"
Sư Tử - Joseph Kessel full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sư Tử - Joseph Kessel full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
SƯ TỬ
Joseph Kessel
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: SƯ TỬ
Tác giả: Joseph Kessel
Nguyên tác: Le lion
Dịch giả: Châu Diên
Nhà xuất bản: Văn Học
Năm xuất bản: 1993
Số trang: 328
Khổ sách: 13 x 19 cm
Giá bìa: 13.000 đồng
Đánh máy: Thùy An, Nguyễn Ngọc Quỳnh Trang, Thùy Ty, Quan Trường, Phương Lan, Lan Nguyễn, Cường
Kiểm tra: Hannah Le
Ảnh bìa: Hanki Nguyễn
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 30/08/2012
Making Ebook Project #258 - www. BookaholicClub. com
Bạn đang đọc ebook SƯ TỬ của tác giả Joseph Kessel do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN
PHẦN THỨ NHẤT
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
XIII
XIV
PHẦN THỨ HAI
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII IX
X
XI
XII
XIII XIV XV
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Joseph Kessel sinh ra ở Clara, Achentina, ngày 10-02-1898. Cha ông là người Nga gốc Do Thái chạy trốn sự truy nã của Sa hoàng, sang Pháp học ngành Y. Nước Pháp trở thành Tổ quốc tinh thần của gia đình Kessel từ đấy. Bác sĩ Kessel tình nguyện đi làm thầy thuốc cho một khu di dân nông nghiệp Do Thái ở Achentina, và Joseph Kessel ra đời ở Tân Thế Giới.
Khi gia đình trở về Pari, Joseph chuẩn bị thi cử nhân văn khoa trong khi vẫn mơ ước trở thành một diễn viên hài kịch. Nhưng một dịp tốt đã đến, cho phép ông làm việc tại tòa báo Journal des débats, tờ báo hàng ngày có uy tín nhất ở Pari. Ở tòa báo, người ta vẫn còn thấy chiếc ghế bành của Chateaubriand để đó.
Thế rồi chiến tranh xảy ra, và vừa đúng lúc mười tám tuổi, ông bỏ hẳn sân khấu và tạm thời bỏ nghề báo để làm phi công. Chính trong nghề này mà ông tìm thấy nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết Phi đoàn. Nhà phê bình Henry Clouard cho rằng Kessel là người đầu tiên viết mảng văn học về hàng không.
Năm 1919, Kessel tình nguyện sung vào quân đội viễn chinh của Pháp sang Siberi. Ông đã kể lại chuyến đi ấy trong tiểu thuyết Thời hoang dã. Ông trở về qua Trung Quốc, Ấn Độ và khép lại vòng đi thế giới đầu tiên.
Sau đó, ông luôn luôn ở vị trí hàng đầu thuận lợi cho việc quan sát thời sự. Ông tham gia cuộc nổi dậy của Ái Nhĩ Lan chống lại nước Anh. Ông được chứng kiến những bước đầu của chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Hai mươi năm sau, ông nhận được giấy nhập cảnh vào nước Ixraen non trẻ, tờ visa mang số 1. Ông đi theo những người buôn nô lệ cuối cùng trên biển Đỏ cùng với Henri de Monfreid. Ông được thấy những bước đầu của bưu điện Hàng không cùng với Mermoz và Sain Exupery. Ở nước Đức đang thời biến động, ông gặp “người đàn ông mặc áo đen xoàng xĩnh, chẳng có vẻ gì lịch sự, chẳng có vẻ gì quyền thế, chẳng có chút gì ưa nhìn, của một người đàn ông nào đó, vẻ buồn buồn và khá tầm thường”. Người đó là Hitler.
Sau cuộc chiến năm 40 mà ông bắt đầu trong một trung đoàn công binh và kết thúc ở vị trí một phi công của nước Pháp tự do, Joseph Kessel lại trở về nghề văn và nghề báo. Ông được bầu và Viện Hàn Lâm Pháp tháng 11 năm 1962. Ông mất năm 1979.
Joseph Kessel là tác giả của hơn hai mươi tiểu thuyết và truyện như: Phi đoàn, Những trái tim trong trắng, Sư tử, Tiểu đoàn trên không, Đoàn quân bóng tối, Chợ nô lệ, Người đàn bà đi qua quán cà phê…
TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN
Tôi dâng tặng tiểu thuyết này tới cơ quan quản trị các Vườn quốc gia Kênya đã có công bảo tồn sự sống hoang dã miền đông Phi châu cho các thế hệ tới, để ca ngợi lòng tận tụy nhiệt thành của những con người gánh vác trách nhiệm các khu bảo tồn đó, đặc biệt để ca ngợi bạn tôi, ông giám đốc Tabêrê, trong ngôi nhà anh tôi đã phác họa xong chủ đề câu chuyện này.
Các sự kiện trong câu chuyện diễn ra tại bảo tồn Ambôlêsi. Hẳn là mỗi khu vườn quốc gia đều có một vị giám đốc. Thế nhưng tính các vị giám đốc trong cuốn sách này cũng như tính các bà vợ và cô con gái ông lại hoàn toàn do tác giả tạo ra. Là các nhân vật tiểu thuyết, các tính cách đó chẳng có chút gì chung với gia đình Tabêrê cả. Dẫu sao tôi cũng ngỏ lời cám ơn anh vì anh đã chia sẽ với tôi những kinh nghiệm lâu đời và hiếm hoi của anh về các giống thú hoang. Không được anh giúp sức, cuốn sách này hẳn đã không thể nào ra đời.
PHẦN THỨ NHẤT
I
Phải chăng nó đã vành mi mắt tôi để coi thử trong đó có gì? Tôi không thể đoán chắc điều đó. Khi thức giấc, rõ ràng tôi đã thấy như là có một ngọn bút lông mềm và nhám dạo dọc khuôn mặt mình, thế nhưng khi tỉnh dậy hẳn thì tôi lại thấy nó đang ngồi rất ngoan ở ngang tầm cái gối và nhìn tôi chăm chú.
Tầm vóc nó không lớn hơn một sọ dừa. Bộ lông mọc ngắn của nó có màu vỏ dứa khô. Với bộ lông như thế từ đầu ngón chân tới đỉnh hộp sọ, trông nó như thể mặc lông dệt. Riêng cái mặt lại phủ bằng một thứ mặt nạ satanh đen, xuyên qua đó long lanh hai giọt nước: đôi con mắt.
Trời chưa rạng hẳn, nhưng cây đèn bão đêm qua tôi quên tắt vì mệt cũng đủ sáng để tôi nhìn thấy rành rành trên nền tường vôi trắng vị sứ giả bất ngờ đó của bình minh.
Vài giờ sau, sự hiện diện của nó hẳn sẽ là chuyện bình thường đối với tôi. Nó có cả bầy sống trên những cây cao xung quanh gian lều; nhiều gia đình đông đủ giỡn chơi trên cùng một cành cây. Nhưng bữa qua, lúc chiều sẩm tối mới tới đây, người kiệt lực. Vì vậy, vào lúc này, tôi đã nín thở mà nhìn con khỉ tí xíu ngồi rất gần mặt tôi.
Cả nó cũng không nhúc nhích. Cả đôi giọt nước bên trong cái mặt nạ satanh đen cũng bất động.
Trong đôi mắt nhìn ấy không thấy sợ sệt, nghi kỵ và cả tò mò nữa. Tôi chỉ là đối tượng cho một sự xem xét nghiêm túc, vô tư.
Thế rồi cái đầu dệt lông ấy, to bằng nắm tay trẻ nhỏ ở tuổi còn nằm trong nôi, bỗng ngoẹo về bên trái. Đôi mắt khôn ngoan lộ ra một vẻ buồn rầu, thương hại. Nhưng đó là buồn thương cho tôi.
Tưởng chừng đôi mắt ấy mong muốn cho tôi những chuyện tốt lành, muốn đem cho tôi một lời khuyên. Nhưng lời khuyên gì vậy?
Lúc đó hẳn tôi đã có một cử động vô ý. Thế là cái nắm tròn màu ngà ngà vàng đó nhảy vụt lên, bay từ bàn này sang ghế kia cho tới khung cửa sổ để ngỏ, và tan biến đi trong sương mù buổi sáng.
Quần áo đi rừng của tôi từ đêm qua vứt đó vẫn y nguyên dưới đất cạnh chân giường, gần cây đèn bão.
Tôi lấy mặc vào và đi ra ngoài hiên.
Bữa chiều qua, mặc dù trời tối mù mịt, tôi nhớ rằng có để ý thấy những bụi gai lớn bao quanh gian lều mình ở, và trước lều là một cánh rừng thưa mênh mông chạy dài hút trong màn đêm bí ẩn. Nhưng lúc này sương mù đã che kín hết. Vật chuẩn duy nhất cho tôi chỉ còn ngay trước mặt tôi, nối với trời cao trên nóc thế giới, cái bàn khổng lồ chứa tuyết vĩnh cửu quanh đỉnh núi Kilimanjarô.
Một tiếng động giống như có ai lăn vội những con xúc xắc đã khiến tôi ngoảnh nhìn về những bậc cầu thang gỗ thô dẫn tới hàng hiên. Một con linh dương thong thả, ung dung leo lên các bậc tam cấp.
Một con linh dương thực sự, nhưng rất nhỏ xinh, tai nó không chấm đầu gối tôi, sừng giống như những lá thông, và vó chỉ to bằng móng tay.
Con vật kỳ diệu chui từ sương mù ra ấy chỉ dừng lại khi gặp mắt cá chân tôi và nó ngẩng mõm lên với tôi. Tôi khom xuống hết sức thận trọng và chìa bàn tay về phía cái đầu gọt giũa hết sức đẹp đẽ, hết sức tinh tế. Con linh dương nhỏ không cựa quậy. Tôi sờ vào hai cánh mũi nó, ve vuốt chúng.
Nó để mặc tôi, mắt nó nhìn chăm chú vào mắt tôi. Và trong vẻ trìu mến câm lặng của đôi mắt ấy tôi thấy có điều gì đó cũng hệt như khóe nhìn đến là buồn và đến là khôn ngoan của chú khỉ con. Cả lần này nữa, tôi cũng không đủ khả năng để hiểu.
Dường như muốn tạ lỗi vì không nói được, con linh dương liếm các ngón tay tôi. Rồi nói khẽ khàng gỡ mồm khỏi tay tôi. Sau đó, vó chân nó lại tạo ra trên bậc thang gỗ tiếng những quân xúc xắc lăn đi. Nó đi khuất.
Tôi chỉ còn có một mình.
Nhưng trải qua mấy giây lát ấy, bình minh nhiệt đới vốn ngắn ngủi lạ lùng đã nhường chỗ cho rạng đông.
Từ trong lòng bóng tối, ánh sáng đột ngột vọt ra, lộng lẫy, sáng lóa, rạng rỡ. Tất cả bừng lên, long lanh, lấp lánh.
Những mũi tên hồng xuyên qua tuyết trên đỉnh Kilimanjarô.
Khối sương mù dày đặc bị sức nóng mặt trời đào bới, phá phách, hút đi, đã tản ra thành những màng mỏng, thành cột, thành cuộn, thành đường xoắn, thành những khối, những giải, những sợi, và thành vô vàn hạt nhỏ tựa như bột kim cương.
Cỏ lúc thường, khô cứng và màu vàng, lúc này trông mềm ra và lộng lẫy sương mai.
Trên những cây mọc rải quanh lều tôi ở, ngọn cây có những chùm gai lúc này đã được chuốt bóng lại, chim đang hót và khỉ đang kêu choe chóe.
Và đằng trước hàng hiên, khói sương dần dần tan biến để mở ra một khoảng ngắt xanh càng vô cùng khoáng đãng và bí ẩn, và tít sâu trong đó vẫn còn những đám mây nho nhỏ mới tụ đang chập chờn bay và đến lượt chúng cũng lại bốc đi nốt.
Tấm màn này vén lên tiếp tấm màn kia, trái đất mở màn diễn những trò ban ngày và của muôn loài.
Sau hết, ở cuối cánh rừng thưa, nơi vẫn còn bám lại một dải sương mờ nhẹ như lông tơ, thấy có bóng nước long lanh.
Hồ? Ao? Hay đầm nước lầy? Không phải loại nào cả, mà chỉ là một vùng nước rộng. Bên dưới hẳn là có những mạch nước ngầm yếu ớt và nước không đủ sức lan xa hơn nữa, chỉ run rẩy lăn tăn giữa những đám cỏ cao, giữa những lau sậy và những bụi cây rậm rạp.
Những con thú tụ tập bên đầm nước.
Trong chuyến viễn du tôi vừa thực hiện tại vùng Đông Châu Phi, dọc theo các con đường lớn và đường mòn - Kivu, Tanganyika, Uganda, Kenya - tôi đã thấy nhiều con thú đó. Những bầy thú bị tiếng xe ầm ầm xua đuổi tan tác, những bóng hình thoăn thoắt, hốt hoảng, rồi biến mất.
Đôi khi tôi cũng có dịp rình trong giây lát một con thú hoang, việc đó chỉ thực hiện được từ rất xa hoặc kín đáo, có thể nói là xem trộm cũng được.
Tôi đã chiêm ngưỡng những tư thế của những sinh mệnh tự do và thuần khiết ở chốn rừng rậm khô khan với một tình cảm đặc biệt pha lẫn thèm khát, hào hứng, ước ao và thất vọng. Dường như được gặp lại một thiên đường tôi từng mơ ước, từng quen biết từ thuở nào không còn nhớ nổi. Tôi đã kề ngưỡng cửa thiên đường ấy mà không thể vượt qua.
Hết gặp gỡ này sang gặp gỡ khác, tôi chợt thấy có nhu cầu - hẳn là một nhu cầu - trẻ con nhưng ngày càng thúc bách - được thấy mình nhập vào cõi hồn nhiên trong trắng của những buổi đầu đã rất xa xưa của thế giới.
Vì thế, trước khi trở lại châu Âu, tôi đã quyết định ghé qua một trong những Vườn hoàng gia xứ Kênya, những khu bảo tồn có những luật lệ cực kỳ khắt khe chở các thú hoang được sống trong tất cả các hình thái đời sống của chúng.
Và giờ đây, chúng kia rồi.
Không phải những con thú tỉnh táo, nghi kỵ vì sợ sệt mà tụ tập thành bầy, thành đàn, thành đám theo giòng, theo giống, theo ngành, mà là những con thú hòa lẫn với nhau giữa cảnh yên lành, vô tư buông thả trong đầm
nước, những con thú sống yên bình với rừng rậm, với chính chúng nó, và với hừng đông.
Tôi đứng khá xa nên không thề nhìn rõ từng cử động của chúng hoặc hòa sắc các màu lông và da của chúng, nhưng không vì đứng xa như vậy mà không thấy rằng bầy thú đông có tới hàng trăm hàng nghìn con, đủ các loại chen chúc bên nhau, và trong khoảng khắc sống đó chúng không biết thế nào là sợ hãi hoặc vội vã.
Những linh dương, sơn dương, hươu cao cổ, linh dương đầu bò, ngựa vằn, tê giác, trâu, voi - những con thú dừng chân hoặc chuyển dịch tùy sở thích, tùy cơn khát, thả mặc cho sự tình cờ.
Mặt trời vẫn còn dịu, soi xiên những tầng tuyết chất trên đỉnh núi Kilimanjarô. Gió nhẹ sớm mai đùa rỡn với những cụm mây mỏng còn sót lại. Được chút rớt sương mù rắc lên, những mảng nước và đồng cỏ tràn ngập mồm thú và những cánh mũi thú, những lườn thẫm màu, vàng, vằn, những sừng thẳng nhọn, vểnh hoặc to sù, và những vòi những ngà, tạo thành một tấm thảm hoang đường treo bên trái núi lớn Phi châu.
Tôi không rõ mình đã rời hàng hiên và ra đi vào lúc nào. Tôi chẳng còn chủ động nổi nữa. Tôi cảm thấy mình bị vẫy gọi bởi những con thú để đi tới một cõi phúc đã có từ trước khi có con người.
Tôi theo con đường mòn ven cánh rừng thưa, dọc theo tấm màn che những cây và những bụi. Tôi càng đi tới, vẻ thần tiên chẳng những không đổi thay, không tan biến, mà càng phong phú thêm, càng thêm chất thực.
Mỗi bước tôi đi lên khiến tôi nhìn rõ hơn chúng, có biết bao nhiêu ngành, những đường nét tinh tế cũng đa dạng biết bao, sức mạnh của chúng cũng khác nhau biết chừng nào. Tôi đã nhìn được rõ những bộ lông linh dương, những đầu trâu hãi hùng, và những con voi như những tảng đá hoa cương.
Chúng vẫn đang gặm cỏ, đang hít nước, đang lang thang búi này sang búi khác, vũng này sang vũng khác. Còn tôi cũng tiếp tục đi. Vậy mà chúng vẫn cứ còn đó trong cảnh yên bình của chúng, ở nơi chúng ngự trị, mỗi lát
giây chúng càng thực hơn, càng gần tầm tay tôi hơn. Tôi đã đi tới bìa rừng cây gai. Chỉ cần tôi bước ra khỏi các bụi gai kín đáo, bước vào vùng đất ẩm và long lanh nước, là tôi sẽ làm bạn được với những con thú hoang trên miền đất riêng của chúng.
Không còn có gì ngăn tôi lại nữa. Những phản xạ vì thận trọng, vì muốn được bảo toàn đã không còn nữa, nhường chỗ cho một bản năng vừa thầm kín vừa mạnh mẽ, đang đẩy tôi qua một vũ trụ khác hẳn.
Và bản năng đó đang sắp được thỏa mãn.
Đúng vào lúc ấy, có một lời cảnh cáo thầm trong lòng khiến tôi dừng bước. Có một sự hiện diện gần kề đã chống lại ý định của tôi. Đó không phải là sự hiện diện của một con vật. Lúc này đây, tôi đã thuộc về thế giới của chúng rồi, tôi đã ở trong vùng hạ trại của chúng rồi. Cái sinh mệnh mà tôi đoán chừng ra - nhưng không rõ vì giác quan nào? - thuộc về giống người.
Khi ấy tôi nghe thấy những tiếng sau, nói bằng tiếng Anh: - Chú không được đi xa hơn.
Cái bóng người mảnh mai tôi chợt nhận ra dưới bóng một bụi gai khổng lồ chỉ cách tôi chừng vài ba bước là nhiều.
Bóng người đó không tìm cách trốn lánh. Nhưng vì nó hoàn toàn bất động và lại mặc một chiếc quần có yếm màu xám đậm, nên dường như đã nhập làm một với cái thân cây nó đang tựa vào.
Trước mặt tôi là một em bé khoảng chục tuổi, đầu để trần. Một mái tóc đen cắt tròn che kín vầng trán. Khuôn mặt tròn, sạm nắng, da rất nhẵn. Cái cổ dài và mảnh dẻ. Đôi mắt nâu to dường như chẳng nhìn thấy tôi, vẫn đang nhìn không chớp vào bầy thú.
Vì đôi mắt đó mà tôi có một cảm giác rất khó xử là đã bị bắt gặp vào lúc mình còn tỏ ra trẻ dại hơn đứa trẻ con ấy.
Tôi khẽ hỏi lại:
- Không được tới kia ư? Cấm à?
Cái đầu tóc tròn khẽ gật, nhưng đôi mắt vẫn bám lấy những vận động của các con thú.
Tôi lại hỏi:
- Đúng thế không?
- Còn ai biết rõ hơn cháu nữa? Cha cháu là giám đốc khu Vườn hoàng gia này.
- Chú hiểu hết rồi, - tôi nói. - Ông giám đốc đã cử cậu con trai giám sát tôi.
