Hai, tôi đến Chelmsford để tập trung cùng đội cricket của Essex. Thứ Ba là West Ham và thứ Tư sẽ là lịch tập của đội bóng trường. Thứ Năm là Arsenal, thứ Sáu là Tottenham, thứ Bảy là trận đấu bóng ở trường, và Chủ nhật quay về Heath Park. Đã từng có thời điểm tôi thích chơi cricket ngang ngửa bóng đá, đó là hồi tôi mới 11 hay 12 tuổi gì đó. Bố đã từng chơi cho đội cricket trẻ của Anh, và chơi rất cừ. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì được theo học ở một ngôi trường mà cricket cũng được chú trọng như bóng đá. Tôi thích vị trí đánh bóng nhất, và đó là lý do vì sao tôi lại yêu thích môn này đến vậy. Năm 14 tuổi, tôi đã được góp mặt trong đội hình thi đấu cricket lần đầu tiên. Điều này những tưởng đã khiến tôi trở nên giỏi cricket hơn bóng đá, nhưng không. Có thể vì đội cricket lúc đó không thực sự tốt cho lắm. Với vóc dáng nhỏ bé, tôi không đủ mạnh khỏe để đón được tất cả các đường bóng. Tôi sẽ đỡ những đường bóng nhẹ và cố gắng ở trong sân lâu nhất có thể. Bạn biết đấy, loại “Geoffrey Boycott” ấy. Khi lớn lên, tôi bị chuyển sang vị trí khác, và đó cũng là lúc mà tôi mất dần hứng thú. Thiếu kiên nhẫn cũng là một trong những điểm yếu của tôi. Bố tôi bắt đầu nói rằng làm một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp có thể kiếm được nhiều tiền hơn là một cầu thủ cricket. Ban đầu thì nghe hơi kỳ lạ, nhưng khi bạn lớn lên, tiền bạc trở thành một thứ thiết yếu, thì điều đó đúng là có ảnh hưởng không hề nhỏ. Không chỉ tiền, cả sự nổi tiếng nữa. Bóng đá, suy cho cùng, là môn thể thao vua và là môn thể thao số 1 mà. Nếu tôi quyết định bám trụ với cricket, liệu tôi sẽ đi được bao xa? Có thể tôi sẽ trở thành một Freddie Flintoff chăng? Bố mẹ tôi đã nhiều lần phải đón tôi từ trường ở Brentford và di chuyển 15 phút để đến Chelmsford. Tôi phải thay đồ ở đằng sau xe, và điều này thực sự là một thảm họa, đến nỗi tôi bắt đầu viện cớ để không phải đi nữa. Nhưng, trong quãng thời gian đó, tôi đã phần nào thoát khỏi nỗi ám ảnh về sự hoàn hảo. Có rất nhiều người giỏi hơn tôi trong môn cricket và việc không tài nào đuổi kịp họ từng khiến tôi phát điên. Và, đó chính là lý do vì sao cricket dần dần biến mất khỏi tâm trí tôi. Tôi chấp nhận những giới hạn của mình - mặc dù tôi hoàn toàn không hề muốn nhắc lại điều đó mỗi khi động đến cây vợt. Từ đó, tôi toàn tâm toàn ý tập trung vào bóng đá, và năm 14 tuổi, tôi đến Lilleshall để tham dự đợt tuyển quân thường niên của họ. Thời điểm này, Lilleshall là một trong những trường đào tạo bóng đá chuyên nghiệp của FA. Họ cung cấp những khóa học kéo dài 2 năm, kết hợp giữa việc học văn hóa và đào tạo bóng đá chuyên nghiệp. Thật là thú vị, nhưng cũng đầy thách thức. Thậm chí tôi còn bị gãy tay trước đó mấy tháng. Có 32 đứa trẻ đến ghi danh, và chỉ có 16 chỗ mà thôi. Chúng tôi có 2 ngày để nghỉ ngơi, tập nhẹ, và chơi game. Tôi có mặt trong 24 người cuối cùng, mọi thứ vẫn đang đi đúng hướng. Chúng tôi sau đó có một bài kiểm tra, người tham gia sẽ phải chạy qua lại quanh hai chướng ngại vật cho đến khi kiệt sức. Mức cao nhất có thể đạt được là 14 và tôi chỉ có thể lên được 11. Không biết bọn họ sẽ nghĩ về tôi ra sao nhỉ? Tôi hoàn toàn không còn chút sức lực nào cả. Tôi quay trở về nhà, hồi hộp đợi giấy báo từ phía Lilleshall. Hai tuần sau, một chiếc phong bì nhỏ được đưa vào qua khe cửa nhà tôi. Thực sự rất lo lắng. Tôi tự nói với bản thân rằng cánh tay bị gãy của tôi đã hạn chế cơ hội của chính mình. Tận sâu trong đáy lòng, tôi mong đấy không phải sự thật. Nhưng, nó lại là sự thật. Tôi đã trượt. Thực sự quá khó khăn để chấp nhận. Tôi là một cầu thủ được coi là “tốt nhất” ở vùng Essex, và tôi muốn trở nên thật giỏi. Nhưng sự thật rằng tôi thậm chí còn không nằm trong top 16 thành phố khiến tôi đau lòng. Lee Hodges, người mà sau này tôi có dịp được đồng hành ở đội trẻ West Ham, tiết lộ rằng chính ông là người đã từ chối tôi. Không biết bố tôi sẽ nghĩ gì nhỉ? Trái với dự đoán, ông ấy không hề bận tâm. Lilleshall được biết đến như một môi trường chuyên nghiệp, nhưng cách giáo dục của họ không phải là thứ ông cần cho tôi. Những cầu thủ tốt nghiệp từ đó có quyền được tự hào, trong đó những tài năng như Joe Cole hay Michael Owen là ví dụ tiêu biểu. Nhưng, ở một góc độ nào đó, tôi lại cảm thấy nhẹ nhõm vì đã trượt. Tôi đã từng trải qua vô số những cách thức và giáo án huấn luyện khác nhau. Sau khi lên 10 tuổi, tôi bắt đầu tham gia học viện của West Ham, Tottenham và Arsenal. Tất cả đều có điểm mạnh, và tất nhiên, cả điểm yếu của riêng họ. West Ham là một câu lạc bộ hơi có chút lỗi thời trong thái độ. Họ không hoàn toàn muốn bạn trở thành một phần của câu lạc bộ. Có một chút gì đó hơi kỳ lạ khi bạn là một cổ động viên của họ, thì bạn tự động muốn đầu quân cho chính họ. Trên thực tế, theo tôi, học viện của Spurs là tốt nhất. Tôi đã được mở rộng tầm mắt khi chứng kiến những đứa trẻ giỏi hơn mình theo nhiều cách. Người ta cho bạn một quả bóng, và bạn có quyền làm bất cứ những gì có thể. Tôi đã tiến đến chỗ những người bạn ở đằng xa và bảo: “Tớ cũng muốn làm được như vậy!” Sau buổi tập, sẽ có một bữa ăn tập thể, nơi mà mọi người rất gắn kết và vui vẻ. Arsenal là một cái gì đó nằm giữa ranh giới của West Ham và Spurs. Tôi cũng rất thích phong cách huấn luyện ở đây, cho dù nó có hơi thiên hướng thể lực hơn. Mọi người đều được huấn luyện rất bài bản, và họ đều hiểu được rằng mình đang làm gì. Trong vài năm, tôi đã tham gia cả ba học viện đó, cho dù bố tôi đã quyết định con trai mình sẽ đầu quân ở đâu. West Ham luôn ở trong trái tim tôi, và của cả bố tôi nữa. Tôi đã chơi cho đội trẻ West Ham song song với Heath Park. Hơi kỳ một chút, nhưng tôi đang làm những gì mà mình thích. Tôi chưa bao giờ phải dừng lại và nghĩ về một cái gì đó khác, cho dù tôi có rất nhiều thời gian để làm vậy. Tôi nhận ra rằng, sau khi tham gia vào một hệ thống mới, quen biết những người mới, tôi có thể cảm nhận được thái độ của một số người hướng về phía mình. Thường thì không mất quá lâu để nhận ra được. Nó không liên quan gì đến việc tôi nhanh như thế nào, tôi có giỏi bóng đá hay cricket không. Đơn giản là vì, tôi là con trai của Frank Lampard Sr. Phần lớn mọi người đều rất tốt, và tôi đã có thêm những người bạn mới. Nhưng cũng có những đứa trẻ dễ nổi nóng và ghen tị khi biết tôi là con trai của một cầu thủ nổi tiếng. Tôi chưa bao giờ giấu giếm sự thật rằng bố mình là ai. Hãy cứ đối mặt với nó thôi. Với hai cái tên giống hệt nhau, thật khó để chối bỏ sự thật. Và một số kẻ quyết định gây sự và hạ nhục tôi chỉ vì cái mác “con trai của Frank Lampard Sr.” Không chỉ có những đứa trẻ thôi đâu. Ở Heath Park, có một cầu thủ tên là Danny, thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm. Cậu ta cũng gia nhập lò West Ham, ghi kha khá bàn thắng, cho dù sau này cậu ta bốc hơi đi đâu không rõ. Bố của cậu ta lúc nào cũng đến xem bóng và quát nạt tất cả các cầu thủ khác, trừ con trai mình, tất nhiên rồi. Ông ta luôn chĩa vào tôi vì tôi là “Lampard”. Tôi thực sự rất cáu vì điều này. Có một trận đấu, mặc dù Danny đã ghi tầm 6 hay 7 bàn gì đó, thì ông bố khả kính của cậu ta vẫn gào lên: “Chuyền bóng nhanh lên, Lampard!” Tôi và Michael Black ban đầu chọn giải pháp im lặng. Nhưng rồi đến một ngày Black không chịu nổi nữa và quát lên: “Câm miệng!” Cậu ta mới chỉ 13 tuổi, và đó là lần đầu tiên gã kia im bặt. Tôi thì luôn chọn yên lặng và tập trung với trái bóng. Thú thật là tôi không quan tâm lắm đến việc người ta nghĩ sao về mình. Khi tôi có mặt ở một trận đấu bóng đá, mọi thứ đều ổn, vậy là được rồi. Nhưng có một số người lại thích chọn thái độ thù địch ra mặt. Tôi đã có đôi chút xấu hổ, nhưng không quá mức. Tôi luôn cố gắng làm mọi thứ tốt nhất có thể. Không phải để chứng minh mọi người đã sai, mà là để khẳng định rằng tôi tốt hơn họ - tốt hơn những lời gièm pha và chế giễu. Tôi đã khá tốt trong môn bóng đá rồi, nhưng với tôi như thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn xuất sắc ở tất cả mọi mặt. Có một dịp, tôi đã thực hiện một bài tập chạy xung quanh thành phố, và ám ảnh về nó đến nỗi lăn đùng ra ốm. Cơn đau cứ thế tăng lên mỗi khi tôi thay quần áo chuẩn bị đi chạy. Giáo viên đã bảo tôi rằng hãy từ bỏ đi. Nhưng không, tôi vẫn quyết tâm tiếp tục. Cuối cùng tôi cũng làm được, dù chẳng còn tí sức lực nào cả. Tôi cũng đã thử rất nhiều môn thể thao khác nhau, như bao đứa trẻ khác. Tôi thích tận hưởng thú vui khi được thử sức với nhiều thứ khác nhau, và thích phát triển những mối quan hệ mới. Nhưng tôi vẫn không thể từ bỏ ngọn lửa chiến thắng luôn cháy hừng hực trong người. Như cái lần ghi bàn phản lưới nhà ấy, tôi cho rằng những điều như vậy là cần thiết cho việc phát triển tinh thần và chất thép nơi con người tôi. Quay ngược lại hồi còn 7 tuổi, tôi có tham gia một cuộc chạy đua 200m. Tranh tài cùng tôi lúc đó có một cậu bé to hơn nhiều, và cũng rất khỏe nữa. Người ta kỳ vọng cậu bé đó sẽ vượt qua chặng đường đua này rất dễ dàng. Tôi nhìn cậu ta. Tôi muốn đánh bại cậu ta. Cuộc đua bắt đầu, và tai họa đã ập đến khi tôi “rớt đài” ngay ở giữa quãng đường. Tôi đã quá kiệt sức và không còn đủ lực để tiếp tục nữa. Điều này thực sự rất khó để vượt qua. Tôi về nhà, lòng đầy nuối tiếc. Tôi ngồi trong phòng cả ngày, với vẻ mặt u sầu và buồn bã. Không ai có thể bắt chuyện với tôi vào thời điểm đó. Đúng là tôi đã rất xấu hổ, nhưng sâu bên trong, tôi hiểu cảm giác của một kẻ thất bại. Thể thao là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của tôi. Nhưng, tôi bắt đầu hình thành ý nghĩ rằng, mình cần nhiều hơn là thể thao để có thể sinh sống được. Những người nuôi hy vọng trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp cần phải trải qua rất nhiều yếu tố khác nhau. Nhưng, với tôi thì có hơi khác biệt một chút. Bố tôi có một mức lương khá ổn khi ông còn là một cầu thủ, và mẹ thì muốn tôi có một xuất phát điểm tốt hơn nữa. Tôi được gửi đến một ngôi trường tư thục để có được một nền giáo dục tốt và giúp tôi có thể tự đưa ra quyết định của riêng mình. Được đặt chân đến Brentwood là một điều gì đó rất tự hào đối với cá nhân tôi. Đây là một ngôi trường lớn, với danh tiếng đã sản sinh ra những con người ưu tú trong xã hội. Nhà thiết kế nổi tiếng Robin Day, danh hài kiêm diễn viên Griff Rhys Jones từng học tập ở đó, và cả nhà sản xuất Noel Edmonds cũng vậy. Thật khó khăn để bước vào một ngôi trường với phương châm “Học tập hiệu quả”, nhất là khi bạn là con trai của một cựu cầu thủ bóng đá. Nhưng sự thật là tôi có những bước tiến khá nhanh. Tôi, một đứa trẻ lớn lên với tình yêu bóng đá mãnh liệt, đã nhận ra xung quanh có những đứa trẻ khác hẳn mình, không hề có ý định chơi bóng đá. Tôi đã hiểu rằng có rất nhiều loại người khác nhau. Có những đứa trẻ bố mẹ đi làm trong thành phố, có những đứa bố mẹ làm quan chức và rất giàu có. Còn tôi, là một đứa trẻ xuất phát từ tầng lớp lao động ở vùng Essex, không có gì hơn ngoài bóng đá. Đây quả đúng là một môi trường mới mẻ và sáng tạo. Không hề có đứa trẻ nào đến từ Essex như tôi cả, cho nên về mặt trang phục sẽ khác nhau đôi chút. Ban đầu thì có hơi kỳ lạ đấy, nhưng về sau thì cũng bình thường. À, gần như thôi. Gia đình tôi cảm thấy không hề thoải mái chút nào với một số thành phần, và cho rằng tôi không nên dính dáng gì đến chúng. Điều này không khiến tôi bận tâm, ngoại trừ một khoảnh khắc mà tôi cho rằng họ đã có thể chú ý hơn. Mẹ đưa tôi lên xe, lái đến trường, nhưng ngay khi vừa đi qua cổng, tôi đã thấy có gì đó rất sai lầm. Mọi người đều mặc đồng phục, áo quần đen bóng. Chỉ có tôi là ăn mặc kiểu khác hẳn. Tôi thấy ngại ngùng quá đỗi, cúi gằm xuống xe và bảo mẹ tiếp tục lái. Đồng phục đã có thay đổi sau kỳ nghỉ xuân, nhưng gia đình tôi chẳng hề nhận được thông tin gì cả. Và cuối cùng, mẹ đành phải ra ngoài để mua một bộ quần áo mới cho tôi. Mẹ tôi đã cười vì vụ đó - nhưng đúng thật - mọi người bắt đầu chú ý đến tôi chỉ vì nơi mà tôi xuất thân. Đúng vậy. Trong khi các bạn ở Heath Park được ra ngoài đá bóng một cách vui vẻ thì tôi phải ngồi trong phòng học, vật lộn với đống tiếng Pháp và tích phân. Điều này khá là khó chịu. Như bao đứa trẻ khác, ban đầu tôi cũng chẳng mấy ưa thích trường học. Nhưng được cái ở đó tôi đã có thêm nhiều bạn mới, và cách nhìn về thế giới của tôi cũng phần nào thay đổi. Brentwood đóng một vai trò quan trọng trong việc đó. Xét về mặt tổng thể, tôi là một học