"Sử Thi Ấn Độ Vĩ Đại Mahabharata Và Chí Tôn Ca - Người Ấn Độ Cổ full mobi pdf epub azw3 [Văn Hóa] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sử Thi Ấn Độ Vĩ Đại Mahabharata Và Chí Tôn Ca - Người Ấn Độ Cổ full mobi pdf epub azw3 [Văn Hóa] Ebooks Nhóm Zalo SỬ THI ẤN ĐỘ VĨ ĐẠI Mahabharata cùng với Chí Tôn ca Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba Nguyễn Quế Hương dịch và giới thiệu vh nhà xuất bản văn học HIỆN THỰC HÓA EBOOK Quét laser hoặc sao chụp hình ảnh để số hóa phiên bản vật lý thành tín hiệu điện tử: File PDF: không biết ai, bản số hóa copy từ tve-4u. Hình ảnh sao chụp bổ sung những trang thiếu: Mai Dạ Phúc Ca. Chuyển đổi hóa dạng hình ảnh thô thành mã ký tự văn bản điện toán (Tên: từ trang-đến trang): AHBP có nick Facebook: An An: 61-64: 151-154: 589 ☺ Bùi Viết Thành: 55-60: 234-238 ☺ Chu Dinh Hoang: 8-10: 18-20 ☺ Đào Tuấn Giang: 300-320: 619-620 ☺ Glass Doll: 272-278 ☺ Hanh Vu: 160-172 ☺ Hoa Le: 175-177 ☺ Hoai Nam: 611- 616 ☺ Hoàng Nguyễn: 123-128 ☺ Lai Nga: 173-174 ☺ Lana Đỗ: 569-574 ☺ Mập Lê: 65-66 ☺ Mẹ Khánh An: 119-122 ☺ Ngo Hue Minh: 346-348 ☺ Nguyễn Đỗ Tố Uyên: 321-335: 501-540 ☺ Nguyễn Hưng: 567-568 ☺ Nguyễn Thanh Hải: 15-17 ☺ Nguyễn Thanh-Rosy: 75-79 ☺ Nguyễn Tiến Quân: 457-458 ☺ Nhu Quynh Hoang Luu: 67-71: 239-248: 590-610 ☺ Nương Nương: 269-271 ☺ Pham Phuong: 631-638 ☺ Phạm Thùy Giang: 459-470: 472-480 ☺ Phan Thi Huong: 491-500 ☺ Quach Tĩnh: 481-485 ☺ Shiba Inu: 11-14: 133-135 ☺ Tài Phan: 86-116: 584-588: 617-618 ☺ Tâm Chí Thành: 32-33: 36: 39: 72-74: 191-233 ☺ Thanh Huyen: 34-35: 40-41 ☺ Thu Huong Tran: 42-54: 83 ☺ Thu Le: 336-339: 341-345 ☺ Thuy Pham: 621-630 ☺ Tien Tran: 178-188 ☺ Tim Impossible: 85: 249-268 ☺ Trần Hoàng Phúc: 84: 189-190 ☺ Trần Thái Dương: 486-490: 575-583 ☺ Tran Thai Linh: 279-299 ☺ Trang Anh: 21-31 ☺ Trang Bui: 80-82: 639-645 ☺ Tùng Bùi Quang: 541-550 ☺ Vũ Văn Vân: 155-159 ☺ あ お (Hiragana A O nếu lỗi font): 136- 150 ☺ Mai Dạ Phúc Ca: những trang còn lại. AHBP có nick tve-4u: kukienx8: 551-566 ☺ lucifer: 117-118 AHBP giang hồ (không biết ở đâu có thể là tve): huoucoi: 349-456 Gộp, sửa, soát, chế, đóng: Mai Dạ Phúc Ca. Bìa 2 “Mahabharata không chỉ là một sử thi; nó là một khúc lãng mạn kể về những người đàn ông, đàn bà anh hùng, một vài trong số họ còn là thần thánh; và tự bản thân nó đã là toàn thể văn học, chứa đựng mật mã của sự sống; một triết lý về quan hệ xã hội và đạo đức; một trầm tư về những vấn nạn của nhân sinh; nhưng trên hết cả là cội rễ của nó: thánh thi Chí Tôn ca, tác phẩm mà như thế giới đã bắt đầu nhận ra, là bản văn cao trọng nhất, lớn lao nhất mà cực điểm chẳng kém gì sách Khải Huyền." Kulapati, Viện Văn hoá Ân Độ Bìa 3 “Bởi văn học gắn chặt với cuộc sống, nên khi loài người bị phân chia thành các dân tộc, văn học tất nhiên cũng phải chịu ảnh hưởng của sự chia rẽ ấy. Nhưng loại văn học cao thượng nhất thì không bao giờ có biên giới, nó vượt ra khỏi mọi vùng miền và giúp ta nhận chân được cốt tuỷ của nhân loại. Mahabharata là loại văn học ấy, thuộc về cả thế giới chứ không phải chỉ của riêng Ấn Độ." C. Rajagopalachari, triết gia Ấn Độ Bìa 4 ... “Bhishma mỉm cười khi những mũi tên tiếp tục lao xuống cắm vào người ông dày đặc. Ngoảnh về phía Dushasana, ông nói: 'A! Đúng là những mũi tên của Ácgiuna rồi. Không thể là của Xikhanđin được vì ta cảm thấy những mũi tên này đốt thịt da ta như loại cua con cắn vào vào người mẹ chúng ấy'..." ...”Khi Drona nghe nói đứa con thân yêu của ông đã bị giết thì mọi sự gắn bó của ông với cuộc sống đều đứt tung và những ham muốn cũng tan biến đi như chưa bao giờ có... Ông vứt khí giới, ngồi xuống luyện phép yoga trên lớp ván nền xe và chẳng mấy chốc đã cứng đờ. Vào lúc ấy, Dhrishtadyumna tuốt kiếm khỏi vỏ, tiến tới leo lên xe, rồi bất chấp những tiếng kêu khủng khiếp và chê trách của những người xung quanh, chàng chặt đầu Drona, thực hiện điều mà số mệnh dành cho chàng..." -“Cái gì khô héo hơn cọng rơm khô? -Một trái tim đau buồn... -Cái gì lạ lùng nhất đời? -Ai cũng thấy chúng sinh đi về cõi âm ty, nhưng ai còn sống thì lại tìm cách sống đời đời kiếp kiếp. Đấy là điều lạ lùng nhất..." Những đoản văn thấm đẫm trí tuệ Ấn Độ như trên có rất nhiều trong tập Mahabharata, tác phẩm được coi là mênh mông và lớn lao hơn cả Iliad và Odyssey của Homer. Người Ấn đã có một câu phương ngôn nói về pho sử thi nổi tiếng của họ: Cái gì không có trong đó thì cũng không có ở hất cứ nơi nào khác... Contents LỜI NÓI ĐẦU VÀI LỜI VỀ SỬ THI MAHABHARATA I ĐÔI NÉT VỀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 1. Người Aryan vào Ấn Độ 2. Thần ca Rig Veda và vấn đề Yajna 3. Hôn nhân trong công xã nguyên thủy 4. Công xã nguyên thủy tan rã, Varna (đẳng cấp) xuất hiện II VỀ TẬP SỬ THI MAHABHARATA CHƯƠNG 1 DEVAVRATA CHƯƠNG 2 LỜI NGUYỀN CỦA BHISHMA CHƯƠNG 3 AMBA VÀ BHISHMA CHƯƠNG 4 DEVAYANI VÀ KACHA CHƯƠNG 5 DEVAYANI LẤY CHỒNG CHƯƠNG 6 YAYATI CHƯƠNG 7 VIDURA CHƯƠNG 8 KUNTI THẦN NỮ CHƯƠNG 9 VUA PANDU MẤT CHƯƠNG 10 BHIMA CHƯƠNG 11 KARNA CHƯƠNG 12 DRONA CHƯƠNG 13 LÂU ĐÀI BẰNG SÁP CHƯƠNG 14 ANH EM PANDAVA THOÁT NẠN CHƯƠNG 15 GIẾT YÊU TINH BAKASURA CHƯƠNG 16 DRAUPADI CẦU HÔN CHƯƠNG 17 INDRAPRASTHA CHƯƠNG 18 CHIM SARANGA CHƯƠNG 19 JARASANDHA CHƯƠNG 20 GIẾT JARASANDHA CHƯƠNG 21 NGÔI THỨ DANH DỰ SỐ MỘT CHƯƠNG 22 SAKUNI XEN VÀO CUỘC CHƯƠNG 23 LỜI MỜI CHƯƠNG 24 ĐẶT CƯỢC CHƯƠNG 25 NỖI THỐNG KHỔ CỦA DRAUPADI CHƯƠNG 26 NỖI LO LẮNG CỦA DHRITARASHTRA CHƯƠNG 27 LỜI THỀ CỦA KRISHNA CHƯƠNG 28 KIẾM THẦN PASUPATA CHƯƠNG 29 NỖI PHIỀN MUỘN KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN MỚI MẺ CHƯƠNG 30 AGASTYA CHƯƠNG 31 RISHYASRINGA CHƯƠNG 32 SÁM HỐI KHÔNG KẾT QUẢ (CHUYỆN YAVAKRIDA) CHƯƠNG 33 CÁI CHẾT CỦA YAVAKRIDA CHƯƠNG 34 CHỈ HỌC THÔI, KHÔNG ĐỦ CHƯƠNG 35 ASHTAVAKRA CHƯƠNG 36 BHIMA VÀ HANUMAN CHƯƠNG 37 TÔI KHÔNG PHẢI LÀ CON CÒ CHƯƠNG 38 KẺ XẤU BỤNG KHÔNG BAO GIỜ THỎA MÃN CHƯƠNG 39 DURYODHANA BỊ NHỤC CHƯƠNG 40 KRISHNA ĐÓI BỤNG CHƯƠNG 41 CÁI ĐẦM CÓ MA CHƯƠNG 42 LÀM CÔNG VIỆC TÔI TỚ CHƯƠNG 43 ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC BIỆN HỘ CHƯƠNG 44 BẢO VỆ MATSYA CHƯƠNG 45 HOÀNG TỬ UTTARA CHƯƠNG 46 GIỮ TRỌN LỜI THỀ CHƯƠNG 47 ẢO TƯỞNG CỦA VIRATA CHƯƠNG 48 KHAI MẠC HỘI ĐỒNG CHƯƠNG 49 NGƯỜI ĐÁNH XE CỦA ARJUNA CHƯƠNG 50 SALYA CHỐNG LẠI CÁC CHÁU CHƯƠNG 51 VRITRA CHƯƠNG 52 NAHUSHA CHƯƠNG 53 SỨ MẠNG CỦA SANJAYA CHƯƠNG 54 KHÔNG MỘT TẤC ĐẤT CẮM DÙI CHƯƠNG 55 SỨ MẠNG CỦA KRISHNA CHƯƠNG 56 TÌNH NGHĨA VỚI BỔN PHẬN CHƯƠNG 57 TỔNG THỐNG LĨNH QUÂN PANDAVA CHƯƠNG 58 TỔNG THỐNG LĨNH QUÂN ĐỘI KAURAVA CHƯƠNG 59 BLARAMA CHƯƠNG 60 RUKMINI CHƯƠNG 61 BẤT HỢP TÁC CHƯƠNG 62 KRISHNA GIÁO HUẤN CHÍ TÔN CA BẠT CHÍ TÔN CA TRONG ĐỜI SỐNG ẤN ĐỘ BHAGAVAD GITA : CA KHÚC VỀ ĐẤNG CHÍ TÔN KHÚC MỘT: YOGA VỀ SỰ NGẦN NGẠI VÀ ƯU SẦU CỦA ARJUNA KHÚC HAI: YOGA VỀ TRI THỨC CHÂN CHÍNH [Samkhya Yoga] KHÚC BA: YOGA VỀ HÀNH ĐỘNG THEO CHÍNH ĐẠO [Karma Yoga] KHÚC BỐN: YOGA VỀ TRI THỨC VÀ SỰ KHƯỚC TỪ HÀNH ĐỘNG [Jnana Yoga] KHÚC NĂM: YOGA VỀ SỰ CHỐI TỪ HÀNH ĐỘNG [Karmasannyasa Yoga] KHÚC SÁU: YOGA VỀ THIỀN ĐỊNH [Dhyana Yoga] KHÚC BẢY: YOGA VỀ TRI THỨC VÀ GIÁC NGỘ [Jnànavijnàna Yoga] KHÚC TÁM: YOGA VỀ BRAHMAN BẤT DIỆT [Aksharabrahmayoga] KHÚC CHÍN: YOGA VỀ TRI THỨC TỐI THƯỢNG VÀ BÍ ẨN TỐI THƯỢNG [Rajavidyarajaguhyayoga] KHÚC MƯỜI: YOGA VỀ SỰ HIỂN LỘ LINH THÁNH [Vibhutiyoga] KHÚC MƯỜI MỘT: YOGA VỀ SỰ HIỂN LỘ HÌNH THỨC VŨ TRỤ [Vishvarupadarshanayoga] KHÚC MƯỜI HAI: YOGA VỀ LÒNG SÙNG ĐẠO [Bhaktiyoga] KHÚC MƯỜI BA: YOGA VỀ CÁNH ĐỒNG VÀ NGƯỜI HIỂU BIẾT CÁNH ĐỒNG [Kshetraksetrajnavibhagayoga] KHÚC MƯỜI BỐN: YOGA VỀ SỰ PHÂN BIỆT GIỮA BA PHẨM TÍNH [Gunatrayavibhagayoga] KHÚC MƯỜI LĂM: YOGA VỀ BẢN NGÃ TỐI THƯỢNG [Purushottamayoga] KHÚC MƯỜI SÁU: YOGA VỀ NHỮNG BẢN TÍNH THÁNH THIỆN VÀ XẤU ÁC [Daivasurasanpadvibhagayoga] KHÚC MƯỜI BẢY: YOGA VỀ BA NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN [Shraddhatrayavighagayoga] KHÚC MƯỜI TÁM: YOGA VỀ SỰ GIẢI THOÁT BẰNG TỪ BỎ [Mokshasannyasayoga] CHƯƠNG 63 YUDHISHTHIRA TÌM LỜI BAN PHÚC CHƯƠNG 64 NGÀY GIAO CHIẾN ĐẦU TIÊN CHƯƠNG 65 NGÀY THỨ HAI CHƯƠNG 66 NGÀY GIAO TRANH THỨ BA CHƯƠNG 67 NGÀY THỨ TƯ CHƯƠNG 68 NGÀY THỨ NĂM CHƯƠNG 69 NGÀY THỨ SÁU CHƯƠNG 70 NGÀY THỨ BẢY CHƯƠNG 71 NGÀY THỨ TÁM CHƯƠNG 72 NGÀY THỨ CHÍN CHƯƠNG 73 BHISHMA QUA ĐỜI CHƯƠNG 74 KARNA VÀ NGƯỜI ÔNG CHƯƠNG 75 DRONA THỐNG LĨNH QUÂN ĐỘI CHƯƠNG 76 MƯU TOAN BẮT SỐNG YUDHISHTHIRA CHƯƠNG 77 NGÀY THỨ MƯỜI HAI CHƯƠNG 78 BHAGADATTA CAN TRƯỜNG CHƯƠNG 79 ABHIMANYU CHƯƠNG 80 CÁI CHẾT CỦA ABHIMANYU CHƯƠNG 81 NỖI ĐAU KHỔ CỦA NGƯỜI BÁC CHƯƠNG 82 VUA XỨ SINDHUS CHƯƠNG 83 ÁO GIÁP MƯỢN CHƯƠNG 84 NHỮNG MỐI NGHI NGẠI CỦA YUDHISHTHIRA CHƯƠNG 85 YUDHISHTHIRA HY VỌNG MỘT CÁCH NGÂY THƠ CHƯƠNG 86 KARNA VÀ BHIMA CHƯƠNG 87 TÔN TRỌNG LỜI CAM KẾT CHƯƠNG 88 CÁI CHẾT CỦA SOMADATTA CHƯƠNG 89 JAYADRATHA BỊ GIẾT CHƯƠNG 90 DRONA QUA ĐỜI CHƯƠNG 91 CÁI CHẾT CỦA Karna CHƯƠNG 92 DURYODHANA CHƯƠNG 93 ANH EM PANDAVA BỊ OÁN TRÁCH CHƯƠNG 94 ASWATTHAMA CHƯƠNG 95 ĐƯỢC TRẢ THÙ CHƯƠNG 96 AI CÓ THỂ AN ỦI ĐƯỢC? CHƯƠNG 97 NỖI ĐAU LÒNG CỦA YUDHISHTHIRA CHƯƠNG 98 NGƯỜI NGƯỜI KHUYÊN GIẢI YUDHISHTHIRA CHƯƠNG 99 LÒNG ĐỐ KỊ CHƯƠNG 100 UTANGA CHƯƠNG 101 MỘT PAOĐƠ BỘT NGÔ CHƯƠNG 102 LUẬT PHÁP CỦA YUDHISHTHIRA CHƯƠNG 103 DHRITARASHTRA CHƯƠNG 104 BA NGƯỜI ĐI SANG THẾ GIỚI BÊN KIA CHƯƠNG 105 KRISHNA QUA ĐỜI CHƯƠNG 106 CUỘC THỬ THÁCH YUDHISHTHIRA LẦN CUỐI CÙNG LỜI NÓI ĐẦU1 Ấn Độ là một nước có một diện tích rộng lớn. Và cũng như các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ có một nền văn hóa lâu đời và rực rỡ vào bậc nhất thế giới. Nói tới tư tưởng và văn học Ấn Độ, chúng ta nghĩ ngay tới những công trình kiến trúc tuyệt vời, chúng ta nghĩ tới kinh Veda, kinh Upanishads, kinh Phật, đặc biệt là kinh Phật - những tác phẩm lớn lao trong lâu đài văn hóa của nhân loại. Nhưng, bên cạnh đó, chúng ta không quên rằng, từ những niên kỷ xa xưa, Ấn Độ đã để lại cho người sau một nền văn học cổ vô giá, mà nổi bật nhất là hai tập sử thi Ramayana và Mahabharata. Riêng tập Mahabharata lớn lao đến nỗi mà người Ấn Độ quan niệm nó đã được thần linh ban cho. Cũng theo truyền thuyết, tác phẩm vừa ra đời thì đã được dùng ngay làm sách dạy học cho các bậc vua chúa, đạo sĩ, thần linh, Trời... Và cứ như thế qua hàng nghìn năm, tác phẩm vẫn dồi dào sức sống, hùng vĩ như núi Hi-mã-lạp-sơn, cuồn cuộn như nước sông Hằng và rực thắm như bông hoa Patala nơi rừng già Ấn Độ. Nó cũng đã thu hút sự chú ý say mê, thán phục của tân thế giới, từ các nhà Đông phương học, đến các nhà văn, nhà tư tưởng. Bởi một lẽ cũng đơn giản: qua tập sử thi, người Ấn Độ thời xưa đã băn khoăn đi tìm một lẽ sống mà họ cho là tốt đẹp nhất trong một thời buổi nhiễu nhương đầy những xung đột; họ cũng đã rung động với những tình cảm, những ước mơ nhân văn chủ nghĩa nhất, ước mơ hòa bình, ước mơ một phong cách sống hào hùng, ước mơ những quan hệ tốt giữa người và người v.v... Giới thiệu tác phẩm Mahabharata với bạn đọc, trước hết chúng tôi hy vọng để bạn đọc tiếp xúc thêm nữa với nền văn học Ấn Độ và qua đó, phần nào hiểu được sinh hoạt xưa của một dân tộc. Vì, có thể nói, tập sử thi này quả là một đại dương mênh mông, nó bao quát nhiều mặt của cuộc sống, nó chứa đựng nhiều vấn đề triết học, sử học, xã hội học, dân tộc học... Và như người xưa nhận định, "cái gì không thấy có trong đó thì sẽ không có ở bất cứ đấu". Riêng đối với những nhà nghiên cứu không những nền văn minh Ấn Độ, mà cả nền văn học Việt Nam, đặc biệt văn học dân gian, chúng tôi nghĩ rằng tác phẩm này sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích. Chúng tôi xin có vài lời vê công việc của nhóm những ngươi dịch, chúng tôi muốn nói về anh Cao Huy Đỉnh. Từ lúc kết thúc công cuộc nghiên cứu ở Ấn Độ về, anh Cao Huy Đỉnh luôn luôn ấp ủ ý muốn giới thiệu lần lần và có hệ thống nền văn học và triết học của nước đó. Chúng ta đã được đọc một số tác phẩm hoặc bản dịch của anh như Thần thoại Ấn Độ, Sơkuntơla, Tagorơ, v. v... Anh còn định, nếu có hoàn cảnh thuận lợi, sẽ cho ra mắt bạn đọc những truyện cổ dân gian như Bẩy mươi đêm đối đáp, Hai mươi đêm đối đáp (trích trong tập truyện cố Án Độ Khuấy biển thời gian). Chúng tôi đã cùng cộng tác với anh Cao Huy Đỉnh bắt đầu dịch tập Mahabharata từ những năm 1972-1973, nhưng công việc còn dở dang thì anh mất. Chúng tôi vẫn tiến hành công việc theo đúng kế hoạch đã bàn với anh lúc anh còn sống, nhưng không có sự góp sức của anh nên chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tra cứu bản gốc mà anh Cao Huy Đỉnh chưa tìm được. Vì không có nguyên bản, chúng tôi đã dịch theo bản. tiếng Anh của C. Rajagopalachari (biên soạn lại); nó chưa hoàn toàn đầy đủ. Trong khi chờ đợi một bản dịch hoàn chỉnh hơn, chúng tôi hy vọng các bạn đọc sẽ được vừa lòng-một phần nào. PHẠM THỦY BA VÀI LỜI VỀ SỬ THI MAHABHARATA Người Ấn Độ có một câu phương ngôn về hai sử thi nổi tiếng2 của họ: “Cái gì không có trong đó thì cũng không có ở bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ”. Cuốn sách này giới thiệu với bạn đọc bản dịch bộ sử thi thứ nhất3. Trước khi tiếp xúc thẳng với tác phẩm chúng tôi lưu ý bạn đọc một số điều cần thiết để làm cơ sử tìm hiểu vô vàn những điều phong phú mà người Ấn độ gửi gắm trong đó. Đây là những điều ghi chép được trong thời gian sống ở Ấn độ (những năm 1957, 1958, 1959” cùng với suy nghĩ của chúng tôi về đất nước, con người liên quan đến bộ sử thi. Phân tích toàn diện “tòa lâu đài văn hóa” này là nhiệm vụ của một công trình khác4. I ĐÔI NÉT VỀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 1. Người Aryan vào Ấn Độ Người Aryan tran vào Ấn độ thì thần thoại Ấn Độ biểu hiện thành hệ thống: “thời kỳ anh hùng ca”. Cần ghi nhận đôi nét về người Aryan để hiểu Mahabharata và anh hùng ca Ấn Độ. Trong lịch sử thế giới cổ đại, vấn đề người Aryan là một vấn đề lớn đã từng được giới sử học tranh luận nhiều. Trong phạm vị của chúng ta, chỉ cần rút ra những kết luận đã được khẳng định: - Người Aryan là tổ tiên của những người Âu – Á tại một số nước lớn. Thoạt tiên, họ ở tại một địa điểm cư trú tập trung rồi phân tán đi các nơi5. - Quá trình phân tán của người Aryan gắn liền với nạn hồng thủy, chiến tranh bộ lạc và thời kỳ du mục từ đầu đến giữa thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên. Một nhánh người Aryan vào Ấn Độ qua dãy Himalaya đến vùng Punjab và Kashmir. Người Ấn Độ đinh ninh rằng trước khi người Aryan vào Ấn Độ thì Ấn Độ đã có cư dân bản địa. Kết quả khảo cố học cho hay vào khoản thời gian ba ngàn năm trước công nguyên đã có một giống người sống ở lưu vực sông Indux thuộc chủng tộc Samêrian và Đraviadian. Họ đã có nền nông nghiệp khá cao bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Dấu tích người Đravidian còn rõ ở ngữ ngôn miền Nam Ấn Độ. Họ đã xây dựng được những đô thị với những công trình kiến trúc khá điêu luyện và đạt đến một trình độ điêu khắc khá cao. Vậy mà người Aryan đã chiến thắng họ. Quá trình du mục và định cư của người Aryan trên đất Ấn Độ là quá trình hình thành nền văn hóa hoàn chỉnh của nước Ấn Độ, bao gồm “văn hóa Aryan đã được Ấn Độ hóa và văn hóa Ấn ĐỘ gốc tiền Aryan cũng đã được Aryan hóa làm cho nó vừa thống nhất vừa phức tạp, tạo nên một đặc điểm chủ yếu của văn hóa Ấn Độ…”6. 