Thế là đôi mắt nâu to ngước nhìn tôi. Lần đầu tiên tôi được thấy khuôn mặt nhỏ sạm nắng lộ ra một vẻ phù hợp với lứa tuổi.
- Chú nhầm rồi, cháu đâu phải con trai, đứa nhỏ mang quần có yếm màu xám nói. Cháu là con gái, và tên cháu là Patrixia.
II
Đó không phải lần đầu tiên Patrixia làm ngạc nhiên một khách thăm như vậy. Vẻ tinh quái đắc thắng trên nét mặt em cho thấy rõ điều đó.
Đồng thời, và hẳn cũng để khách tin hoàn toàn, nụ cười, mắt nhìn, cái ngoẹo cổ, tất cả rộn lên một bản năng quyến rũ muôn thuở mà thơ ngây, khiến cho cái bóng trẻ thơ kia mang đúng màu vị đàn bà.
Còn tôi hẳn cũng phải có được cú choáng đó để trở lại được với cái thực: kia, một em bé gái, một thân một mình, trong rừng rậm, vào lúc bình minh, cách những con thú có vài bước chân. Tôi nói:
- Bố mẹ cháu cho cháu đi chơi sớm và xa thế ư?
Patrixia không đáp lại. Những đường nét trên người em lại bất động và nghiêm trang, khiến em lại trở về dáng dấp một cậu trai. Em ngắm nhìn đàn thú hoang, cơ hồ như tôi chưa từng có mặt ở đó.
Lúc này, từ những mạch cao của hừng đông, ánh sáng trút xuống chan hòa và rung động. Bầy thú quanh vùng nước lốm đốm ánh mặt trời nom càng dày đặc hơn, càng thực hơn.
Cái ước vọng đã run rủi tôi tới đó bỗng lại trỗi lên mạnh mẽ hết sức. Đến phút cuối cùng, một em bé gái làm sao có thể tước đoạt nổi của tôi điều đó. Tôi dấn một bước về phía cánh rừng thưa.
Patrixia vẫn không quay đầu lại, nhưng nói:
- Chú không được đi tới đó.
- Cháu sẽ cho cha cháu biết và cha cháu sẽ đuổi chú khỏi khu vườn chứ gì? - Tôi hỏi.
- Cháu không phải đứa mách lẻo, - Patrixia nói.
Em bé nhìn tôi thách thức. Danh dự trẻ thơ đầy tràn trong đôi mắt ấy. - Vậy cháu lo hộ chú sao? - Tôi hỏi nữa.
- Chú đủ lớn để tự biết giữ gìn, còn chuyện gì xảy ra cho chú, cháu đâu cần biết, - Patrixia nói.
Cớ sao một khuôn mặt chưa có vết nhăn và tươi mát đến thế lại có khả năng thay đổi như vậy? Và đột nhiên lãnh đạm đến mức độc ác như vậy? Em bé gái đó ít quan tâm tới những gì có thể xảy ra với tôi vì các cẳng vó, vì các ngà và sừng thú vật. Hẳn cô bé có thể không chút rung động nhìn tôi bị giày xéo, xổ ruột.
- Thế thì, tôi hỏi, thế thì tại sao cháu lại bảo chú...
- Chẳng có gì khó hiểu cả, - Patrixia nói.
Trí óc chậm hiểu của tôi bắt đầu làm cho cô bé khó chịu cáu kỉnh. Trong đôi mắt to sâu thẳm của cô bé có những tia sáng lóe lên.
- Hẳn chú phải thấy rằng, - cô bé nói tiếp, - các con thú đang sống với nhau bình yên, thoải mái. Lúc này là thời gian đẹp nhất trong ngày của chúng.
Phải chăng đó là do ảnh hưởng của thời khắc, của khung cảnh? Từ cô bé tí tẹo kia tỏa ra một quyền lực đặc biệt. Đôi lúc, dường như cô bé có hẳn một niềm tin chắc chắn và biết rõ một chân lý chẳng liên quan gì với số tuổi đời của em cũng như với các thông lệ của lý trí. Dường như cô bé đứng xa hẳn các thói quen trí tuệ của con người.
- Chú chẳng muốn làm cho các con thú hoảng sợ, - tôi nói với em bé. - Chú chỉ muốn sống cùng chúng một chút, sống như chúng một chút.
Patrixia nhìn chăm chú và hồ nghi để đánh giá tôi.
- Chú yêu chúng thật à? - Bé hỏi tôi.
- Chắc là như vậy.
Đôi mắt to sâu thẳm bất động một giây lâu. Sau, trên khuôn mặt nhạy cảm cực kỳ đó rạng rỡ một nụ cười tin cậy.
- Cháu cũng chắc là như vậy, - Patrixia nói.
Tôi thấy khó mà lý giải nổi vì sao nụ cười ấy cùng câu trả lời ấy lại khiến tôi vui. Tôi bèn hỏi:
- Thế chú đi được chứ?
- Không, - Patrixia nói.
Bên trên cái cổ dài và mềm mại, cái đầu có mớ tóc cắt tròn nhấn mạnh cho điều chối từ kia bằng cử động rất dịu dàng, nhưng dứt khoát.
- Vì sao vậy? - Tôi hỏi.
Patrixia không chịu trả lời ngay. Bé tiếp tục im lặng ngó nhìn tôi và suy tư. Và trong đôi mắt em tỏ ra có rất nhiều thiện cảm. Nhưng đó là một nỗi thiện cảm có tính chất đặc biệt. Vô tư, trang trọng, đầy sầu muộn, gợi mủi lòng và bất lực không sao cứu giúp được.
Tôi đã từng thấy cái vẻ lạ kỳ đó. Ở đâu vậy? Tôi chợt nhớ lại con khỉ bé tí tẹo và con linh dương nhỏ xíu đã tới thăm tôi trong gian lều. Nỗi buồn bí ẩn trong đôi mắt động vật, tôi lại thấy trong đôi mắt Patrixia, trong đáy sâu đôi mắt to và sẫm kia. Nhưng ở em bé gái này em biết đường nói ra.
- Các con thú không cần tới chú, - sau cùng Patrixia nói. - Nếu có chú, chúng không được nô giỡn yên bình, tự do, chúng thích như thế, chúng quen như thế.
- Nhưng chú yêu chúng, - tôi nói, - và cháu biết chắc là như vậy.
- Cũng chẳng ăn thua gì, - Patrixia cãi lại, - chúng đâu phải là của dành riêng cho chú. Có thế mà chú lại không hiểu. Chú không được đi!
Em bé cố tìm cách diễn đạt sao cho tôi hiểu, em khẽ nhún đôi vai mảnh dẻ, và lại nói:
- Chú từ rất xa tới, và cũng quá muộn rồi.
Patrixia càng tựa mình sát nữa vào cây gai to. Vì em mặc bộ quần áo màu xám và liền quần liền áo, nom em hình như dính liền vào cái cây.
Ánh sáng ngày càng xuyên nhiều xuống dưới các búi cây và những lùm cây lớn trong rừng rậm. Lớp thảm thực vật dưới rừng trở thành những mảng vàng nhẹ nhõm. Từ những nơi ẩn nấp đó nhiều thú hoang mới chui ra và tìm đến với cỏ với nước.
Chẳng muốn làm ngáng trở những con thú đã có mặt ở đó, những con mới tới tản khắp các vùng ven cánh rừng thưa. Có những con tiến đến sát tấm màn thực vật phía sau đó có tôi cùng Patrixia đang đứng. Nhưng ngay cả với những con thú ấy, giờ đây tôi đã hiểu rằng chúng càng xa cách với tôi, ngoài tầm tay với, khác nào những cánh đồng cỏ cho chúng ta là những đồng tuyết lưu niên trên đỉnh Kilimanjarô nằm kia nơi giới hạn của trời cao, của sớm mai và của thế giới.
- Quá xa... quá muộn... bé gái đã nói thế.
Tôi chẳng còn cách nào cưỡng lại niềm tin chắc chắn của em bé, bởi vì khi nói thế em đã có đôi mắt nhìn cũng dịu hiền như của con linh dương và cũng khôn ngoan như con khỉ bé tí.
Chợt tôi cảm được bàn tay của Patrixia nơi bàn tay tôi, và tôi đã chẳng ngăn nổi một cái rùng mình, vì em tới bên tôi mà không mảy may động đậy một ngọn cỏ một nhành lá. Chỏm tóc em cao ngang tầm khuỷu tay tôi, và so với thân xác tôi em thật nhỏ nhoi yếu đuối khôn cùng. Ấy thế nhưng, trong những ngón tay nhỏ nứt nẻ và thô nắm lấy cổ tay tôi vẫn bộc lộ một ý chí chở che tôi, an ủi tôi và Patrixia nói với tôi như nói với đứa bé được người lớn định ban thưởng vì nó đã vâng lời, một sự vâng lời khiến nó đau khổ:
- Có thể cháu sẽ dẫn chú tới một nơi khác. Ở đó chú sẽ hài lòng, cháu hứa đấy.
Chỉ tới lúc đó tôi mới nhận ra cách nói đặc biệt của Patrixia. Trước đó tôi mới chỉ thấy tâm trí mình ngạc nhiên trước một nhân vật và một cung cách ứng xử. Nhưng lúc này đây, tôi chợt thấy rằng cô bé đã dùng giọng nói theo cách thức của những người không có quyền để lọt tai kẻ khác những gì họ nói với nhau: bọn tù nhân, các kẻ đi rình mò, lũ người đi gài bẫy. Tiếng nói không có độ rung, không âm hưởng, không âm sắc, giọng nói không bộc lộ tình cảm, bí mật, giọng nói có phần như là câm lặng.
Tôi cảm thấy rằng, một cách vô ý thức, tôi đã bắt chước Patrixia trong lối hà tiện âm thanh đó.
Tôi bảo em:
- Có thể hiểu được rằng những con thú hoang dã nhất cũng là bầu bạn của cháu.
Những ngón tay trẻ con đặt trên ngón tay tôi run rẩy vì sung sướng. Bàn tay Patrixia chỉ còn là một bàn tay cô bé hạnh phúc. Và khuôn mặt hướng về phía tôi, khuôn mặt rạng rỡ và trong trẻo với đôi mắt to sẫm chợt sáng long lanh, ở khuôn mặt ấy chỉ có sự thỏa thuê của một đứa trẻ vừa được nghe lời khen nó ưng ý nhất đời.
- Chú biết không, - Patrixia nói (mặc dù xúc động đã khiến đôi má sạm nắng của em bé ửng hồng, giọng nói của em vẫn không âm vang và vẫn bí mật), - chú biết không, cha cháu quả quyết rằng cháu hòa thuận với các con thú hơn cha cháu. Thế mà, chú biết không, cha cháu đã từng sống cả đời với chúng. Cha cháu quen biết chúng hết thảy. Ở Kênya và ở Uganđa, ở Tanganiyka và ở Rôđêđi. Nhưng cha cháu nói rằng cháu khác hẳn... Vâng, khác hẳn.
Patrixia gật gật đầu, mớ tóc cắt ngắn của em hơi vắt lên, làm lộ phía trên của vầng trán càng hiền dịu và càng trắng trẻo. Mắt em nhìn vào bàn tay tôi
đang nắm gọn bàn tay em có những móng tay sứt sở và có vệt đất bao quanh.
- Chú không phải thợ săn, - Patrixia nói.
- Chính vậy, - tôi nói, - nhưng làm sao cháu biết được?
Patrixia cười thầm.
- Ở đây, - bé nói, - chẳng ai giấu nổi cháu điều gì.
- Thế nhưng, - tôi nói, - chú chưa kịp nói chuyện với ai ở đây hết, cũng chưa ai nhìn thấy chú hết.
- Chưa có ai? - Patrixia nói. - Thế Thauki thì sao, cái bác làm công việc đón tiếp đã ghi tên chú vào sổ chiều qua ấy? Còn Matra nữa, cái anh hầu mang hành lý cho chú ấy? Còn Auôri, bác quét dọn gian lều cho chú nằm ấy?
- Những người da đen ấy, - tôi nói, - không thể biết nổi chút gì về công việc của chú.
Trên nét mặt của Patrixia lại thấy vẻ tinh quái trẻ thơ đã từng hiện ra rồi em cho tôi biết em là con gái.
- Còn anh lái xe của chú nữa? - Em hỏi. - Chú không kể đến anh lái xe ư?
- Sao, Bôgô đấy ư?
- Bôgô biết rất rõ chú, - Patrixia nói. - Chẳng phải là từ hai tháng nay anh ấy đã lái xe đưa chú đi các nước, cái xe chú thuê ở Nairôbi ấy?
- Anh ta chẳng thể kể gì cho cháu nghe nhiều về chú, - tôi nói. - Không còn ai lầm lì, ít lời hơn anh ta.
- Khi nói tiếng Anh, có thể như vậy, - Patrixia nói.
- Nghĩa là...
- Hẳn rồi, cháu biết nói tiếng Kikuyu cũng chẳng kém gì anh ấy, - Patrixia giảng giải, - bởi vì chị hầu đầu tiên của cháu, hồi còn bé tí, là người tộc Kikuyu. Và cháu còn biết cả tiếng Xoahli[1], bởi vì dân bản địa thuộc tất cả các tộc đều biết nói tiếng đó. Cháu biết cả tiếng Oakamba bởi vì người đưa đường mà cha cháu ưng hơn cả là người tộc đó. Và cả tiếng Maxai nữa, vì tộc người Maxai có quyền đi ngang và hạ trại trong khu vườn này.
Patrixia vẫn tiếp tục mỉm cười, nhưng nụ cười đó chỉ biểu lộ vẻ giễu cợt và vẻ bề trên. Một lần nữa nó lại phản ánh cái niềm tin chắc chắn và thanh thản cùng những khả năng của em, ấy là có thể giao tiếp được với những đời sống nguyên sơ nhất theo những lề luật của cái vũ trụ riêng của chúng.
- Những người da đen ở đây thường tới kể cho cháu nghe hết mọi chuyện, - Patrixia tiếp. - Cháu biết rõ công việc của họ hơn cả cha cháu ấy. Cha cháu chỉ biết tiếng Xoahili, chưa kể cha cháu nói ra cứ theo lối người da trắng. Cha cháu lại nghiêm khắc nữa, nghề của cha cháu phải như vậy mà. Cháu ấy à, cháu không khi nào mách lẻo cả. Người làm, người gác, người phục dịch, ai ai cũng biết điều đó. Vì vậy nên họ có gì là nói hết với cháu. Thauki, bác thư ký, nói rằng chú mang giấy thông hành Pháp và chú ở Pari. Anh hầu mang hành lý nói với cháu rằng va-li chú rất nặng vì rất nhiều sách. Anh hầu nhà nghỉ bảo cháu: “Ông da trắng không thích anh đun nước nóng cho ông tắm, và trước khi đi nghỉ ông chẳng ăn miếng gì vì mệt quá”.
- Và chú sẽ còn ngủ, - tôi nói, - nếu như không có một vị khách tới thăm đánh thức chú dậy rất sớm. Nhưng có khi vị khách đó cũng tới báo cáo cháu rồi chưa biết chừng.
Tôi nói với Patrixia về con khỉ nhỏ và con linh dương bé tí ti. - Đúng rồi, Nicôlai và Xanhbơli đó, - Patrixia nói.
Trong đôi mắt em nhìn có chút âu yếm nhưng hơi có ý khinh thường. Em bé nói thêm:
- Của cháu cả đấy. Thế nhưng chúng vẫn cho mọi người vuốt ve, như vuốt ve con chó hoặc con mèo ấy.
- Ồ!... Thật thế ư? - Tôi nói.
Nhưng Patrixia hiểu sao nổi rằng em bé đã khiến tôi rầu lòng khi em xếp hai sứ thần bí ẩn lúc bình minh đó của tôi vào loại tầm thường và nô lệ.
- Đằng kia thì không như vậy, - bé em nói.
Cô bé chìa tay về phía những con vật tụ tập dọc theo khu đồng cỏ và xung quanh những khu dự trữ nước dưới chân quả núi lớn đầy tuyết và đầy mây. Bàn tay Patrixia run run và giọng nói em cũng run run, và mặc dầu dù em cố giữ cho giọng nói không âm vang và lạc âm sắc nhưng nó vẫn ròn rã, hoặc ít ra cũng lộ vẻ đắm đuối mê say.
- Những con thú kia chẳng thuộc về ai hết, - Patrixia tiếp. - Chúng không biết vâng lời. Ngay cả khi chúng đón nhận chú, thì chúng vẫn tự do chứ không thuộc về chú. Muốn chơi với chúng, chú phải biết rõ về gió, về mặt trời, về các đồng cỏ, biết rõ vị các ngọn cỏ, các điểm nước. Và phải biết đoán tính khí chúng. Và phải cẩn thận khi tới mùa chúng kết đôi với nhau và phải lo tới sự an toàn của những đàn con. Ta phải biết lặng im, biết đùa rỡn, biết chạy, biết thở cùng chúng.
- Cha cháu dạy cháu tất cả những điều đó chăng? - Tôi hỏi
- Cha cháu chẳng biết nổi một nửa những gì cháu biết, - Patrixia trả lời. - Cha cháu không có thì giờ. Cha cháu quá già rồi. Cháu học một mình, chỉ một mình thôi.
Patrixia chợt ngẩng mặt nhìn tôi, và tôi nhận ra trên khuôn mặt nhỏ sạm nắng, bướng bỉnh và kiêu hãnh kia một tình cảm dường như khó mà có ở đó được: một sự ngập ngừng gần như là khiêm nhường.
- Chú à... chú cứ nói nhé... liệu chừng... cháu có làm cho chú chán ngấy không nếu cháu cứ tiếp tục nói chuyện các con thú mãi? - Patrixia hỏi.
Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, em bé nói tiếp rất nhanh:
- Mẹ cháu quả quyết rằng người lớn không thể nào thích thú nổi các chuyện của cháu.
- Chú thì muốn dành cả ngày nghe những chuyện như thế, - tôi đáp lại. - Đúng đấy! Thật đấy!
Vẻ hứng khỏi của Patrixia làm tôi ngạc nhiên đến mức rất thoải mái. Cô bé bấu chắc lấy bàn tay tôi. Những ngón tay em nóng bỏng một cơn sốt đột ngột. Những móng tay em sứt sở thành răng cưa bấu sâu vào da tôi. Tôi nghĩ bụng: những dấu hiệu như vậy không chỉ biểu lộ một niềm vui vì đã thỏa thuê một thách thức trẻ thơ. Chúng biểu lộ một đòi hỏi sâu sắc và đứa trẻ không chịu chấp thuận cảnh luôn luôn phải thèm thuồng. Ô hay, lẽ nào Patrixia mà cũng bị bắt buộc phải trả giá cho các giấc mơ, các quyền lực của mình bằng sức nặng của cô đơn?
Cô bé bắt đầu cất tiếng. Tiếng nói của em, mặc dù vẫn nghẹt lại và đều đều, hoặc đúng hơn, chính vì vậy đã vang lên tựa hồ một âm vang tự nhiên của rừng rậm.
Giọng nói em giữ thăng bằng lơ lửng giữa lao động tư duy và sự cố gắng bất lực thâm nhập vào một điều duy nhất quan trọng: bí ẩn của sự sáng tạo và của tạo vật. Giọng nói em mang bộ mặt mê mẩn của xao động và âu lo, cũng tựa hồ như những ngọn cỏ cao và những búi sậy mọc hoang mang bộ mặt của những cơn gió êm đềm nhất, khiến từ trong lòng chúng thốt ra tiếng rì rào kỳ diệu muôn thuở mà luôn luôn mới mẻ.