sinh khá chăm ngoan. Vẫn tồn tại những vấn đề nho nhỏ mà mọi học sinh đều có, và vấn đề đầu tiên tới từ việc tôi có thể góp mặt vào đội tuyển bóng đá của trường. Một vài anh lớn hơn tỏ vẻ khinh thường tôi về vấn đề đó. Tôi còn nhỏ thật, nhưng tôi có thể chơi bóng được. Nhưng dường như họ muốn tôi thất bại để có dịp cười vào mặt tôi. Nhưng tôi đã không cho họ cơ hội ấy. Cuối cùng thì họ cũng để lộ suy nghĩ của mình về tôi, sau khi một số người đứng lên và hỏi tôi làm gì ở đây. Tôi coi đó giống một lời đe dọa hơn là một lời giải thích, nên đã phớt lờ đi. Tôi không hề làm gì sai cả, ngoại trừ việc đã cố gắng hết sức mình, và điều đó có vẻ như đã khiến họ không hài lòng một chút nào. Người thầy trực tiếp hướng dẫn đội bóng của chúng tôi là một người đàn ông tốt bụng đến từ Oldham, tên là Chris Boukley. Ông luôn bảo vệ tôi, cho tôi một chỗ dựa, kể cả khi những người khác có gièm pha tôi. Một số đứa trẻ khác gây sự với tôi về xuất thân của mình, nhưng cũng có những người rất tốt bụng. Có nhiều người như vậy ở Brentwood, và chúng tôi đã tập hợp lại với nhau để chơi bóng, đấu với những đội bóng mạnh, chẳng hạn như trường Eton. Đó là một thế giới hoàn toàn khác đối với tôi. Có rất nhiều gia đình giàu có và gia giáo ở trường chúng tôi, nhưng chưa là gì so với họ. Tôi đã tìm ra cách để có được niềm vui của riêng mình, vì thế, tôi cảm thấy không cần thiết phải tham gia vào đám đông kia. Chúng tôi nói chuyện về chính trị, cuộc sống, và chơi bóng đá vào sau giờ ăn trưa. Tôi học hành khá chăm chỉ nhưng bóng đá vẫn là niềm đam mê số một của tôi. Phải đến trường vào ngày thứ Bảy cũng là một khó khăn với tôi, khi tôi vừa đá cho đội bóng của trường, vừa tham gia đội trẻ West Ham. Không sớm thì muộn, hai thế giới cũng phải chạm trán nhau. Và khi đó, mọi thứ sẽ trở nên cực kỳ hỗn loạn. Bố đã cho tôi nghỉ học một hôm ở trường để có thể chơi cho West Ham trong trận đấu tại FA Youth Cup. Ban đầu tôi đã rất hoảng loạn, nhưng vẫn tỏ ra là mình có thể chịu đựng được. Dù sao thì, bố đã đưa tôi đi. Chúng tôi đã chơi rất tốt và đã thắng trận đấu. Hoàn hảo, tôi nghĩ vậy. Nhưng không. Cho đến ngày hôm sau, tôi đến trường, và nhận được một thông tin động trời. Đội bóng của trường cũng đã có một trận đấu vào đúng ngày hôm đó - một trận tứ kết. Họ đã thua, và sự vắng mặt của tôi biến thành một thảm họa. Tôi ngồi trong lớp, cứ như một tên tử tù chờ đợi tuyên án vậy. Tôi đúng là đã phạm sai lầm, và khi họ muốn chất vấn, họ chỉ cần nhìn vào mặt tôi thôi là đủ. Tôi vẫn hy vọng vào một cái gì đó tốt đẹp, cho đến khi thầy chủ nhiệm bước vào và nói: “Lampard! Đi theo tôi!” Tôi lên văn phòng, ngồi lặng yên và đầy xấu hổ. Rồi thầy chủ nhiệm ném xuống bàn một tập giấy. Tôi càng cảm thấy xấu hổ hơn. Đó là những bức ghi lại hình ảnh tôi đã chơi bóng cho West Ham từ trước đến nay. Mọi thứ trở nên thật tồi tệ. Ông bảo rằng tôi đã “phụ lòng tin của đồng đội, huấn luyện viên và mọi người”. Tôi đã biết điều đó rồi. Và, ông ta đã đưa tôi đến chỗ ông Boukley để xin lỗi. Tôi thực sự rất yêu quý Boukley. Ông đã rất quan tâm đến tôi, và cho tôi niềm tin rằng tôi có thể thành công, ngay cả khi tôi tự nghi ngờ chính bản thân mình. Trong tất cả mọi người mà tôi phụ lòng tin, ông ấy là người mà tôi sợ phải đối mặt nhất. Tôi cảm thấy bản thân mình thật tồi tệ sau khi gặp Boukley. Tôi cũng cảm thấy cáu giận khi bị cấm túc 2 giờ đồng hồ vào chiều thứ Bảy. Điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Họ bắt tôi phải viết một bài luận về việc “Lòng trung thành quan trọng hơn lợi ích cá nhân”. Tôi đã dành thời gian để ngẫm nghĩ về điều đó, rồi đưa ra một quyết định khá táo bạo: “Đúng, lòng trung thành rất quan trọng, nhưng đôi lúc bạn cũng nên theo đuổi những thú vui cá nhân của mình, vì sẽ không có ai làm điều đó cho bạn đâu.” Tôi đã dùng câu đó để kết luận bài viết. Tuy nhiên, thầy giáo không hề thấy nó thú vị, mà còn nổi cáu với tôi. Sau đó, tôi đã chịu khó học hành hơn. Tôi không hề phạm thêm lỗi gì nữa, và cũng tập trung chú ý nghe giảng hơn. Tôi đã làm 10 bài kiểm tra GCSE: điểm A+ môn tiếng Latin, ba điểm A, năm điểm B và một điểm C. Với số điểm này, tôi cần phải học hành chăm chỉ hơn để theo được mức A. Ngôi trường đã thuyết phục tôi ở lại, và muốn tôi là đội trưởng đội bóng trẻ của trường. Ông Boukley cho rằng điều này sẽ tốt cho tôi, và tôi có thể học hành bài bản hơn. Tôi vẫn có thể học lên đến mức A+ mà vẫn được chơi bóng đá. Tôi đã suy nghĩ rất lâu về vấn đề này. Tôi có được thành tích tốt ở trường, thích học tiếng Pháp và Tây Ban Nha. Tôi về nhà và nói chuyện với bố. Sâu thẳm bên trong, tôi vẫn muốn trở thành một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Nhưng khi được cân nhắc để tiếp tục học hành, tôi lại bắt đầu có chút dao động. Ông khuyên tôi nên nắm bắt lời đề nghị của West Ham. Bản thân tôi thì chẳng cần nhiều sự thuyết phục đến như vậy. Tôi muốn chơi bóng đá nhiều, nhiều hơn nữa. Tôi sẽ ở lại trường, trong trường hợp tôi không thể phấn đấu thành một cầu thủ chuyên nghiệp được. Bố tôi luôn nhấn mạnh về những khó khăn khi trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng đó là điều mà tôi muốn. Đúng là phía trường học đã đưa ra sự lựa chọn khiến tôi dao động đôi chút, nhưng vẫn chưa đủ. Quan điểm của bố tôi rất rõ ràng: “Nếu tôi không nắm lấy cơ hội này, tôi sẽ không thể có được những điều cơ bản nhất của bóng đá.” Bạn nên biết được những điều cơ bản nhất trong bóng đá, bao gồm cả việc dọn phòng thay đồ. Điều này thực sự rất cần thiết. Tôi không có một chút hối hận nào cả. Không hề. Rất nhiều đồng đội của tôi đã gia nhập những trường đối địch, đạt nhiều thành tích cao và lên đến đại học. Về phần mình, tôi đã có những trải nghiệm mới hơn, tầm nhìn xa hơn so với những quy chuẩn máy móc thông thường. Tôi không muốn nói xấu đâu, nhưng thực sự khi gặp những người bạn ở đại học, tôi không hề thích cách sống của họ. Họ luôn dành thời gian để làm những điều khá vô bổ, và dựa trên cơ sở đó, tôi thấy rằng không hoàn toàn cần thiết phải yêu cầu con mình vào đại học. Họ phần lớn không biết mình phải làm gì, và họ dễ dàng thay đổi ý định của mình (một vài lần gì đó). Tôi nghĩ rằng việc giáo dục ở bậc đại học cũng tốt, nhưng sẽ tốn kha khá thời gian của bạn, trừ khi tự bạn muốn điều đó. Nó cũng có thể sản sinh ra những thói quen xấu cho bạn. Tôi đã từng có một cuộc tranh cãi như vậy, cho đến tận bây giờ, với người bạn Billy Jenkins ở Đại học Durham. Chúng tôi đã biết nhau khá lâu rồi, cậu ta là con trai của nhà vật lý trị liệu của West Ham, Robert “Rob” Jenkins, và hai chúng tôi khá thân nhau. Dù sao thì trường học vẫn là một cái gì đó rất tích cực. Nó hình thành nên con người tôi, và cho tôi cái nhìn khác hơn về cuộc sống. Giờ đây, mỗi khi cầm trên tay một tờ báo, tôi sẽ thường để ý đến những trang về tin tức và chính trị hơn, trong khi trước đây tôi chỉ chăm chăm lật đến mục thể thao mà thôi. Khi còn là một cầu thủ trẻ, tôi vẫn luôn nhìn vào những cầu thủ biết phấn đấu hơn là những người chỉ ngồi yên mà vẫn có nhiều tiền. Tôi nhận ra rằng mọi người sẽ tôn trọng bạn hơn, nếu bạn có một cái gì đó đặc biệt hơn là một cầu thủ bóng đá bình thường. Ngoài ra, bạn cũng nên quan tâm đến những vấn đề khác, vì cuộc sống của cầu thủ chuyên nghiệp rất dễ bị sụp đổ, hãy cẩn thận và chuẩn bị tâm lý cho điều đó. Bạn sẽ gặp phải những người không giải quyết được vấn đề nên sẽ nói khác đi và phản ứng một cách tiêu cực. Tôi thích nói chuyện về chính trị, và có thể thức đến sáng để tranh cãi với một người bạn về quan điểm chính trị của Tony Blair trong cuộc chiến ở Iraq. Tôi vô cùng quan tâm đến những vấn đề như vậy, và cũng có hứng thú với những gì nằm ngoài khuôn khổ những buổi tập và 90 phút trên sân cỏ. Khi nói trước đám đông, tôi khá tự tin và luôn biết mình phải nói gì. Với một cầu thủ bóng đá, điều này thật bất bình thường. Có những hình ảnh hơi tồi tệ đối với một vài cầu thủ bóng đá, khi họ không thể nói được gì lúc phải diễn thuyết hoặc họp báo. Điều này có vẻ vẫn ổn trong phòng thay đồ, nhưng dù sao các cầu thủ cũng là một phần của xã hội, các câu lạc bộ và FA nên chú ý hơn tới hình ảnh của các cầu thủ trước công chúng. Việc được học hành đối với tôi là một điều may mắn. Gia đình của tôi thì không được như vậy. Hình mẫu bóng đá của tôi, là cha, không có được may mắn như tôi. Cụ của tôi, người từng chơi bóng trong quân đội, và cả ông George cũng vậy. Bố tôi đã lớn lên cùng bóng đá, và đã sẵn sàng tham gia những trận đấu gồm những kẻ lớn hơn rất nhiều. Đó là một phần của cuộc sống. Ở nơi bố tôi được sinh ra, một thanh niên sẽ có ba lựa chọn nghề nghiệp. Một, làm việc ở nhà máy đường Tate & Lyle ở ngoại ô Silvertown. Hai, có thể vất vưởng ở bất cứ đâu, làm bất cứ nghề gì để kiếm được tiền nuôi sống bản thân. Ba, trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Chỉ có từng đó lựa chọn, và bố tôi đã quyết định gắn bó với trái bóng. Ông ấy, cũng giống như tôi, từng lo sợ rằng mình không làm được. Năm 15 tuổi, ông ký hợp đồng với West Ham trong khi những bạn bè cùng trang lứa đều đi làm công nhân. Ông nhẹ nhàng đút túi 5 Bảng một tuần, thay vì làm những việc nặng nhọc như chúng bạn. Tất cả những đức tính tốt của tôi đều được thừa hưởng từ ông ấy, rõ ràng rồi. Ngay khi còn trẻ, ông ấy đã có thể tự mình tránh xa khỏi những cám dỗ trong cuộc sống. Vì ông ấy hiểu, bóng đá là điều quan trọng nhất. Tôi, tuy được nuôi nấng dưới điều kiện tốt hơn, nhưng chúng tôi có chung một điểm: đưa ra quyết định từ rất sớm và niềm đam mê với bóng đá. Bố luôn khiến tôi ấn tượng về tầm quan trọng của việc làm mọi thứ đúng cách, và sự cống hiến để vươn đến thành công. Tôi luôn đáp lại những yêu cầu của ông, tuy không phải lúc nào cũng đúng như mong muốn. Ở chiều ngược lại, bố luôn biết cách khai thác điểm mạnh của tôi. Ông ấy chưa bao giờ ngại ngần chỉ ra những điều chưa đúng, và đôi lúc tôi nghĩ rằng mọi thứ đã đi quá xa. Có những lần, sau trận đấu, ông ấy phải thả tôi về nhà rồi đánh xe đi dạo trong công viên trước khi hai bố con cãi nhau ngay trong xe. Lần tồi tệ nhất là một trận đấu thất bại hồi tôi 14 tuổi. Hai bố con cãi nhau to về việc tôi đã chơi bóng như thế nào, và về trận đấu. Tôi không nhớ rõ nội dung, chỉ nhớ là tôi đã khóc. Sau đó, ông cố gắng dỗ dành tôi, và cả hai dừng ở công viên Gidea, đi bộ trong hai mươi phút. Bố biết rằng tôi đang rất buồn và mẹ tôi sẽ không để yên nếu thấy tôi trong tình trạng này. Tôi đã hít thở sâu và cố hết mức có thể để không khóc nữa khi về đến nhà. Tuy nhiên, tôi không thể che giấu cảm xúc của mình quá lâu. Mẹ đã cảm nhận được có gì đó không ổn nơi tôi, nhưng trước khi bà kịp nói gì, tôi đã chạy vào phòng tắm, khóa trái cửa và bắt đầu ngâm mình trong bồn. Tôi không thể chịu đựng nổi nữa và khóc to lên. Tôi vẫn còn sụt sịt sau đó nửa tiếng đồng hồ. Mẹ tôi luôn biết cách tốt nhất để an ủi tôi trong những tình huống như thế này. Bà biết rằng đã có một cuộc tranh cãi, nên bà đã để yên cho tôi quên đi trước khi tiếp cận tôi. Cuối cùng thì tôi cũng bình tĩnh lại được. Những gì xảy ra trong trận đấu đó khiến tôi cứ bị ám ảnh bởi ý nghĩ thất bại. Bị chê là thi đấu dở tệ đã quá đủ rồi. Nhưng bị chỉ điểm từng lỗi một trong từng hành động mà bạn đã làm, bởi một người quan sát và phân tích tất cả, thì còn đau đớn hơn gấp bội. Mẹ đã giúp tôi vượt qua tình cảnh đó, nhưng suy cho cùng thì tôi vẫn nợ bố rất nhiều. Với mẹ cũng vậy. Bà luôn biết nên nói gì, và khi nào. Tôi hiểu lý do vì sao bà lại để tôi một mình, khi mà mọi thứ đang ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng tôi không hề đổ lỗi cho bố vì những gì ông đã làm. Tôi biết tất cả những điều đó là vì tôi: nhằm giúp tôi chạm được đến đích và khai phá được tiềm năng của mình. Và, một trong số những lý do mà ông phải làm vậy với tôi, là vì ông đã không hề có bố ở bên cạnh suốt thời niên thiếu. Bố của ông (tức là ông nội của tôi), đã qua đời khi ông mới chỉ 2 tuổi. Chiếc xe tải mà ông nội lái va chạm với một chiếc xe bus đi ngược chiều. Cụ nội đã thế chỗ làm người nuôi dạy, chăm sóc cho bố tôi. Mối lo ngại “không làm được” của ông đến từ việc thiếu vắng bóng dáng người cha. Nhưng, trớ trêu thay, một số mối lo ngại của tôi lại đến từ việc bố luôn ở bên cạnh. Mẹ tôi là một người phụ nữ phi thường. Bà luôn biết cách đối chọi với mọi thứ. Bà từng nhìn thấy tôi bị xúc phạm, cũng như đã chứng kiến