2. Thần ca Rig Veda và vấn đề Yajna Rig Veda là tài liệu quan trọng để tìm hiểu lịch sử Ấn Độ cổ đại7. Qua Rig Veda, có thể biết được phương thức sản xuất cơ sở xã hội của Ấn Độ cổ đại bao gồm cư dân bản địa và người Aryan. Quá trình phát triển ấy trên đất Ấn cũng chính là thời kỳ ra đời của những kỳ tích nghệ thuật rực rỡ trên truyền thống văn hóa vốn có trước đó. Rig Veda phản ánh một vấn đề cơ bản về đời sống người cổ đại Ấn Độ: Vấn đề Yajna trong công xã nguyên thủy. Yajna là phương thức sản xuất trong công xã nguyên thủy. Người Aryan cho rằng lịch sử chia làm bốn thời kỳ (Yuga): - Krita - Treta - Đoapara (Dwapara) - Kali Mỗi thời kỳ có một giai đoạn rạng đông đi trước gọi là Xandia (Sandhya) và một giai đoạn hoàng hôn đi sau gọi là Xandiansa (Sandhyansa). Mỗi giai đoạn ấy bằng một phần mười của yuga. Krita (4800 năm): Thời kỳ con người được tuyệt đối trong sạch, không có xấu xa tội lỗi, thù hằn, ghen tuông con người cùng làm chia đều của cho nhau ăn. Treata (3600 năm): Một phần tư sự trong sạch bị giảm đi, sự hưởng thụ không trực tiếp nữa, phải thông qua hiến tế và nghi lễ. Muốn được trong sạch, con người phải thực hiện nghi lễ và hiến tế. Cuộc đời tinh thần bắt đầu tách rời cuộc sống vật chất. Con người nhìn mình qua thần quyền. Đoapara (Dwapara) (2900 năm): Một nửa sự trong sạch bị giảm đi. Khát khao, tham lam, khổ cực, than vãn ngày một nhiều thêm. Ít người chuộng sự thật. Nghi lễ đã phức tạp. Kali ( ước chừng 1200 năm): Giá trị chân chính chỉ còn một phần tư. Đói khát, tội lỗi, hung bạo, khổ cực đầy rẫy. Nghi lễ cũng không còn nữa. Đây là năm của thần, mỗi năm bằng 360 năm người, vì vậy cả bốn thời kỳ tính ra năm người là 4.320.000 năm. Như vậy, mỗi thời kỳ trên đây phản ánh dưới hình thức huyền thoại những ý nghĩa về sự phát triển của vũ trụ, của loài người. Mỗi giai đoạn có quy luật lười vận động, có tổ chức sản xuất, tổ chức xã hội, phong tục tín ngưỡng… mà chúng ta cần nêu lên những nét chính sau đây. Thời kỳ Krita là thời kỳ chiến đấu với thiên nhiên, với thú dữ để kiếm ăn. Nhiều người bị chết, cho đến cả Prajapati là đấng Sáng Thế cũng phải “đẻ non” hay “sẩy thai” vì thiếu ăn. Đến khi tìm ra sữa mới phục hồi được sức của Prajapati. Cốt lõi hiện thực ở đây là giai đoạn chăn nuôi phát triển. Đối với người Ấn Độ sữa là thức ăn chính lâu đời. Có sữa, Đấng Prajapati lại tiếp tục nhiệm vụ sáng thế. Do đó, thế giới tiếp tục nảy nở và phát triển. Cũng trong thời kỳ này, các vị thần cầu Indra dùng dao bằng đá và dao bằng xương để kiếm ăn và tự vệ. Trong suốt thời kỳ Krita người Aryan đã đi qua 60 vùng, cùng làm cùng hưởng, cùng chống chọi với thiên nhiên và thú dữ. Đến lúc tìm được lửa và nuôi súc vật với kỹ thuật khá hơn thì cuộc sống liên có bước tiến nhảy vọt. Theo Aawngghen, đó là hai yếu tố trực tiếp giải phóng con người. Người Aryan gọi Thần Lửa là Anhi (Agni), gọi sự chăn nuôi phồn thịnh và dân cư đông đúc là Poraja Pasavat (Praja Pashavah). Từ đây biết ăn thịt chín, chăn nuôi phát triển hơn, sữa cũng nhiều ra. Qua Rig Veda, ta nhận thấy người Aryan coi Agni là lực lượng tạo nên sự biến chuyển cơ bản trong xã hội. Agni giúp con người chế tạo ra các đồ kim khí, bảo vệ sự định cư. Người Aryan xây dựng đời sống trên cơ sở mới: lửa và súc vật. Đã qua thời kỳ du mục, đến thời kỳ định cư. Trong Rig Veda đã chỉ rõ đặc điểm từng thời kỳ. “Krita lang thang đây đó mà lớn lên Treta khôn hồn đứng một chỗ!” Thời kỳ Treta chính là thời kỳ Yajna, nghĩa là xuất hiện một phương thức sản xuất mới. Đáng sáng tạo (Brahman) (Đấng Sáng tạo có hai cách gọi: Prajapati đã nêu ở trên và Brahman) ban cho con người món quà quý. Yajna đã đưa người Aryan đến thịnh vượng. Yajna được thực hiện thì Brahman tồn tại, Yajna và Brahman gắn bó với nhau, như bóng với hình8. Có thể định nghĩa như sau: Brahman là công xã của người Aryan và Yajna là phương thức sản xuất, đó là công xã nguyên thủy và phương thức sản xuất tập thể. Ở đây không thể hiểu công xã theo nghĩa đất đai, mà phải hiểu đó là tất cả mọi thành quả do người Aryan tạo nên bằng phương thức Yajna. Trong công xã Brahman, ở trình độ thấp của thời nguyên thủy, chỉ có lao động tập thể mới tồn tại được. Phương thức Yajna trong văn học Veda là yếu tố chỉ đạo tất cả cuộc sống của công xã. Các nhà nghiên cứu phương Tây đã thần bí hóa Yajna. Do tư duy huyền thoại, người Aryan coi tổ tiên mình và mọi lực lượng thiên nhiên là thần và Yajna do thần linh thực hiện. Nhưng bản chất Yajna là phương thức sản xuất của những người Aryan đầu tiên trên đất Ấn Độ. Sau này Yajna có biến chuyển theo sự phát triển của xã hội. Ở giai đoạn đầu tiên, Yajna còn được gọi là Satra, có những đặc điểm riêng cần chú ý. Tất cả mọi người đều chung sức thực hiện phương thức Yajna. Về sau khi tư hữu xuất hiện mới phân ra hai hạng người: Người đứng ra thuê và người đi làm thuê. Hai hạng người này được phản ánh trong nghi lễ: Yajna là người chủ gia đình trả công cho người thực hành nghi lễ, ritvija là người thực hiện satra. Mọi người trong công xã cùng sản xuất, cùng hưởng, tinh thần cộng đồng biểu hiện rõ rệt trong nghi lễ. Khi làm lễ mọi người cùng uống rượu soma trong một bình chung. Qua các truyền thuyết trong Rig Veda như Agnisterma, Semayaga, Snadanja, Krata, và Devasatra, ta có thể biết được công xã nguyên thủy là một tập đoàn rất nhỏ như kiểu tập đoàn bộ lạc của người Polynesian, giống như một số làng Ấn Độ bây giờ. Của chung của công xã là đàn súc vật được bảo vệ trong một khu tường bằng đá xếp gọi là Atmavoraja (Ashmavraja). Bếp lửa chung đốt bằng gỗ Xamit (Samidh). Gần bếp là nhà chung của công xã trong để các hũ sữa, mì, v.v... Nhà làm kiểu đặc biệt để cất rượu soma, rượu ấy đựng trong những bình gọi là Goraha (Grahas)9. Nơi tập hợp công xã là mahavedi dài khoảng 32m, rộng 21m có những mô đất trải cỏ làm chỗ ngồi. Người trong công xã tụ tập nhau ở đây để phân công việc, cùng ăn, hát, múa vui với thần Lửa, ca ngợi thần Lửa. Hằng ngày, từ sáng sớm, cả công xã tụ tập lại phân nhau công việc làm. Người thì đem cây soma giã làm rượu. Người thì đi cắt cỏ làm đệm ngồi, làm đồ che thân, bện giầy cột súc vật hoặc dùng cỏ để lợp lều. Người đi lấy củi đốt lửa. Nhóm vắt bò sữa, sữa cừu gọi là duhita. Nhóm giết súc vật lấy da làm shamita. Họ giã mì trong cối đá, đựng đồ trong những dụng cụ bằng đất. Thúng mủng làm bằng cỏ hoặc gỗ. Dao bằng xương. Người được tuyển lựa để làm đôn đốc công việc là grihapati. Ađơhoaryux là người vừa làm vừa dạy việc. Udgađa là người quản ca múa. Brahman kiểm soát họ về mặt tinh thần. Theo luật đácma (dharma) mọi vật làm ra đều để dùng và tiêu thụ. Các thần cùng dự cuộc chia phần. Nghi lễ havana là hình thức chia phần thực phẩm cho cả công xã chính là một mặt của phương thức Yajna. Mọi công việc bắt đầu bằng tiệc rượu soma. Lúc nghỉ ngơi cùng uống soma. Bữa ăn hàng ngày phong phú nhất là thịt dê, cừu, nai. Thịt bò cũng có nhưng là món ăn ngon nên ngày càng hiếm. Khi ăn uống no say, người Aryan đáng giấc ngủ ngon lành quanh đống lửa. Đến thời kỳ công xã gia đình thì về ngủ ở lều. Tổ chức nguyên thuỷ này của người Aryan gọi là gana trong đó quan hệ sản xuất đồng thời là quan hệ huyết thống. Đó là hình thái sớm nhất, có trước cả triratra, có tính chất tự quản, mọi việc điều hoà theo nhu cầu có tính chất tự nhiên trong tập thể công xã. Giới hạn của gana không phải là khu vực đất đai cũng không phải là một gì khác mà là giời hạn theo phạm vi người cùng huyết thông. Có thể dẫn ra một số danh từ chỉ những hoạt động sản xuất nguyên thuỷ trùng với những danh từ chỉ quan hệ huyết thống. Ma: phân phối đồ ăn cho mọi người, đo đạc Matru: mẹ Pa: che chở Papatru: cha Dah: vắt sữa Dahitru: con gái Một gana thường có khoảng 500 người với 100 con bò cái, vài con bò đực và 100 con dê. Để tìm chỗ ở và của cải, gana phải trải qua vất vả chết chóc và thường xuyên chống kẻ địch từ bên ngoài gana. Khi xảy ra tình trạng người trong gana chết nhiều thì phải lấy thêm tù bình ở bộ lạc khác hay nhập hẳn vào bộ lạc khác. Trong những điều kiện xã hội nguyên thuỷ, những thị tộc bộ lạc mỗi khi tách rời ra thành tổ chức mới rất mau chóng đổi thay và mang những tính chất khác hẳn với bộ lạc gốc, có thể xa lạ với bộ lạc gốc hoặc trở thành thù địch với nhau. Về tiếng nói có sự pha tạp rất đáng chú ý. Tình hình gana ở Ấn Độ cũng vậy. Do những sự biến động trong quá trình di cư, nên tiếp sanscrit (tiếng Phạn) trở nên rất phức tạp. Nhà ngữ pháp Ấn Độ Panini thời cổ phân tích được 21 hình thức của 7 trường hợp biến cách của đại từ asmad là tôi và yushmad là mày và Punini đã đặt ra 23 luật cho 21 hình thức đó (23 luật thì hoá ra chẳng có luật nào!). Chiến tranh thường xuyên xảy ra. Toàn thể công xã tham gia chiến tranh như là tham gia vào lao động hàng ngày, vì đó cũng chính là một bộ phận của phương thức chung yajna. Mục đích chiến tranh là nhằm cướp thêm súc vật, nước uống, đồng cỏ. Người chỉ huy chiến tranh cũng là người cầm đầu thời bình, không có tính chất “tướng” thời phong kiến, nhưng cách gọi lại khác. Khi không có chiến tranh thì người cầm đầu được gọi là Athivarya, khi chiến tranh xảy ra, người chỉ huy được gọi là Bơramanapati (Bramanaspati) hoặc Bơruhapati (Bruhaspati). Tập AtharvaVeda (tập 4) tả người chỉ huy mặc áo đỏ, cầm dây dài để ném, mang mác dài có ba mũi nhọn và một cái ngà voi làm vũ khí. Gana nào thắng thì bắt lấy súc vật, thực phẩm, phụ nữ và trẻ em, trói những người tù binh đàn ông rồi đem về chỗ thường ngày. Trong phương thức Yajna, việc phân phối sản phẩm cho các thành viên của công xã là một mặt quan trọng của phương thức. Việc phân phối diễn ra dưới nhiều hình thức nghi lễ. Ngày thường, người Aryan chia những sản phẩm cho người trong công xã dùng qua những nghi lễ Havana, Havi, Hatasara hay Yajơnasita. Sau chiến tranh, việc phân phối chiến lợi phẩm cũng diễn ra qua hình thức nghi lễ Đanam. Trong Rig Veda, nó có nghĩa là “chia”. Về sau, có nghĩa là: bố thí, thương người, nhân đạo. Lễ Đanam do Bơramanapati làm chủ. Nơi để các chiến lợi phẩm đem chia gọi là Vasuni nghĩa là do một mẹ đẻ ra. Mẹ đó là Vasu. Trong công xã, Đanam là công cụ bảo đảm sự sống chung. Sau này Đanam dần dần thành một tập tục. Vì vậy đến thời nô lệ, những ông vua nô lệ đi đánh giặc về không phân phát chiến lợi phẩm cho quân sĩ bị nhân dân voi đó là một ông vua xấu. Tóm lại, Yajna là một hình thức hiến tế mà nội dung xã hội là phương thức sản xuất của người Aryan, phương thức ấy bao gồm nhiều yếu tố như đã phân tích ở trên tạo thành đặc điểm cơ bản của công xác nguyên thủy Ấn Độ, là một phương thức sản xuất tập thể. Truyện kể Akhyayika là một biểu hiện cua rý nghĩa sản xuất tập thể đó: “ Ở trong Ganna có ba thần tên là Vasu, Rudra, Aditya cai quản ba tập đoàn. Prajapati – Đấng Sáng thế - thắp từ một ngọn lửa thiêng chia cho mỗi tập đoàn là một ngọn lửa và bắt phải thờ ngọn lửa ấy. Cả ba thần đều thờ chung ngọn lửa ấy, được một năm sinh ra một con bò. Prajapati rất thích bèn đem con bò cho tập đoàn – Vasu. Tập đoàn này nuôn thành được 333 con bò khác. Prajapati lại đem con bò mẹ cho tập đoàn Rudra. Rudra lại nuôi thành được 333 con bò khác. Đến lượt tập đoàn Aditya nuôi, con bò mẹ cũng đẻ được 333 con nữa. Cuối cùng, cả ba tập đoàn tập hợp cả 999 con lại cùng với con bò mẹ làm thành một Yajna với 1000 con bò rồi đem cho khắp mọi nơi gọi là Dahsina hay là quà biếu”. 