Cái tiếng nói ấy chẳng còn ích gì hết cho một quan hệ chật chội và vô vị của con người. Nó có khả năng tạo ra một quan hệ, một sự đổi trao giữa một bên là cảnh cùng khốn của con người, cảnh tù túng nội tại của con người, với một bên là vương quốc chân lý, tự do, vô tư đang nảy nở rạng rỡ trong buổi sớm mai nơi châu Phi.
Từ những cuộc chạy chơi nào khắp khu Vườn hoàng gia, và từ những đêm thức canh chừng nào giữa các bụi gai, nhờ sự cảnh giác vô tận nào và nhờ sự thân tình bí ẩn nào mà Patrixia đã có được những kinh nghiệm giờ đây em bộc bạch cùng tôi? Những bầy thú cấm đoán đối với mọi người kia đã trở thành cái xã hội quen thuộc của em. Em biết rõ các bầy, các đàn, các nhân vật. Em thâm nhập được vào đó, ở đó em có các thói quen, có các kẻ thù, có các thứ em nâng niu yêu quý.
Em biết rõ con trâu kia trước mặt chúng tôi đang đầm mình trong bùn lỏng, tính nết nó rất hung hãn. Em biết rõ con voi già kia với đôi ngà gãy, nó nghịch ngợm ngang với con voi non nhất trong bầy, Còn con voi cái vợ nó với bộ da màu xám gần như đen, cái con voi lúc này đang lấy vòi lùa đàn con xuống nước, tính ưa sạch sẽ của nó gần như là một căn bệnh.
Giữa đàn linh dương mỗi con mang trên bộ lông vàng ở sườn một vệt đen hình mũi tên kia, đó là những con linh dương thuộc loại duyên dáng nhất và nhút nhát nhất, Patrixia chỉ ra được những con nào dám đón em không chút nghi ngại. Và trong đàn hươu ở bụi rất bé nhỏ với những cái sừng xoắn nhọn, những con vật rất dũng mãnh mặc dù yếu đuối, em là bạn của những con gai ngạnh nhất hạng.
Trong những bầy ngựa vằn, em nói, có một con chính mắt em chứng kiến, đã thoát ra khỏi một đám cháy rừng. Mọi người có thể nhận ra nó nhờ các vết lửa để lại những mảng nâu trên những vệt màu đen.
Em đã dự một cuộc chọi nhau giữa những con tê giác, và cái con đực khổng lồ đang đứng sững cách chúng tôi vài bước, sừng ngước lên trời như một khối đá tiền sử, đã từng chiến thắng. Nhưng nó vẫn giữ lại vết sẹo dài, sâu và kinh tởm trên mình mà ta chợt thấy khi đàn cò bạch, loài chim đưa đường cho nó, bỗng chốc bay khỏi lưng nó.
Em biết những chuyện xảy ra theo tháng năm của đàn hươu cao cổ, của những con linh dương có bướu to lớn, những con đã trưởng thành, những con còn bé, từ thế hệ này sang thế hệ nọ.
Những trò chơi, những cuộc ẩu đả, những chuyến di trú, những cuộc tình.
Khi tôi nhớ lại câu chuyện ấy, tôi thấy dù muốn hay không mình vẫn nhớ theo một hệ thống, có phương pháp, có trước có sau. Nhưng Patrixia thì em nói tất cả mọi chuyện trong cùng một lúc. Những thói quen của logíc không hề can thiệp vào lời nói của em. Em tự thả mình theo ảnh hưởng của thời điểm, theo những mối liên hệ nguyên sơ nhất, những gợi hứng nhờ giác quan và bản năng. Em đã hành động như những sinh mệnh giản đơn và đẹp đẽ trước mắt chúng tôi kia và đang sống bên ngoài mối âu lo của con người, chỉ vì chúng tôi không hề biết tới cám dỗ vô vọng muốn đo lường thời gian, và chúng sinh ra, tồn tại, chết đi mà chẳng có chút nhu cầu tìm hiểu vì sao.
Cái bề dày sâu xa và trong suốt của đời sống động vật chợt tới với nhận thức của tôi như thế, cũng tựa hồ như thảm thực vật ở dưới rừng chợt được ánh mặt trời thấm xuống.
Tôi đã nhìn thấy những chốn nghỉ đêm, nơi đó từng bộ lạc đã được bình minh lôi ra, và tôi đã thấy những nơi chúng tản đi sau khi nghỉ ngơi trong đầm nước. Và các cánh đồng, các ngọn đồi, các khu rừng bụi, các khu rừng tái sinh, các miền xa-van của khu bảo tồn mênh mông mà chiều sẩm vừa qua tôi đã đi qua, đối với tôi đã trở thành những lãnh thổ, những nơi trú ngụ, những ngôi nhà, những tổ quốc của từng chủng, từng ngành.
Ở đó những con linh dương đang nhảy nhót, ở đó những con trâu đang gặm cỏ. Ở đó các con ngựa vằn đang phi, và ở đó những con voi đang nô rỡn.
Tôi chợt nhớ ra rằng trong đám dân cư ấy còn thiếu hẳn một bầy, và có lẽ là bầy đẹp đẽ hơn cả.
- Thế còn những mãnh thú? - Tôi hỏi Patrixia.
Câu hỏi đó chẳng làm em bé ngạc nhiên chút nào. Có thể tưởng chừng như em bé chờ câu hỏi ấy và chờ vào đúng lúc tôi hỏi em.
Đến lúc đó, tôi cảm thấy rằng hai chúng tôi đã đạt tới một độ hiểu nhau, lúc ấy sự khác nhau về tuổi tác chẳng còn có nghĩa gì nữa. Thông qua các con thú hoang, một hứng thú và một nhu cầu chung mãnh liệt và thẳng thắn đã khiến một đứa trẻ và người lớn đã lâu rồi chẳng còn là người lớn nữa nên tòng phạm và bình đẳng với nhau.
Em bé gái nhắm mắt lại. Một nụ cười chỉ dành riêng cho chính em, một nụ cười giống như khi ta thấy những khuôn mặt rất nhỏ nhoi đang say giấc nồng, nụ cười chúm chím nhưng chứa chất đầy hạnh phúc, huyền bí, nụ cười ấy như từ trong lòng làm rạng rỡ các nét trên mặt Patrixia. Sau rồi em hé mi và trao cho tôi một chút của nụ cười em. Đó như là một thứ lời ước hẹn, một thứ liên minh rất quan trọng.
- Cháu sẽ đưa chú đi tới nơi nào phải đi, - Patrixia nói.
- Khi nào?
- Chú đừng vội vã quá như vậy, - em bé gái trả lời dịu dàng. - Với tất cả các con thú, cần phải rất kiên tâm. Cần phải có thời gian.
- Bởi vì rằng... chính là vì...
Tôi không nói được hết câu. Bàn tay Patrixia mà cho tới khi ấy tôi vẫn thấy em đặt trong tay tôi một cách tin cậy, bỗng rụt lại bằng một cử chỉ bất chợt và phũ phàng. Giữa hai con mắt to và âm thầm chợt mất hết mọi biểu cảm, tôi thấy có một nếp nhăn giống như một vết hằn trước tuổi.
- Chú định đi khỏi nơi đây rất sớm chứ gì? - Patrixia hỏi. Em nhìn tôi một cách lạ kỳ khiến tôi tránh một câu trả lời rõ rệt.
- Chú chưa biết được... - tôi nói.
- Chú đã nói dối, - Patrixia nói. - Chú biết rất rõ. Chú đã báo cho bộ phận đón tiếp rằng sáng mai chú sẽ rời khu Vườn này.
Vệt hằn giữa hai cặp lông mày càng hiện ra rõ hơn.
- Cháu quên bẵng mất chuyện đó, - em bé gái nói.
Cặp môi em mím chặt lại, nhưng em vẫn không kiềm chế nổi chúng khẽ run run. Nhìn vào đó thật khổ tâm.
- Cháu xin lỗi vì đã làm mất thì giờ, - em lại nói thêm.
Em quay mặt đi về phía những con thú thanh bình. Tôi nói một cách vụng về:
- Dù chú có ra đi, thì giờ đây chú cháu ta cũng thân nhau rồi.
Patrixia bằng một cử động phũ phàng và câm lặng quay lại đối mặt với tôi:
- Cháu không có bạn, - em nói. - Chú cũng như mọi người thôi.
Mọi người... Những người đi ngang, những kẻ tò mò, những người lãnh đạm. Những con người của các thành phố lớn xa xôi dừng xe hơi tới đây cướp đoạt lấy một thoáng cuộc sống hoang dã rồi ra đi.
Tôi tưởng chừng như thấy rõ nỗi cô đơn lại phủ lớp trước mặt em bé gái.
- Cháu không có bạn, - Patrixia nhắc lại.
Không làm lạo xạo một nhành lá khô, em bước đi, bước ra khỏi vùng cây gai kín đáo, tiến vào cánh rừng thưa. Đầu em hơi so lại trong đôi vai, và đôi vai nhao về phía trước.
Sau rồi cái bóng nhỏ màu xám với bộ tóc cắt tròn đi vào cái tấm thảm run rẩy do các con thú rừng sâu tạo thành, nơi chân núi Kilimanjarô.
III
Lúc ấy tôi cảm thấy một nỗi lo sợ cảnh cô đơn khủng khiếp đến nỗi tôi cố tình không tin có chuyện đó khi nó xảy ra. Nỗi tuyệt vọng ấy thực quả rất vô lý. Nó không thể có thực cho được, không thể có một ý nghĩa, không thể có một bản chất cho được. Tôi là người từng có nhiều bạn, có những người bạn trung thành, tin cậy và chọn lọc, từng được thử thách suốt một cuộc đời đã dài rồi. Sắp tới đây, tôi sẽ kể cho họ nghe chuyện viễn du châu Phi của tôi. Còn họ, họ sẽ kể cho tôi nghe những niềm vui và những nỗi sầu muộn đã xảy tới với họ vào thời gian tôi vắng nhà. Mọi thói quen cũ đang đợi tôi tại một ngôi nhà đã được tạo dựng cho phù hợp với tính khí tôi. Và còn công việc của tôi nữa, nó cũng đủ để đem lại cho tôi vô số bạn bè và người thân thuộc.
Tôi gom góp những lý lẽ và những trụ đỡ cho cuộc đời mình, nhưng vô vọng. Không có gì có thể thay thế được sự sung mãn kỳ diệu tôi vừa trải qua vài giây trước đây khi đám cư dân trong khi rừng thưa dường như còn muốn đánh bạn với tôi. Giờ đây tôi cô đơn, và lạc lõng, và bị bỏ rơi, bị chối từ, bị vứt bỏ vô hy vọng, không lối thoát cho tới những ngày cuối đời mình.
Patrixia đã nhường lại cho tôi nỗi giày vò đau khổ của em.
“Mình phải đi theo em mới được, tôi tự bảo thế. Phải che chở cho em mới được”.
Nhưng tôi vẫn chẳng làm gì. Tôi chợt thấy lại tuổi tác mình, lại có ý thức về sự nặng nề thân xác mình, các cử động chậm chạp vụng về của mình, và thân phận con người văn minh của mình.
Một lần nữa tôi lại lý sự.
Che chở cho Patrixia! Trong đám cỏ trơn, trong đám nước quanh co, giữa đám thú rừng nhanh nhẹ, câm lặng, với các giác quan sắc bén và dữ tợn, lao vào đó ư để đi theo một em bé gái quen sống giữa rừng rậm và thú
rừng như một nữ thủy thần sống dưới đáy nước sâu, như một khí thần sống trên ngọn cây cao?
Thôi đi, cần phải trở lại với thiên lương chứ.
Người cai quản khu Bảo tồn này, người canh giữ các thú hoang và người chủ của chúng, người đó chính là cha của Patrixia. Những giấc mơ thao thức của con gái ông, chính ông có trách nhiệm chứ. Đó chẳng phải công việc của một người xa lạ, một người đi ngang đường.
Tôi quay lưng lại khu rừng thưa và rời bỏ nó, đi về phía khu trại dành cho những khách thăm khu Vườn hoàng gia.
Khu trại đó đã được thiết kế nhằm không làm thay đổi phong cách tự nhiên. Được che giấu sau những cây gai lớn, một chục gian lều tròn với những bức vách bằng bùn trát vôi và những mái tròn lợp lá, nom giống hệt một xóm nhỏ của dân bản địa.
Khu trại khi ấy vắng người: không phải mùa du lịch, hơn nữa, khi ấy cả nước Kênya còn đang sống trong nỗi kinh hoàng vì nạn Mô-Mô[2].
Khi trở về chỗ nghỉ mà chiểu sẩm hôm qua tôi đã tình cờ trú chân, con khỉ tí xíu đợi tôi ở hàng hiên. Nó vẫn mang chiếc mặt nạ bằng satanh đen, và đôi mắt nó vẫn giữ nguyên vẻ khôn ngoan sầu muộn dường như hỏi tôi: “Thấy chưa, đã chẳng nói trước cho biết là gì?”
Nhưng thay vì tan biến trong không gian, như sáng nay lúc bình minh nó đã xử sự như vậy, lúc này nó lại nhảy lên vai tôi.
Khi ấy tôi nhớ tới cái tên Patrixia đã đặt cho nó, và tôi nói khẽ: - Nicôla... Nicôla...
Nó giã giã vào gáy tôi.
Tôi mở rộng bàn tay, chìa ra cho nó. Nó leo vào ngồi giữa lòng bàn tay. Nó nặng bằng một cuộn len. Mơn man bộ lông ngắn của nó thật thích thú. Nhưng mà, được thuần hóa đến mức ấy và nhanh đến thế, nó chẳng hơn gì một bạn tù dịu hiền chung xiềng với bạn tù khác.
Tôi đặt nó lên bao lơn chạy dọc hàng hiên và nhìn vội về phía khu rừng thưa mặc dù tôi không có ý định đó. Cả ở đó nữa cũng đã hết những cái duyên hấp dẫn rồi.
Mặt trời đã rực nóng khiến cho mặt đất đã mất hết những bóng, những hình, những màu. Tất cả đã trở nên khô khan và tỏ nét, bằng lặng và buồn. Thế giới đã mất đi cái bề sâu. Lửa rực trắng của tuyết trên núi Kilimanjarô đã tắt. Các bầy thú hoang bắt đầu vắng đi, tan đi.
Patrixia lúc này ở đâu, làm gì?
Tôi đi vào trong lều.
Lều gồm có một phòng ăn và một buồng ngủ, đồ đạc hết sức đơn sơ nhưng hoàn toàn thích hợp với cuộc sống trong khu trại. Từ khu nhà chính này có một hành lang, phía trên chẳng có gì che và hai bên viền dày cành lá, dẫn tôi tới một gian lều nhỏ hơn. Ở đó có nhà bếp và một phòng tắm. Nước nóng được dẫn từ một nồi hình trụ bằng tôn nằm bên ngoài và kê trên những hòn đá bọt, Lửa hừng hực dưới nồi do một người da đen phục dịch đun. Hẳn chính anh hầu đó là người đã kể cho Patrixia biết rằng chiều tối qua tôi đã từ chối những chăm sóc của anh.
“Patrixia... Lại nghĩ đến nó rồi.. tôi tự nhủ. Cần phải bỏ qua nỗi ám ảnh đó đi, và nghĩ tới công việc chính của ta thôi.”
Trong đám giấy tờ của tôi có những thư giới thiệu. Một lá thư có tính chất chính thức phủ toàn quyền Nairôbi trao cho tôi để đưa cho Jôn Blit, giám đốc khu Bảo tồn này. Một thư nữa là thư riêng tư để gửi cho vợ ông ta. Thư đó của một trong các chị bạn học bà ta tình cờ gặp trước khi rời nước Pháp.
Trước lều, tôi thấy Bôgô, anh lái xe của tôi: anh tới xem tôi có ra lệnh gì không. Bộ quần áo bằng lụa dày, đồng phục của hãng thuê xe anh làm phát cho, với hàng khuy dệt bằng kim loại trắng, anh mặc lõng thõng trên tấm thân gầy guộc. Khuôn mặt không rõ tuổi, màu đen xỉn, dưới vầng trán cạo nhẵn và làn da nhăn nheo, nom giống đầu một con rùa.
Khi trao các lá thư cho Bôgô, tôi nghĩ rằng cái con người cực kì lầm lì kia, hơn thế nữa một con người tỏ ra dè dặt dữ tợn đối với người da trắng, thế mà lại bộc lộ mọi chuyện với Patrixia. Tôi đã sắp định hỏi anh duyên cớ vì sao. Nhưng tôi chợt nhận ra đúng lúc rằng, suốt hai tháng sống chung với anh trên những lộ trình gian nan, tôi chưa từng một lần lập được với Bôgô một mối quan hệ không dính dáng ngặt nghèo tới các nhiệm vụ của anh là điều anh thực hiện hết sức xuất sắc.
Khi anh đi rồi, tôi lại nhìn ra khu rừng thưa một lần nữa. Ở đó đã vắng mọi vật. Lúc ấy tôi cảm thấy mình tự do đến mức lạ kỳ và bỗng nhận ra rằng mình đói quá, khát quá.
Bôgô đã đem thùng đựng đồ ăn thức uống của chúng tôi gửi vào nhà bếp. Nhưng cái lò than củi và những xoong nồi treo trên tường tôi chẳng cần. Một bình thủy đầy nước chè, một bình nữa đầy cà phê, vài chai bia, một ve rượu uýt-ki, bánh khô và đồ hộp, tôi còn cần gì thêm nữa trong một cuộc dừng chân ngắn ngủi đến thế?
Tôi ngồi ăn trên hàng hiên. Con khỉ nhỏ và con linh dương bé tí đến với tôi. Con khỉ vớ lấy miếng vả khô. Con linh dương nhận một miếng đường. Núi Kilimanjarô phủ đầy hơi nóng bốc thành những đám mây nhỏ. Tôi đã lấy lại được sự bình tâm.
Bôgô trở lại với một phong bì thư.
- Của bà ấy gửi, - anh nói.
Trong lá thư viết chữ nghiêng, cao và mảnh, và viết bằng tiếng Pháp. Xibin Balit yêu cầu tôi tới thăm bà càng sớm càng tốt. Có thể tới ngay nếu tôi vui lòng.
IV
Ông giám đốc khu Vườn hoàng gia đã dựng ngôi nhà riêng không xa khu trại của khách là bao. Nhưng những rừng cây cao đã ngăn cách hoàn toàn khu đất sửa sang thành hình trái hạnh nhân đó, trên mảnh đất ấy mọc lên ngôi nhà lợp lá màu nâu. Các bức tường sáng trắng như thể mới quét vôi lại, và ta cũng có cảm giác rằng nước sơn cũng khô trên các cánh cửa sổ màu xanh rất dịu.
Những cánh cửa sổ dọc phía trước nhà đều đóng kín khi tôi từ con đường mòn giữa những bụi cây gai bước ra. Nhưng ở trong nhà hẳn là người ta đang nóng lòng chờ tôi tới, bởi vì ngay trước khi tôi đặt chân tới trước cửa ra vào thì cánh cửa mở và một thiếu phụ còn trẻ, người cao tóc vàng, mặt mang kính râm, hiện ra trước khung cửa. Không đợi tôi có thời giờ chào hỏi, bà ta nói bằng tiếng Anh, giọng hấp tấp líu ríu, hơi hổn hển, có lẽ vì bà ta muốn diễn đạt quá nhiều điều một lúc.
- Tôi xin lỗi, - bà ta nói, - vì đã làm phiền ông quá thế này. Xin mời ông, mời ông vào... Tôi sung sướng được gặp ông không phải chờ đợi chút nào... Và rất biết ơn ông đã không bắt tôi chờ đợi... Xin mời vào, trời nắng khủng khiếp...
Xibin Balit để một bàn tay ngang tầm đôi mắt kính râm bà ta mang và chỉ hạ tay xuống để đẩy đóng cánh cửa lại bằng một cử động vội vã.
