"
Sử Việt Đọc Vài Quyển - Tạ Chí Đại Trường full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sử Việt Đọc Vài Quyển - Tạ Chí Đại Trường full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Sử Việt Đọc Vài Quyển
Tạ Chí Đại Trường
NXB Văn Mới (2019)
Những người có theo dõi loạt bài chúng tôi viết trên tờ Văn học (California) thì biết rằng tựa đề nguyên thuỷ của nó là “Sử Việt, đọc một quyển”. “Một quyển” đó là Đại Việt sử kí toàn thư. Nguyên ngày ra đi, 2-8-1994, cũng như những người khác chưa từng bước chân ra khỏi nước, chúng tôi không nghĩ rằng mình có thể tự nuôi sống được ở xứ người chứ đừng nói gì đến chuyện viết lách, khảo cứu. Cho nên vài tập sách mang đi chỉ là theo một thói quen lâu ngày và do đó, bộ Toàn thư (bản dịch và nguyên văn 4 tập, H. 1993) vẫn cứ nằm ẩm mốc ở nhà xe người bạn cho đến khi chúng tôi hơi quen với công việc hàng ngày, chịu đựng với mối lo thất nghiệp vốn là thường xuyên của di dân thiếu căn bản, lúc đó mới giở lại quyển sách cũ bỏ quên. Để xem đích thực người xưa đã viết những gì trong ấy, viết ra sao mà các sử quan, học giả tài danh xưa nay cứ theo đó chép lại, tán rộng khiến sách càng ngày càng dày, càng sinh con đẻ cái phồn tạp đến mức trở thành chân lí khó gột bỏ, thành truyền thống của tập đoàn dân tộc, thành cơ sở để thế giới hiểu về người Việt, nước Việt. Và rồi... À ra thế!
Sử Việt Đọc Vài Quyển Tạ Chí Đại Trường
vietmessenger.com
Cô vọng ngôn chi...
(Hình như là lời người viết sử nói chuyện với ma)
Dành riêng cho
hai gia đình còn lại ở Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh
VỌNG NGÔN
Những người có theo dõi loạt bài chúng tôi viết trên tờ Văn học (California) thì biết rằng tựa đề nguyên thuỷ của nó là “Sử Việt, đọc một quyển”. “Một quyển” đó là Đại Việt sử kí toàn thư. Nguyên ngày ra đi, 2-8-1994, cũng như những người khác chưa từng bước chân ra khỏi nước, chúng tôi không nghĩ rằng mình có thể tự nuôi sống được ở xứ người chứ đừng nói gì đến chuyện viết lách, khảo cứu. Cho nên vài tập sách mang đi chỉ là theo một thói quen lâu ngày và do đó, bộ Toàn thư (bản dịch và nguyên văn 4 tập, H. 1993) vẫn cứ nằm ẩm mốc ở nhà xe người bạn cho đến khi chúng tôi hơi quen với công việc hàng ngày, chịu đựng với mối lo thất nghiệp vốn là thường xuyên của di dân thiếu căn bản, lúc đó mới giở lại quyển sách cũ bỏ quên. Để xem đích thực người xưa đã viết những gì trong ấy, viết ra sao mà các sử quan, học giả tài danh xưa nay cứ theo đó chép lại, tán rộng khiến sách càng ngày càng dày, càng sinh con đẻ cái phồn tạp đến mức trở thành chân lí khó gột bỏ, thành truyền thống của tập đoàn dân tộc, thành cơ sở để thế giới hiểu về người Việt, nước Việt. Và rồi... À ra thế!
Té ra khi đọc sách, người ta chỉ đọc những gì người ta muốn thấy chứ không phải những gì thực sự hiện ra qua các dòng chữ, khoan nói tới những gì phía sau các dòng chữ ấy nữa. Điều “muốn thấy” đó là kết quả của thói quen lười nhác, lặp lại lời kẻ khác, nói nghiêm chỉnh hơn, đó là do tác động đến tận tiềm thức của thành kiến, giáo dục đã trải qua, và áp lực của quyền bính, quần chúng đương đại. Quyển Toàn thư vốn là tập đại thành kiến thức về sử các vương triều Đại Việt của các sử quan đến thế kỉ XVII, viết theo một khuôn khổ chính trị, quan niệm giáo dục có cơ sở bền vững, không phải chỉ ở
nước Việt mà còn xa hơn, từ nơi phát xuất Trung Hoa, cho nên những người còn vướng víu với khuôn khổ ấy không thể nào nghĩ khác dù có gượng gạo xê xích cho hợp với thời đại của mình. Đó là trường hợp của Ngô Thì Sĩ thế kỉ XVIII chẳng hạn, của các sử quan triều Nguyễn thế kỉ XIX, của các học giả thế kỉ XX... Nhất là những người nổi bật sau 1945 của chế độ hiện hành, những người đã bỏ suốt cả cuộc đời tìm danh vọng theo thời thế, củng cố phần lí thuyết cho người cầm quyền, tạo thành một khối hỗ tương khiến cho không thể có sự chao đảo phía này mà không đem lại mòn sứt phía kia. Cho nên quyền bính phải ngăn chặn sự xâm nhập của những ý tưởng khác lạ, không chính thống để bảo vệ chính mình, và nhà nghiên cứu cũng an tâm phát triển dòng sử học chiến thắng, không phải lo sợ bị phủ nhận. Học giả ngoại quốc mang tinh thần hoài nghi của Descartes, không phải chịu đựng sự ràng buộc của “chân lí không thể nào thay đổi” như người bên trong (ngoài sự ràng buộc tiêu cực từ vị thế chính trị, văn hoá của họ), nên đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề mới cho sử Việt. Tuy nhiên, từ vị thế người ngoài, họ lại như anh mù sờ voi, tuy không kết luận là con voi từ cái chân họ nắn kĩ nhưng dù sao cũng phải vẽ hình ảnh toàn con voi có cái chân mình nghiên cứu, nên phải sử dụng kiến thức có sẵn, và do đó lại phải ngụp lặn trong dòng kiến thức cũ, vô tình làm kẻ bênh vực cho truyền thống sử xưa, nay mang uy tín vay mượn mới. Họ có quá nhiều bận rộn khác để lưu tâm rốt ráo cho sử Việt. Họ chỉ là người viết giùm sử Việt trong lúc thừa biết rằng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết. Không phải hời hợt mà là từ căn bản. Không phải đâu xa. Ngay chính trong Toàn thư. Không phải mới đây, mà từ lúc còn viết chui, gởi lén ra ngoài, chúng tôi đã thoáng thấy tài liệu sử cũ tuy ít nhưng “chưa được lăn qua trở lại” kĩ lưỡng để tìm hiểu sâu hơn. (Bài “Việt Nam ở thế kỉ X” đăng trong Vietnam Forum số 5, Yale University, Winter-Spring 1985, in lại trong Những bài dã sử Việt, Thanh Văn xb. 1997). Bây giờ chỉ là tiếp tục đà có sẵn.
Nghĩ lại cũng thấy may mắn trong rủi ro, mình có vị thế cá nhân riêng biệt, và biết rõ vị thế ấy. Là người bên trong, người Việt học sử Việt, đọc chữ Việt hiểu rõ nghĩa của chữ mang tinh thần Việt hơn thứ chữ nào khác. Nho nhỏ chi tiết mà có tầm suy diễn quan trọng là tên
đúng của Lí Thường Kiệt... Lơn lớn, là cách nhìn ra một dòng sử kí tăng đạo, làm sáng rõ những biến động thời mở đầu độc lập bị các nho sĩ che khuất, tiếp theo là cách nhìn cho rằng xác thực về các triều đại... Đồng thời, cách đọc hiểu Toàn thư như thế cũng là của người đứng ngoài, đứng ngoài sự vướng víu của hệ thống chính trị, giáo dục cũ, mới. Cho nên đã nghĩ ra, và không phải ngượng ngùng, mắc cỡ khi giải thích câu “Ngô Phụ quốc thị Lan, Lê Đô quan thị Kích” cũng như khi nói chuyện về các linga, các dấu hiệu tính dục của dân, quan, vua Lí, Trần... trong quá khứ. Không phải vướng víu với tinh thần trung trinh của các sử quan chuyển qua tinh thần dân tộc quá khích của học giả mới, nên không bị hào quang chiến thắng của Lê Lợi, uy vũ của Lê Thánh Tông làm khiếp sợ, cúi đầu thán phục mà quên sự khởi đầu hữu lí, sự trưởng thành trong tranh chấp tìm quyền lực của họ Lê. Và họ Trịnh, và họ Nguyễn... Là kẻ ở ngoài nên cứ viết! Tất nhiên lúc còn trong nước vẫn đã đem ý nghĩ mình lên giấy. Nhưng cứ chuyền cho bạn bè đọc mãi thì cũng thấy nản. Họ có đời sống riêng của họ, có cơm áo và sự bắt buộc thích ứng. Gởi ra ngoài thì in chữ được chữ mất, và cũng phập phồng. Ra ngoài thoát khỏi tình trạng “cái gai trước mắt”, Nhà nước ta không thể ngăn thì cứ “lờ” đi là được, không cho “chữ của nó” về gây độc hại thế là xong! Ở ngoài cũng có những người có thể không bằng lòng về chuyện ông vua Hùng, về chuyện bêu xấu ông Lí Thường Kiệt... nhưng người ta còn lo làm ăn, lo đại sự, còn phải tính chuyện hoan hô, đả đảo các nhân vật danh tiếng, cứ đánh chữ đại xá đi! Cho nên, ngoài việc sợ supervisor của sở, còn thì cứ viết thoải mái!
Ngay từ lúc đầu, khi dùng tựa đề “... đọc một quyển” cũng đã thấy là “ăn gian” bởi vì có dẫn các sách khác, dù là sách Chợ trời, chứng tích của loại kiến thức “một đôla” từ nơi phát xuất đó. Nhưng cũng vì tự cho mình thoải mái nên sử dụng cả trí nhớ mù mờ, loại bằng chứng mà các học giả nghiêm túc mới nhìn ra là đã gạt phăng, không thèm đọc. Chẳng hề gì. Tuy có loại trích dẫn bằng cớ làm hoảng kinh người của các trường Đại học, các Ban, Viện nghiên cứu, kiểu “Lm.X, (sách) XX, Bibliothèque Payot, 1949? 1950?” cho sự xác thực của quyển Quỳ hoa bảo điển, nhưng cứ coi như tự cho mình làm một cái giấy nợ dù có thể không trả nổi. Xin hứa nếu gặp
may mắn thì sẽ trả lần hồi. Như lần này đã sửa được một ít với việc tiếp cận vài tài liệu nhờ thời “hưu trí” và các chỉ dẫn của Giáo sư Nguyễn Thế Anh, sửa trong chừng mực có thể được. Tập họp trở thành “Sử Việt, đọc vài quyển”, nguyên cũng là cắt gọn từ một tựa đề khác khi qua một cơn bệnh hoạn muốn viết cho một vấn đề bao gồm hơn, có đưa vào đây. Chuyện xưa lan dần đến chuyện trước mắt, vừa xảy ra còn thấm vào người. Nhân tiện, cũng ghép vào đây sự tranh luận bất chợt với những người khác. (Gọi “tranh luận” trong lúc chỉ là ăn-theo sự khởi xướng của người khác, không có “đối thoại” thực sự, nhưng vẫn tạm cho là dùng đúng chữ nghĩa, bởi vì thấy mình cũng đang làm việc một chiều, đối kháng với các học giả đọc Toàn thư!) Đề từ cho tập sách là mượn lời Vương Ngư Dương, theo trí nhớ ở bản dịch Liêu trai của Tản Đà, đọc từ hồi nhỏ: “... vọng thính chi; Đậu bằng qua giá vũ như ti...” Ở xứ này không thấy mưa lưa thưa như tơ qua giàn dưa đậu, chỉ nghe tiếng xe hơi nhưng có căn nhà ma không ai dám ở, thì nói chuyện sử ngang ngạnh chắc ma cũng nghe được, nên mượn lời người xưa cho vào. Tập họp lại thì cũng phải cắt xén, sửa đổi cho có sự đồng nhất, khỏi xô lệch, lặp lại, loại bỏ những ngớ ngẩn, ngô nghê của lần ra mắt trên tạp chí chỉ vì lẫn lộn chữ nghĩa nghiên cứu với cái palet, cái máy quây dây điện trong sở... Do đó thời điểm ghi vào cuối mỗi bài viết ở đây đều là của lần xuất hiện đầu tiên, chỉ được giữ lại như dấu hiệu của một giai đoạn để chờ đợi những đổi thay tiếp, nếu có thể được. Phần viết cho “... một quyển”, do có các dòng chữ mới này đáng lẽ phải loại bỏ ra, nhưng tiếc-của, xin giữ lại ở cuối sách làm kỉ niệm.
Và cuối cùng, dù có viết loạn xạ cũng xin dành những dòng nghiêm túc tặng:
Giáo sư Nguyễn Khắc Kham, San Jose;
Giáo sư Nguyễn Thế Anh, Pháp.
Westminster, California tháng Tư 2004
Cho lần Văn Mới xuất bản 2004
Á Ử Ẩ Ấ Ở Ầ
I. CÁC SỬ QUAN ẨN KHUẤT THUỞ BAN ĐẦU
TỪ NHỮNG NGƯỜI CÓ CÔNG TRÌNH
Chúng ta phải từ những người có mặt rành rẽ để suy ra những người ẩn khuất. Như đã biết, bộ Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư, [TT]) in lần đầu năm 1697, là một tập họp sử kí của nhiều người, qua nhiều đời, người sau nối tiếp sửa đổi công trình của người trước, không theo một chuẩn mực bản quyền như ngày nay, thành thử khó có thể phân biệt phần nào tồn tại đến bây giờ là của tác giả nào (trừ các phần bình luận có ghi tên tác giả). Ví dụ tuy biết Lê Văn Hưu, tác giả tiên khởi rõ ràng, viết đến hết đời Lí, nhưng phần đang còn nói về cùng thời đại, lại không hẳn là của ông ta. Và Đại Việt sử kí của ông cũng có phần của người đi trước: Trần Tấn / Chu Phổ, tác giả của quyển sách vẫn thường được gọi là Việt chí.
Thật ra truyền thống sử kí Việt là bắt đầu từ Trung Quốc không cần phủ nhận. Tuy Trung Quốc có đến 24 bộ sử chính thức của nhà nước cho các triều đại trong lịch sử (không kể triều Thanh cuối cùng) còn Việt Nam đến thế kỉ XVII chỉ có một bộ, nhưng sự khác biệt bên ngoài ấy chỉ là do hoàn cảnh xuất hiện cuối cùng khác nhau mà thôi. Ở Trung Quốc, trong khi triều đại mới lên sai sử quan viết về triều trước thì ở Đại Việt, tuy các bộ sách không còn dạng riêng biệt, nhưng cũng có chứng cớ là Trần sai Lê Văn Hưu viết về đời Lí, (Hậu) Lê sai Phan Phu Tiên viết về đời Trần, Minh thuộc. Có khác là ở Trung Hoa, nhờ kĩ thuật in ấn từ thế kỉ X đã trở thành bình thường, sách soạn xong được đem in, trong lúc ở Đại Việt, vào đời Lí người ta còn phải cặm cụi chép kinh Phật xin về (1023, 1027) qua Trần, 23 năm sau khi Lê Văn Hưu dâng sách, người ta mới in kinh (1295) nên sử kí chỉ làm một bản dâng vua xem (mà gặp ông vua làm biếng, đòi đọc bản tóm lược, 1514!) người bên ngoài nghe lơ mơ, loáng thoáng, có được phổ biến thì cũng là chép (như bộ sử 26 quyển chép làm 2 bản của Vũ Quỳnh đầu thế kỉ XVI), tuyệt bản là phải. Cả bộ TT của Phạm Công Trứ, đến thế kỉ XVII, năm 1665, mới có một lần in đầu tiên mà dang dở, 23 quyển nguyên gốc nay chỉ còn thấy hơn một quyển, thì nói gì đến chuyện của thế kỉ XIII!
Triều sau viết sử triều trước cũng là một truyền thống đỡ gây khó chịu cho dòng họ đương thời, mà cũng giúp cho các sử quan đỡ gặp tai vạ. Gương Tư Mã Thiên còn đó: Bênh Lí Lăng bị quân quyền ra uy khiến ông điếng hồn, ngưng ngay nửa chừng về Vũ Đế, ông vua trừng trị mình (J. K. Fairbank). Tất nhiên hệ thống chính trị đương quyền, trong ý thức bảo vệ chính mình (Ngự sử đài không chỉ can vua mà còn hặc tội cả các quan) cũng đã đặt ra một số quy định bảo vệ sử quan, kềm bớt quyền lực của vua. Những quy định đó được tô vẽ bằng huyền thoại về sự ngay thẳng, cương trực của các sử quan đời Xuân Thu Chiến Quốc, nhưng trong thực tế, thường thì quyền lực vẫn là ở thế áp đảo. Không nhắc chuyện Tư Mã Thiên xa xôi, Trần Minh Tông bãi quan chỉ vì tội không cho ông vào Ngự sử đài (1342), Lê Thánh Tông thì đòi xem sử quan ghi chép những gì về mình. Có khi cũng thấy tội nghiệp không những cho người viết sử mà cho cả ngành sử nói chung: Trần Đình Thám sau 1400, không vừa lòng với người chủ mới liền được “giáng làm Giám tu quốc sử bí thư giám”. Tất nhiên không kể đến trường hợp các ông sử quan đón ý chủ, sửa sách cho vừa lòng người trên (Đoàn Nhữ Hài). Có điều, thực lục chép về vua, triều đại đương quyền thường vẫn được cất giữ, không phổ biến khiến cho tác động không rộng lớn, vua quan chịu nhường bước nhau một chút để cơ chế được điều hành suôn sẻ, hệ thống được tồn tại. Tuy nhiên, có vẻ như Đại Việt không có thời gian tồn tại lâu dài như Trung Quốc nên không có sự kiên nhẫn chờ đợi đến triều đại sau. Sự đan xen thời đại và tính cách chính thống lại khiến cho sử quan viết về Minh thuộc tất phải nhắc đến ông vua đầu đời. Ngô Sĩ Liên bị Thánh Tông mắng mỏ, khi viết Tam triều bản kỉ, sát đến đời vua trước, có run tay không? Trước ông, Phan Phu Tiên, mà đoạn bình luận 1459 về biến động giết vua (Nhân Tông) có vẻ lạc lõng khiến sử gia ngày nay thắc mắc, đoạn ấy cũng chỉ chứng tỏ là sử quan nói hùa theo thời thế của vua đang lên, chê trách kẻ cướp ngôi cùng triều thần theo kẻ nguỵ. Còn các sử quan tiếp theo? Nhờ Ngô Sĩ Liên, họ có được một Ngoại kỉ Hùng Vương thật chi tiết, và tiếp tục viết về các đời vua về trước, ngay trong triều đại Lê của mình. Nhưng điều “nóng hổi” đó cũng gây bất lợi cho người sau: Chẳng cần thấy gương Tư Mã Thiên, sử quan vẫn không dám nói động đến cha, ông nội... của vua/chúa
trong thế tranh chấp đương thời, nên bộ sách về thời Lê Trung hưng đọc thật chán ngắt!
Trần Thái Tông sai Lê Văn Hưu soạn sử cũng vì nhiều lí do tụ hội. Triều Lí đủ dài để ông vua đầu đời muốn biết về lịch sử dòng họ có trước mình. Một thời hưng thịnh dài trước đó, đặt căn bản trên sự bắt chước nền móng tổ chức chính quyền của Trung Hoa, cũng đưa kinh sử thế tục Nho Giáo vào thay thế kinh Phật, và tầng lớp nho sĩ tuy còn ở địa vị gia thần nhưng cũng đã xây dựng được uy tín riêng khiến dòng họ đương quyền phải theo các truyền thống có sẵn của tầng lớp này. Tuy nhiên việc Lê Văn Hưu có mặt chính thức với bộ sách ông soạn còn lưu truyền (dù dưới hình thức thay đổi) và việc Trần Tấn / Chu Phổ làm sử quan với quyển sách soạn xong mà chỉ được nhắc bởi một tư nhân, chứng tỏ còn có sự mù mờ trong sử sách vào đầu Trần. Cho nên không lấy làm lạ rằng Lí không còn lưu lại sử kí của riêng mình mà chỉ có những ghi chép thực lục theo một truyền thống khác để người sau tổng hợp lại mà thôi. Sự chuyển đổi Lí Trần do đó cũng đánh dấu thời điểm xuất hiện rành rẽ của văn bản sử Việt. Công việc dò tìm các sử quan ẩn khuất rốt lại là một việc đi ngược thời gian Trần Lí, từ chỗ sáng mù mờ mò mẫm vào trong tối tăm, khuất khúc.
CÁC SỬ QUAN TIÊN KHỞI
Sử quan là chỉ chung các nhân vật được đặt để làm việc ghi chép sử của dòng họ nhà vua, từ đó lan ra đến chuyện của thần dân, đất nước ông vua cai trị. Bằng chứng về hình trạng những người này cũng xuất hiện theo thứ tự đó. Ông vua đầu đời Lí đã xuống chiếu làm ngọc điệp, gia phả của vua (1026). Nhưng mãi đến gần một thế kỉ sau mới thấy chức vụ và tên người làm việc cho triều đình, cho nước: Thái sử Trần Độ 1121. Sự xuất hiện này hẳn có lí do, là một chỉ dấu quan trọng làm nổi bật một thành phần quan chức trong triều đại, qua những năm tháng tổ chức chính quyền.
Nhưng mãi về sau, khi tổ chức chính quyền phức tạp hơn thì mới có cơ quan chuyên viết sử như Quốc sử viện chẳng hạn. Sơ khởi, tài liệu về vua (và ảnh hưởng toả rộng từ đó) là bắt đầu từ một cơ quan
gần cận vua theo quan niệm tổ chức chính quyền Nho Giáo, của khuôn mẫu Trung Hoa: Ngự sử đài. Mà cái dáng Ngự sử đài liên hệ đến sử thì chỉ mới thấy đầu đời Trần với chức vụ của ông “sử quan ca rằng, sử quan ca rằng..” ấm ớ (như Ngô Sĩ Liên đã chê) trong tiệc rượu năm 1251: Ngự sử trung tướng / trung uý Trần Chu Phổ. Cho nên, với ông vua thứ hai triều Lí, ta chỉ mới thấy có các tên người và chức vụ Tả, Hữu gián nghị đại phu (1028). Chức vụ đó thấy rải rác suốt đời Lí: Mâu Du Đô (1128), Lưu Vũ Nhĩ/Xứng (1141), Trần Trung Tá (1179), và nhất là Thái sư Lí Đạo Thành thất thế trong cuộc giành quyền làm mẹ của các Bà, bị đẩy đến tận Nghệ An, với chức gián nghị như để an ủi. Họ can vua, ghi chép lời vua phán, việc làm của vua, giữ chúng lại và thành tài liệu cho đời sau. Đó là những sử quan chính thức ban đầu mà người chuyên trách đầu tiên được biết đến là Trần Độ như đã nói.
Có dấu hiệu là ở đời Ngô chưa có sử quan chính thức, dù là trong dạng sơ khởi như ta thấy. Từ lúc phần đất Đô hộ phủ cũ tách rời khỏi Đế quốc, các nho thần Trung Quốc không thể với tới cho chính xác hoặc với nhiều chi tiết, về những sự kiện xảy ra ở đây. Hiển nhiên phần lớn sự kiện đều phải là của người trong nước ghi chép (hay nhớ lại ghi chép). Thế mà ta thử đọc những sự kiện còn ghi lại về đời nhà Ngô. Có năm tháng về những biến động chi tiết xảy ra: đánh Nam Hán, lên ngôi, tranh giành quyền lực, sụp đổ... Những điều này có thể còn nhớ được nếu có người ghi chép không xa về sau, vì đó là những sự kiện lớn thường dễ dàng được lưu giữ theo tâm lí chung của con người, gây tác động đến giới viết sử ngày xưa (và đến ngày nay có lúc vẫn còn). Thế mà trong đời Ngô có những khoảng trống năm tháng dài không được ghi chép: năm năm từ lúc Ngô Quyền xưng vương cho đến khi mất (939-944). Chi tiết “lập Dương thị làm hoàng hậu” là một sự kiện ai cũng nói được, không thừa nhưng thiếu. Các ông vua Đinh, Tiền Lê, Lí lập nhiều hoàng hậu, tuy đúng với thời đại nhưng bị các sử quan đời sau chê thậm tệ – không phải chê nhiều vợ mà chê không đúng khuôn phép các ông được dạy dỗ: một hoàng hậu vợ chính và nhiều phi tần, bao nhiêu cũng được. Thế thì vì lẽ gì Ngô Quyền chỉ có một vợ? Đó chứng tỏ là điều nói mò của các sử quan đời sau: Con ông Dương Diên Nghệ
tất phải họ Dương, ông chồng làm vua, tất bà phải là hoàng hậu, còn ai khác, không biết, nên không nói tới. Lối nói mò như thế cũng thấy ở sự kiện tiếp theo: “(Ngô Vương) đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”. Câu nói này trở thành sự kiện lịch sử đáng ghi nhận suốt đời sống sách TT đến thế kỉ XVII, dài dài qua Ngô Thì Sĩ thế kỉ XVIII, rồi Phan Huy Chú thế kỉ XIX, các sử sách thời đại khoa học thế kỉ XX và không chừng còn qua hết thế kỉ XXI nữa.
Một khoảng trống khác là dưới đời Ngô Xương Văn. Trong 14 năm đó có chuyện chia quyền với anh, giao tiếp với Nam Hán là điều trong thông lệ ghi nhớ đã nói. Có sự kiện giao tiếp với Đinh Bộ Lĩnh nhưng chi tiết lại rõ là chuyện bịa: việc treo Đinh Liễn trên cây, doạ giết có dáng như chuyện Bái Công – Hạng Vũ. Người ghi chuyện này hẳn là của Đinh, đặt chủ mình vào địa vị Lưu Bang (anh đình trưởng), còn kẻ thua, họ Ngô, là Hạng Vũ (thân vương nước Sở). Cứ tiếp tục theo “truyền thống” đó mà nhân vật cùng loại của Tiền Lê, sau này sẽ cho diễn màn Binh biến Trần Kiều của Triệu Khuôn Dẫn trên đất Hoa Lư trong việc Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lấy ngôi Đinh. Và cũng không lấy làm lạ rằng họ đã lẫn lộn tên một ông tiên được vua Tống vời đến kinh thành Biện Lương, với ông đạo sĩ từng đoán anh em họ Triệu lên làm vua, mà cho ông Trần Đoàn cũng phải đến Hoa Lư để đem thêm chính danh cho vua (992) – xác nhận rành rành nghiêm chỉnh đến mức các sử quan đời sau chỉ đánh dấu hỏi nghi ngờ mà không dám bài bác! Về phương diện tôn giáo thì như các nhà sư Trần sẽ bắt chước lối “truyền đăng lục” của Trung Hoa mà gán ghép các tập họp Phật giáo ở Đại Việt vào những dòng Thiền vậy. (Xem Cuong Tu Nguyen, Zen in Medieval Vietnam – A Study and Translation of the Thiền uyển tập anh, Kuroda Institute, Honolulu 1997).
Đời Đinh thì có khác với một bằng cớ gián tiếp, cần thêm suy đoán. Hãy chép lại lời bản dịch 1993: (Ba năm sau khi lên ngôi, Đinh Bộ Lĩnh) “... quy định cấp bực văn võ, tăng đạo. Lấy... Trương Ma Ni làm tăng lục”. Hầu như không có ai dịch khác. Nhưng chúng tôi đã lưu ý (Thần, người và đất Việt [bản mới], Văn Học xuất bản 2000, trang 188, 199 chú 25) rằng người đó có thể là Ni (sư) Trương Ma, bởi vì chứng cớ cuối đời Lí cho biết ni và tăng ở chùa không có phân
biệt. Nhận xét của Đàm Dĩ Mông (1198 – chi tiết trong Đại Việt sử lược, bản dịch Nguyễn Gia Tường, Tp. Hồ Chí Minh 1993, tr. 234- 235) là một cách đòi lại người sưu dịch cho nhà nước (“ban ngày thì ẩn núp”) mà nhà chùa đã thu tóm dưới dạng tăng sĩ (“tăng đồ và sưu dịch số lượng chẳng kém gì nhau”), cho nên phải kể tội uống rượu ăn thịt, gian dâm của họ chứ đó cũng là điều không thể tránh khỏi trong tổ chức đương thời: Từ Đạo Hạnh (?-1116) có mẹ họ Tăng, một cách nói khác về một ni cô, và có cha làm Tăng quan đô sát, người kiểm tra hệ thống tăng lữ, nghĩa là một nhà sư! Hàng đạo sĩ đương thời cũng từng có vợ con như vậy: Phùng Tá Chu, cựu thần nhà Lí, nhờ công giúp rập nhà Trần mà cha là Phùng Tá Khang có chức Tả nhai đạo lục (1244) để TT thêm một lời khen vua: “lễ ưu hậu lắm” đó. Sự kiện uống rượu, ăn thịt của Mật tông đã được phái Tiểu thừa của Miến Điện lấy làm chủ điểm bài bác sự lạc đạo của phe đối nghịch (The Cambridge History of South East Asia, Vol. I, Part I, Cambrige University Press, 1999, p. 297), thế mà dấu vết Mật tông đương thời lại được thấy trên các bảo tràng của Đinh Liễn và xưa hơn, trong truyền thuyết thai sinh thần bí của truyện Man Nương, cho nên ta cũng không lấy làm lạ về sinh hoạt chốn thiền môn mà Đàm Dĩ Mông công kích.