3. Hôn nhân trong công xã nguyên thủy Người Ấn Độ cổ đại quan niệm: đã có bốn Yuga thì cũng có bốn loại hôn nhân sinh con đẻ cái và làm ra của cải. Họ đặt tên cho hôn nhân ở bốn thời kỳ là: - Thời Krita: Samkalpa - Thời Treta: Xampacsa (Samsparsha) - Thời Đoa para (Dwapara): Maithuna - Thời Kali: Đoan đoa (Dwandwa) Samkalpa là hỗn độn, quan hệ hôn nhân vô ý thức theo bản năng. Samsparsha là hôn nhân có tính cách quần hôn giữa hai gô tơ rơ10. Ở giai đoạn này, hỗn độn và hôn nhân trong phạm vi thành viên một gô tơ rơ đã thành lệ cấm. Maithuna là thời kỳ cuối cùng của hôn nhân tự nhiên, là giai đoạn chót của quần hôn. Hình thành dần dần hình thức cá nhân sóng đôi (cặp vợ chồng). Đoan đoa (Dwandwa) là hôn nhân lứa đôi của thời kỳ Kali. Lúc này phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn vào đàn ông và đàn ông đã chiếm độc quyền tư hữu về họ. Trên đây là sự biến chuyển theo lịch sử của những hình thái hôn nhân. Cần tìm hiểu thêm về những mối quan hệ cụ thể trong từng thời kỳ hôn nhân được thần thoại phản ánh lại: - Ở thời kỳ Samkalpa, diễn ra tình trạng hỗ dâm giữa chan mẹ con cái, anh chị em. Đấng Prajapati nằm với con gái; Brahman, một đấng sáng thế cũng vậy. Về sau mối quan hệ hôn nhân này không được chấp nhận nữa thì có chuyện Prajapati hoán thành con nai đực và con gái là Đyana hóa thành con nai cái để ăn nằm với nhau cho các thần khỏi quả trách, nhưng sau các thần cũng biết và Prajapati bị bắn một mũi tên thấu người. Càng về sau, tiến bộ hơn, khi ý thức đã phát triển thì tình trạng quần hôn chỉ xảy ra giữa đống thế hệ: bậc ông bà với nhau, bậc cha chú, mẹ cô với nhau, bậc anh chị em với nhau. - Qua thời kỳ Samsparsha, là thời kỳ cấm quan hệ hôn nhân giữa anh chị em. Việc cấm đoán này khó thực hiện vì ở lứa tuổi này người còn đông và bình đẳng với nhau. Trong Rig Vê đa, Yami, chị của Yama, muốn nằm với Yama, nhưng Yama từ chối và bảo: “Các thần sẽ không bằng long”. Yami nói ngay “Các thần không cấm đâu”. Như vậy chứng tỏ hình thức hôn nhân này tồn tại dai dẳng. Có thể dẫn ra một chuyện khác: Xita, một con gái của Prajapati đòi nằm với anh là Soma. Soma không chịu, Xita bắt cha dạy cho một thuật yêu để làm Soma làm theo mình. - Đến tời Maithuna, cấm quan hệ hôn nhân giữa những thành viên trong bộ lạc; quan hệ hôn nân thực hiện ở ngoài bộ lạc gọi là asagotra. Từ đây có sự phân tán những thị tộc theo giòng mẹ: thị tộc mẫu hệ. Đàn ông trong bộ lạc đi tìm vợ ở ngoài bộ lạc, đàn bà lấy chồng ngoài bộ lạc và nuôi lấy con. Vậy là, tất cả đàn bà trong công xã đều thuộc một thị tộc, còn đàn ông thì ở các thị tộc khác đến. Vai trò của đàn bà trong sản xuất và trong hôn nhân đều quan trọng. Công đồng sinh sản và quần hôn là nền tảng của chế độ mẫu hệ. Thần thoại còn phản ảnh về qua đó qua nhiều mẩu chuyện về người co gái có nhiều chồng. Hôn nhân lứa đôi cũng đã có mầm mống ở thời kỳ này. Trong đám vợ chồng chung ấy người đàn ông chọn một người đàn bà làm vợ chính và người đàn bà cũng coi một người đàn ông là chồng chính. Dần dần thành gia đình hợp đôi (chú ý gia đình hợp đôi này không phải là cá nhân kết hôn như bây giờ). Lúc này bên cạnh hình thức một người đàn ông sống với một người đàn bà vẫn tồn tại tình trạng hỗn dâm, nhưng chỉ riêng cho đàn ông thôi. Vì vậy con cái vẫn do mẹ nuôi như trước. - Thời kỳ Đoan đoa (Dwandwa) là lúc hôn nhân tự nhiên chấm dứt. Chế độ gia đình từng đôi có mầm mống từ trước đến đây đã được cố định. Đó là chế độ hôn nhân theo kiểu gia đình hợp đôi hoàn toàn có tính cách xã hội trên cơ sở kinh tế tư hữu và phụ quyền. Từ giai đoạn này bước sang chế độ nô lệ. Người đàn bà đã thành một vật phụ thuộc bị kinh rẻ. Tục ăn cưới acsa (arsha) thể hiện thân phận thấp hèn của người phụ nữ: đàn ông khi lấy vợ trả bằng một con bò cái và một con bò đực. Có lẽ căn cứ vào tục này mà trong tiếng Phạn thấy có thành ngữ "Đaragavan" nghĩa là vợ và súc vật ngang hàng. 4. Công xã nguyên thủy tan rã, Varna (đẳng cấp) xuất hiện Xã hội Ấn Độ cổ đại, từ công xã nguyên thủy sang chế độ nô lệ cũng trải qua con đường phát triển không khác con đường phát triển chung của lịch sử. Trong bộ lạc, thị tộc, người ta phân công lao động theo đàn ông, đàn bà, theo lứa tuổi, theo sức lực. Varna được kết tinh dần dần. Theo phương thức Yajna, có nhiều Rivija điều khiển công việc. Đến lúc gana phân hóa thành nhiều gana khác rồi liên hệ trao đổi sản phẩm. Sản phần ngày một dồi dào, sự trao đổi ngày càng phát triển, dần dần cố định sự phân công lao động và tạo ra Varna, đến khí có sự chiếm hữu tư nhân thì công xã nguyên thủy tan rã. Những tài liệu văn học cổ đại cho phép hiểu về ý nghĩa đầu tiên của Varna. Khởi đầu, làm gì có Varna. Mọi việc đều quy về sự sáng tạo của các đấng sáng thế Brahma hay Prajapati, Rig Veda kể lại: "Đấng Sáng thế Prajapati đẻ nhiều lần, mỗi lần đẻ ra một bộ ba. Bộ ba đầu tiên gọi là Bu (Bhu), Bava (Bhavah), Soa (Swah). Sau đó đến bộ ba khác: đất, trời, không khí. Lần thứ ba lại đẻ ra một bộ ba khác: người Brahma, người Kalatra và người Visha. Đây là tên các đẳng cấp (Varna). Lần thứ tư đẻ ra: Atman (linh hồn), Praja (dân gian) và súc vật". Về sau, trong YajurVeda lại kể: Prajapati muốn sản sinh nhiều cho nên từ miệng, nách, tay, bụng, chân đã đẻ ra 4 Varna; rồi sau lại đẻ ra cho mỗi Varna một ông thần, một điệu múa và một con súc vật. Bơramin (Brahmin) được con dê, Kơsatơria (Kshatriya) được con cừu, Vasia (Vasya) được con bò cái, Xuđơra (Suđra) được con ngựa. Những sự kiện trên đây nói rõ quá trình hình thành Varna. Lực lượng sản xuất mới tạo thành một cuộc cách mạng trong công xã. Sự phân công lao động phá vỡ lối sản xuất tập thể của công xã. Phương thức Yajna nhường chỗ cho lối tư hữu gia đình. Lửa Agni chung cho thị tộc nhường cho lửa Grihya. Công xã lớn lên trong sự phản công lao động, cần có người điều khiển khi có chiến tranh và bảo vệ cho công xã. Vì vậy phải cử người cầm đầu. Người có uy tín bảo vệ công xã dẫn đầu tạo thành một người đứng trên hết là Kơsastra (Kshatra). Đáp ứng nhu cầu xem thời tiết, địa lý, coi sóc tinh thần của công xã là Bơramin. Còn đại bộ phận là visha, dân chúng giữ việc chăn nuôi, làm nông nghiệp và thủ công nghiệp. Sự phân công ấy ban đầu vẫn giữ tính chất cộng đồng của công xã, nhưng đã có mầm mống để đi đến tập trung quyền tư hữu và mâu thuẫn giai cấm; cần chú ý những đặc điểm: - Chiến tranh bộ lạc và trao đổi hàng hóa đầu tiên phải thông qua những người chỉ huy chiến tranh của công xã thuộc các đẳng cấp Brahma và Kshatra. Thông qua bọn này mà phát triển thương nghiệp và tiền tệ. - Tập thể bị phá vỡ, tư hữu tiền tệ trong việc trao đổi hàng hóa tập trung vào Brahma và Kshatra với những người tiêu biểu thuộc loại Prajapati và Ganapati. Họ dần trở thành giai cấp bóc lột. - Sự xuất hiện những kim khí quý như vàng càng làm cho kẻ giàu giàu thêm, kẻ bóc lột càng bóc lột thêm, tập trung trong tay bao nhiêu là súc vật, lúa thóc, tiền bạc và nô lệ. Hầu hết các Brahma, Kshatra ở giai cấp bóc lột nhưng cũng có những Brahma, Kshatra ở vào hạng Visha. - Song song vơi sự hình thành ba đẳng cấp ấy là sự xuất hiện nô lệ Varna Sudra. Trong công xã trước kia, từ binh được đem giết đi theo lễ Purusơ Međơ. Nhưng về sau khi sự phân công lao động xuất hiện, sản xuất phong phú lên thì tù binh được sử dụng làm nô lệ. Và nô lệ này làm thành đẳng cấp thứ tư là sudra. Theo người Aryan, tinh thần của họ vẫn ở ngoài cuộc sống xã hội mặc dầu họ "làm công" cho toàn xã hội Aryan. Họ có thể bị bắn hay giết đi. Họ chẳng có tí quyền nào, không có của tư hữu mà cũng chẳng có thờ chúa thần gì hết. Ban đầu những người nô lệ còn sản xuất chung với gia đình phụ hệ: đàn ông, đàn bà và con cái dưới sự cai quản của gia trưởng là Grihyapati. Dần dần sự sản xuất phát triển, nô lệ bị tập trung và bị bóc lột nhiều hơn, họ càng bị tách ra và bóc lột cùng cực, làm lợi cho chủ. - Chế độ nô lệ xuất hiện, đó là hành động cuối cùng của đấng Brahman sáng thế, ý nghĩa phương thức sản xuất Yajna cũng không còn mà đấng Brahman cũng không còn, chỉ có Brahmin là bọn bóc lột mới xuất hiện trên cơ sở kinh tế mới. Họ tự giải thích là hiện thân của đấng Brahman sáng thế, có đủ mọi đặc quyền. Như vậy là sự xuất hiện đổi chác, thị trường và tư hữu lao động tư hữu của cải đã đẩy xã hội sang một giai đoạn mới. Đồng tiền xuất hiện đồng thời với một giai cấp mới: thương nhân. Kẻ giàu và kẻ nghèo ngày càng rõ, giai cấp xuất hiện theo quá trình xung đột giữa đại bộ phận Visha muốn bảo tồn đạo lý dacma là tinh thần cũ chống lại quyền bóc lột của Brahmin và Kshatra. Công xã bây giờ có ba đẳng cấp tiêu biểu với ba thần: - Brahman: Thần Agni - Kshatra: Thần Indra - Viska: Thần Vixoadeo (Vishwadeo) Trước đây, trong công xã nguyên thủy chỉ có chiến tranh giữ bộ lạc này với bộ lạc khác, không hề có chiến tranh trong nội bộ thị tộc, bộ lạc. Bây giờ bên cạnh chiến tranh bộ lạc để cướp nô lệ, của cải, súc vật, còn có chiến tranh trong nội bộ bộ lạc để giữ lấy của riêng và bóc lột người khác. Đẳng cấp ở Ấn Độ đã xuất hiện như vậy. Những điều nêu trên đây về nước Ấn Độ cổ đại có liên quan đến những vấn đề trong tập sử thi Mahabharata. II VỀ TẬP SỬ THI MAHABHARATA Mhabrat nghĩa là cuộc chiến tranh lớn của dòng Bhrat. Đây là tập sử thi vĩ đại của người Hindu (tên gọi người Ấn Độ), đồng thời cũng là một tập sách vào loại lớn nhất trong văn học thế giới. Mahabharata có 18 pơrvơ (hay sách), có cả thảy 220.000 giòng. Công trình sưu tập và biên soạn sử thi Mhabrat thuộc về tập thể nhiều người trong vòng ít nhất là vài ba thế kỷ cho đến năm, sáu thế kỷ trước công nguyên, đến đầu công nguyên mới hoàn thành. Sử thi Ấn Độ này là "hằng hà sa số" sáng tác dân gian truyền miệng, được kết lại thành hệ thống, tạo thành pho bách khoa toàn thư của người Ấn Độ. Trong các tập thể người sưu tập và biên soạn này có những học giả và tu sĩ Bà la môn chính thống. Họ là người nắm độc quyền tinh thần và học vấn trong xã hội Ấn Độ. Họ đem đạo lý giải thích các chuyện đó rồi xâu tất cả vào trong một chủ đề nhất định theo tinh thần tôn giáo. Họ muốn dùng tập sử thi này (và cả tập sau, Ramayana nữa) để khẳng định địa vị thống trị và nguồn gốc thần thánh của đẳng cấp Bà la môn. Mặc dầu vậy, nguồn văn học nghệ thuật và tư tưởng nhân dân ở trong đó vẫn không sao lu mờ được. Và chúng ta khi tiếp xúc với tác phẩm, điều hấp dẫn chúng ta vẫn là nguồn giá trị vô tận của chất anh hùng ca do tập thể nhân dân sáng tạo nên. Chủ đề của tập thơ vĩ đại là cuộc chiến tranh lớn giữa hai giòng Kaurava và Pandava. Hai giòng bà con đánh lẫn nhau để cướp vương quốc mà kinh đô là Hastinapura (đô thành voi). Dấu tích của đô thành này vẫn còn lại đến ngày nay ở cách thành phố Delhi 92 cây số về phía đông bắc trên một dòng cũ của sông Hằng. Krishna Đơmêpayana Vyaxa vừa là một tác giả vừa là một trong những ông tổ của các nhân vật tập sử thi, là con trai của Risi Parasara và nàng tiên Satyavati. Satyavati tuy đã đẻ con nhưng được thần cho lại trinh tiết như thường. Có một ông vua, con cháu của Bharata, tên là Xantanu. Con trai Xantanu do nữ thần sông Hằng đẻ ra tên là Xantavana hay Bhishma. Đến tuổi già Xantanu vẫn muốn lấy vợ nữa nhưng Bhishma được quyền kế tự là một trở ngại cho Xantanu. Muốn được lòng cha, Bhishma hy sinh quyền ấy và Xantanu lấy Satyavati. Satyavati đẻ được hai con trai, con đầu tên là Chitriangata nối ngôi cha, nhưng rồi bị vua Gandbarva giết trong một cuộc giao chiến. Người con thứ là Vichitravirya lên ngôi nhưng lại không có con trai, chết đi để lại hai người vợ là Ambika và Ambalika đều là con gái một ông vua ở Kasi. Satyavati cho Vyaxa là con riêng của mình lấy hai người vợ góa ấy để nối dõi tông đường cho anh. Vyaxa bỏ cuộc đời đi ở ẩn trong rừng. Đời cấm dục khắc khổ của Vyaxa làm cho mặt mày ông thay đổi rất sợ. Hai người vợ thấy vậy rất hãi hùng. Người vợ nhiều tuổi hơn nhắm hai mắt lại khi gần Vyaxa, vì thế mà sinh ra đứa con trai đui mù đặt tên Dhritarashtra. Người vợ ít tuổi hơn cũng vì sợ xanh mặt khi đi gần Vyaxa nên đẻ ra một đứa con trai xanh tái lấy tên là Pandu. Satyavati muốn có một đứa cháu trai đẹp đẽ không bệnh tật, nhưng người vợ góa nhiều tuổi không đẻ được nữa đành cho một người con gái nô lệ thay thế mình. Người con gái nô lệ đẻ với Vyaxa được một người con trai tên là Vidura. Mấy đứa con đều do ông bác là Bhishma nuôi. Đến lúc trưởng thành Dhritarashtra vì mù không lên ngôi được. Pandu được lên ngôi. Nhưng Pandu bị nghi là đau bệnh phong, bị hiềm khích nên phải vào rừng ở. Dhritarashtra lại lên ngôi. Pandu có hai người vợ: Kunti và Mađri. Sau vì đau ốm luôn, Pandu phải vào ở trong núi Himalaya và chết ở đó. Cả hai vợ theo vào đẻ được năm con trai. Đó là con của các thần nhưng Pandu nhận làm con mình cho hưởng mọi quyền của dòng họ Pandava. Kunti là mẹ của người con đầu, Madri là mẹ của hai người con sau. Yudhishthira con trưởng rất giỏi đánh giặc chính là con trai thần Đácma (Dharma) thần công lý đạo đức. Bhima, con thứ là con trai thần gió Vayu, rất khỏe mạnh, can đảm, ăn nhiều, tính nết thô bạo, nóng nảy và lỗ mãng. Vì ăn nhiều nên Bhima còn có tên là Brikadara (bụng chó sói). Con thứ ba là Argiuna (nghĩa là sáng như bạc) chính là con thần Indra (thần của các thần). Arjuna là nhân vật nổi bật nhất của tập sử thi, chàng dũng cảm, cao thượng, giàu tình cảm và hào hiệp. Nakula và Sahadeva người thứ tư và thứ năm là hai con trai sinh đôi của nàng Mađri với thần mặt trời. Hai người này cùng dũng cảm sáng suốt, hiền hậu nhưng không được hưởng những địa vị cao quý như mấy người anh. Dhritarashtra mù lòa cai quản Hastinapura. Vợ Dhritarashtra là Gandari đẻ được 100 con trai và một con gái tên là Đuxala. Đẻ nhiều như vậy là nhờ Vyaxa, và bà toàn đẻ trong những điều kiện thần bí. Tất cả 100 con trai đều gọi chung là Kaurava. Người con trưởng là Duryodhana (nghĩa là bất khuất) có đủ mọi tính xấu không phù hợp với tính cách của một hoàng tử. Khi các hoàng tử Pandu còn bé và lúc cha mất, họ được dẫn đến chào Dhritarashtra và giới thiệu là các cháu trai của Dhritarashtra. Dhritarashtra đã chăm sóc nuôi nấng và dạy dỗ các cháu như con mình. Từ đó, mâu thuẫn giữa anh em Kaurava và Pandava bắt đầu. Thoạt tiên họ còn ganh đua nhau về tài năng, nhưng sau dần dần sự ganh đua ấy trở thành thù địch. Đã có lần Duryodhana cho Bhima ăn thuốc độc chết và ném xuống sông Hằng, nhưng Bhima được rắn thần cứu thoát. Lúc Đơrita1 chỉ định Yudhishthira sẽ được nối ngôi thì lòng ghen ghét của con cái Đơrita càng tăng như lửa đốt. Đơrita phải đưa anh em Pandava đến Varanavata. Con trưởng của Đơrita là Duryodhana tìm cách giết cho được anh em Pandava. Hắn bày mưu đốt lâu đài anh em Pandava ở. Nhưng Vidura biết âm mưu ấy nên báo cho anh em Pandava biết và chạy thoát được vào rừng, cải trang thành những đạo sĩ xin ăn mà sống. Ở đây được ít lâu, có lần Bhima đã giết con yêu tinh độc ác nhất cứu cho dân vùng đó khỏi tai họa và liên tiếp về sau còn bắt giết được nhiều yêu tinh khác. Sau đó, nghe tin vua nước Panchala tổ chức lễ kén chồng cho công chúa Draupadi. Nhà vua tìm một người chồng võ nghệ cao cường, bắn cung đại tài cho công chúa. Anh em Pandava cùng mẹ đến đây, giả dạng là người bàlamôn. Trong lễ ấy, Arjuna đã bắn năm phát trúng cả năm nên được công chúa chọn làm chồng, điều này làm cho các hoàng tử khác và anh em Kaurava rất là cảm ghét. Anh em Pandava thắng, đem Draupadi về cho mẹ biết tin mừng. Mẹ khuyên nên lấy làm vợ chung. Vua Panchala biết em anh Arjuna là hoàng tử thì rất mừng, nhưng lại không đồng ý để con gái làm vợ chung. Nhưng sau nhờ Vyaxa mà ý định của bà mẹ Kunti được thực hiện. Do đó, Draupadi trở thành vợ chung của năm anh em và quy định Draupadi sẽ ở với mỗi người trong hai ngày. Trong lễ cưới người ta đọc một bản kinh riêng chứng nhận năm anh em chính là năm bộ phận của một ôn thần, vì vậy Draupadi lấy chung năm anh em là hợp lệ. Sau việc này, tin anh em Pandava còn sống bị lộ. Dhritarashtra lại gọi họ về và đem đất nước chia đều cho năm anh em Pandava cùng với con cái của mình. Con cái của vua thì nhận Hastinapura. Còn anh em Pandava nhận đô thành Indra-prastha bên bờ sông Yômuna gần Delhi, bây