Ở rừng rậm chói chang bước vào đây, thấy căn phòng tối hẳn lại. Tôi chỉ thấy lờ mờ những đường nét của người thiếu phụ trẻ lại càng chẳng rõ chút gì về người hầu da đen mới chạy tới.
Xibin Balit nói với anh ta vài tiếng Xoahili với một vẻ kích động. Anh ta bỏ đi và còn lại chúng tôi với nhau.
- Xin mời ông lại đây, mời ông, - bà ta bảo tôi, - ở trong này tối lắm.
Trong gian phòng rộng và sâu dùng làm phòng khách, ánh sáng không lọt vào từ phía cửa mặt đã bị che kín bằng các cánh cửa mà từ những cửa sổ mở ra sân sau, sân ấy cũng bị cây che gần kín. Ánh mặt trời chói chang càng bị làm dịu đi hơn nữa vì những tấm rèm vải sợi bông dày màu xanh đậm.
Khuôn mặt và thân thể người thiếu phụ trẻ chợt dịu đi, như thể bà ta đã tìm được nơi trốn tránh. Vậy mà bà ta vẫn không gỡ cặp kính chống nắng ra.
- Tôi xin lỗi vì quá đường đột, - Xibin Balit nói, lúc này giọng bà ta đã mang một âm sắc hoạt và dịu. - Tôi xin lỗi thực đấy. Bởi vì ông phải hiểu Lidơ đối với tôi là như thế nào.
Thiếu phụ trẻ dừng lại một lát và nhắc lại, rõ ràng chỉ là nhắc lại cho riêng mình thôi, và cũng chỉ vì một niềm vui được nhắc tới cái tên ấy thôi.
- Lidơ... Lidơ Đácboa.
Chợt bà cất tiếng hỏi một cách e dè:
- Ông nghe tôi phát âm còn đúng không?
- Như một người Pháp vậy, - tôi nói (và đúng là như thế). - Điều đó không làm tôi ngạc nhiên sau khi đã đọc thư bà viết.
Đôi má thiều hồng sắc của thiếu phụ trẻ hơi ửng lên. Vì có cặp kính râm che mất đôi mắt bà ta, nên không thể hiểu được chút ửng hồng đó là do thích thú hay do lúng túng.
- Tôi hy vọng rằng viết cho ông bằng tiếng Pháp như vậy khiến ông tới nhanh hơn, - Xibin nói.
Bà ta bước một bước tới phía tôi và nói tiếp:
- Trời hỡi! Không thể nghĩ được rằng mới cách đây non hai tháng ông còn ở gần Lidơ... Chúng tôi cũng có viết thư cho nhau khá đều đấy... Nhất
là tôi... Nhưng với một người đã gặp Lidơ, đã trò chuyện cùng Lidơ, thì đó là một chuyện hoàn toàn khác.
Bà ta có một cử chỉ như muốn nắm tay tôi, nhưng lại không nắm, và nói tiếp:
- Ông hãy kể đi, hãy kể đi... Lidơ ra sao? Lidơ làm gì?
Tôi cố nhớ lại cho chính xác những tình tiết về cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với cô bạn thân của Xibin Balit mà tôi được biết rất ít. Tôi chỉ thấy lại trong ký ức một khuôn mặt khá xinh đẹp, khá vui tươi, nhưng cũng rất giống với khá nhiều người khác, và hơi quá sôi nổi và tự tin. Cô ta liệu đã có những nét hiếm hoi gì, những phẩm chất gì khiến cho có thể được chú ý và thích thú đến thế?
- Thế rồi... Thế rồi sao nữa...? - Xibin Balit hỏi.
- Và, - tôi nói, - Lidơ tiếp tục làm đại diện cho một công ty mỹ phẩm Mỹ tại nước Pháp... Từ khi Lidơ ly hôn, cô sống đàng hoàng với một họa sĩ... Thực ra tôi quen biết anh ấy nhiều hơn.
- Lidơ hạnh phúc, hẳn thế chứ?
- Tôi không rõ lắm, - tôi nói. - Mọi người có cảm giác là Lidơ hơi chán nản, đang trống rỗng, và đôi khi ước ao cuộc sống của bà.
Xibin chậm rãi gật gù, khuôn mặt vẫn che kín bằng cặp kính râm, và từ từ nói:
- Lidơ đã đi phù dâu cho tôi. Chúng tôi cùng tới Kênya với nhau. Tôi đã làm lễ cưới tại ngôi thánh đường trắng nằm giữa Nairôbi và Naivasa. Hẳn ông phải biết ngôi thánh đường ấy.
- Còn ai là không biết thánh đường ấy nữa? - Tôi nói.
Ngôi thánh đường rất nhỏ ấy với đường nét dịu dàng và giản dị, là công trình xây dựng của các tù binh Italia trong những giờ phút rảnh rỗi hồi họ
xây dựng đại lộ. Góc khu rừng nơi họ phát hoang đặt địa điểm thánh đường nhìn xuống thung lũng Ríp mênh mông và uy nghi ở xa dưới kia hai ngàn thước tung ra những đợt sóng lặng im, những ngọn sóng đầu khởi nguồn từ trong lòng châu Phi da đen và dừng lại ở những xứ cát bán đảo Xinai.
- Bà có nhiều may mắn lắm, - tôi nói. - Tôi nghĩ rằng, trên đời này chẳng còn có địa điểm nào đẹp hơn thế nữa.
Thay vì đáp lời tôi thiếu phụ trẻ mỉm cười với tất cả vẻ trìu mến mà một kỷ niệm hào hứng nhất có thể gợi ra. Và dường như bà ta muốn đem lại cho nụ cười ấy một biểu đạt trọn vẹn, bà nhấc kính ra với một cử chỉ của người mộng du.
Chẳng biết vì sao bà ta lại che mắt mình đi? Đôi mắt to, hơi thuôn về hai phía thái dương tóc xám đậm lơ thơ những sợi sáng màu hơn, đôi mắt ấy là vẻ đẹp duy nhất thực sự của Xibin, ít ra là khi có nhiều xúc động mãnh liệt làm chúng sáng lên như lúc này đây.
Và chính nhờ ánh sáng, nhờ sự tươi mát, nhờ vẻ thơ ngây của đôi mắt ấy mà tôi chợt thấy, trái hẳn lại, khuôn mặt thiếu phụ trẻ đó đã bị tuổi xuân bỏ ra đi sớm biết bao. Nước da bà nhợt và nhạt, ngay cả mặt trời châu Phi cũng không khiến nó ửng lên nổi. Tóc bà không có sức sống. Những nếp nhăn sâu và khô hằn trên trán, cắt ngang gò má, băm chém vào hai bên mép.
Dường như khuôn mặt kia là của hai người đàn bà khác hẳn nhau. Một người có đôi mắt. Một người có tất cả các thứ còn lại.
Lidơ Đácboa chưa tới ba chục tuổi. Liệu có thể chăng cái khuôn mặt không sắc màu và tàn tạ trước mặt tôi đây cũng có cùng thời gian tồn tại như vậy?
Xibin đem lại cho tôi câu giải đáp một cách vô tình:
- Lidơ và tôi, chúng tôi cùng tuổi, chỉ cách nhau vài tuần thôi, - bà ta nói. - Và chúng tôi đã sống năm năm liền không rời nhau trong một trường nội trú gần Lôđan. Khi hai chúng tôi ở đó thì chiến tranh bùng nổ. Thầy mẹ
chị ấy sống ở Pari, còn ông cụ nhà tôi làm việc tại Ấn Độ, các cụ đều muốn chúng tôi ở đó trong những ngày tháng khó khăn.
Xibin cười nói một cách trẻ trung dịu hiền, và nói tiếp:
- Lidơ hẳn đã kể cho ông nghe các chuyện đó, tôi tin chắc là như vậy. Nhưng có điều chị ấy không thể kể ra được, ấy là về sắc đẹp của chị ngay từ hồi đó và chị đã biết cách ăn mặc, biết cách làm đầu tóc hơn hẳn tất cả các cô gái khác. Một cô gái Pari thực thụ từ lúc mới mười lăm tuổi!
Từ kỷ niệm này qua kỷ niệm khác, từ chi tiết này sang chi tiết kia, Xibin Balit kể cho tôi nghe câu chuyện thời đó. Tôi hiểu ngay rằng bà ta đã cho mời tôi lại và sốt lòng chờ tôi tới chẳng phải để nghe chuyện tôi mà để nói cho tôi nghe.
Vì thế mà tôi biết rằng cụ thân sinh ra Xibin, vào thời kỳ cuối chiến tranh, đã được bổ nhiệm một chức quan trọng ở Kenya, và Xibin, khi tới đó tìm cha đã nài nỉ Lidơ Đácboa đi cùng. Bà ta đã gặp Balit ngay khi tới xứ này, và cuộc hạnh ngộ đó đã dẫn họ một buổi sáng tới ngôi thánh đường màu trắng nhìn xuống thung lũng Ríp mênh mông và uy nghi.
- Lidơ sau đó đã ra đi liền, - Xibin kể nốt, - và sau đó chẳng bao lâu ông cụ nhà tôi được bộ Thuộc địa gọi về Luân Đôn rồi cụ mất ở đó mà tôi chẳng được gặp lại nữa.
Bà ta lặng im, Lẽ ra tôi nên cáo từ. Xibin đã nhận được và thậm chí đã nhận trọn vẹn mọi thứ gì bà ta trông chờ ở tôi, và cũng đã tôi lúc tôi bắt đầu viếng thăm khu Bảo tồn. Thế nhưng tôi vẫn nán ngồi lại, mà chẳng hiểu lý do vì sao nữa.
- Ông Balít không có nhà? - Tôi hỏi.
- Ông ấy luôn luôn đi khỏi nhà trước khi tôi thức dậy, và chẳng khi nào ông ấy về nhà đúng giờ cả, - Xibin nói (bà ta phác một cử chỉ mơ hồ). - Có khi nào các con thú để cho ông ấy có thì giờ mà thở.
Chúng tôi lại lặng im càng làm nổi rõ ảnh hưởng của căn phòng chúng tôi đang ngồi. Mỗi màu sắc, mỗi đồ vật đều đem lại một cảm giác yên ổn, dịu dàng: các bức tường màu mật, ánh sáng được làm dịu đi, những tấm chiếu màu sáng trên nền đất, những bức họa lồng trong các khung cổ và những cành cây trĩu nặng những đóa hoa to nở tung trong những bình bằng đồng. Thị hiếu và sự chăm chút hết sức cẩn thận bộc lộ trong từng vật một. Tôi tỏ lời khen điều đó với Xibin. Bà ta nói khẽ:
- Tôi cố tìm cách quên đi rằng trong vòng ba trăm cây số quanh đây không có một thành phố nào và hễ ra khỏi cửa nhà này là có những con thú thuộc loại nguy hiểm đệ nhất.
Đôi mát người thiếu phụ trẻ đưa nhìn từ đồ vật này sang đồ vật kia như từ người bạn thân thiết này sang nguôi bạn thân thiết khác. Có những đồ vật rất đẹp.
- Các cụ bên chồng tôi đã đem chúng tới châu Phi khi các cụ tôi ở hẳn nơi này vào đầu thế kỷ, - Xibin nói. - Đồ đạc của chồng tôi đều là của giòng họ.
Xibin dừng lại như là ngẫu nhiên, để rồi nói thêm với một vẻ giả bộ khinh xuất:
- Một giòng họ rất lâu đời... Ngành trưởng đã mang tước Nam từ thời giòng họ Tuđo[3].
Trong lát giây, trên khuôn mặt người thiếu phụ trẻ biểu lộ một điều khó ăn nhập nhất với những đường nét của bà ta, và với cuộc sống hiện tại của bà ta: một sự thỏa mãn hão huyền, lối tư sản. Phải chăng đó là một phản xạ sâu xa của bản chất bà ta? Hay đó cũng là một phương tiện tự vệ nội tâm cũng như các đồ đạc, các vải vóc trong nhà này?
Bà ta vuốt ve một cách máy móc một chiếc ghế bành nhỏ làm bằng gỗ quý, một thứ đồ chơi thú vị đã được làm từ hồi thế kỷ thứ XVIII bởi một nghệ nhân thiên tài nào đó.
- Chồng tôi đã ngồi cái ghế này khi ông ấy còn bé tí, và cả ông cụ thân sinh, và cả cụ thân sinh ra cụ thân sinh, Xibin nói. Và tôi cũng chứng kiến ghế này con gái tôi dùng.
- Patrixia! - Tôi thốt lên.
Tôi đã hiểu vì sao tôi còn nán ngồi lại.
- Ông biết tên cháu? - Xibin hỏi. - Phải, đúng rồi, dĩ nhiên là thế, Lidơ đã kể ông nghe mà!
Điều đó không đúng. Trong giây lát tôi nghĩ mình sẽ nói ra là đã gặp Patrixia trong trường họp nào. Nhưng một phản xạ mà tôi không hiểu nổi đã khuyên tôi hãy chọn con đường tiện lợi là nói dối mà chính Xibin đã đưa lại cho tôi.
Ông biết tôi mơ ước gì cho Patrixia chứ? - Thiếu phụ trẻ lại nói tiếp một cách khoái hoạt. - Tôi muốn cháu sẽ qua Pháp học tập, ở đó cháu sẽ quen cách ăn mặc, cách chải chuốt, và cách cư xử như thể cháu sinh ra tại Pari vậy. Như là Lidơ từng biết cách làm như vậy.
Trong đôi mắt Xibin một lần nữa lại thấy sáng lên niềm tin và khí sắc của tuổi thơ. Chợt bà ta ngừng nói, rùng mình, và với một cử động mà chắc chắn bà không để ý vì nó đã diễn ra thực nhanh và theo bản năng, bà đeo lại cặp kính râm.
Người da đen tôi nhìn thấy khi đó ở giữa phòng khách đi tới không gây một tiếng động nhẹ, một người đã có tuổi, đã nhăn nheo, chột một mắt, mặc một chiếc quần bó ống bằng lụa dày màu nâu và một chiếc sơ mi rách. Không thể biết người đó cao thấy bao nhiêu, vì bác ta đứng gập người trên đôi xương chậu dị dạng.
Người đó nói vài lời bằng tiếng Xoahili rồi ra đi.
- Kihôrô là người tộc Aokamba, - thiếu phụ trẻ nói với tôi bằng giọng thấp và mệt mỏi. - Bác ta đã hầu hạ chồng tôi từ lâu, vừa làm người dẫn đường vừa làm người đuổi thú. Bác ta không làm công việc gác Vườn được,
ông đã thấy đó, bác ta bị thú dữ làm cho thành tàn tật ra sao. Vì thế bác ta có nhiệm vụ trông coi Patrixia. Bác ta đã chứng kiến lúc cháu bé ra đời. Cháu yêu bác ta lắm. Bác ta vừa tới bảo cho tôi biết là bác vừa mang bữa điểm tâm cho cháu.
- Lúc này cháu ở nhà chứ? - Tôi hỏi.
- Cháu mới ngủ dậy, - Xibin nói.
- Vậy ư... Nhưng mà...
Tôi ngừng lại đúng lúc, đủ để người thiếu phụ trẻ hiểu sự ngạc nhiên của tôi theo cách của bà ta.
- Cháu dậy hơi muộn. Tôi biết thế, - bà ta nói. - Nhưng ban ngày Patrixia chạy chơi khiếp lắm kia. Cháu cần được ngủ thật nhiều.
Xibin nhìn tôi một lát qua làn kính râm và nói nốt:
- Tôi sẽ đi gọi cháu. Để rồi ông có thể kể về cháu với Lidơ.
Tôi đi tới bên một cửa sổ, phía các cánh cửa không khép, và vén các tấm rèm. Cửa sổ trông ra một sân trong rộng lớn xung quanh là các phòng ở. Dọc theo các bức tường là một dãy nhà cầu thô sơ lợp lá. Xibin đi dọc khu nhà cầu đó nhưng chẳng thèm chú ý tới những hoa phượng, hoa tử uy, tới những trận mưa rào màu vàng nở rộ thành các bụi tía, thiên thanh và vàng lửa ở bốn góc sân trong. Thế nhưng Xinbin lại không vào ngay phòng của Patrixia và mặc dù có sự sợ hãi bệnh hoạn đối với mặt trời, thiếu phụ trẻ vẫn đi vào giữa khu vực trống trơn không có gì che chở tránh sức nóng và ánh sáng gay gắt. Tới đó, bà ta dừng lại trước một khoảng đất vuông với những luống đất thấp mà đất mùn nhân tạo hẳn đã được đem từ nơi xa tôi và nước tưới thì theo những rãnh nhỏ dẫn từ ngoài về, trên đó mọc lên những hoa cúc Zinnia, hoa dã yên, hoa cẩm chướng nghèo nàn, yếu ớt, nhợt nhạt.
Xibin cúi xuống những loài hoa châu Âu, nắn lại một thân cây, vuốt lại một đài hoa. Các động tác của bà ta không biểu lộ một sự chăm chút dịu
dàng. Trong việc bà ta cúi xuống ngẩng lên có một thứ gì như là lời kêu gọi, như là lời cầu nguyện. Phải chăng chỉ để tránh cô đơn?
Tôi được dứt ra khỏi các ý nghĩ đó vì tiếng động của một chiếc xe hơi phóng thật nhanh và hãm kít lại trước cửa nhà, ở phía các cánh cửa sổ hạ xuống che kín cả bức tường.
V
Bánh xe hơi khi hãm kít lại trên mặt đất khô vẫn còn đang rung lên, thì người lái xe đã vào tọt trong phòng khác rồi. Rõ ràng là người đó không nghĩ tôi sẽ tại đây. Nhưng ngay sau khi trông thấy tôi, thân hình cao và to của ông ta không hề ngáng trở ông ta đứng ngay lập tức đã lao vùn vụt lạ lùng. Ông ta dừng lại với vẻ nhẹ nhàng và chính xác của những người chuyên nghiệp biểu diễn thăng bằng cơ bắp, những tài tử nhảy múa, những võ sĩ quyền Anh, những người nhào lộn.
Tay ông ta cầm cái kibôkô, một thứ roi dài làm bằng da con tê giác.
- Xin chào ông, - ông ta nói bằng một giọng tuy khàn nhưng vẫn gọn và thẳng thắn. - Tôi là Jôn Balit, giám đốc khu Vườn hoàng gia này.
Tôi định tự giới thiệu, nhưng ông ta tiếp ngay.
- Tôi biết, tôi biết... Tên ông đã được ghi trong sổ đăng ký khách tới. Vả chăng ông đang là khách duy nhất của chúng tôi.
Ông ta không nói hết câu và hỏi luôn:
- Uýt-ki chăng?
Không đợi câu đáp lại, Balit ném cây Kibôkô lên một chiếc ghế và đi tới cái hòm nhỏ đựng các loại rượu đặt ờ cuối phòng.
Ông ta có một vẻ đẹp thực sự vượt ra ngoài lẽ thường, xét cả về sự đầy đặn lẫn về sức mạnh. Rất cao lớn, đùi rất dài, ngoài ra cả cái cốt cách khổng lồ của ông ta còn được bọc bằng lớp thịt da tuy dày dặn và nặng nề đấy nhưng lại chẳng hề ngăn trở chút gì các cử động nhanh nhẹn và mềm mại. Cái bản chất rắn rỏi và hoạt động ấy chỉ là một nguồn sức sống, một dự trữ sức mạnh. Và mặt trời từng hun đi đốt lại ông ta đến mức tạo cho ông ta một nước da màu gỗ cháy, thế nhưng vẫn không hề làm sây sát lớp mặt da.