Với thời đại mà địa vị người đàn bà còn rất quan trọng trong xã hội (TCĐT, “Việt Nam ở thế kỉ X” trong Những bài dã sử Việt, Thanh Văn xb. 1996, tr. 142-145) đến nỗi các sử quan nho gia không hiểu nên bài bác thậm tệ, thì việc có một ni sư giữ vai trò cao cấp trong hệ thống tăng lữ đương thời để nhà vua đưa vào chính quyền, không phải là điều lạ. Rối loạn trong cung cấm nhà Đinh chẳng phải vì quyền lực truyền thống đương nhiên của dòng mẹ ấy sao? Ni sư cũng không phải là một từ thông thường mà là một cấp bực quý trọng: Năm 1113, công chúa Ngọc Kiều (sinh 1042), con của Phụng Càn Vương (hoàng tử được Thái Tông quý trọng mẹ đẻ đến nỗi chuyển tình sang con, sai đúc tiền riêng mang tên cậu bé), vị công chúa ấy được gả về một lãnh chúa danh giá, goá chồng, đi tu, năm ấy chết, sau được Thần Tông tôn làm Ni sư. Xa mãi về sau, khi Trần Anh Tông định đi tu (1318), muốn có đàn bà theo hầu mà chỉ viên nữ quan Nguyễn Thị Diên thuận tình, người này liền được cấp
ruộng, và có Phật hiệu là Tịnh Quang ni – chỉ vì người dịch sách đời nay nắm chi tiết rõ ràng là phụ nữ nên không lầm với tên người nam mà thôi!
Theo ông Nguyễn Tự Cường (Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam..., sđd, tr. 338, chú 21) thì Trương Ma Ni trong một truyện về Phù Đổng Thiên Vương được cho là người lập chùa Kiến Sơ, và tin vào Thiền uyển, ông nghĩ rằng Trương Ma Ni (đàn ông) và Cảm Thành, người lập chùa Kiến Sơ của Thiền uyển, không phải là cùng một người. Giá như coi đó là một Ni sư thì chủ chùa có thể là hai người nam nữ cũng vẫn hợp lí! Theo thông lệ, người ta vẫn cho rằng những chứng cớ được nhiều người, nhiều nơi nói đến thì tất đáng tin hơn chứng cớ chỉ từ một nguồn tin, mà có khi quên chú ý đến giá trị riêng biệt của nguồn tin. Nhiều chứng cớ từ một nguồn gốc, trên cùng một cơ sở tin tưởng thì không hơn gì một chứng cớ duy nhất đặt căn bản trên một cơ sở khác. Đạo Phật dù đặt căn bản trên sự cứu vớt con người nói chung, vẫn không qua khỏi thành kiến trọng nam có ngay từ lúc khởi đầu. Phật Bà Quan Âm rõ ràng là một xuất hiện muộn màng. Cái ego đàn ông càng nặng hơn khi sách vở về Phật Giáo lại qua tay những nho sĩ – hay những người thâm nhiễm văn hoá Trung Hoa tràn đầy tính chất phụ hệ. Các loại truyện tích từ Việt điện u linh tập (VĐULT), TT, tuy có qua tay các nho sĩ nhưng vốn chép về một dân tộc (Việt), về diễn biến trong thời cổ sơ của nó nên dù có ý viết theo quan điểm các tác giả đó thụ nhận, cũng không thể xoá hết các vết tích sơ khởi của nó. Nhắc lại không thừa về dấu vết truyền qua dòng mẹ ở các thế kỉ đầu thời độc lập, về tàn dư tục ăn thịt người xuất hiện trong đời Đinh (trong truyền thuyết “cỗ đầu người” của Nguyễn Biểu, qua thế kỉ XX với sự giấu diếm né tránh của người nay), dấu vết về các “nhân vật lịch sử” không che giấu được xác thân thần thánh của họ, về các tăng ni có vợ có chồng – như các đạo sĩ cùng thời... Trong thế cân bằng về nguồn tin như thế thì chứng cớ có một Trương Ma (ni) chủ chùa Kiến Sơ cũng phải được đặt ngang hàng với nguồn tin thiền sư Chí Thành / Cảm Thành chủ chùa ấy.
Vấn đề quan trọng hơn, ở đây, là vai trò của người tăng lục. Sử ta không nói thêm về chức vụ này nhưng dựa vào danh xưng từ mặt
chữ Hán thì “lục” có nghĩa là “sao chép”, hợp với tình thế sao chép kinh của cả đời Lí về sau (ví dụ năm 1023, 1027). Không chỉ sao chép mà còn là “ghi chép”. Vì thế chúng ta mới thấy chức tăng lục, thành lập (807) dưới đời Đường Hiến Tông (806-820), được Vũ Tông (841-846) truyền lệnh “cùng với các tăng sĩ thông Tam giáo ghi chép các sự biến” dâng lên vua xem (Cuong Tu Nguyen, sđd, tr. 353, chú 51). Vai trò sử quan của tăng lục ở Trung Hoa có thể là phụ, nhưng rõ ràng là chính ở Đại Việt trong đời Đinh, Lê, Lí khi sử quan nho gia chưa đủ thực lực để lấn lướt.
Chúng ta có thể xét đến một người liên quan đến nhiệm vụ của tăng lục ở mãi thời đại về sau: Lí Tế Xuyên, người viết VĐULT 1329, trong chức vụ đứng đầu tập họp quan chức nội đình có nhiệm vụ giữ bộ kinh Đại tạng (“thủ Đại tạng thư hoả chính chưởng”). Người ta đã tranh luận về chức vụ này và từ đó dẫn xa đến việc đoán định Lí Tế Xuyên là người của thời Lí. (Tóm lược ở phần Dẫn nhập của Lê Hữu Mục, Việt điện u linh tập, bản in lại của Đại Nam, California, không năm. Bản mới chụp in trên bản cũ nên vẫn giữ nguyên các sai lầm trong khi dịch, sai lầm chỉ vì người đứng tên không đủ khả năng kiểm tra công việc của những người được thuê làm. Chúng tôi cũng không thể kiểm tra xem bản chữ Hán có đúng với nguyên tác sử dụng không). Lí Tế Xuyên người đời Trần là điều không thể chối cãi được nhưng “thư hoả” là chức vụ và cơ quan nội đình có tự đời Lí. Đơn vị “hoả” xuất hiện lần đầu 1060 với các tên Ngự thuyền hoả, Củng thánh hoả, Tuỳ long hoả (Đại Việt sử lược / ĐVSL); năm 1088 lập đến “mười hoả thư gia”, và đến năm 1128, 1149 (TT), 1182 (ĐVSL) thấy có chức trung thư hoả – có phải là gọi tắt “thư hoả... trung phẩm” như của Lí Tế Xuyên? Sự liên hệ cho ta thấy từ lúc Lí xin được kinh (1020) rồi làm nhà chứa kinh (1021), người trông coi kinh lúc đó phải là một nhà sư, và cũng là nhà sư phải giữ kinh họ Lê xin được (1005 theo suy luận nơi cột đá còn lại, 1009 theo TT). Trưởng nhóm hẳn là tăng lục. Sự hiện diện của Lí Tế Xuyên chứng tỏ về sau vai trò đó được giao cho một người thế tục nhưng việc ông Lí viết sách cũng chứng tỏ tăng lục không phải chỉ làm việc giữ và chép kinh.
Không thấy sử nói đến tăng lục nào ở các thời đại tiếp theo, sau người đầu tiên. Lê Hoàn có Thái sư Hồng Hiến (+988) người Trung Quốc, “thông hiểu kinh sử... làm quân sư... mưu bàn việc nước...” nhưng chắc không kịp có thay đổi gì về phương diện này, vì rõ rệt các sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh... vẫn xuất hiện như người cố vấn cao cấp của các vua tuy có dáng hơi sa sút vai trò trong thời gian ngắn ngủi của Lê Ngoạ Triều. Với đời Lí. tuy đã có chức gián quan thế tục như đã nói, nhưng rải rác vẫn có tiếng nói gián quan của nhà sư: Sư Pháp Ngữ bác các quan chúc mừng điềm lành (1053); năm 1202 lại có Tăng phó Nguyễn Thường can vua đừng đi chơi cung Hải Thanh để nghe nhạc Chiêm Thành ai oán. Theo thứ tự cấp bực đời Đinh đã kể thì có thể xem tăng phó là tăng lục, và lời can của ông sư mang nội dung của nhà nho chứng tỏ tính cách của một giao thời, một thời ghi sử sắp chấm dứt với nhà sư và quan niệm Phật Giáo ngự trị.
DÒNG SỬ KÍ TĂNG ĐẠO
Vậy thì có thể xem như dưới các triều Đinh, Lê và một phần đời Lí, những người ghi chép sử là các tăng quan. Họ là người được lệnh ghi lại các biến động về trước, thời giành độc lập, có thể đi sâu vào thời ngoại thuộc trong lãnh vực Phật Giáo (với những tin tưởng bình dân mà tôn giáo họ đã chấp nhận). Họ có ảnh hưởng đến cả những sử quan thế tục khi những người này xuất hiện trong triều đại. Cho nên ta có thể nói đến một dòng “sử kí tăng đạo” cho các vương triều này, còn in dấu trong các sao chép lại của đời sau.
Người viết nào thì cũng là của thời đại họ sống, theo với khuôn mẫu của tập thể đào tạo nên họ. Kinh Phật là từ Trung Hoa sang, tăng nhân tất phải thông thạo chữ Hán, và do đó, thông thạo Nho học. Hình ảnh rồng liên hệ đến thân phận nhà vua chẳng dính dáng gì đến tin tưởng của Ấn Độ, thế mà nhà sư Pháp Ngữ biết phân biệt được cao thấp. Tăng phó Nguyễn Thường can vua, viện dẫn đến Khổng Tử. Lí thuyết cao hấp dẫn người trí thức đương thời nhưng thân phận tăng đồ gắn liền với quyền lợi chức vụ, ruộng đất nên những người học Nho quay sang làm tăng. Mớ lẫn lộn đổi thay vị trí
cộng đồng như thế khiến tăng sĩ không giữ được tính chất thuần tuý của tôn giáo mình. Và những tin tưởng thần bí của dân chúng đương thời không phải đã không lấn mạnh vào các tập nhóm Phật Giáo đang ở vào tầng lớp trên của xã hội. (Xem của chúng tôi, Thần người và đất Việt [bản mới]; “Thiền uyển tập anh” trong Cuong Tu Nguyen, sđd.) Một quyển sách ghi chép về tập họp thần linh được thờ cúng như VĐULT, xưa như thế mà trải qua các biến chuyển vẫn còn lưu truyền, chứng tỏ không phải chuyện tình cờ mà là do sự cố kết của nó với dân chúng, trí thức khiến nó được giữ gìn, cất giấu, sao chép qua các đời loạn li, nhất là qua biến động ghê gớm thời thuộc Minh. Gọi hướng ghi chép sử theo dòng/phái “tăng đạo” là muốn thêm ý nghĩa “Đạo/Thần Giáo” qua các tăng sĩ Phật Giáo theo với tinh thần thời đại đã bàn ở trên.
Dấu hiệu tư tưởng Phật Giáo chen vào thời kì viết sử này thấy rõ ở cách gọi tên thời biến động trước Đinh: thời Thập nhị / Mười hai Sứ quân.
Khi thuộc địa phương Nam của đế quốc Trung Hoa tan rã thì những lãnh tụ địa phương nổi lên tự cai trị phần đất trong vòng quyền lực họ tạo dựng được. Chúng ta không nói đến những lãnh địa bên rìa đồng bằng mà ngay cả các quan cai trị Trung Hoa cũng phải để họ tự trị, theo một chế độ lơi lỏng với chính quyền trung ương mà họ gọi là “ki mi”. Các lãnh chúa ngay trên vùng đồng bằng, có chứng cớ đã làm bận rộn không ít các chính quyền độc lập thay thế thiên tử Trung Hoa ở địa phương, đóng ở Cổ Loa, Hoa Lư hay Thăng Long. Năm 897 Lê Hoàn còn phải đánh dẹp ở Đỗ Động Giang, phần đất của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc mà theo thói thường ta tưởng là đã thuộc triều đình từ lâu. Các lãnh tụ đó, ngay cả sau thời “thống nhất” của Đinh Bộ Lĩnh, với đôi người được biết, là những “quản giáp”, có binh lực riêng, phụ thuộc quyền trung ương mới như là trong một liên minh dễ dàng tan rã khi có đụng chạm đến quyền lợi thiết thân: nạp tô thuế. Cho nên, sau khi “thống nhất”, vùng Ái Châu còn một ông Lê Lương mà Đinh Bộ Lĩnh chỉ có cách phong tước vì không đủ sức chiếm đất. Còn bao nhiêu ông Lê Lương khác, ví dụ ông quan sát sứ nào đó đã đủ quyền lực cho ông “con nuôi” Lê Hoàn lên làm Thập đạo tướng quân triều Đinh? Quan sát sứ là một chức quan địa
phương quan trọng, như trường hợp Sái/Thái Tập được lệnh cầm quân đánh Nam Chiếu (862), nghĩa là có thể vẫn còn ở Ái Châu sau thời thuộc Đường, và sau khi chìm lấp trong sử Việt lại xuất hiện ở thời chống Minh với chức tước ban từ ông Lê Lợi, người Thanh Hoá / Ái Châu. Thời Lê Hoàn làm vua thì có quản giáp Lưu Kế Tông theo đánh Chiêm Thành (982) “trốn” ở lại làm vua xứ đó, có quản giáp Dương Tiến Lộc không chịu nạp thuế làm vạ lây đến dân hai châu Hoan Ái!
Còn trong vùng đất đồng bằng của thủ phủ La Thành cũ, các lãnh chúa không phải chỉ có 12 người. Một sứ quân đời sau kể, là Phạm Phòng Át / Bạch Hổ đã có mặt chống đối nhà Ngô từ 945. Không nên nói rằng ông ta vì trung thành với Ngô Quyền (mới chết năm trước đó) mà chống Dương “Tam Kha”. Không phải là một lãnh chúa vẫn còn quyền tại Nam Sách từ trước thì ông không thể nào đủ sức đương cự đến ba lần sự hợp lực của hai sứ quân khác, đến đòi Xương Ngập. Địa vị cao của hai người này thấy rõ trong từ “chỉ huy sứ”, chắc sẽ vẫn là cùng ý nghĩa khi sử quan Lê sơ dùng để chỉ người đứng đầu các nhóm (có lẽ là địa phương) theo Minh, phản Minh, chịu đầu hàng, rồi cũng chỉ một chức quan sau thời thuộc Minh. Tập họp quân của Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc có thể coi như một tình trạng liên minh cấp thời, như ở vùng xa xôi phía nam, Đinh Bộ Lĩnh liên minh với Trần Lãm. Và cả tương quan giữa hai “sứ” này với nhà Ngô cũng cho thấy chỉ là một liên minh có dáng thần phục ở một bên, kiểu như Đinh Bộ Lĩnh để Đinh Liễn ở triều đình này mà không ngăn được xung đột giữa hai phe trung ương Ngô và địa phương Đinh. Nếu tin theo VĐULT thì Lí Huy cũng phải được coi là một sứ quân ở vùng sông Lục Đầu với nơi tập trung là núi Côn Lôn – hẳn là Côn Sơn của Nguyễn Trãi sau này, nghĩa là vùng Chí Linh ngày nay. Trong đời Dương “Tam Kha”, đã có loạn ở hai thôn Đường, Nguyễn (950). Loạn này kéo dài đến năm 965, gây nên cái chết của Ngô Xương Văn, bắt đầu mối loạn mà sử cũ gọi là Mười hai sứ quân. “Thôn” đời ấy không phải là thôn đời sau, nhưng hẳn là một đơn vị cư dân không lớn, vậy mà vẫn thách đố chính quyền họ Ngô, cái chính quyền có gốc gác ở không phải chính nơi, thì cũng gần nơi làm loạn ấy. Gốc gác Đường Lâm của Ngô Quyền
hẳn là căn bản quyền lực để cho một người có vẻ cũng thuộc dòng đích, trở về làm sứ quân nơi ấy với tước vương tự xưng: An Vương Ngô Nhật Khánh. Hai “chỉ huy sứ” Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đi theo Ngô Xương Văn dẹp loạn cũng không phải trực tiếp thuộc quyền Dương “Tam Kha” nằm ở Cổ Loa, mà hành xử như các quyền lực riêng biệt trong liên minh. Bởi vì, Xương Văn mới chết năm trước thì năm sau Đỗ Cảnh Thạc đã là một sứ quân đủ quyền lực tranh giành quyền bính để sử quan phải kể ra. Theo đà suy luận hợp lí đó thì Dương Cát Lợi cũng phải là một sứ quân mà sử quan đã bỏ qua. Chỉ vì nếu kể ra thì quá con số Mười hai.
Số sứ quân hơn 12 đã có nhiều kẻ khác. Mà không phải họ không có thực lực so sánh với các nhóm được sử quan kể. Vùng Đỗ Động Giang được coi là của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, vậy mà còn có một “con em Ngô Tiên chúa” (vấn đề sẽ bàn luận sau) dẫn 500 binh đi gần suốt chiều dài trung châu, xuống biển để đánh nhau với lực lượng sứ quân Trần Lãm có Đinh Bộ Lĩnh liên kết. Vậy là vùng Đỗ Động Giang có hai lực lượng, một được coi là sứ quân, một không. Như với Đường Lâm. Chưa hết. Toán viễn chinh mới đến khoảng nửa đường (đối chiếu Ô Man/Lộ? với Bố Hải Khẩu) thì đã bị người làng (hương nhân) ấy là Ngô Phó sứ đánh tan. “Hương” có dân thiện chiến ấy chắc cũng không lớn nhưng với chiến công nọ thì phải đáng được kể là của một sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh vì địa vị chính thống có được về sau nên sử quan không thể kể là một sứ quân, nhưng còn chú của ông ta? Vậy là qua thiên tai thuỷ hoạ, bụi đất hằn học của con người trải dài hơn mười thế kỉ, ta còn đếm được 15, 16 sứ quân. Vậy tại sao chỉ kể có 12? Người Trung Hoa, như đã nói, trở thành kẻ đứng ngoài nên không thể có đủ số. Lượm lặt đâu đó cũng chỉ ra được bốn ông sứ quân, trong đó có ông Dương Huy không thấy trong sử Việt (kẹt lắm thì có thể ghép với Lí Huy của VĐULT), cuối cùng đành phải theo “Nguỵ kí” mà kể cho đủ 12 ông (Collection de textes et documents sur l’Indochine, Ngan nan tche yuan, E. Gaspardone dẫn giải, Hanoi 1932, phần chữ Hán, tr. 182). Tuy nhiên nếu xét kĩ thì thấy tác giả người Minh có phân trần “so với Chí lược thông khảo (?) thì không giống”, chỉ vì khi hỏi dò các bậc già cả bảo có 12 ông thì đành đem sắp 12 ông theo ý mình. Sử quan
Việt đã cho Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước thì không thể kể ông là một sứ quân, nhưng sử gia Thiên triều thì đâu có đếm xỉa gì đến điều đó, cho nên tác giả Ngan nan... gạt bớt ông Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt của sử quan Việt ra ngoài và để ông Đinh Bộ Lĩnh, “con nuôi” của Trần Lãm vào con số 12!
Vậy thì chỉ có thể nói: con số 12 là cố tình đếm vừa đủ cho hợp với một phạm trù nào đó của ý thức hệ đương thời. Xét theo cái khung ý thức lãnh đạo đương thời thì Con số 12 là được gợi từ ý niệm “thập nhị nhân duyên”, “thập nhị duyên khởi” của Phật Giáo. Chỉ vì người chép sử Đinh là một tăng lục, Ni sư Trương Ma, như ta đã thấy rõ nhiệm vụ thế tục giao phó cho Bà.
Hệ tư tưởng nào cũng thường mang một số ý niệm phổ quát, cô đúc giản dị trong một vài từ ngữ dễ nhớ, dễ thuộc để người ta đem ra sử dụng hàng ngày từ việc nhỏ tới việc lớn. Thời đại ngày nay đã cho chúng ta nhiều chứng dẫn. Còn giới cầm quyền Á Đông thời xưa hay nói về quan niệm “bỉ thái, hưng vong, trị loạn” như những đổi thay xã hội tất yếu. Nó mở đầu cho “tiểu thuyết” Tam quốc chí diễn nghĩa, bình dân hoá ý tưởng của các nhà chính trị, triết gia thời Xuân Thu Chiến Quốc, nó đi vào trong lời thư của Nguyễn Ánh mang tính cách trao đổi giữa những nguyên thủ, rồi lại thấy vụt nổi lên ở nơi phát xuất, ám ảnh vị lãnh tụ “Đại lão nhân gia” Mao Trạch Đông đã đem ra thực hiện, gây nên phong trào Hồng vệ binh làm kinh hoàng không chỉ dân tộc Trung Hoa. Về phía Phật Giáo, theo mối liên hệ nhân quả khởi đầu trong ý niệm Tứ diệu đế căn bản thì quan niệm Thập nhị nhân duyên, Thập nhị duyên khởi đã muốn đi tìm nguyên nhân của Khổ đế sâu vào tận chỗ Vô minh của con người, từ đó đưa đến những mức độ tu tập khác nhau qua các cấp bực Thanh văn thừa, Duyên giác thừa dẫn đến sự phân li các hệ phái. Quan niệm về Thập nhị nhân duyên ấy được thấy khắp các phái trong thế giới Phật giáo, từ lục địa lan xuống hải đảo Đông Nam Á, và nằm trên các tấm vàng lá cùng những phần chú giải, tìm được ở Java (The Cambridge History..., sđd, tr. 317, chú 95). Tất nhiên, Đại Việt từ lúc khởi thuỷ du nhập vẫn không xa rời nó. Người Phật tử tâm niệm hàng ngày với “nghiệp”, với “nhân duyên”... và điều đó đi vào tâm trí người tăng lục sử quan của triều Đinh, trở thành sự kiện lịch sử
muôn đời cho dân Việt. Sứ quân, không cần đếm rõ bao nhiêu cho đến hết, được coi như là mười hai “nhân duyên” gây ra khổ nạn loạn li cho dân chúng (cũng như con đường “nhân duyên” kềm hãm con người trong khổ nạn sống). Và việc dẹp tan sứ quân, là một Giải thoát, đã được thực hiện bởi người chủ tướng, vị hoàng đế đã đem lại ân đức cho Trương Ma, cho tôn giáo của Bà. Sự kiện lịch sử trần trụi đã được lồng vào ý thức hệ để tuyên dương cho ý thức hệ vậy.
Dấu vết sử quan tăng đạo còn thấy rõ trong chuỗi sấm truyền tiên đoán những sự thay bậc đổi ngôi về sau. Lời sấm bàn về biến động trong cung nhà Đinh “Đỗ Thích thí Đinh Đinh...” ở ĐVSL chỉ có 4 câu, ở TT có đến 8 câu. Vì ĐVSL chỉ là “lược” nên có thể cho rằng 8 câu ở TT là đầy đủ hơn. Và nhìn kĩ thì đó không phải là một câu sấm mà chỉ là một chuyện kể nối tiếp, có chen các ý tưởng bình luận, phê phán. “Đỗ Thích giết hai Đinh, Lê Hoàn lên ngôi, nhiều kẻ chết vì tranh quyền (đến nỗi) ngoài đường vắng tanh...” Ngôn từ và ý niệm được sử dụng ở đây lại làm nổi bật thêm ảnh hưởng của Phật Giáo trong việc ghi chép sử đương thời. Loạn sau khi Đinh Tiên Hoàng chết, với sử chính thức chỉ có hai phe đánh nhau (Lê Hoàn và nhóm Đinh Điền), với sử dân gian thì hẳn là vô số, thế mà “sấm” lại nói đến “Thập nhị xưng đại vương” (cũng con số 12!) Lại dẫn giải quan niệm “thập ác” thông thường của Phật Giáo nói về cái ác tràn lan (“thập ác vô nhất thiện”) khiến người đạo đức, hiền giả phải lánh xa (“Thập bát tử [La Hán] đăng tiên”). Rồi câu chuyện lan qua sao Kế đô. Sao này là của thiên văn học cổ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc trong kinh Phật (còn thấy trong sách tướng số ngày nay), cho nên người chú sách TT bây giờ (tập I, tr. 214, chú 3) cũng phải có nhận xét: “Người làm bài sấm trên – nhiều khả năng là nhà sư...” Sao Kế đô được cho là che mặt trăng, mặt trời (vua), nên “hai mươi ngày” của sao, có thể là ghi nhận thời gian biến động trong vụ hành thích cha con họ Đinh.
Câu sấm được cho là xuất hiện vào năm 974 cũng có ý nghĩa của thời gian khởi đầu tranh chấp trưởng thứ dẫn đến thảm hoạ, vì đó là năm Đinh Toàn, người con dòng chính sinh ra, và là Vệ Vương sau này – không kể người khác bị khuất lấp nhưng lại ở địa vị cao hơn, khuất lấp theo nguyên tắc ghi chép ở sử xưa dành cho người không làm vua: Hoàng thái tử / Chàng Lớn (“thiếu tử Hạng Lang” / “người
con [còn] nhỏ [tuổi là] Chàng Lớn”). Năm trước đó (973), Đinh Khuông Liễn được xác nhận danh vị từ Thiên triều Tống, và tự xác nhận quyền uy trong nước bằng việc dựng bảo tràng, nhưng không thấy kết quả lấn lướt được truyền thống, vẫn thấy mình bị thua kém trong lần xác định ngôi vị năm 978 nên ra tay giết em: “Tranh quan không nhường chỗ, hạ thủ trước là hay”, đó là lời để lại (979) trên bảo tràng cầu Phật chuộc tội giết người, không phải người bình thường mà còn là một tăng sĩ – Đại đức Đính-noa-tăng-noa / Hạng Lang. (Có thể phiên âm ra Phạn ngữ để biết đúng tên của Thích gia này có nghĩa là gì không?)
“Sấm” lại cũng tiếp tục xuất hiện dưới đời Lí để nói về việc dời đổi triều đại nhưng ở đây dấu hiệu chữ nghĩa của nhà nho đã chen vào (chiết tự) để không còn thuần là sự kiện xảy ra mà là như một số mệnh được báo trước. Ở ĐVSL chỉ có 8 câu vì dừng lại chuyện Lê Lí, TT chen thêm 2 câu nữa cho chuyện Lí Trần để có dạng “sấm” hơn. Nhưng ta vẫn còn thấy dáng nhà Phật trong sự chuyển đổi Lê Lí: Không phải “thập bát tử [La Hán] đăng tiên” bỏ đi như vụ Đinh Lê mà “thập bát tử thành”, bởi vì sau biến động là “thiên hạ thái bình”. Đành rằng Lí Công Uẩn lên ngôi là bắt đầu cho một thời kì yên ổn nội bộ kéo dài nhưng vai trò của sư Vạn Hạnh nói riêng, Phật Giáo nói chung sau thời khủng hoảng bởi Ngoạ Triều, có ảnh hưởng nào dẫn đến lời ca tụng “thái bình” này không?