những thành công của tôi, nhưng lúc nào bà cũng tỏ ra bình tĩnh và không biểu lộ quá nhiều cảm xúc. Cứ mỗi khi tôi bị bố quát nạt vì thể hiện không tốt, bà sẽ lại phân tích cho tôi nghe đúng sai và an ủi tôi. Khi biết mọi thứ trở nên xấu đi ở West Ham, bà đã đứng ra bảo vệ tôi trước sóng gió. Bà là một người mẹ mà ắt hẳn bất cứ ai cũng tự hào vô cùng khi có được. Và tôi cũng tưởng tượng ra được bà đã phải chịu đựng những gì, khi phải nghe những lời gièm pha của người ngoài hướng về tôi. Tôi vô cùng trân trọng điều đó, bên cạnh việc có một người bố luôn sẵn sàng dạy tôi những cái mới. Bố tôi là một người “mặt dày”, nhưng nói thật, bạn cần phải có đức tính đó nếu muốn trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Tôi cũng được thừa hưởng một chút, mặc dù đôi lúc có hơi nhạy cảm với một vài vấn đề, giống như mẹ. Chúng tôi đã cùng nhau học cách phát triển tính cách của chính mình, và sau tất cả những gì xảy ra ở West Ham, mối quan hệ giữa hai mẹ con càng thêm gắn kết hơn. Việc hai chị gái cũng nhận được tình yêu và sự ủng hộ y như tôi khiến nhiều lúc tôi phải đặt câu hỏi rằng sao mẹ có thể làm được như vậy. Natalie, Claire và tôi luôn rất gần gũi với nhau. Chúng tôi lớn lên cùng nhau, đôi khi cũng cãi vã như mọi gia đình khác, nhưng hai chị lớn hơn tôi và luôn sẵn sàng bảo vệ tôi bất cứ lúc nào. Mặc dù họ hay trêu đùa và gọi tôi là Wurzel Gummidge khi tôi lần đầu tiên chải chuốt, nhưng họ luôn là những người đầu tiên giúp đỡ khi tôi cần. Chỉ sau 4 năm xa cách, tôi cảm thấy đã có một khoảng cách lớn giữa tôi và họ. Khi đó tôi khoảng 12 tuổi và cực kỳ “ghét” phụ nữ. Tất cả những gì tôi muốn làm là đá qua đá lại với trái bóng, điều khiến hai người phụ nữ trẻ cảm thấy tương đối khó chịu. Chúng tôi đã từng sống cùng nhau trong một khoảng thời gian dài, và đó là kí ức tuổi thơ tuyệt đẹp của tôi. Chúng tôi làm mọi thứ cùng với nhau. Giáng sinh là một dịp rất đặc biệt khi chúng tôi, cùng với ông bà sẽ ngồi xuống với nhau, thật là ấm cúng. Thực ra, tôi luôn có cảm giác đó vào mỗi tối Chủ nhật, khi cả nhà ngồi ăn tối với nhau. Đó chính là bí quyết của mẹ. Không quan trọng những cuộc tranh cãi to đến thế nào, không quan trọng là ai đang vướng vào, bà luôn biết cách đưa mọi người xích lại gần nhau hơn. Cứ mỗi tối, cả nhà Lampard sẽ lại ngồi xuống và ăn tối cùng nhau. Tuy là cũng có một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng không có lý do gì hết. Và điều này thực sự có hiệu quả. Khi tôi lớn lên, tôi lại càng ngưỡng mộ Natalie và Claire, bởi họ luôn thấu hiểu và thông cảm cho tôi kể cả khi tôi có là một cậu nhóc ồn ào đi chăng nữa. Là vì bóng đá, hoặc, vì tôi là con trai duy nhất trong nhà? Bố luôn dành sự chú ý cho tôi hơn cũng vì lý do đó, và đôi lúc hai người chị của tôi cảm thấy bị bỏ rơi. Những lúc như thế, mẹ sẽ lại là người đóng vai trò cầu nối, đưa tất cả mọi người lại gần nhau hơn. Khi tôi lớn lên, cảm giác mà tôi dành cho hai người chị gái của mình bắt đầu thay đổi. Tôi vẫn ngưỡng mộ họ, tất nhiên rồi. Nhưng dường như tôi đã “cảm nắng” họ. Và kể từ đó trở đi, không lúc nào là tôi không cảm nhận được lòng nhiệt huyết và sự cổ vũ của họ cả. Tôi luôn cảm thấy tự hào vì có họ, và luôn coi họ như hình mẫu để noi gương và học tập theo. Natalie cực kỳ nóng nảy, chị ấy thậm chí còn suýt tẩn nhau với mấy tên đã xúc phạm tôi ở West Ham. Chị ấy cũng rất yêu bóng đá, và thường gọi cho tôi sau những trận đấu của Đội tuyển Anh, để nói những điều đại loại như: “Tại sao lão già Eriksson lại rút em ra khỏi sân trong cái tình cảnh đang cực kỳ tối tăm như vậy?” Thật mừng là chúng tôi duy trì được sự thân thiết cho đến tận bây giờ, khi đều đã có gia đình riêng của mình. Mẹ tôi luôn là trung tâm của cả nhà, và bây giờ vẫn vậy, với những đứa cháu ngày một đông. Cuộc sống đôi lúc trở nên cực kỳ khó khăn, đúng vậy, nhưng mẹ tôi luôn là người đứng ra hòa giải tất cả. Nếu tôi có một trận đấu tồi tệ, tôi sẽ chọn giải pháp than thở với mẹ hơn là với bố. Vì tôi biết chắc, bố sẽ tiếp tục nói rằng tôi đã không làm tốt, và tôi sẽ lại càng dằn vặt về điều đó. Nhưng mẹ thì không như thế. Bà hầu như không nói về bóng đá với tôi, nhưng chính những cuộc đối thoại như vậy giúp tôi lấy lại cân bằng trong cuộc sống. Tôi biết, điều đó không có nghĩa là bà hoàn toàn không hề để tâm đến bóng đá. Bà từng cãi nhau to với anh rể của mình - Harry Redknapp - vì đã không cho tôi ra sân. Tất nhiên là không phải những câu đại loại như: “Tại sao con trai tôi lại không được ra sân?” Ngược lại, bà sẽ chỉ ra rằng hàng tiền vệ của đội bóng hiện tại đang không được tốt, và Harry sẽ nhanh chóng hiểu ra vấn đề. Vào một ngày, ông ngoại tôi - người mà tôi hay gọi là Pop - đã đến nhà của Harry để ăn tối. Trong khi ăn, ông bắt đầu nói chuyện về bóng đá, cốt là để hỏi vì sao tôi lại không được thi đấu. Cuối cùng, ông đã mất kiên nhẫn và hỏi thẳng bác Harry rằng: “Tại sao Frank bé nhỏ của ta lại không được thi đấu chứ, Harry?” “Con đã nói rồi, thưa bố. Cháu trai bố không phải là Maradona.” Harry trả lời. Tôi rất thích câu trả lời đó. Nghe những câu chuyện như vậy phần nào khiến tôi hiểu được tình cảm của gia đình dành cho mình. Tôi vô cùng tự hào khi được xuất thân từ một gia đình yêu bóng đá như vậy, và không ngần ngại thể hiện điều đó. Chúng tôi đang ngồi ở khách sạn Royal Lancaster vào cái đêm mà tôi được bầu chọn làm Cầu thủ của năm do Hiệp hội Nhà báo Anh bầu chọn vào năm 2005, cùng với một nhà báo. Tay đó cứ thao thao bất tuyệt về những thành tựu của tôi. Mẹ tôi ngồi nghe, gật đầu, và chờ đến khi anh ta kết thúc bài diễn thuyết của mình, bà mới nói: “Không phải lúc nào anh cũng nói về con trai tôi như thế đúng không?” Cả mẹ và tôi đều không thích tranh luận. Nhưng khi những đứa con của bà cần được bảo vệ thì mẹ tôi sẽ làm mọi thứ mà bà cho là đúng. Tôi chỉ có duy nhất một lần to tiếng với mẹ mình. Quay ngược lại thời gian, hồi đó tôi chỉ là một thằng nhóc ương ngạnh thích làm những thứ mà mẹ cấm đoán. Chúng tôi lời qua tiếng lại trong suốt 20 phút, nhưng kết quả cuối cùng là tôi phải hứa rằng sẽ không bao giờ to tiếng với mẹ nữa. Và quả là không bao giờ thật, kể cả những lúc tồi tệ nhất. Khi báo chí đưa một bài viết nói về việc tôi và một vài cầu thủ khác đi nghỉ ở Ayia Napa, mẹ đã không hề trách mắng tôi. Còn bố tôi thì có đấy. Tôi sẽ không tiết lộ cho các bạn biết ông đã nói gì đâu. Nhưng tôi nhớ cực kỳ rõ những gì đã xảy đến với mẹ. Tôi ngồi yên trong nhà tắm, và cảm thấy hối hận với chính mình. Sau đó, mẹ tôi đã gọi điện bảo rằng những cầu thủ đã vướng vào những chuyện như thế này sẽ đi xuống rất nhanh. Bà không hề biểu lộ ra bên ngoài, nhưng qua giọng nói, tôi biết bà đã buồn như thế nào. Tôi phải khẳng định rằng những phản ứng của mẹ tôi có ảnh hưởng đến tôi lớn hơn bất cứ điều gì khác trên đời này. Tôi thấy vô cùng tự hào vì những gì đã có được từ bố mẹ. Quan điểm, tính cách và sự nhạy cảm đã hình thành nên một “tôi” của bây giờ. Tôi sẽ không bao giờ có thể trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp nếu không nhờ vào công lao của bố. Bạn sẽ thấy tôi ở giữa những thứ đó. Tôi luôn lo ngại rằng mình sẽ không làm được, và bây giờ, khi nhìn vào những thành tựu mà tôi có được, tôi lại đâm lo lắng. Tôi biết rằng mình sẽ không bao giờ thoát khỏi cái mác “con trai của ai đó, cháu của ai đó” từ hồi tôi còn ở Upton Park. Thật khó để thoát ra khỏi cái bóng của người khác. Tôi đã từng luôn nghi ngờ chính bản thân mình, nhưng giờ đây thì đã hoàn toàn khác. Tôi biết gia đình đã và đang tự hào về tôi như thế nào. Và, ở chiều ngược lại, tôi cũng tự hào về họ, y như vậy. Chương 2 HỌC VIỆN BÓNG ĐÁ Đ ược đặt chân vào “Học viện Bóng đá” không như những gì tôi đã tưởng tượng. West Ham United từng là niềm tự hào trong việc sản sinh ra những cầu thủ chất lượng và thành công nhất của bóng đá Anh. Trong “kho thành tích” đồ sộ của họ có thể kể đến John Bond, Martin Peters, Geoff Hurst và dĩ nhiên không thể thiếu Bobby Moore. Ngày nay, họ vẫn tiếp nối truyền thống ấy. Ba trong số những cầu thủ kể trên đã từng là linh hồn của tuyển Anh vô địch World Cup năm 1966 và những gì họ đạt được đã giúp cho chiếc áo màu vang đỏ pha xanh lam trở thành một biểu tượng của tất cả những gì vĩ đại nhất trong bóng đá. Bố tôi và bác Harry đã từng thi đấu tại đây cùng với Bobby Moore dưới thời huấn luyện viên Ron Greenwood và từ bé, tôi đã được nghe rất nhiều câu chuyện về thời kỳ huy hoàng đó. Bà tôi sống cách Upton Park khoảng một dặm. Hồi đó, khi tôi chưa ra đời, bà từng tới sân xem bố tôi thi đấu. Lúc ấy, bà khá nổi tiếng trong số các cổ động viên của câu lạc bộ. Có những người hồi bé từng được bà cho kẹo và đến bây giờ vẫn rất tôn trọng bà. Tôi và các chị cũng có mặt trong đám trẻ ngày ấy. Khi lớn hơn một chút, thỉnh thoảng tôi vẫn hay mang cho bà ít bánh và khoai nghiền khi thi đấu. Một số dịp khác, bà thường làm cho tôi bánh kẹp với dưa muối và phô mai mỗi khi tôi ghé thăm. Chúng tôi cũng hay bàn luận về bóng đá và kể những câu chuyện trong gia đình. Bà tôi là hàng xóm của West Ham và bà cũng lớn lên cùng câu lạc bộ. Mẹ và bác tôi cũng thế, rồi đến khi lấy chồng, đó không chỉ là hôn nhân bình thường: họ đã “cưới” cả West Ham về nhà. Không có điều gì lạ ở đây cả. Khi bạn lớn lên trong một cộng đồng có tình yêu sâu đậm với câu lạc bộ địa phương như West Ham, bạn sẽ thấy gia đình và bóng đá gắn liền với nhau như vợ chồng vậy. Tôi và các chị đều sở hữu sự trung thành ấy, và chúng tôi luôn ủng hộ câu lạc bộ hết mình. Xung quanh nhà của chúng tôi chứa đầy những kỷ vật nhỏ, giúp cho một đứa trẻ sinh vào khoảng giữa hai chức vô địch FA Cup 1975 và 1980 như tôi có thể hình dung những thước phim xưa cũ một cách dễ dàng hơn. Tôi đã xem đi xem lại những bức ảnh đó cả nghìn lần và vẫn hỏi đi hỏi lại bố tôi rằng cảm giác được chơi cho West Ham như thế nào. Ban ngày, tôi cố gắng cải thiện kỹ năng chơi bóng của mình để cống hiến cho đội và khi đêm xuống, tôi mơ về ngày mà sẽ được theo bước chân của bố và khoác chiếc áo West Ham lên người. Giấc mơ hoàn hảo là thế, nhưng thực tế thì không được như vậy. Jamie được khoác lên mình bộ đồng phục của câu lạc bộ trước tôi. Bác Harry muốn vậy vì đây là nơi bác ấy đã trau dồi kỹ năng của mình, và với truyền thống gia đình như thế, việc anh ấy gia nhập West Ham cũng không có gì quá lạ lùng. Dù sao thì, “một giọt máu đào vẫn hơn ao nước lã” mà. Dù vậy, Jamie lại không tỏ ra ấn tượng lắm với những gì phát hiện được ở West Ham. Eddie Bailey lúc đó là trưởng bộ phận đào tạo trẻ ở câu lạc bộ và trớ trêu ở chỗ là họ lại thích tìm những người cổ hủ làm công tác phát triển tài năng trẻ. Công tác huấn luyện thấp hơn kỳ vọng và không hề hướng vào việc phát triển hay nuôi dưỡng tài năng. Những người dẫn dắt đội thì còn già hơn thế và có vẻ như họ vẫn dùng đi dùng lại một phương pháp huấn luyện đã sản sinh ra những cầu thủ như bố tôi, Trevor Brooking và Paul Allen. Cũng ổn thôi nhưng vấn đề là ở chỗ bóng đá đã và đang có những thay đổi chóng mặt trong khía cạnh thể lực, phát triển cơ bắp và huấn luyện kỹ thuật. Thời điểm đó là năm 1994. Những khía cạnh trên đều rất quan trọng, và với đội ngũ huấn luyện viên kém cỏi như thế, câu lạc bộ khó lòng tồn tại nếu không nhờ vào tình yêu sâu đậm của các cầu thủ cũng như hàng nghìn cổ động viên trung thành đến sân xem họ thi đấu hằng tuần. Mọi người luôn xem West Ham như một câu lạc bộ gia đình vậy. Triết lý ở đây cho rằng bạn phải tự lo cho chính mình. Tuy nhiên, điều đó đã không còn phù hợp với các cầu thủ trẻ. Jamie có óc quan sát khá tốt và đã nhanh chóng đi đến kết luận rằng mình không thể học được những thứ bản thân cần ở nơi này. Anh ấy là một cầu thủ tài năng, không ngại khó ngại khổ để phát triển bản thân, nhưng cuối cùng thì anh vẫn rời khỏi đây để gia nhập học viện của Tottenham và ký vào bản kế hoạch đào tạo trẻ ở đó. Lúc đó tôi khá bất ngờ về quyết định này. Tôi không rõ bác Harry có sốc hay không, nhưng bác tôn trọng quyết định của con trai. Sau này tôi có hỏi Jamie, anh trả lời là do không thích thái độ của câu lạc bộ. Chính tôi cũng đã lờ mờ phát hiện ra điều đó từ khi mới gia nhập. Mỗi khi hỏi họ vì sao tôi nên cống hiến cho họ thay vì câu lạc bộ khác, câu trả lời có thể khác nhau nhưng vẫn cùng một ý chính: Chúng tôi có truyền thống sử dụng cầu thủ “cây nhà lá vườn”; chúng tôi trao cơ hội cho cầu thủ trẻ nhiều hơn, sớm