Quần áo ông ta mặc chẳng che đậy mà như còn làm lộ rõ thêm làn da nhẵn và căng. Một quần soóc cũ buông tới đúng phía trên đầu gối, ống tay áo sơ-mi cũ chạm khuỷu tay. Phanh từ cổ tới thắt lưng, tấm áo để lộ hẳn cả bộ ngực ra.
- Chúc sức khoẻ ông, - Balit nói.
Trước khi uống, ông ta đưa chiếc ly lại gần cái mũi hơi khoằm và ngửi hương vị rượu uýt-ki.
Đôi cánh mũi ông ta phập phồng nhanh nhẹn. Quai hàm vuông hơi nhô ra phía trước và cùng với nó là môi dưới khoẻ khoắn và đỏ tươi. Tóc mọc rậm, đan rối vào nhau, làm thành một lùm màu hung gần như màu đỏ trên đầu, cái trán dô, đôi má dày dặn và rắn chắc. Đó không hẳn như là cái mặt, mà là một cái mặt nạ, một cái mồm thú. Thế nhưng, do vẻ gồ ghề, do sự dày dặn, do nét biểu cảm, cái mặt đó tạo ra uy quyền và một sự hấp dẫn đặc biệt.
- Sáng nay tôi bận quá, xin lỗi ông, tôi không gặp được ông, - Balit nói với tôi giữa hai tợp rượu. - Trời còn tối đen tôi đã phải ra đi rồi. Khẩn cấp. Người ta báo cho tôi biết có hai người da đen đáng nghi ở một góc hẻo lánh của Vườn. Và phía ấy cũng thường có những tay săn bắn trái phép. Chắc ông cũng biết, ngà voi vẫn còn được giá, và sừng tê giác một khi nghiền ra rồi thì bán rất đắt ở bên Viễn đông để họ làm thuốc kích thích dục tính. Bọn buôn lậu người Ấn Độ đáng nguyền rủa ở đây là bọn trung gian. Thế là cứ luôn luôn có những đứa khốn kiếp, người Oakamba, người Kipxighi hoặc người các tộc khác, chúng dùng tên tẩm thuốc độc tìm cách sát hại voi và tê giác của tôi.
- Ông có bắt được họ không? - Tôi hỏi.
- Không, báo động sai, - Balit nói. (Ông ta tiếc rẻ nhìn cái roi khủng khiếp ông vứt đó khi bước vào nhà). Có người da đen thật, nhưng đó là người tộc Maxai.
Trong tiếng nói khàn của Balit tôi nhận ra cái ngữ điệu kính trọng đặc biệt tôi vẫn nhận thấy ở tất cả những người Anh sống ở Kênya khi họ nói
với tôi về cái bộ lạc thiện chiến ấy.
- Người Maxai, - Balit tiếp, - không bán và không mua bất kỳ thứ gì. Da đen đấy, nhưng trong họ là tinh vương giả.
Một tiếng cười ngắn và khàn, rồi ông ta lại tiếp:
- Nhưng vương giả thì vương giả, họ cũng đừng có chọc vào các con sư tử của tôi.
Có những con người, khi ta gần họ những sự nói năng và những nhịp ngắt lặng thông thường buộc phải giữ cho đúng phép lịch sự, thì ở những người này các điều đó là vô nghĩa, vì họ sống bên ngoài mọi ước lệ, họ sống trong vũ trụ riêng và sớm muộn họ sẽ lôi cuốn ta vào đó. Tôi nói với Balit:
- Sư tử của ông, tê giác của ông, voi của ông... Các con thú hoang đối với ông như thể một tài sản riêng.
- Đó là tài sản của Hoàng gia, - Balit cãi lại. - Và ở đây tôi là đại diện của Hoàng gia.
- Tôi không cho rằng, - tôi nói, - ở ông đó chỉ đơn thuần là thi hành chức vụ.
Balit đột nhiên đặt lv rượu mới vơi có một nửa xuống và bắt đầu đi đi lại trong căn phòng, ông đi những bước dài. Song, thân hình to, cao và nặng nề ấy vẫn không chạm vào một đồ vật nào. Và dưới đôi ủng đi săn của ông, sàn nhà không hề rung động. Sau khi ông đã đi lại nhiều lần trong phòng, ông nói tiếp trong khi vẫn đi lại lặng lẽ:
- Sau vụ người Maxai, tôi đã đi liền trong hai tiếng đồng hồ trong rừng rậm để rải muối vào những nơi thú hay lui tới. Chúng rất thích muối. Muối làm cho chúng cường tráng lên. Cả chuyện đem muối cho thú, hẳn ông cũng cho rằng đó chẳng riêng là tôi thi hành nhiệm vụ.
Balit đi lại nhanh hơn nữa với những bước chân sải rộng, đặt đúng chỗ, mềm mại và lặng câm trong gian phòng bộn bề vướng víu.
- Và những đập nước đắp bằng đất tôi xây dựng cho chúng, và những mương máng tôi đào cho chúng để cho khắp mọi nơi, mùa nào cũng như mùa nào chúng cũng có nơi uống nước, đó lại càng không thuộc về chức vụ của tôi. Và tôi đuổi cổ thẳng thừng những vị khách nào bóp còi inh ỏi khiến cho các con thú cảm thấy mất thoải mái.
Balit chợt dừng cái thân hình đang đi lại với cái vẻ dễ dàng tôi đã từng chứng kiến. Khi ấy ông ta ở bên tôi, ông ta gầm lên:
- Ở đây. thú vật có đủ mọi quyền. Tôi muốn chúng được yên tĩnh. Không thiếu thốn thứ gì. Được che chở khỏi bị con người làm hại. Sung sướng. Và trong tầm sức lực của tôi chúng sẽ được như vậy, thưa ông.
Tôi ngắm nhìn không thoải mái đôi mắt mở to không chớp. Cớ sao lại nổ ra bất ngờ và phũ phàng như vậy? Không thể nghĩ rằng tôi là đối tượng thực sự của cơn thịnh nộ đó. Câu nói hồn nhiên của tôi chi là cái cớ, một cơ hội làm bùng nổ một cơn khủng hoảng nung ủ từ lâu. Thông qua con người tôi, cơn điên giận đó và nỗi giày vò đó hướng vào cái gì, hướng vào ai chứ?
Đôi mắt Balit chợt mất hẳn vẻ bạo hành đi. Ông ngẩng đầu lên, khiến cái cằm vuông của ông ở ngang tầm trán tôi. Rồi ông cầm lấy ly rượu và uống cạn một hơi. Khi ấy tôi mới nghe thấy có tiếng người nhẹ nhàng tới, điều ông đã nghe thấy trước cả tôi. Lúc Xibin vào, khuôn mặt chồng bà đã trở lại thanh thản hơn.
VI
Chồng và vợ đến với nhau bằng một cử động đơn giản dường như không phải họ chủ ý và cũng không phải họ có ý thức rõ. Khi hai người đã tới sát bên nhau ở chính giữa căn phòng, Balit đặt một hai bàn tay mạnh mẽ của ông lên vai vợ, bàn tay đó phủ kín vai Xibin. và ông ta kéo người vợ trẻ về phía mình, với tay kia, dịu dàng đến lạ kỳ. Ông gỡ cặp kính khỏi mắt nàng. Rồi cái mồm màu hung áp sát khuôn mặt xanh xao và hôn lên đôi mi mắt. Thân xác Xinbin chợt nhão ra và uốn cong như muốn bám vào và tan hòa vào khối thịt và cơ bắp đã vẫy gọi nàng. Sự buông thả đó diễn ra quá nhanh và thật thích hợp khiến tôi chẳng cảm thấy chút gì lấn cấn vì đã có mặt ở đó. Cử chỉ của Xibin và Balit, do chỗ chúng tự nhiên, và do chúng đẹp, đã khiến hai người không lo lắng gì và thoát hẳn ra ngoài khuôn khổ việc giữ gìn ý tứ.
Đôi vợ chồng, do hai nhiệm vụ khác nhau, đã xa nhau từ lúc mới hết đêm, nay gặp lại nhau, ôm hôn nhau. Chỉ có thế thôi, còn có gì nữa phải che giấu? Thế nhưng, cái âu yếm. cái trọn vẹn, cái tin cậy chắc chắn mà tình yêu có thể đem lại cho hai con người trong một lần và mãi mãi. Tất cả những gì một người đàn ông và một người đàn bà có thể trông đợi và nhận được của nhau, nhằm ru ngủ những âu lo sâu xa nhất của họ, và người nọ với người kia trở thành một điều bổ sung tiền định, tôi thấy nó hiện lên một cách trong trắng nhất hạng và hết sức thuyết phục trong các cử động cả trên khuôn mặt Xibin và chồng nàng.
Tôi chợt nhớ tới ngôi thánh đường nhỏ màu trắng dựng giữa rừng rậm ở cái địa điểm thấy rõ nhất thung lũng Ríp uy nghi và hoang dã. Balit đã cưới Xibin tại đó. Sự trang trọng ngây thơ, niềm tin tuyệt đối, sự cô đơn kỳ diệu khi chỉ có hai người, những điều khi ấy là tài sản của họ, tôi đã hình dung được chúng chẳng khó khăn gì. Chuyện đó, đã mười năm rồi. Nhưng với hai người ấy, giữa hai người ấy, chẳng có gì thay đổi hết. Và sẽ còn là như vậy cho tôi những ngày cuối đời họ chung sống cùng nhau, chừng nào còn một nhịp đập của sự sống làm sinh sắc cho khuôn mặt xanh xao ấy cùng khuôn mặt lớn như của con thú dưới chùm tóc hung kia.
Vài giây là đủ để thắt vào rồi cởi ra sự trao đổi trọn vẹn đó của buông thả và chở che. Balit và Xibin rời nhau ra hầu như cùng lúc với khi họ ôm hôn nhau. Nhưng phải đợi khi đôi mắt Xibin bắt gặp mắt tôi nhìn thì bà ta mới ý thức được rằng tôi có tại đó. Khi ấy đôi mắt bà ta tuyệt đẹp bỗng mất đi cả thần sắc lẫn hạnh phúc. Bà đeo kính lên mát bằng cử động của người máy mà tôi từng biết rất rõ. Đôi má bà ta bỗng hõm hơn và run rẩy. Thần kinh bà ta lại căng thẳng đến tột độ. Tuy vậy, điều mà Xibin báo cho tôi biết xem ra không đủ để lý giải sự đổi thay đó.
- Tôi xin lỗi, - thiếu phụ trẻ nói. - Tôi không làm sao bảo Patrixia tới đây chào ỏng được. Xin ông thứ lỗi cho cháu. Cháu không quen đông người.
Balit không nhúc nhích. Những đường nét khoáng đãng trên người ông vẫn giữ được vẻ bình thản. Nhưng nhìn đôi mắt ông tôi thấy ông tỏ đặc biệt chăm chú. Và dường như tôi đã nhận ra được những mùi vị không sao xác định được đó, cái thứ không khí bị nén lại đó, khi ấy người lạ mặt chợt nhận ra được mối bất hòa lâu ngày, dai dẳng và bí mật lại đang thử thách những con người sống chung và yêu nhau từ lâu.
- Hoàn toàn tự nhiên, - tôi vừa nói vừa cười, - một em bé gái miền Kilimanjarô không lao ra với những con người như tôi, người đến từ một thế giới em đâu cần!
Vẻ biết ơn hiện rõ trên mặt Balit cũng mãnh liệt như cơn giận kỳ lạ của ông ta vài giây trước đây, cơn giận dường như vô cớ và không có mức độ.
- Đúng vậy, hoàn toàn tự nhiên thôi, - ông ta nói rất dịu dàng.
- Nhưng trong trường hợp như vậy, anh Jôn, - Xibin thốt lên (và môi dưới của bà ta hơi run), - thời gian càng trôi thì Patrixia nếu còn tiếp tục ở đây sẽ càng trở nên hoang dại hơn. Phải làm một cái gì chứ.
Balit nói còn dịu dàng hơn nữa:
- Em thân yêu em hẳn còn nhớ, chúng ta đã chẳng thử rồi sao? Trường nội trú đã làm con bé phát ốm.
- Lúc đó nó non hơn hiện giờ hai năm, - Xibin cãi. - Giờ đây không phải chuyện như vậy nữa. Cần phải nghĩ tới tương lai con bé.
Hiện trên gò má thiếu phụ trẻ những vệt màu hồng của người lên cơn sốt. Chợt bà ta lấy tôi làm chứng:
- Ông có cho rằng, - bà ta hỏi tôi, - rồi Patrixia sẽ là người đầu tiên oán trách chúng ta vì đã dạy dỗ nó không đầy đủ chăng?
Balit không nói gì hết. Nhưng đôi mắt quá nhợt nhạt vằn những sợi nâu sẫm (vì mặt trời, vì rượu?) của ông không rời tôi, và đôi mắt nhìn của ông đầy sức mạnh muốn ở tôi một lời đáp trái ngược với điều vợ ông ta vừa đòi hỏi. Mỗi người ấy, tùy theo bản chất mình, đã tìm ở tôi một đồng minh trong một cuộc tranh chấp căn bản mà đối tượng là số phận đứa con gái nhỏ mặc bộ đồ áo liền quần màu xám, cô bé gái của rạng đông và của các con thú hoang.
Một người khách qua đường liệu có thể đứng vào phe nào?
Tôi nghĩ tới Patrixia, tới món tóc cắt tròn của em. Kỷ niệm ấy, và chỉ riêng kỷ niệm ấy, mà các bậc cha mẹ của em không sao hiểu nổi nó đã ảnh hưởng tới tôi ra sao, đã khiến tôi có một quyết định. Tôi nói bằng giọng bông đùa và theo kiểu một người không nắm vững ý nghĩa thực sự của cuộc cãi cọ:
- Có lẽ vì tôi không có con, nên tôi khi nào cũng đứng về phe các cháu. Tôi đứng về phe Patrixia.
Một khoảnh khắc im lặng rất ngắn, Xibin gượng cười bảo tôi:
- Tha lỗi cho chúng tôi đã lôi kéo ông vào những chuyện lo nghĩ của gia đình. Ông từ xa tới tận đây không vì mục đích đó.
- Đúng thế, - Balit nói.
Ông ta cũng mỉm cười, nhưng mỉm cười theo kiểu một người sau nhiều năm tháng bỗng gặp lại một người bạn xưa.
- Tôi sẽ chỉ cho ông xem nhiều thứ trong khu vườn này, những thứ mà ít người đã được thấy, - ông ta nói tiếp và khẽ giơ bàn tay khổng lồ lên như thể muốn đánh tôi một cái vào vai.
Nhưng ông nhìn bà vợ lúc này dường như đã xa cách chúng tôi quá nhiều và nói thêm, hầu như là rụt rè, nhút nhát:
- Hôm nay có khách quý, em thử xem, em có nên cùng đi chăng, một lần thôi. Như ngày xưa của chúng mình ấy. Anh tin rằng điều đó sẽ có lợi cho em.
Thay vì trả lời chồng, Xibin hỏi tôi:
- Trời ơi! Không biết rồi Lidơ sẽ nói sao khi chị ấy biết rằng ông không gặp cháu Patrixia?
- Lidơ ư? - Balit nói. - Sao lại có chuyện Lidơ ở đây?
- Vị khách của chúng ta là bạn của Lidơ, - Xibin nói. - Em chưa có thì giờ nói với anh chuyện đó. Ông đây có mang thư của Lidơ cho em, và anh hãy hình dung rằng chẳng mấy chốc ông sẽ gặp lại Lidơ.
Mỗi lần Xibin nhắc tới tên đó, giọng bà ta càng tỏ ra khoái hoạt hơn và nét mặt như trẻ thêm. Đồng thời, nét mặt Balit lại càng cau có, khó hiểu, chẳng còn thấy chút thân tình nào vừa bộc lộ với tôi nữa.
- Chừng nào ông ra đi? - Xibin hỏi tôi.
- Ngày mai, - Balit trả lời thay tôi và thật phũ phàng. - Theo sổ đăng ký là như vậy.
- Mai ư? - Xibin kêu lên. Sớm vậy... Thế thì tôi phải đi viết thư ngay cho Lidơ thôi. Tôi có biết bao nhiêu điều phải nói với Lidơ. Ông biết không, kể từ lúc gặp ông, tôi cảm thấy Lidơ như gần tôi hơn, như thực hơn.
Balit đi rót rượu cho ông ta.
- Vậy mà thậm chí đãi ông một cách đúng phép tắc tôi cũng chưa làm được, - Xibin nói tiếp. - Chiều nay thế nào ông cũng phải tới đây dùng trà ngon với chúng tôi. Vả chăng ông còn còn có việc gì khác nữa đâu. Jôn đã cấm lệnh đi xe hơi trong khu Vườn một khi chiều đã xuống. Phải thế không, Jôn?
- Đèn xe hơi làm các con thú lóa mắt, - Balit càu nhàu.
- Tôi rất vui mừng nhận lời, - tôi nói với Xibin. - Còn lá thư của bà, xin chớ vội vã. Sáng mai anh lái xe của tôi có thể tới lấy, trước khi chúng tôi ra đi.
Balit nhìn tôi một khoảnh khắc qua ly rượu đầy.
- Xin ông vui lòng giải thích cho tôi, - ông ta chợt hỏi đột ngột, - tại sao anh lái xe đó lại ngủ đêm trong xe trong khi anh có sẵn một giường trong căn nhà dành riêng cho những người hầu hạ ở đây? Phải chăng ông quý tộc xứ Nairobi ấy không chịu đựng nổi việc phải ngủ chung một mái nhà với những người da đen đáng thương nơi rừng rậm này?
- Không phải chuyện đó, - tôi nói. - Bôgô và tôi, hai chúng tôi đã cùng đi một chặng dường dài cho tới tận hồ Kivu. Các khách sạn đều từ chối không cho người da đen trọ, trừ phi chịu nằm trong các căn buồng như là ổ chó, Bôgô đã quen với việc ngủ trên xe. Đó là một con người rất đơn giản, nhưng ông ta có ý thức về nhân phẩm.
- Nhân phẩm. - Balit xít răng nhắc lại. - Nhân phẩm.
Mắt ông ta đặt vào tấm roi da tê giác vắt trên thành ghế bành, rồi lại quay sang nhìn vào đáy cốc rượu.
Tôi sinh ra tại Rỏđêđi, - ông ta chợt nói. - Ở đó cha tôi cai quản một quận rất lớn. Khi tôi mới mười bốn tuổi, lần đầu tiên tôi đi săn xa với một thiếu niên cùng tuổi. Một hôm trong một khu rừng luôn có sư tử, nhưng ở
đó lại cấm săn bắn, chúng tôi thấy có cái gì ngọ nguậy trong một bụi rậm. Cấm săn bắn hay không cũng mặc, chúng tôi nổ súng. Một trong hai chúng tôi đã bắn trúng mồi. Nhưng đó là một người da đen, bị bắn chết thẳng cẳng. Chúng tôi tôi báo tin cho xã trưởng một làng gần nhất. Một người Mọi già. (Balit ngẩng nhìn tôi một lát). Rất có nhân phẩm, ông ta đã bảo chúng tôi: "May cho các cậu đã chẳng bắn trúng sư tử. Nếu không đừng hòng cha các cậu tha tội cho". Đúng thế đấy. Cha tôi có máu pháp luật.
- Jôn, sao anh lại kể những chuyện như thế! - Xibin nói nhỏ. - Anh biết là tôi kinh tởm những chuyện như thế. Hơn nữa, thực đấy những chuyện đó khiến anh có dáng dấp một kẻ mọi rợ.
Balit uống cạn ly rượu không đáp lại, rồi đi ra lấy chiếc kibôkô và nói với tôi nhưng mắt chẳng nhìn tôi:
- Xin lỗi, tôi có việc bận. Chuyện đi thăm Vườn, tôi sẽ cử một người gác đến đưa ông đi.