Sự thiên lệch của sử quan tăng đạo thấy rõ trong những điều ghi chép về Lê “Ngoạ Triều”. Chắc ông vua này không tránh khỏi những bệnh tật nguy hiểm, hay những trái gió trở trời mà với khả năng y tế của thời xưa cũng có thể bỗng chốc trở thành trầm trọng. Hầu hết các ông vua Lí đời sau đều chết vào mùa lạnh. Chắc chắn Ngoạ Triều không phải bị bệnh trĩ đến phải “nằm mà coi chầu” như cái tên đã được hiểu theo cách hạ giá trị, vì trong bốn năm cầm quyền ông đã tỏ ra là người rất xông xáo hoạt động. Có chứng cớ Lê Hoàn cưỡi ngựa thì chắc Lê Ngoạ Triều cũng cưỡi ngựa, có nghĩa là ông không phải chỉ “nằm” mà có thể ngồi trên lưng ngựa, phải chịu dằn xóc trong thời gian dài, điều mà một người bị bệnh trĩ không thể nào chịu đựng được. Giết anh cướp ngôi, giành quyền với anh em khác đến nỗi ông vua cha chết trong 8, 9 tháng trời mà không kịp có miếu
hiệu đành chỉ để lại tên Đại Hành cho đời sau. Mùa đông tháng Mười chết mà trong năm đó Ngoạ Triều còn ở trên công trường xây dựng đường xá, suy nghiệm ra một cách rất thực tế về việc dò tìm lối có thể qua sông dễ dàng. Mùa thu tháng Bảy ông còn ở trên chiến trường Nghệ An, bỏ đường thuỷ theo đường bộ về kinh đô – có thể là lí do dẫn đến bệnh hoạn bỏ mình như Lí Nhân Tông thăm ruộng bị cảm chết hơn 100 năm sau. Tính chất hưởng lạc của ông (có bọn hề làm vui) thấy rất rõ qua những sự kiện sử quan dẫn chứng làm lời chê bai, kể tội ông nhưng thật ra lại là bằng cớ chứng minh cho danh hiệu của ông: nằm mà bàn chuyện triều chính. Một số chê bai khác có thể lại bắt nguồn từ nhận định khác biệt về ẩm thực. Ngoạ Triều có mẹ là người Chàm, tất lúc nhỏ phải có thời gian gần gũi lớp nữ tù binh Chàm cùng số phận với mẹ ông, và do đó có sinh hoạt ẩm thực khác với lớp người gốc Hoa Lư. Bị nhạo báng thì nín nhịn nhưng lúc có quyền, tại sao không bắt những kẻ kia bị gạt gẫm ăn thịt mèo để cười chơi? Gộp TT và ĐVSL thì có chuyện cùng bè bọn ăn thịt thạch sùng làm gỏi/chả, sao không thấy đó là dấu hiệu “trở về nguồn” của Ngoạ Triều thưởng thức cùng với người đồng chủng, đồng điệu? Con thạch sùng nhỏ xíu làm sao dọn thành món ăn gỏi, chả? Thạch sùng / thằn lằn trong nhà, hay thằn lằn / rắn mối, hay đúng ra là kì đà, cắc ké, kì nhông / giông núp trong hang hóc các bãi cát trắng Phan Rang, Phan Thiết – rộng ra, ở dọc bờ biển xứ Chàm cũ – mà người dân còn ăn ở thế kỉ XVII (Ch. Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, bản dịch 1998, tr. 31) kéo dài đến ngày nay, và khen là “gà đồng”?
Tất nhiên ông không thể là một con người dùng “ân đức trị dân” theo kiểu các nho gia bàn chuyện kinh sách, quên thực tế. Hành hạ tù binh, kẻ bại trận cho hả giận không phải là độc quyền của Ngoạ Triều mà còn kéo dài đến ngày nay dù là đã thay đổi với các phương tiện mới. Lí Thánh Tông có thể thương hại vui vài lời về nỗi khổ cực của dân tù phạm, nhưng hình phạt lóc thịt, “lên ngựa gỗ” vẫn là cung cách đối xử bình thường với kẻ chống đối, phản loạn dưới đời Lí. Và sử quan không nói nhiều đến hình phạt mà có thể Đinh Tiên Hoàng thoả chí khi cho vứt kẻ tội phạm vào chuồng cọp hay vạc dầu sôi sùng sục. Nói nhiều về tội của Ngoạ Triều chỉ vì sử quan (tăng lục)
mang tính cách phe phía trong ghi chép: Họ oán giận chuyện Ngoạ Triều róc mía trên đầu Tăng thống Quách Mão mà lại cố tình lỡ tay làm chảy máu, và cười! (ĐVSL, sđd, tr. 106). TT chỉ nói đến “nhà sư Quách Ngang” nhưng bấy nhiêu đó cũng là đủ kể tội Ngoạ Triều rồi, vì mãi đến bây giờ khi nói về sự tàn ác của ông ta, có sách cũng chỉ viện dẫn đến chứng cớ ấy mà thôi. Ta có thể hiểu được nỗi tức giận của viên sử quan tăng lục khi thấy người cầm đầu của mình bị hành hạ, địa vị, phẩm giá tôn giáo của mình bị lung lay, hạ thấp.
Là người chép sử chính cho nên các tăng lục đã kể lại các sự kiện về đạo Phật có hơi nhiều vì tình thế thời đại, vì thiên kiến tôn giáo, khiến các sử quan nho gia đời sau chê trách. Ngô Sĩ Liên nhân kẽ vạch chuyện chuông tự đi đến chùa (1035): “sư chùa muốn làm cho đạo mình có vẻ thần diệu mới nói phao lên như thế mà thôi”, đã bàn lan qua các sự kiện khác: “Những chuyện như dấu vết người thần, ánh sáng xá lị, cây ưu đàm nở hoa, chuyện tượng Phật cổ nổi lên... đều do bọn các nhà sư mà ra cả”. Giá như Ngô Sĩ Liên biết rõ vai trò sử quan khởi đầu của tăng nhân thì ông phải đổi là “... đều do các bọn nhà sư ghi chép, viết ra cả”. Tuy nhiên tăng nhân cũng đã làm tròn nhiệm vụ được giao phó, khi ghi lại sinh hoạt của thời đại họ một cách chính xác mà đời sau chê trách, hay khen lao tuỳ theo tâm cảm hay kiến thức đã bị lệch lạc. Tượng Phật cổ nổi lên hẳn không phải là chuyện bịa để Ngô Sĩ Liên trách “người cầm bút đương thời [hay về sau] không xét lí lẽ, cứ theo đó mà chép vào sử sách”. Đó chỉ là chuyện giúp các nhà khảo cổ đời nay đỡ mất công mà thôi.
Bắt kịp những ý nghĩ đương thời đó, chúng tôi đã nhận ra tính cách truyền theo dòng mẹ ở các thế kỉ đầu độc lập, để thấy sự rối loạn cung đình không đếm xỉa gì đến tinh thần trung trinh của đời sau, về việc các ông vua biết cày, để nhìn ra tính chất ruộng đất thời đó qua những biến động lịch sử to lớn như lúc Mông Cổ xâm lăng... (Những bài dã sử Việt). Chúng ta thấy danh xưng Dương Chủ tướng chứng tỏ thực quyền đương thời của anh bà Dương hậu. Chúng ta thấy chức Hoằng Phúc Hầu ( “Ông lớn phước”) chứng tỏ Đỗ Thích không phải là một chức “lại” (ở Đồng Quan) tầm thường... Hay, nếu đó là hoành Phúc Hầu (cho hợp với chức “lại”) thì tên nô được coi là hầu hẳn cũng có địa vị không thấp trong nội đình Đinh. Họ Đỗ, nếu
không kể từ gốc gác Thái thú Đỗ Viện, Đỗ Tuệ Độ, cũng từng xuất hiện dài lâu liên tục trong thời Bắc thuộc, qua thời độc lập với những con người danh vọng, tài ba, nắm chức quyền lớn trong các triều đại. Ai có nhiều tâm trí chắc có thể tìm hiểu được thời đại rõ ràng hơn, theo một đường hướng suy luận rất bình thường. Noạ tính, suy nghĩ theo thói quen, thường xảy ra chỉ vì chúng ta vẫn nằm trong sự dắt dẫn sẵn của các sử quan nho gia tuy chúng ta có thêm vào sự hãnh diện của những người sống trong thời đại khoa học. Có khi sự hãnh diện mù quáng lại gây tệ hại hơn: Thấy người ta cỡi máy bay, bấm nút, hay ít ra thấy mấy ông hoàng bà chúa Trung Hoa vàng son uy vệ, nên không thể chịu đựng được sự thật là các ông vua đánh Tống bình Chiêm của mình lại đã từng, và vẫn còn, là anh trai cày! Nói chuyện đạo lí thánh hiền trên-mây lâu ngày, không thể chấp nhận chuyện cả dòng họ đã thờ một bộ linga-yoni làm thần bảo trợ cho vương quyền, thay thế cho ông Thiên chưa thấy mặt, để Lê Văn Hưu (1272) chê trách nhắc chuyện vua Lí “lập tước thạch chi tự”, cho người sau thấy thấp thoáng một dáng hình linga.
Sử quan nho gia chê các ông vua đầu đời lập nhiều hoàng hậu nêu gương xấu cho đời sau mà không hiểu rằng gương đó thật ra đáng để các ông vua sau noi theo. Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu, Lê Đại Hành cũng có 5 bà, Lê Ngoạ Triều 4 bà, Lí Thái Tổ 6 bà, Thái Tông 7, chỉ vì bao nhiêu vợ họ có đều ngang vị thế với nhau, theo thói tục đương thời, như Lê Văn Hưu đã nhận ra mà không hiểu nên lại chê bai. Vì thế các ông cha vợ của Thái Tông mới được phong tước như nhau, đều với các tên hàm ý nghĩa phù trợ tốt đẹp. Họ có đổi người, lấy thêm người thì cũng đều phải coi là vợ ngang nhau: Đó là trường hợp Lí Thái Tổ với 3 bà khác, bảy năm sau khi lên ngôi, thời gian đủ để thấy có quyền lực làm đổi thay cung đình trong-nhà. Tất nhiên họ có thể dùng quyền chúa tể để có thêm nhiều “vợ” khác, nhưng không thể, hay chưa thể, coi những người này là vợ / hoàng hậu. Ví dụ Lí Thái Tông với Mị Ê nếu bà này không có sông để mà nhảy xuống, khác với các tù binh cung phi Chàm của Lê Hoàn.
Với thời ông này thì một nữ tù binh nào đó đã may mắn đẻ ra hai ông vua của nước Đại Cồ Việt: Lê Trung Tông và Lê Ngoạ Triều. Bà hoàng cựu tù binh mất tên của xứ mọi rợ đó, người “hầu Di nữ”
(ĐVSL) mà đời sau tránh né vì ý thức tự tôn, người đó là đồng chủng tộc với ông vua Chàm “tướng Di” trong lời sớ của Đào Hoàng dâng lên vua Tấn (chuyện năm 353 kể lại, TT, I, tr. 172). Nếu muốn mở rộng nghĩa chữ “di” cho tất cả những dân thiểu số quanh chính quyền trung ương thì cũng nên nhớ rằng số phụ nữ Di nhiều nhất ở Hoa Lư thời đó hẳn là các nữ tù binh Chàm (“cung nữ” của ĐVSL, “kĩ nữ” của TT) mà Lê Hoàn đã bắt về trong trận chiến 982. (Cũng như các cung phi Chàm sau này ở cung Ngân Hán của Lí, viện Châu Lâm của Hậu Lê vậy). Năm sinh của Long Việt là 983, của Long Đĩnh là 986 cũng là một chứng cớ phụ cho mối liên hệ mẹ con. Lời của Ngô Sĩ Liên phê phán Ngoạ Triều với cốt ý làm đầy đủ nhiệm vụ sử quan, trong đó có chen vào lời che đỡ người cùng phe đời trước, thật ra lại cho chúng ta thấy thêm nguồn gốc và tính chất “man di” của anh em ông: “Ngoạ Triều không những chỉ thích giết người lại còn oán vua cha không lập mình (làm thái tử)... Lại xét Trung Tông và Ngoạ Triều, đều không chép việc tang lễ, đó là do sử cũ bị thiếu, há dám coi vua như là Di Địch mà không chép việc tang đâu.” (Khởi cảm Di Địch kì quân nhi bất táng hồ!) Đọc sách đến chỗ chúng tôi nhấn mạnh này, cũng không cần theo người dịch sách thêm một chữ “như” để che giấu tinh thần tự tôn chủng tộc. Sự thật được xác nhận rành rành ra đấy. Thời gian xa dần, ý thức tự tôn tăng lên, từ “hầu Di nữ” của ĐVSL (hẳn là gốc từ ĐVSK) nói chuyện ở Hoa Lư, qua TT trở thành “Chi hậu diệu nữ” mang tính chất cung đình cao hơn ở Thăng Long nhưng gốc người hầu, nô tì kém thế (mà trẻ, có thần!) vẫn còn đó để vào thế kỉ sau nữa, Ngô Sĩ Liên khi bênh vực phe làm sử đã không thể nào rứt ra khỏi ý nghĩ về Di Địch. Anh em Long Việt, Long Đĩnh vẫn được vua cha phong vương, làm chủ đất như các anh em khác, nhưng hẳn là mang vị thế bên lề của người mẹ khiến họ cương cường hơn những kẻ kia nên giữ được vị trí tất thắng, do đó sự tranh chấp tiếp theo cũng không tránh khỏi giữa hai anh em ruột thịt. Và khi họ chết đi, phải chôn cất, hẳn là không chịu theo tang lễ của nhà nho. Tang lễ được thực hiện, tuy rằng trong một vương triều hướng về Trung Hoa có ông Thái sư Hồng Hiến, “người phương Bắc”, nhưng giữa một xứ sở mới thoát vòng Bắc thuộc còn vướng vất thời đại cũ, tang lễ hẳn phải là khác lạ nên sử quan không chép, vì dị ứng, hoặc vì không hiểu, không chép được, có thế thôi.
SỰ CHUYỂN HƯỚNG
Chúng ta đã không thấy được tên một tăng lục nào khác sau sự kiện đầu đời Đinh, dù rằng có đoán mò rằng “tăng phó” có thể cũng là một tăng lục. Tuy nhiên với đời Lí thì có những sự kiện giải thích sự trường tồn của triều đại này, đem đến sự thay đổi trong lãnh vực ghi chép sử kí.
Ngô, Đinh, (Tiền) Lê là những thủ lãnh cầm quyền bằng sức mạnh của chính bản thân tập họp được. Dương Diên/Đình Nghệ liên kết với họ Ngô qua tính cách thông gia nên từ châu Ái xa xôi đặt chân được trên vùng Đại La, nhưng cũng vì sự xa xôi đó mà thất thế đối với một lãnh chúa địa phương khác: Kiều/Kiểu Công Tiễn. Từ vị thế bản thân, Ngô Quyền lật ngược được cái thế bất lợi của họ Dương thành ưu thế của mình (người địa phương, tập họp được hai lực lượng) nên giết được Kiều Công Tiễn, chẳng cần phải nhờ người sau rêu rao về chính nghĩa chủ tớ, vua tôi. Những cuộc đảo chính thay đổi triều đại Đinh/Lê, Lê/Lí đều chứng tỏ vai trò quan trọng của người cầm đầu quân đội. Lê Hoàn là một thứ “tư lệnh quân đội” của đời sau, Lí Công Uẩn trên danh xưng có vẻ thấp hơn Lê Hoàn, chỉ là một “tư lệnh quân khu thủ đô”, nhưng với thời mà những diễn biến quan trọng chỉ cần xảy ra ở triều đình, trong nhà của người cầm quyền thì chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ cũng đủ để ông cướp địa vị chủ tể rồi.
Tình thế đã khác với triều Lí. Lí Công Uẩn lên ngôi, kẻ nào thấy mình không hợp với triều mới như Viên ngoại lang Đào Khánh Vân thì nhân dịp đi sứ trốn ở Tống, và bị trả lại, đánh đến chết. Các ông tướng: Định thắng tướng quân Nguyễn Khánh (1035), các Điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc, Phùng Luật (1041, tên một người rõ ràng là con cháu sứ quân cũ, lãnh chúa địa phương) nho nhoe nổi loạn theo kiểu cũ, đều bị diệt trừ. Đến gần cuối đời, chức quyền cao cấp này vào tay một người thuộc họ ngoại (Điện tiền chỉ huy sứ Đỗ Thanh), thế là đủ cho nhà vua an tâm cho đi kiểm tra xứ xa: Nghệ An, không sợ nổi loạn nữa (1203). Thời đại đã khác. Lí bỏ xứ Hoa Lư của quyền bính bộ lạc mở rộng để chuyển về Đại La, trung tâm quyền
lực thuộc địa cũ nhưng đại diện cho một mức độ kết tập cao hơn. Việc đổi phủ trị An Nam cũ thành tên Thăng Long cũng là một ngụ ý xác nhận quyền lực mới, hướng về một sự phát triển cao hơn, thấy rõ trong việc xây dựng, tổ chức cung đình, mở rộng thế lực lãnh thổ.
Thế là sau việc tổ chức biên chép phổ hệ riêng cho gia đình vị chủ tể, đến đời thứ hai là có các ông gián nghị đại phu. Viên nội thị Lí Nhân Nghĩa, khi thuyết phục Thái tử Phật Mã diệt trừ anh em phản loạn, đã viện dẫn kinh sử Trung Hoa rất rành rẽ, và khi vua đi đánh Trường Yên đã cho ông ở lại giữ kinh thành mà không thấy nêu tên một ông hoàng tử nào cả. Tuy chức vụ các ông gián nghị đều do người tục thế đảm nhận nhưng tăng sĩ có lúc cũng chen vào: Đó là trường hợp nhà sư Pháp Ngữ can vua về điềm rồng vàng hiện (1053), và muộn màng hơn, là chuyện Tăng phó Nguyễn Thường can Cao Tông (1202). Nhưng đó chỉ là dấu hiệu một truyền thống dây dưa. Nhà sư trong nhiệm vụ cố vấn đã mất dần uy thế trước tổ chức trần tục. Năm 1121, khi nhà sư Vương Ái dâng cây cau một gốc bảy thân thì bị Thái sử Trần Độ bác bỏ. Một vật truyền thống lúc trước được nồng nhiệt đón nhận (1110, 1111 TT, 1116 ĐVSL) chỉ năm, mười năm sau lại bị bác bỏ (tiếp theo là giá trị của “ngọc” cau 1122, 1125). Địa vị gián quan bán chính thức của nhà sư đã bị phủ nhận rõ rệt. Thay thế vào đó là sự xác nhận của quyền chức thế tục (thái sử). Trong sự chuyển hướng nhập nhoà như thế thì sự xuất hiện không rõ ràng của Đỗ Thiện với quyển Sử kí của ông không phải là điều lạ lùng.
ĐỖ THIỆN: GIỮA THẦN VÀ NGƯỜI
Chúng tôi cũng có tham gia sơ sài vào việc xác định Đỗ Thiện và quyển Sử kí của ông ta (Thần người và đất Việt [bản mới], tr. 73, chú 2). Vẫn không có sự xác nhận dứt khoát nhưng chúng tôi tưởng có thể đi gần đến sự thật hơn, khi cho rằng với nhân lực và cách tổ chức cai trị thời Lí thì không thể có hai Đỗ Thiện. Khi lập vua mới, chuyện công mà cũng là riêng, nên triều đình sai một “xá nhân” không có chức vụ nhà nước (Bồ Sùng) và một “nội nhân” của cung đình (Đỗ Thiện) đi báo cho Sùng Hiền Hầu là cha Dương Hoán
(Thần Tông) biết việc con mình lên ngôi. Và Đỗ Thiện là cùng họ với mẹ vua mới, một dòng họ sẽ có người chuyên quyền trong triều sau này (Đỗ Anh Vũ). Thần Tông lên ngôi, có cả một loạt người cầm đầu một đơn vị “nội nhân” lên làm Thái phó, Thái bảo – loại Tam công của triều đình. Lại cũng có thể xét một ghi chép của TT về một Nội thường thị Đỗ Nguyên Thiện làm Tham tri chính sự trông coi phủ Thanh Hoá năm Kỉ dậu (đã qua năm 1130). Hai tên khác nhau một chữ “nguyên”, tuy nhiên chức vụ về trước lại giống nhau (nội nhân / nội thường thị), thêm sự thăng chức hợp lí sau khi góp công trong việc phò tá vua mới (từ nội cung ra đến triều đình “coi việc chính sự” và vươn quyền đến tận địa phương xa), tất cả khiến ta nghĩ rằng đó cùng là một người. Có thể suy diễn giống như trường hợp sử quan Trần Phổ và Trần Chu Phổ về sau vậy. Như thế cũng đủ giúp ta nghĩ rằng Đỗ Thiện có kiến thức và địa vị để thông hiểu việc triều đại, dù không thấy dấu hiệu ông được trao cho nhiệm vụ viết sử, bởi vì chức quyền chính thức đã là của ông Thái sử Trần Độ, xuất hiện (1121) trước Đỗ Thiện (1127) không xa, còn Đỗ Thiện có lẽ đi theo Dương Hoán vào cung Lí Nhân Tông năm 1117 vẫn chỉ là “nội nhân”. Tuy nhiên việc làm sử không chính thức, có thể cho là “cá nhân” này, giúp ta hiểu về tính chất sử gia của Đỗ Thiện, về tính cách quyển Sử kí được nói đến, dù là qua những mảnh vụn. Cái tên Sử kí mượn cũng không phải là xa rời “sử” bởi vì Đỗ Thiện đã viết theo lối kỉ truyện của Tư Mã Thiên.
Chúng ta chỉ biết Đỗ Thiện liên hệ với quyển sử của ông qua tài liệu duy nhất: quyển Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên (1329). Nhìn chung thì họ Lí đã đưa vào sách mình 9 truyện của nhân vật lấy từ Đỗ Thiện: 1/ Nhị Trưng Phu nhân (Hai Bà Trưng) được xếp vào mục “Lịch đại đế vương”; 2/ Bảo quốc Hiển linh Trấn bang Quốc đô Thành hoàng Đại Vương (Tô Lịch), 3/ Hồng thánh Khuông quốc Trung vũ Tá trị Đại Vương (Phạm Cự Lượng), 4/ Đô thống Khuông quốc Tá thánh Vương (Lê Phụng Hiểu), 5/ Thái uý Trung tuệ Võ lượng Công (Mục Thận), 6/ Khước địch Thiện hựu Trợ thuận Đại Vương và Uy địch Dũng cảm Hiển thánh Đại Vương (Trương Hống và Trương Hát), 7/ Chứng an Minh ứng Hựu quốc Công (Lí Phục Man), 8/ Quả nghị Cương chính Uy huệ Vương (Cao Lỗ), tất cả bảy
nhân vật được xếp vào mục “Lịch đại phụ thần”; 9/ Khai thiên Trấn quốc Trung phụ Tá dực Đại Vương (thần Đằng Châu), người cuối này được xếp vào mục “Hạo khí anh linh”.
Tuy nhiên cũng có mức độ dẫn trích rõ ràng khác nhau ở các truyện trên. Chỉ có dấu hiệu trực tiếp liên hệ giữa Đỗ Thiện và quyển sử của ông (“Án Đỗ Thiện Sử kí”) trong 4 truyện: Trương Hống Trương Hát, Lí Phục Man, Cao Lỗ và thần Đằng Châu. Mức độ rõ ràng xuống liên hệ thấp hơn ở 3 truyện Phạm Cự Lượng, Lê Phụng Hiểu và Mục Thận: “Án Sử kí”. Qua đến truyện Hai Bà và Tô Lịch thì lại mất thêm một chữ (vì sao qua chép lại?): “Án sử...” (có nên viết hoa hay không?) Về nội dung thì chỉ có 3 truyện Trương Hống Trương Hát, Lí Phục Man, thần Đằng Châu là dẫn riêng Đỗ Thiện và sách của ông ta; ở truyện Cao Lỗ có dẫn thêm Giao Châu kí, ở truyện Mục Thận có thêm “đời truyền...”; Tô Lịch có thêm của Giao Châu kí, Báo cực truyện; còn truyện Lê Phụng Hiểu thì lấy của Việt sử bổ di (?), phần của Sử kí chỉ là cái đuôi nói về việc ném đao, một giải thích thần thuyết về tên “chước đao điền”.
Như vậy, như đã nói, thật khó xét nhiều về tính chất sử gia của Đỗ Thiện qua các mảnh vỡ như vậy. Với chữ “đời truyền” trong truyện Mục Thận, ta biết có sự xâm nhập từ ý thức đồn đãi của dân chúng vào công trình của Lí Tế Xuyên. Trong ĐVSL (mà ta biết chắc là thuộc phần tư cuối thế kỉ XIV, chắc hơn những người khác, và là “lược” của sử kí cung đình 1272), trong đó không có tên Mục Thận tham dự, càng không có chuyện vãi chài (!?) bắt cọp, chỉ có chuyện khá giản dị và trần tục là Lí Nhân Tông cầm giáo đâm (con quái) Lê Văn Thịnh trong cơn hoa mắt của mình. (Nhân Tông cho đày Lê Văn Thịnh lên thượng lưu sông Thao hẳn là vì nhận ra lầm lạc – mà vẫn muốn bảo vệ bản thân – chứ không phải ngu dại rộng rãi vì mê đắm đạo Phật mà không xử phạt đúng đối với kẻ phản thần như các ông sử quan nho gia đời sau mạnh dạn chê trách theo kinh sử học được! Họ không thấy đằng sau Lê Văn Thịnh còn có cả một thế lực họ Lê của ông ta nữa!) Trong truyện Hai Bà (hãy cho rằng “sử” là Sử kí) thì phần hai Bà làm mưa cũng được thêm vào sau, vì việc dựng đền Vũ sư sau sự kiện cầu mưa này là của năm 1160, có khả năng là Đỗ Thiện không viết sách vào cuối đời mình.
Tuy nhiên, giữa những phần thần thuyết, ta nhận ra những phần trần tục rất thật từ ghi chép của Đỗ Thiện. Hai Bà Trưng đã tử trận chứ không phải nhảy xuống sông Hát như quan niệm trinh liệt của đời sau gán cho. Tô Lịch có dáng một thực dân đến khai thác một vùng trù phú về nông nghiệp (đời sau chuyển sang thương mại phồn thịnh), sử dụng được mối tương quan giữa di dân và chính quyền trung ương để khai thác biên cương và làm đường tiến thân: Dựa quyền lực di dân chiếm đất đai làm giàu, đong thóc cho vua từ lợi tức đó để cứu đói địa phương và được “cử” chức hiếu liêm để đi vào quan trường như quy định từ đời Hán. Truyện Phạm Cự Lượng bị nho thần đời sau (Hậu Lê) chê trách vì không hợp với quan niệm sống của họ nhưng chính sự khác biệt ấy mới làm nổi bật tính chất đương thời mà Đỗ Thiện ghi lại. Phần lí lịch, gia phả của Phạm Cự Lượng có lẽ là tài liệu độc nhất còn lưu lại của ông lãnh chúa làm đảo chính đưa Lê Hoàn lên ngôi này. Trong truyện Lí Phục Man, Lí Thái Tổ đổ rượu xuống sông vái tặng, vì ông biết đây là một thần sông chứ không phải là một người làm tướng đã chết trôi! Ở truyện Hống Hát, nổi lên tên một sứ quân (Lí Huy, có lẽ dư âm lưu lại đến thế kỉ XV để người Minh nghe thành tên Dương Huy), và căn cứ chính của ông ta (Côn Lôn, đoán chừng được ở vùng Chí Linh bây giờ). Chúng ta cũng đoán ra tên nước dưới đời Ngô: nước Đô Hộ. Dù có dẫn người đọc vào cõi u minh thì Đỗ Thiện cũng vẫn có một chừng mực rạch ròi. Về thần Đằng Châu, thật rõ rệt: “Vương vốn là thần thổ địa...” Nói về Cao Lỗ, ông vẫn ghi “Thạch thần”. Đến gần cuối thế kỉ XIII đời Trần, vua chúa còn biết đó là “đá” thì nếu người bây giờ nhìn chữ “lương tá của An Dương Vương” mà đoan quyết là người thật thì không phải lỗi của Đỗ Thiện.
Phần chứng tích của Đỗ Thiện cũng cho ta thấy dấu vết của chính ông và thời đại ông. Tô Lịch trong cơn mơ của quan Đô hộ Lí Nguyên Hỉ đã cỡi con hươu trắng, con vật mà các quan Lí kể cả Thái uý, Phò mã cố công tìm dâng vua để được thưởng: 1117 ba lần, 1119, 1122, 1124, 1129, 1133 – năm 1129 ba lần, có tước Đại liêu ban, Minh tự ban cho. Điều đáng chú ý là sự kiện này xảy ra trong các năm bắt đầu thời gian Dương Hoán được nhận sẽ kế nghiệp ông bác Nhân Tông (1117), và trước sau lúc cậu bé lên ngôi
(1127), trở thành Thần Tông, ông vua có vai trò của Đỗ Thiện đóng góp bên lề, để rồi chuyện hươu trắng còn kéo dài đến đời vua sau, Anh Tông. Thời đại Đỗ Thiện còn lưu lại chứng tích của những điềm lành xuất hiện qua sản vật, chim chóc, muông thú lạ mà sắc trắng được coi là điềm lành – màu trắng xuất hiện từ trước trên lá cờ quân tướng Lê Hoàn, Tống Cảo đã thấy rợp trời khi đi sứ đến Hoa Lư (990).