giờ tên sông hiện còn. Hai đô thành rất gần nhau chứng tỏ đất nước của Đơrita bấy giờ rất hẹp. Yudhishthira lên ngôi, là một ông vua mẫu mực, đại diện cho công lý và nhân đạo, sáng suốt. Lấy được rất nhiều đất đai khác, Yudhishthira tuyên bố thực hiện lễ hiến tế Rajaxuya với ý định xây dựng một thế giới đại đồng và Yudhishthira sẽ là vua của các vua. Việc này lại càng đào sâu mối thù của con cái Dhritarashtra. Chúng xúi cha mời anh em Pandava đến Hastinapura để dự một cuộc đánh bạc. Yudhishthira vô tình mắc bẫy. Đối thủ là Sakuni, một ông chú của anh em Kaurava vốn là một tay chơi sành và mưu mẹo. Trong cuộc chơi, Yudhishthira bị thua cuộc, mất tất cả vợ, của cải, lâu đài, đất nước, anh em và cả bản thân nữa. Đroopadi bị bắt làm nô lệ, và khi nàng bỏ trốn thì bị Dushasana nắm tóc giật lại, các nhục ấy, Bhima thề rửa cho được mới thôi. Đuryoodana cũng làm nhục nàng, bắt nàng ngồi trên đùi hắn, cái nhục ấy Bhima thề phải cắt cho được đùi Duryodhana. Về sau Bhima thực hiện lời thề. Theo lời của Dhritarashtra thì đất đai gia tài của Yudhishthira được phục hồi lại. Nhưng hắn phải đánh cuộc một lần, với điều kiện là nếu hắn thua cuộc thì cả năm anh em phải vào rừng ở trọn 12 năm, và đến năm thứ 13 thì phải giấu tên tuổi đi. Lần này Yudhishthira vẫn thua cuộc do đó phải vào rừng với anh em và vợ. Đến năm thứ 13, cả mấy anh em và nàng Draupadi trá hình, giấu tên tuổi, vào làm công cho vua Varata. Anh em Pandava giúp được nhiều việc cho vua, nhất là dẹp được quân của vua nước Trigartta và Kaurava sang đánh vua. Hạn đi đày đã hết, các hoàng tử Pandava để lộ tung tích cho mọi người biết. Anh em Pandava quyết định khôi phục lại đất nước. Có vua Virata đồng minh, họ chuẩn bị mở trận, Krishna và Balarama, liên hệ với cả hai phe, nên không muốn tham trận. Krishna bèn hỏi ý kiến của cả hai phe xem phe nào ưng chọn một mình Krishna, phe nào ưng lấy toàn quân của Krishna. Arjuna (phe Pandava) chọn một mình Krishna. Còn phe Duryodhana (phe Kaurava) lấy toàn quân của Krishna. Krishna bằng lòng làm người đánh xe ngựa cho Arjuna. Trong nhiều trận ở đồng bằng (phía bắc thành Delhi bấy giờ) nhờ Krishna đã hát bài hát thần là Bhagavagrita mà đuổi được quân thù. Các trận khác tiếp tục. Quân của Duryodhana có ông bác là Bhishma cầm đầu, Drona tiên sư về quân sự, Karna, vua ở Engơ và Sơlya, vua ở Madra và là anh của Madri (vợ của Pandu). Quân của Duryodhana thắng nhiều trận. Bhishma bị trúng tên của Arjuna. Dần dần mọi người đều bị chết. Bọn Kaurava chỉ còn 3 người. Bhima (phe Pandava) đánh nhau tay đôi với Duryodhana bằng chùy. Duryodhana bị Bhima giáng cho một đòn gãy đùi, bị thương nặng rồi chết, ba người còn lại phái Kaurava đang đêm lẻn được vào bên phe Pandava giết chết năm đứa con của Pandava và tiêu diệt hết cả quân đội, chỉ trừ năm anh em Pandava sống sót. Năm con trai ấy là năm đứa con của nàng Draupadi, sinh với mỗi anh em Pandava. Yudhishthira cùng với các em trở về Hastinapura và sau khi thương lượng với Dhritarashtra, Yudhishthira được lên ngôi ở đây. Nhưng hắn rất buồn vì con cái chết hết, nòi cũng mất và bạn bè cũng chết. Anh em Pandava sống thái bình và thịnh vượng. Nhưng vua mù Dhritarashtra không quên được các con mình đã mất nhất là thương xót Duryodhana. Xích mích lại xảy ra giữa ông vua mù và Bhima. Được ít lâu thì ông ta cùng với vợ là Gandhari và cả Kunti (mẹ của anh em Pandava) vào rừng ở ẩn và sau hai năm thì chết vì buồn rầu và hối hận. Được ít lâu Yudhishthira thoái vị rồi cùng với tất cả anh em đi vào Himalaya, hi vọng lên trời, thần quốc của Indra. Từ Hastinapura họ ra đi cùng với một con chó. Cuộc hành trình được miêu tả rất thú vị, đầy gian khổ vinh quang và cao thượng. Tội lỗi đã đến lúc bị ác báo. Lần lượt anh em Pandava bị chết hết. Trước hết là Draupadi tiêu biểu cho "mối tình thắm nhất với Arjuna". Rồi đến Sahadeva "hắn chẳng coi ai bằng hắn”. Rồi đến Nakula “bao giờ hắn cũng tự hào là khôi ngô nhất thiên hạ”. Rồi đến lượt Arjuna trước khi chết hắn nói: ”chỉ một ngày ta giết sạch quân thù. Hắn đến chết còn kiêu ngạo, nhưng hắn chết mà chưa thực hiện được trọn tính kiêu của hắn”. Đến lượt Bhima chết, hắn nói lý do chết “mày đa nhìn vào mặt quân thù và thở hơi vào mặt chúng để làm nhục chúng, vậy hôm nay mày phải chết”. Còn lại một mình Yudhishthira với con chó đi mãi cho đến lúc giáp cổng trời. Indra mời vào nhưng Yudhishthira từ chối và nói rằng, nếu các em và Draupadi có được về trời thì Yuđi11 mới vào. Đến khi hắn vào nhà trời thì các em và vợ chẳng thấy, chỉ thấy Duryodhana (phe Kaurava) và những kẻ địch của hắn. Vì vậy Yuđi từ chối không ở nhà trời nữa. Người ta lại dẫn hắn xuống địa ngục. Ở đây Yuđi phải thấy bao nhiêu là bi thảm rùng rợn, nhưng rồi Yuđi nghe tiếng nói quen của các em và bạn bè vang lên yêu cầu Yuđi ở lại đấy chia sẻ đau khổ với họ. Yuđi quyết định ở lại địa ngục còn hơn sống trên trời với kẻ thù. Indra nghe vậy hiện ra trước mặt Yuđi, rồi tự nhiên địa ngục biến mất. Một luồng gió nhẹ mát rượi, thơm ngát thổi qua. Rồi thần Dharma mỉm cười nhìn con mình và nói: “Con ơi! Con đã chọn địa ngục để ở với các em con. Làm vua ít nhất phải qua một lần địa ngục. Nhưng tất cả những cảnh con vừa thấy chỉ là ảo ảnh để thử lòng con mà thôi. Vậy là con đã qua cả ba thế giới: trần gian, địa ngục, thiên đàng là những nơi mà đấng sáng thế Narada cũng đã đi qua”. ✽ Trong tập sử thi Mahabharata một loạt những mâu thuẫn xã hội được phản ánh rất rõ rệt. Chiến tranh Mahabharata, chiến tranh trong nội bộ một dòng họ chính là biểu hiện sự suy tàn của chế độ huyết thống trong thị tộc công xã và sự thịnh vượng của nhà nước và quốc gia nô lệ. Mâu thuẫn giữa dân chủ bộ lạc và chiếm hữu nô lệ được giải quyết bằng sự thắng thế của giai cấp bóc lột bao gồm Brahmin và Kshatriya với sự hình thành nhà nước nô lệ và thành lập vương quốc. Lúc bấy giờ nhiều vương quốc nô lệ đã xuất hiện. Hastinapura là đô thị của vương quốc do danh em Kaurava cai quản. Về sau anh em Pandava tách khỏi vương quốc của Kaurava thành lập vương quốc Inđơraprasa. Vương quốc kinh tế và xã hội trong Mahabharata là tương quan chiếm hữu đất đai, nô lệ, của cải để xây dựng vương quốc thật mạnh. Tiêu biểu cho xã hội mới là người anh hùng Kshatriya. Muốn tiến hành thực hiện hệ thống tư tưởng mới phải tiêu diệt những phản ứng của dân chủ bộ lạc, dẹp các vùng dân chủ quân sự và chinh phục những vương quốc yếu. Tất cả nhằm tập trung quyền lực cho bọn thống trị gồm các Kshatriya và Brahmin. Quá trình từ dân chủ bộ lạc đến dân chủ quân sự đến quốc gia nô lệ là một quá trình trong đó ba trạng thái cùng tồn tại song song, tuy ở từng thời kỳ có một trạng thái nổi lên là chủ yếu. Đó là một đặc điểm của mâu thuẫn trong xã hội Ấn Độ được phản ánh trong bộ sử thi này. Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị là một dạng mâu thuẫn khác. Đó là quá trình xung đột giữa Brahmin và Kshatriya. Dần dần, Kshatriya bị lấn át mặc dầu vẫn giữ được địa vị thống trị, thực chất quyền lực lại tập trung từng bước cho Brahmin. Bản chất mâu thuẫn với nhau như vậy, song trong Mahabharata thì Brahmin cùng Kshatriya cấu kết và dung hòa lẫn nhau. Đó chính là một biểu hiện của tinh thần Ấn Độ lúc bấy giờ. Trên xu hướng tập trung quyền lực và của cả, nội bộ Kshatriya phân hóa, chia rẽ nhau vì quyền lợi đất đai và nô lệ. Anh em Kaurava và Pandava xâu xé lẫn nhau chính là sự tan rã các phương thức sản xuất dựa trên cơ sở huyết thống. Ở địa vị thống trị, mâu thuẫn trong lòng Kshatriya là mâu thuẫn chi phối toàn thể xã hội ngày càng sâu sắc. Tất cả những mâu thuẫn trên đây dồn thành chiến tranh, chiến tranh lan rộng và có sức tàn phá mãnh liệt làm cho cả một nền văn minh dựa trên cơ sở văn minh nô lệ đại thịnh vượng phải chậm lại một thời gian. Những cảnh bi thảm ở phần cuối tập sử thi cho thấy tai họa chiến tranh giáng xuống nhân dân nô lệ. Về sau, quốc gia nô lệ vẫn tồn tại nhưng bắt đầu xuất hiện những mầm mống của chế độ phong kiến. Trong bối cảnh chằng chịt những mâu thuẫn ấy nổi lên một tinh thần nhân văn sâu sắc thể hiện ở hệ thống nhân vật, trong việc làm và khát vọng của họ. Tinh thần nhân văn là tinh túy của những sáng tác dân gian ở khắp các miền đất nước thu hút vào thiên anh hùng ca. Khởi đầu, tinh thần nhân văn được thể hiện bằng truyền thống Đácma nghĩa là đạo đức hiền hòa, bình đẳng, bác ái của thời kỳ công xã nguyên thủy. Truyền thống Đácma còn tồn tại trên thực tế tạo thành nền tảng tinh thần của nhân dân khi xã hội chưa có giai cấp. Về sau, trong quốc gia nô lệ, hệ thống Đanđa thay thế truyền thống Đácma. Hệ thống Đanđa tiêu biểu cho quyền tư hữu, gia đình phụ quyền, sức mạnh đàn áp lừa bịp và quân sự của bọn thống trị Brahmin và Kshatriya. Trước kia, khi giải quyết công việc chung công chúng làm trọng tài, sau này chỉ còn việc xử phạt bằng sức mạnh và của cải để bảo vệ quyền tư hữu cha truyền con nối. Chính vì thế, nhân dân luôn luôn quay về với truyền thống Đácma trong khi trong thực tế đạo lý Đanđa ngự trị. Bọn thống trị buộc phải tuyên bố: thiên hạ và cuộc đời vẫn tiếp tục theo tinh thần Đácma. Cho nên, cần nhận rõ sự xung đột giữa truyền thống Đácma và quyền lực mới và tinh thần cơ bản của sử thi Mahabharata. Nhân dân mong ước và phấn đấu cho một Đácma thực sự, còn giai cấp thống trị dựng cái vỏ Đácma khoác cho quyền lực mới để đánh lừa dân chúng. ✽ Cho đến nay, ở Ấn Độ vẫn còn tập tục diễn lại bộ sử thi Mahabharata trong nhiều buổi hội hè. Trong những dịp đó, tác phẩm vĩ đại này ban đầu được truyền đạt bằng tiếng sanscrit, nhưng về sau thì nội dung bình giảng được trình bày và giải thích bằng những ngôn ngữ thích hợp với các địa phương Ấn Độ. Nhờ sinh hoạt đó mà những yếu tố cơ bản của nội dung tập sử thi bao gồm những giá trị thẩm mỹ - xã hội, đạo đức, tôn giáo, triết học được phổ cập trong quảng đại quần chúng nhân dân Ấn Độ. Chính vì vậy, ở thời kỳ hiện đại, ngay cả khi phải sống trong tình trạng thất học do ách thống trị của đế quốc Anh, người dân Ấn Độ vẫn tiếp thu được những yếu tố quan trọng về nội dung và nghệ thuật Mahabharata. Quá trình phổ cập Mahabharata có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đối với sự phát triển những khả năng thống nhất văn hoá của các dân tộc khác nhau trên đất Ấn Độ, đối với sự phát triển ý thức thống nhất của nước Ấn Độ nhiều dân tộc với nhiều ngôn ngữ. CAO HUY ĐÌNH. BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ ẤN ĐỘ (Với những địa danh liên quan đến tác phẩm) CHƯƠNG 1 DEVAVRATA “Cho dầu nàng là ai cũng thế, chắc chắn nàng vẫn phải trở thành vợ ta”. Đức vua Santanu nói với nữ thần Ganga như vậy; lúc ấy nữ thần hiện thành hình người, đang đứng trước nhà vua. Vẻ đẹp yêu kiều, siêu phàm của nữ thần đã khiến nhà vua mê mẩn. Để chiếm được tình yêu của nàng, nhà vua hối hả hiến dâng cho nàng, vương quốc của ông, tài sản của ông, tất cả những gì ông có, đến cả sinh mệnh của ông nữa. Ganga đáp lại rằng: “Tâu đức vua, thiếp sẽ là vợ của Người. Nhưng với một số điều kiện là Người hoặc bất cứ ai khác sẽ không bao giờ được hỏi thiếp là ai, hoặc thiếp ở đâu tới. Người cũng sẽ không ngăn trở bất cứ điều gì thiếp làm, cho dầu nó tốt hay xấu. Người cũng sẽ không bao giờ cáu giận với thiếp vì bất cứ lý do gì. Người cũng không được nói điều gì khiến thiếp phật ý. Nếu như Người làm khác đi thì ngay lập tức thiếp sẽ phải từ giã Người. Người có ưng thuận như thế chăng?”. Đã say mê quá rồi nên nhà vua thề nguyền sẽ làm theo tất thảy. Và nữ thần trở thành vợ vua. Tính khiêm nhường, vẻ kiều diễm và tình yêu nồng nàn của nữ thần làm cho nhà vua được gần nàng càng say mê nàng hơn. Đức vua Santanu và Ganga sống một cuộc sống hoàn toàn hạnh phúc, quên lãng thời gian đang trôi qua. Nàng sinh hạ được nhiều con, nhưng mỗi một đứa bé vừa lọt lòng, nàng liền ẵm nó đến sông Hằng, ném nó xuống sông, và sau đó, mặt mày rạng rỡ, nàng trở về bên vua. Trước hành động độc ác đến như vậy của vợ, Santanu cảm thấy vô cùng kinh khiếp và đau đớn, nhưng ông ta chỉ đành âm thầm chịu đựng vì mải nhớ lại lời thề cũ. Thường khi, nhà vua lấy làm lạ lùng, tự hỏi chẳng hay nàng là ai, nàng từ đâu tới và cớ sao nàng lại hành động như một mụ phù thủy giết người vậy? Nhưng bị lời thề trói buộc và tình yêu mãnh liệt đối với nàng chế ngự, nhà vua không dám chỉ trích hoặc trách móc nàng lấy nửa lời. Cứ như vậy, nàng đã giết bảy người con. Lúc đứa thứ tám ra đời và lúc nàng đang sắp sửa đem cậu bé ném xuống sông Hằng thì cũng là lúc Santanu không thể chịu đựng hơn được nữa. Nhà vua hét lên: “Ngừng lại ngay! Cớ sao nàng lại thích làm cái việc khủng khiếp kỳ quái, đem giết các đứa bé vô tội do chính nàng đẻ ra? Cớ sao vậy?”