Ông ta vươn vai và dang hai tay rồi đi ra, và gian phòng đột nhiên trở nên chật chội hơn.
- Anh Jôn, - Xibin nói nhanh, - anh hứa đi là anh sẽ dặn Patrixia đừng khó bảo và thể nào con cũng phải dự bữa trà. Thế nào thì vị khách của chúng ta cũng phải có gì kể về nó cho Lidơ chứ.
Bàn tay hộ pháp cầm chiếc roi da tê giác quắc lấy cán roi. Rồi lại nhả ra và Balit ghé cái mồm mình gần khuôn mặt ốm yếu để nói với một vẻ dịu dàng sâu xa nhất:
- Em thân yêu, anh hứa.
Cặp môi ông ta lướt qua mớ tóc người vợ. Bà ta áp sát người vào chồng, và ông ta đón nhận nàng trên ngực mình như hồi nãy và cũng với một tình cảm nồng nàn như lúc nãy.
VII
Sau đó một lát tôi cáo từ Xibin. Bà ta không tìm cách giữ tôi lại. Bà ta đang còn nghĩ tới bức thư sắp viết, tới cuộc tiếp khách chiều.
Ở căn nhà riêng của họ bước ra, tôi buộc lòng phải dừng chân vì bị ánh sáng và sức nóng làm lóa mắt và choáng váng. Balit đầu trần đứng bên chiếc xe hơi của ông, một chiếc xe hiệu Lan Ruyơ sản xuất để chạy trên tất cả các loại đường, và đang ra lệnh cho Kihôrô, người thợ săn thú cũ của ông, người da đen chột một mắt, xương chậu vỡ và sẹo chằng chịt khắp người. Balit giả đò không trông thấy tôi. Nhưng Kihôrô với con mắt độc nhất còn lại ném một cái nhìn thoáng và sắc về phía tôi rồi nói gì đó rất nhanh với chủ. Tôi quay đi và bước về phía gian lều dành cho tôi.
Đúng vào lúc đi tới địa giới khu rừng thưa và tôi sắp đi vào khu rừng chặt kề đó, thì một cái bóng người to lớn chợt nhào ra và in cạnh bóng tôi. Tôi dừng lại. Balit đứng sừng sững gần tôi.
Tôi chợt có cảm giác mát mẻ lạ kỳ; cái thân xác kia quá cao quá to, đã che cho tôi khỏi nắng. Nhưng cùng lúc tôi cảm thấy lo lo. Vì sao Balit đã theo chân tôi và đuổi kịp tôi với cái lối đi lặng lẽ và lần nào cũng khiến tôi bị bất ngờ nhu vậy: Ông ta còn muốn gì nữa vậy?
Đôi mắt Balit hẳn vì muốn tránh mắt tôi, đảo lên ngắm nghía cây gai trên đầu tôi. Đôi cánh tay ông ta buông thõng dọc thân người, nhưng đầu các ngón tay với những móng tay cắt ngắn vẫn ngọ nguậy bứt rứt trên cặp đùi bắt nắng. Nom bộ ông ta không thoải mái. Ông ta vừa nói vừa hắng giọng:
- Nếu ông không phiền, chúng ta sẽ cùng đi với nhau một quãng. Tôi đi về phía trại ông nghỉ, đến làng mọi đen ấy.
Ông ta đi theo lối người quen đi trong rừng rậm: người hơi nhào về phía trước, bước sải nhanh nhưng không gấp gáp. Tôi theo ông ta đến là vất vả. Loáng một cái chúng tôi đã tới giữa khu rừng chặt. Khi ấy, Balit xoay người
một cái và đứng chặn trước con đường mòn nhỏ. Tay ông nắm thành quả đấm và lăm lăm dưới thắt lưng. Đôi mắt ông vằn đỏ nhìn tôi chằm chằm. Giữa cái đầu và cặp lông mày hung đỏ lởm chởm là những hằn sâu trên trán. Tôi chợt nghĩ ông ta có thể lao vào tôi và hạ thủ tôi tức thời. Chắc chắn đó là một y tưởng điên. Nhưng tôi đã bắt đầu thấy rằng Balit cư xử cũng như một người điên vậy. Tôi thấy cần phải phá tan không khí im lặng giữa chúng tôi, cái im lặng của đất, của nóng, của cây.
- Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi.
Balit nói khẽ và chậm rãi:
- Sáng nay ông tới sát khu uống nước của thú.
Trước mặt tôi là một con người có sức mạnh thể chất đến mức độ nguy hiểm mà tôi không hiểu nổi, không tiên liệu được các kích động. Song, phản ứng đầu tiên của tôi là nghĩ tới Patrixia và nghĩ rằng cô bé đã phản thùng tôi. Vì chuyện đó, mà tôi cảm thấy phiền lòng khôn cùng, và tôi đã cất tiếng hỏi mặc dù chẳng định hỏi thế:
- Vậy là con gái ông đã tố giác tôi...
- Từ bữa qua tôi không thấy mặt nó, - Balit trả lời và nhún vai.
- Nhưng dầu sao ông cũng biết rằng tôi cùng cô bé đã có mặt ở chỗ tôi không có quyền tới.
- Đó chính là vấn đề tôi định nói với ông vậy, - Balit nói.
Ông ta ngập ngừng. Những nếp nhăn càng sâu hơn dưới đám tóc đỏ rậm như rừng, ông ta càu nhàu:
- Tôi không biết nói cách sao cho ông hiểu.
- Xin ông nghe đây, - tôi nói- Hoàn toàn thành thực, tôi không biết đó là nơi cấm du khách lui tới. Nhưng nếu ông nghĩ rằng bổn phận của ông là
phải đuổi tôi khỏi nơi đây, thì trong vòng một giờ nữa tôi xin ra đi chứ không đợi sáng mai, có thế thôi.
Balit gật gù cái đầu và khẽ thoáng nở một nụ cười, vẻ nhút nhát, khiến cho cái mõm ông ta có một cái duyên đặc biệt.
- Cho dù tôi muốn tống ông đi, làm sao tôi có thể quyết định được? - Ông ta nói. - Xibin thì chẳng còn lòng dạ nào ngoài bữa đại tiệc trà, khốn khổ khốn nạn, nàng đâu có nhiều dịp dến thế.
Thế rồi đột nhiên được thoát khỏi sự lúng túng, Balit nói với tôi một cách giản dị cao quý và thẳng thắn, xét cho cùng đó chính là đặc điểm của con người vóc cao lớn ấy với khuôn mặt ấy:
- Cảm ơn ông... Cảm ơn ông thực sự vì ông đã không kể cho vợ tôi nghe rằng ông đã bắt gặp Patrixia lúc sớm tinh mơ ở chỗ đó.
Balit lấy lưng bàn tay quệt khuôn mặt đẫm mồ hôi. Tôi đã từng thấy ông ta trở về nhà sau một cuộc đi dài dưới nắng mà vẫn không có giọt mồ hôi nào. Mà lúc này đây chúng tôi đang đứng dưới những tán cây gai mênh mông. Tôi chẳng biết trả lời cách sao hết.
Cách chúng tôi vài thước, một con linh dương vượt qua con đường mòn trong rừng. Vài con chim từ phía dưới các lùm cây bay lên. Nghe thấy tiếng khỉ kêu chí chóe.
- Nếu vợ tôi biết mỗi sáng con Pát[4]làm gì, - Balit nói tiếp, - thì … Ông ta tìm lời, lại lau trán, rồi nói nốt câu một cách khẽ khàng: - Thì sẽ rất nhiều phiền toái cho tất cả mọi người.
Ông ta vầy vò một lát bộ tóc cứng và hung đỏ trong lúc cả sức nặng của tấm thân được dồn lên một bên đùi này rồi sang bên đùi kia.
- Điều tôi muốn hiểu, - Balit nói mắt vẫn không nhìn tôi, - là tại sao ông im lặng. Trước đây ông không nắm được chuyện gì cả. Hay là Xibin đã bộc lộ với ông điều gì khiến ông phải giữ gìn.
- Không có gì cả, - tôi nói. - Và bản thân tôi cũng không biết chắc vì sao tôi đã không nói ra. Tôi nghĩ rằng đó chỉ vì cuộc gặp gỡ giữa tôi với con cháu bé nhà ông hình như phải được giữ kín cho hai chúng tôi thôi.
- Vì sao vậy?
- Vì sao ư?
Tôi dừng lại không nói, vì sợ mình trở thành lố bịch. Nhưng rồi - hẳn có lẽ vì mùi vị cùng những tiếng cành gẫy của rừng rậm, và cũng bởi vì trên mặt Balit có một chút giản dị hầu như của thú vật - nên tôi quyết định nói. Tôi nói với Balit cái bản năng đã dồn đẩy tôi tới những con thú hoang tụ tập, như là những kỳ quan dưới chân núi Kilimanjarô, và tôi nói lòng ước ao đối với tôi không sao có thể có được ấy, là được đánh bạn với chúng, và tôi kể lại việc cô bé mặc quần có yếm màu xám trong vài lát giây đã cho tôi khả năng đi vào cái vương quốc ấy như thế nào.
Lúc bắt đầu nói, do chỗ tôi còn cảm thấy lúng túng vì đã xưng tội như vậy, nên mắt tôi chi nhìn chằm chằm xuống đất phủ đầy cỏ khô và cành gai, và tôi chỉ nhìn thấy ở Balit có đôi bắp vế màu đất sét thẫm cao và rắn chắc như hai cái cột. Thế rồi sự chăm chú cao độ của ông ta mà tôi có thể nhận thấy qua nhịp thở sâu đã khiến tôi hết cả lúng túng. Và tôi tiếp tục nói, mắt nhìn thẳng vào ông ta. Ông nghe tôi nói, không một thớ thịt trên mặt ông rung động, nhưng đôi mắt ông nhìn lại bộc lộ một niềm hạnh phúc rụt rè. Khi tôi nói xong ông ta từ từ và khó nhọc lên tiếng:
- Vậy là... cả ông nữa... ông nghĩ rằng... ông một con người thành thị, ông cũng cho rằng giữa Pat và các con thú... có một cái gì đó... một cái gì đó ta không nên... ta không thể dụng vào.
Balit im lặng và một cách vô ý thức tay ông lại vầy vò bộ tóc rậm màu đỏ. Đồng thời ông cũng xem xét tôi theo một cách khác hẳn. Tựa hồ như
ông muốn tìm xem ở tôi một dấu hiệu dị hình, một khuyết tật bẩm sinh kín đáo.
- Vậy mà, - ông ta hỏi, - ông lại là bạn của Lidơ Đacboa được, thế là thế nào nhỉ?
- Tôi không phải là bạn của bà ấy, - tôi tuyên bố. - Không hề. Tôi biết bà ấy qua loa, và mới có chừng ấy thôi tôi cũng thấy là nhiều quá rồi.
Nụ cười mà tôi từng nhận xét, nụ cười ngập ngừng, nhút nhát và rất dễ thương, xuất hiện trên đôi môi Balit.
- Ông hãy thú nhận đi, - tôi nói, - có phải chỉ vì chuyện Lidơ Đacboa mà chút nữa ông định cho tôi nếm mùi roi da tê giác?
- Lạy chúa, đúng thế, - Balit nói một cách giản dị.
Chợt ông ta phá lên cười, tiếng cười vang to và thơ ngây, tiếng cười vừa của trẻ thơ vừa của yêu tinh, tiếng cười như đổ đầy khu rừng cây gai. Giữa hai trận cười nấc, ông ta nhắc lại:
- Lạy Chúa, đúng thế. Tôi đã định cho ông nếm cây roi kibôkô! Và ông ta cứ lặp đi lặp lại mãi cho đến hết hơi:
- Kibôkô... Kibôkô... Kibôkô...
Cơn cười lây cả sang tôi. Tiếng kibôkô đối với tôi bỗng trở thành hài hước lạ lùng. Và cả tôi nữa, tôi cũng phá ra cười, đứng giữa con đường mòn trong rừng rậm trước mặt Balit mà cười đến chảy nước mắt ra. Và lúc ấy tình bạn đã tới với hai chúng tôi.
Sau khi cơn cười của của hai chúng tôi qua đi, Balit lại cất tiếng nói với tôi, ông ta làm việc đó như với một người thân thuộc đã hiểu rõ mọi chuyện bí mật, mọi chuyện rắc rối trong gia đình ông.
- Không ai có thể ngờ được rằng, - ông ta nói với một vẻ hung tợn cố ghìm lại, - một con búp bê vô tích sự và rỗng tuếch như Lidơ lại có thể từ xa mười ngàn cây số đem lại cho chúng tôi nhiều đau khổ đến thế.
- Và làm việc đó một cách vô chủ đích, vô tình, - tôi nói.
Balit lắc cái mõm một cách bướng bỉnh và quát lên:
- Cũng thế thôi, tôi ghét mụ. Tôi, tôi chỉ nghĩ tới Xibin và con bé con thôi.
Ông ta xoay người trên gót chân và tiếp tục bước đi. Song lúc này ông đi bước nhanh hơn, cái gáy cúi nặng xuống hơn. Ông ta ngẫm nghĩ. Rồi vẫn đi, đầu không ngoái lại, ông ta nói. Cái lưng ông ta che khuất tầm nhìn xa phía trước của tôi. Các câu ông nói được ngắt nhịp bởi chân chúng tôi đang đi. Ông ta nói:
- Ông đừng nghĩ rằng tôi hoàn toàn điên rồ chỉ vì tôi để cho Pat chạy chơi tùy thích trong rừng rậm và thích thì cứ đến với các con thú. Trước hết là vì Pat có quyền lực đối với các con thú. Quyền lực ấy có thể có, có thể không. Ta cũng có thể hiểu biết kỹ càng các con thú, chuyện ấy chẳng có quan hệ gì hết tới cái quyền lực kia. Như tôi chẳng hạn. Cả đời tôi, tôi sống giữa các con thú. Vậy mà chẳng làm cách nào có được cái quyền lực đó, cái đó là chuyện bẩm sinh. Như con bé ấy.
Tôi đi theo cái thân xác khổng lồ của Balit, cố đặt chân tôi đúng vào vết chân ông ta, cố sao không làm rối loạn, không làm vỡ cung bậc cái tiếng nói khàn khàn và chậm rãi kia đang đưa tôi tới cái miền bí ẩn của Patrixia.
- Tôi có biết vài người có được quyền lực ấy, - Balit nói. - Cả người da trắng, cả người da đen.. nhất là người da đen. Nhưng không ai bằng Pat. Nó sinh ra cùng với điều thiên phú ấy. Thế rồi nó lại được nuôi dưỡng giữa các con thú. Và (Balit ngập ngừng khó mà nhận thấy), và, nó không khi nào làm chuyện gì tai hại cho các con thú cả. Nó thông cảm được với các con thú, chúng cũng thông cảm được với con bé.
Tôi không sao ngăn mình đặt câu hỏi:
- Thế là đủ an toàn cho cháu ư?
- Nó tin như vậy, - Balit nói trong lúc vẫn bước đi và không quay đầu lại. - Và hẳn nó phải biết rõ rất nhiều điều hơn chúng ta. Nhưng tôi thì chẳng ngây thơ như nó. Vì vậy tôi giao cho Kihôrô canh chừng cháu.
- Cái người da đen đầy thương tích ấy? - Tôi hỏi.
Balit hơi bước nhanh lên và trả lời:
- Đừng có coi thường bề ngoài ông ta, Kibôrô thọt nhưng ông ta có cách đi êm nhẹ như con báo. Tôi đây, khi tôi rình mò gần con bé, Pat nghe thấy liền. Mà đâu tôi có phải không biết nghề. Còn Kihôrô thì lúc nào cũng theo sát con bé, nhưng nó vẫn không nghi ngờ chút gì hết. Còn ông ta tuy chỉ có một mắt, nhưng ông ta bắn trúng và bắn nhanh hơn tôi. Vậy mà tôi cũng được coi là một cây súng cừ miền đông Phi này.
Balit quay lại. Trong con mắt ông ta có một ngọn lửa lạ lùng và trong giọng nói ông có một âm sắc trẻ trung hơn.
- Ông biết không, trước đây, khi phải đi hạ thù bất kỳ con thú nguy hiểm nào, sư tử, voi, cả trâu rừng, Kihôrô chưa lần nào xin hơn một viên đạn. Và...
Balit ngừng sững lại. Và như để tự trừng phạt một lỗi lầm tôi không nhận ra, ông ta cắn vào môi dưới với một vẻ tàn nhẫn.
- Để canh chừng con nhỏ, việc ấy xin ông không phải lo. - Ông ta nói. - Các bao đạn của Kihôrô luôn luôn đầy ắp.
Con đường mòn rộng dần ra. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau vài bước. Tôi hỏi:
- Hẳn là thông qua Kihôrô mà ông biết về cuộc gặp gỡ giữa cháu Patrixia với tôi.
- Vâng, - Balit nói. - Nhưng xin ông lưu ý cho, không được để cháu biết rằng cháu bị canh chừng. Nếu không mọi việc nó vui chơi sẽ hỏng bét. Mà việc nó vui chơi là hạnh phúc duy nhất nó có thể có được ở nơi đây.
Chúng tôi đi tới một nhóm nhà lều không phải là các lều dành cho du khách. Vô tình tôi đã đi theo Balit tới tận làng mọi.
VIII
Khoảng hai chục căn nhà lá nằm kín dưới những cây gai cao, đó là nhà ở của nhân viên Khu Bảo tồn, các người bảo vệ, các nhân viên, những người phục dịch, và gia đình họ. Những căn nhà xây dựng chắc chắn hơn, bên trong là nhóm điện máy, một xưởng sửa chữa, kho xăng, một kho thực phẩm và quần áo.
Cư dân xóm nhỏ này lập tức vây quanh Balit. Những người bảo vệ mặc đồng phục; áo choàng bằng vải kaki, với những khuy to bằng kim khí, quần soóc và mũ cũng bằng kaki, bao đạn ở thắt lưng. Những người thợ máy ăn mặc những áo dài trắng có tấm khăn xanh lam buộc chẽn ngang eo, những người làm bàn giấy mặc lối Âu châu, đeo cả ca-vát nữa. Trên quần áo phụ nữ, những màu sắc chói nhất, sượng nhất, đối lập nhất, pha trộn nhau một cách hòa hợp. Trẻ nhỏ thì ở truồng.
Mọi người đón tiếp Balit thật sự chân tình. Tên khổng lồ tóc hung đỏ kia, ông chủ của Khu vườn hoàng gia kia được cả làng đón rước nồng nàn. Người ta chào ông ta bằng những tiếng kêu và những tiếng hát. Một tình thân hữu nồng nhiệt và thơ ngây sáng lên trên những khuôn mật dân da đen.
Balit ném về phía tôi một cái nhìn có ý nghĩa là: “Ông thấy đó... mặc dù có cái kibôkô... và mặc cả dù có các thành tích xưa của tôi ở bên Rôđêdi”.
Trong đôi mắt ông ta, tôi thấy tất cả các niềm tin tôi từng bắt gặp ở những người thực dân kỳ cựu và con cái họ: tính ưu việt tự nhiên của các nòi da trắng, sự thấp kém của các dân tộc con em chỉ chuộng sức mạnh. Tôi vốn không chia sẻ các quan niệm ấy. Chúng chỉ có giá trị chừng nào dân bản xứ còn tin như vậy. Giờ đây chuyện đó hết rồi. Còn vài con người, cũng còn đấy, những con người do tính cách mạnh mẽ của họ, do một thứ bản năng bề trên, dường như vẫn biện bạch cho các quan niệm kia. Và điều đó xảy ra trong chốn cùng tận của những vùng xa xôi, hẻo lánh, nơi những dòng thác lớn của thế giới vẫn chưa chảy tới. Đến rồi, đã đến rồi cái thời buổi xây dựng những quan hệ mới giữa những con người khác màu da với nhau. Nhưng thôi, mất thời gian vô ích làm gì, cái thời gian tôi còn quá ít,
để tranh cãi với Balit. Và hẳn là ông ta cũng sẽ chẳng nghe. Ông ta có cái chân lý riêng.