Đó là thời đại của sự trộn lẫn tục thế và thần thuyết, người và thần tương cảm, tương thông khiến cho người thời nay thấy chuyện thần trong đời sống thường và thấy chuyện lịch sử đi vào trong cơn mơ của người đương thời. Hai dòng chảy sông Cầu và sông Thương trở thành người giúp Ngô Xương Văn mà dòng họ còn đóng đô sâu trong đất liền (Cổ Loa), chưa thấy sự dữ dằn của biển cả như họ Trần “người hạ lưu” (chữ của Trần Nhân Tông 1299) hẳn là sẽ phát hiện ra truyện tích “Hoàng đế” Triệu Quang Phục. Chuyện chiến trận theo đường biển, đường sông xâm nhập vào phủ An Nam Đô hộ, lại hiện qua lời kể công trong mộng của ông thần Lí Phục Man. Điều ước muốn điều hoà mâu thuẫn với phe thất thế, chuyển qua việc đặt Phạm Cự Lượng, người góp phần mở đầu nhà (Tiền) Lê làm kẻ trông coi hình án cõi dương từ cõi âm, dưới triều đại đã cuớp ngôi nhà Lê. Mối mâu thuẫn của hai dân tộc Thục, Lạc thể hiện trong sự tương phản tín ngưỡng trên tầng lớp lãnh đạo khi tộc nhà Thục bành trướng lãnh thổ, trước khi truyện tích thần Cao Lỗ chuyển hình qua sự xung đột Triệu (Nam Việt) Thục với hai nhân vật Trọng Thuỷ Mị Châu, để theo đà truyền thuyết, vượt qua Đỗ Thiện trở thành xung đột Triệu Quang Phục – Lí Phật Tử với Nhã Lang và Cảo Nương của Trần. Cuối cùng trong loạt dẫn trực tiếp, hoàng tử Long Đĩnh trấn đất Đằng Châu phải nhờ đến sự yểm trợ của vị thần ở đấy để giành ngôi – dù bằng bạo lực thì cũng là chuyện thường tình của thời đại nhưng có sự tán trợ của thần thì càng thêm là một cách chính danh. Trong truyện, Long Đĩnh cướp ngôi anh không có gì là trái lẽ, như đời sau chê trách kéo dài đến cả hành trạng suốt quãng đời về sau của ông.
Và cũng có thể trở lại trong không khí thần thuyết của thời đại được cô đọng nhiều trong Sử kí hơn trong TT, để tìm ra lí do cải đổi họ
của một nhân vật cùng chia xẻ biến cố cung đình với Đỗ Thiện, và là cấp trên của ông: Lê Bá Ngọc, người bảo vệ Lí Thần Tông lên ngôi đầu 1128, cuối năm được phong chức Thái sư và cho đổi làm họ Trương. Một họ có vẻ nổi lên bất chợt, nhưng nếu đặt vào đúng thời đại của thần thuyết chịu ảnh hưởng Hán Đường thì thấy hợp lí ngay. Chúng ta biết Đạo giáo mang tính triết lí siêu hình là của Lão Tử Đạo Đức Kinh, nhưng Đạo Giáo dân gian của Trung Quốc là một tập họp của những người họ Trương, còn tên tuổi trong sử sách nhưng lâu dần, xa đời, xa cách đối với dân chúng thì đó chỉ là ông Trương Thiên sư trấn áp tà ma mà người ta vẽ trên các lá bùa dán ở cửa, cầu mong đem lại sự an bình cho gia đình, tập thể. Lê Bá Ngọc, người “có khí lượng của bậc già cả”, được ông vua sắp chết sai “sửa sang giáo mác để phòng việc không ngờ”, sau đó ra lệnh canh gác, trấn áp trước việc chống đối rồi dàn bày vũ khí tổ chức việc lên ngôi của ông vua mới một cách suôn sẻ, hình ảnh đó là của một ông Trương Thiên sư thế tục trong tâm trí người đương thời mà với sự thụt lùi của thời gian một năm hành động, người ta nhận ra sự tương đồng để ban họ Trương, nâng cấp cho ông, khi với chức Thái sư tột đỉnh trong triều đình, thấy không còn gì để phong nữa.
Đó là điều ta ghi nhận về Đỗ Thiện như một sử gia, người bắt chước viết nhân vật của quá khứ với ý thức thời đại của ông, theo mẫu hình quyển sử tiêu chuẩn của nền văn hoá ông thu nhận, quyển Sử kí của Tư Mã Thiên như đã nói.
Và tất cả cũng là chứng tích của một quan niệm sử chưa thay đổi trước khi một triều đại mới thay thế: triều Trần, thời đại có tính chất tổ chức chặt chẽ hơn, để sử dụng các ghi chép thực lục của thời trước mà viết nên bộ sử của triều đại lâu dài đầu tiên của nước Việt.
TỔ CHỨC NGỰ SỬ ĐÀI TRONG ĐỜI TRẦN
Cũng như phần lớn các tổ chức chính quyền khác ở Đại Việt, Ngự sử đài có nguồn gốc xuất phát là Trung Quốc, nên việc tìm hiểu từ ngành ngọn may ra có thể làm tăng hiểu biết nhiều hơn. Tuy nhiên với tài liệu để lại, và dõi theo đường lối điều hành cụ thể sơ lược thì
chúng ta có thể nghĩ rằng trên nguyên tắc chung, Ngự sử đài của Đại Việt đã làm đúng với nhiệm vụ đề ra cho cơ quan này.
Nhưng như đã nói, theo tài liệu để lại thì đời Lí chỉ có chức quyền làm việc tương tự mà chưa thành tổ chức lớn. Có vẻ như chỉ một hai ông Gián nghị đại phu làm việc can vua, dòm ngó các quan làm việc mà thôi. Qua đời Trần, danh xưng cơ quan thấy chính thức đầu tiên là trong chức vụ ban cho Nguyễn Trung Ngạn năm 1321: Ngự sử đài thị Ngự sử. Tuy nhiên đó là bám vào chữ nghĩa rành rẽ chứ Ngự sử đài có vẻ thành lập ngay từ đời vua đầu Trần, với chức quan Ngự sử Đại phu ban cho Trương Mông (đầu 1247) mà ý nghĩa quan trọng còn ghi lại trong chi tiết cho lần phong chức đầu tiên này: Mông, người Thanh Hoá, “có hùng tài” – chắc là do giỏi lí luận đủ thuyết phục được vua, bắt bẻ được các quan.
Nhiệm vụ can vua thấy trong chuyện tiệc mừng năm 1251 với sự xuất hiện của Ngự sử Trung tướng Trần Chu Phổ. Yến tiệc của vua ban mừng ông cháu Trần Quốc Tuấn cướp vợ người, chỉ vì Thái Tông bị đặt trước sự đã rồi, và cũng vì kẹt chuyện buộc cướp mẹ cháu hồi xưa. Sinh hoạt của những người trong họ Trần còn đầy tính cách du đãng đường sông như chuyện con ông vua trốn ra ngoài tay không đi ăn cướp, thì ông ngự sử tuy có vẻ như người cùng họ cũng không thể có lời nào khác là hùa theo, đành dang tay mà hát “sử quan ca rằng...” Ngô Sĩ Liên nhờ có một triều đại cách biệt nên phát biểu rõ ràng lời chê trách ông ngự sử không làm tròn nhiệm vụ, nhưng sử quan đương thời thì chỉ có thể để lộ ngụ ý khi thuật chuyện mà thôi. Việc đàn hặc các quan thì xảy ra trong năm 1327, khi các quan họp bàn vụ sét đánh lăng tẩm. Tên viên ngự sử không được nêu ra nhưng chắc là của cả những người chuyên trách. Không biết có gì về câu “chuyện có vẻ hài hước” của Trần Khắc Chung nhưng Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, dù viện dẫn đã tránh đi chỗ khác, vẫn bị vua phạt cùng với ông Thiếu bảo kiêm việc hành khiển nói đùa kia. Điều quan hệ ngoài lề đối với chúng ta là các quan chức, trong phút chốc, cũng biết đùa bỡn cả đến chuyện có thể gây nguy hiểm cho bản thân, và nơi họp: Nội nhân Văn cục, chứng tỏ được sự phản ứng kiểu nói-lén của tầng lớp nho sĩ đối với hoàng tộc cao vòi vọi. Về mặt biên chế thì không thấy có chức Khởi
cư chú như ở Trung Quốc dành cho các quan ghi chép lời vua, tuy đã thấy có Thực lục trong triều này. Mãi về sau ta vẫn còn gặp chức Gián nghị Đại phu với Trần Thì Kiến (“Hữu gián nghị...” đầu 1299), Trương Hán Siêu (“Tả gián nghị...” 1345). Nhưng ngay từ lúc đầu, như đã nói, và thường gặp là chức Ngự sử Đại phu (Trương Mông, Lê Phụ Trần 1258, Đỗ Quốc Kế 1290, Trần Khắc Chung có chức trước 1299, Trương Đỗ 1377, Đỗ Tử Trừng 1389). Lê Phụ Trần lúc còn là Lê Tần lại có chức Ngự sử Trung tướng (1250) hẳn là thấp hơn cấp đại phu được ban sau đó, khi cứu vua, thắng Nguyên. Đoàn Nhữ Hài mới làm đơn giùm vua, được chức Ngự sử Trung tán (1299), bằng vai với ông quan (Lê Duy) theo hầu Minh Tông trong chuyến thăm Ngự sử đài năm 1342 gây rắc rối, và cho ta biết thêm một chức: Giám sát Ngự sử. Phạm Mại trong vụ Quốc Chẩn 1328 là Ngự sử Trung thừa. Đây là những chức quan thấp, sát với vua nhất, có thuận tiện về mặt tâm lí để can vua, có gặp khó khăn cũng không nhiều: Nguyễn Trung Ngạn làm “Ngự sử đài thị ngự sử” lúc 23 tuổi, hai năm sau nhân vị trí của mình trổ tài cãi thắng sứ Nguyên, được ban khen nhưng “sau vì bàn việc trái ý vua” liền bị giáng cấp. Không lâu. Và họ nhà vua nói chung cũng có lợi: Đoàn Nhữ Hài “sau khi nhận chức, xem thực lục của sử thần chép, có chỗ lầm lẫn, liền sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi”.
Nếu ta chú ý đến nguồn tin ngoại TT (Lê Tắc) thì quan ngự sử có chuyên trách viết sử ngay từ đầu đời (Trần [Chu] Phổ và “Việt chí”). Và chính liên hệ từ nguồn tin tư này mà ta thấy có cơ quan viết sử, Quốc sử viện, ngay từ đầu Trần, bởi vì người “sửa Việt chí” là Lê Văn Hưu được chính thức giữ chức Quốc sử viện Giám tu khi viết ĐVSK. Nhưng chi tiết về mối liên hệ của hai cơ quan, Ngự sử đài và Quốc sử viện, chỉ được TT cho biết rõ hơn vào thời thanh bình về sau. Theo TT thì Ngự sử đài viết sử đương thời, như ở Trung Quốc, chứng tỏ trong vụ Đoàn Nhữ Hài sửa sử, trong chuyện tranh chấp năm 1342. Nguyên Minh Tông đến thăm toà Ngự sử đài mới vừa trùng tu liền bị hai giám sát kháng nghị, bảo không được phép vào. Minh Tông bác đi “Đó là nhà của Ta!” Hai viên quan bị bãi chức, nhưng điều cần cho chúng ta thêm ở đây là Minh Tông viện cớ ngày xưa Đường Thái Tông còn vào xem Thực lục, viết về đương thời,
huống chi là nay ông thượng hoàng chỉ đi xem cột kèo, chưa nói tới việc xem người ta viết gì về mình! Bộ Trung hưng Thực lục làm sau khi thắng Nguyên (1289) hẳn là xuất phát từ người của Quốc sử viện nằm trong Ngự sử đài. Về phần cá nhân người phụ trách viết sử thì trước kia ta chỉ biết đến Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Thế rồi từ mùa đông 1329, Minh Tông đi đánh Ngưu Hống lại mang Nguyễn Trung Ngạn theo để “biên soạn thực lục”. Và đến mùa thu 1337 thì nhắc lại danh tính Quốc sử viện cũng với ông Nguyễn Trung Ngạn được nêu. Có điều hình như cơ quan này không được coi là quan trọng lắm, không cần phải chiếm nhiều thời gian nên Nguyễn Trung Ngạn chỉ là làm-thêm (“kiêm”) vì chức vụ chính của ông là An phủ sứ Nghệ An, lo việc chuyển vận tiếp tế, đưa sáng kiến cứu trợ ở vùng Khoái Châu, trung gian giữa đất Nghệ và Kinh sư! (Có thể nhắc lại thêm với trường hợp Trần Đình Thám sau 1400 đã nói). Tuy nhiên thì dù sao một tổ chức đi vào chuyên trách như thế có thể mang lại sự dồi dào cho sử Đại Việt nếu lớp sử quan không làm cùn nhụt các tiêu chuẩn cao của ý thức hệ dù sao vẫn có trong hành trình kiến thức của họ.
VIỆT CHÍ, ĐẠI VIỆT SỬ KÍ và ĐẠI VIỆT SỬ LƯỢC 1
Chúng tôi thấy ông Phan Huy Lê đã tóm lược công trình của các học giả bàn luận về sự liên hệ của quyển sử gọi là Việt chí (VC) với Đại Việt sử kí (ĐVSK) của Lê Văn Hưu (1272) và Đại Việt sử lược (ĐVSL) – quyển này may mắn nằm trong thư viện Trung Quốc nên có thể coi như là sách xưa nhất được giữ gìn gần nguyên bản, so với các sách khác ở Đại Việt. Với các nhà nghiên cứu vẫn quen với các tác giả Tây phương thì đến đây lại có thể biết đến hai tác giả Liên Xô nối liên hệ đến cả Sử kí Đỗ Thiện (SK) vào trong dòng lịch sử sử học Lí Trần.
Chúng ta có thể nói trước đến mối liên hệ của các quyển sử kia với SK. Chỉ có hai sử gia Liên Xô đặt mối liên hệ này. Theo những người này thì ĐVSL được viết trước ĐVSK. Chúng ta sẽ thấy sự sai lầm khi xét đến phần Hùng Vương có mặt trong ĐVSL (cả khi cho rằng đây là phần của Trần Chu Phổ thêm vào). Căn cứ lập luận của học giả
Liên Xô là do việc nối kết ĐVSL với SK, cùng những năm cho là được hoàn thành các tác phẩm này so với năm rành rẽ hoàn thành ĐVSK. Họ cho rằng Đỗ Thiện chép sử từ nhà Triệu đến Lí Nhân Tông, và Trần Chu Phổ, trước sau năm 1233, sửa lại và viết nối tiếp cho hết đời Lí để thành VC. Tập họp SK, VC đó được người sau thêm bản Phụ lục kỉ niên, đổi sách ra thành ĐVSL. Chính vì vậy mới cho rằng ĐVSL được viết trước ĐVSK (1233 so với 1272). Chẳng ai thấy mặt mũi của VC ra sao, và phần SK chỉ có mặt với những chênh lệch xác định trong VĐULT như chúng tôi đã phân tích, nên việc xác định thời đại hoàn thành và nội dung của SK, và thời điểm bắt đầu của VC cùng mối liên hệ giữa hai bên, chỉ là điều nói mò. Cho rằng SK chấm dứt với Lí Nhân Tông hẳn là dựa vào sự xuất hiện của Đỗ Thiện vào lúc ông vua chết (1127). Nhưng Đỗ Thiện đi báo với Sùng Hiền Hầu về việc con ông được lên ngôi thì việc gì lại mất chức (nếu cho là đã thay chức thái sử của Trần Độ) để không viết tiếp về đời vua ông phục vụ? Những người có mặt trong thời điểm này, sau đó được trọng đãi, cất nhắc, kể cả Lê Bá Ngọc “được đổi làm họ Trương”, tuy sự tôn quý chưa đến mức mang họ của vua nhưng rõ ràng là một dấu hiệu trân trọng. Cho rằng Đỗ Thiện không phải là Đỗ Nguyên Thiện, cứ cho ông ta không bị thất sủng mà lại được cất nhắc để viết sử, thì việc chấm dứt sau khi viết về đời ông vua vừa chết cũng là đoán mò bất hợp lí như việc cho Trần Chu Phổ chép tiếp SK để hoàn thành VC vào khoảng trước sau năm 1233. Các sử gia Liên Xô xác định cho năm đó hẳn là dựa theo việc ông sử quan trung tướng được nhắc tới năm 1251, đã đỗ Đệ tam giáp thái học sinh năm 1232. Mới đỗ xong năm trước, (cho là được bổ ngay vào làm quốc sử) rồi một, hai năm sau hoàn thành một bộ sử thì Trần Chu Phổ hẳn là người tài vượt chúng và vua Trần thật biết cách thúc đẩy bộ hạ làm việc. Nhưng Lê Văn Hưu đỗ năm 1247 (cũng cho là được bổ ngay vào làm quốc sử) sao mãi đến 25 năm sau (1272) mới xong ĐVSK? Trong thứ tự xuất hiện, thì hẳn Trần Chu Phổ còn đó khi Lê Văn Hưu vừa đỗ xong, sao Lê ở cùng cơ quan của nhà vua sai phái với ông kia lại không biết đến VC để thêm bớt, như hai học giả Liên Xô đã phủ nhận chứng cớ của Lê Tắc/Trắc là người đương thời nói về sự “trùng tu”? Hình như mọi suy đoán của học giả Liên Xô đều bắt nguồn từ sự xuất hiện của Đỗ Thiện có
trước Trần Chu Phổ, Lê Văn Hưu nên phải tìm cách giải thích sự kiện theo trình tự thời gian, dẫn đến sự ép uổng luận lí như ta đã thấy.
Theo lời ông Phan Huy Lê thì các sử gia Liên Xô cho rằng Trần Chu Phổ “sửa lại tác phẩm của Đỗ Thiện”, chẳng biết sửa làm sao nhưng phần khác biệt rõ rệt là có thêm giai đoạn trước nhà Triệu (cho rằng Đỗ Thiện chỉ viết từ Triệu trở đi tuy không có gì để chứng minh), tức là phần nói về Hùng Vương và xứ sở của ông ta. Đó lại là sự kiện lệch thời đại đối với Trần Chu Phổ như ta sẽ bàn sau đây. Người sau ông là Lê Văn Hưu không biết đến Hùng Vương, cũng chỉ bắt đầu quyển sử bằng nhà Triệu như có bằng cớ rõ rệt từ Ngô Sĩ Liên, thì vì lẽ gì Trần Chu Phổ lại có ý tưởng “tiến bộ” như vậy, và vì lẽ gì Lê Văn Hưu trở thành “phản động”, dám loại bỏ các ông vua mở nước, dựng nước kia? Có thể khẳng định rằng hoàn toàn chúng ta không có bằng cớ gì để đặt mối liên hệ của SK Đỗ Thiện với những quyển sử xuất hiện về sau. SK tách riêng hẳn, như ta đã phân tích, với các quyển sau thành một dòng viết sử – không hẳn là dòng Phật Giáo như các sử gia Liên Xô nhận định, và lại còn ghép thêm VC vào. Các quyển sau SK, theo một dòng khác, còn cho ta thấy dấu vết liên hệ với nhau hơn.
Vậy dưới triều Trần, đến nay ta còn thấy được hai bộ sử ĐVSK, ĐVSL và bóng dáng một quyển sử được gọi là Việt chí mà các nhà khảo cứu đời nay đã cố công tìm cách nối kết liên hệ.
Đã nói không thể coi nhẹ chứng cớ của Lê Tắc. Ông này tuy viết An Nam chí lược vào thế kỉ sau, nhưng hàng Nguyên năm 1285 nên các hiểu biết chính về quê hương cũ để soạn sách là trước năm này. Chứng cớ của ông phải được coi trọng hơn bất cứ của ai khác về sau. Ông là gia thần của Trần Kiện, người có thể coi như là cháu nội của Thái Tông. (Xem chuyện đùa bỡn giành ngôi giành áo giữa Quốc Khang, cha Kiện, và Thánh Tông lúc ông này đã làm vua 1268). Họ Trần rất gắn bó với nhau trong việc giữ gìn quyền lực, các gia thần của họ tuy ở địa vị thấp kém hơn nhưng là những người thông thạo nho học, có thể nói là văn võ toàn tài, như Phạm Ngũ Lão chẳng hạn. Tắc tất phải biết chuyện dâng lên vua quyển sử (có
tên chính thức là Đại Việt sử kí) năm 1272. Điều ông nói về mối liên hệ của quyển sử này với một quyển có trước của người cùng cơ quan (Trần Chu Phổ) hẳn là xác thực. (Hãy nhìn lại công việc của Quốc sử quán triều Nguyễn với các ông Tổng tài, Phó tổng tài kế tiếp nhau). Bác bỏ mối liên hệ đồng tác giả của quyển sử viết trong triều Trần kia là bác bỏ nhiệm vụ, công trình của một cơ quan và loại trừ chứng cớ của người đương thời. Nhưng tại sao ông lại dùng chữ “Việt chí” để chỉ bộ sử đó? Lí do rất giản dị: Ông ở mãi Thanh Hoá mà quyển sử thì nằm tận trong cung vua (có lẽ chỉ gồm một bản nháp và một bản viết dâng lên vua) với cái tên chính thức không hẳn ai cũng được biết. Ông chỉ nói “một quyển sách (sử) viết về nước Việt” theo hiểu biết của ông – cũng có thể là theo trí nhớ mù mờ khi viết An Nam chí lược sau gần 50 năm lưu vong. Có thể giải thích rộng về lời của Lê Tắc như sau: “Trần Tấn/Phổ soạn sách ‘viết về nước Việt’... và Lê Văn Hưu sửa sách đó”. “Việt chí” chỉ là Đại Việt sử kí lúc chưa thành tên (hay chưa đưa ra chính thức). Lầm lạc đi xa về đời sau chỉ vì chữ Hán không có lối in hoa tên riêng, in xiên tên tác phẩm (như bây giờ) mà chỉ là do người đọc đánh dấu thêm, hiểu ra theo định kiến của mình. Chúng ta đã thấy bà Triệu có tên Ẩu, tên Trinh Nương; thấy các chữ “Dương tam kha” trở thành tên một người họ Dương, chữ lót “tam”, tên riêng Kha; thấy “Chàng Lớn”, danh hiệu đương thời xác nhận địa vị chính thống Hoàng thái tử của cậu bé bất hạnh của Đinh Tiên Hoàng, trở thành tên kép Hạng Lang, hay như gần đây, thấy ông Quang Trung đội xác trong pho tượng chùa Bộc chỉ vì một vế câu đối có chữ “quang trung”... Không có An Nam chí lược và Minh sử để đối chiếu đính chính thì hai nhân vật triều Trần: Đồng Tử Dã, Đỗ Mộc trở thành cậu bé (“đồng tử”) Dã Đỗ Mộc trơ trọi một mình đi sứ Nguyên. Cho nên ngay trong bộ TT đang xét, khi dịch lời Ngô Sĩ Liên nói về việc tranh giành giữa hai anh em Ngoạ Triều, bản chính chép “Dã sử vân” được dịch là “Sách Dã sử chép rằng...” Làm như có một quyển sách mang tên Dã sử, của một tác giả lạc loài nào đó vậy!
Vậy thì luận cứ của ông Phan Huy Lê muốn dành phần độc đáo cho Lê Văn Hưu, người viết bộ “quốc sử đầu tiên”, cho hợp với mong muốn chứng minh về một “nền văn hoá Thăng Long đang phát triển
rực rỡ lúc bấy giờ”, luận cứ ấy không đứng vững được. Giải thích của chúng tôi về chữ “Việt chí” tưởng cũng có thể bổ túc cho các tác giả Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam khác về mối liên hệ không thể nào khác của “Việt chí” và Đại Việt sử kí.
Chúng ta cũng có thể theo ông Yamamoto Tatsuro mà cho rằng Đại Việt sử kí có thể chỉ gồm 3 quyển chứ không đến 30 quyển, dù lòng ái quốc có thúc đẩy muốn đưa lên đến con số vĩ đại kia. Chúng ta đã thấy các sử quan nói mò về đời Ngô Quyền, chúng ta thấy trong TT có cả một phần Ngoại kỉ Hồng Bàng, có các phần Trương Hống Trương Hát, Triệu Quang Phục, Lí Phục Man là của Ngô Sĩ Liên đưa vào, thế mà sách (bao gồm cả triều Trần) cũng không dày lắm, vậy thì Lê Văn Hưu vẽ rồng vẽ rắn làm sao cho chỉ hết đời Lí mà được đến 30 quyển? Chứng cớ của Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Phan Huy Chú, Quốc sử quán Nguyễn là của thế kỉ XVIII, XIX, được dễ dàng cho là có sự “thống nhất... của thư tịch Việt Nam” chỉ vì ông sau chép của ông trước, nối mãi từ TT mà thôi. Mới cách nhau độ hơn trăm năm mà sách của Lê Hi một quyển đến Phan Huy Chú trở thành mười quyển, thời gian quá dài cho việc giản dị là sổ một nét dọc trên nét ngang có sẵn, thì việc ở năm sáu thế kỉ trước, thêm chữ “thập” sau chữ “tam” nào có khó gì hơn? Đi tìm lại quá khứ qua các mảnh vụn thì không thể nào có sự xác quyết đủ thuyết phục cả người không muốn tin, chỉ có thể đưa gần đến sự thật hơn thôi, dù là có khi chỉ bằng vào những lí lẽ rất bình thường.
Chúng ta có thể tiếp tục về mối liên hệ giữa Đại Việt sử kí và Đại Việt sử lược. Các luận cứ cũng được ông Phan Huy Lê tóm lược trong bản dịch TT bản Chính hoà. Về phần chúng tôi, như đã nói, chỉ có bản dịch Đại Việt sử lược của ông Nguyễn Gia Tường với các câu chữ và chú thích hơi ngớ ngẩn, thiếu tình cách chừng mực nghiên cứu của người dịch lẫn người hiệu đính. (Hình như bản dịch của ông Trần Quốc Vượng mà chúng tôi thấy qua một lần, có vẻ tốt hơn. Lần tái bản quyển của ông Trần Quốc Vượng có thêm phần nguyên văn nhưng lại vấp vào lỗi “hiện đại hoá” thật tệ hại).
Phần lớn các học giả đều cho Đại Việt sử lược là bản tóm tắt của Đại Việt sử kí. Tuy chúng ta không thấy được diện mạo lúc đầu của
Đại Việt sử kí, nhưng tính chất “lược” thấy rõ khi đối chiếu với phần còn lại nằm trong TT. Một chi tiết sai lầm được Ngô Sĩ Liên xác nhận là của Lê Văn Hưu cũng thấy trong Đại Việt sử lược. Đó là bức thư đe doạ của nhà Tống gởi cho Lê Hoàn lại được chép vào đời Đinh (TT, I, ttr. 217-219) – cũng đã bị “lược”. Chuyện Lê Văn Thịnh hoá cọp, truyện Triệu Quang Phục (và Trương Hống, Trương Hát) rõ ràng là do Ngô Sĩ Liên đưa vào, dựa theo VĐULT, nơi nhắc đến việc phong thần đầu tiên năm 1285, sau năm hoàn thành của Đại Việt sử kí 1272. Tất nhiên trong quyển vừa kể này không thể có ông vua thần nước họ Triệu. Ở Đại Việt sử lược không có truyện Triệu Quang Phục... cũng không có chuyện hoá cọp mà kể chuyện Lí Nhân Tông đâm (con quái) Lê Văn Thịnh thật hợp lí: Sách này hẳn đã theo sách trước mà không chép theo VĐULT 1329 vốn gần hơn với thời đại tác giả quyển sử gây tranh luận, nhưng không phải là chính thức của triều đình. Vấn đề còn lại thường bàn đến, là niên đại soạn sách của Đại Việt sử lược có thêm cái đuôi phụ bản Trần triều thế phổ chấm dứt không thể trước năm 1377, cho nên có người nghi ngờ đây là phần của người sau thêm vào. Do đó mới có ý kiến cho Đại Việt sử lược không có phụ bản, là Việt chí (hay có gốc xa là Sử kí).
Trước nhất, hãy xét câu cuối của Đại Việt sử lược :”Vua đương thời: Đế Nghiễn...” Trong các đời vua Trần trước, đều có câu tổng kết về thời gian kéo dài của một niên hiệu, ở đây chỉ có câu “Năm thứ nhất niên hiệu Xương Phù là năm Đinh Tị (1377)”. Như vậy có nghĩa là chưa hết đời Đế Nghiễn (1388), sách, hay phần phụ bản, không hẳn phải là viết vào năm này. Ta cũng lưu ý rằng phần “thời sự” còn ảnh hưởng rất rõ nơi tác giả. Phần về Dương Nhật Lễ vẫn được chép ở TT (tuy là ở vị trí “phụ”) nhưng không có mặt trong thế phổ: Có thể tác giả đang ở vào thời đại Trần Nghệ Tông còn sống, gọi ông này là Thái vương, tất không chịu kể tên người bị lật đổ tuy rằng các dữ kiện còn lại cho thấy việc Dương Nhật Lễ lên ngôi rất là chính thống. Tuy nhiên hầu hết các học giả đều chú ý vào phần Trần triều thế phổ mà không lưu tâm đến phần đầu sách. Thật dễ hiểu, vì các nhà nghiên cứu đến nay đều thuộc vào thế hệ không đặt vấn đề tính chất lịch sử của quan niệm về Hùng Vương qua thứ tự các tài liệu để lại. Chỉ có Y. Tatsuro cho thấy tuy không đặt thành vấn đề lớn nhưng đã
giải quyết theo hướng này, cho Đại Việt sử lược có thể là Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc (hiện diện trong sử các năm 1372, 1386), nhưng sai lầm lại thuộc một hướng khác.