. Cơn thịnh nộ của nhà vua đã ngăn nàng lại. Nàng đáp: “Tâu đức vua, Người đã quên mất lời hứa của Người rồi, bởi vì trái tim Người chỉ nghĩ đến con mình nên Người không còn cần đến thiếp nữa, thiếp xin đi vậy. Đâu có phải thiếp đem giết đứa bé này, nhưng thôi, xin Người hãy lắng nghe câu chuyện của thiếp trước khi kết tội thiếp. Chính thiếp đây, kẻ đã buộc phải đóng cái vai trò đáng căm ghét này là do lời nguyền của Vasishtha. Thiếp là nữ thần sông Hằng, được các chư thần và người trần tục sùng kính. Vasishtha đã có lời nguyền rằng tám người con của Vasus sẽ phải đầu thai xuống cõi trần. Động lòng vì lời cầu khẩn của họ, thiếp chịu nhận làm mẹ họ. Thiếp mang họ đến cho Người và làm như thế là điều tốt lành đối với Người, bởi vì Người sẽ được lên cõi thượng thiên do đã có công lao đối với tám người con của Vasus. Bây giờ thiếp sẽ phải mang đứa con út của chúng ta về trời trong một thời gian và rồi sẽ trao trả lại cho Người, gọi là một tặng phẩm của thiếp vậy”. Nói mấy lời đó xong, nữ thần cùng đứa bé biến mất. Chính đứa bé ấy về sau này sẽ trở thành người tiếng tăm lừng lẫy với danh hiệu Bhishma. Câu chuyện tại sao dòng họ Vasus đến nỗi phải chuốc lấy lời nguyền độc địa của Vasishtha là như sau: nhân một ngày lễ, họ Vasus cùng các bà vợ của họ đi thăm một quả núi. Ở đó có am của đạo sỹ Vasishtha. Một người trông thấy con Nandini, con bò cái của Vasishtha đang gặm cỏ. Hình vóc con vật đẹp tựa bò thần khiến ai cũng phải chú ý, và thần bèn chỉ cho các bà xem. Tất cả các bà vợ thần dòng họ Vasus đều trầm trồ ca ngợi con vật xinh đẹp và một bà liền xin với chồng bắt lấy nó cho mình. Vị thần này đáp: “Chúng ta là thần thì chúng ta cần đến sữa bò mà làm gì? Con bò này là của đạo sỹ Vasishtha – vị chủ nhân của cả vùng này. Uống sữa nó, người trần chắc chắn sẽ trở thành bất tử, nhưng đối với chúng ta thì chẳng có lợi gì, bởi vì chúng ta đã là bất tử ròi. Chiều theo một ý thích bất thường để rồi chuốc lấy cơn thịnh nộ của Vasishtha, hỏi có nên chăng?” Nhưng không vì thế mà bà vợ ấy chịu từ bỏ ý muốn của mình. Bà nói: “Tôi có một người bạn thân là người trần tục. Chỉ vì giúp hắn mà tôi làm như vậy. Trước khi Vasishtha trở về thì chúng ta đã dắt con bò đi thoát rồi cơ mà. Chắc ông cũng nên vì tôi mà làm điều ấy, vì đó là điều mong muốn tha thiết nhất của tôi". Cuối cùng người chồng đành phải chiều vợ. Tất cả họ Vasus hợp sức với nhau bắt con bò rồi dắt nó cùng với một con bé đi về với họ. Lúc Vasishtha rở lại am nhà, đạo sĩ thấy mất con bò và con bê, bởi vì trong việc cầu cúng hàng ngày đạo sĩ đều phải dùng đến sữa bò mẹ. Chẳng mấy chốc, nhờ sự thông tuệ do luyện pháp thuật Yoga, đạo sĩ cũng biết được đầu đuôi sự việc đã xẩy ra. Tức giận, đạo sĩ bèn thốt ra lời nguyền rủa trừng trị họ Vasus. Đối với đạo sĩ sự giàu có duy nhất là cuộc sống tu luyện khắc khổ, vì vậy mà đạo sĩ muốn rằng họ phải đầu thai xuống trần. Khi họ Vasus được hay biết về lời nguyền đó, họ rất hối tiếc, nhưng đã quá muộn, nên chỉ còn biết cúi mình trông cậy vào lòng thương hại của đạo sĩ. Họ cầu xin ông tha thứ. Vasishtha truyền rằng: “Lời nguyền của ta phải được linh nghiệm. Prabhasa, ngươi bắt con bò, ngươi sẽ phải sống lâu dưới trần thế trong sự vinh quang chói lọi, còn những người khác, ngay vừa lúc sinh ra, sẽ được giải thoát khỏi phép thần chú. Lời ta đưa ra không thể tỏ ra là không linh nghiệm, nhưng ta giảm nhẹ thần chú tới mức ấy thôi”. Sau đó Vasishtha lại tập trung thần trí vào cuộc tu luyện khổ hạnh, mà hiệu lực đã bị cơn giận của ông làm cho suy giảm phần nào. Các vị đạo sĩ tuy luyện khổ hành đều có thể dung pháp thuật để trừng trị, nhưng sau mỗi lần như vậy thì năng lực của họ lại bị tiêu hao. Các anh em họ Vasus cảm thấy được an ủi; họ tới gặp nữ thần Ganga và van xin: “Chúng tôi cầu mong nữ thần hãy là mẹ chúng tôi. Chúng tôi cầu xin nữ thần hãy vì chúng tôi mà xuống cõi trần và lấy một người đàn ông hiển hách. Ngay khi chúng tôi mới lọt lòng, xin hãy ném chúng tôi xuống nước và giải thoát cho chúng tôi khỏi phép thần chú”. Nữ thần ưng chuẩn lời cầu đó, giáng trần và trở thành vợ Santanu. Lúc nữ thần Ganga rời bỏ Santanu và đem đứa con thứ tám cùng biến mất, thì nhà mua bèn từ bỏ mọi lạc thú nhục dục và cai trị đất nước theo tinh thần chủ nghĩa khổ hạnh. Một ngày nọ, nhà vua đang đi dạo trên bờ sông Hằng thì bỗng nom thấy một đứa bé có vẻ đẹp và vóc dáng như ngọc hoàng Devendra, vua của các vị thần. Chú bé đang chơi đùa bằng cách liệng tới tấp những mũi tên qua sông Hằng đang dâng nước, đùa giỡn với con sông cuồn cuộn chảy như một đứa trẻ đùa giỡn với một bà mẹ dễ dãi, Nhà vua đang đứng sững người vì kinh ngạc trước cảnh tượng đó thì nữ thần Ganga hiện ra và nói đứa bé ấy chính là con đẻ của nhà vua. Nữ thần nói: Tâu đức vua, đây là đứa con thứ tám mà thiếp đã đem dâng Người. Từ bấy đến nay, thiếp đã nuôi dưỡng nó. Tên nó là Devavrata. Nó tinh thông võ nghệ và dũng cảm ngang Parasurama. Nó đã học kinh Veda và Vedanta với Vasishtha, và uyên thâm các môn nghệ thuật và khoa học của Sukra. Xin Người hãy đưa đứa bé này về cùng, nó sẽ là một tay cung kiếm tài ba, một trang hảo hán cũng như bậc thầy trong phép cai trị đất nước”. Nó xong nữ thần ban phúc cho đứa bé, trao no cho nhà vua, là bố nó, rồi biến mất. CHƯƠNG 2 LỜI NGUYỀN CỦA BHISHMA Nhà vua vui sướng khôn xiết, đón nhận vào lòng mình và vào lòng đất nước, hoàng tử Devavrata trẻ và đẹp rực rỡ, rồi phong cho chàng làm yuvaraja, hoàng thái tử thừa kế. Bốn năm trôi qua. Một ngày nọ, trong khi nhà vua đang dạo chơi trên bờ sông Yamuna, thì bầu không khí bỗng sực mùi hương dịu ngọt như trên cõi tiễn khiến nhà vua muốn tìm xem sao lại có chuyện lạ như vậy. Nhà vua bèn lần theo mùi Hương và trông thấy một cô gái đẹp tuyệt trần chẳng khác một nữ thần. Nàng con gái này đã được một đạo sĩ ban cho một ân huệ, là từ người nàng sẽ tỏa ra một mùi hương thần tiên, và chính hương thơm đó hiện đang tỏa khắp khu rừng. Từ cái buổi nữ thần Ganga từ giã, nhà vua đã chế ngự được mọi cảm giác của mình, nhưng nay trông thấy cô gái đẹp như tiên này, thì mọi ràng buộc chợt đứt tung và một ham muốn không kìm nổi xâm chiếm lòng nhà vua. Nhà vua liên đòi nàng hãy làm vợ mình. Cô gái cất tiếng thưa, tiếng nói của nàng cũng dịu dàng như thân hình nàng: “Thiếp con nhà chài lưới, là con gái người trùm các dân chài. Cúi mong đức vua vui lòng đến hỏi ý cha thiếp để được cha thiếp ưng thuận đã”. Lão trùm, cha nàng, là một con người xảo quyệt. Lão thưa: “Tâu đức vua, tất nhiên con gái tôi cũng như mọi đứa con gái khác, đều phải được gả bán cho một người nào đó. Và quả thật Người xứng đáng với con gái tôi. Tuy vậy, trước khi Người lấy nó, xin Người hãy ban cho tôi một lời hứa đã” Santanu đáp: “Nếu một lời hứa chính đáng thì ta ngại gì mà không làm?” Viên trùm các dân chài nói: “Đứa bé do con gái lão sinh ra sau này sẽ phải được làm vua kế vị Người”. Tuy hầu như bị dục vọng làm cho si dại nhưng nhà vua vẫn không thể hứa như vậy, một khi lời hứa ấy hàm ý gạt bỏ chàng Devavrata, con của nữ thần Ganga, đã được phong làm người kế vị. Đấy là một cái giá phải trả, nhà vua không thể nghĩ tới nó mà không lấy làm hổ thẹn. Bởi thế, nhà vua quay trở lại kinh thành Hastinapura, lòng đau đớn vì sự ham muốn lầm lạc. Không thổ lộ điều đó với một ai, nhà mua đành chịu âm thầm ngậm đắng nuốt cay. Một ngày nọ, Devavrata hỏi cha: “Thưa phụ vương, tất cả những gì mà lòng Người mong muốn thì Người đã có. Đã thế, cớ sau Người còn đau khổ làm vậy? Điều gì đã khiến cho phụ vương gầy mòn héo hon đi như người đang mang một nỗi sầu muộn thầm kín. Nhà vua đáp: “Con yêu quý, điều con hỏi là có thật đấy. Quả là cha đang bị một nỗi lo buồn dày vò. Con là con một của ta, và lúc nào con cũng chỉ bận tâm với những tham vọng võ công. Cuộc sống trần thế thì bất chắc mà chiến tranh lại xảy ra liên miên. Nếu một mai xảy ra một điều chẳng may gì đó với con thì dòng họ nhà ta sẽ tuyệt diệt mất. Cố nhiên, riêng mình con cũng bằng trăm người con khác. Tuy thế những ai am hiểu các sách kinh đều nói rằng trên cõi trần thế nhất thời này nếu chỉ có một người con trai không thôi thì rốt cuộc cũng chẳng có người con nào. Thật là không phải nếu sự trường tồn của dòng họ nhà ta lại phải tùy thuộc vào có mỗi một mạng sống, và ta buồn lo là bởi lẽ đó”. Người cha đã nói dối, thật ra thì nhà vua lấy làm xấu hổ nếu bộc lộ trọn vẹn câu chuyện ra cho con mình hay. Chàng Devavrata tinh ý nghĩ rằng chắc phải có một nguyên cớ bí mật nào đó mới khiến cho trạng thái tâm thần của cha mình đến phải như thế; chàng dò hỏi người đánh xe cho nhà vua và biết được chuyện gặp gỡ giữa vua cha và cô con gái nhà chài bên bờ sông Yamuna. Chàng liên đi gặp lão trùm các dân chài ấy và nhân danh cha mình xin hỏi con gái lão cho cha. Lão trùm tỏ ra cung kính, nhưng vẫn một mực khăng khăng: “Con gái lão quả thật xứng đang làm vợ vua, thế thì lẽ nào con trai nó sẽ không làm vua được? Nhưng chàng đã được phong làm hoàng thái tử kế vị và tất nhiên chàng sẽ nối nghiệp vua cha. Chính đó là điều trở ngại”. Devavrata đáp: “Tôi xin hứa với ông rằng con trai do nàng ấy sinh ra sẽ làm vua, và tôi sẽ từ bỏ quyền thái tử nhiếp chính để trao nó lại cho con nàng”, và chàng bèn cất lời thề. Viên trùm dân chài nó: “Ôi! Chàng là một người tuyệt vời trong dòng họ Bharata, chàng đã làm một điều mà từ xưa đến nay, không một ai trong dòng máu vương giả đã từng làm. Quả chàng là một trang anh hùng. Chàng có thể tự mình dẫn con gái lão về với đức vua, phụ vương của chàng. Tuy vậy, xin chàng hãy kiên tâm nghe những điều lão nói với tư cách là cha của đứa con gái. Lão không có chút nghi ngờ gì về việc chàng sẽ giữ lời hứa, nhưng làm sao lão có thể hy vọng rằng con cái của chàng lại sẽ vui lòng khước từ quyền trưởng nam được? Tất nhiên con cái của chàng sẽ cũng là những trang hảo hán cao cường như chàng và sẽ khó lòng đấu được với họ nếu một mai họ tìm cách dùng vũ lực chiếm lại đất nước? Đấy là mỗi nghi ngại đang giày vò lão”. Vì sẵn sàng muốn làm thỏa mãn sự mong muốn của vua cha nên khi nghe câu hỏi của lão trùm, Devavrata bèn đưa ra lời khước từ tối hậu. Chàng thề với ông bố người con gái rằng: “Không bao giờ tôi lấy vợ và tôi sẽ tự hiến thân cho một cuộc đời mãi mãi tinh khiết”. Chàng trai anh hùng giơ cao tay thề, và khi chàng vừa thốt lên những lời khước từ đó thì các chư thần liền rắc hoa lên đầu chàng, và những tiếng kêu: “Bhishma! Bhishma.” rền vang trên không trung. “Bhishma” có nghĩa là con người đã thực hiện được một lời thề ghê gớm và sẽ làm tròn lời thề đó. Từ đấy, cái tên Bhishma trở thành một cái tên nổi tiếng thay cho tên của Devavrata. Sau đó người con trai của nữ thần Ganga dẫn cô gái Satyavati về với cha mình. Satyavati sinh hạ với Santanu được hai người con trai, là Chitrangada và Vichitravirya, lần lượt lên ngôi vua kẻ trước người sau. Vichitravirya có hai người con trai, Dhritarashtra và Pandu, người đầu là con hoàng hậu Ambika, người sau là con của Ambalika. Các con của Dhritarashtra, có trăm người tất thảy, lập nên chi họ Kaurava. Pandu có năm người con trai cũng trở nên lừng danh với danh hiệu chi họ Pandava. Bhishma sống thọ, được tất cả các tộc trưởng tôn kính cho đến lúc cuộc chiến tranh Kurukshetra nổi tiếng kết thúc. CHƯƠNG 3 AMBA VÀ BHISHMA Chitrangada, con trai của Satyavati, bị giết trong một trận giao tranh với một người Gandharva12. Ông ta không có con nên khi ông mất, em ông là Vichitravirya là người kế vị hợp pháp và được phong vương một cách trọng thể; và vì chàng còn thơ ấu nên Bhishma thay chàng cai trị đất nước đợi cho đến khi chàng trưởng thành. Lúc Vichitravirya đã gần đến tuổi thanh niên, Bhishma định dạm vợ cho chàng; nghe nói các công chúa con vua xứ Kasi đang kén chồng đúng theo phong tục cổ xưa của giới Kshatriya13, ông bèn đi tới đó để hỏi làm vợ cho em. Các vị thủ lĩnh xứ Kosla, Vanga, Pundra, Kalinga và các vị vua chúa khác ăn bận những bộ lễ phục sang trọng nhất, cũng tới Kasi dự hội cầu hôn Swayamvara. Các nàng công chúa đều nổi tiếng tài sắc và đức hạnh vẹn toàn khiến cho những người đến cầu hôn kịch liệt tranh đua với nhau để mong chiếm được họ. Trong giới Kshatriya, Bhishma lừng danh là một trang hảo hán võ nghệ cao cường. Thoạt đầu, các vua chúa đều tưởng rằng người dũng sĩ đáng gờm kia tới đây chỉ cốt để xem hội nhân lễ cầu hôn; nhưng khi họ biết rằng ông cũng là một người dự cuộc, thì họ đều tự cảm thấy mình đuối sức và lấy làm buồn rầu vô cùng. Họ không biết rằng thật ra chàng tới đây vì lợi ích của người em, Vichitravirya. Các vua chúa bắt đầu nói khích, xúc phạm tới Bhishma: “Các con người ưu việt và thông thái, con cháu dòng dõi Bharata này, y quên rằng mình đã già nua tuổi tác và cũng đã quên cả lời nguyền sống độc thân rồi. Chàng biết cái lão già ấy tới hội cầu hôn để làm gì? Rõ lão ta không biết xấu hổ!”. Các nàng công chúa đang để tâm kén chồng thì chỉ thờ ơ liếc nhìn ông già rồi nhìn đi nơi khác. Bhishma bừng bừng nổi giận. Ông thách thức các vị vua chúa đem sức trai tráng của họ ra tỷ thí với ông; và rồi ông đánh bại tất thảy bọn họ; và đưa cả ba nàng công chúa lên xe trở về Hastinapura. Nhưng ông chưa đi được bao xa thì Salva, vua xứ Saubala, người đã có gắn bó với Amba, bỗng tới can thiệp và chống lại ông. Amba là một trong ba nàng công chúa và chính nàng công chúa này trong thâm tâm cũng đã chọn Salva làm chồng. Sau một cuộc giao tranh ác liệt, Salva bị đánh ngã, mà điều đó cũng chẳng có gì lạ, bởi vì Bhishma là một cung thủ xuất chúng; nhưng thể theo lời cầu xin của các nàng công chúa, Bhishma tha chết cho y. Một khi đưa các nàng công chúa về Hastinapura rồi, Bhishma liền chuẩn bị làm lễ cưới cho Vichitravirya. Lúc tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ thì Amba nhìn Bhishma, mỉm cười chế giễu và nàng nói với ông như sau: “Hỡi người con của nữ thần Ganga! Sách kinh ngăn cấm điều gì, chắc ông đã biết. Về phương diện đạo lý, tôi đã chọn Salva, vua xứ Saubala, làm chồng tôi. Ông đã cưỡng ép tôi tới đây. Là người thông kinh kệ, chắc ông đã biết rõ điều đó, vậy phải nên xử sự thế nào, ông hãy làm như thế ấy”. Bhishma thừa nhận nàng phản đối như vậy là có lý và ông bèn gửi nàng về với Salva cùng một đoàn hộ tống. Hôn lễ của hai cô em Ambika và Ambalika với Vichitravirya, được cử hành một cách long trọng. Amba hoan hỉ tới gặp Salva báo cho y rõ những gì đã xảy ra: “Trong thâm tâm em đã chọn chàng làm chồng em, ngay từ lúc ban đầu gặp gỡ. Bhishma đã gửi trả em lại với chàng, xin chàng hãy cưới em theo đúng pháp tắc trong sách kinh”. Salva đáp: “Bhishma đã đánh bại ta trước mặt đông đủ mọi người, rồi đã đưa nàng đi. Ta đã bị sỉ nhục. Bởi thế bây giờ ta không thể nhận nàng làm vợ ta được. Hãy quay lại với ông ấy và ông ấy bảo ban làm sao thì nàng hãy làm thế”. Nói xong, Salva gửi trả lại nàng cho Bhishma. Nàng trở lại Hastinapura và thuật lại cho Bhishma biết rõ điều xảy ra, Bhishma cố tìm cách thuyết phục Vichitravirya hãy lấy nàng, nhưng chàng nhất định không chịu lấy một cô dâu mà trái tim đã dành cho người khác. Thế rồi Amba lại quay về phía Bhishma và xin ông hãy lấy cô làm vợ, bởi vì không còn phương kê nào khác nữa. Bhishma không thể tự phá vỡ lời nguyền được tuy ông rất đau buồn cho số phận Amba. Sau mấy lần cố thử khiến cho Vichitravirya thay đổi ý kiến mà không đạt, ông nói cho nàng hay rằng không còn một lối nào khác ngoài việc trở lại với Salva một lần nữa và tìm cách thuyết phục y. Vì là một con người kiêu hãnh, nên lúc đầu nàng không nghe theo lời khuyên đó, và nhiều năm ròng rã nàng vẫn cứ sống tại Hastinapura. Cuối cùng, trong nỗi tuyệt vọng xót xa, nàng trở lại để gặp Salva nhưng vẫn thấy y trơ trơ như gỗ đá. Nàng Amba mắt-bông-sen trải qua sáu năm cay đắng, sống với những nỗi đau buồn và niềm hy vọng hão huyền; lòng