Balit vui vẻ xua đi bằng những cái phát tay ròn rã đám đông đang ồn tai ông ta. Balit dùng mũi ủng thân tình hất ngã đám trẻ em trần truồng và vui vẻ vào đám bụi dưới đất. Rồi ông ta tập hợp lính bảo vệ lại. Không khí đột nhiên thay đổi. Im lặng, người ngay cứng, cánh tay để sát người, gót chân chụm lại, các lính bảo vệ nghe chỉ thị rồi tản về nhà họ. - Phải thế, - ông bạn đồng hành nói với tôi. - Không được một phút nào lơi mắt đám dân Maxai trong suốt tuần lễ họ hạ trại ở đây.
Tôi hỏi:
- Ông cho phép họ hạ trại ngay trong khu Bảo tồn sao?
- Cũng phải chịu đựng họ, - Balit nói. - Đất đai này vốn là của họ, vả chăng họ cũng chẳng cồng kềnh lắm. Họ đóng tại những đồng cỏ quy định.
- Vì sao lại phải chú mục đến họ kỹ thế?
- Để bảo vệ các con sư tử, - Balit nói. - Phong tục và vinh quang của tộc người Maxai là giết được một con sư tử bằng mũi giáo và bằng dao nhọn. Điều này chính phủ thuộc địa cấm tiệt. Nhưng họ vẫn tìm cách làm lén lút. Nhiều người trong họ ra đi không về. Nhưng họ vẫn không cần (Balit nhún vai). Tôi cũng không cần. Vài người da đen, dù là tộc người Maxai, bớt đi trong cuộc đời này... Nhưng tôi không muốn chấp nhận họ làm tổn thương của tôi một con sư tử.
Lính bảo vệ ra khỏi lều ở, người nào cũng trang bị súng trường, bao đạn nặng xệ nơi thắt lưng, họ nhanh nhẹn đi vào trong rừng rậm.
Tôi đang định đi về căn lều của mình, Balit bảo tôi:
- Khoan chút đã... Tôi phải xem xét tổ máy phát điện một chút. Ông ta đi vào một nhà để máy nơi đó các động cơ đang nổ ầm ì.
Tức thì, rất nhanh, rất lặng lẽ, và hẳn là việc này đã diễn ra nhiều lần chứ không ít, các trẻ em da đen tụ tập hết ở hai bên cửa. Khi Balit đi ra, chúng lại bám lấy ông ta.
Làn này Balit giả vờ ngạc nhiên, giả vờ sợ như không chống cự lại nổi. Trẻ em trai gái bám lấy ủng của ông ta, bám vào đầu gối ông ta, bám vào ống quần ngắn của ông ta thành từng chùm, và chúng hét lên vui sướng. Dân chúng cả làng tụ tập quanh trò chơi đó. Những hàng răng to trắng nhởn cười sáng cả những cái má thẫm màu.
Chợt một cái đầu tóc hớt tròn rẽ hàng ngũ những khán giả, và phía sau Balit xuất hiện một quỷ nhỏ tóc rối tung, con quỷ hét lên một tiếng man rợ và bắt buộc lũ trẻ em da đen phải rời tay một lát, con quỷ leo lên thắt lưng Balit bám vào gáy ông ta, và rướn một cái để leo lên một bên vai ông ta.
Mọi việc diễn ra rất nhanh - và lúc này cô bé mặc một chiếc quần có yếm sạch sẽ màu xanh lam đã phai, và tôi chỉ nhận ra cái bóng người lại phía tôi nên tôi không thấy được nét mặt em bé gái, những nhìn cử động của em cũng dễ đoán được nét mặt em. Với bàn tay trái, em nắn lấy và bóp chặt cái cằm của Balit đến mức làm cho ông ta ngạt thở, với bàn tay phải, em hất tung chiếc mũ đi rừng của ông ta. Rồi em luồn hai tay vào sâu trong đám tóc ung đỏ và bắt đầu giật, kéo, vò.
Patrixia không cần phải cất tiếng nói: tất cả ở em cho thấy em đòi sự âu yếm và sự thắng thế của chiếm đoạt.
- Hãy nhìn đây, lão khổng lồ này, lão chủ của khu Vườn hoàng gia này, - mỗi cử chi của cô bé như lớn tiếng tuyên ngôn. - Nhìn đây, lão là của ta. Của riêng ta thôi. Ta muốn làm gì thì ta làm.
Và Balit, thân mình bị các gót chân nện vào, đầu bị vặn vẹo bên này bên nọ, Balit lên gân bụng, vươn cổ ra và cười vang sung sướng.
Patrixia đảo nhìn quanh với cặp mắt long lanh, ngây ngất. Liệu em có nhìn thấy tôi chăng? Nét mặt em chợt cứng lại. Em trườn xuống dọc theo lườn Balit như dọc theo một thân cây, lao vào các trẻ em da đen, lôi chúng đi cùng nhau, chúng co kéo, vật vã hỗn độn với nhau.
Balit nhặt lấy mũ đi rừng, nhưng trước khi đội lên đầu, ông ta lấy bàn tay to tướng dịu dàng và chậm rãi xoa lên đám tóc hung đỏ vừa được những ngón tay Patrixia hành hạ. Một nụ cười rất mơ hồ thấm đượm kiêu hãnh và tôn sùng làm rạng rỡ khuôn mặt ông ta.
Sau cùng ông ta nói:
- Nào, tôi đưa ông về.
Tôi tiếc rẻ quay đi khỏi cơn lốc bụi màu đỏ và những tấm thân da đen, ở đó thoáng hiện ra thoáng biến đi một chiếc quần yếm màu xanh lam nhạt.
IX
Gian lều tôi trọ rất gần đó, thế mà tôi chẳng biết. Khu làng mọi và khu trại của du khách được các cây gai ngăn ra và che khuất nhau rất khéo, khiến cho mỗi bên tạo thành một dinh cơ kín, hai bên không trông thấy nhau và tưởng như không tới được với nhau.
Đến trước bậc thềm gỗ nhà tôi ở, tôi hỏi Balit:
- Ông uống uýt-ki nhé?
Rồi chẳng đội câu trả lời, cũng như lần trước ở nhà ông ta ông chẳng đợi tôi trà lời, tôi liền mở nút chai.
Đã gần giữa trưa. Ánh sáng chiếu thẳng đứng trắng loá như tấm giấy thiếc trước hàng hiên. Bóng cây cối chẳng còn có chút tác dụng gì nữa.
Chúng tôi im lặng uống, một cái im lặng đậm đà, hiền hoà. Giữa một thế giới nóng bỏng gần như sắp tan rã ra, có hai người đàn ông cùng được chở che dưới một mái nhà, cùng bị cái nóng săn đuổi, cùng sung sướng trong một cảnh trễ nải như nhau, và trong mồm, trong máu, có cùng chất rượu dịu dàng. Hai con người hoàn toàn hòa hợp về mặt thể chất, hai người cùng thấy tình bạn ngày càng nảy nở tự nhiên.
- Tiếc thật... ông ra đi vội quá... tiếc thật, - Balit nói (Tiếng ông ta chỉ hơi khẽ vang lên). - Thực tình ông không thể ở lại thêm nữa sao?
Tôi trả lời, đôi môi chỉ khẽ mấp máy:
- Không thể... chỗ máy bay đã giữ rồi.
Balit thở dài:
- Đúng vào một lần tôi có được một khách thăm tử tế.
Ông ta uống nốt rượu và ngắm chiếc cốc. Tôi rót đầy cốc cho ông ta. - Bọn khách du lịch... Ông không biết được cái hạng ấy, - Balit nói.
Chầm chậm, từng ngụm từng ngụm một, ông ta kể về người đàn bà đã đến được tận chân núi Kilimanjarô mà vẫn cần đeo đồ trang sức, và chính người ấy một sớm mai kia đã thấy đồ trang sức của bà ta bốc bay khỏi cái bàn, theo chân một con khỉ. Ông kể cho tôi nghe về những người tỏ ra khổ sở vì các gian lều trong trại không có máy lạnh. Và ông kể về những người trái ngược với những người kia, đã cho mang giường ra nằm ngoài nhà, chỉ vì họ bị ám ảnh vì ý thích được phiêu lưu. Và cả những người hy vọng tìm thấy ở khu Bảo tồn những cái sàn xây dựng trên cao, để từ chỗ ấy đêm đêm họ có thể vừa xem các con thú dưới ánh đèn chiếu vừa uống rượu vang vùng Săngpanho, hệt như khi họ sống tại khách sạn nổi tiếng Tritopx ở Niêri vậy... Và những cặp nam nữ âu yếm tặng nhau những tên thú hoang.
- Ấy thê mà, - Balit kết thúc câu chuyện với vẻ sôi nổi thêm một chút, - khi một trong những vị ấy, vì ngu dốt, vì ì ạch nặng nề, hoặc vì huênh hoang không biết ngượng đã vi phạm quy tắc, và chính vì thế đã bị một con thú cao quý tiến công, thì chính tôi và lính bảo vệ lại phải nhận trách nhiệm giết con thú.
- Vậy ông sẽ làm gì, - tôi hỏi, - nếu đó không phải là một nhiệm vụ?
- Khía cạnh đúng đắn duy nhất của nhiệm vụ, chính là làm cho mọi rắc rối có thể xảy ra không xảy ra được, - Balit nói.
Tôi muốn đáp lại, nhưng đột nhiên ông ra hiệu cho tôi ngồi im. Rồi làm một hiệu khác, ông bảo tôi nhìn lên cao theo hướng ngón tay ông chỉ.
Cách bao lan hàng hiên vài bước, vượt lên trên các cành cây keo và dường như mắc vào những cành keo ấy, một cái đầu thon dài với cái mõm bẹt và thơ ngây đang khẽ đung đưa, cái đầu loang lổ những đốm màu vàng đậm, với đôi tai thành hai hình tam giác rất thẳng, với những lông mi dài, rậm, khêu gợi, màu đen mịn như nhung tựa như của đàn bà A-rập. Một con hươu cao cổ non, duyên dáng và thận trọng, đang đi tìm ăn trong đám gai. Một con nữa xuất hiện phía sau con này bộ to lớn hơn nhiều.
- Con mẹ, - Balit nói trong một hơi thở.
Con mẹ này có một cái cổ cao không cùng, óng ánh như lụa, khẽ đu đưa. Con mẹ tới rúc tìm vào ngọn cây sát con hươu non, đặt lên trên cái đầu con nhỏ một cái đầu cũng hệt như thế: mỏm đốm, tai nhọn, lông mi rậm và tưởng như lông mi giả. Tôi ngắm nghía sửng sốt con quái vật hiền hậu hai đầu ấy.
Hai cái đầu chồng lên nhau khẽ khàng dịch chuyển từ cành này qua cành kia và cuối cùng biến mất.
- Ông thấy đó, ở đây các con thú sống tin cậy và hạnh phúc, - Balit nói. - Những con hươu cao cổ này thuộc loại nhút nhát bậc nhất. Vậy mà chúng cũng dám tới sát lều.
Balit tựa cằm vào nắm tay ông ta. Cái nắm tay hình như khổng lồ hơn cái cằm hình như vuông hơn nữa. Mới uống rượu vào, các vết vằn đỏ trong mắt ông càng nhiều và càng nổi rõ. Thế nhưng, trên cái mõm hung đỏ và dữ dằn thấy hiện ra một ao ước đã thành hình. Điều khó mà tin được.
- Ông thấy tôi ra sao? Với một vú em nuôi các thú hoang, cái mõm tôi thật tức cười, phải thế không? - Ông bạn đồng hành hỏi tôi.
- Thực ra thì, - tôi nói, - mọi người ở Nairobi không nói về một chàng Balit-Bò tót vĩ đại như thể này đâu.
- Balit-Bò tót hử? - Ông chủ của khu Vườn hoàng gia nói dằn từng lời.
Cái cằm của ông ta càng đè nặng hơn nữa lên nắm tay. Vẻ mặt ông trở lại kín như bưng.
- Balit-Bò tót, - ông ta nhắc lại. - Lâu rồi tôi chưa nghe cái tên hiệu ấy[5].
- Tên hiệu ấy thực ra rất hợp với ông, - tôi nói.
Ổng bạn tôi từ từ ngẩng cái đầu hung đỏ to tướng lên.
- Chao ơi, tôi biết, - ông ta nói. - Và tôi đã làm mọi cách có thể được để cho tên đó nổi danh... Balit-Bò tót, kẻ săn trộm ngà voi và sừng tê giác. Balit-Bò tót, tên thợ săn chuyên nghiệp, tay súng bắn thuê, kẻ tiêu diệt muông thú lớn trong nhiều tỉnh.
Tôi nói:
- Khắp vùng đông Phi châu, sự tích của ông đúng là như thế đấy. - Sự thật là như vậy, - Balit nói.
Ông ta đứng lên sừng sững, lao sầm sầm ra ngoài hiên rồi lấy tay nắm gọn bao lơn. Bao lơn rung lên và rền rĩ dưới những ngón tay ông ta.
- Tôi biết làm thế nào trước những lời đồn đại ấy? - Balit hỏi.
Dường như ông ta không hỏi tôi mà đang hỏi cánh rừng thưa, hỏi khu vực thú uống nước và hỏi ngọn Kilimanjarô lặng im và tái nhợt dưới ánh sáng lặng im và tái nhợt.
Ông ta quay trở lại ngồi bên bàn và nói:
- Ngày trước, để khuyến khích tôi học chữ, người ta đã cho tôi một khẩu súng nhẹ. Chưa đầy mười tuổi cha tôi đã dẫn tôi đi săn. Lạy Chúa tôi, người ta đã ru tôi, nuôi dưỡng tôi, nhồi nhét tôi bằng những chuyện săn bắn và những khẩu súng lừng danh. Người ta đã dạy tôi làn theo dấu vết những con thú giỏi ngang một người bản xứ, dạy tôi bắn trúng giữa hai mắt, trúng huyệt vai, trúng giữa tim. Thế rồi khi tôi muốn dùng súng săn hành nghề, thì cha tôi đột nhiên lại nổi điên lên. Ông cụ đã đòi bằng được, hoàn toàn là thế, đòi bằng được đưa tôi về nước Anh trọ học.
Cho tới khi đó Balit vẫn chi nói với riêng mình. Sau rồi ông ta lấy tôi làm người chứng.
- Ông có thể hình dung chuyện đó không, ông ấy? Nhà ngủ, nhà ăn, lớp học, bài học, thay cho lửa trại, thay cho mặt trời trong rừng rậm, thay cho những con thú sống tự do... Tôi chỉ còn một con đường để theo, và tôi đã theo con đường ấy. Tôi đã bỏ nhà ra đi với khẩu súng và đạn dược để sống bằng những thú đó. Và tôi đã sống bằng những thứ đó, sống tốt nữa là khác.
Giọng Balit khi nói những lời cuối cùng đó đã đượm một nỗi buồn kín đáo. Ông ngồi im, trên nét mặt biểu lộ nét mơ màng, khoan dung và hoài nghi của một người già - thế nhưng Balit vẫn chưa tới bốn mươi - khi người đó nhìn lại những niềm vui và những điều ngông cuồng thời trai trẻ, tưởng đâu như là chuyện của kẻ khác vậy.Tôi thấy chẳng khó khăn gì trong việc dõi theo các kỷ niệm của người bạn đồng hành dạn dầy ấy. Quá khứ lăn lộn nơi rừng rậm của ông được khắp nơi biết đến từ bờ biển Ấn Độ Dương cho tới những vùng hồ lớn châu Phi. Tại các tửu quán ở Nairôbi, tại các khách sạn của Uganda, tại các đồn điền ở Tanganyika và Kivu, ở đâu cũng sẵn người kể cho bạn nghe về Balit - Bò tót vào thời thịnh trị của ông ta. Người thì nói về sức khoẻ và sức chịu đựng của ông ta, người khác lại kể về tính kiên trì không thể tưởng tượng được của ông ta, người khác nữa về tính táo tợn của ông ta, người khác nữa về tài đánh hơi và tài bắn chính xác của ông ta. Mỗi người đều chứng minh cho lời mình nói ít nhất bằng một thí dụ lạ kỳ.
Những bầy voi bị tiêu diệt để lấy ngà đem bán cho cánh buôn lậu người Ấn, những đàn trâu bị tàn sát để làm thịt sấy bán cho dân bản địa, những đàn thú bị hạ sát chỉ vì bộ da chúng bán đắt. Rồi những đặc nhiệm chính phủ trao cho Balit tiêu diệt các con thú hoang ở những vùng nào đó vì chúng quá đông. Vô vàn chuyến săn rình để giải thoát cho nhiều làng bị ám ảnh hãi hùng vì những con sư tử - phù thủy và những con báo - mà bằng cách tiêu diệt những con vật ăn thịt người và hiểm nguy, tất thảy đều dính dáng tới cuộc sống động vật, tới rừng rậm không cùng, tới những chòm sao đêm Phi châu... Tôi cảm thấy đó là những hình ảnh hẳn phải tái hiện trong ký ức Balit. Tôi thấy mình chắc đúng khi nghe ông ta nói như trong mơ:
- Kihôrô nhớ đủ mọi chuyện đó.
Âm thanh tiếng nói của chính ông ta khiến ông ý thức được thực tại và thời hiện tại. Nhưng cũng chỉ nhận thức được nửa chừng thôi, vì ông còn
hỏi tôi:
- Làm sao lại có thể như thế được nhỉ?
Và khi thấy rõ tôi không hiểu hết nội dung câu hỏi ông nêu ra, ông đã tiếp tục nói một cách hấp tấp:
- Thực ra thì đơn giản vô cùng. Muốn giết thú được nhiều thì phải hiểu biết chúng đầy đủ. Muốn hiểu biết chúng thì phải yêu chúng, và càng yêu chúng người ta càng giết chúng nhiều hơn. Trong thực tế, còn tồi tệ hơn thế nữa. Chính là càng yêu chúng người ta càng thấy nhu cầu và niềm vui được giết chúng. Khi đó, người ta giết bất kể vì người ta đói hay không đói, bất kể vì có lãi hay không hoặc có bán được đắt hay không, có phép bắn hay không, trên vùng cho phép bắn hay vùng cấm, bất kể con thú nguy hiểm hay không có gì tự vệ hết. Nếu đó là con thú đẹp, đường bệ hoặc duyên dáng, nếu con thú làm cho anh rung động sâu xa vì sức mạnh hoặc vì cái duyên của nó, thế là cứ giết, cứ giết... Vì sao?
- Tôi không rõ, - tôi nói. - Rất có thể là, vào cái thời điểm anh hạ sát con thú, đó cũng là thời điểm duy nhất anh cảm thấy con thú thực sự thuộc về anh.
- Có thể, - Balit nói và nhún vai.
Một bầy linh dương đi ngang giữa khu rừng thưa, in bóng lên nền núi Kilimanjarô. Sừng chúng rất mỏng manh và vươn dài ra phía sau, gần như nằm ngang, nom tựa như cái cánh cong cong.
Balit dõi mắt nhìn theo chúng và nói:
- Giờ đây, tâm hồn tôi tràn đầy niềm vui vì được nhìn thấy chúng, đơn giản chỉ vì được nhìn thấy chúng thôi. Nhưng trước đây thì tôi phải chọn con to nhất đàn, con nhanh nhất, với bộ lông đẹp nhất, và không khi nào tôi để con đó thoát.