Có thể nhìn lại bố cục Đại Việt sử lược theo hướng tập họp sự kiện ghi chép có lí, ứng hợp với tình trạng kiến thức thời đại của tác giả, của các tác giả, nếu cho rằng quyển sách là của những người khác nhau được đem gồm làm một. Phần Trần triều thế phổ mang tính cách riêng biệt của một triều đại với tính cách quá lược giản, không thể coi là dụng tâm của tác giả viết về triều đại đó. Phần chính của sách từ Triệu kỉ đến hết nhà Lí là căn cứ để các học giả đời sau cho là bản lược giản của Đại Việt sử kí. Dù sao thì sự kiện các họ Lí đều đổi ra họ Nguyễn đã là điều chắc chắn rằng sách viết dưới triều Trần. Riêng phần đầu ghi về Hùng Vương và Thục An Dương Vương rõ ràng không thuộc phần chính nói trên và hẳn là căn cứ để học giả Nhật Bản đoán định là của Hồ Tông Thốc. Điều này cần được chú ý đặc biệt.
Chúng tôi tưởng đã giải quyết đúng đắn vấn đề xuất hiện của quan niệm Hùng Vương kéo dài trong nhiều thế kỉ, đến Ngô Sĩ Liên (1479) mới chính thức như một triều đại mở đầu của Việt Nam trong sử sách (Thần, người và đất Việt [bản mới], chương V). Rõ ràng Lê Văn Hưu không viết phần Hùng Vương này (cùng với An Dương Vương, tuy ngắn nhưng là phần riêng biệt với nhà Triệu, phần được Ngô Sĩ Liên xác định là của Lê Văn Hưu: “từ Triệu Vũ Đế trở xuống...”), và vì thế các lập luận cho rằng Đại Việt sử lược là Sử kí hay Việt chí (được gán ghép vào với Sử kí), đều là sai. Theo các tài liệu để lại thì nói về Hùng Vương và 18 đời cai trị là ở Việt nam thế chí của Hồ Tông Thốc và có khả năng nằm trong Việt sử cương mục cũng của ông này. Nhưng Đại Việt sử lược cũng không thể là Việt sử cương mục chỉ vì trong quyển trên không có dấu hiệu gì là theo thể “cương mục” cả. Hãy giở lại quyển Khâm định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn thì rõ. Đại Việt sử lược đã viết theo phép biên niên của TT, và chắc cũng theo của Đại Việt sử kí. Các sử gia Liên Xô và Trần Kinh Hoà cho rằng Đại Việt sử lược được viết trước Đại Việt sử kí. Vấn đề đã được giải quyết ở trên vì lí do phần Hùng Vương ghép thêm đó mang tính chất lệch thời đại. Ở đây
chúng tôi sẽ chứng minh thêm tính cách nhất quán của Đại Việt sử lược, quyển sách có phần cốt yếu (phần “Việt chí”) không phải dựa trên ý thức hệ Phật Giáo như các tác giả Liên Xô chủ trương mà đúng là của ý thức hệ Nho .
Hãy nhìn kĩ thêm phần chính của Đại Việt sử lược và so sánh với phần còn lại nói về nhà Lí nằm trong TT. Trong khi các sự kiện riêng của Lí lúc Trần chưa xuất hiện, được ghi hết sức đơn giản thì ở giai đoạn chuyển tiếp Lí sang Trần (cuối Lí Cao Tông và đời Huệ Tông) lại có rất nhiều chi tiết, nhiều hơn ở TT, nhiều đến mức làm lệch quân bình cả quyển sách. Sự hiểu biết về biến cố thuộc giai đoạn này của sử gia nằm vào đời Trần thấy thật rõ. Chứng cớ về bản thân tác giả thấy rõ hơn khi ta đi sâu thêm vào một chi tiết khác. Sách theo tính cách thời đại, không thể bỏ qua chuyện các điềm lành xuất hiện, trong đó có các điềm theo tin tưởng Phật Giáo, không thể bỏ qua chuyện các vua Lí cất chùa, xin kinh, bởi vì đó là chuyện của nhà vua, nhưng gần như hoàn toàn bỏ qua việc nhắc đến tên các tăng sĩ trên triều chính, những chi tiết mà TT nhắc lại, hẳn là căn cứ trên sách của Lê Văn Hưu. TT kể tên các nhân vật tăng đạo của Đinh Tiên Hoàng trong khi Đại Việt sử lược ghi “định phẩm cấp các quan văn võ” với tên người, và lờ tên các “thầy tu” lúc đó, và về sau: Đỗ Pháp Thuận, Tăng thống Ngô Chân Lưu qua đến đời Lê (987), Thẩm Văn Uyển (1014), Minh Không (1131). Sách này bất đắc dĩ nói chuyện xin kinh (1018) mà không chép việc xin được kinh hai năm sau với tên người Tăng thống (Phí Trí) đi rước, cùng việc chép kinh 1023, 1027 của TT. Không có tên chùa Diên Hựu năm xây cất. Dấu hiệu kì thị rõ rệt vì tác giả là một nho sĩ cuối triều Trần, lúc nho sĩ lên chân. Tác giả không phải là quan chức – viết sử cho triều đình thì ít nhiều gì cũng phải tôn trọng sự kiện; tác giả là một nhà nho thời loạn, nghe theo lời cổ nhân “bình thời luyện võ, loạn thế độc thư”, nên viết sách trong điều kiện không bị ràng buộc, đã để lộ sự chọn lựa của chính mình.
Sau một thời gian kinh qua sự tuyển lựa bằng kinh sử, nho sĩ nhờ “biết chữ” đã thấy mình là người quan trọng, có lúc dùng đến mánh khoé để chèn ép người, ví dụ trường hợp Đinh Củng Viên bêu xấu hoạn quan Lê Tông Giáo “không biết chữ” để Nhân Tông phải xúi
ông lưu thủ Thiên Trường, đất nhà vua, hối lộ cho ông Đại học sĩ (1288). Đến cuối Trần thì nho sĩ vào làm tể tướng (Phạm Sư Mạnh 1358), chức vụ trước kia chỉ dành cho hoàng tộc. Năm 1296 một ông thượng phẩm đánh bạc bị lôi ra đánh chết, về sau Đỗ Khắc Chung (được cho họ Trần) ngồi trên giường đánh bạc suốt hai ba ngày đêm không nghỉ, chỉ húp cháo lấy sức (chuyện năm Khắc Chung chết 1330). Nghệ Tông cho nho thần Chu An (1370), Trương Hán Siêu (1372), Đỗ Tử Bình (1380) vào thờ ở Văn miếu. Nho sĩ tăng uy tín nên Phạm Sư Mạnh, Lê Quát xúi dục Minh Tông không được, vẫn thành công với Dụ Tông, thực hiện “thay đổi chế độ” trong đời Đại Trị (1358-1369). Cho nên Trương Hán Siêu (chết 1354) làm văn bia, cương quyết: “Dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng”. Dị đoan là “lải nhải chuyện Phật”, thánh đạo là “Nghiêu Thuấn... Khổng Mạnh”.
Tuy nhiên cái thế đang lên của nho sĩ đó vẫn còn bấp bênh, bị phản ứng. Những người đỗ đạt ban đầu xuất thân là môn khách, gia thần của các ông hoàng tộc (như Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu... của Trần Hưng Đạo), có người đỗ trạng nguyên vẫn không chịu làm quan mà chỉ lui về làm bộ hạ của chủ cũ, hẳn không phải vì lòng trung thành mà vì danh giá, quyền lợi mới không thấy hơn xưa! (Bạch Liêu 1266, người của Trần Quang Khải). Người hiền Chu An mà đời sau ca tụng bốc trời vì mấy đoạn văn của TT, chỉ là ông thầy ở Quốc tử giám, gắng gỏi dâng Thất trảm sớ, may mà không bị “trảm”. Thể chế lại vẫn chưa thấy rõ rệt: Đoàn Nhữ Hài được tuyển lựa không qua thi cử, chỉ nhờ tình cờ làm đơn cho ông vua Anh Tông muốn chạy tội với cha mà được cất nhắc (1299), lần hồi lên đến chức hành khiển, rồi vẫn không khỏi bị phạt vì dính líu đến chuyện đùa cợt sét đánh trúng lăng tẩm (1327). Đến cuối đời, hoạn quan Nguyễn Nhiên nhờ một lời “cố vấn” cho vua (1370), lúc thành công, được làm hành khiển mà khi phê giấy tờ, Nghệ Tông phải bảo vẽ các nét chữ cho ông quan biết mà đồ theo! Họ Trần đến hồi suy sụp, anh đồ Nguyễn Phi Khanh làm liều, may mắn lấy được vợ sang nhưng khi thi đỗ vẫn không được Nghệ Tông dùng, vì tội chơi trèo giai cấp.
Chính nhìn vào thái độ này mà ta có thể xét đoán một cách trung thực hơn về việc Nghệ Tông cho các ông nho khanh vào Văn miếu. Chu An mà Ngô Sĩ Liên không tiếc lời ca tụng, là người được Dụ Tông “định đem chính sự trao cho ông” hẳn là vào thời cải cách Đại Trị, thời Nghệ Tông cho là bị “bọn học trò mặt trắng... đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc... không kể xiết”. Nếu nói theo ngôn ngữ thời nay thì Chu An “tiêu cực” hơn Trương Hán Siêu, Lê Quát (những người học trò đã làm được thay đổi lớn, dọn cỗ sẵn cho sư phụ); ông chỉ nhờ tiêu cực mà không vướng vấp vào những hệ luỵ của chính trường như những người kia thôi. Ông còn thua ông thầy Khổng Tử “xông xáo” hơn nhiều, có nghĩa là không phải bậc “hiền giả”. Trương Hán Siêu (nhắc lại: gia thần của Trần Quốc Tuấn!) bị Ngô Sĩ Liên chê tội kiêu ngạo, nhất là tội tham giàu “chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả”. Đỗ Tử Bình bỏ vua chết, chạy thoát lấy thân, được Nghệ Tông tha chết nhưng phạt tội đồ làm lính (1377). Thế thì việc Nghệ Tông cho các ông này vào ở một chỗ với Khổng Tử và Thất thập nhị hiền không phải vì danh vị “người hiền” như Ngô Sĩ Liên muốn gán cho Chu An, hay vì tinh thần dân tộc cao vời của ông Thượng hoàng như người bây giờ muốn nghĩ ra, mà chỉ vì một lí do giản dị: cho thờ chung với người cùng một phe, một phái, một dòng kiến thức. Chỉ có thế thôi.
Nhìn xuống phía dưới tầng lớp dân chúng, nho sĩ cũng thấy mình lạc lõng. Vào thế kỉ sau, ở một thời đại khác, Ngô Sĩ Liên chê thẳng các ông vua Lí Trần “sùng mộ đạo Phật” – không phải là đạo của Thánh hiền, nhưng ở thế kỉ này, Trương Hán Siêu viết bia cho chùa Phật, mà ân hận đã làm trái với lòng mình, với tin tưởng của mình (“Ta định lừa dối ai đây?”) bởi phải lôi cuốn theo ông con rể tuy thuộc tầng lớp nô – lại là nô nhà Phật (tam bảo nô) nhưng... nhà giàu! Còn ông Lê Quát, cũng lại làm văn bia (1371) cho chùa (chùa xin chữ, trả tiền!) thì than thở đã tận lực học sách từ trẻ, mong “để giáo hoá dân chúng mà rốt cục vẫn chưa được một hương tin theo” trong khi “từ kinh thành đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm (đạo Phật) không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thề thốt mà người ta vẫn tin, [c]hỗ nào có người tất có chùa Phật... chuông trống lâu đài chiếm đến nửa phần so với dân cư”.
Đó là hoàn cảnh thực tế phải sống của nhà nho làm Đại Việt sử lược. Không thể huỷ chuyện Phật thì bỏ bớt đi, lược các ông tăng thống, quốc sư, tăng lục đi, phải ghi lại dấu vết đền đài vật chất, sự kiện chung chung thì xoá mất con người cụ thể để khỏi có bóng dáng che lấp nhân vật của phe mình. Tác giả chỉ nhắc đến tăng ni trong cái thế gìm người nâng mình lên. Tuy chê Đàm Dĩ Mông thuộc loại “mọt quốc hại dân”, phản thần nhưng chép dài dòng như mượn lời tâu của ông kia để trình bày cái xấu của phe đối nghịch: “Nay tăng đồ và phu dịch số lượng chẳng kém gì nhau. Bọn tăng đồ tự kết lập bè đảng, lập càn người lên làm chủ, tụ họp thành từng nhóm làm nhiều việc dơ bẩn. Hoặc ở giới trường tịnh xá thì công khai ăn thịt uống rượu. Hoặc nơi thiền phòng, tịnh viện thì kín đáo tự gian dâm với nhau. Ban ngày thì ẩn núp, ban đêm thì làm như chồn như chuột...” trong lúc TT, vào thời nho sĩ đã có địa vị vững chải, chỉ ghi giản dị “theo lời tâu của Đàm Dĩ Mông”. Tác giả nhắc tên một ông tăng phó vì ông này can vua mà trích dẫn kinh Thi. Tuy chê Ngoạ Triều, trong lúc TT chỉ nhắc đến “nhà sư” Quách Ngang thì Đại Việt sử lược nói đến một ông tăng thống, như hả hê có người trị tội kẻ cầm đầu mê tín dị đoan giùm mình!
Tính chất thời đại cuối Trần thật rõ rệt về tác giả Đại Việt sử lược. Tuy nhiên chúng ta cũng vẫn chưa biết tác giả là ai – và có vẻ như chẳng bao giờ biết được. Cũng qua tóm lược của ông Phan Huy Lê, một nhà nghiên cứu trong nước hơn hai thập niên trước cho rằng mình đã tìm ra tác giả là Sử Hi Nhan (trạng nguyên 1363). Chúng tôi không có phương tiện để xét điều kiện khả tín trong nguồn tin về ông tác giả này (Quan du tạp lục của Nguyễn Hoằng Nghĩa), nhưng nhận ra hai điều sơ hở. Năm 1363, theo TT, chỉ có kì thi lấy người cấp thấp chứ không có tổ chức thi thái học sinh – đã nhớ ghi kì thi nhỏ sao lại quên kì thi lớn? Điều thứ hai là việc ông Sử vốn có họ Trần nhưng vì là giỏi sử nên được vua cho đổi họ. Nguồn tin này có vẻ do ảnh hưởng các truyền thuyết từ triều đình Trung Quốc (kiểu mấy ông viết sử, “coi ngựa” mang họ Thái Sử, Tư Mã) và vài chuyện xảy ra cho những người khác, theo những lí do khác, chứ không nhìn vào thực tế của thời đại họ Trần ở Đại Việt. Ông Hi Nhan vốn gốc họ Trần, dù không chắc là họ của vua đương thời nhưng cũng là
nằm trong một họ tôn quý, không thể có họ nào tôn quý hơn, dù là nhân danh một chuyên môn. Đó là điều ta phải chú ý. Khắc Chung lúc còn là họ Đỗ đã có uy quyền khiến cho hình quan không dám xử kiện công bằng, khi được cho sang họ Trần, đủ tự tín đến nỗi hành động như người họ Trần chính tông (dẫn công chúa Huyền Trân đi quanh quẩn trên biển để có thời gian thông dâm) thế mà khi gặp đúng người họ Trần có huyết thống (Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng – con Trần Quốc Tuấn) vẫn đành phải len lén lảng tránh. Có thể so sánh điều đó với sự ngang tàng của Trần Khánh Dư, cùng cội nguồn xuất phát: không chê công chúa Thiên Thuỵ vợ Hưng Nhượng Vương Nghiễn, dâu Trần Quốc Tuấn, vua gọi không tới, tham lam hà hiếp dân chúng mà bị khiển trách còn cứng cỏi viện dẫn uy thế của tập đoàn cầm quyền: “Tướng là chim ưng...” Uy thế của họ Trần trên tột đỉnh của xã hội đương thời như thế được thấy trong rất nhiều sự kiện khác, nên chuyện một người có họ Trần “được” đổi sang họ khác thật là điều khó tin. Những bằng cớ gián tiếp dù có vẻ bên-lề như thế vẫn khiến ta phải dè dặt về nguồn tin Sử Hi Nhan là tác giả Đại Việt sử lược.
Vậy thì chưa có thể giải quyết vấn đề tác giả, chỉ có thể nói Đại Việt sử lược mang tính cách toàn bộ tạo dựng của một người chứ không phải là chắp vá tình cờ của nhiều người. Sự thống nhất về ý thức hệ, của kiến thức trong sách thật rõ ràng và xuyên suốt. Nó được thực hiện trong hoặc sau năm 1377, không sau 1388, bởi một nho sĩ cuối Trần, dè dặt hơn Hồ Tông Thốc, vào lúc đã có ý thức về một thời Hùng Vương xa xưa, một ông Hùng Vương phù thuỷ lãnh chúa, chưa bị biến thành một ông Hùng Vương Hoàng đế vững vàng như khởi thuỷ từ Hậu Lê, từ đây càng lúc càng đậm nét cao sang, thần thánh. Vai trò Hùng Vương rụt rè đó hợp với thời đại có nho sĩ đang lên mà chưa đủ uy thế vững vàng, trong triều còn bị hoàng tộc chèn ép, ngoài xã hội còn chưa thấy bóng dáng Văn miếu, trừ cái ở Kinh sư từ xưa, lập ra theo sự cần thiết tổ chức triều chính. Phần chính của quyển sách có thể là căn cứ trên Đại Việt sử kí của triều đình (bởi vì đến lúc này chưa thấy bóng dáng quyển sử nào khác), theo đó tác giả lược bỏ, chấp nhận sử kiện theo tâm ý của mình. Có thể tác giả cũng biết đến Trần Thuận Tông, nhà Hồ... nhưng không ghi
chép thêm vì những biến động dồn dập về sau. Sách chấm dứt với dòng chữ “Vua nay, Xương Phù...” cho đến khi vào tay quân Minh, giữ được nguyên bản đến hàng bảy thế kỉ, làm kỉ lục lưu truyền cho sách vở Đại Việt.
Vậy thì các sử quan đầu tiên của nước Việt dù mất danh tính, mù mờ thân phận nhưng rốt cục vẫn còn lưu lại dấu vết để ta hiểu thêm về họ, nhân đó thêm một chút về lịch sử nước Việt vốn đang càng lúc càng “loạn” thêm với những nhân danh khoa học, giả - khoa học mới.
5 Mười một 2000
Văn Học, Xuân Tân Tị 2001
--------------------------------
Dõi theo các thư mục và do chỉ dẫn của GS. Nguyễn Thế Anh, chúng tôi biết được có các bản in TT của GS. Trần Kinh Hoà, xuất bản năm 1984-86 (3 quyển), nhưng trong tình thế không thể tiếp cận tài liệu nên đành phải chịu lỗi thiếu sót mà cứ trình bày theo
hiện trạng hiểu biết của mình. Một chú thích của Momoki Shiro 1
(“Gia đình của các vua nhà Lí và sự xuất hiện của các vương triều phụ hệ ỏ Việt Nam” trong Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam, Hà Nội 2002, chú 37, tr. 188) có nhắc đến ý kiến của GS. Trần Kinh Hoà về thời điểm của ĐVSL nhưng hình như lại có lỗi in: thế kỉ XII hay XIII?
II. CÁC SỬ GIA NHO THẦN
CĂN BẢN NHO HỌC CỦA SỬ QUAN: NHỮNG ĐIỀU TRONG VÀ NGOÀI TẦM TAY NGƯỜI BÂY GIỜ
Dù là thoát khỏi vòng Bắc thuộc, ngay từ lúc khởi đầu, cựu thuộc địa An Nam vẫn mang khuôn khổ của người chủ cũ. Ngô Quyền vẫn xưng vương chứ không phải là một ông cồ-khun hay cồ-lang gì đó. Dù với Đinh xưng Đế, có tên nước là Đại Cồ Việt, người được sai phái từ kinh đô vẫn là “nha hiệu” (Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ 980, Phí Sùng Đức 994) trong dấu vết của một nha phủ Đô hộ kéo dài đến thế kỉ XV. Thái sư Hồng Hiến chết đi (988) nhưng di sản vẫn để lại cho Ngoạ Triều, các kép hát người nước Tống và những cải cách theo Tống của ông vua Chàm (nếu nhìn về phía mẹ, và cả Việt của một chừng mực thời bấy giờ) bị chê trách nhất suốt trong lịch sử Việt này. Nhưng Hoa Lư chật hẹp vẫn là nơi của những tranh chấp bộ phận quyền lực phương Nam, trong đó Lí Công Uẩn nhận ra sự lạc loài của mình. Ông phải dời về thành Đại La cũ, gần nơi căn bản quyền lực gia tộc, biến Hoa Lư thành vùng tiềm ẩn li khai sẽ nổ bùng dữ dội khi Lí suy yếu. Tuy nhiên Thăng Long đã đem đất nước mới đi vào một hệ thống to rộng hơn mà nhà Lí phải ứng xử theo tình thế, và đã đạt được hiệu quả, dẫn đến sự truyền nghiệp lâu dài làm cơ sở chính thống cho các đời về sau.
Sự xuất hiện của tổ chức chính quyền theo khuôn mẫu Trung Hoa thì như thế nhưng kiến thức về cách tổ chức qua những con người cầm quyền mới như thế nào, ta không được biết rõ. Một Thái sư Hồng Hiến không đủ. Riêng biệt thì có các nhà sư đọc được chữ Hán nơi các kinh Đại tạng xin về (lần đầu 1009). Hẳn còn có những nha lại cũ của phủ Đô hộ nằm trong chính quyền mới, nhưng họ bị chìm lấp trong khung cảnh tập họp dân tộc địa phương có ông vua (Lê) hát những câu mà sứ Tống (Cảo) không hiểu, thì kiến thức vốn không cao đó càng chỉ có thể đem ra áp dụng một cách tạp nhạp, lẫn lộn cho ứng hợp với tình thế mà thôi. Vì thế ta mới thấy cậu bé có danh vị chính thức tiếp nhận ngôi vị của Đinh đã được gọi là Chàng Lớn chứ không phải là Hoàng thái tử. Ông vua khai sáng nhà
Đinh lúc sống là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, lúc chết đi được gọi giản dị là Tiên Hoàng Đế, giống như ông vua khởi nghiệp khác, bị sử quan ghép vào địa vị thấp hơn, đặt tên hiệu là Ngô Tiên Chủ. Ông vua Lê chết chưa kịp chôn không có miếu hiệu đành phải gọi là Đại Hành Hoàng Đế. Ông vua con “theo Tống” mang tôn hiệu 19 chữ trong đó soán đoạt một phần tôn hiệu của cha, của ông vua triều trước, dấu vết hẳn còn ẩn khuất kéo dài trong đời cha mình chỉ vì bóng dáng bà Dương hậu trong triều mới. Lí Thái Tổ dời dô về Thăng Long, cơ hội tiếp xúc càng nhiều hơn với phương Bắc vốn cũng là một yếu tố củng cố triều đại, cho nên có những người vào làm quan ở Đại Việt. Triều Lí chấp nhận cả những kẻ li khai từ những rối loạn cải cách ở Trung Quốc. (Hoàng Xuân Hãn, Lí Thường Kiệt; TCĐT, “Người hay Phật?” trong Những bài dã sử Việt). Dấu vết nho sĩ phương Bắc xâm nhập nhiều hơn, tất có gây ảnh hưởng đến tổ chức triều chính, tuy nhiên giới hạn thuộc lại trong vai trò của họ còn chứng tỏ trong cách xưng hô, nơi các tôn hiệu lòng thòng dành cho các vua, mang tính cách xưng tụng nịnh bợ thấp thỏi mà các nho sĩ đời sau chê trách, vì thấy không hợp với thể cách ngôn từ của vương quyền các ông đã học được.
Tuy nhiên ta vẫn chỉ thấy có người xâm nhập, không thấy người được đào tạo trong nước. Người đỗ trong khoa gọi là “tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường” lần đầu tiên (1075), Lê Văn Thịnh, hẳn không phải là dân di tản, đã tỏ ra làm việc rất xuất sắc trong hệ thống quyền bính mới, nhưng ông đã được đào tạo như thế nào? Trước đó (1028), Nội thị (người hầu trong “nhà”) Lí Nhân Nghĩa hẳn cũng không phải là người xâm nhập, đã chứng tỏ rất thông thạo kinh sử Trung Hoa. Lại ai là người dạy học về tính toán, viết chữ, hiểu luật lệ mà có cuộc thi cấp thấp mở ra (1077) để lấy người lập sổ sách ruộng đất, dân đinh cho nhà Lí? Có vẻ như việc đào tạo đã được thả-nổi, nhà nước đỡ tốn công sức, chỉ việc thu nhận kết quả, công nhận sự cần thiết của một hệ thống giáo dục, như khi cho xây Văn miếu đắp tượng các ông tổ cao thấp, vẽ hình các đồ đệ, bốn mùa cúng tế (1070). (Các năm sau 1156, 1171 là sửa chữa, xây dựng thêm). Gọi là “miếu” nhưng cũng là nhà trường vì đây là nơi Hoàng thái tử đến học. Lại cũng chỉ là chuyện cung đình, vì ông
hoàng thái tử Càn Đức lúc bấy giờ mới 4 tuổi, khoa thi 1075 chỉ là lấy người vào dạy vua bé con, sử còn lưu lại tên Lê Văn Thịnh hẳn là ghi đúng người cần thiết. Ngày trước (và vẫn còn tiếp tục một thời gian) con đường tiến thân là bằng các ngõ khác (dòng dõi, đi tu, thiến...), lần đầu mở khoa thi không có người đủ tiêu chuẩn cho nên năm sau (1076) phải lấy nhân lực từ hàng quan chức chuyển sang nơi học của hoàng tộc – Văn miếu được gọi Quốc tử giám là theo cách gọi hồi tố của sử quan về sau. Trường hợp tiếp theo cũng xảy ra dưới đời ông vua bé con khác: năm 1185 “thi sĩ nhân” chọn 30 người từ 15 tuổi trở lên ở lại hầu vua (Cao Tông) học, năm 1193 cũng chọn người vào hầu vua học, lúc này đã lớn. Chọn tuổi 15 mà có đến 30 người được tuyển, hẳn là các “trường tư” đã thấy có chỗ thu lại kết quả công sức. Vì thế có thi Điện (?) 1152 (1150 ở ĐVSL), thi Tam giáo (Nho, Lão, Phật) 1195. Không ghi việc khảo khoá các quan văn võ 1162, 1179 của TT, trong đó có phân loại người biết chữ nghĩa, người không, nhưng ĐVSL nói mơ hồ về việc mở khoa “thi học sinh” các năm 1165, 1199, và cho biết chi tiết trong khoa thi Tam giáo 1179, 1196 có khảo hạch việc viết ám tả, làm thơ phú, giảng nghĩa Kinh và làm tính (chắc là riêng cho thành phần nho gia).
Đà học vấn Nho gia phát triển thêm một bậc, gần như hoàn chỉnh ở mức độ hình thức dưới triều Trần tiếp theo. Riêng biệt với các khoa thi Tam giáo dư âm của đời trước, có khoa thi Thái học sinh đầu tiên (1232) cho ngành Nho với tên người thi đỗ có thứ bậc. Nhưng mãi đến 4 năm sau họ mới được vào chầu vua cùng lúc với việc mở rộng nhà Quốc tử viện (trước kia chỉ dành cho hoàng tộc) cho phép con quan được vào học. Sau khoá 1232 và 1239, năm 1247 lại nâng cấp làm khoa thi Tiến sĩ với các bậc trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Người đi thi (và thi đỗ) không phải chỉ từ Quốc tử viện mà còn ở địa phương, nhất là từ hoàng tộc nuôi gia thần: Bạch Liêu, được sử khen “thông minh nhớ lâu, đọc sách ngàn dòng một mạch”, đỗ trại trạng nguyên năm 1266. Như thế cũng như đời trước, ta chỉ biết có một trường học ở kinh đô còn thì mù tịt về việc giáo huấn trong dân gian. Cuối đời thấy có Chu An dạy học tư, học trò làm hành khiển, nhưng Chu An học ở đâu? Hai thầy đồ Nguyễn Hán Anh, Nguyễn Phi Khanh dạy con gái của Trần Nguyên Đán, học ở đâu?
Dù sao thì Trần cũng chỉ nối tiếp việc học kinh sách Nho qua những phương cách tiếp cận nào đó về kiến thức lưu hành ở Trung Hoa để có người đi thi, làm quan, trị nước kiểu bình thường, như xuất thân phải có của một anh học trò ngoan ngoãn. Với Hồ Quý Li ta mới thấy một xuất hiện khác mà tiếc rằng thiếu sách vở căn bản lưu truyền khiến ta không thể bàn sâu thêm.