nàng đã khô kéo đi trong nỗi thống khổ và tất cả những gì là dịu dàng trong nàng đều biến thành lòng căm thù và oán giận độc địa với Bhishma. Nàng tìm trong đám các vị vua chúa một đấu thủ để y tỷ thí với Bhishma, giết ông ta, rửa mối hận thù. Nhưng chỉ mất công vô ích. Ngay những trang dũng sĩ cao cường nhất cũng sợ Bhishma và vì vậy đều không để tâm đến lời kêu gọi của nàng. Sau cùng, nàng phải dùng đến phương kế tu luyện khắc khổ để mong được Ngọc hoàng Subrahmanya đoái thương. Ngọc hoàng mở lượng từ bi, hiện ra trước nàng, ban cho nàng một vòng hoa sen vĩnh viễn giữ màu tươi thắm, và Người cho biết rằng kẻ nào mang vòng hoa ấy sẽ trở thành kẻ thủ của Bhishma. Amba nhận vòng hoa, và một lần nữa nàng lại cầu khẩn mọi người trong giới võ sĩ hãy nhận lấy nó, là món quà của vị thần sáu mặt, và hãy vì nàng mà giao tranh với Bhishma. Nhưng không một ai cả gan dám đối địch với Bhishma. Rốt cuộc nàng tới gặp vua Drupada, nhà vua cũng từ chối không nhận lời khẩn cầu của nàng. Thế là nàng treo vòng hoa trên cổng cung điện của vua Drupada rồi bỏ vào ở trong rừng. Tại đây, nàng gặp một số nhà tu hạnh khổ hạnh; nàng kể cho họ nghe câu chuyện thương tâm của mình; họ khuyên nàng hãy tới cầu khẩn Parasurama. Nàng nghe theo lời khuyên của họ. Nghe câu chuyện buồn bã của nàng, đạo sĩ Parasurama động lòng thương hại và nói: "Con thân yêu, con định thế nào? Nếu con muốn, ta có thể bảo với Salva hãy lấy con". Amba nói: "Thưa không, con không muốn như vậy. Con không còn có lòng nào mà ham muốn việc lấy chồng con, nhà cửa hoặc hạnh phúc nữa. Bây giờ trên đời này con chỉ còn mong mỗi một điều là trả thù Bhishma. Cái ân huệ độc nhất mà con mong tìm, ấy là Bhishma phải chết." Động lòng trước nỗi thống khổ của nàng cũng như do mối hận thù dai dẳng của mình đối với giới Kshatriya, Parasurama bèn đồng tình với nàng và giao tranh với Bhishma. Đây là một cuộc chiến đấu ngang tài ngang sức giữa hai trang dũng sĩ cao cường nhất của thời đó, nhưng cuối cùng thì Parasurama bị thua. Ông bảo với Amba: "Ta đã làm tất cả những gì có thể làm được và ta đã bị đánh bại. Con hãy trông chờ vào lòng trắc ẩn của Bhishma. Với con chỉ còn lại phương kế duy nhất ấy mà thôi". Bị hao mòn vì nỗi sầu muộn và lòng căm giận, chỉ có lòng mong muốn trả thù là còn nung cấu chút ham sống còn thoi thóp, nàng Amba bèn đi vào núi Himalayas tu luyện hết sức khắc khổ để cầu xin được ngọc hoàng Siva ban ân huệ, bởi vì bây giờ nàng đã không còn trông chờ gì được vào sự cứu giúp của người trần thế nữa. Siva hiện ra trước mặt nàng, ban cho nàng một ân huệ, rằng đến kiếp sau nàng sẽ giết được Bhishma. Amba nôn nóng đi sang kiếp sau ấy, nó sẽ đem lại cho nàng mong muốn. Nàng dựng một dàn hỏa thiêu rổi nhảy vào lửa, để ngọn lửa hận thù bùng ra xối vào ngọn lửa yếu ớt của dàn hỏa thiêu. Nhờ ân huệ của thần Siva, Amba đầu thai làm con gái của Drupada. Ít năm sau khi ra đời, nàng nom thấy vòng hoa không bao giờ tàn héo đang còn treo ở cổng lâu đầu và vẫn chưa có ai đụng tới vì ai cũng sợ, nàng liền quàng nó vào cổ. Cha nàng là Drupada sửng sốt khi thấy nàng táo tợn đến như vậy, ông sợ nàng vì điều đó mà cơn tức giận của Bhishma sẽ trút lên đầu ông. Ông còn bắt con gái phải rời khỏi kinh đô vào sống lưu vong trong rừng. Tại đây, nàng tu luyện khắc khổ và lúc đắc đạo, nàng biến thành đàn ông và trở nên một dũng sĩ tên là Sikhandin. Sau này, Arjuna sẽ dùng Sikhandin làm người đánh xe khi tiến đánh Bhishma trong chiến trường Kurukshetra. Bhishma biết Sikhandin kiếp xưa vốn là nữ giới, cho nên trung thành với luật lệ thượng vô, ông sẽ không đánh lại chàng trong bất cứ trường hợp nào. Bởi thế cho nên Arjuna được Sikhandin che chở, mới có thể giao tranh với Bhishma và thắng được ông. Bhishma biết trước rằng cuộc thử thách lâu dài và nhọc nhằn của ông trên cõi trần đã chấm dứt nên ông thuận để cho bị đánh bại. Trong trận giao tranh lần chót, Bhishma rút những mũi tên cắm sâu nhất vào người ông và nói: "Đây là mũi tên của Arjuna chứ không phải của Sikhandin". Người dũng sĩ xuất chúng ấy đã ngã xuống như vậy. CHƯƠNG 4 DEVAYANI VÀ KACHA Thuở xưa đã xảy ra một cuộc xung đột ác liệt giữa những deva - các chư thần - và những asura - bọn quỷ, để giành quyền bá chủ trong cả ba cõi. Hai bên tham chiếu đều có những vị sư phụ lừng danh - đạo sĩ Brihaspati người tinh thông siêu việt kinh Veda, là linh hồn của các thần; còn phe quỷ thì trông cậy vào tài trí uyên thâm của sư phụ Sukra. Phe quỷ có một lợi thế ghê gớm, vì chỉ riêng Sukra là nắm được bí quyết Sanjivini, đó là phép cải tử hoàn sinh. Bởi thế nên yêu quỷ nào chết trận đều được làm cho sống lại, hết lượt này đến lượt khác, và lại tiếp tục cuộc giao chiến với chư thần. Cũng vì vậy mà các thần bị lâm vào thế bất lợi nghiêm trọng trong cuộc chiến tranh dằng dai với những địch quân của họ. Các thần bèn tới gặp Kacha, con trai Brihaspati, và xin chàng giúp đỡ. Họ cầu van chàng hãy tìm cách lấy lòng sư phụ Sukra và cố thuyết phục vị đạo sĩ này thu nhận chàng làm đệ tử. Một khi đã có quan hệ thân thiết và được tin cậy, chàng phải, bằng mọi cách cứng rắn hay mềm mỏng, học cho được bí quyết Sanjivini để gạt bỏ mối bất lợi lớn đang đè nặng lên các chư thần. Kacha chấp nhận lời thỉnh cầu của họ và chàng lên đường tới gặp sư phụ Sukra lúc ấy đang sống tại kinh đô cùng quỷ vương Vrishaparva. Kacha đi tới gặp Sukra và sau khi cung kính lạy chào, chàng thưa với ông ta như sau: "Đệ tử là Kacha, cháu của đạo sĩ Angira và là con của Brihaspati. Con là một brahmacharin14 tới đây xin ra mắt sư phụ để cầu học đạo". Đã có lệ rằng một người thầy cao minh không được từ chối một người thuộc gia đình danh giá đến tìm thầy học đạo. Do đó Sukra ưng thuận và bảo: "Kacha, con thuộc một gia đình danh giá. Ta chấp nhận con làm đệ tử của ta; ta càng vui lòng hơn vì khi ta làm như vậy, ta đây cũng bày tỏ được lòng kính trọng đối với Brihaspati". Kacha được Sukra dạy dỗ nhiều năm và chàng đã làm tròn những bổn phận được giao phó trong nhà của sư phụ chàng, Sukra có một nàng con gái kiều diễm tên là Devayani mà ông ta hết sức yêu thương. Kacha cũng dốc lòng phục vụ nàng, mua vui cho nàng bằng những lời ca điệu múa và những trò giải trí khác; chàng chiếm được cảm tình của nàng Devayani mà không làm tổn thương đến những lời thề của một brahmacharya15. Khi phe quỷ đỏ biết được điều đó, họ đâm ra lo lắng bởi vì họ nghi rằng mục đích của Kacha là bằng mọi cách, lấy lòng Sukra để học cho được bí thuật Sanjivini. Lẽ dĩ nhiên họ tìm cách ngăn chặn một tai họa như vậy. Một ngày nọ, lúc Kacha đang bận cho đàn gia súc của thầy học mình ăn cỏ, bọn quỷ bèn bắt lấy chàng, xé chàng ra từng mảnh và ném cho chó ăn. Khi đàn gia sức trở về nhưng thấy không có Kacha. Devayani hết sức lo lắng, vừa chạy tới gặp cha và kêu van rầm rĩ: "Mặt trời đã lặn rồi, lễ cúng lửa buổi tối đã xong, ấy thế mà Kacha vẫn chưa về. Gia súc tự chúng đã về chuồng, chẳng ai chăn dắt. Con sợ Kacha đã gặp phải điều không may gì đó. Cha ơi, không có chàng ta, con không thể sống được". Người cha nuông chiều con ấy bèn dùng phép thuật Sanjivini gọi chàng thanh niên đã chết phải hiện ra. Ngay lập tức Kacha sống trở lại và tươi cười chào thầy. Devayani hỏi cớ sao chàng về chậm thì chàng nói rằng khi chàng đang chăn đàn gia súc thì bọn quỷ bất ngờ xông tới và giết chàng. Còn làm sao mà chàng sống lại thì chàng không được biết, nhưng rõ ràng chàng đã sống lại và chàng hiện đang đứng đây. Một dịp khác, Kacha đi vào rừng hái hoa cho Devayani, và lần này nữa bọn quỷ lại bắt giết chàng, nghiền xác chàng cho vụn ra rồi đem hòa vào nước biển, Mãi hồi lâu mà vẫn không thấy chàng trở về, Devayani lại tới gặp cha như lần trước. Ông lại dùng phép Sanjivini khiến Kacha sống lại và nghe chàng thuật lại mọi việc đã xảy ra. Rồi đến lần thứ ba, bọ quỷ giết chết Kacha. Để chàng không thể cải tử hoàn sinh được nữa, chúng đốt xác chàng ra tro, đem hòa vào rượu vang rồi dâng mời Sukra; ông ta uống mà không ngờ vực gì hết. Một lần nữa đàn bò trở về không có người chăn rắt, và lại một lần nữa, Devayani tới gặp cha, miệng kêu gọi Kacha một cách đau khổ. Sư phụ Sukra cố khuyên giải con gái nhưng vô ích. "Mặc dầu cha đã khiến cho Kacha được sống lại mấy lần, nhưng phe của quỷ có vẻ như nhất quyết giết hắn cho kỳ được. Thôi, chết là số mệnh chung, và một người khôn ngoan như con mà đau khổ về chuyện đó, thì thật không phải nhẽ. Con hãy vui hưởng cuộc đời trước mắt con, con đang độ thanh xuân, con có nhan sắc, nhiễm lệ và được thiên hạ chiêm ngưỡng, vậy thì con hãy cứ vui hưởng cuộc đời đi con ạ". Devayani đang yêu Kacha một cách sâu nặng và từ thuở khai thiên lập địa, những câu châm ngôn sáng suốt nhất chưa từng chữa lành những nỗi đau khổ do tình yêu gây nên. Nàng nói: "Kacha, cháu Angiras và con trai Brihaspati, là một chàng trai vẹn toàn, đã hết lòng tận tụy vì chúng ta. Con yêu chàng tha thiết; bây giờ chàng đã bị giết rồi thì cuộc sống đối với con trở nên lạnh lẽo và không chịu nổi. Đã vậy thì con đành phải đi theo con đường của chàng". Và Devayani bắt đầu nhịn ăn. Đau đớn trước nỗi thống khổ của con, Sukra đâm ra tức giận đối với phe quỷ và ông cảm thấy rằng cái tội lỗi ghê tởm giết chết một người bàlamôn sẽ đè nặng lên vận mệnh của họ. Ông bèn dùng pháp thuật Sanjivini để chiêu gọi Kacha hãy xuất hiện. Xác Kacha đã tan biến khi bị hòa vào rượu rồi lại bị Sukra uống phải cho nên dẫu quyền lực của pháp thuật Sanjivini mà chàng sống lại, nhưng vì lúc đó chàng lại đang nằm trong bụng Sukra nên chàng không thể chui ra được mà chỉ có thể trả lời khi nghe gọi đến tên mình. Sukra lấy làm ngạc nhiên, thốt lên giận dữ: "Đệ tử ơi, con chui vào bụng ta bằng cách nào? phải chăng đây cũng là do bọn quỷ gây nên? Thế này thì quả là tệ mạt quá, ta muốn giết ngay lũ quỷ để rồi đứng về phía chư thần. Nhưng đệ tử hãy kể ta nghe đầu đuôi câu chuyện". Kacha thuật lại đầy đủ sự việc mặc dầu chàng đang ở trong một tư thế hết sức bất tiện. Vaisampayana kể tiếp: "Vị đạo sĩ Sukra với tâm hồn cao cả và sống cuộc đời khổ hạnh, liền nổi cơn thịnh nộ khi biết người ta chuốc rượu để đánh lừa ông. Rồi vì hạnh phúc của nhân loại, ông lớn tiếng nói: "Phẩm hạnh sẽ rời bỏ con người nào thiếu sáng suốt mà đâm ra nghiện rượu. Hắn sẽ bị thiên hạ chê cười. Đây là lời kêu gọi của ta gửi tới nhân loại. Mọi người phải xem đó là một mệnh lệnh nghiêm khắc của sách kinh". Rồi ông ngoảnh lại phía con gái và nói: "Con yêu dấu, con đang đứng trước một việc khó xử đấy, Để cho Kacha sống lại, hắn phải rạch bụng cha mà chui ra, nhưng như thế có nghĩa là cha phải chết. Mạng sống của chàng chỉ có thể chuộc lại bằng cái chết của cha thôi, con ạ". Devayani khóc nức nở, nàng nói: "Trời ơi! Nếu vậy thì thế nào con cũng phải chết thôi, bởi vì nếu cha hoặc chàng phải chết thì con cũng không sống được". Sukra cố suy nghĩ tìm cách thoát khỏi tình thế khó khăn, rồi bỗng trong đầu óc ông lóe lên một cách quả quyết. Ông nói với Kacha: “Hỡi người con của Brihaspati, bây giờ ta đã hiểu con tới đây với mục đích gì… và thật tình con đã đạt rồi đấy! Vì Devayani, ta phải cứu cho con sống nguyên vẹn và đưa con ra khỏi người ta, nhưng cũng vì con gái ta mà ta không có quyền chết. Cách duy nhất là ta dạy cho con pháp thuật Sanjivini, con sẽ làm ta sống lại sau khi ta chết, vì phải mổ bụng để con thoát ra. Con phải vận dụng sự hiểu biết mà ta dạy cho con rồi cải tử hoàn sinh cho ta; nhờ đó Devayani khỏi phải đau khổ vì một trong hai thầy trò ta”. Thế là Sukra truyền dạy pháp thuật Sanjivini cho Kacha. Ngay lập tức, từ thân thể Sukra, Kacha ló ra như mặt trăng ló khỏi đám mây, trong khi Sukra, bụng bị xé rách, ngã vật xuống chết. Nhưng ngay tức thì Kacha làm cho Sukra sống lại bằng phép Sanjivini mà chàng vừa học được. Kacha cúi đầu thi lễ trước Sukra và nói: “Vị sư phụ đã truyền dạy sự thông thái cho kẻ ngu hèn thì cũng được coi như người cha. Hơn nữa vì con từ trong thân thể Người mà ra, cho nên sư phụ cũng lại là mẹ của con”. Kacha ở lại nhiều năm học đạo với sư phụ Sukra. Khi đã được như sở nguyện và thời kỳ học tập đã chấm dứt, chàng từ giã sư phụ để trở về thế giới các chư thần. Lúc chàng sắp sửa ra đi, nàng Devayani khiêm nhượng nói với chàng như sau: “Hỡi người cháu của Angiras, chàng đã chiếm được trái tim của em do cuộc sống toàn thiện của chàng. Em đã tha thiết yêu chàng từ lâu, ngay cả lúc chàng đang thành tâm theo đuổi lời thề nguyền của một đệ tử bàlamôn. Bây giờ chàng nên đền đáp lại tình yêu của em và xin hãy lấy em làm vợ cho em được hạnh phúc. Brihaspati cũng như bản thân chàng đều hoàn toàn xứng đáng với tấm lòng tôn kính của em”. Vào thuở đó, việc một phụ nữ bàlamôn khôn ngoan và có học thức bộc lộ rõ ràng ý nghĩ của mình với sự thành thật đáng trọng như vậy, việc ấy là điều bình thường. Nhưng Kacha nói: “Hỡi con người toàn thiện! Nàng là con gái sư phụ tôi và mãi mãi xứng đáng với lòng tôn kính của tôi. Tôi đã được sống lại là do tôi đã được sinh ra từ thân thể của phụ thân nàng. Từ nay, tôi là người anh em của nàng . Nàng là chị em với tôi, thật là không phải đạo. nàng ạ, nếu nàng đòi tôi phải lấy nàng”. Devayani tìm cách thuyết phục chàng, nhưng vô hiệu. Nàng nói: “Chàng là con của Brihaspati chứ không phải con của cha em. Chính vì yêu chàng nên em đã chủ động cầu xin cho chàng sống trở lại. Quả thật em đã yêu chàng và mong muốn được làm vợ chàng. Thật là không phải nếu chàng lại từ chối một người không phạm chút tội lỗi và luôn trung thành với chàng, như em đây”. Kacha đáp lại: “Xin nàng đừng tìm cách khiến tôi phạm phải tội bất chính. Hơn bao giờ hết, hiện giờ nàng đang đỏ bừng lên vì tức giận thì nàng lại càng làm mê đắm lòng người. Nhưng tôi lại là anh em với nàng. Xin cho phép tôi vĩnh biệt. nàng hãy mãi mãi phụng dưỡng hết lòng sư phụ của tôi”. Bằng những lời lẽ lịch thiệp đó, Kacha đã tránh được mọi lời cam kết rồi chàng lên đường đi về cõi Indra, vua của các chư thần. Còn Sukra thì hết lời khuyên giải con gái cho nàng nguôi dần. CHƯƠNG 5 DEVAYANI LẤY CHỒNG Vào một buổi chiều nóng nực, sau khi đã chơi đùa thỏa thích trong rừng cây, mệt mỏi nhưng trong lòng vui vẻ, nàng Devayani cùng các nàng con gái của quỷ vương Vrishaparva đến tắm trong một hồ nước mát lạnh ở giữa rừng. Trước khi xuống nước, họ bỏ y phục trên bờ. Một trận gió nồm nổi lên thổi vun quần áo của họ vào một đống lẫn lộn. Tắm xong và lúc mặc lại quần áo thì công chúa Sarmishtha, con gái quỷ vương mặc nhầm phải quần áo của Devayani. Cô này lấy làm bực bội; nửa đùa nửa thật nàng kêu lên rằng con gái của một đệ tử mà mặc quần áo của con gái sư phụ, đó là một điều không đúng phép tắc. Lời nói ấy chỉ là lời nói đùa, nhưng đã làm công chúa Sarmishtha tức giận vô cùng. Nàng nói một cách ngạo nghễ: “Thế ra cô không biết hàng ngày cha cô phải quỵ lụy và cung kính cúi mình trước vua cha ta hay sao? Há cô không phải là con của một tên ăn xin sống nhờ vào ân huệ của cha ta ư? Cô quên là ta thuộc dòng dõi vương giả chỉ biết kiêu hãnh ban thưởng cho kẻ khác, còn cô xuất thân từ con nhà chỉ biết xin xỏ và đón nhận? Cô quên thế rồi hay sao mà lại dám ăn nói với ta như vậy”. Sarmishtha nói mãi, càng nói càng thêm tức tối cho tới lúc không nén được cơn giận, nàng tát vào mặt Devayani và đẩy bạn ngã xuống một giếng cạn. Các cô gái asura nghĩ rằng Devayani đã chết nên họ quay về cung. Khi rơi xuống giếng, Devayani không chết, nhưng nàng không thể nào leo lên các bậc ở thành giếng được. Vừa lúc ấy, hoàng đế Yayati thuộc dòng dõi Bharata đang đi săn trong rừng và tình cờ, ông đi tới đó tìm nước uống cho đỡ khát. Khi nhìn xuống giếng, vua trông thấy có một vật gì đó đang lấp lánh. Nhìn sát gần hơn, nhà vua ngạc nhiên xiết bao vì nhận ra một cô gái xinh đẹp đang nằm sõng soài dưới đáy giếng. Vua hỏi: “Hỡi cô gái xinh đẹp có đôi trằm lấp lánh, có những móng tay hồng thắm, nàng là ai vậy? Phụ thân nàng là ai? Nàng thuộc dòng dõi nào? Cớ làm sao nàng lại rơi xuống giếng?”