- Hôn nhân đã làm ông thay đổi hết chăng? - Tôi hỏi.
- Không, - Balit nói. - Tình trạng đó đã xảy ra trước khi tôi gặp Xibin. Chuyện đó cũng không lý giải nhiều hơn được nữa. Một ngày nào đó, ta nổ súng và con thú ngã xuống như mọi ngày. Nhưng ta chợt thấy chuyện đó khiến ta dửng dưng. Niềm vui máu me, xưa kia mạnh hơn hết thảy mọi niềm vui khác, thì nay không còn nữa. (Balit đưa lòng bàn tay to rộng lên xoa bộ lông đỏ phủ kín bộ ngực phanh trần). Theo lệ thường, ta vẫn tiếp tục cho tới một ngày ta không thể cứ làm như vậy được nữa. Ta yêu thú vì muốn thấy chúng sống chứ không nhằm làm cho chúng chết.
Balit đi ra bậc thềm, ngắm nhìn phong cảnh mênh mông ngập tràn hơi nóng bốc mù mù.
- Tôi không phải trường hợp duy nhất như vậy, - ông ta nói. - Các người đứng đầu Vườn hoàng gia vốn xưa đều là tay săn nhà nghề, tất cả đều là những kẻ sát sinh cải đạo. (Ông nở một nụ cười không vui vẻ). Nhưng do chỗ tôi đi xa hơn họ quá nhiều trong nghề giết thú, nên tôi cũng đi xa hơn họ quá theo hướng ngược lại. Vấn đề tư chất, tôi nghĩ vậy… Vả chăng còn là…
Không nói hết câu, Balit hướng mắt nhìn về cuối khu rừng thưa, nơi đó vào lúc này đám nước chỉ còn như một tấm gương xỉn màu. Ông hỏi tôi:
- Đúng là Patrixia đi đến với các con thú ở chỗ kia chứ?
- Đúng chỗ ấy, - tôi nói. - Không nhìn thấy cảnh đó, không thể tin được. - Khi ta vô hại với chúng, các con thú biết ngay. - Balit nói.
Ông ta quay lại tôi và dường như muốn tìm trên nét mặt tôi, như nhiều lần ông đã làm như vậy, một lời lý giải ông chưa chộp được. Sau rồi ông ta nói:
- Kihôrô báo cáo tôi rằng cháu bé đã nói chuyện lâu với ông.
- Patrixia đã tỏ ra có tình cảm với tôi, - tôi nói, - … cho tới lúc cháu nhớ ra rằng sáng mai tôi ra đi. Khi đó tôi không còn là bạn của cháu nữa.
- Hừ, vậy đó, - Balit thầm thì.
Ông nhắm mắt lại. Đôi vai ông như thể vỡ ra, đôi cánh tay ông buông thõng. Nom ông như một con vật to lớn đang bệnh nặng.
- Con bé sao mà cô đơn, - Balit thì thầm.
Ông mở mắt ra và hỏi tôi:
- Liệu ông có thể ở lại thêm ít ngày không?
Tôi không đáp.
- Mỗi ngày, sáng chiều hai bận, chúng tôi có liên lạc vô tuyến điện với Nairôbi, - Balit nói một cách nhẫn nhịn. - Ông có thể báo lui ngày lấy vé được.
Tôi không trả lời.
- Cũng phải giả định rằng mỗi con người trong cuộc sinh tồn đều có những bổn phận của mình, - Balit nói.
Rồi ông bỏ đi, mắt không nhìn tôi. Như trước đây Patrixia cũng bỏ đi như thế.
X
Tôi rời hàng hiên để vào trong lều và ăn sáng. Với mái tranh nhọn và bùn nhào đắp tường dày, cũng có được một chút mát mẻ.
Bôgô mở các hộp thức ăn và một chai bia. Tôi hỏi anh ta xem anh có gặp lại Patrixia chưa. Anh ta nói: “Thưa ông, không”, rồi lặng im. Vốn đã biết tính anh ta, tôi chẳng hy vọng gì thêm nữa. Thế nhưng, trên đôi má anh và trên trán anh, những hình hình học nhỏ xíu - những tam giác, những hình vuông, những hình tròn - do vô số vết nhăn tạo thành, đang cụ cựa một cách đặc biệt. Anh ta nói tiếp như không định nói ra:
- Tôi không gặp lại cô bé da trắng, nhưng khắp cả làng đều nói với tôi về em đó.
Bôgô dừng một chút, ngập ngừng. Tôi giả tảng mải chú ý vào bữa ăn. Đặt ra bất kỳ câu hỏi nào đều có khả năng gây hốt hoảng cho cái nhu cầu thổ lộ lạ lùng đó.
- Mọi người yêu cô bé lắm, yêu vô cùng, - Bôgô nói tiếp, - nhưng cô bé làm cho họ sợ.
Tôi thốt lên:
- Sợ!
- Cô bé là phù thủy của thú hoang, thưa ông, - Bôgô nói, hạ giọng xuống. - Mọi người thề với tôi rằng cha cô bé là một con sư tử.
Tôi nghĩ tới bộ mặt của Balit và hỏi:
- Người ta có ý nói rằng cha cô bé giống một con sự tử chứ gì? - Người ta nói một con sư tử thực thụ, thưa ông, - Bôgô nói tiếp.
Giọng nói anh ta bớt vẻ đều đều thường lệ, và làn da mặt như có vẩy, nhăn nhúm, đã chuyển màu từ đen sang màu xám, như thể bị nỗi sợ hãi làm đổi màu đi. Ấy thế mà anh ta lại là người theo đạo Kitô, anh ta ăn mặc lối châu Âu và đọc báo tiếng Anh nước Kênya chứ!
- Anh cho rằng chuyện đó có thể được ư? - Tôi hỏi.
- Mọi thứ đều có thể được, thưa ông, - anh tài xế của tôi nói rất nhỏ. - Tất cả, nếu Chúa muốn thế.
Liệu anh ta đang nghĩ tới Chúa của các nhà truyền giáo, hay nghĩ tới những chúa khác xưa hơn và lắm sức mạnh hơn trên mảnh đất châu Phi này?
Anh ta nói tiếp trong tiếng thì thầm.
- Người ta nhìn thấy cô bé đó trong rừng rậm, nằm kề một con sư tử khổng lồ, và con sư tử bế cô bé trong lòng như bế con vậy.
- Ai đã thấy chuyện đó? - Tôi hỏi.
- Mọi người, - Bôgô nói.
- Những người nào?
- Những người đã nhìn thấy, những người biết chuyện, - Bôgô nói.
Anh ta nhìn tôi một cách thảm hại. Tôi không sao đoán nổi anh ta muốn tôi chia cùng chia sẻ hay muốn tôi không tin vào nỗi sợ hãi của anh.
- Thôi đi, Bôgô, - tôi nói, - hãy nhớ lại mọi chuyện chúng ta đã được nghe suốt hành trình và anh đã dịch cho tôi!... Ở Uganđa, người ta đã trông thấy những người-báo, ở Tanganyika lại thấy những người-rắn. Và trên Hồ Victoria, có cả những người đã trò chuyện với Lutambê, con cá sấu thần to lớn sống đã nghìn năm.
- Thưa ông đúng vậy, - Bôgô nói.
Liệu tôi đã thuyết phục nổi anh chưa? Giọng nói anh ta lại trở về dạng cũ hoàn toàn không bộc lộ tình cảm riêng. Cả trên nét mặt anh ta cũng không thể phân tích thấy dấu hiệu gì.
Một lính bảo vệ bước vào trong lều, Bôgô dịch cho tôi nghe lời người lính kia nói. Anh lính bảo vệ đó được cử tới dẫn tôi đi thăm các nơi. Đó cũng là điều do nội quy yêu cầu. Cấm đi lại trong khu vườn hoàng gia mà không kèm người bảo vệ có vũ trang.
Người lính bảo vệ mang súng trường lên xe chúng tôi và ngồi bên Bôgô. Tôi ngồi phía sau.
Khu bảo tồn rộng mênh mông. Nó trải dài hàng trăm và hàng trăm dặm, rừng rậm khi thì lúp xúp khi thì đầy cây to, khi là rừng xavan khi là đồi và núi nhọn. Và đi tới đâu cũng vẫn thấy núi Kilimanjarô đỉnh phủ đầy tuyết án ngữ những vùng nóng cháy và hoang dã. Đâu đâu cũng có các thú hoang. Chưa khi nào tôi thầy nhiều ngựa vằn phi đến thế, chưa khi nào thấy nhiều đà điểu chạy, thấy nhiều sơn dương và linh dương nhảy nhót đến thế, thấy những đàn trâu đông đến thế, thấy những bầy hươu cao cổ nhiều đến thế.
Không có vùng quây, không có rào, không có một dấu hiệu rõ rệt nào ngăn cách khu vườn với khu rừng rậm thường. Ranh giới chỉ nằm trên các bản đồ, các địa bạ. Ấy thế nhưng các con thú dường như cảm thấy, biết rõ (Và truyền đạt điều đó cho nhau bằng một ngôn ngữ bí ẩn) đó là nơi bảo vệ chúng, nơi trú ẩn của chúng.
Sự hùng vĩ của thiên nhiên và sự phong phú của các con thú bắt đầu khiến tôi ngây ngất. Nhưng rất nhanh chóng tôi cảm thấy chính những điều hùng vĩ đó đối với tôi lại trở thành một nguồn gốc của sự khó chịu và dường như của sự đau đớn. Một khi tôi muốn dừng lại và tới gần các con thú, thế là người lính bảo vệ liền ngăn không cho tôi đi quá vài mét mỗi bên đường đi, hơn thế nữa còn kè kè đứng sát tôi. Một khi tôi định cho xe chạy theo một trong hàng ngàn đường mòn sâu vào rừng hoặc len giữa các quả đồi, đi tới những ổ những hang, thế là người lính bảo vệ liền cấm đoán. Chúng tôi không có một chút quyền tự do vượt khỏi lộ trình hợp pháp,
chính thức. Tức là một con đường thô kệch và khá rộng chạy dọc khu Vườn hoàng gia với vài đường nhánh lác đác do Balit cho làm.
Tôi chợt nhớ tới những điều ông ta nói về bọn khách du lịch và những đề phòng của Balit dành cho họ. Tôi cũng chỉ là một người như bọn họ, không hơn không kém.
Nếu tôi đã được sống bữa nay trong Khu bảo tồn như mọi du khách thông thường khác, hẳn tôi phải cảm thấy sung sướng được chiêm ngưỡng các mặt phong phú của Khu theo đúng luật chung. Nhưng Balit đã hứa sẽ cho tôi biết những chỗ kín, những ngóc ngách. Và nhất là, đúng thế, nhất là, tôi đã được cùng Patrixia biết cái khu uống nước của thú vào lúc mặt trời lên.
Thỉnh thoảng, người lính bảo vệ vươn bàn tay dài, đen và xương xẩu chỉ sang phải hoặc sang trái và nói:
- Ximba.
- Tembô.
Những tiếng ấy, những tiếng duy nhất tôi biết trong ngôn ngữ anh ta, có nghĩa là, ở một khu rừng cây gai tái sinh xa xôi mà tôi không được phép đặt chân tới, có sư tử sống tại đó, và ở đó, khuất sau những quả đồi do núi lửa tạo thành, mà tôi không thể tới được, có những đàn voi đang lang thang. Và xe hơi của tôi cứ tiếp tục nảy xóc trên con đường được chỉ định. Tôi có cảm tưởng bị trừng phạt, bị bớt xén, thất vọng, mất mát. Cuối cùng, lại thêm nóng và bụi, không chịu được nữa, bèn ra lệnh cho Bôgô đưa xe quay về trại.
Đến trước lều của tôi, người lính bảo vệ đứng chụm hai gót chân đen không giầy dép, đưa bàn tay đen đủi và xương xẩu lên trên vành mũ kaki, đeo ngược khẩu súng trường xuống và đi về phía làng mọi với một nụ cười cũng sáng bóng như các cúc áo kim loại bẹt và mài bóng của anh ta. Anh ta đã hoàn thành nhiệm vụ: Bảo vệ cho tôi khỏi các con thú và khỏi chính bản thân tôi.
Tôi nhìn mặt trời. Tôi còn được gần một giờ rảnh rỗi trước khi tới nhà vợ chồng Balit tham dự bữa nghi thức dùng trà. Làm gì trong khoảng thời gian đó bây giờ?
Không còn chút sương mù nóng nào nữa. Trời hoàn toàn trong và nhẹ. Ánh sáng và các bóng râm lại đã giỡn trên mặt đất và bên thành vách núi to mênh mông. Trên đỉnh núi hình cái bàn, như một tấm đá lát huyền ảo bằng phẳng và trắng như một bàn thờ dựng lên, tuyết bất động, tuyết vĩnh cửu bắt đầu một cuộc sống sôi sục bí ẩn và trở thành một thứ bọt khi thì xốp rỗng, khi thì trên chòm có màu điều, màu da cam, màu hổ phách và màu vàng.
Sâu trong cánh rừng thưa, không còn trông thấy các con thú nữa. Chim chóc thôi hót. Các con khỉ đã dừng những trò ồn ào. Không một cành cây, không một kim lá còn động đậy, không một cành gai còn lay động trên các con đường mòn. Đó là thời khắc yên tĩnh nghỉ ngơi, dừng chân, lúc này và ở đây nó có đầy đủ sức mạnh vĩ đại, vào lúc hoàng hôn tuy chưa lộ ra nhưng đã báo hiệu sắp tới, vào lúc mặt trời dường như dừng vận động trước khi nhường các dáng hình và các vật sống cho đôi cánh tối tăm của chiều buông.
- Xin ông cho lệnh, thưa ông, - Bôgô hỏi.
Không phải âm thanh giọng nói của anh ta đã khiến tôi rùng mình, mà tôi rùng mình vì tiếng nói anh ta khiến tôi trở về với ý thức, với sự hiện diện của bản thân con người mình. Trước đó một phút, hoặc một giây, hoặc một phần giây - nào tôi biết được và cần gì biết - tôi đã không còn tồn tại trong những giới hạn thảm hại của con người, và tôi đã mất đi, đã hòa tan trong vũ trụ vô hạn, tôi đã trở thành cái vũ trụ ấy chính là bản thân tôi vậy.
Nhưng Bôgô đã lên tiếng và tôi chợt thấy mình cứng quèo, co hẹp lại chỉ trong bản chất mình thôi, dường như đã bị khâu lại một cách miễn cưỡng vào trong làn da thịt tôi vậy. Và bị buộc phải chỉ huy, phải hành động, phải làm một cái gì đó. Và biết làm gì đây cho phù hợp với rừng rậm và tuyết châu Phi khi chiều đang buông trùm lên chúng?
Từ trong đám cây gai kín đáo có hai người bước ra, hai người tộc Maxai.
XI
Mặc dù có ít kinh nghiệm, tôi vẫn biết chắc ngay từ đầu đó là những người thuộc tộc Maxai. Một du khách rất có thể dễ dàng lẫn lộn người tộc Jưluô, tộc Oakamba, tộc Kikuyu, tộc Mêru, tộc Kipxighi và vô vàn tộc người da đen sống trên đất nước Kênya. Nhưng nếu dù chỉ một lần trên các bình nguyên lớn khô khan và trong các rừng rậm nóng bỏng, bắt gặp vài người Maxai, du khách sẽ không thể quên nổi họ hoặc không nhận ra họ.
Ở họ có cái dáng đi vương giả, lười nhác tuy vẫn nhẹ nhõm, cái cách thức cao cả khi cất cao đầu, khi mang ngọn giáo và khi mang tấm lụa vắt vai vừa che đậy lại vừa làm hở hang thân hình họ ra. Ở họ có cái đẹp bí ẩn của những người da đen từ sông Nin tới vào những thời không ai biết và đi theo những con đường không ai rõ cả. Ở họ có cái vẻ dũng mãnh vô tình và ngẫu hứng trong các cử động và trong các đường nét. Và nhất là ở họ có cái vẻ tự do kiêu căng, tự do tuyệt đối, không sao tả nổi, của một dân tộc không thèm khát cái gì cũng chẳng ao ước giống kẻ nào hết, bởi vì đối với họ, những miền hoang vu lởm chởm gai họ sống, đàn gia súc khốn khổ của họ cùng những vũ khí sơ khai do họ rèn bằng kim loại khai thác từ dưới lòng sông cạn, là quá đủ rồi, và họ thừa kiêu hãnh để chẳng lưu lại dấu vết gì, cả nhà cửa lẫn mồ mả nơi cõi người.
Hai người Maxai mới xuất hiện đang đi dọc theo rìa trại. Họ đi, đầu ngẩng cai, gáy thẳng, vẫn cái bước đi nhanh, lờ phờ và nhẹ nhõm như mọi khi. Một người đã già, còn người kia là một moran.
Nghĩa là người đang ở độ tuổi ấn định từ bao thế kỷ theo phong tục của nòi giống, bắt buộc các chiến binh trẻ khi hết tuổi thiếu niên và trở thành vinh quang của dòng máu và tinh hoa của bộ tộc, những người đó trong vài năm trời chẳng có việc gì để làm ngoài việc phải trở nên dũng mãnh và đẹp và phải bộc lộ được các điều đó ra. Dấu hiệu nổi bật cho trạng thái đặc quyền đó là bộ tộc.
Ở vùng đông Phi châu, nơi đó người bản địa, đàn ông đàn bà đều cạo trọc đầu từ khi ra đời tới khi tắt nghỉ, những moran là những người duy
nhất, trong suốt giai đoạn xuân xanh trong bộ tộc, để cho bộ tóc rậm thả sức mọc, không động chạm dao kéo vào. Vì thế, khi tóc vừa phủ kín trán họ không ngừng chăm sóc tóc một cách kiên trì. Họ lấy nhựa một vài loài cây thân thảo những đuôi sam thanh mảnh như sợi dây leo và bện chúng vào với nhau thành mảng chắc. Sau đó, họ lấy mỡ bò dưỡng cho tóc. Tóc sít lại nhau, bóng loáng. Khi đó họ lấy bùn đỏ và đất sét phết lên, phủ kín lại. Thế là trên đầu những chàng trai tóc không còn là tóc nữa. Nó đã thành một chất liệu dã thú và kỳ diệu vừa giống một cái mũ đồng có chóp nhọn kéo dài xuống tận những hàng mi hoang dã và phía sau thì chụp xuống cái gáy màu mun.
Người già và chàng Moran đến gian lều của tôi.
Tôi bảo Bôgô:
- Yêu cầu họ dừng lại một lát.
- Nhưng… thưa ông… nhưng… Bôgô lắp bắp.
Mặt anh ta, dưới những nếp nhăn vô thiên lủng, đã trở nên xám ngoét. - Nhưng đó là người Maxai, - cuối cùng anh ta nói một cách thảm hại.
Bôgô là người tộc Kikuyu. Anh còn nhớ rằng những người chăn thú trên các bình nguyên cằn cỗi đó, những người du cư không nhà cửa và không có cả tình thương ấy, những chiến binh bẩm sinh ấy, từ bao đời rồi, đã phá, đã đốt, đá tiêu diệt sạch sành sanh các xóm thôn dân tộc định cư của anh. Chắc chắn là người Anh đã chặn đứng cuộc chém giết lại. Nhưng vài năm thanh bình đâu đã đủ để xóa sạch những nỗi kinh hoàng không biết có từ bao giờ.
- Có tôi đây với anh, - tôi nói với Bôgô một cách dịu dàng. - Và lính bảo vệ có súng cũng ở liền đây.
- Đúng vậy, thưa ông. - Bôgô thầm thì.
Ấy thế nhưng khi anh ta cất tiếng nói với những người Maxai, tiếng nói của anh ta không còn âm sắc nữa:
"""