Sự thất bại của nhà Hồ nằm trong những điều kiện lịch sử, khác với toan tính của người mở đầu nhưng dù sao thì ý tưởng muốn làm mới thời đại cũng còn thấy rõ nơi ông ta. Mối thâm tình của cha con Hồ Quý Li với Trần Nghệ Tông chứng tỏ ban đầu họ không có ý cướp ngôi nhà Trần: Quý Li run sợ muốn tự tử khi một phe tông tộc Trần bàn mưu giết ông (1388) trong lúc ông có thừa quyền lực trong tay; Hồ Nguyên Trừng những ngày lưu vong ở Minh đã nhắc đến “Nghệ Vương” với đầy cảm tình nuối tiếc. Ý phù trợ nhà Trần hiện rõ trong chi tiết còn lại của tập Minh đạo 14 thiên: Ông muốn làm Chu Công (như ông này phù trợ nhà Chu) nên đặt ông này vào chính vị tiên thánh trong Văn miếu, gạt ông Khổng Tử sang một bên. Ông đem sách của Chu Công soạn dạy vua trẻ (Chu) Thành Vương xưa để dạy (Trần) Thuận Tông đương thời.
Từ sự chọn lựa vị thế chính trị đó dẫn đến sự bài bác Luận ngữ và các Tống nho nổi danh như hai họ Chu, hai anh em họ Trình, thật là dễ hiểu. Đã nói chúng ta không có chi tiết lí luận của ông để có thể bàn sâu thêm, nhưng cái ý chính nổi bật của ông rõ ràng là không muốn theo khuôn thức thời đại, dù là khuôn thức của Thiên triều, của trung tâm xuất phát luồng tư tưởng chủ đạo đang lưu hành ở đất nước phiên thuộc. Từ tình thế riêng biệt của đất nước có ông ra tay đảm trách, ông muốn lập ra một môn phái mới (mà chúng ta không biết là gì) để cạnh tranh với các môn phái đương thời. Với vài câu còn lại trong sử, ta thấy ông chê trách các danh gia Tống nho đi vào lí thuyết mông lung nhiều mà không chú trọng đến thực hành. Vì thế dưới mắt Hồ Quý Li, Hàn Dũ mà danh tiếng nổi bật không phải vào lúc sinh thời (tuy với bài biểu đòi đốt xương Phật) nhưng được bốc cao nhờ các Tống nho về sau, con người của văn từ rổn rảng đó bị ông đặt vào hàng ngũ “đạo nho” (nho ăn trộm, nho vặt vãnh), cũng không phải là quá quắt. Nói một cách khác, Quý Li là nhà chính trị, là
con người của hành động, không ưa lí thuyết, nên chê Tống nho “học rộng nhưng ít tài”, chê Khổng Tử thiếu ứng biến, chao đảo không quyết đoán, không như Chu Công vừa tạo nghiệp được cho nhà Chu, vừa để lại điển chế cho đời sau, xứng đáng cho ông ngầm ý so sánh, tôn phục, đòi thiết lập một hệ thống “Chu nho” trong Văn miếu mới. Ông rất kiêu ngạo về kiến thức của mình, soạn sách dạy trong nội cung vẫn không theo ý Chu Tử, và đã từng chê kẻ viện dẫn kinh sử: “Biết được mấy chữ mà dám nói chuyện Hán Đường?” Chẳng thấy lí thuyết mới của Hồ Quý Li được đem ra áp dụng, nhưng tính chất ưa tranh luận từ người lãnh đạo đã ảnh hưởng đến các kì thi lúc này đòi hỏi một tầm mức kiến thức cao hơn trước.
Không có một cuộc cải cách tư tưởng như Hồ Quý Li mong muốn, nhưng với quyền Phụ chính, Hồ đã cho đặt chức giáo thụ, lập thư khố ở các châu trấn (1397) tuy tác dụng hẳn không lớn rộng vì triều đại ngắn ngủi, đầy biến cố và sức chống đối. Thời thuộc Minh tuy vẫn ngắn nhưng với sự tích cực đồng hoá, đã đem lại sự xâm nhập của Nho giáo sâu đậm hơn, với những cải cách thời chiếm đóng sẽ làm đà cho những đổi thay về sau. Rối loạn, chiến tranh tàn phá nền tảng xã hội cũ, một tầng lớp cầm quyền xuất phát từ một khu vực khác, đóng đô trên vùng xa lạ – một chừng mực như là đất địch, phải giải quyết những vấn đề cai trị khác xa thời ông cha làm tù trưởng, điều kiện đó khiến họ, sau một thời gian hoang mang, dễ chấp nhận phương thức tập trung quyền bính của nhà Minh đem lại, trong đó sự chuyên chế khởi mầm trong lí thuyết Tống nho được thi hành ở Trung Quốc, nay đưa vào trong chính sách trị nước giúp Lê Thánh Tông nắm chặt được đám quần thần kiêu căng vì công tích cũ, hay đã luồn lọt xoay đổi thành thói vì chính trị bất thường.
Thời thuộc Minh, Nho học lan ra các địa phương phủ, châu, huyện với các quan lại chuyên trách (Ngan nan tche yuan, phần chữ Hán tr. 106-107; TT II, chuyện tháng 9âl. 1414). Lê Thái Tổ hẳn là chưa kịp tổ chức gì nên chỉ mở khoa thi chọn người làm việc (1429), nhưng với đà có sẵn, năm 1434 thấy thi học sinh trong nước lấy 1 000 người, có “nhà học ở các lộ” với chức giáo thụ vốn thường vẫn dành cho người nằm ở Quốc tử giám. Khi lộ được cải thành phủ thì có chức huấn đạo (1466). Ngoài việc thi cử để tuyển người làm
quan, thỉnh thoảng vẫn có việc chọn người làm lại thuộc như khoá thi viết chữ, làm tính năm 1437 (theo dự tính 1434), lấy đến 690 người. Việc học hành thi cử được chú ý nên từ chỗ người dân tìm đường khác để vào hoạn lộ, các thí sinh trở nên đông hơn, có vẻ như cũng đã đến độ lạm phát. Khoá thi 1442 có 450 người, lấy đỗ 33 người, năm 1463 thi 1 400 người, lấy đỗ 44 người (TT ghi đến 4 400 thí sinh). Các con số tỉ lệ người thi và người đỗ được tiếp tục lấy ở Văn khắc Hán nôm (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Hà Nội 1993), tóm lược từ bia Văn miếu Hà Nội, là: 1 400/44 người đỗ năm 1453, hơn 1 100/27 năm 1466, hơn 3 000/43 năm 1475 (TT ghi rõ 3 200 thí sinh), năm 1516 vụt lên đến 5 700 thí sinh mà chỉ lấy có 43 người. Các bia sau chỉ có người đỗ mà không thấy số người thi trừ bia 1516. Các con số khác lấy từ TT, không có bia lập: năm 1499 thi hơn 5 000, lấy đỗ 55 người, năm 1502 thi 5 000 lấy đỗ 61 người, năm 1505 không rõ số người thi, chỉ có số đỗ là 55 người. Dự định bắt đầu mở khoa thi hương, thi hội từ 1438 nhưng năm 1442 mới thực hành được, đồng thời với dự tính dựng bia (thực hiện 1484). Thế mà khả năng thâu thái tỏ ra đã không kịp với kiến thức sách vở đòi hỏi: Giáo quan ở Quốc tử giám, ở các lộ phải bị “thi lại” để thải bỏ; năm 1467, thầy của Thái tử không biết làm chiếu, chế, biểu, còn giám sinh (thầy ở huyện) thì chỉ học kinh Thi, kinh Thư nhiều, mà biết ít về Lễ, Dịch, Xuân Thu, điều đó có nghĩa là khả năng suy luận cao cấp còn yếu. Tuy nhiên từ đà mở rộng tuyển trạch nhân tài theo thi cử kinh sách của triều Lê Thánh Tông, Nho học trở thành ý thức hệ chủ thể để các sử quan lên tiếng càng mạnh bạo đối với các triều trước, đúng với khuôn khổ lí tưởng đòi hỏi mà khả năng thì chưa theo kịp với thực chất của ngành chuyên trách.
VẤN ĐỀ ĐẠO LÍ CỦA SỬ GIA NHO THẦN
Cùng với sự phát triển Nho học như ta đã thấy thì sử kí Việt cũng chuyển qua một giai đoạn khác, bắt đầu dòng sử của Nho gia mà hai tên tuổi Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên như hai mắt xích nổi bật. Những gì chính của họ viết thì phần lớn đã lẫn lộn trong tập họp của những người sau. Lê Văn Hưu đã bị lược giản bởi tác giả ĐVSL, bởi Ngô Sĩ Liên... Ngô Sĩ Liên còn lại các Kỉ của thời Hùng Vương, còn
quyển 11 trong TT (như ông Phan Huy Lê xác nhận) nhưng sách đã qua tay các ông Phạm Công Trứ, Lê Hi thì không có gì bảo đảm các ông này không ngứa tay thêm bớt. Cũng như, giá bản in TT không còn, chúng ta chỉ có quyển sử của Ngô Thì Sĩ thì sẽ không biết nhiều chuyện cất chùa chiền của Lí, không biết chuyện ông xào nấu xáo trộn sách xưa. Phần tin chắc nguyên văn của các sử quan, là các Lời bàn giúp ta hiểu một ít về cung cách làm việc của họ, cùng khả năng suy luận phản ảnh một chừng mực thời đại họ sống.
Ông Phan Huy Lê đã đếm giùm ta về tổng số lời bàn của các sử thần còn lưu lại trong TT. Lê Văn Hưu có 30 lời bàn, Phan Phu Tiên có 11 lời bàn, Ngô Sĩ Liên có 166 lời bàn. Chúng ta có thể đếm thêm. Vũ Quỳnh viết sách cho cùng thời đại với của Ngô Sĩ Liên (khi làm Biểu 1479) không bàn thêm gì cả, chỉ để lại lời khen (Lê) Thái Tông, Thánh Tông và “lời tán” Hiến Tông, hẳn là được người sau lấy từ trong Tứ triều bản kỉ của ông. Phần của Phạm Công Trứ thì không có ý kiến của ông này mà lại trích dẫn của Lệnh Vọng, Đăng Bính với lời bàn về cơ đồ sụp đổ của nhà Lê vào tay họ Mạc. Nói lấy từ “sách Dã sử” của Đăng Bính chỉ là một cách nói về quyển sách không do triều đình đề xướng, chứ xem lời bàn của ông này (TT III, tr. 111) thì rõ ràng ông ta viết một quyển sử theo đường lối chính thống, hẳn hoi như một sử quan (nếu được triều đình phó thác công việc). Còn về những “lời bàn”, “sử thần bàn” khác, tại sao không có tên tác giả?
Những đoạn văn này có nhiều khác biệt khiến ta không thể ghép vào một hai người được. Nhiều lời bàn mang tính cách tán tụng thông thường của sử thần đối với vua đương đại (hay gần đó) nhưng cũng có lời bàn với giọng gay gắt, chửi bới giống như nương thế vua sau sát phạt vua trước vừa bị lật đổ (thời Tương Dực nói về Uy Mục). Ta có thể hiểu đây là những sử thần ít tiếng tăm, vào Quốc sử viện trong thoáng chốc, bàn như một điều phải làm, chứng cớ là TT có ghi về việc phong chức các sử thần chỉ có tên mà không lưu lại vai trò gì đặc biệt: Trong năm 1448, “Quốc sử đồng tu Nguyễn Văn Tộ từ chức”, qua đầu năm sau, có việc phong chức cho 4 người làm Quốc sử viện đồng tu sử mà chỉ Nguyễn Văn Chất còn để lại tên trong một phần của VĐULT. Tuy nhiên đặc biệt có một lời bàn về Lê
Thái Tổ chen lời phê phán nghiêm khắc, được chép lại gần nguyên văn ở đề mục nói chung, mở đầu triều ông vua này. Lời bàn này nằm ở quyển X Bản kỉ toàn thư, trước quyển XI được ghi rõ là của Ngô Sĩ Liên soạn, tất nhiên ta có thể nghi là đã qua tay người khác, Vũ Quỳnh chẳng hạn. Nhưng với các lời “tán” còn lại của ông này thì ta khó tin ông đã làm chuyện đó. Thời đại Lê Thái Tổ cũng là của Ngô Sĩ Liên chấp bút. Trong đà hăng say phê phán các ông vua Lí Trần, ông ta có còn chút can đảm nào để chen thêm một lời về ông vua đầu triều không? Lời chê Lê Lợi “đa nghi hiếu sát” hẳn là nhắm vào việc giết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo mà sử thần không dám ghi thẳng, chỉ chen vào trong sự kiện chê trách do ngôn quan gợi nên thôi. Trong vụ lục dụng quan chức này, văn nho “Kinh lộ” đối chọi với võ thần Lam Sơn, sở dĩ thắng thế là nhờ núp bóng ông Thái Tổ. Họ triệt đường tiến thân của những người ton hót giết công thần gốc Trần, hành động đó cũng là một cách trả thù cho người đã khuất, một cách biểu lộ cảm tình với cựu triều mà Ngô Sĩ Liên, cũng dân “Kinh lộ”, tuy đồng tình nhưng không dám tỏ bày chính thức. Ông lại viết sử vào thời ông vua (Thánh Tông) ra lệnh phục hồi “sinh mệnh chính trị” của Nguyễn Trãi, một nhân vật “kinh lộ” khác, ông có nhân đó thêm can đảm để ghi lời phê phán về ông vua đầu đời không, nhất là khi ông đã che chắn hết mực, trong một lời bàn dài nhất dành để tán dương công đức cứu dân cứu nước của ông vua này? (Chưa kể đến những liên hệ khi bàn về công chống Nguyên của các vua Trần).
Những lời bàn lẻ tẻ không tên kia giúp ta suy đoán rằng 30 đoạn của Lê Văn Hưu, 11 đoạn của Phan Phu Tiên, 166 đoạn của Ngô Sĩ Liên có thể là hầu hết (nếu không nói là tất cả) những điều phê phán của các ông đã đem vào sách sử họ viết, có tên riêng biệt của họ. Như thế tuy ta hơi gặp khó khăn khi muốn xét về những điều họ viết như một sử gia vì tính cách chồng chất tác giả của TT, nhưng cũng tạm có chứng cớ để thấy quan điểm của họ như một sử quan trong truyền thống kết tập từ Trung Quốc, chuyển sang nhận định trên đất Đại Việt như một chủ thể riêng biệt. Và lẽ tất nhiên cũng cho ta thấy chênh mực và cách biệt kiến thức giữa họ với nhau nữa.
Ta thấy trước hết, theo truyền thống Nho Giáo, họ theo sát quan điểm phê phán đạo đức làm người nói chung, đạo trị nước của ông vua nói riêng vốn đã có mẫu mực trong kinh Xuân Thu, còn chi tiết sự việc dẫn chứng thì có thêm các loại truyện-sử thời Tam Hoàng Ngũ Đế, Xuân Thu Chiến Quốc đầy dẫy trong tác phẩm của Nho gia. Tuy nhiên trong khi Lê Văn Hưu bàn thấp ngang tầm sự kiện, chỉ có một lần trích dẫn Kinh Thi (1130) thì Ngô Sĩ Liên nói rõ ràng “phép của sách Xuân Thu”, dẫn cả Kinh Dịch, Kinh Thư, Trung Dung, Mạnh Tử, chưa kể những dẫn chứng nhập-tâm từ Kinh Truyện mà không cần nêu xuất xứ. Tính chất trường ốc do tổ chức học vấn thời Minh, thi cử nhặt nhiệm thời Hậu Lê đã tỏ rõ nơi kiến thức của Ngô Sĩ Liên, trong khi Lê Văn Hưu lại cho ta biết một trình độ cùng loại, ít bị ràng buộc hơn, ở giữa triều Trần. Phan Phu Tiên gần gũi Ngô Sĩ Liên hơn nhưng sống choàng qua biến loạn Minh thuộc, còn nằm trong sự tranh chấp đầu triều đại, ít chịu đựng không khí tranh chấp của thời Lê Thánh Tông hơn nên ông ít dẫn Kinh Truyện hơn. Ông chưa đủ tự tín để bàn thêm chuyện Lê Văn Hưu đã bàn, chỉ bắt đầu với thời gian đầu Trần, có một lần lên tiếng vì “luân lí lớn của loài người” để chê Trần Thái Tông, mà cũng không đủ nhiệt thành như Ngô Sĩ Liên. Ông này, với lòng tự tín do sự cách biệt thời đại, đã gay gắt phê phán hoàng tộc Trần đến mức dùng cả những từ mạnh bạo khác thường: “thói chó lợn”, “giặc giết vua” (Trần Thủ Độ), “thói gian tà”, “trò chó lợn” (Trần Khắc Chung). Tuy nhiên với các ông vua thì phần lớn chữ dùng nhẹ hơn mà vẫn phải núp sau thánh nhân, sách vở: “danh không chính...” (Thái Tông), “không hợp đạo Trung dung” (Nhân Tông)... Ấy là ông đã bước qua một thời đại với ý thức hệ chủ đạo khác hẳn, nên có các lời thẳng thừng (“lỗi lớn”, “chỗ kém” với Lí Thái Tông, “bất chính trong đạo vợ chồng” với Trần Thái Tông) chứ Lê Văn Hưu, làm nhà nho lúng túng của thời đại ông, bị tràn ngập bởi sự kiện của dòng sử kí tăng đạo và thế lực hoàng tộc đương quyền, chỉ đành trút tội cho các nho thần dưới quyền vua. Có núp theo danh giáo, thể thức Nho gia để bài bác ý thức hệ khác thì lời chê của ông cũng vẫn phải nhẹ hơn nữa: “(Lí) Thái Tông... say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của đạo Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua”. Phan Phu Tiên, sống trong biến loạn như đã nói, nên không cần chuyện chống đối đạo Phật, điều mà hai sử quan
trước và sau đã tận lực làm rồi. Ngô Sĩ Liên được thời đại ủng hộ, đã dài dòng chê trách không những các ông vua mê đắm lí thuyết “đạo Tam muội” từ Lí đến Trần mà còn mở rộng việc bài bác chính các sử kiện được ghi chép, bài bác “dị đoan” từ quan niệm tăng, đạo của thời trước, đồng thời tăng thêm cách nhìn theo quan niệm nho để phê phán các ông vua và bầy tôi.
Tuy nhiên khi đạo Phật mất dần uy thế, Nho học tiến bước thì trách nhiệm bênh vực “chính giáo” lại phải thêm phần giữ gìn chính thống, nghĩa là bắt bẻ ngay chính người trong phe, theo một cách hiểu cho là lệch lạc nào đó, kể cả phải đối phó với người cực đoan: “tả”, “hữu”, như cách sử dụng ngôn từ ngày nay. Cho nên Ngô Sĩ Liên đã không đồng ý với Lê Văn Hưu phê phán về biến loạn Đinh chuyển sang Lê. Quan niệm của hai người khác nhau vì tính cách duy văn hoá liên khu vực đối chọi với tinh thần địa phương – theo lối nói ngày nay, kiểu tinh thần quốc tế đối chọi với tinh thần bị coi là quốc gia dân tộc hẹp hòi: Ngô dựa trên luân lí tam cương ngũ thường còn Lê thì coi công cứu nước là đủ cho sự tự xưng chính thống rồi. Những kèn cựa vì chi tiết cho thấy, là đã nảy sinh từ một sự chọn lựa phe phái mang tính cách tín điều rõ rệt trong các lập luận. Nhân dịp Phan Phu Tiên mỉa mai chuyện Hồ Quý Li mở rộng thế phổ của mình đến tận Nghiêu Thuấn, rồi bắt quàng sang các nhân vật khác, Ngô Sĩ Liên liền bắt bẻ một sai lầm chỉ vì ông kia theo Tư Mã Quang, còn Ngô theo lí lẽ mà “Chu Tử đã theo... thì không thể nghi ngờ gì cả”! “Trình Tử xướng ở trước... Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước tác thì cũng chỉ là mở mang cho rộng thêm, tô chuốc cho bóng thêm, có thế mà thôi, (không) được chê bai bàn cãi”. Ông tức giận phát biểu như trên vì thấy Hồ Quý Li dám chê cả một loạt danh nho Tống kém tài, chê họ chỉ làm việc cóp nhặt văn chương của người khác thôi. Ông càng tức giận khi bậc tiên thánh bị động chạm – không phải bị gạt đi, chỉ bị mất vị thế Số Một – và bị bàn tới, gây hoài nghi hoang mang về Kinh sách: “Từ khi có sinh dân tới nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Hồ Quý Li dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức mình”.
Thực ra bàn bạc, lí luận dựa theo nguyên tắc có sẵn đặt làm tiêu chuẩn cũng gây ra những sơ hở, mâu thuẫn như khi Ngô Sĩ Liên khen chê về rối loạn ở cuối đời nhà Triệu: “Làm vua mà không biết nghĩa Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu tội ác; làm tôi không biết nghĩa Xuân Thu tất phải mắc phải tội cướp ngôi giết vua, tức như là Minh Vương, Ai Vương và Lữ Gia vậy”. Thần tử hay vua chúa mà nghe theo lời này của kinh sách thì sẽ xử trí giống như con lừa Buridan của chuyện ngụ ngôn vậy. Rốt lại việc khen chê lại là việc nói-lấy-được của sử quan, để nâng cao mình theo với tình thế cho phép mà cứ tưởng đã làm đúng nhiệm vụ thiêng liêng được giao phó cho tập nhóm mình. Ông vua Tương Dực muốn hiểu quá khứ qua sử lược mà đọc “Việt giám thông khảo tổng luận” (1514) của Lê Tung với ý định tìm “bài học lịch sử” thì chắc chắn chẳng thấy học được những gì. Ông chỉ thấy khen chê rối mù của sử thần nói về những người xa đời, chẳng gây động chạm gì đến ai, chê đến mạt sát những người mà công luận quyền chức trong quá khứ đã gạt bỏ, không còn có thể tự mình bênh vực, khen thì càng gần đến thời đại của mình càng cao tiếng tán tụng, quên cả ngay lúc viết, thế nước không “vững như Thái Sơn, bàn thạch”, sinh dân không thể “lên chiếu đệm ấm êm”. Chẳng trách chỉ hai năm sau, Tương Dực không thể “mở nền cho ức vạn đời” mà lại bị quyền thần giết trong tiếng cười ngạo nghễ! Đó là truyền thống nói chuyện từ chương kinh sách kéo dài mãi về sau, theo kiểu Nguyễn Nhữ Thuyết bị Hồ Quý Li bỏ không dùng vì nói: “(Thế vững vàng cho nước nhà) cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm.” Rồi 4 thế kỉ sau cũng một con người hành động, Nguyễn Hữu Chỉnh, lại có dịp chê một “nhà nho nói khoác”.
Đúng ra sách vở cũng tạo cho con người sống trong ảo tưởng, lấy ảo tưởng làm sự thật trong phút chốc. Lê Tung hẳn tự khen về văn chương đại khoa của mình trong lúc Hàn Dũ thoát nạn rơi đầu, bị đày đi châu xa, hẳn phải trở về với thực tế mà hối hận buổi gan liều vì khả năng tinh thuần cổ văn. Khi nhận ra áp lực của hiện tại thì người ta đẩy vấn đề vào quá khứ, cũng là một ảo tưởng cho rằng đã giải quyết xong. Lê Quát cuối đời Trần còn thấy sự cô đơn của phe phái huống chi Lê Văn Hưu vào lúc giữa đời, nên ông này chỉ chê khéo vua đương thời bằng cách bài bác cái sai của vua triều trước.
Ngô Sĩ Liên cũng vậy. Ông chỉ thẳng thừng với các ông vua Lí Trần mà khuất mặt sau lời khen Lê Thái Tổ. Còn lưu lại trong quyển 11 TT ngày nay, là phần mượn của Phan Phu Tiên với nỗi thương tiếc nịnh nọt thông thường. Một đoạn trích của (Quang Thuận) Trung hưng kí với lời lẽ nặng nề nhưng là nương theo thời thế, giúp ông có một lời chê Thái Tông về một lỗi phạm đến danh giáo (tư thông vợ người, chết vì dâm dục) khiến ông vua con, Thánh Tông, người lúc đầu còn ở thế bấp bênh, muốn dựa lưng vào quyền uy ý thức hệ mới, đã không thể bênh vực được. Nhưng từ từ, Lê Thánh Tông chuẩn bị kĩ cho triều đại của mình, sẽ chận tiệt được mọi phê phán. Ông mắng sa sả các cận thần; trong chuyến đánh Chiêm Thành (1471), ông bắt chước Hán Cao Tổ đái vào mũ các quan về “tội hủ nho làm hỏng việc” – những “người tâu càn bậy” ấy mới vừa được ông thưởng tiền trước đó! Có khen, có nhận lỗi ông cũng bày tỏ một cách hách dịch, không chừa cả việc giết người thân quen từng được nâng đỡ lâu ngày, khi người này lầm tưởng được đắc thế, dám chê bai ông (Trần Phong). Với sử quan, ông đòi xem thực lục chép về ông. Tất nhiên Lê Nghĩa dùng dằng cho phải phép nhưng rốt lại vẫn phải đưa – sao không là bản đã sửa đổi để ông cho trả lại, im lìm? Với Ngô Sĩ Liên, ông dằn mặt hạch tội “theo nguỵ”, hạng nguỵ Nghi Dân cướp ngôi trong 8 tháng, chưa kịp thay đổi gì, nghĩa là tội trạng có thể gán cho bất cứ ai lúc bấy giờ, chẳng cứ gì với ông ngự sử. Ông nêu tội “gian thần bán nước”, nhiếc họ sao không chết đi theo nguỵ mà lại trở cờ phục vụ ông, nghĩa là, theo ông, công lao trong hiện tại không đủ bù lấp quá khứ xấu xa vốn có thể bị hạch hỏi bất cứ lúc nào.
Ảnh hưởng của Lê Thánh Tông không phải chỉ dừng lại dưới đời ông. Thể chế ông lập ra, Mạc cũng không dám thay đổi, còn được áp dụng cả vào thời trung hưng về sau, cho nên cũng dễ hiểu là có tác động đối với sử thần. Sau Ngô Sĩ Liên là Vũ Quỳnh với vài lời loạng quạng cho phải phép, Đăng Bính chê họ Mạc như những người khác chê họ Hồ, còn với Phạm Công Trứ thì chỉ có họ Trịnh mà thôi dù hình thức vua Lê vẫn còn đó. Cho nên chi tiết Lê Lợi giết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo phải đợi đến thời chính quyền Lê Trịnh lung lay mới thấy Lê Quý Đôn nói tới!
VẤN ĐỀ ĐẠO LÍ DÂN TỘC TRONG TƯƠNG QUAN ĐỒNG VĂN
Nét nổi bật nhất của Lê Văn Hưu không phải là chuyện chính danh hay lấy đức người quân tử làm nền tảng cho việc dựng nước, trị nước. Ông chỉ nói những điều đó giống như các sử quan Trung Hoa, có thể như sử quan đồng liêu với ông sứ thần Cao Li cùng xướng hoạ với Lê Quý Đôn 5 thế kỉ sau. Điều đặc biệt là trên nền tảng một đạo lí làm người nói chung, ông khẳng định có sự chia xẻ nhân cách cho khu vực, cho tập họp Đại Việt mà vẫn không rời xa những lời dạy của thánh hiền Kinh Truyện cùng những sự kiện còn lưu truyền. Những lời khen các nhân vật nổi dậy chống chính quyền phương Bắc, lời cảm thán lúc đất nước dân tộc suy vong, lời miệt thị kẻ cả đối với các tập đoàn nhỏ yếu hơn, chứng tỏ ông đã kết nối được cái chung và cái riêng trong một sử phẩm, vốn nếu không có nó thì chỉ là những mảnh sự kiện xảy ra theo thời gian gói tròn trong khu vực mà thiếu sự vươn toả ở tầm mức lí trí cao hơn, rộng lớn hơn. Tất nhiên là đã có những nho sĩ đem kiến thức Kinh Truyện vào làm khung cho một tổ chức chính quyền trung ương ở cựu thuộc địa phương Nam này; đã có những trận chiến giành quyền làm chủ thành công từ thế kỉ X, XI cùng những xây dựng lâu dài mang danh nghĩa đất nước, riêng biệt từ lúc Thiên triều Tống phải công nhận một biên giới và người chủ có tên gộp lại là An Nam Quốc Vương. Tuy nhiên vẫn cần có một hình thức ở tầm mức trí tuệ để lưu giữ kí ức lâu dài mà những ghi chép dù qua nhiều năm tháng vẫn không đạt được đòi hỏi cần thiết. Cần phải có một cái khung bao trùm, kết hợp các sự kiện, cần một quyển sử tổng hợp, và Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu là kết quả đáp ứng. Tất nhiên có thể là “Việt chí” của Trần Chu Phổ đã đạt được mong muốn ấy nhưng với tình hình thực tế của tài liệu hiện nay thì ta đành phải bỏ qua Trần mà thừa nhận Lê Văn Hưu với công tạo dựng ý thức Việt cho đời sau.