hơn. West Ham là Học viện của Bóng đá. Tuy vậy, ngay lúc ấy tôi cảm thấy lời Jamie không thuyết phục cho lắm. Tất nhiên, anh ấy đã rẽ sang hướng khác. Còn tôi thì ở lại thi đấu cho đội trẻ West Ham trong vài năm và đã trải qua chế độ luyện tập khá khắc nghiệt. Tôi cũng từng tới xem Tottenham và Arsenal, nơi mà việc luyện tập chủ yếu để phát triển kỹ thuật, và cho rằng tôi cũng đang phát triển kỹ năng của mình rồi. Ngoài ra, còn có nhiều lý do quan trọng khác. Phần lớn những đứa trẻ 16 tuổi đều cảm thấy bất an về việc liệu mình có thành công hay không. Bạn cần phải được chỉ bảo, động viên, nuôi dưỡng tinh thần. Ở Arsenal, tôi thu hút được khá nhiều sự chú ý từ nhiều người, trong đó có thể kể đến Steve Rowley, một người đầy kinh nghiệm đang làm trưởng bộ phận tìm kiếm tài năng trẻ. Lúc ấy, ông thường tới đón tôi đến xem các trận đấu ở sân tập của Arsenal tại London Colney và tôi vẫn nhớ rằng mình thích đến Arsenal chỉ vì cảm thấy mình được chăm sóc quá kỹ lưỡng ở đây. Họ cực kỳ chuyên nghiệp nhưng hơn hết, điều làm nên sự khác biệt nơi họ chính là cách họ đối xử với từng cá nhân, khiến tôi luôn cảm thấy mình được coi trọng. Họ thể hiện sự quan tâm bằng những điều nhỏ nhặt. Steve đưa tôi đi ăn tối sau mỗi trận đấu - thường là xúc xích và khoai tây chiên - và nói về những gì đã xảy ra trên sân hôm nay, tôi đã làm tốt điều gì, tôi cần cải thiện chỗ nào. Sau đó, ông ấy tới nhà và kể cho bố mẹ rằng hôm nay tôi đã tiến bộ ra sao. Cách nói chuyện của ông ấy chứa đựng sự quan tâm, khiến tôi cảm thấy rằng Arsenal là nơi khiến cầu thủ trẻ phát triển tốt nhất. Ông tìm ra tôi và đã dành rất nhiều thời gian cho tôi. Nhưng tôi biết mình không phải duy nhất. Ông ấy cũng làm điều tương tự với nhiều đứa trẻ khác và đó là lý do vì sao ông thành công tại Arsenal. Tất cả những điều này trái ngược hoàn toàn với trải nghiệm của tôi tại West Ham và tôi đã bắt đầu tự hỏi, liệu mình có đang nhận được sự ủng hộ mà mình cần ở đó hay không. Nói một cách nào đó thì, tôi chả phải tốn quá nhiều chất xám để có thể nhận thấy những cầu thủ giỏi như Tony Adams và Ray Parlour đều chọn đến Arsenal. Cả hai đều là những cầu thủ đến từ Essex. Ray cũng sống ở khu Romford như tôi. Cả hai đều là cổ động viên của West Ham cũng như gia đình họ và cả hai đều đã từng thi đấu ở cấp độ trẻ cho câu lạc bộ. Nhưng đều không ký hợp đồng với câu lạc bộ. John Terry nhỏ hơn tôi vài tuổi, cũng đã ăn ngủ cùng West Ham như gia đình và bạn bè của cậu ta. Bố tôi vẫn nhớ hồi đó cậu ta tập luyện và thi đấu cho câu lạc bộ tới năm 14 tuổi rồi chuyển đến Chelsea. Nhiều người khác cũng vậy. Có người đến, có người đi và có người ở lại. Cuộc sống mà. Tôi không nghĩ mọi chuyện sẽ khác nếu câu lạc bộ bớt kiêu ngạo đi. Thời điểm đó, Billy Bonds là quản lý của đội, bác Harry là một huấn luyện viên còn bố tôi làm tuyển trạch viên bán thời gian. Không ai dính dáng trực tiếp vào đội trẻ. Đến lúc phải quyết định ký hợp đồng với câu lạc bộ nào, tôi đã thực sự khó xử. Tôi đã có suy nghĩ cực kỳ nghiêm túc về việc gia nhập Tottenham. Công tác huấn luyện ở đó tốt hơn hẳn, họ là đội đầu tiên để mắt đến tôi và tôi cũng có người quen trong đó – Jamie, mặc dù sau đó anh ấy quay lại Bournemouth để thử việc vì nhớ nhà. Tôi cũng từng thấy nhiều cầu thủ giỏi trong khu mình sống chuyển sang Spurs thi đấu. Không những thế, họ còn vừa có một khu huấn luyện mới. Phải thú thực là tôi đã bị nơi đó cuốn hút rất nhiều. Họ thậm chí còn trả nhiều tiền hơn. Thực tế thì Arsenal cũng đưa ra một bản hợp đồng tốt hơn West Ham, tuy vậy, khả năng tài chính của họ và West Ham lại không khác biệt nhiều lắm. Tóm lại, tiền bạc với tôi không bao giờ là nhân tố quyết định. Tôi đã là một cổ động viên West Ham ngay từ khi còn bé. Bố cảm thấy được sự đắn đo trong tôi và đã nhờ Jimmy Neighbour tới nói chuyện với tôi. Jimmy lúc đó phụ trách đội trẻ của West Ham và cũng đã từng là một cầu thủ chạy cánh giàu kỹ thuật. Ông tới nhà và ngồi nói chuyện với tôi. Lúc ấy, tôi hoàn toàn không biết rằng ông ấy tới theo yêu cầu của bố. Ông bảo rằng câu lạc bộ biết tôi đang được săn đón và ông không cảm thấy bất ngờ về chuyện đó, rằng tôi là một cầu thủ trẻ có tiềm năng trở thành một cầu thủ giỏi trong tương lai. Thực sự tôi rất vui khi nghe những lời đó. Mặc dù phải đợi mãi mới được để mắt đến, nhưng thà muộn còn hơn không, và may mắn trong trường hợp của tôi là vừa đúng lúc, không sớm không muộn. Phải đến bây giờ tôi mới thực sự nhận ra rằng quyết định gia nhập West Ham hoàn toàn là do cảm xúc chi phối chứ không phải là lý trí hay thậm chí là lý trí về bóng đá. Bố tôi nhúng tay khá sâu vào việc này. Ông đặt áp lực lên vai tôi mặc dù ông để cho tôi tự quyết định nhiều nhất có thể. Ông hài hước ở điểm đó. Ông luôn nói đó là cuộc đời tôi, sự nghiệp của tôi, và tôi nên làm những gì mà tôi cảm thấy đúng đắn. Rồi sau đó, nếu ông cảm thấy tôi đang đi xa khỏi những gì mà ông cho là đúng thì ông sẽ can thiệp, chẳng hạn như nhờ Jimmy Neighbour đến nói chuyện với tôi. Thực sự là như thế. Ông có lý khi bảo tôi sẽ được vào đội chính nhanh hơn nếu gia nhập West Ham vì tiêu chuẩn ở đó không quá cao và vô vàn những lý do mà tôi nên đá cho West Ham - toàn những lý do đầy sức thuyết phục cả. Bản hợp đồng đào tạo trẻ đầu tiên mà tôi ký đã đưa về cho tôi 30 Bảng mỗi tuần và 50 Bảng cho mẹ tôi để chi trả chi phí chỗ ở của tôi. Thời điểm đó, tôi đã bắt đầu biết ra ngoài chơi và số tiền đó thường sẽ “bốc hơi” trong một buổi tối. May mắn là mẹ tôi thường dúi thêm cho tôi một ít để tiêu, dù số tiền không quá nhiều. Bà vẫn luôn tuyệt vời như thế. Bản hợp đồng mà tôi đã ký lúc đó có kèm theo điều khoản là nếu làm tốt, tôi sẽ được lên chuyên nghiệp ở tuổi 17. Khác biệt quá lớn. Hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của tôi với West Ham mang về cho tôi mức lương 500 Bảng/tuần, tăng lên 550 Bảng vào năm sau và 600 Bảng vào năm sau nữa. Nhưng tiền không phải là vấn đề quá lớn. Một vài người bạn tôi đã từng chơi chung hồi còn ở đội trẻ cũng đã được ký hợp đồng: Lee Hodges, Danny Ship, và cả những người khác. Tôi được ở cùng bạn bè và cảm thấy như mình đang ở nhà. May mắn cho West Ham, khi bố tôi và bác Harry lên nắm đội thay cho Billy Bonds, họ cũng đã nắm được điểm yếu trong công tác đào tạo trẻ và đã xử lý được vấn đề. Mọi thứ được sắp xếp ổn thỏa và toàn bộ đội ngũ vận hành cần phải quan tâm đến từng cá nhân, thứ vẫn còn thiếu trước đây. Cả hai người họ đều giỏi trong việc này - chăm sóc người khác là điều đã ăn vào máu của họ rồi. Gần như ngay lập tức, họ tới nhà Joe Cole để bàn bạc về tương lai của cậu ấy. Joe được nhiều người công nhận là cậu bé tiềm năng nhất trong đám trẻ cùng trang lứa và được gần như tất cả các câu lạc bộ trong nước biết tới. Không như tôi, Joe không sống ở West Ham mà tới từ Camden, nên cậu ta không thực sự có mối liên kết nào với câu lạc bộ. Bố tôi cùng bác Harry nhận ra rằng họ không thể dùng những sợi dây liên kết nào để lôi kéo cậu ta cả. Về điểm này họ khá nhạy cảm, và cũng khá biết cách thuyết phục người khác. West Ham có lẽ là nơi ít thu hút sự chú ý của Joe nhất, nhưng bù lại, họ biết cách tỏ ra quan tâm khi nói chuyện với cậu ta và gia đình về quyết định nên đầu quân cho nơi nào. Họ đều đã trải qua cảm giác có con trai từng phải đối mặt với sự lựa chọn và các ông bố, bà mẹ phải giúp con mình khi thời điểm quyết định đến. Lần này, những thứ nhỏ nhặt lại đóng vai trò quan trọng. Joe được mời đến một trận sân khách và ngồi trên băng ghế của đội Một. Cậu ta được trở thành một phần của đội trong một ngày, điều mà mọi đứa trẻ đều ao ước - mặc dù với câu lạc bộ thì chẳng đáng là bao. Nhưng không quan trọng. Các dấu hiệu đều chỉ đúng hướng và đó là điều quan trọng nhất. Họ đã thuyết phục được West Ham và đưa Tony Carr lên làm huấn luyện viên đội trẻ. Vài năm sau khi tôi ký hợp đồng, tôi và Rio đã có cơ hội “gõ cửa” đội Một. Cuối cùng thì, họ cũng đã thực hiện lời hứa rằng câu lạc bộ này có quan tâm tới thế hệ sau. Rằng họ trao cho các cầu thủ trẻ cơ hội. Họ đưa West Ham trở về cái gốc ban đầu và một lần nữa biến nó thành một câu lạc bộ gia đình. Điều này đã từng bị lãng quên ở đâu đó. Nhiều người có thể lấy làm lạ vì một nơi chuyên sản sinh ra các tài năng bóng đá như Upton Park lại không có tài năng nào xuất hiện trong một khoảng thời gian dài. Dưới thời của bố tôi và bác Harry, mọi thứ đã thay đổi. Ngoài tôi ra, còn Rio, Joe Cole, Michael Carrick, Jermain Defoe, rồi sau đó là Glen Johnson, tất cả đều bước chân vào và biến West Ham trở thành một đội bóng hoàn hảo. Trong số đó, Rio và Joe là hai cầu thủ sở hữu tài năng nổi trội nhất. Rio nhỉnh hơn vì cậu ta có đủ thể lực để thành công nhanh hơn. Joe phải cố gắng hơn nhiều về khoản đó và thậm chí đến bây giờ vẫn còn phải cố gắng. Carrick có lẽ là cầu thủ có kỹ thuật thiên bẩm tốt nhất nhóm, còn Defoe thì không khác gì một cỗ máy săn bàn chính hiệu. Rio và tôi từng bàn luận về điều đó trên tuyển Anh và nó khiến tôi thắc mắc không biết mình nằm vào nhóm nào. Tôi đoán có lẽ đâu đó ở khoảng giữa. Tôi có một ít tài lẻ, chút kỹ thuật và cũng có thể ghi được vài bàn. Rio đồng tình và tôi cho rằng những gì mình ước tính là đúng, khi so sánh khả năng hiện tại của tôi với hồi đó. Còn với West Ham, họ đã có một khoảng thời gian tuyệt vời với lứa cầu thủ trẻ cực kỳ tài năng. Mặc dù sau đó các cầu thủ lần lượt rời đi nhưng câu lạc bộ cũng thu lời kha khá trên thị trường chuyển nhượng. Tuy nhiên, đó lại là một câu chuyện khác. Ngày ký hợp đồng, tôi không giấu nổi niềm hạnh phúc. Cuối cùng thì tôi đã được thỏa mãn ước mơ từ thuở bé. Sau nhiều năm ăn, uống, ngủ, nghỉ cùng bóng đá, giờ đây tôi đã được trả tiền để tiếp tục làm những điều đó. Đó là một cảm giác không thể tuyệt vời hơn. Năm đầu tiên trong đội trẻ hội tụ đủ những thứ hay ho nhất trong bóng đá. Bạn có một cộng đồng nhỏ gồm toàn những đồng đội, vẫn còn cách rất xa thế giới đầy cạnh tranh của đội Một và con đường thi đấu chuyên nghiệp. Đây là khoảng thời gian mà trường học cũng là nơi bạn làm việc, khi mà các yếu tố của cả hai môi trường cùng hiện diện trong một chỗ. Chúng tôi luyện tập với suy nghĩ rằng đây vừa là một phần công việc và cũng là bài tập của mình nữa. Ngoài ra, chúng tôi cũng phải làm những việc vặt khác nhưng tôi không bận tâm đến chuyện đó cho lắm. Giờ tôi là cầu thủ rồi, một cầu thủ West Ham. Tuy vậy, cảm giác phấn khích ấy nhanh chóng bị đánh bay sau loạt trận giao hữu trước mùa giải đầu tiên của tôi. Billy Bonds vẫn luôn “mát tay” với các cầu thủ trẻ. Ông ấy biết tên của bạn, cách bạn hòa nhập với đội, đôi khi ông ấy còn đùa vui với bạn nữa. Xui xẻo thay, ông ấy cũng là một gã chạy đường dài rất giỏi. Thực tế thì ông ấy chạy tốt hơn bất cứ ai trong đội. Chạy ư? Ông ấy là người giỏi nhất và luôn thích khoe điều đó ra. Mọi cầu thủ đều đồng ý rằng chạy đi chạy lại không ngừng hết dặm này đến dặm khác là một cực hình chán ngắt trong đợt chuẩn bị trước mùa giải, và nó cũng là việc mà phần lớn chúng tôi đều ghét. Tôi từng là người chạy khá ở trường và không quá quan tâm về vấn đề này, nhưng thực tế tôi biết một vài cầu thủ thà đi dọn nhà vệ sinh trong sân vận động sau trận đấu còn hơn tham gia chạy với Billy. Chúng tôi từng phải chạy xuyên rừng Hainault, lên đồi, xuống đồi, rồi vượt suối. Sau đó chúng tôi phải tiếp tục với khu rừng Epping và trong những lần như thế, Billy thường sẽ vượt lên dẫn đầu, sau đó lại chạy về phía sau để “động viên” nhóm cuối. Ông ấy quá đỉnh - như Steve Ovett trong đôi giày đá bóng vậy. Thường thì tôi sẽ cố hoàn thành bài chạy đó nhưng lần này tôi đã kiệt sức. Chân tôi tê cứng như bê tông. Ở trường, tôi chưa bao giờ như thế cả. Thường thì bạn có thể dừng, báo với giáo viên rằng bạn không thể tiếp tục nữa, và họ sẽ lắng nghe. Nhưng ở đây thì không. Ở đây không khác gì trại lính và bạn không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục. Mọi thứ cứ tiếp diễn như thế khoảng hai đến ba tuần liền. Các bài tập quá khắc nghiệt và tôi nhanh chóng nhận ra rằng mình đang bước vào một thế giới khác, nơi không có cậu bé nào tồn tại cả, chỉ có đàn ông thôi. Thường thì bạn sẽ thích nghi với nó nhưng tôi không thể ngừng nghĩ rằng nó quá cổ hủ. Claudio Ranieri cũng là một “fan cứng” của bộ môn chạy nhưng ông không khó khăn đến thế. Chỉ tới khi Jose Mourinho trở thành huấn luyện viên của Chelsea thì tôi mới nhận