. Nàng đáp: “Em là con gái sư phụ Sukra. Cha em không hay rằng em bị ngã xuống giếng. Xin kéo giùm em lên!”. Và nàng giơ tay lên, Yayati nắm lấy tay nàng, kéo nàng ra khỏi giếng. Devayani không muốn trở về kinh đô của quỷ vương. Nàng nghĩ đến thái độ của Sarmishtha và cảm thấy nếu đi về đó thì sẽ không được yên ổn. Nàng nói với Yayati: “ Chàng đã cầm lấy tay phải của một người con gái, vậy chàng phải lấy cô ta làm vợ. Em cảm thấy về mọi mặt chàng xứng đáng là chồng em”. Yayati đáp lại: “ Hỡi con người đáng yêu, ta là một người thuộc tầng lớp Kshatriya, còn nàng là một cô gái bàlamôn. Ta lấy nàng làm sao được? Nàng là con gái của Sukra, người thầy của toàn cõi thế gian này, làm sao lại có thể hạ mình chịu làm vợ của một Kshatriya như ta đây? Hỡi công nương kính mến, xin nàng hãy trở lại nhà cho”. Nói xong những lời đó, Yayati trở về kinh đô. Theo tục lệ cổ truyền, một người con gái thuộc đẳng cấp Kshatriya, có thể lấy một người đàn ông bàlamôn, nhưng nếu con gái bàlamôn mà lấy một Kshatriya thì việc đó xem như sai trái. Điều quan trọng, ấy là duy trì sao cho những điều pháp luật có tính đẳng cấp đối với phụ nữ không bị hạ thấp xuống. Từ đó, có tục lệ anuloma nghĩa là lấy chồng thuộc đẳng cấp cao hơn là điều chính đáng, còn ngược lại, tục lệ pratiloma, nghĩa là lấy chồng thuộc đẳng cấp thấp hơn thì bị kinh sách cấm đoán. Devayani không còn lòng nào mà trở về nhà. Nàng ngồi lại dưới bóng một cây to trong rừng, chìm sâu trong đau khổ. Sukra thương yêu Devayani hơn cuộc sống của ông. Sau khi đợi mãi vẫn không thấy con gái đi chơi với bạn bè trở về, ông sai một nữ tỳ đi tìm nàng. Sau một buổi tìm kiếm vất vả, mãi rồi người đầy tớ cũng tới được chỗ gốc cây, nơi nàng đang ngồi, lòng chán ngán, mắt đỏ hoe vì căm giận và sầu não. Người nữ tỳ hỏi nàng cớ sao lại còn ngồi ở đây. Devayani nói: “ Người về ngay đi, nói với cha ta rằng ta sẽ không đặt chân về kinh thành của Vrishaparva nữa” rồi nàng bảo nó trở lại nhà. Sukra hết sức phiền lòng về cảnh ngộ đau đớn của con gái. Ông vội vã tới gặp con. Vừa vỗ về con, ông vừa nói: “ Con người ta được sung sướng hay phải chịu khổ cực là do hành vi tốt hay xấu của bản thân mình. Đức hạnh cũng như thói xấu của kẻ khác rốt cuộc cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, con ạ”. Ông cố dỗ dành con gái bằng những lời lẽ sáng suốt đó. Trong lòng đau đớn, căm giận, nàng thưa: “ Thưa cha, xin cha hãy yên đừng nói tới phẩm hạnh hoặc lỗi lầm của con, vì xét cho cùng thì nó cũng chỉ quan hệ đến con thôi. Nhưng cha cho con biết điều này: “ Sarmishtha, con gái Vrishaparva, có lý hay không khi nói với con rằng cha chỉ là một ca sĩ hát lời tán tụng các vị vua chúa? Hắn bảo con là con gái của một kẻ ăn xin, sống nhờ vào những của bố thí kiếm được bằng cách nịnh nọt. Lăng mạ sỉ nhục con một cách ngạo mạn như vậy cũng chưa lấy làm vừa, hắn còn tát con rồi đẩy con xuống giếng sâu ở gần đây. Con không thể ở lại trong bất cứ nơi nào trên đất đai của cha hắn”. Nói xong, Devayani khóc nức nở. Sukra vươn người lên một cách kiêu hãnh: “Devayani, ông trân trọng nói, con chẳng phải là con gái của một gã ca sĩ cung đình. Cha con không sống bằng tiền công do sự nịnh hót đem tới. Con ta là con gái một người được cả trần gian kính trọng. Ngọc hoàng Indra biết điều đó, và Vrishaparva không phải không biết tới món nợ của ông ta đối với cha. Nhưng một người có nhân cách không phô trương cái hay của mình, và cha không phải nói thêm gì nữa về bản thân cha. Đứng dậy đi con, con là báu vật có một không hai trong giới phụ nữ, mang lại thịnh vượng cho dòng dõi. Hãy kiên nhẫn. Cha con ta hãy về thôi”. Về việc này, Bhagavan Vyasa nhắn nhủ loài người bằng những lời mà Sukra khuyên bảo con gái như sau: “ Kẻ nào kiên nhẫn chịu đựng những điều xúc phạm của những người xung quanh, kẻ ấy sẽ chinh phục được thế giới. Kẻ nào kiềm chế được cơn nóng giận của mình như một tay kỵ mã trị được con ngựa bất kham, kẻ đó mới thật sự là một người đánh xe chứ không phải một kẻ tay biết cầm dây cương nhưng không điều khiển được ngựa, mặc nó muốn đi đâu tùy thích. Kẻ nào trút được cơn nóng giận đúng như con rắn trút bỏ xác, kẻ đó mới thực sự là một trang anh hào. Kẻ nào không bị đánh gục trước những đau khổ tột cùng do người khác gây nên cho y, kẻ đó đã thực hiện được mục đích của mình. Kẻ nào không bao giờ nổi giận, kẻ ấy đứng cao hơn người thành tâm cúng tế trong một trăm năm, những buổi tế sinh do sách kinh bảo ban quy định. Đầy tớ, bè bạn, anh em, vợ con, đạo đức và lòng trung tín sẽ rời bỏ người nào để cho cơn nóng giận lôi cuốn. Người khôn ngoan không nên bận lòng vì lời nói của bọn trẻ con trai gái”. Devayani lễ phép thưa với cha: “Quả thật, con còn trẻ người non dạ, nhưng con cũng mong rằng con không quá bé bỏng đến nỗi không hấp thụ được những chân lý cao siêu mà cha đã dạy. Tuy vậy, nếu cứ phải sống với những con người thô bỉ, thiếu trang nhã, thì thật không xứng đáng. Người khôn ngoan không nên kết bạn với những kẻ nói xấu gia đình mình. Cho dù chúng có giàu sang mấy đi nữa thì bọn vô giáo dục thật sự là những bọn cùng dân, đứng ngoài bậc thang đẳng cấp. Người phẩm hạnh không được sống hòa lẫn với chúng. Đầu óc con đang nóng bừng cơn giận trước những lời thóa mạ của đứa con gái Vrishaparva. Vết thương do vũ khí gây nên một mai có thể kín miệng, những viết bỏng lần lần có thể lành nhưng vết thương gây nên bởi những lời này tiếng nọ thì còn sống ngày nào người ta vẫn còn thấy đau đớn”. Sukra tới gặp Vrishaparva. Nhìn thẳng vào quỷ vương, ông nghiêm trang nói: “Tâu đức vua, tuy tội lỗi của con người có thể không dẫn tới sự trừng phạt tức thời, nhưng chắc chắn không sớm thì muộn, nó sẽ tiêu diệt chính cái mầm mống của sự thịnh vượng. Kacha người con của Brihaspati, là một người học trò bàlamôn đã làm chủ được các giác quan của mình và không bao giờ phạm bất cứ lỗi lầm nào. Anh ta hầu hạ tôi một cách trung thành và không bao giờ đi chệch khỏi con đường của đạo đức. Bộ hạ của Người cố tìm cách giết chết anh ta. Tôi phải chịu đựng điều đó. Con gái tôi vì coi trọng danh dự của nó, nên đã phải nghe những lời sỉ nhục do con gái Người đã thốt ra. Hơn nữa, nó còn bị con gái Người đẩy xuống giếng. Nó không thể nào ở lại trong vương quốc của Người nữa. Không có nó thì tôi cũng không thể sống tại đây. Vậy tôi sắp sửa rời vương quốc của Người đây”. Nghe nói như vậy, quỷ vương đâm hoảng, lấy làm phiền não và y nói: “Tôi không hay biết gì về những việc xảy ra ở ngoài cửa nhà tôi. Sư phụ mà bỏ tôi, thì tôi cũng phải nhảy vào lửa mà chết”. Sukra đáp lại: “Tôi lo lắng đến hạnh phúc con gái tôi hơn là số phận của Người và phe quỷ của Người, bởi vì con tôi là sở hữu duy nhất của tôi và thiết thân với tôi hơn mạng sống của tôi. Nếu Người có thể khiến nó nguôi giận, thì đó là một điều tốt lành. Bằng không, tôi xin đi vậy”. Vrishaparva cùng đoàn tùy tòng bèn đi vào rừng, tới chỗ gốc cây Devayani đang ngồi, rồi tất cả cùng quỳ dưới chân nàng để van nài nàng bớt giận. Devayani vẫn khăng khăng một mực. Cuối cùng nàng nói: “Sarmishtha đã nói tôi là đứa con của một kẻ ăn xin thì cô ta phải là nữ tỳ của tôi, hầu hạ tôi trong ngôi nhà người chồng mà cha tôi gả cho tôi”. Vrishaparva chấp thuận và sai người hầu về tìm Sarmishtha. Sarmishtha nhận lỗi và cúi đầu chịu phục tùng. Cô nói: “Chị bạn Devayani của tôi muốn thế nào thì nên như thế. Không thể vì một lỗi lầm do tôi phạm phải mà cha tôi phải mất sư phụ của người. Tôi xin sẵn lòng làm người hầu của Devayani”. Devayani hết giận và theo cha trở về nhà. Một lần khác nữa Devayani tới gặp Yayati. Nàng nhắc lại lời thỉnh cầu rằng chàng phải lấy nàng làm vợ từ lúc chàng đã cầm tay phải của nàng. Yayati cũng nhắc lại ý kiến phản đối rằng vì chàng là một Kshatriya, nên việc lấy một người Bàlamôn là điều không hợp lẽ. Cuối cùng cả hai đến gặp Sukra và được ông cho phép lấy nhau. Đây là một ví dụ về cuộc hôn nhân pratiloma xảy ra trong những trường hợp ngoại lệ. Chắc chắn kinh sách chỉ khuyên dạy cái gì đúng và cấm đoán cái gì sai trái, nhưng một cuộc hôn nhân khi đã được tiến hành rồi thì không thể bị khiến cho mất giá trị được. Nhiều năm qua, Yayati và Devayani chung sống với nhau trong niềm hạnh phúc. Sarmishtha làm người hầu của Devayani. Một ngày nọ Sarmishtha lén lút gặp Yayati và khẩn khoản van xin chàng cũng lấy cô ta làm vợ. Yayati mềm lỏng trước lời van xin đó và cưới cô ta mà Devayani không hề hay biết. Nhưng rồi Devayani cũng dò biết được và dĩ nhiên nàng rất căm giận. Nàng kêu ca với cha nàng. Trong cơn thịnh nộ, Sukra niệm chú bắt Yayati phải già trước tuổi. Đột nhiên bị lâm vào tuổi già ngay trong thời kỳ đầu của tuổi thanh niên, Yayati khẩn khoản van xin tha thứ đến nỗi Sukra cuối cùng cũng đã nguôi giận, vì ông vẫn chưa quên việc chàng đã cứu Devayani thoát khỏi giếng. Ông nói: “Thưa đức vua, Người đã mất tuổi thanh xuân tức là mất danh vọng. Thần chú không thể thu hồi lại được nhưng nếu Người có thể thuyết phục ai đó đổi tuổi trẻ của y để lấy tuổi già của Người, thì sự đánh đổi ấy sẽ có hiệu lực”. Nói xong, ông ban phúc cho Yayati và ra về. CHƯƠNG 6 YAYATI Hoàng đế Yayati là một trong các bậc tổ tiên của dòng họ Pandava. Ông ta không hề biết chiến bại là gì. Ông tuân theo lời giáo huấn của kinh sách, tôn thờ các chư thần và sùng kính thờ phụng tổ tiên. Ông nổi tiếng là một thủ lĩnh dốc lòng vì lợi ích của thần dân. Nhưng như đã nói ở trên, do thần chú của Sukra mà ông trở nên già trước tuổi vì đã phạm sai trái đối với vợ ông là Devayani. Qua mấy câu của nhà thơ tập Mahabharata “Yayati đã đi tới cái tuổi già nó huỷ hoại vẻ đẹp và đem tới sự thống khổ”, thiết tưởng không cần phải mô tả nỗi cực khổ của tuổi trẻ phút chốc phải tàn đi trong tuổi già; ở đây những tổn thất nặng nề càng thêm khủng khiếp bởi những nỗi thống khổ do kỷ niệm về thời đã qua, gây nên. Dẫu đột nhiên trở thành già, nhưng Yayati vẫn bị những ham muốn lạc thú nhục dục ám ảnh. Ông có năm người con trai khôi ngô tuấn tú, tất cả đều đức tài vẹn toàn. Yayati vời họ tới và kêu gọi một cách thảm thương đến lòng hiếu thảo của họ: “Thần chú của ông ngoại các con đã khiến cho cha phải già đi một cách bất ngờ và quá sớm. Cha chưa được hưởng đầy đủ thú vui ở đời; bởi vì không biết có cái gì còn dành lại cho mình cho nên cha đã sống một cuộc sống tự chế, tự mình khước từ ngay cả những lạc thú hợp lẽ. Một người trong các con có nhiệm vụ gánh lấy gánh nặng tuổi già của cha và trao tuổi thanh xuân của mình cho ta. Trong các con, ai ưng thuận điều đó và hiến cho ta tuổi trẻ, người đó sẽ cai trị vương quốc. Cha mong muốn được hưởng những lạc thú cuộc sống trong tuổi thanh niên cường tráng”. Trước tiên, ông hỏi người con cả. Người con này đáp: “Thưa cha, bọn phụ nữ và kẻ hầu sẽ cười nhạo con nếu con gánh lấy tuổi già của Người. Con không thể làm thế được. Xin Người thử hỏi các em con, chúng yêu thương Người tha thiết hơn chính con đây”. Khi người cha tới gần anh con thứ hai, anh ta từ chối một cách lễ phép bằng những lời lẽ như sau: “Thưa cha, cha đòi hỏi con mang lấy tuổi già nó sẽ huỷ hoại không phải chỉ có sức cường tráng và vẻ khôi ngô tuấn tú mà – điều này con cũng thấy – cả sự minh mẫn nữa. Con không đủ sức để làm như vậy”. Anh con thứ ba đáp: “Một người già không thể cưỡi ngựa cưỡi voi. Tiếng nói thì thào. Trong một tình thế bất lợi như vậy, hỏi con còn làm gì được? Con không thể ưng thuận được đâu, cha ạ!” Nhà vua lấy làm giận và chán ngán khi thấy ba người con khước từ không chịu làm như ông mong ước, nhưng ông hy vọng ở người con thứ tư. Ông nói với y: “Con nên gánh lấy tuổi già cho cha. Nếu con đổi tuổi thanh xuân cho cha thì sau một thời gian cha sẽ hoàn lại cho con, cha sẽ lấy lại tuổi già mà hiện giờ cha phải chịu đựng do bị phù phép”. Người con thứ tư xin cha tha lỗi cho mình, vì điều cha anh mong muốn là một điều mà anh không tài nào ưng thuận được. Một người già phải nhờ cậy vào kẻ khác ngay cả đến việc giữ cho thân thể được sạch sẽ. Đấy quả là một tình trạng thảm thương nhất. Không, tuy rằng anh ta yêu cha lắm, anh vẫn không thể làm như vậy được. Yayati lấy làm đau đớn vô hạn khi thấy cả bốn người con đều từ chối. Song hy vọng này tan biến thì hy vọng khác lại trỗi dậy, ông cầu khẩn với người con út, anh này chưa từng đi ngược lại mong muốn của ông bao giờ. Ông nói: “Con cần phải cứu lấy cha. Cha lấy làm phiền não với cái tuổi già kèm theo những nếp nhăn, sự suy nhược, đầu tóc bạc, do kết quả phép thần chú của Sukra. Một thử thách gay go đến thế là cùng! Nếu con vui