Khung địa lí, khung tư tưởng đã sẵn có, chỉ còn lại vấn đề khung thời gian cho chủ thể, và Lê Văn Hưu đã chọn khởi đầu là Triệu Đà. Vì sao? Ta không biết, chỉ vì tác phẩm của ông không còn lại nguyên vẹn, ít ra là lúc mở đầu sách, để xem ông có biện minh điều gì
không. Ta chỉ biết ông viết “từ Triệu Vũ Đế...” theo lời người đã choàng vào sách ông cả một kỉ Hồng Bàng thị, mở rộng khung thời gian đến hơn hai ngàn năm trước, mà nếu ông thấy được chắc sẽ có nhiều phiền trách, đôi co. Vậy thì hãy phỏng đoán. “Sử” phải được “kí”. “Kí” xong thì trở thành “sử”. Ông Hùng Vương lớn mạnh, vươn ra đến tận Âu Mĩ ngày nay cũng vì nhờ Ngô Sĩ Liên đưa vào sử chứ không thì cũng chỉ làm ông thần lẩn quẩn ở Nghĩa Lĩnh, lâu lâu lại kèn cựa với ông Ngọc Tháp Đại Vương gần đấy mà thôi. Và Ngô Sĩ Liên không phải đã bịa ra chuyện Hùng Vương, mà là kết tập những điều đã lưu truyền đến đời ông và khai triển nó ra.
Lê Văn Hưu cũng vậy. Hẳn ông đã biết đến các thư qua lại giữa Tống và Đại Việt. Thư Tống Thái Tổ đe doạ Lê Hoàn làm cho ông tức giận – xét theo lời ông tán tụng công tích của Lê Hoàn. Nhưng tinh thần đồng văn hẳn khiến ông chấp nhận lời dịu ngọt của bức thư Lí Nhược Chuyết mang sang năm 986, trong đó có lời vua Tống ban cho người xin thần phục: “[Phải như] Sĩ Nhiếp cứng mạnh, đổi tục Việt đều hay, Úy Đà cung kính thuận tòng, vâng chiếu Hán chẳng trái. Nên... vỗ yên man di bộ lạc, tuyên dương đức tốt vương triều”. Ông đã biết Đinh Liễn được Tống phong làm Giao Chỉ Quận Vương – không phải là Nam Việt Vương như trong nước tự phong, ở nơi có cùng tên với nước của nhà Triệu. Chắc ông cũng biết họ Lưu đóng đô ở Phiên Ngung (của họ Triệu trước kia), đổi tên nước là (Nam) Hán (918) sau một thời gian ngắn ngủi tự xưng Đại Việt, cái tên mà vùng Giao Châu phương Nam sẽ phục hồi khi giành được độc lập. Tuy Hoàng đế Thiên triều vẫn miệt thị là “An Nam” nhưng vua quan ở đây đã gọi riêng với nhau là Đại Việt, nên Lê Văn Hưu viết sách mới lấy tên là Đại Việt sử kí. Trong tinh thần dân tộc lên cao, ông sử quan vốn đọc được sách thánh hiền Trung Quốc nên cũng biết sử Trung Quốc có ghi tiền sử của khu vực Đại Việt kéo dài được cả hơn ngàn năm về trước, đụng đến tộc Bách Việt. Nhưng một tộc người dù có cả trăm (hay nhiều) giống thì cũng chẳng danh giá gì mà hỏi dò thêm. Chỉ có một ông họ Triệu lập nên nước sát bên cạnh, xưng là Nam Việt, lại còn lấy danh hiệu đế – bao nhiêu là trùng hợp! ngang với ông đang làm chủ ở Lạc Dương bấy giờ và ông ở Hàm Đan trước kia, chỉ có ông đó mới xứng đáng để nhận-họ-
nhận-hàng, nhận làm người mở đầu cho nước Đại Việt của ông ngày nay mà thôi. Tâm tình của ông phù hợp với các tài liệu sử ông được biết từ thời mở đầu độc lập. Ông chỉ chuyển ý nghĩa các tài liệu từ tương quan lệ thuộc sang tương quan độc lập cho đúng với “lí thuyết dân tộc” mà ông bênh vực. Nhưng đó cũng là “mới” rồi.
Có điều, lí thuyết nào đem so với thực tế thì cũng có sơ hở, và người mở ra còn phải tìm cách sắp xếp, biện minh. Lê Văn Hưu đã làm điều đó, vừa cho sự tự tín của cựu thuộc địa vừa cho tính chất ngoại lai của triều đại mở đầu. Triệu Đà mang dấu vết quan cai trị xa lạ rõ rệt quá, không có tính cách địa phương – giá lai một chút thì còn tốt, tốt hơn là bắt chước thổ dân ngồi chồm hổm tiếp sứ Hán. Tuy nhiên, lí thuyết thiên mệnh mà Lê Văn Hưu học được có tiên liệu cả điều bất trắc ấy rồi. Ông phải đem ra áp dụng. Thiên mệnh có thể trao cả cho người ngoại quốc, như ông đã biện minh: “Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế, Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại... người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay người Di, chỉ xem ở đức mà thôi”. Và khi nhắc lại nguồn gốc của Ngu Thuấn, Văn Vương, Lê Văn Hưu đồng thời nghĩ rằng đã xoá được mặc cảm Man của tập đoàn Đại Việt .
Suy đoán của chúng ta về lí do chấp nhận Triệu Đà nói ở trên dù không đúng, vẫn còn một sự thật kéo dài đến nhiều thế kỉ là ông Triệu Đà và nhà Triệu nằm được trong sử Việt, cả khi Ngô Sĩ Liên làm ông mất địa vị kẻ khai sáng, cả đến khi Ngô Thì Sĩ gạt ra thành kẻ xâm lược. Để rồi tên nước của Triệu Đà vẫn luồn lọt chuyển đổi mà còn bóng dáng hiện diện đến tận ngày nay.
Đến đây chúng ta có thể kéo dài qua Ngô Thì Sĩ. Quyển Đại Việt sử kí tiền biên được ông Phan Huy Lê cho là “một tác phẩm khác” (TT) nhưng lại công nhận nó đã “bảo lưu gần như nguyên vẹn từng đoạn của bộ ĐVSKTT”. Điều đó chỉ chứng tỏ thêm một cung cách viết sử của người xưa mà thôi. Sự kèn cựa kẽ vạch chi li của nhà nho ngày xưa khiến Ngô Thì Sĩ đã thêm nhiều điều mới, trong đó có phần xác định tương quan của nhà Triệu với Đại Việt mà ta muốn bàn ở đây. Việc ông không chịu Triệu là một triều đại Đại Việt khiến nhiều sử gia
và nhà nghiên cứu ngày nay khen ngợi tinh thần ái quốc nồng nhiệt của ông. Đúng là thấy đâu nói đó! Những người trích dẫn Ngô Thì Sĩ về chuyện này thường chỉ dừng lại ở chỗ mình muốn khen mà không trích hết lời bàn, vì ở đoạn cuối có điều khó ăn khó nói. Đoạn ấy như thế này: “Đà đối địch với Giao Châu mà Giao Châu lúc ấy chưa thông với Trung Quốc. Cho nên tôi đặt ra lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc.”(Chúng tôi nhấn mạnh.)
Chúng ta bàn trước hết theo hướng “ái quốc” đã được dẫn giải. Ngô Thì Sĩ cho thời kì đó là “ngoại thuộc Triệu” chỉ vì Đà là người Hán, nước Việt của Đà không phải là nước Việt của Hùng Vương. Nhưng sau khi công nhận An Dương là người Thục, cho rằng An Dương diệt Hùng Vương cũng như Đà diệt An Dương, lại chỉ vì cái khác là Đà đóng kinh đô ở ngoài địa phận Giao Châu nên bị coi là kẻ ngoại xâm, còn Thục đóng đô ngay bên trong (mới được một đời!) nên được công nhận là triều chính thống của nước Việt, thì lí lẽ cũng hơi gượng ép đấy. Thế rồi chịu “ngoại thuộc Triệu” mà công nhận “nội thuộc” Tây Hán, Đông Hán... “nội thuộc Minh” thì cũng không có tinh thần ái quốc nhiều lắm đâu! Mấy ông vua Đinh, Lê, vài ông vua Lí còn phải chịu tiếng Tiết độ sứ, (Giao Chỉ / An Nam) Quận vương như một ông quan trong triều Trung Quốc, nhưng dù sao cũng hãnh diện có được lãnh thổ riêng biệt rồi. Lí Anh Tông, từ 1164 lại thêm được Thiên triều Tống công nhận là Quốc vương, nghĩa là vua một nước tuy còn chịu tiếng phiên thuộc nhưng đã có danh vị bên ngoài đàng hoàng, thì hà cớ gì đến đầu thế kỉ XIX Ngô Thì Sĩ (do Ngô Thì Nhậm bảo tồn bản cũ) lại để cho người dân, khi nghĩ đến thời mất nước, cứ khăng khăng chịu là nội thuộc chứ không chịu dùng chữ ngoại thuộc? Cũng vẫn theo lí sự thường thường bậc thấp đó thì phải cho rằng Ngô Thì Sĩ chê nhỏ nịnh lớn, bỏ thấp vói cao, không chịu đi chầu Phiên Ngung mà muốn lặn lội đến tận Lạc Dương, Tràng An, Bắc Kinh cho bõ công thần phục.
Nhưng thôi, chớ suy luận theo kiểu lấy tâm tình đời nay xét lịch sử nữa. Hãy cứ ráng theo sát các ông sử quan xem họ nghĩ gì hợp với con người thời đại của họ. Không có cách nào khác, ta đã đoán chừng lí do Lê Văn Hưu chọn Triệu Đà vì ý thức dân tộc riêng biệt tích luỹ qua nhiều thế kỉ độc lập rồi. Lại cũng phải đoán thêm nguyên
nhân cấp thời khiến ông có giọng thiết tha quá khích: Chỉ vì đã xảy ra các biến cố đe doạ đến sự tồn vong của tông tộc chủ nhân của ông, từ đó đến bản thân ông đang sống trong một đất nước có chủ quyền riêng từ lâu. Mười năm sau khi ông thi đỗ làm quan (1247/1257) toán tiền phương Mông Cổ sau khi chiếm nước Đại Lí đã lấn thăm dò Đại Việt. Họ thua vì ít quân, vì mục đích chiếm đóng chính là tận phía Bắc – đất nước Nam Tống, nhưng mối đe doạ của toán quân bách chiến bách thắng Mông Cổ đã hiện hình nơi biên giới. Từ đó, nhà Trần lo liệu chuẩn bị chiến tranh giữ nước. Chưa đến lúc có những trận đánh lớn như về sau nhưng sứ Nguyên sang dụ dỗ, hạch sách đã tỏ rõ mối đe doạ càng lớn hơn, và ngay chính năm Lê Văn Hưu viết sử (1272) thì đã có chuyện vặn vẹo về cột đồng Mã Viện, xác nhận tin tức quân Nguyên chuẩn bị xâm lăng nghe vài năm trước (1266). Ám ảnh mất nước, tưởng tượng ngày bị lệ thuộc hiện ra lời cảm khái, khi nói về thời thuộc Hán “bị các thứ sử phương Bắc tham tàn làm khổ... cướp vét” khiến Lê Văn Hưu quên mất kinh đô Lạc Dương của Hán xưa kia mà lại lẫn với Bắc Kinh (Đại Đô) của Nguyên vào thời ông!
Mặt khác, quan niệm đồng văn với Nho gia Trung Quốc (riêng biệt là với người viết chế sách năm 986) khiến Lê Văn Hưu tán tụng Sĩ Nhiếp, quên ông này là một thái thú Thiên triều, từ chỗ nhận như người cùng phe văn hoá, lại nhảy sang tinh thần dân tộc, ghép ông thái thú vào với Triệu để có dịp tán tụng người ở giai đoạn trước có “tài”, “dũng”, người sau có “trí” khiến cho “bờ cõi nước Việt... toàn thịnh” được một thời. Chú tâm về sự tồn vong của đất nước khiến ông quên mất lòng tự ái phái tính của bản thân, của giáo dục nho gia, chê:”[T]rong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao?” Cũng từ ý thức đồng văn, Lê Văn Hưu lại chia xẻ quan niệm vương hoá của Trung Hoa, đem áp dụng một cách tự nhiên vào quốc gia mình để đối xử với Chiêm Thành theo cung cách nước lớn. Cho nên ông mới có lời cảm khái vì bị Chiêm xâm lấn trong hồi Bắc thuộc, và nỗi hãnh diện khi nhắc về những chiến công của Lí Thái Tông, Thánh Tông. Tất cả những lời bàn sử đó đều phản ảnh mối lo âu về một thời mất nước có thể xảy
đến như trong quá khứ, nhưng lại cũng có chút tự trấn an rằng chưa đến nỗi nào đâu! Ta chớ chê Lê Văn Hưu quan văn nên nhát sợ, có tinh thần chủ bại. Người sau đọc về chiến thắng của nhà Trần, cứ nghĩ mình là vô địch mãi mãi nhưng viên tướng bách thắng đương thời thì thực tế hơn: Trần Quốc Tuấn khi chết trối lại, bảo hoả táng (cho nhẹ dư xác), bỏ vào hũ lọ, bí mật chôn, san bằng, trồng cây lên trên như cũ, cho người đời không biết chỗ nào. Cái “người đời” đó, sử quan chỉ đích danh là quân Nguyên không phải là làm chuyện vu cáo, hạ giá anh hùng dân tộc.
Ngô Sĩ Liên thì bình tĩnh hơn. Vẫn công nhận Sĩ Nhiếp, vẫn công nhận Triệu Đà nhưng ông vừa hưởng được một thành quả chiến thắng rỡ ràng của Lê Lợi, thành thử ông có thể đặt suy luận vào ý thức văn hoá nhiều hơn, theo với tầm mức xâm nhập Nho Giáo sâu hơn ở thời đại ông. Vì ý thức dân tộc mở rộng, lại nắm được các tài liệu mới (cứ tưởng là đúng), ông đặt thêm một ngoại kỉ Hồng Bàng cho nước Việt để thấy có thể phục vụ được cho thời đại, nhiều hơn người trước. Ông không coi Triệu Đà là người khai sáng nữa, tuy nhiên vẫn để ông này ở địa vị cao và do đó, sự tán tụng không nằm ở phần đối địch với Hán mà chuyển qua bàn về lí do truyền đời, căn cứ trên cái đức, cho hợp với lời thánh hiền dạy. Nhà Triệu vẫn là “của ta” trong tâm trí ông nên đất Triệu cũng vậy, do đó ông tiếc cho Ngô Quyền thắng Nam Hán mà “không giữ được đất (Nam Việt)”. Trong tinh thần đồng văn được nâng cao, ông ít xét đoán các quan lại cai trị theo khía cạnh áp bức như Lê Văn Hưu mà lưu tâm hơn đến cách hành xử theo lễ, theo nghĩa, theo tinh thần trung dung của người quân tử, của bậc thánh nhân cầm quyền, những tiêu chuẩn mà ông cũng sẽ dùng đến khi phê phán người trong, ngoài nước không phân biệt chủng tộc, Nam Bắc. So với Lê Văn Hưu, ông cũng phô bày tinh thần “Thiên triều nhỏ” nhưng với một cách mềm mỏng hơn: Không những không huênh hoang về các thành quả đánh bắt vua Chiêm, tàn phá thành trì mà ông lại trách vua Lí đã sử dụng binh đao, không chịu lấy cái đức để phủ dụ man di theo về! (Lời trách này có dụng ý mượn kinh sách, ám chỉ chiến thắng Chiêm Thành 1471 để trả thù ông vua chửi mắng mình không?) Cũng vậy, đối với sự mất còn của đất nước, ông không phải lo âu bối rối như Lê Văn
Hưu. Ông đã có chiến thắng quân Nguyên rành rẽ trên trang giấy, và thấy chiến thắng quân Minh trong đời, nên chỉ bàn lẽ thắng bại tuy là do “vua tôi cùng lo, quân dân chung sức” nhưng trước hết là do “thận trọng trước sự răn bảo của trời, làm hết phận sự của người... (theo) cái đạo vãn hồi tai biến của trời vậy”. Không những thế, ông còn nhân dịp các sự kiện chiến tranh mà tán tụng thêm công đức của chủ ông, Lê Thái Tổ. Mặt khác, cái đà duy văn hoá ấy lại khiến ông giống Ngô Thì Sĩ nếu không có lời mắng mỏ của Lê Thánh Tông: “ [N]gươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là... ngươi theo đạo chết, mang lòng không vua”. Nguyễn Trãi có may mắn là không phục vụ Thánh Tông, để khỏi nghe lời mắng mỏ khi ông vua này đọc sách của quan “Thừa chỉ” do ông sai gom lại, trong đó có lời xưng tụng Thiên vương và chữ “nội thuộc” (Dư địa chí).
Ngô Thì Sĩ đi xa hơn Ngô Sĩ Liên chỉ vì không có một ông Thánh Tông như thế. Ông chê Ngô Sĩ Liên “theo lối hiểu nông cạn” của Lê Văn Hưu, rồi chê Lê Tung, Đặng Minh Khiêm tiếp tục “cùng nhau ca tụng” Triệu Đà đến gần cả ngàn năm, cứ sai lầm mãi cho đến khi có ông cải chính, mà không thấy rằng đó là kết quả của tinh thần từ chương kinh sử ông cũng chia xẻ trong những phần khác ở quyển sách của ông. Bỏ qua sự suy nghĩ trì trệ kéo dài thành truyền thống, ta cũng thấy đó là do các người kia chấp nhận một cách giải thích điều hoà được sự mâu thuẫn của tinh thần quốc gia địa phương và tinh thần văn hoá quốc tế trong khung cảnh của quá khứ Á Đông. Lê Văn Hưu đã viện dẫn Thuấn, Chu gốc là “Di”, điều mà sau khi các ông đó vào ngự trị được trong lịch sử một nước Trung Hoa to lớn, người ta hay quên – và ông Ngô Thì Sĩ cũng đã quên. Lê Văn Hưu cho là đã giải quyết được sự tự ti địa phương trong khung cảnh văn hoá to rộng ông chấp nhận. Chỉ còn vấn đề gốc Hán, quan lệnh vốn của nhà Tần, nếu còn gây lấn cấn thì Ngô Sĩ Liên đã đem thêm lí lẽ, thay thế Triệu bằng Hùng Vương và cho nước Văn Lang lên đến tận hồ Động Đình thì không còn lí do gì mà phải ngại Ngô Thì Sĩ bảo rằng Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngung là ngoài lãnh thổ Việt. (Nhắc lại, cũng tương tự lập luận của ông này, cho An Dương, người nước Thục đến đóng đô ở Cổ Loa thì đương nhiên là một triều đại Việt vậy).
Thời Ngô Thì Sĩ, chuyện nước Việt có lúc lên đến hồ Động Đình đã thành chuyện hoang đường với tài liệu Bắc sử rành rành. Vậy mà Ngô Thì Sĩ tuy bác bỏ (ông chỉ theo “sử cũ chép”) vẫn không thể nào dứt khỏi chuyện cha ông Hùng Vương, ông Lạc Long Quân, dòng dõi loanh quanh, bản thân ngụp lặn ở hồ Động Đình! Sự khác biệt của Ngô Thì Sĩ với những người kia, không bởi một ý tưởng “cách mạng” mà là do ý thức đồng văn đã tiến triển đến một giai đoạn khác. Nước Đại Việt / An Nam đã độc lập gần cả ngàn năm – thời Minh thuộc ngắn ngủi chỉ như một sự bất thường trong đời sống, mà lại cách thời ông đến cả ba thế kỉ rưỡi. Ông có ca tụng các anh hùng liệt nữ của nước Việt thì cũng chỉ là làm công việc của lí trí, vẽ vời cho một điều đã trở thành hiển nhiên chứ không thiết tha, xao xuyến như Lê Văn Hưu. Đến thời ông, kinh sử Trung Hoa đã được học nhiều và sâu. Một ông tiến sĩ cùng thời, vịnh sử chỉ toàn thấy các nhân vật Hán Đường Tống tiêu biểu về đạo đức trung trinh, chẳng thấy của An Nam ta đâu cả (Song Quỳnh – Đức Đạt – Mai Am, Nhàn trung vịnh cổ, vịnh sử – Giáp ất tập, Lưu Minh Tâm dịch, Sài Gòn 1971).
Kiến thức về Kinh Sử của Ngô Thì Sĩ đã hơn Ngô Sĩ Liên nhiều, khiến ông thêm thắt cho TT ở quyển sử của ông những điều đôi lúc có vẻ dư thừa, hơi giống như có vẻ khoe-chữ. Ông áp dụng tiêu chuẩn đạo lí viết sử của Chu Hi nhặt nhiệm hơn. Ngô Sĩ Liên chỉ nhắc đến Kinh Dịch như một bằng cớ kiến thức chung, còn ông thì đẩy xa hơn đến các thành quả lí số của kinh này. Tóm lại, ông đi xa hơn những người trước trong sự thâm nhiễm văn hoá Trung Hoa. Cũng như họ, ông coi đó là văn hoá của con người chứ không phải của người Trung Hoa, của vua Hán, quan Đường, dân Tống. Tuy nhiên trong sự ngưỡng mộ sao lại không có chỗ, có lúc lẫn lộn con người chung và con người cụ thể của địa phương dân tộc? Trở về với con người An Nam thì ông ca tụng anh hùng liệt nữ Việt, nhưng lấy mẫu hình tiêu chuẩn là ở phương Bắc. Khen bà Trưng “tiếng tăm... chấn động cả Man Di, Hoa Hạ, cơ nghiệp mở mang... khuấy động cả đất trời” nhưng làm sao bỏ được cái ý miệt thị “đàn bà con gái đái không khỏi ngọn cỏ”? Phải dẫn chứng “theo Bắc sử, thời Hán thời Đường cũng có vua đàn bà” mà quên rằng ở xứ đó người ta chê
các bà kia là soán đoạt, dâm loàn! Tuy chê Lê Hoàn có tội cướp ngôi vua, tư thông với thái hậu, lại không thể phủ nhận công tích thắng Tống, nhưng đồng thời cũng hãnh diện việc Hoàn “được thượng quốc [Tống] thông hảo, ban văn sách khen ngợi, sánh với Triệu Đà...”
Tính chất đồng văn hoá có cấp bậc đó, phản ảnh thực tế thiên triều và phiên thuộc trong cách đối xử giữa Trung Quốc và Đại Việt, đến thời đại ông đã thành nếp. Cho nên về mặt lí thuyết, Ngô Thì Sĩ không đồng ý việc Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên so sánh Triệu Đà với Cơ Tử, Thái Bá chỉ vì trong sử sách ông đã học, Đà không được ca tụng nhiều như hai người kia. (Ông không nghĩ ra, có thể giản dị là vì hai người kia xưa hơn, lại nằm gần trung tâm Hạ Thương Chu hơn.) Ông bỏ lơ cái ý Ngu Thuấn, Văn Vương là Di (mọi rợ) của Lê Văn Hưu, bởi vì “với Thuấn thì Đà không thể sánh kịp rồi”. Lê Văn Hưu với kiến thức của người mới nhập cuộc dễ nhận ra sự thật chưa bị cải chính về sau. Còn trong đầu óc của Ngô Thì Sĩ do kinh sử nhồi nhét, Thuấn đã là bậc đại thành trong thời Ngũ Đế, không thể nào là Di để Triệu Đà có thể so sánh mà làm bằng cớ cho Lê Văn Hưu an tâm với nguồn gốc (Nam) Man Di của mình. Chính vì quan niệm đồng văn có cấp bậc như thế nên Ngô Thì Sĩ mới sửa đổi, xếp nhà Triệu vào kỉ ngoại thuộc để thuận tình gọi là nội thuộc với các thời đại bị cai trị bởi Lạc Dương, Tràng An, Nam, Bắc Kinh, trung tâm của Văn hoá, Văn minh, không phải của Di Địch. Và điều này cũng thấy tiếp tục với tầng lớp nho sĩ đó, tuy qua triều đại khác: Phan Huy Ích phò Quang Trung (giả) đi sứ Thanh, không phải với tinh thần Đống Đa oai hùng mà là của một phiên dân ngợp người trước sự hào nhoáng của triều đình phương Bắc, trước ân điển được ban phát từ Thiên tử Lớn Càn Long.
VẤN ĐỀ KHẢ NĂNG CHUYÊN MÔN CỦA SỬ GIA NHO THẦN
Chúng ta đã nói khá nhiều về quan niệm đạo lí của các sử gia nho thần. Một quan niệm như thế tỏ ra khá xa lạ đối với nền sử học ngày nay nhưng lại là nền tảng trong cách nhìn về quá khứ của người xưa, và điều này không phải là không tác động đến những gì còn
lưu lại để chúng ta có thể hiểu về lịch sử đất nước. Ví dụ như đã nói, Ngô Thì Sĩ vì thấy việc cất chùa là vô ích trong việc trị nước nên đã tuyên bố bỏ qua nhiều địa điểm xây dựng như thế, chỉ chép chùa Chân Giáo vì đây là nơi Lí Huệ Tông tự tử, việc chép này mang ý nghĩa như một sự cảnh cáo răn đe các sai lầm của bậc đế vương. Một quan niệm phe phía như thế cũng là thường tình, tuy nhiên, cách nhìn lịch sử theo quan điểm Nho Giáo như thế, vốn phát xuất từ Trung Hoa, cũng không ngăn được lịch sử của nước này còn lưu lại nhiều tài liệu, sách vở có thể được nhìn theo nhiều khía cạnh khiến cho quá khứ của họ đầy tính chất sống động, đòi hỏi khám phá cho người đời nay. Còn ở nước ta?
Thật ra thì chúng ta cũng phải lấy làm may mắn đã có một quyển TT khiến cho bây giờ chúng ta thấy được quá khứ của đất nước, tuy ít oi nhưng vẫn là liên tục đến cả hơn ngàn năm, tránh cho các nhà nghiên cứu ngày nay khỏi phải mò mẫm tìm bia đá, đào moi đất đai, ráp nối sự kiện nghe ngóng chép ở các nước khác.., công việc đã nhiều cực nhọc mà kết quả vẫn đầy phân vân. Có điều quyển sách mang tính cách gần như là của tập thể không phân biệt đó, cũng khiến cho ta khó thấy được sự tiến triển trong nền sử học nước nhà. Trong tình hình thực tế của tài liệu, chúng ta đành phải bỏ qua điểm khởi đầu: Lê Văn Hưu. Người đầu tiên giải bày phương pháp làm sử là Ngô Sĩ Liên, nói đến kinh Xuân Thu, mẫu hình đạo lí về sử, nhưng cũng chỉ ra riêng biệt quyển Sử kí của Tư Mã Thiên. Ngoài Xuân Thu, ông còn kể các sách Đào Ngột của Tần, Thặng của Sở nhưng rõ ràng đó chỉ là viết xuôi theo dòng văn chương chứ không phải đưa ra để làm chứng tích công trình. Kiến thức chi tiết thì từ Xuân Thu, ông phải đọc đến Tả truyện như đã thấy trong các dẫn chứng. Ông có biện biệt về Chu Hi (và Tống nho nói chung), có nhắc đến Tư Mã Quang, tác giả Tư trị thông giám, về chi tiết có chuyện Tống Thái Tổ làm vua, truy phong 4 đời tổ cho làm đế. Kiến thức của ông về các sử gia này, rõ rệt hơn hết là ở phần Phàm lệ với câu “khảo với Cương mục của Chu Tử” cùng cách xếp đặt triều đại, chú ý chi li như Chu Hi về cách dùng chữ như thế nào cho đúng với vị thế của nhân vật được nói đến... Tuy nhiên, vì vướng mắc của thời đại, ông đã làm điều ấy không cương quyết như Ngô Thì Sĩ nên ông này đã
vứt “Sĩ Vương” cho trở lại hàng thái thú, và quá khích hơn, đã hạ Hoàng đế Ngoạ Triều xuống làm hoàng tử, cho bà Dương Thái hậu “tử” chứ không phải là “vong” để trị tội thất tiết...! Khi Ngô Sĩ Liên kể ra Sử kí mà chỉ chú ý đến tính cách biên niên như của phần thực lục, thì ta cũng ngờ rằng ông đã không theo sát các chuyên gia Trung Hoa. Tuy nhiên như sẽ bàn, dù có biết những khu vực cần phải nói đến thì sử quan Việt xưa cũng không có cách nào thực hiện được điều mà các bậc thầy ở Trung Hoa đã làm.