ra rằng cắm đầu cắm cổ chạy trong các buổi tập huấn mùa hè không phải là điều kiện tiên quyết cho một mùa giải thành công. Huấn luyện viên thể lực của chúng tôi là Rui Faria đã nói thế này: “Nếu tôi làm việc với một nghệ sĩ chơi đàn, tại sao tôi lại phải bắt cậu ta đàn liên tục tới khi kiệt sức? Liệu điều đó có biến cậu ta thành một nghệ sĩ giỏi hơn không?” Tôi không biết những bài chạy xuyên quốc gia đó sau này có giúp tôi đá bóng giỏi hơn hay không, nhưng lúc đó tôi chỉ biết cắn răng mà tiếp tục. Dù vậy, nó vẫn giúp tôi phát triển thể lực và tạo nên một ngưỡng mới cho chính bản thân mình, và đó là những lợi ích vô giá. Chúng tôi chuyển sang chạy nước rút và khi quả bóng được đưa vào các buổi tập, lại càng có nhiều bài tập hơn nữa. Chúng tôi phải tập đánh đầu và vô-lê liên tục, chạy với bóng, và chuyền, và sút. Phải thế chứ. Đây mới đúng là thứ mà tôi đã chờ đợi. Tony Carr là huấn luyện viên của chúng tôi và ông khá tốt với tôi. Giọng ông khi nói chuyện luôn ở mức vừa phải. Ông không bao giờ tỏ ra ưu ái tôi và khi cần phải lên giọng với tôi, ông luôn sẵn sàng. Tôi trân trọng điều đó. Tôi đã tưởng là mình sẽ rơi vào tình huống khó xử khi là “con ông cháu cha” trong đội nhưng may mắn là ông ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tony khá cứng nhắc về sinh hoạt của các cầu thủ trẻ và luôn yêu cầu bọn tôi bắt đầu buổi tập một tiếng trước khi các cầu thủ đội Một đến sân. Vào các ngày thứ Hai và thứ Tư, chúng tôi đều phải chạy hơn một dặm, tức là tương đương với khoảng năm vòng quanh sân. Chúng tôi đến lúc tám rưỡi sáng và tới chín giờ là đã yên vị trên sân tập rồi. Đó là một công việc khá khó khăn. Thường thì chúng tôi sẽ có trận đấu vào thứ Bảy và được nghỉ ngày Chủ nhật nên việc phải bắt đầu tuần mới bằng những bài chạy với cự ly như thế thực sự không có tí gì gọi là thú vị cả. Hoàn toàn không có một chút xả hơi thư giãn nào. Sau đó, chúng tôi sẽ lại quay về phòng thay đồ để chuẩn bị đồ tập cho các cầu thủ đội Một và làm sạch những đôi giày. Rồi sau đó lại phải ra sân sắp xếp chướng ngại trong khi các “đàn anh” thay đồ bên trong. Đó đều là phần nhỏ trong những công việc hằng ngày, mặc dù tôi phải thú nhận, công việc tồi tệ nhất vẫn là đi nhặt bóng sau khi bọn họ tập xong. Chủ yếu do Julian Dicks có sở thích kỳ lạ là sút bóng càng xa càng tốt. Ai từng xem sẽ thấy rằng Dicksy có những cú sút như một đoàn tàu tốc hành vậy. Anh ấy cũng không hề có dấu hiệu chậm lại khi liên tục “bắn” những quả bóng tới các góc sân tập. Anh ấy còn có khiếu hài hước cực dị nữa. Khi chúng tôi đã thu lượm lại gần hết số bóng, anh ấy bắt đầu quay lại và sút chúng đi khắp nơi thêm lần nữa. Nếu có quả bóng nào thất lạc, chúng tôi phải cử hẳn một đội ngũ sục sạo khắp khu vực hàng rào quanh sân tập để tìm chúng. Tôi thích làm các công việc quanh sân tập. Theo truyền thống thì mỗi cầu thủ tập sự đều được “giao phó” cho một vài đôi giày của cầu thủ chuyên nghiệp, với nhiệm vụ là không để chúng còn bám bẩn. Tôi được giao cho giày của Dicksy và Lee Chapman. Dicksy đặc biệt khắt khe và nếu anh ấy phát hiện một vết bẩn nhỏ trên giày của mình, anh ấy sẽ gọi bạn vào, ném chúng vào bạn. Với chúng tôi, điều quan trọng nhất của công việc đó chính là khoản thưởng Giáng sinh, khi mà các cầu thủ chuyên nghiệp - với một khoản lương khổng lồ - sẽ cho chúng tôi thêm vài Bảng sau cả năm làm việc chăm chỉ. Tôi đã được hứa hẹn như thế. Dicksy đã gặp tôi trước thềm mùa giải mới và bảo rằng nếu tôi làm việc tốt, anh ấy sẽ có thưởng xứng đáng vào cuối năm. Tôi hứa với anh ấy và anh ấy cũng giữ đúng lời hứa của mình. Ngay trước lễ Giáng sinh, anh ấy gọi tôi lại và đưa cho tôi khoảng 100 Bảng. Tôi đã khá sốc. Số tiền quá lớn với tôi nhưng Dicksy là một cầu thủ hào phóng và tỏ ra tôn trọng với những người mà anh ấy cho là đã làm tốt công việc của mình. Dù vậy, tôi chưa bao giờ dám nghĩ là anh ấy sẽ trả cho tôi hậu hĩnh như thế. Kỳ vọng và tiêu chuẩn của tôi bắt đầu tăng lên. Lee Chapman là một trong những cầu thủ hưởng lương cao nhất câu lạc bộ và tôi đã lau chùi, kỳ cọ đôi giày của anh ấy cho tới khi da ngón tay của mình bị bong tróc. Kết quả là anh ấy cho tôi 20 Bảng. Đúng là xui xẻo, nhưng tôi không than phiền được. Sao tôi dám chứ? Đó là những cầu thủ tôi luôn lấy làm hình mẫu và họ chỉ cần gọi tên tôi một lần thôi là tôi đã cảm thấy sung sướng cả ngày rồi. Vậy nên bây giờ, khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, tôi vẫn luôn cố làm điều đó với các cầu thủ trẻ - tôi cố nhớ tên họ và dành một chút thời gian cho họ. Tôi từng là một cầu thủ trẻ như họ và tôi vẫn chưa quên cảm giác lúc đó như thế nào. Dicksy đôi lúc có thể khiến tôi khó chịu nhưng anh ấy thực sự không cố ý như thế. Tôi cũng không để bụng vì ít ra là anh ấy còn chú ý đến tôi. Dù sao, Dicksy cũng là một huyền thoại. Nói anh ấy có một cái chân trái tuyệt đẹp thì chẳng khác nào bảo Paolo Maldini chỉ là một hậu vệ tạm ổn cả. Trước mỗi buổi tập, mọi người thường sẽ khởi động làm nóng người. Chủ yếu là giãn gân cốt và thả lỏng trước khi bài tập thực sự bắt đầu. Dicksy thì không. Anh ấy sẽ vác một bao đựng đầy bóng trên vai và đặt chúng trước khung thành. Trong khi chúng tôi đang khởi động thì anh ấy tung những cú sút và vô-lê cực hiểm về phía cầu môn. Trên sân đấu, anh ấy là một cầu thủ cực kỳ khó đối phó, mặc dù những cú sút của anh ấy chắc sẽ có nhiều uy lực hơn những pha phòng ngự. Tuy vậy, anh ấy vẫn là một cầu thủ tuyệt vời. Anh ấy có khả năng đón bóng tốt và đánh bại nhiều cầu thủ đối phương. Với các cổ động viên, anh ấy là một thần tượng hoàn hảo - một đội trưởng đích thực. Có thể đôi khi anh ấy đi hơi quá giới hạn, trước nay anh ấy vẫn thường tỏ ra khó khăn với người khác. Nhưng khi lớn hơn một chút, tôi nhận ra anh ấy là người khá nhạy cảm. Anh ấy có những nét riêng của mình. Anh ấy độc lập, tự chủ và tôi thích điều đó. Một vài cầu thủ đội Một đối xử tốt với tôi vì nể bố tôi và bác Harry. Tôi không bao giờ biết họ có thực sự tốt như thế không. Nhưng Dicksy thì khác, nếu không thích, anh ấy vẫn bảo tôi “Cút đi” như với những người khác. Anh ấy cũng chẳng quan tâm kể cả nếu bố tôi có là chủ sở hữu câu lạc bộ đi chăng nữa. Tôi tôn trọng anh ấy vì điều đó. Lau chùi giày của anh ấy hay bất kỳ ai đều không phải là công việc tệ nhất chúng tôi từng làm. Chúng tôi từng phải dọn phòng ăn, hành lang, phòng thay đồ và lau chùi phòng tập thể hình khi mọi người rời khỏi. Sau đó, vào cuối ngày, chúng tôi phải ngồi trong phòng ăn chờ Tony Carr đi kiểm tra một lượt để xem mọi thứ có được dọn dẹp sạch sẽ hay không. Đây là thời điểm căng thẳng nhất mỗi ngày. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi vì chỉ cần một vết bẩn nhỏ thôi là chúng tôi sẽ phải ở lại sửa sai. Thực sự là đau khổ nếu có một ai đó không hoàn thành nhiệm vụ nhưng tôi hiểu điều đó. Đây là công việc đòi hỏi sự hợp tác và không được phép khiến đồng đội thất vọng. Thường thì chúng tôi ít khi bị bắt ở lại, nhưng nếu có thì thường là do lỗi của Rio. Vài năm sau, Sven-Goran Eriksson có lần gọi Rio là một người “hơi lười biếng”, nhưng ông ấy đã sai. Rio không phải là “hơi lười biếng”, mà là một kẻ “lười chảy thây” - tất nhiên là chỉ ở phạm vi ngoài sân bóng. Còn trong các buổi tập hay trong trận đấu, và cả trong lúc rảnh rỗi, tôi ít khi nào gặp được ai cống hiến hết mình như Rio. Ngày đó hay bây giờ, cậu ấy vẫn luôn như vậy. Chú tâm hoàn toàn vào bóng đá nhưng lại ghét làm việc vặt và vẫn thường tìm cách lẩn trốn khỏi các buổi dọn dẹp phòng tập. Đôi lúc cậu ấy trốn, đôi lúc lại nổi giận vì đôi giày của ai đó hay đống bừa bộn trong phòng tắm. Tôi thấy khá buồn cười. Lười việc vặt là thế nhưng lúc nào cậu ấy cũng được khen “ké” mỗi lần chúng tôi làm việc tốt. Nhiều lúc tôi cảm thấy buồn cười, còn Rio thì quá đáng yêu đến mức bạn thường làm luôn phần việc của cậu ấy trong khi cậu ấy pha trò cho bạn cười. Lúc đó chúng tôi đều vô tư và tôi thích thế. Giữa chúng tôi như có một sợi dây liên kết vô hình độc nhất vô nhị mà lúc đó tôi không hề nhận biết được. Sợi dây đó thiết lập trên sự phấn khích của những ngày đầu trong chuyến hành trình dài của đời cầu thủ, và cả việc chúng tôi đang cùng nhau thực hiện ước mơ của bao nhiêu cậu nhóc ngày đó. Chúng tôi vẫn thường nghịch ngợm và đùa giỡn với nhau trong lúc tập luyện, và cả lúc làm những công việc hằng ngày nữa. Rio và tôi trở thành bạn tốt ngay khi cậu ấy mới gia nhập West Ham. Cậu ấy được đưa vào đội của tôi gần như ngay lập tức và mặc dù còn ít tuổi, cậu ấy vẫn thể hiện tốt và đã được đền đáp xứng đáng. Chúng tôi từng chơi một trò chơi tên là “D’s”, theo hình thức hai đấu hai, và đấu trong sảnh phòng tập của đội. Tôi, Rio, Hodgey và Joe Keith thân nhau như anh em vậy. Luật chơi khá đơn giản: bạn chỉ được chạm bóng đúng một lần để điều khiển nó, và người còn lại phải đá quả bóng đó về phía đối thủ đứng bên trong một chữ D được vẽ trên sàn. Trò chơi thì vui nhưng chúng tôi thì ganh đua từng tí một. Một người có thể dễ dàng “phá game” để rồi bị trêu chọc không ngừng suốt nhiều ngày sau đó. Chúng tôi thân nhau đến mức không ai muốn đứng ở vị trí nhận bóng cả. Hodgey vẫn luôn là người khỏe nhất trong chúng tôi ở năm đầu tiên đó. Cậu ấy có thể đá ở bất cứ vị trí nào trong hàng tiền vệ hoặc ngay phía sau tiền đạo. Cậu ấy khá khỏe và luôn là chủ đề bàn luận của mọi người thời điểm đó. Cậu ấy từng đá cho đội học sinh của Anh và là cầu thủ nổi trội hơn hẳn đám bọn tôi. Cậu ấy cũng là một cây săn bàn nhạy bén. Mà không chỉ là những bàn thắng bình thường. Cậu ấy như là Midas của đội vậy. Tất cả những cú sút của cậu ấy đều bay thẳng vào góc trên khung thành, từ khoảng cách gần 30 yard1, và thường là những quả vô-lê. Lúc cậu ấy phải giải nghệ sớm vì chấn thương đầu gối, tôi đã rất buồn, nhưng tôi vui vì chúng tôi vẫn là bạn tốt sau đó. [1] 1 yard = 0,9 mét. Đó là khoảng thời gian tuyệt vời, cả trong bóng đá lẫn đời sống xã hội mà một cậu nhóc tuổi 16, 17 như tôi đang háo hức khám phá. Chúng tôi thường đấu một trận vào sáng thứ Bảy rồi sau đó đi ăn trưa ở McDonald’s. Không hẳn là thực đơn giàu dinh dưỡng: chúng tôi thích ăn khoai chiên và bánh burger. Stan, tài xế xe bus, thường chở chúng tôi tới đó và đợi chúng tôi lấy đồ ăn, rồi chúng tôi sẽ ăn ngay trên xe trong khi tới sân vận động Upton Park. Đó là những ngày tuyệt vời nhất, khi West Ham thi đấu trên sân nhà và chúng tôi thường sẽ tới sân trước giờ bóng lăn vài tiếng. Vẫn trong giai đoạn thử việc nên chúng tôi được đi lòng vòng trong khu vực của các đội. Tôi rất thích không khí hào hứng trong phòng thay đồ và đường hầm trước giờ bóng lăn. Lúc đó sẽ có nhiều việc để làm: Người phụ trách trang phục của đội có thể cần trợ giúp hay một lời nói, thông điệp nào đó sẽ cần người chuyển lời hộ. Các khán đài bắt đầu đông dần và tiếng ồn có thể nghe từ khắp mọi nơi. Chúng như tiếp thêm năng lượng cho tôi. Nhìn các cầu thủ mặc áo đấu vào và bước ra sân trong khi đám đông hò hét và đồng thanh hát bài “I’m forever blowing bubbles”, tôi bắt đầu rơi vào trạng thái mơ mộng, tưởng tượng mình là một trong 11 con người chuẩn bị bước vào trận đấu sắp tới. Chỉ nghĩ thôi tôi đã nổi gai ốc và cảm thấy bồn chồn. Tôi nhanh chóng trở về mặt đất. Nếu đội đang thua vào giữa giờ hay tệ hơn là thua trận đấu đó, bạn phải cực kỳ cẩn trọng trước lời nói của mình. Bác Harry sẽ bước vào với một cái đầu bốc hỏa và nếu bắt gặp ai đó trong số chúng tôi lảng vảng xung quanh và cười cợt, đùa giỡn, bác sẽ quát: “Chúng mày cười cái quái gì thế?” Chúng tôi sẽ lập tức im bặt. Có thể bác thực sự khó chịu, nhưng dù sao chúng tôi cũng chỉ là những cậu nhóc thôi mà. Bác Harry không chỉ yêu bóng đá - bác thực sự sống cùng nó. Bác rất nghiêm túc khi đội thua cuộc và không bao giờ có thái độ khác dù bạn có ở đội Một hay đội trẻ. Đó như bản năng của bác vậy, trước nay vẫn thế. Tôi nhớ bác từng vào phòng tập thể hình khi chúng tôi đang chơi trò “D’s” và cười cợt với nhau. Hình như lúc đó bác đang khó chịu về một việc gì, nên đã cấm luôn chúng tôi chơi trò đó, đồng thời bắt đầu “lên lớp” chúng tôi: “Bọn mày lẽ ra phải đang ở ngoài tập luyện những thứ như đánh đầu chứ không phải chơi đùa ở trong này.” Theo bản năng, chúng tôi đều nhìn xuống chân. Đôi khi bác ấy tỏ ra lo lắng thái quá, nhưng lần này chúng tôi biết bác đã đúng. “D’s” đã trở thành một trò ngớ ngẩn quá mức của chúng tôi. Có thể nó tốt trong việc phát triển kỹ thuật chơi bóng nhưng chúng tôi lại bỏ quên những kỹ năng khác quan trọng không kém và cũng nhàm chán không kém. Harry rất giỏi trong những tình huống quyết định như thế. Bác luôn có giác quan thứ 6 với một số việc xảy ra xung quanh câu lạc bộ của mình, và giác quan ấy có được nhờ sự quan tâm chu đáo tới vấn đề vận hành ở tất cả các cấp độ. Quan trọng hơn, bác quen biết tất cả mọi người liên quan tới từng việc một, kể cả đội trẻ. Không cần biết bạn là cầu thủ đội Một, đội dự bị, ban huấn luyện hay phụ trách giặt giũ quần áo của đội, Harry vẫn đối xử tốt với bạn và luôn đảm bảo để bạn biết rằng mình quan trọng thế nào trong sự thành công của cả câu lạc bộ. Khi bác nặng lời như thế, chúng tôi nhận ra rằng đó là vì bác muốn điều tốt nhất cho chúng tôi, vì quan tâm chúng tôi. Bác khá giỏi trong việc cười đùa như một người bạn. Là những cầu thủ trẻ, chúng tôi lúc nào cũng muốn được bác chú ý tới, dù cho có phải đối mặt với cơn thịnh nộ, thì ít nhất cũng được đưa vào “tầm ngắm”. Khi ấy chúng tôi không hề biết việc quản lý và thi đấu cho đội Một áp lực như thế nào. Sau bài giáo huấn và Harry đã bỏ đi, chúng tôi sẽ về nhà và “lên đồ” để chuẩn bị ra ngoài chơi tối. Một trong những thứ hay ho ở đội trẻ đó là chúng tôi thường ra ngoài cùng nhau. Không có nhóm riêng, không có đánh lẻ. Chúng tôi khi ấy như có chung một tinh thần, một sợi dây kết nối độc nhất vô nhị. Chỉ tới bây giờ tôi mới nhận ra rằng đó là một trong những giai đoạn đẹp đẽ nhất sự nghiệp, cuộc sống không có những áp lực liên tục đè nặng lên vai như những gì tôi phải trải nghiệm sau này. Rio nhỏ hơn tôi một tuổi nên cậu ấy bắt đầu luyện tập cho đội trẻ muộn hơn tôi một năm. Vì thế, khi luyện tập, cậu ta luôn tỏ thái độ bất mãn với những bộ đồ và dụng cụ tập mà mình phải nhận. Cũng đáng thôi. Chưa kể cậu ấy luôn là người cuối cùng xuất hiện trong các buổi tối thứ Bảy vì cậu ấy phải đi đi về về xuyên thành phố từ Peckham. Hồi tưởng về những khoảnh khắc đáng nhớ trong đời mình bao giờ cũng dễ dàng. Mọi người đều có những kỷ niệm có thể gợi lên cảm xúc giúp các hình ảnh trong ký ức hiện lên rõ ràng hơn. Với tôi, các ngày thứ Bảy đều rất đặc biệt. Đến giờ vẫn vậy. Hãy thử tưởng tượng cảm giác của tôi, khi mỗi sáng thức dậy và biết mình được thi đấu cho câu lạc bộ mà mình yêu thích, sau đó đi xem câu lạc bộ đó thi đấu, và kết thúc một ngày bằng buổi tối bên những người bạn thân, trong vòng tay của những cô gái xinh đẹp… Bạn sẽ thấy nó tuyệt thế nào. Sống trong giấc mơ, tôi đã sống trong giấc mơ của mình như thế. Thủ môn đội tôi lúc ấy là Neil Finn (Finny). Cậu ấy cùng với tôi và Hodgey, là những “thủ lĩnh” của nhóm. Finny và tôi vẫn rất thân nhau. Cậu ấy không thể chen chân vào đội Một, nhưng vẫn được bắt chính một trận. Lúc đó cậu ấy mới chỉ 17 tuổi và chưa sẵn sàng cho bóng đá cấp độ cao như thế. Cậu ấy từng được đến sân của Manchester City để dự bị cho Ludo Miklosko. Ludo bị rút khỏi danh sách vào đêm trước trận đấu, và Finny được tung vào sân. Đó là một thành tựu “khủng” đối với cậu ấy, khi trở thành thủ môn trẻ nhất được bắt chính tại Ngoại hạng Anh thời điểm đó. Tôi đã nói chuyện với bố mẹ cậu ấy trước trận đấu và họ tỏ ra rất tự hào về cậu con trai của mình. Tôi hiểu cảm giác của họ, và tôi cũng thắc mắc, không rõ cậu ta căng thẳng đến mức nào trước giờ bóng lăn. Đó là khoảnh khắc khó quên của Finny và thú thực lúc đó tôi rất ghen tị với cậu ta. Tôi vẫn thường hay nhạo cậu ta (và đến giờ vẫn thế) vì trận đó họ thua 2-1 và Niall Quinn lập cú đúp. Lúc ấy Finny khom người định bắt bóng nhưng Niall đã lốp bóng qua người cậu ta. Tôi cho rằng đó là bàn thắng đẳng cấp nhất mà Niall từng ghi được và tôi không thể để Finny quên nó được. Giờ thì cậu ta chuyển sang đá giải không chuyên cho Romford, nhưng khuôn mặt cậu ta vẫn tròn trĩnh như ngày nào. Và mỗi khi tôi bắt đầu cà khịa về màn trình diễn này, cậu ta sẽ nhắc lại rằng ít ra mình từng được đứng trong đội ngũ đó, với tư cách là một thành viên của đội Một hôm ấy. Câu chuyện sắp tới đây có thể hơi khó nghe, nhưng thực sự hồi ấy tôi từng phải nhận khá nhiều lời chỉ trích, chủ yếu là nói xấu sau lưng. Tôi biết điều đó là khó tránh khỏi khi mà bố tôi và bác Harry đều ngồi ở những vị trí có tầm ảnh hưởng. Không thể nói là tôi hoàn toàn nhận thức được điều đó, đúng hơn là tôi có thể cảm nhận được chúng quanh mình, dù chỉ là những tranh cãi nhỏ nhặt với vài người trong đội. Tôi chưa bao giờ để chúng làm ảnh hưởng tới mình hay phải trói buộc những suy nghĩ rằng mình phải phản ứng thế nào. Phản ứng thế nào ư? Tôi chỉ cố lấy sự tôn trọng của họ bằng cách thi đấu với tất cả khả năng của mình. Trong khi đó, phản ứng của bố tôi lại khác. Thường thì ông sẽ chỉ trích tôi một chút nếu kết quả không tốt, nhằm giúp tôi tránh khỏi sự “chăm sóc đặc biệt” kia. Tôi hiểu điều đó. Và tôi cũng quen rồi. Điều tôi quan tâm là học hỏi nhiều nhất có thể và trở thành một cầu thủ tốt hơn. Đội trẻ của chúng tôi khi ấy khá tốt. Rất tốt là đằng khác. Chúng tôi vô địch giải năm ấy còn tôi thì ghi 25 bàn thắng ở vị trí tiền vệ trong mùa đầu tiên. Tôi cảm thấy thoải mái. Tôi vẫn luôn đá ở vị trí đó, dù ở đội trẻ này, mọi cầu thủ đều cố thử sức với các vị trí khác nhau. Tôi là ngoại lệ với quy luật đó. Tôi luôn đá tiền vệ trung tâm. Luôn luôn. Tôi nhớ có lúc Rio đá hậu vệ, có khi đá tiền đạo, còn tôi luôn luôn bám chặt vào những gì tôi đã biết. Giờ đây tôi có thể cảm nhận được ích lợi của trải nghiệm sớm đó. Tuy vậy, mọi thứ đang bắt đầu thay đổi. Tôi bắt đầu để ý đến bóng đá nhiều hơn ở cả khía cạnh tâm lý lẫn thể chất. Tôi đã nhận ra một điều cực kỳ quan trọng vào thời điểm đó, rằng tôi không muốn mãi chỉ là một cầu thủ nhỏ bé chỉ biết giữ bóng rồi chuyền cho đồng đội làm việc tiếp theo. Không, tôi muốn áp đảo ở vị trí của mình, luôn luôn tiến lên phía trước và ghi bàn. Khi còn thử việc, tôi cảm thấy hầu như mọi thứ đều khó khăn hơn những gì tôi đã trải nghiệm trước đây. Yêu cầu thể lực cũng khắt khe hơn và tôi cần phải tới phòng tập nâng cao thể hình và sức bền để có thể cạnh tranh với các đối thủ của mình. Bố tôi cứ lặp đi lặp lại rằng tôi cần phải biến những thứ cơ bản của một tiền vệ thành bản năng thứ hai của mình. Học tốt những phần cơ bản, rồi sau đó mới tới phần còn lại, ông hay nói như thế. Những điều tốt đẹp sẽ đến sau đó. Ông nói đúng. Đó là một phần chính trong những lý do vì sao tôi luôn cảm thấy thoải mái khi có bóng. Những mặt xấu xí của vị trí tiền vệ như phải theo kèm cầu thủ chạy chỗ, ngăn chặn các đường tấn công hay tắc bóng, tôi đều phải học trong thời gian đó và cũng mất khá nhiều thời gian trước khi được toàn tâm toàn ý tập trung vào tập sút và ghi bàn. Điều kinh khủng trong việc chỉ huy tuyến giữa chính là nền tảng để xây nên bất cứ thứ nào khác. Cơ thể tôi cần phải mạnh mẽ và tâm của tôi cần phải vững. Tập với đội trẻ thì chậm hơn đội Một nhiều. Phải bổ sung thêm là tập một mình cũng thế. Tôi thường tự tập với chính mình. Tôi thường dành khá nhiều thời gian sút bóng vào tường rồi khống chế quả bóng, cứ tập đi tập lại cho tới khi cải thiện được khả năng phản ứng của mình. Các bài tập của tôi khá đa dạng, ví dụ như đá quả bóng rồi chạy theo nó. Rồi tôi sẽ làm lại bài tập đó và tự gây áp lực lên chính mình. Những đứa trẻ khác thường sẽ lang thang trong phòng tập và làm trò gì đó vui vẻ, như chúng tôi chơi trò “D’s” hồi trước vậy. Có những thứ mà tất cả chúng ta đều có thể làm một cách dễ dàng và sáng tạo mà không tốn quá nhiều công sức, nhưng việc bắt chúng ta phải tập những bài tập nhàm chán và khó nhằn quả thực là chẳng dễ dàng gì. West Ham có khả năng thu hút những cầu thủ trẻ giỏi nhất. Tôi biết điều đó. Tôi từng chơi với vài người như vậy. Một người từng gia nhập năm 17 tuổi nhưng không lớn lên trong hoàn cảnh như tôi hay Hodgey. Tên cậu ta là Martin Mullins. Cậu ta là một học sinh ở Scotland và West Ham đã giật được cậu ta ngay trước mũi của các câu lạc bộ Old Firm2 cũng như một vài câu lạc bộ khác ở Anh. Cậu ta to con và gia nhập câu lạc bộ với một sự tự tin cao độ, luôn cho rằng mình là một cầu thủ giỏi thực sự. Tôi đã nghe nói về điều đó và trong luyện tập thì có vẻ thế thật. Một hôm, khi mọi người đã xong hết công việc trong ngày, đó là lúc đôi giày đinh của tôi hoạt động. Đất khá ướt và tôi bắt đầu ra ngoài chạy. Cỏ ướt thật thích hợp cho những pha bứt tốc ngắn từ điểm này sang điểm khác. Trời mưa giúp tôi có thể trượt để luyện tập chuồi bóng, ngay sau đó tôi lại đứng dậy và cứ tiếp tục như thế - những thứ này bạn không tìm được trong giáo án huấn luyện nào đâu, nhưng bố bắt tôi làm thế và tôi biết là tôi phải làm thế. Mullins đi tới với bộ quần áo mưa và nhìn thấy tôi đang trượt đi trượt lại giữa đống bùn. “Mày làm cái quái gì thế?” Cậu ta ngạc nhiên hỏi. Tôi im lặng không đáp, chỉ ngừng một lúc rồi tiếp tục. Tôi khá tự ái và tôi hơi ngại khi phải giải thích, mặc dù tôi vẫn tin tưởng vào việc mình đang làm. Mullins là một gã khá tự cao và nghĩ mình có mọi thứ cần thiết để thành công. Cậu ta sau đó chỉ nhìn tôi rồi lắc đầu bước đi. Tôi bối rối trong thoáng chốc rồi lại tiếp tục - vì tôi biết đích đến của mình là gì. [2] Chỉ Celtic và Rangers. Bố tôi thường chịu trách nhiệm chính trong rất nhiều việc, nhưng nghĩ ra những thử thách mới hoàn toàn là ý của tôi. Thường thì tôi sẽ chạy 8 vòng liên tục từ vòng 16m50 bên này sang vòng 16m50 bên kia sân và khi gần đạt mục tiêu, tôi sẽ tự nâng con số đó lên 10 vòng. Rồi sau đó tôi sẽ làm điều tương tự nhưng với quả bóng vì nó khó hơn. Sau này, khi vào đội Một, có lần tôi đến sân vào ngày nghỉ và tiếp tục những bài tập đó. Lúc ấy tôi khá ngượng. Tôi đang ở sân và Tony Carr đang tập cho đội trẻ, đột nhiên, tôi thấy mọi con mắt đang đổ dồn về phía mình. Dù vậy, những ánh nhìn đó không giống như ánh nhìn mà Mullins đã ném cho tôi. Tony chỉ đơn giản nói rằng đây là ngày nghỉ và tại sao tôi vẫn luyện tập. Có thể họ nghĩ tôi bị hâm. Tôi cũng không rõ. Tôi chỉ biết rằng mình muốn trở thành một cầu thủ tốt hơn và để làm được điều đó, tôi phải luyện tập chăm chỉ hơn nữa. Việc cho rằng bạn đã có mọi thứ để thành công dễ hơn nhiều so với việc phải ra ngoài và làm theo yêu cầu. Nó đòi hỏi rất nhiều công sức. Bố luôn bảo tôi rằng trở thành cầu thủ chuyên nghiệp là một việc rất khó khăn nên khi lớn lên, tôi không dám kỳ vọng ít hơn thế. Từ lúc bắt đầu chuyển tới West Ham, tôi cần phải bắt kịp mọi người. Tôi biết thế. Bài tập chạy mà chúng tôi thường phải tập tuần hai lần là một cực hình khi tôi mới bắt đầu. Tôi từng bị ốm khi cố chạy nhanh nhất có thể. Tony Carr và Frank Burrows - các huấn luyện viên đội trẻ - đã giúp tôi tăng sức bền. Tôi khổ sở với các bài tập đó vì tôi chưa hoàn toàn phát triển thể chất như một số người khác và chân tôi không thể chạy nhanh được như thế trong các buổi tập. Trong khi đó, Hodgey đã thành đàn ông rồi - tôi biết điều đó vì mỗi lần đi tắm cậu ta đều khoe là mình đã… mọc lông. Tôi đá ở đội trẻ từ năm 16 tuổi và năm đầu trong chương trình đào tạo trẻ, tôi đã thi đấu cho cả đội trẻ lẫn đội dự bị vài lần. Đó là bước tiến lớn với tôi ở thời điểm đó - tôi thực sự có thể cảm nhận được điều ấy. Trong năm đầu chúng tôi đã vô địch cúp Liên đoàn sau trận chung kết hai lượt đi về, và nó để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi vì hai lý do. Lý do thứ nhất, trận này chúng tôi đụng độ Chelsea. Lý do thứ hai, là Rio. Trong trận lượt đi, chúng tôi, cụ thể là tôi, ghi được một bàn, nhưng bị thua tới 4-1. Trước thời điểm diễn ra trận lượt về, cả đội Một đều đi Úc. Lúc đó là cuối mùa giải và họ đang đi du đấu. Câu lạc bộ coi như đã buông luôn trận lượt về sau kết quả thất vọng ở lượt đi, và họ có lý khi làm như thế. Kết quả là một vài cầu thủ lớn tuổi được đẩy xuống đội dự bị và một số cầu thủ trẻ được đẩy lên để đá trận lượt về tại Stamford Bridge. Mọi người, kể cả Chelsea, đều cho rằng đây chỉ là trận thủ tục. Chúng tôi cũng chẳng mong cứu vớt được gì, vì thế nên không hề thấy áp lực khi thi đấu. Đội chẳng còn gì để mất, huấn luyện viên tung một cậu nhóc cao kều vào đứng ngay phía dưới hai tiền đạo: Rio. Những gì đã xảy ra sau đó quả thực là kỳ tích. Rio tỏa sáng rực rỡ. Cậu ta đá như thể mình là Ronaldinho vậy. Có những lúc tôi còn không đá mà chỉ đứng đó nhìn cậu ta đầy hứng thú. Cả đội hôm đó đều đá tốt nhưng Rio thì đã có một trận đấu để đời. Chúng tôi ghi hai bàn, rồi ba bàn trước khi họ kịp gỡ lại một bàn. Không quan trọng. Chúng tôi đang đà hưng phấn và không ai cản được. Chúng tôi thắng 5-2 trong 90 phút, rồi trận đấu bước vào hiệp phụ, rồi sút luân lưu. Chúng tôi vững tinh thần và ghi bàn. Chúng tôi đã chiến thắng, với một đội hình toàn các cầu thủ trẻ khát khao cống hiến cho câu lạc bộ sau khi họ rút hết các cầu thủ thường xuyên đá chính ra. Đó là lần đầu tôi có danh hiệu và khoảnh khắc đó quả thật rất đặc biệt. Chiến thắng ấy lại còn ở ngay trên sân nhà của Chelsea nữa. Rio cực kỳ phấn khích. Tôi cũng vậy. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời, thứ mà chỉ có thể xảy ra trong bóng đá, và chúng tôi đã làm được điều đó. Bố tôi hơi sốc, nhưng ông không tỏ ra ngạc nhiên. Ông là người đã đóng vai trò quyết định trong việc đưa Rio về West Ham. Rio từng kể rằng, hồi đó bố tôi đột nhiên xuất hiện trong căn nhà nhỏ của cậu ta ở Peckham, nơi cậu ta sống với mẹ và cậu em trai Anton. Rio bị thu hút ngay lập tức. Bố tôi có một chiếc Mercedes đen và những đứa trẻ sống ở khu đó chưa bao giờ thấy chiếc xe nào như thế. Vẻ mặt cậu ta nhìn cũng thật tức cười khi tới thăm nhà chúng tôi. Với cậu ta, nhà tôi là một căn biệt thự hoành tráng. Khi đó gia đình tôi khá giàu và tôi biết điều đó, nhưng vẻ mặt Rio lúc bước vào và tròn mắt nhìn xung quanh, trông chẳng khác gì được đưa lên Sao Hỏa vậy. Ký hợp đồng với Rio là một quyết định lớn với West Ham. Cậu ta thực sự là một nhân tố tiềm năng. Cậu ta cũng vật lộn với cơ thể mình như những cậu nhóc khác đang ở tuổi lớn. Tôi đã từng trải qua điều đó. Tôi nhớ mình từng khá ngạc nhiên về đôi chân dài ngoằng của cậu ấy. Cậu ấy vừa nhanh vừa cao, nhưng chưa được như hiện tại. Cậu ấy rõ ràng là một cầu thủ tốt, điều đó miễn bàn luận rồi. Nhưng cậu ấy không tự tin vào thể hình của mình cho lắm khi đá tiền vệ. Tôi hiểu điều đó, vì tôi cũng từng phải chịu đựng cái giai đoạn lớn vọt lên, nó có thể khiến mình cảm thấy mất phương hướng đến mức nào. Lúc đấy Rio thường nói: “Tôi sẽ không làm nổi mất. Tôi không làm nổi mất.” Trông cậu ấy khá vụng về và tôi lo lắng rằng có thể cậu ấy nói đúng. Thế rồi, cậu ấy vượt qua mặc cảm và nhanh chóng trở lại trên đôi chân của mình khi gia nhập đội trẻ. Và tôi không cần biết lý do vì sao cậu ấy được đá vị trí tiền vệ công trong trận chung kết lượt về cúp Liên đoàn. Điều đó không quan trọng. Chiến thuật ấy quá tuyệt vời. Từ sau đó, Rio phát triển cực nhanh. Khả năng giữ bóng của cậu ấy khá tốt, và khả năng nhận bóng một chạm thì như trở thành bản năng vậy. Cậu ấy tiếp tục phát triển xa hơn và bác Harry đã muốn Rio quay về vị trí ở hàng phòng ngự. Rio lo lắng. Chúng tôi bắt đầu ném cho nhau những cái nhìn khó hiểu, nhưng chúng tôi đã quen với việc bảo gì làm nấy rồi. Bác Harry tin rằng với khả năng và thể hình của Rio, cậu ta hoàn toàn có tiềm năng để trở thành một trung vệ xuất sắc. West Ham có truyền thống đào tạo những trung vệ như thế, và khi Rio được đem ra so sánh với Bobby Moore vĩ đại, tôi thường nhớ về chính khoảnh khắc mà quyết định ấy được đưa ra. Mọi người có thể bàn ra tán vào về bác Harry, nhưng rõ ràng là bác ấy đã nhìn ra được điều đặc biệt nào đó ở Rio, điều sẽ giúp ích cho cả cấp độ câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. Và tầm nhìn của bác Harry đã đúng. Rio vẫn luôn như vậy, kể cả khi cậu đầu quân cho Manchester United và Đội tuyển Anh. Cậu ta luôn có thể kiểm soát bóng và phát động tấn công từ hàng phòng ngự, thành thật mà nói thì tôi không thể nhớ được lần cuối Rio thất bại là bao giờ nữa. Vẫn có một vài lần cậu ta để mất bóng, và tất nhiên, là tâm điểm của sự chỉ trích. Người Anh là vậy đấy. Luôn chỉ trích, chẳng bao giờ động viên hay khích lệ ai cả. Nhưng Rio của chúng ta là một người đàn ông vô cùng cứng rắn. Cậu luôn biết mình phải làm gì, và với Rio, bóng đá không chỉ là mỗi khâu phòng ngự. Chắc chắn cậu ta đã phát triển thêm kỹ năng phòng ngự của mình sau khi đến Leeds United. David O’Leary - một thiên tài phòng ngự - là một người thầy tốt cho Rio. Thứ mà cậu ta cần cải thiện hơn nữa, có chăng là sự tập trung. Vào khoảng thời gian trước khi rời khỏi Upton Park, Rio tự đánh giá bản thân là một cầu thủ khá “toàn diện”. Nhưng cầu thủ nào cũng cần phải luyện tập và phát triển, tôi cũng thế, và Rio cũng vậy. Chúng tôi có mất một chút sự gắn kết sau khi cậu ta chuyển đi, nhưng khi cả hai cùng lên đội tuyển, cảm giác cứ như ngày hôm qua, như hồi còn khoác lên mình màu áo West Ham vậy. Quay lại thời điểm đó, mọi người đều nghĩ rằng Rio sẽ trở thành một cầu thủ giỏi. Thành thật mà nói, tôi có chút ghen tị. Tôi cũng muốn là tâm điểm, là người được mọi người chú ý. Rio lúc đó đã là một cầu thủ tuyệt vời - kể cả khi được đôn lên hàng tiền vệ. Tôi thực sự rất khác cậu ta. Trong khi Rio có tài năng thiên phú, thì tôi phải làm việc, luyện tập cực khổ để trở nên giỏi hơn. Về ngoại hình, hai chúng tôi cũng khác nhau. Tôi có đôi chút xấu hổ khi sở hữu thân hình không được đẹp cho lắm. Nhưng mọi thứ đã thay đổi kể từ khi tôi đến West Ham. Tôi đã khá chật vật. Và tôi cũng nhận ra rằng việc ghi bàn đã trở nên khó hơn. Mỗi khi một mùa giải kết thúc, thì một mùa giải mới sẽ bắt đầu ngay lập tức. Không hề có quãng nghỉ nào cả. May mắn thay, tôi đã nhận ra được nhiều điều, và dần trưởng thành hơn. Tôi có phát triển muộn hơn mọi người một chút, phải đến tuổi 16 mới có bước đột phá. Tôi bắt đầu cao lên, và cũng giảm được cân nặng. Về mặt thể trạng, tôi thấy khá hơn, nhưng mùa giải đó giúp tôi nhận ra rằng mình vẫn còn rất nhiều điều phải cố gắng. Mùa giải ở Swansea, chính xác hơn là như vậy. Tôi nhớ bác Harry có nói gì đó với tôi về việc tôi sẽ được đem đi cho mượn. Lúc đó, tôi đang nằm trên giường thư giãn thì bỗng nhiên có một cuộc điện thoại gọi đến. Mẹ tôi là người trả lời, rồi đem điện thoại đến cho tôi. “Nghe này Frank,” bác ấy nói, “cơ hội đã đến với cháu, cháu sẽ được đem cho mượn.” “Đến đâu ạ?” Tôi hỏi trong sự lo lắng. “Swansea. Ta biết đấy chỉ là một đội bóng ở giải hạng thấp, nhưng sẽ tốt cho cháu đó. Hãy ra ngoài và trưởng thành hơn đi nào.” Tôi không chắc chắn lắm về vụ này. Có cảm giác như tôi vừa bị từ chối vậy. Tôi dành mọi thứ, dành tình yêu của mình cho West Ham, và rồi phải rời đi trong một thời gian ngắn như vậy. Tôi thực sự không muốn rời khỏi nhà, kể cả chỉ trong vài tuần lễ. Ngộ nhỡ tôi phải ở đó lâu dài thì sao? Nhà và gia đình là hai thứ cực kỳ quan trọng đối với tôi, và tôi muốn nói với bác Harry điều đó. Bác ấy sẽ hiểu thôi, suy cho cùng, Harry là bác tôi cơ mà! “Cháu không chắc đâu bác Harry ạ,” tôi đáp. “Có thể sẽ tốt hơn nếu cháu ở lại câu lạc bộ và tiếp tục luyện tập chăm chỉ hơn, tập gym nhiều hơn… Những thứ đó sẽ giúp cháu trưởng thành.” Tôi không biết là bác ấy có nghe những gì tôi nói hay không. Nhưng điều này thực sự làm tôi thấy bối rối vô cùng. “Cháu phải có mặt ở đó vào ngày mai,” một lời khẳng định chắc nịch từ đầu dây bên kia. “Cháu sẽ ổn, mọi thứ sẽ thuận lợi thôi mà.” Tôi thậm chí còn không biết Swansea ở đâu. Tôi cũng mới chỉ đậu kỳ thi lái xe cách đây vài ngày, và khoảng cách từ sân Upton Park đến xứ Wales xem chừng khá là xa đấy. Bố tôi - dù tin rằng tôi xứng đáng chơi bóng ở cấp độ cao hơn so với ông - cũng đã từng trải nghiệm điều tương tự. Huấn luyện viên lúc đó là Ron Greenwood đã yêu cầu bố tôi chuyển đến Torquay theo dạng cho mượn. Vào lúc đó, động thái bị cho mượn không giống như bây giờ - điều đó gần giống như việc bị tống đi vậy. Ông đã phản ứng lại, mặc dù hơi có chút bứt rứt khi làm việc đó. Bố tôi tôn trọng Ron Greenwood, như một huấn luyện viên, và như một người đàn ông. Để từ chối yêu cầu của ông ấy thì phải có gan lắm đấy. West Ham là một câu lạc bộ thành công vào thời điểm đó, và dường như ở đây đang có một dây chuyền rằng những cầu thủ giỏi chắc chắn sẽ có suất đá chính. Bố tôi biết ông muốn gì, và ông phải làm gì. Ông lao vào tập luyện, để có thể giữ được vị trí ở đây - ở West Ham chứ không đâu khác. Có một điều mà bố tôi rất thích nhắc lại, là những gì mà Greenwood đã truyền đạt lại cho ông và bác Harry khi hai người còn là cầu thủ trẻ của câu lạc bộ. Huấn luyện viên thỉnh thoảng đến xem đột xuất buổi tập của cả đội. Câu “Tối giản là nghệ thuật” luôn được phát ra từ miệng người đàn ông này. Greenwood được xem là một người đàn ông có tư duy chiến thuật đi trước thời đại, và ông có một người học trò rất có ý chí - là bố tôi. Năm 17 tuổi, bố tôi và bác Harry quay trở lại trường cũ của họ, để huấn luyện những cậu nhóc 14 tuổi - điều mà tôi cũng làm vào đúng độ tuổi đó. Hướng dẫn những đứa trẻ giúp tôi nhận thức được những gì mình được chỉ dạy, và cách để áp dụng nó tốt hơn. Mặc dù bố cảm nhận được tài năng của tôi, nhưng ông vẫn muốn có chút thử thách để tôi có thể trưởng thành hơn. Về quyết định cho mượn này, ông cũng hoàn toàn ủng hộ, rằng tôi nên đi. Tôi hoàn toàn bối rối. Tôi thậm chí còn vừa mới sở hữu con Ford Fiesta Si, vậy là đã phải đem nó ra đường ngay rồi. Tôi cũng rất lo lắng về khía cạnh chuyên môn nữa. Lúc đó tôi mới 17 tuổi, là một tiền vệ kiến thiết lối chơi. Nhưng tôi sẽ làm điều đó như thế nào ở đó? Tôi thậm chí còn không biết họ sẽ trình diễn lối chơi ra sao, trên mặt sân như thế nào nữa cơ. Không phải là tôi không tôn trọng họ. Chỉ là tôi đang có chút mất định hướng. Sau cùng thì tôi lại rất tự hào về trải nghiệm đó. Quãng thời gian ở Swansea đã giúp tôi “lớn” hơn cả về ngoại hình lẫn tư duy chơi bóng. Tôi tin rằng, lúc mới đến đó, tôi là một cậu bé, và khi quay trở lại, tôi đã là một người đàn ông. Thời gian trôi qua, tôi buộc phải trưởng thành lên theo nhiều cách. Ngày đầu tiên, tôi được đưa vào một căn phòng khách sạn khá chật hẹp. Tôi đã quen với ngôi nhà của mình, với gia đình của mình và sự ủng hộ tuyệt đối từ họ. Được ngồi ăn tối cùng với gia đình, được chơi đùa với Claire và Natalie cũng đủ để tôi trút bỏ phần nào những áp lực. Và lại còn phải rời xa những người đồng đội chí cốt của mình nữa. Sân tập của Swansea phải nói là hơi tệ. Tôi khá là sốc vì sự thiếu hụt cơ sở vật chất của họ, chứ chưa để ý đến sự khác biệt trong cách chơi bóng. Tôi thấy có một người được cho mượn từ Wolves - tên là Robbie Dennison. Anh ta là một cầu thủ chuyên nghiệp đã bước sang phía bên kia sườn dốc của sự nghiệp. Tôi cũng không rõ anh ta nghĩ gì về tôi lúc mới đến, nhưng cuối cùng cả hai đã trở thành những người bạn thân của nhau. Chúng tôi ở chung một phòng, và thường cùng nhau uống bia. Tôi đã học được rất nhiều, từ cách tập luyện đến thi đấu với những cầu thủ chỉ xem bóng đá như là một nghề để kiếm sống. Ưu tiên hàng đầu của họ là kiếm được đủ tiền để có thể trang trải cho cuộc sống bên ngoài sân cỏ. Tôi tôn trọng tất cả mọi người ở đây - cho dù tài năng của họ có đến đâu đi chăng nữa. Mọi thứ thực sự quá khác biệt so với West Ham, và thành thật mà nói, tôi khá ngạc nhiên về điều này. Mỗi buổi sáng trước giờ tập, các cầu thủ sẽ được tự do lấy áo tập cho mình, vậy nên nếu bạn đến muộn thì sẽ chẳng còn gì để mặc đâu. Chúng tôi chiến đấu vì mọi thứ. Cả đội lúc nào cũng đi bộ vài trăm mét đến sân tập, trên một đoạn đường thường xuyên gặp mưa và rất lạnh. Ban đầu tôi có hơi e dè, nhưng những đồng đội của tôi đều là những con người tài năng. Ở West Ham, quần áo thi đấu của bạn luôn được chuẩn bị sẵn, gọn gàng và ngăn nắp. Còn ở đây, mỗi cầu thủ phải có trách nhiệm tự vệ sinh quần áo đấu của chính mình. Tôi may mắn trốn được công việc đó, vì tôi ở khách sạn và cũng không ở lại đủ lâu để bị phát hiện ra. Tóm lại, tôi đã ở đó được hai tháng và đã được ra sân vài trận đấu. Tôi thậm chí còn ghi bàn trước Brighton, và chúng tôi đã thắng, nhưng mọi chuyện diễn ra vội vã đến nỗi không hề có thời gian để ăn mừng nữa. Tôi lúc đó đang ngồi trên con Fiesta của mình, phóng về Romford và nghĩ về những điều mà Rio và Hodgey đang nhắm đến. Hội anh em ở Swansea cũng là những con người rất tốt, chúng tôi thỉnh thoảng cùng nhau đi ra ngoài vào những buổi tối sau trận đấu. Có lần, tôi cùng với Robbie đi vào một quán bar, và một gã bặm trợn người bản địa chắn trước mặt tôi. Dường như hắn biết tôi là ai. “Tại sao mày không cuốn xéo về London đi, thằng khốn nạn?” Hắn nói. Nếu đem ra so sánh về thể lực thì tôi không bằng một góc của hắn, nên tôi đành phải đáp: “Được rồi, tôi sẽ đi.” Và tôi rời đi thật. Vào trận đấu áp chót khi tôi còn ở