Tính cách thiên tử nhỏ ở Đại Việt lan qua việc làm sử sách, thể hiện ở chỗ các sử quan về sau dùng sách của người trước, nhập chung vào sách mình mà thấy không cần lưu giữ sách cũ, khiến người sau không còn gì để đối chứng. Sử thời nào thì cũng là của vua sai làm cả, các tác giả không phải là thành phần quan trọng lắm để phải lưu tâm đến danh vị cá nhân. Ngoài sách của Quốc sử viện, Ngô Sĩ Liên còn kể các sách “dã sử và truyện kí xưa nay do các tư nhân cất giữ” được đưa về triều đình. Không thấy ông nói đến tên và tác giả của các sách ấy, trừ trường hợp đối với Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc. Có vẻ vị trí ông quan của triều đình khiến Ngô Sĩ Liên đã bỏ qua chi tiết về các sách kia, nhưng không thể lờ đi con người một tối làm xong 100 bài thơ “tiếng dậy kinh sư”, như ông đã chép vào sử. Ông đã đọc kĩ VSCM, biết sách “ghi chép sự việc thận trọng mà có phương pháp, bình luận sự việc thiết đáng mà không rườm rà” hẳn vì cách thức “cương mục” của ông kia đã hợp ý ông. Tất nhiên ông đã biết VĐULT và LNCQ nên mới viết nên phần Hồng Bàng thị, tuy nhiên một trong hai quyển sách đó có tên tác giả rõ ràng mà ông vẫn không đưa vào, lí do hẳn là từ quan niệm sử có cách biệt tôn trọng về phương pháp như đối với VSCM. Cũng không thấy ông nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông này với thời bình trở lại, đã đọc sách xưa, nghe lệnh sưu tập thơ văn Hồ Quý Li, hẳn là biết Hồ Tông Thốc như Ngô Sĩ Liên, nên viết Dư địa chí (1434) dâng cho Thái Tông, chèn thêm ông Hùng Vương vào sử Việt, thế mà Ngô Sĩ Liên bỏ lơ. Cũng khá dễ hiểu: Tuy Biểu dâng sách làm năm 1479, Nguyễn Trãi đã được giải oan, con được làm tri huyện (1464), sáng tác được phép thu thập (1467) nhưng lệnh ngưng khắc bản Dư địa chí (1447) vẫn còn
đó, chuyện Nguyễn Trãi vẫn là chuyện “thời sự”, Ngô Sĩ Liên khôn ngoan né tránh là phải.
Về phần tài liệu được ghi nhận để làm nên TT, chúng ta đã không thể phân biệt rạch ròi phần của Lê Văn Hưu, chưa nói đến phần của các tác giả về trước. Tuy nhiên các sử gia nho thần cũng không thể gạt hết các tín hiệu giúp người bây giờ hiểu biết một ít về các thời đó. Lê Văn Hưu mang tinh thần xiển dương chính giáo mà còn lạc loài, đang sống trong thời đại ông vua còn đi làm sãi, thì không thể bỏ những sự kiện của các ông, bà sãi tăng lục đã ghi chép. Độ chênh lệch ít về ý thức hệ đó khiến còn lại dấu vết về một thời có những đặc điểm rất khác xa với các đời sau. Sự mâu thuẫn giữa quan niệm viết sử của Nho gia và những ghi chép của Phật gia đã khiến cho Ngô Sĩ Liên chê “lời ghi có phần quái đản... rườm rà, chỉ làm loạn mắt”, nhưng cả đến ông cũng không thể gạt hết ra nếu không muốn không còn gì để thành quyển sử. Trái ngược lại, tuy chê chuyện quái đản nhưng vì nhu cầu cần có một thời khai sáng, ông phải đem vào sử nhà nước truyện Hồng Bàng đầy tiên rồng, thuồng luồng, trẻ con đánh giặc, rùa xây thành... với những lời biện minh xuê xoa. Cho nên khi Nho gia chê bai đối thủ, chúng ta vẫn thấy được hiểu biết thêm qua chứng cớ hạch tội: Lê Văn Hưu cho biết các vua Lí khác xưng là “Vạn thặng”, “Phật”, Ngô Sĩ Liên cho ta thấy một dòng sử kí tăng đạo ngự trị trong các triều trước ông.
Là người đến sau, kiến thức nhiều hơn, tiếp xúc sách vở nhiều hơn nên Ngô Sĩ Liên có thể điều chỉnh “những chỗ ghi chép còn chưa đủ”, kể cả “sửa đổi văn tự... chỗ chưa đáng” cho nên dù không có nguyên bản ĐVSK để so sánh, ta cũng nghĩ được rằng thời Bắc thuộc của Ngô Sĩ Liên đã đầy đủ hơn của Lê Văn Hưu. Và Ngô Sĩ Liên còn cải chính một sai lầm của Lê Văn Hưu – gượng gạo đẩy qua lỗi của người khác, khi nói về năm vua Tống gởi thư sang Việt là 980 chứ không phải 971. Ông cũng giúp ta ngờ rằng Lê Văn Hưu không phải chỉ viết đến hết đời Lí mà có tham gia viết sử cả đầu Trần. Đó là chuyện năm 1252, Thái Tông đánh Chiêm Thành, Ngô Sĩ Liên theo Phan Phu Tiên chép rằng đã bắt được vợ vua Chiêm chứ không phải chính ông ta. Lời phân trần viện dẫn thêm Lê Văn Hưu, nói rằng ông này là người (sử quan) đương thời tất phải biết rõ
đã bắt được ai, nếu bắt được đúng ông chúa Chiêm thì hẳn đã chép cùng với việc ông vua Lí bắt Sạ Đẩu? Chứng cớ thật mỏng manh nhưng cũng là điều đáng để ý. Bởi vì điều đó không có gì trái với truyền thống viết thực lục của sử quan Lê Văn Hưu làm việc dưới triều Trần cả.
Việc sử dụng các loại tài liệu muộn khiến Ngô Sĩ Liên mắc phải khuyết điểm là đem thêm sai lạc vào sử, chứng cớ lớn là thêm một triều đại Triệu Quang Phục vào thời Bắc thuộc với cả một loạt thần tử từ của miếu đền. Tuy nhiên, làm người của biến loạn, từng trông thấy sự thành bại đã qua, Ngô Sĩ Liên lại có kinh nghiệm sâu sắc để nêu những nhận xét về triều Trần giúp người sau hiểu rõ, nhất là đối với trận chiến thắng quân Nguyên.
Với triều Lê đương đại, sự việc được ghi chép nhiều hơn, cả trong lẫn ngoài. Liên hệ với triều đại, những cuộc nổi dậy nhỏ vẫn được ghi chép, tài liệu của nhà Minh được khai thác. Về bên trong, sự việc được ghi đến từng ngày liên tục, không như trước kia, sử quan chỉ chú ý lúc có thay đổi triều đại, lúc có vua mới lên ngôi. Sự tỉ mỉ đó không phải ngẫu nhiên mà có. Khả năng điều khiển cuộc chiến khiến các lãnh tụ Lam Sơn ghi chép nhiều hơn theo tình hình cần thiết, nên có thể lưu lại tài liệu cho người sau hơn. Bảy năm sau khi chiến thắng, có một người ở Nội mật viện bị giáng chức vì “bồi đai bán cho người phương Bắc, dùng... giấy ghi các việc điểm binh” (chuyện ngày 22/11âl. 1434). Gọi là “dùng lầm” hẳn là một lối nói vớt cho cận thần của vua, nhưng có thể vì thời thái bình đã đến khiến cho người ta thấy giấy tờ chất đống có vẻ như thừa thãi vô ích nên đem ra dùng vào việc tưởng là thực tế hơn, nhất là khi thấy các ông quan liên tiếp đi sứ bên ngoài, tha hồ gồng gánh buôn bán với người phương Bắc!
Thế rồi sự kiện Nho Giáo độc tôn tăng dần, hỗ tương theo hướng vương quyền chuyên chế đã khiến các sự kiện ghi chép trở nên một chiều thu hẹp và khó hiểu. Như năm 1450 chép chuyện tháng 7 (âl.) sứ thần Minh đi đón vua Anh Tông bị tù trưởng Dã Tiên bắt giữ (chuyện năm trước), lúc này thuận thả cho về. Có chi tiết sứ thần làm thơ, cảnh rước về Bắc Kinh, vua cũ vua mới dè dặt nhường
nhịn nhau. Sự kiện này không thể ghi ngay trong năm đó được, vì năm sau mới có sứ nhà Minh báo tin vua-mới lên ngôi, và 7 năm sau thì vua cũ giết vua mới. Không thể bỗng dưng có chuyện nhà Minh dài dòng chen vào đây mà phải là do chủ đích của sử quan. Thời gian này ở Đại Việt, một ông hoàng thái tử bị phế (1441) và ông vua bé con lên ngôi (1442) trong đó Lê Liệt, một trong những người nhận mệnh lập vua thì hai năm sau bị bắt giam, ba năm nữa ra khỏi lao hầm, không rõ thoát tội vào lúc nào mà vợ con chỉ ra khỏi ngục trước khi sử thần chép việc vua Minh. Ngay triều vua khai sáng cũng có chuyện phế trưởng (Tư Tề) lập thứ (Nguyên Long). Dự yến đầu mùa xuân 1456 có mặt cựu thái tử Nghi Dân, trông giống như việc hoà giải của hai ông vua Minh để đến năm 1459 thì ông anh Việt giết ông em, giống như ở Minh (1457). Tuy kết quả về sau là khác, nhưng sử quan chắc là gốc Trần chỉ có thể làm chuyện cảnh cáo vương quyền Lê theo lối nói xa nói gần như thế thôi. Nêu sự việc ấy ở đây, có phải sử quan muốn phê phán việc bỏ trưởng (Nghi Dân) lập thứ (Bang Cơ) của Lê Thái Tông – hay chê về chuyện bỏ trưởng lập thứ đến hai lần, sắp thành lệ, trái với quan điểm của sử thần? Chép thơ của sứ thần Minh than khóc cho tình cảnh khốn khó của vua Minh-anh, có phải sử quan Việt muốn đứng về phe Tư Tề, Nghi Dân cho đúng tinh thần chính thống? Về những sự kiện khác, ta chỉ thấy chuyện giết ông công thần này, hạ ông quan kia, xá tội ông nọ mà không biết thật sự nguyên nhân tại sao. Sự việc tranh chấp rối mù chỉ khiến ta đoán hiểu tại sao Nguyễn Trãi bị hoạn quan cảnh báo về ông vua háo sắc mà vẫn cố đưa Nguyễn Thị Lộ vào cung trong tinh thần còn lại của ông mưu sĩ thời chiến, muốn có tay trong để giữ thân mà rốt lại cũng không bảo toàn nổi gia tộc.
Từ lâu, ngay chính các sử quan cũng biết sử không phải chỉ là chuyện kế vị, đánh dẹp, tuyển bổ quan chức... Bộ sử chuẩn mà Ngô Sĩ Liên kể ra, bộ Sử kí, thêm (Tiền) Hán thư.., không phải chỉ chép những chuyện đó mà còn nói đến kinh tế tài chính (thực hoá chí), địa chí... Sách Văn hiến thông khảo của thế kỉ XIII đã được Lê Thánh Tông dùng làm chuẩn khi sai đúc ấn; năm 1484 thấy nằm trong lời sử “trước đây, sách công hàng năm ban xuống cho các phủ ở ngoài, như ...Văn hiến thông khảo, Cương mục...” Vào nửa sau thế kỉ XVIII,
Bùi Huy Bích vẫn nhắc đến phép chép “kỉ truyện” (thực hiện trong Sử kí). Và ngược về trước, có thể ngờ rằng Đỗ Thiện của đời Lí đã chép sử theo thể thức này mà không theo phép biên niên các triều đại. Không phải các sử quan ở TT không biết đến những đề mục được ghi chép ở Bắc sử, họ đã đưa chúng vào rải rác trong sách nhưng không thể làm hơn. Chỉ vì trong đà hấp thụ kiến thức của Minh thuộc đưa lại, và nhu cầu dồn dập của sự tuyển lựa quan chức mới như một phương tiện tiến thân trở thành gần là duy nhất, các nho gia lo đọc sách đi thi, không đủ thì giờ để làm việc chuyên môn, chuyên sâu. Đã nhắc chuyện năm 1467, sĩ tử chỉ học Kinh Thi, Kinh Thư nhiều. Gần giống như sau này, đất Gia Định “ít học” như vua tôi nhà Nguyễn chê bai, phải nâng đỡ, các điều kiện chuyển đổi văn hoá cần phải có thời gian chín muồi, cho nên các sử quan ghi chép chuyện nhà vua, kinh thành nhiều hơn các đời trước đã là một tiến bộ rồi, không thể vượt tầm cho phép của thời đại được. Phải đợi đến Lê Quý Đôn có tâm thuật nhiều hơn trong một thời đại nhiều biến động vượt ra ngoài khuôn khổ khu vực mới thấy có chút thay đổi. Phải đợi nhà nho thất nghiệp Phan Huy Chú may mắn kê cứu từ sách vở truyền dòng, người ta mới có tập họp Lịch triều hiến chương loại chí, mà cũng từ đây phải thấy thêm thất vọng về mong ước muốn tìm hiểu sâu vào trong quá khứ.
Không có nhiều tài liệu đương thời để lại, sử quan lấy thêm sách của thời đại mình, hay không xa thời đại mình, đem hẳn vào làm tài liệu sử đích thực – tuy không phải là bộ mặt của quá khứ nhưng cũng tạo nên thêm một truyền thống khác cho lịch sử. Ngô Sĩ Liên đã mở đầu với Hồng Bàng thị khiến cho Ngô Thì Sĩ có nghi mà vẫn phải chép, chép lại cả truyện Triệu Quang Phục để thêm hãnh diện chê Bắc sử thiếu sót! Ông không làm được chuyện lớn như Ngô thì thêm bà vợ Việt cho ông Triệu Đà trong các ngôi miếu nảy ra từ truyền thống dòng họ chính thức mà ông bác bỏ. (Để đến thời bây giờ, nhân các khai quật về nhà Triệu ở Trung Quốc, có người suy ra việc tìm ra mộ “con Trọng Thuỷ” – Văn Vương, ngầm ý còn có nàng Mị Châu và mớ lông ngỗng bay đâu đó!) Cứ như thế mà người ta sẽ hãnh diện với quyển sử của quốc gia càng lúc càng dày thêm tuy thực chất càng lúc càng thua kém.
ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG SỬ KÍ NHO GIA
Dòng sử kí Nho gia tất nhiên không phải đã chấm dứt với quyển TT mà còn kéo dài đến hết triều Nguyễn. Chút khác biệt thêm bớt nào xuất hiện giữa hai thời đại không phải là điều bàn bạc ở đây. Sự khác biệt hẳn, tiến lên một mức cao hơn của sử học Việt đáng lẽ phải có, là do tình trạng người Pháp chiếm đóng Việt Nam. Muốn hay không, người Việt cũng phải tiếp nhận thế giới khoa học của thời mới, dù là qua cái lọc, qua vòng tay của người Pháp. Họ bắt đầu khảo sát vùng đất chiếm đóng, ban đầu do nhu cầu thực tế cai trị, dần dà đi sâu vào những chuyên ngành mang tính chất vô vị lợi hơn. Trường Viễn Đông Bác Cổ (tên Việt thường gọi của Ecole Francaise d’Extrême-Orient) được lập ra, đóng trụ sở ở Hà Nội từ cuối thế kỉ XIX, xuất bản Tạp chí riêng vào năm 1901, là mốc lớn cho việc nghiên cứu Đông Pháp nói riêng, Đông Á nói chung trên khía cạnh lịch sử, văn hoá, xã hội... với những tiêu chuẩn khoa học của thế giới Tây phương. Nền giáo dục mới cũng đem lại cho một lớp người những suy nghĩ khác truyền thống cũ, ít ra là ở một chừng mực nào đó.
Tuy nhiên những bài, những cuốn sách nghiên cứu về lịch sử Việt Nam dù dồi dào, sâu sắc đến đâu mà viết bằng tiếng Pháp – ngôn ngữ của chính quyền cai trị, dù các tác giả là người Việt (như sách của Trương Vĩnh Ký), thì cũng không thể nào được coi là cái mốc cho nền sử học Việt Nam mới. Có chăng, một số người được đào tạo làm công chức của Trường, được hưởng thụ nền học vấn mới, đã đem kiến thức thâu thái từ đó viết ra những bài, những sách ít nhiều gì cũng khác với thời xưa. Tạp chí Nam Phong mang tính chất dilettante và tạp chí Tri Tân mang tính chất chuyên ngành (theo quan niệm cũ: ôn cố tri tân), là nơi dành chỗ cho những người đó. Và cái mốc khởi đầu đáng kể cho sử học Việt Nam phải nói là quyển An Nam sử lược (1920) của Trần Trọng Kim. Bài, sách viết về sử Việt thời mới tuy không có những sâu sắc, khám phá gì mới – không thể đòi hỏi hơn – nhưng cũng có những đặc điểm chung là phần lớn chúng đã thoát ra được quan niệm đạo lí về sử nói chung, Khổng Nho nói riêng. Các triều đại Hồ, Mạc, Tây Sơn không bị ghép vào kẻ
cướp nước (của vua) mà chỉ là những dòng họ kế tục trong lịch sử Việt. Tuy cũng có những ca tụng về đạo đức cá nhân, những an ủi về định mệnh, nhưng thường không ai xem việc có “đức” như là tiêu chuẩn cần phải có trong việc nắm giữ quyền bính. Nói chung, không thấy có việc sử dụng các từ ngữ kì thị, phân biệt như của Chu Hi dạy khi chép về các nhân vật lịch sử. Vẫn còn một chút quan niệm đạo đức cũ định mức chênh lệch, thể hiện trong các ngôn từ tôn xưng hay thô lỗ hàng ngày, nhưng không phải là từ ý thức nồng nhiệt bênh vực thánh giáo như xưa. Chính vì thế mà Việt Nam sử lược (chuyển tên cũ trong lần tái bản 1953) tuy chỉ là một quyển sử “lược”, quyển thông sử của ông giáo Trần Trọng Kim viết cho cấp bực trung học, lấy tài liệu phần lớn trong TT, của nhà Nguyễn, của các tác giả Pháp, quyển sử đó giữ được một vị trí khá lâu dài ngay sau khi người Pháp đã ra đi, khi đã có những toan tính viết bằng tiếng Việt của những sử gia mới, của thời độc lập.
Tình hình phức tạp trong cuộc chiến 30 năm (1945-1975) khiến cho bộ mặt của nền sử học quốc gia cũng không giản dị, theo với sự trôi nổi chính trị đặt để cho từng vùng của đất nước. Tình hình càng phức tạp hơn khi những người viết sử “trở về với dân tộc”, lại mang cả quá khứ văn hoá cũ ẩn giấu đâu đó để chúng lại xuất hiện dưới những dạng hình mới, nhân danh lí tưởng khoa học từ một lí tưởng chính trị. Đọc người xưa có thể thấy những vướng víu của người nay, và đọc người nay có lúc tưởng chừng người xưa đã hiện về với áo mũ khác, loại áo cặp đôi, cặp ba, phần trong khoe ra với phần ngoài.
Từ 1955, vì Miền Nam có một chế độ theo Tây Phương (tư bản), theo một chừng mực nào đó, sử học được xem là tách rời với chính trị, với chính quyền đương chức nên từ trong các trường đại học thấy xuất hiện một số sách nghiên cứu chuyên đề theo cung cách giảng dạy ở phương Tây. Tuy nhiên như đã nói, quá khứ lại xuất hiện lẫn lộn với hiện tại theo tinh thần dân tộc huênh hoang, có khi pha lẫn một vài quan niệm xưa cũ về định mệnh, về đạo đức trung trinh của các nhân vật, vốn chỉ là tán rộng từ TT. Điều đó càng hỗn độn nhiều hơn ở những “sử phẩm” trên thị trường sách báo, của những người cứ tưởng biết được chữ là viết được sử. Sử học là một
khoa học, là một ý niệm khó chấp nhận nên có nhiều ngành khác lấn sân vào sử để trở thành sử kí. Nhà chính trị trong niềm u uất của người dân mất nước, đem phóng đại quá khứ dân tộc để vẽ ra một tương lai huy hoàng. Tương lai đó có vẻ đã trở thành hiện thực trong thời đại độc lập, nên nhà “nghiên cứu” thấy quá khứ kia đúng là hiện thực của thời đã qua, liền tô vẽ thêm bằng ngôn từ khoa học, triết lí mình thu nhận của thời nay. Do đó, Khổng Nho biến thành Việt Nho, dân Việt không còn là một nhúm người ở Giao Chỉ / Giao Châu như của Ngô Thì Sĩ hay lấn lên hồ Động Đình như của Ngô Sĩ Liên mà lại đúng là chủ nhân ông của đất tộc Hán, nên cố giành lấy Hà đồ, Lạc thư về mình! Chính trị, huyền sử đã trở thành lịch sử – trong ước mơ. Tinh thần dân tộc của thời mới đã làm đảo lộn nội dung đồng văn xưa cũ. Không phải người Hán dạy dân Việt mà dân Việt đã khai phá văn minh cho dân Hán. Tiến trình vương hoá không đi theo dòng địa lí bắc – nam mà là chuyển hoá tự bên trong giữa hai dân tộc trên cùng địa vực, trong đó dân Việt là chủ thể phát tán. Tuy nhiên, khi cho rằng tương quan Thiên triều / phiên thuộc của quyền lực cụ thể trong quá khứ phải hiểu đảo lộn trong lãnh vực văn hoá, nhà “nghiên cứu” triết gia muốn thành sử gia – và những đồ đệ nối tiếp trong và ngoài nước cho đến bây giờ, đã để lộ ra một tinh thần tự ti dân tộc ráng che mà không kín. Ngô Sĩ Liên đã đẩy đất nước lên đến hồ Động Đình, ngày nay người ta chỉ mở rộng nó sâu và xa theo với đà toàn cầu hoá đấy thôi!
Trên phần đất Dân chủ cộng hoà người ta cũng thấy những hiện tượng tương tự, tất nhiên không phải là giống-như-in. Buổi đầu chống Pháp, kiến thức mang từ Hà Nội thuộc Pháp còn có tác động trên những bài viết mà chính quyền không quan tâm xét nét xem nó có giống với khuôn khổ chính trị đích thực của đảng cầm quyền hay không (dù lúc này nó chưa ra mặt). Thế rồi năm 1949 tới – năm 1949 có bằng cớ tiếp nối là đã quan trọng hơn năm 1945 vẫn thường được nhắc nhở. Hồng quân Trung Hoa chiến thắng đe doạ đồn luỹ quân Pháp nơi biên giới, không yếu ớt như đám quân binh Thanh ở thế kỉ trước. Tân Trung Quốc có vũ khí tư tưởng thời đại là mácxít, nhưng thật ra còn cả một quá khứ Hán Đường Tống theo sau, thành thử không thể ngăn cản một hình ảnh Thiên triều mới chưa kịp nhận
ra trong buổi đầu. Từ đó, xuất hiện một tinh thần đồng văn mới giữa hai nước Việt Trung mà ý thức hệ mácxít biện minh cho sự hoà đồng, để “tư tưởng Mao Trạch Đông” được chấp nhận trong Điều lệ Đảng Lao Động Việt Nam (1951), không hề bị thắc mắc như một trào lưu vương hoá của thời hiện đại.
Điều đáng quan tâm cho sử học Việt Nam từ đây, là dưới nhãn hiệu mới, mối tương quan giữa người viết sử và người cầm quyền đã trở lại như xưa. Có khi người ta cũng không ngần ngại sử dụng những từ ngữ cũ – có cải biên nhưng nội dung tương quan quyền lực không khác. “Trung với nước, hiếu với Đảng” – hay có lúc “ ...hiếu với dân”, nhưng nước, dân là do “Đảng lãnh đạo” – một cách nói khác, như khi Lê Thánh Tông lấy làm căn cứ để hạch tội Ngô Sĩ Liên từng “bán nước” vậy. Sách viết ra được coi như thành quả của một Quốc sử quán mới, không có tên tác giả mà chỉ có tên tổ chức (như Lịch sử Việt Nam tập I), cả khi có tên người rành rẽ thì ngoài bìa vẫn nổi bật lên các tên Ban, Viện... Nổi bật nhất là công cuộc nghiên cứu về thời Hùng Vương, xoay quanh việc đắp vá da thịt, choàng mũ mảng đai hia cho ông vua Hùng của Ngô Sĩ Liên, bằng các thành quả gọi là khảo cổ học và “tiếp cận liên ngành”, để củng cố truyền thuyết của Ngoại kỉ chuyển thành minh chứng “khoa học”. Từ lời của lãnh tụ thúc đẩy: “Vua Hùng đã có công dựng nước...” tác động của người cầm quyền thật rõ rệt. Những đề tài gợi hoài nghi lệch lạc như vấn đề tương quan Lạc và Hùng được bàn tới một cách lơ là, lạc lõng. Ý thức hệ được coi là chính thống, dẫn dắt cho những nghiên cứu về “thời chiếm hữu nô lệ”, “thời phong kiến”, thời tư bản, thực dân đế quốc. Và lại cũng như xưa, người ta không bàn xem sự kiện đã xảy ra như thế nào mà lại đem so đọ các sự kiện đó theo tiêu chuẩn của ý thức hệ, không theo ông Khổng Mạnh thì theo ông Marx Engels. Hãy đọc lại lời Ngô Sĩ Liên bênh vực Không Tử, Chu Hi để đối đầu với Hồ Quý Li: “Từ khi có sinh dân tới nay chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử... Chu Tử đã theo... thì không thể nghi ngờ gì cả... Người sau... chỉ tô chuốt cho bóng thêm... không được chê bai bàn cãi gì cả”. Nghe như lời của ông Bùi Thiết trong năm 2000 ở quyển Đối thoại sử học. Nhưng trong khi ông này thẳng thắn trình bày theo tính cách luận chiến thì những sử gia khác không cần ồn
ào nhiều, đã thực hiện rất trung thành tinh thần sử quan Xuân Thu đó trong dạng mới của thế kỉ XX. Trong muôn một, có thể trích dẫn một vài “thể thức Khổng Tử – Chu Tử” của thời đại trong quyển Theo dòng lịch sử của sử gia Trần Quốc Vượng (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội 1996): “tên đô hộ kiêm đạo sĩ Cao Biền” (trang 27), “bọn phong kiến phương Bắc” (tr. 35), “học giả Tàu (không phải Hoa, Trung Quốc, tr. 41), “Bác Hồ... Người là ông tổ... (làm) một tổng hợp không tiền khoáng hậu... cả Đông lẫn Tây” (tr. 6, 13)...
Vấn đề còn lại sẽ tuỳ thuộc vào khả năng người sắp xếp giỏi hay dở, để dành cho người đọc chút tự do nhận định về sử phẩm mới xuất hiện. Thế mà vẫn còn vướng víu áp lực vô hình của các ông tổ với đề tài nữa. Marx... không biết gì nhiều về phương Đông, huống chi là chuyện nước An Nam, nên quyển Lịch sử Việt Nam tập I còn nhiều chỗ cho sử gia tung hoành. Đến tập II thì thật là một thảm hại. Không chắc tại sử gia kém cỏi. Chỉ vì nó dính dấp đến thời hiện đại, thời Marx Engels nói nhiều về phương Tây, trong lúc bằng chứng từ địa phương đất nước còn lưu giữ tuy không nhiều nhưng lại khác, khó cho sự sắp xếp đúng theo sự chỉ đường của các Tuyển tập, Toàn tập. Thêm nữa, cách hiểu về “tính đúng đắn của Giai cấp” không dễ xác định trong sự đổi thay quyền lực có trước mắt và trong tương lai, làm rụt rè người viết... Nhờ chủ nghĩa Mao vớt vát cho sử gia có chuyện nói về nông dân, nhiều hơn là về công nhân lưa thưa, khiến quan niệm “vô sản” trở thành đồng nghĩa với “nghèo đói”, và dắt dẫn trở lại truyền thống địa phương để quyền bính vẫn là điều kiện cụ thể cho việc viết sử. Cho nên người viết các sách giáo khoa Việt Nam cho thời đương đại trước mắt, chỉ còn có cách là trích văn kiện Đảng. Hơi giống sử quan chép lại chiếu, sắc (vốn cũng không phải do vua xắn tay áo viết ra mà là của bộ phận nho thần lựa chọn văn từ cho vừa lòng bậc chủ tể). Ấy thế mà càng về lâu, tình hình càng tệ hại hơn nếu tin vào người đứng đầu ngành có chuẩn nhận nhà nước: “... Đội ngũ sử học tăng nhanh về số lượng và ngành nghề nhưng nói chung trình độ còn nhiều hạn chế về lí luận và phương pháp luận... (Phan Huy Lê 2003).
Nguồn thông tin đến với chúng ta ngày nay đã nhiều hơn xưa. Cũng giống như Ngô Sĩ Liên hưởng nhiều hơn Lê Văn Hưu, Ngô Thì Sĩ
"""