đó, câu lạc bộ đã để tôi trên ghế dự bị vì họ biết rằng tôi không muốn gia hạn hợp đồng cho mượn. Giáng sinh cũng đã cận kề và tôi muốn về nhà. Đây quả là khoảng thời gian thích hợp để quay lại. Chúng tôi chỉ thắng được có hai trận nhưng vẫn có những người hâm mộ đến xem đội bóng chật vật suất trụ hạng. Rio cũng đã đến Bournemouth và đã biến thành một con người khác, và tôi cũng thế. Giờ đây, tôi nhìn lũ trẻ 17 tuổi ở Chelsea, chắc chúng sẽ không chịu nổi ở tình cảnh như tôi đâu. Thậm chí West Ham thời đó cũng quá sức chịu đựng của lũ trẻ. Nhưng tôi đã đến Swansea, và đã quay trở lại mạnh mẽ hơn. Chân của tôi vẫn còn hơi gầy gò, và tôi biết mình phải luyện tập thêm. Bố tôi cũng biết điều đó và ông đã phải kèm cặp tôi thêm sau những giờ tập. Một bài tập của những tiền vệ thực thụ. Tôi đã có thể tự lực chen chân vào đội Một của West Ham sau đó, và ghi được 10 bàn thắng nhờ những bài luyện tập chăm chỉ. Cứ như tôi đã trở thành một con người hoàn toàn khác vậy. Điều đó đến từ những ngày luyện tập điên cuồng không biết mệt mỏi để tăng cường thể trạng, với sự giúp đỡ của Paul Hilton, huấn luyện viên của đội dự bị. Ông ấy yêu cầu bạn phải chạy hết sân trong vòng 1 phút và cứ thế những người sau đó sẽ nối tiếp. Ban đầu chúng tôi ghét ông ra mặt, nhưng rồi phải thừa nhận Hilton là người tốt. Dĩ nhiên không được tốt cho lắm khi ông ấy la hét liên tục trong khi chúng tôi sắp xổ hết tất cả những gì có trong bụng ra ngoài. Khi tôi có thể làm điều đó một cách tương đối dễ dàng, tôi mới nhận ra rằng mình đã tiến xa đến đâu trong sự nghiệp. Mới cách đây không lâu, tôi còn không nghĩ là mình có thể chen chân được vào đội hình chính thức cơ. Đó là điều mà bố tôi đã dự đoán được từ trước qua nhiều năm luyện tập, luyện tập và luyện tập. Đó cũng là những gì bác Harry đã biết khi quyết định đưa tôi đến Swansea theo dạng cho mượn. Lúc đó tôi vẫn chưa sẵn sàng cho những trải nghiệm ở West Ham - cả về mặt thể chất và tinh thần, và họ đã nhận ra điều đó. Là một cầu thủ trẻ, bạn luôn có một sự tự tin nhất định, rằng bạn là nhất, là bất khả chiến bại. Tôi không chắc chắn 100% rằng tôi có đủ thực lực để xuất hiện trong đội hình chính của họ hay không, nhưng tôi vẫn tin là mình có thể. Cuối cùng, ngày tôi được ra sân cho đội Một cũng đã đến, cho dù có hơi bất ngờ một chút. Trong trận đấu với Coventry City tại Upton Park, tôi và Gordon Strachan được tung vào sân cùng một lúc. Gordon đã 38 tuổi và đứng cạnh anh ấy là tôi, một gã đôi mươi đang chờ đợi trận đấu chính thức đầu tiên cho đội Một. Harry đã nhận ra tôi có chút lo lắng. Bác ấy quàng nhẹ tay lên vai tôi, và quay sang nói với Strachan như thể là đang đùa với khoảng cách tuổi tác của chúng tôi vậy: “Nhẹ nhàng với thằng bé nhé!” Là vì chúng tôi cùng chơi ở vị trí tiền vệ, và có sự tranh chấp với nhau, hiển nhiên rồi. Dù Gordon đã sắp giải nghệ, nhưng điều này vẫn không khiến cho tôi thôi ngưỡng mộ vì những gì anh ấy đã đạt được. Còn tôi thì đang chập chững những bước đi đầu tiên tại sân chơi chuyên nghiệp. Tôi đã xem bố tôi chơi bóng tại West Ham, và bác Harry cũng vậy. Và giờ hai người đều đang ở ngoài, cổ vũ tôi trên con đường của mình. Tôi đã mơ về điều này rất nhiều - từ khi còn là một cậu bé. Tôi đã nghe được tiếng gào thét của đám đông khắp sân đấu khi đặt những bước chân đầu tiên trên mặt cỏ. Đó quả thật là một sự chào đón rất nồng hậu từ những người hâm mộ, một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời tôi. Kể cả bây giờ, khi nhìn lại sự nghiệp của mình với những đội bóng khác nhau - West Ham, Chelsea, Đội tuyển Anh - tôi vẫn thấy thật tuyệt vời. Nhưng tôi không làm được nhiều điều trong trận đấu đó. Chạy được vài phút và chạm bóng được vài lần. Điều tốt nhất mà tôi được tận hưởng là cảm giác chào đón từ mọi người khi con trai của Frank Lampard vào sân. Và như dự đoán, tôi lại phải ngồi ghế dự bị ở trận đấu sau. Dù sao, có được trận ra mắt ở đội Một cũng đã là một bước tiến dài với cá nhân tôi. Có một số cầu thủ đã để lại dấu ấn khó tin ngay trong trận đấu đầu tiên của họ. Wayne Rooney đã làm vậy trong trận ra mắt gặp Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng tôi không phải là cậu ấy. Hành trình của tôi đến với đội Một giống như trên một chiếc tàu cũ kỹ. Tôi phải cố gắng hơn nữa để có được chỗ đứng ở đội hình chính. Lần tiếp theo tôi được ra sân là trong trận đấu lượt đi với Stockport tại cúp Liên đoàn. Có ai đó đã gặp chấn thương trước trận đấu - hình như là John Moncur bị ốm nặng - và tôi đã nhận được cuộc gọi khẩn từ bố mình. “Frank, xuống đây nào,” ông nói. “Con sẽ được ra sân ngày hôm nay.” Khi ấy tôi đang ở gần đó, vẫn tiếp tục luyện tập với những bài tập thể lực quen thuộc của mình. Tôi đã nghĩ rằng liệu mình luyện tập quá nhiều như vậy có ảnh hưởng đến phong độ khi thi đấu hay không. Bản thân tôi đã chơi khá tốt nhưng tôi vẫn cảm thấy mình chỉ như một cậu bé so với họ. Trận đấu đó hòa 1-1. Tôi đã có một cơ hội để ghi bàn nhưng đã bỏ lỡ. Điều này đã gây ra cho tôi không ít lo lắng và khó chịu. Bị cầm hòa ở lượt đi và thua trận ở lượt về, vấn đề ở chỗ đội bóng gặp khó khăn trong khâu ghi bàn. Các cầu thủ cũng cảm thấy áp lực và không khí nặng nề bao trùm toàn bộ phòng thay đồ. Tôi chỉ như một đứa trẻ nếu so với tất cả bọn họ. Mùa giải đó tôi cũng không được ra sân nhiều. Tôi chỉ góp mặt 7 lần và trận đấu với Stockport là lần duy nhất tôi được ra sân ngay từ đầu. Mùa giải tiếp theo đến nhanh hơn tôi dự kiến, nhưng tôi cũng đã sẵn sàng sau đợt thi đấu giao hữu tại Scotland. Rio và tôi là hai cầu thủ trẻ duy nhất được chọn - và bạn biết điều đó tuyệt vời như thế nào khi được ở gần những Ian Bishop và Iain Dowie. Tôi đã tận hưởng quãng thời gian này một cách thoải mái nhất có thể. Chúng tôi đã có một trận đấu khó khăn với Arsenal. Tôi cũng được tin tưởng trao cơ hội ngay từ đầu nhưng đã bị thay ra sau 70 phút. Chúng tôi đã thất thủ 2-0 trước một đội bóng mạnh hơn hẳn. Tôi và các đồng đội tại West Ham rất muốn tạo ấn tượng nhưng đây là Highbury, và Arsenal đang đạt phong độ cao dưới tài cầm quân của Arsène Wenger, người mới tiếp quản họ vào mùa trước. Tôi luôn luôn đặt bản thân dưới sự áp lực để có thể cố gắng nhiều hơn nữa, nhưng lần này có vẻ lớn hơn đôi chút, vì tôi đang đứng trước cơ hội sẽ được gia hạn hợp đồng. Tôi biết mình cần phải thể hiện giá trị của bản thân, nhưng sự thật là tôi đã không được ra sân bất cứ một lần nào trong 7 trận đấu tiếp theo. Và, tôi bắt đầu nhận được sự chỉ trích của những người hâm mộ. Tôi đã ý thức được về điều này vì sau trận đấu với Coventry, tôi loáng thoáng nghe được những lời xúc phạm. Tôi không thể hiểu nổi, tại sao lại như vậy cơ chứ? Là con trai của Frank Lampard, bạn sẽ có những bộ quy tắc khác biệt so với những cầu thủ khác. Nếu một cầu thủ khác ngồi dự bị, người ta sẽ đơn giản hiểu là anh ta đang hồi phục thể lực, hay đang bị dính chấn thương. Cũng nơi đó, nếu là tôi thì sẽ bị chỉ trích là không đủ khả năng để ra sân thi đấu. Và họ cho tôi biết tất cả những điều đó mỗi khi tôi ra sân khởi động. Rõ ràng, ở mùa giải 1996-97, sau trận đấu với Arsenal, tôi đã được tin dùng thêm hai lần nữa nhưng đều không để lại nhiều ấn tượng. Tôi đã cố gắng bằng tất cả những gì mình có, nhưng mỗi khi năm mới đến, tôi lại nghĩ về những trận giao hữu đầu mùa giải sau. Tôi đã luyện tập nhiều hơn hết thảy, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình chưa sẵn sàng cho trận đấu đầu tiên của mùa giải 1997-98 - trận đấu mà chúng tôi tiếp đón Barnsley. Tôi biết rằng mình sẽ lại ngồi dự bị. Cảm giác lúc bấy giờ của tôi là hài lòng xen lẫn thất vọng. Tôi hiểu rất rõ kịch bản, chừng nào bạn có cơ hội thì sẽ được vào sân, còn không, bạn vẫn mãi bị gán cái mác “kẻ học việc” mà thôi. Tôi cũng không rõ liệu đó có phải là một lý do hợp lý để có thể “phá luật” hay không. Tôi không phải là người đầu tiên làm việc này, cũng không phải là người cuối cùng, nhưng đây là lần duy nhất tôi thử làm nó. Bố tôi luôn dặn rằng tuyệt đối không được đi uống vào ngày thứ Năm, trước trận đấu ngày thứ Bảy. Và tất nhiên, tôi không bao giờ làm vậy. Finny - thủ môn số 3 của đội, gọi điện cho tôi và hỏi rằng liệu tôi có muốn ra ngoài ăn tối với anh ta không. Đó là một buổi tối thứ Năm. Chúng tôi đã ra ngoài ăn tối, và uống một ít bia. Tôi đến sân tập vào sáng ngày thứ Sáu với một cảm giác tội lỗi. Tôi tự nhủ với bản thân rằng chắc chắn mình sẽ dự bị mà thôi. Cơ thể tôi vẫn rất bình thường nhưng bên trong tôi loáng thoáng một giọng nói yêu cầu tôi không được lặp lại điều đó nữa. Đó là giọng nói của bố, và của chính tôi nữa. Tôi không quan tâm rằng liệu đó có phải là một trận đấu chính thức hay không. Tất cả những gì tôi làm là cố gắng để trở thành một phiên bản hoàn hảo nhất của chính mình. Không phải là đôi lúc đâu. Lúc nào cũng vậy. Tôi tham gia khởi động mỗi khi được yêu cầu với suy nghĩ không biết mình có được ra sân hay không. Ở trên sân, chúng tôi cũng thể hiện tương đối ổn thỏa. Tỷ số trận đấu đó là 1-1, và tôi cũng đã tự thuyết phục được bản thân rằng mọi thứ rồi sẽ ổn. Và đúng là mọi thứ đã dần dần tiến triển hơn. Tôi bắt đầu chiến thắng một vài pha cản phá, và khi có cơ hội để sút, tôi tận dụng ngay lập tức, và bóng sẽ bay thẳng vào lưới. Tôi đã ghi bàn, nhưng lại không biết mình nên làm gì tiếp theo. Dường như tôi đã lo lắng quá nhiều đến nỗi chẳng biết làm gì trong trận đấu nữa. Tôi đảo mắt đi tìm Rio. Cậu ta đang trên đường lùi về phần sân nhà của mình, vì chúng tôi vừa kết thúc một đợt tấn công. Điều tự nhiên nhất tôi có thể làm được lúc đó là chạy tới chỗ Rio. Chúng tôi là những người bạn mà, phải chia sẻ cùng nhau những khoảnh khắc như thế này chứ! Những điều xảy ra tiếp theo thực sự ngẫu nhiên và tùy hứng. Rio đã chờ tôi từ trước - tôi cũng không nghĩ đến việc này từ đầu - và chúng tôi bắt đầu nhảy. Điều này thú vị đến nỗi mọi người tưởng chúng tôi đã cùng nhau tập động tác ăn mừng từ lâu rồi cơ. Không đâu. Chúng tôi đã đến Cyprus vào mùa hè đó và Rio có vẻ rất thích dáng nhảy co chân lên, giống như một con hồng hạc vậy. Tôi đứng ngay trước mặt cậu ta và cố gắng nhái lại. Thậm chí đến bây giờ cậu ta vẫn ngẫu hứng thực hiện điệu nhảy đó. Điều duy nhất tôi quan tâm là tôi đã có được bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ. Khi trái bóng được đưa về vòng tròn giữa sân, tôi đánh mắt nhìn về khu vực băng ghế dự bị, và điều mà tôi thấy được là nụ cười của bố. Tôi thấy tự hào nhiều hơn là vui sướng, mặc dù cảm giác vui sướng đó vẫn còn đang khiến tôi lâng lâng. Đó là một đỉnh cao không thể tin được. Những trận tiếp theo, tôi tiếp tục bị đặt trên ghế dự bị, cho đến khi một cầu thủ ở hàng tiền vệ gặp chấn thương dài hạn - điều này có nghĩa là tôi sẽ được ra sân nhiều hơn. Tôi vẫn chỉ là một cậu nhóc khao khát được ra sân để chứng tỏ mình, khao khát được hòa nhập với đội bóng. Vẫn có những lần hỏng ăn nhưng tôi rõ ràng đang thể hiện những gì tốt nhất của mình. Harry bắt đầu đưa tôi vào và tôi bắt đầu nổ súng thường xuyên hơn. Tôi đã có một cú hat-trick trước Walsall tại cúp Liên đoàn. Ở tuổi 19, tôi vui sướng như một đứa trẻ. Kết thúc mùa giải, tôi ghi được 10 bàn thắng, và chính thức có một vị trí trong đội Một. Thành thật mà nói, tôi đã nghĩ đây là đỉnh cao trong sự nghiệp của mình rồi. Nhưng tôi đã sai. Bố tôi đã đến gặp ngài Chủ tịch - Terence Brown - để bàn về một bản hợp đồng mới. Quý ngài chủ tịch luôn thích lắng nghe quan điểm của những người hâm mộ - một số điều trong số đó đã kích thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ phải giữ sự bình tĩnh và tiếp tục thi đấu cho câu lạc bộ. Có một giả thuyết cho rằng huấn luyện viên đã tung tôi vào sân để có được một khoản “phí ra mắt”, vì tôi là cháu của ông ấy. Cánh nhà báo đã lan truyền tin này đi, và tôi cho rằng đây là cái cớ mà một nhóm người đã đưa ra. Mọi người nghĩ rằng tôi có được chỗ đứng trong đội hình chính thức quá dễ dàng. Điều này lan truyền đi nhanh như căn bệnh ung thư vậy, và tôi cũng không thể ngờ rằng vị chủ tịch đáng kính của câu lạc bộ lại là một trong số họ. Và một lần nữa, tôi lại sai. Brown đã đưa ra trước mặt chúng tôi hàng loạt cái cớ, lý do cho rằng đã có sự thiên vị trong trường hợp của tôi. Ông ta yêu cầu bác Harry giải thích. “Ông đang nói cái chết tiệt gì thế hả?” Bác Harry đáp lại một cách đầy tức giận. “Ông nghĩ tôi đưa một cầu thủ vào sân chỉ để """