lòng gánh chịu lấy những tật nguyền đó, thì sau một thời gian hưởng lạc thú đời, cha sẽ trả lại tuổi thanh niên cho con và lấy lại tuổi già của cha cùng tất cả nỗi thống khổ của nó. Cha van con, con đừng từ chối như máy anh con đã làm”. Puru, người con út, động lòng hiếu thảo, nói: “Thưa cha, con vui lòng trao cho cha tuổi trẻ của con và cất đi cho cha những nỗi thống khổ của tuổi già và những lo lắng bộn bề của việc nước. Cầu mong cho cha được sung sướng”. Nghe con nói vậy, Yayati ôm hôn con. Vừa mới đụng tới người Puru, Yayati đã trở thành một thanh niên ngay tức thì. Puru nhận lấy tuổi già của cha, nắm lấy việc cai trị vương quốc và giành được tiếng tăm lừng lẫy. Trong một thời gian dài Yayati hưởng nhiều lạc thú ở đời, nhưng không lấy làm thoả mãn; cuối cùng ông tới khu vườn Kubera và sống nhiều năm tại đấy với một phụ nữ apsara. Sau những năm tháng đằn đẵng cố dập tắt lòng ham muốn bằng khoái lạc nhưng vô hiệu, lúc bấy giờ chân lý mới loé sang trong đầu óc ông. Trở lại với Puru, ông nói: “Con yêu dấu ơi! Khoái lạc không bao giờ dập tắt được lòng ham muốn nhục dục, cũng như không bao giờ cứ tưới dầu lên lửa mà dập tắt được lửa. Xưa kia, cha đã nghe và đọc được điều đó, nhưng cho tới tận ngày nay cha đã không nhận ra điều đó. Không có một vật gì gây lòng ham muốn – lúa gạo, vàng bạc, gia súc và phụ nữ - mà có thể làm thoả mãn lòng ham muốn của con người. Chúng ta có thể đạt được sự thư thái chỉ bằng một sự cân bằng về tinh thần giữa cái yêu và cái ghét. Đấy là chỉ giáo của đấng Bàlamôn. Con hãy thu hồi tuổi trẻ của con và hãy cái trị đất nước một cách sáng suốt và tài giỏi”. Nói như thế xong, Yayati lấy lại tuổi già của ông. Puru lấy lại tuổi thanh niên, được Yayati phong cho làm vua, cong Yayati lui về ở ẩn trong rừng. Tại đấy, ông trải qua những năm tháng dốc lòng tu luyện khổ hạnh và lúc đã đắc đạo thì ông về cõi trời. CHƯƠNG 7 VIDURA Sau khi thấu hiểu được mọi điều trong các sách kinh thì đạo sĩ Mandavya đã có được sức mạnh tinh thần và tri thức uyên thâm. Từ đây, đạo sĩ sẽ trải qua những năm tháng dốc lòng vào công cuộc sám hối và thể nghiệm chân lý. Ông sống tại một cái am giữa rừng ở ngoại vi thành đô. Một ngày nọ, trong khi ông đang chìm đắm trong sự trầm tư, dưới bóng một cây đại thụ ở phía ngoài túp lều lá của ông, thì có một bọn cướp bị quân lính của nhà vua truy đuổi gấp, chạy băng qua rừng cây. Bọn cướp chạy ùa vào am vì nghĩ rằng đây là một nơi thuận tiện để lẩn tránh. Chúng dấu những của ăn cướp ở một góc lều rồi tìm chỗ nấp. Lính của nhà vua lần theo dấu chân của chúng và đi tới am. Lúc này đạo sĩ Mandavya đang quên mình trong việc nhập định. Viên chỉ huy bọn lính hách dịch hỏi ông bằng một giọng gắt gao :”Nhà ngươi có trông thấy bọn cướp đi qua đây không hả? Bọn chúng đi đường nào? Nói ngay lập tức để bọn ta còn đuổi bắt chúng!”. Đạo sĩ đang dành hết tâm thần luyện Yoga nên lặng im. Viên chỉ huy nhắc lại câu hỏi một cách láo xược, nhưng đạo sĩ vẫn không nghe biết gì hết. Trong lúc đó, một vài tên lính xục vào am và khám phá ra những đồ vật cướp được. Thế là toán lính bèn xông vào lục soát am và bắt được tất cả tang vật cùng cả bọn kẻ cướp. Viên chỉ huy ngẫm nghĩ :”Bây giờ ta mới biết tại sao cái gã Bà la môn này lại làm ra vẻ một đạo sĩ im lặng. Hắn thật sự là tên cầm đầu cướp đây thôi. Chính hắn đã xúi giục vụ cướp bóc này” . Rồi y ra lệnh cho lính canh giữ am, y về tâu với nhà vua rằng đạo sĩ Mandavya đã bị bắt cùng với các tang vật. Nhà vua rất tức giận vì tên trùm kẻ cướp đã dám táo tợn mang áo quần một đạo sĩ Bà la môn để dễ bề đánh lừa thiên hạ. Không chịu xem xét thực hư, nhà vua ra lệnh bắt tên cướp ghê gớm kia - nhà vua nghĩ như vậy về đạo sĩ - phải bị tội xiên cọc nhọn. Viên chỉ huy trở lại am, bắt Mandavya đem ra xiên trên một ngọn lao và nạp những của bắt được lên nhà vua. Tuy bị xiên trên mũi dao, vị đạo sĩ đạo cao đức trọng ấy vẫn không chết. Lúc bị xiên, ông vẫn luyện Yoga nên do quyền lực của pháp thuật này, ông vẫn sống. Các đạo sĩ sống trong các vùng khác đều tới am của ông và hỏi Mandavya làm sao bị lâm vào tình trạng khủng khiếp như vậy. Mandavya đáp :”Ta phải oán trách ai ư? Bọn tôi tớ đức vua, người đang che chở cho trần thế, đã hạ lệnh trừng phạt ta như vậy đó”. Nhà vua sửng sốt và hoảng sợ khi nghe tin đạo sĩ bị xiên vẫn còn sống và hiện các đạo sĩ khác ở trong rừng đang xúm quanh ông. Vua hối hả cùng bọn tuỳ thuộc đi vào rừng và ngay tức thì ra lệnh gỡ đạo sĩ xuống khỏi mũi lao. Rồi nhà vua phủ phục dưới chân ông, cung kính cầu xin tha tội vì đã vô tình xúc phạm tới ông. Mandavya không căm giận nhà vua. Ông đi thẳng tới gặp Dharma, vị thần công lý, lúc đó đang ngồi trên ngai. Ông hỏi thần rằng :”Tôi đã phạm tội ác gì mà phải chịu hình phạt tra tần này?”. Thần Dharma đã biết pháp thuật cao cường của đạo sĩ, nên trả lời một cách rất mực lễ độ :”Hỡi đạo sĩ, ông đã hành hạ loài chim và bướm. Há ông không hay rằng mọi hành vi, tốt hay xấu, dầu nhỏ nhặt đến bao nhiêu, cũng không tránh khỏi đưa đến kết quả hoặc tốt hoặc xấu hay sao?”. Mandavya kinh ngạc trước câu trả lời đó của thần Dharma. Ông hỏi “Tôi đã phạm tội đó lúc nào?”. Thần đáp :”Lúc ông còn là một đứa bé”. Thế là Mandavya niệm thần chú trừng phạt Dharma: “Sự trừng phạt của ông thật là quá đáng so với lỗi lầm của một đứa bé vì khờ dại mắc phải. Vậy thì, ông hãy đầu thai xuống làm người trần”. Thần Dharma bị thần chú của đạo sĩ Mandavya trừng phạt như vậy, bèn hoá thân làm Vidura, do người nữ tì của Ambalika, vợ của Vichitravirya, sinh ra. Câu chuyện này có dụng ý nói rằng Vidura là hiện thân của thần Dharma. Các bậc vĩ nhân ở hạ giới xem Vidura như một mahatma không ai sánh nổi về phương diện thông hiểu đạo lý Dharma, thuật chính khách, đã hoàn toàn rũ sạch mọi sự ràng buộc và sự nóng giận. Bhishma bổ nhiệm ông, ngay lúc ông còn trẻ, làm cố vấn chính cho vua Dhritarashtra. Vyasa. cho rằng trong cả ba cõi không ai có thể sánh ngang Vidura về mặt phẩm hạnh và tri thức. Khi Dhritarashtra cho phép con đánh xúc xắc, Vidura đã quỳ xuống chân ông ta và trịnh trọng can rằng :”Tâu chúa thượng, tôi không thể nào bằng lòng với việc làm này. Kết quả của nó sẽ là những mối bất hoà nảy sinh trong đám con cháu của Người. Xin chúa thượng dừng cho phép chơi trò bài bạc ấy”. Dhritarashtra cũng cố khuyên can người con xấu xa của ông. Ông nói với y :”Con đừng mê đắm với trò chơi đó. Vidura không bằng lòng đâu. Với trí óc thông tuệ trác tuyệt, luôn luôn nghĩ tới lợi ích của nhà ta, Vidura nói rằng trò chơi ấy nhất thiết phải đưa đến kết quả là gây mối hằn thù tàn bạo nó sẽ tiêu diệt chúng ta và đất nước chúng ta”. Nhưng gã Duryodhana không hề để ý đến lời khuyên đó. Vì yêu con đến mức mù quáng, nhà vua đành thôi không khuyên can nữa rồi gửi lời mời Yudhishthira tới tham dự trò chơi. Đấy là một lời mời tai hại. CHƯƠNG 8 KUNTI THẦN NỮ Sura, người ông của Sri Krishna, là con cháu hiển hách thuộc dòng dõi Yadava. Cong gái ông ta là nàng Pritha nổi tiếng nhan sắc và đức hạnh vẹn toàn. Đã từ lâu, người anh em họ của ông ta là Kuntibhoja không có con, nên Sura đem Pritha cho anh làm con nuôi. Từ lúc đó trở đi, nàng lấy tên họ của cha nuôi và gọi là Kunti. Hồi Kunti còn là cô gái nhỏ, có đạo sĩ Durvasa đến làm khách ở nhà nàng trong một thời gian. Suốt một năm trời, nàng hầu hạ đạo sĩ rất chu đáo, kiên nhẫn và thành kính. Ông ta rất đỗi vui lòng nên ông tặng cho nàng một câu thần chú mantra. Ông nói: “Nếu con vừa khấn bất cứ thần nào, vừa đọc thần chú này, thần đó sẽ đích thân hiện ra với con và ban cho con một đứa con trai cũng rực rỡ ngang như thần đó vậy”. Đạo sĩ Durvasa ban cho nàng ân huệ ấy bởi vì nhờ pháp thuật Yoga, ông đã thấy trước sự bất hạnh đang dành sẵn cho người chồng tương lai của nàng. Vì tuổi trẻ hay tò mò nôn nóng nên Kunti muốn thể nghiệm ngay tức thì hiệu lực của thần chú bằng cách đọc nó lên và khấn Mặt Trời mà nàng thấy đang tỏa sáng trên cao. Ngay lập tức, bầu trời trở nên u ám, và, ẩn sau làn mây phủ, thần Mặt Trời tiến lại gần nàng công chúa xinh đẹp Kunti và thần đứng nhìn nàng với vẻ say sưa, đắm đuối. Bị choáng ngợp bởi hình ảnh rực rỡ của vị khách thần tiên, Kunti hỏi: “Thần là ai vậy?”. Thần Mặt Trời đáp: “Cô nàng thân mến ơi, ta là Mặt Trời đây. Thần chú ban con cái cho cô đã có sức mê hoặc lớn. Cô vừa mới niệm thần chú là ta đã bị lôi cuốn ngay”. Kunti đâm hoảng và nói: “Thiếp là đứa con gái chưa chồng đang phải tùy thuộc vào cha thiếp, thiếp không quen làm mẹ và không muốn như vậy. Thiếp chỉ muốn thử xem sức mạnh của ân huệ mà đạo sĩ Durvasa đã ban cho thiếp ra sao thôi. Xin thần hãy trở về và tha thứ cho cái thói ngông cuồng trẻ con này của thiếp”. Nhưng thần Mặt Trời không thể trở về được vì uy lực của thần chú giữ thần lại. Về phần mình, nàng rất sợ khi nghĩ rằng sẽ bị thế gian chê trách. Thần Mặt Trời dỗ dành cho nàng yên tâm: “ Nàng sẽ không bị chê trách chút nào cả. Sau khi con ta ra đời, nàng sẽ lại trinh bạch như cũ”. Kunti thai nghén nhờ ân huệ của thần Mặt Trời - vị thần đã ban ánh sáng và sự sống cho thế gian. Sự sinh đẻ của các thần xảy ra tức thì, người mẹ không phải mất chín tháng mang nặng như người thường. Nàng sinh ra Karna. Mới lọt lòng, đứa bé đã mang áo giáp, vòng tai và cũng sáng chói lọi, cũng đẹp rực rỡ như Mặt Trời. Với thời gian, chàng trở nên một trong những trang anh hùng kiệt xuất của trần thế. Sau khi đứa bé ra đời, Kunti lại một lần nữa trở nên trinh bạch, và đó là kết quả của ân huệ mà thần Mặt Trời đã ban cho. Nàng băn khoăn không biết sẽ làm thế nào với đứa bé. Để che giấu lỗi lầm, nàng đặt đứa bé vào trong một cái tráp gắn kín và đem bỏ trôi sông. Một bác đánh xe không có con tình cờ nom thấy cái tráp trôi bồng bềnh; bác ta vớt nó lên; bác vừa ngạc nhiên vừa sung sướng khi thấy trong đó có một đứa bé đẹp rực rỡ. Bác ta đem về cho vợ và vợ bác thương nó như con đẻ. Như thế là Karna, con của thần Mặt Trời, lại được nuôi nấng như con một người đánh xe. Đến lúc phải gả chồng cho Kunti, Kuntibhoja mời tất cả các vua láng giềng và tổ chức hội cầu hôn Swayamvara để cho nàng kén chồng. Rất nhiều vua chúa đến dự lễ Swayamvara vì nhan sắc và phẩm hạnh của nàng công chúa đã nổi tiếng khắp nơi. Kunti đeo tràng hoa vào cổ vua Pandu, người đứng đầu xuất sắc của dòng dõi Bharata, mà nhân cách đã làm lu mờ mọi hào nhoáng của tất cả các vị vua khác nhóm họp tại đây. Lễ cưới được tổ chức long trọng theo đúng nghi thức, và nàng theo chồng về kinh đô Hastinapura. Theo lời khuyên của Bhishma và theo tục lệ, Pandu lấy một người vợ thứ là Madri, em gái vua Madra. Thuở xưa, các bậc vua chúa thường lấy hai hoặc ba vợ để chắc chắn có người nối dõi chứ không phải để hưởng thú nhục dục tầm thường. CHƯƠNG 9 VUA PANDU MẤT Một ngày nọ, vua Pandu rời cung đi săn bắn. Một đạo sĩ cùng vợ hóa làm đôi hươu cũng đang vui chơi trong rừng. Pandu nhắm con đực bắn một phát, hoàn toàn không hay biết rằng đấy là một đạo sĩ biến hình. Bị bắn tử thương, đạo sĩ bèn nguyền rủa Pandu như sau: “Hỡi kẻ phạm tội kia, mi cũng sẽ phải chết vào lúc mi đang hưởng lạc thú chăn gối”. Pandu rất lấy làm đau đớn khi nghe lời nguyền đó, sau khi trao vương quốc lại cho Bhishma và Vidura, ông cùng hai bà vợ vào ở ẩn trong rừng. Tại đây, ông sống một cuộc đời hết sức khổ hạnh. Thấy Pandu muốn có một người nối dõi mà lời nguyền độc của đạo sĩ lại không cho, Kunti mới thổ lộ với chồng câu chuyện về thần chú mantra mà nàng đã nhận được của đạo sĩ Durvasa. Ông hối thúc Kunti và Madri hãy sử dụng thần chú đó và chính vì vậy mà năm anh em Pandava ra đời. Đó chính là con của Kunti và Madri với các thần. Năm anh em Pandava được sinh ra và nuôi dưỡng ngay trong rừng, giữa đám các nhà tu khổ hạnh. Cứ như vậy vua Pandu cùng vợ và các con đã sống nhiều năm trong rừng. Mùa xuân đến. Và một ngày nọ, cùng với niềm rạo rực mùa xuân đang tràn về trong muôn vật quanh mình, Pandu và Madri bỗng chợt quên lời nguyền độc địa. Họ nghe theo tiếng gọi của mùa xuân và ngay tức thì lời nguyền của đạo sĩ có hiệu lực, và thế là Pandu phải chết. Madri không nén được nỗi đau khổ. Bà cho rằng vì mình mà nhà vua phải chết, cho nên bà ngồi vào dàn hỏa cùng hỏa thiêu với chồng, miệng căn dặn Kunti hãy ở lại và làm mẹ nuôi nấng hai đứa con côi của bà. Kunti và anh em Pandava vô cùng đau đớn. Các đạo sĩ sống trong rừng bèn đưa gia đình tang tóc này về Hastinapura và giao họ cho Bhishma. Vào lúc đó, Yudhishthira mới mười sáu tuổi. Khi các đạo sĩ tới Hastinapura và kể lại cái chết của Pandu, cả nước đều đau buồn. Vidura, Bhishma, Vyasa, Dhritarashtra và các vị khác tổ chức tang lễ. Toàn thể dân chúng trong nước đều than khóc, xem như đấy là tổn thất riêng của mình. Vyasa tâu với bà là Satyavati rằng: “Quá khứ đã trôi qua đi trong niềm hoan lạc, nhưng tương lai đang dành cho ta nhiều khổ não. Người đời sống tuổi thanh xuân như qua một giấc mộng sung sướng và bây giờ lại đang bước vào thời kỳ vỡ mộng, tội lỗi, buồn đau và thống khổ. Thời gian thật khắc nghiệt. Thái hậu chẳng cần phải đợi làm chi để chứng kiến những nỗi cực khổ và bất hạnh sẽ giáng lên dòng dõi của Người. Thật là một điều tốt lành cho thái hậu nếu Người rời bỏ thành đô và vào am trong rừng ở ẩn để sống nốt những ngày còn lại”. Satyavati nghe lời và đi vào rừng cùng với Ambika và Ambalika. Cả ba vị hoàng hậu đã trải qua cuộc sống tu luyện khắc khổ và đi vào cõi cực lạc, tự giải thoát cho mình khỏi nỗi đau buồn mà con cháu họ sẽ phải gánh chịu. CHƯƠNG 10 BHIMA Năm người con của Pandu và trăm người con của Dhritarashtra lớn lên trong cảnh vui vẻ, sung sướng tại Hastinapura. Bhima vượt tất cả các anh em về sức khỏe. Cậu ta thường trêu chọc Duryodhana và các đứa trẻ Kaurava khác bằng cách kéo tóc và đánh đập chúng. Là một tay bơi lội giỏi, cậu ta thường lặn sâu xuống hồ ao, tay cắp một hoặc hai ba đứa, không cho chúng vẫy vùng, và ở mãi dưới nước kỳ cho tới lúc chúng gần bị chết ngạt. Khi chúng trèo lên cây, cậu ta đứng dưới cây, lấy chân đá vào thân cây, rung cho chúng rơi xuống như quả chín rụng. Vì những trò chơi ấy của Bhima mà mình mẩy con cái của Dhritarashtra luôn luôn bị trầy da toạc thịt. Do đó chẳng lấy làm lạ cho lắm là con của Dhritarashtra từ lúc còn bé, đã nuôi mối căm thù sâu xa đối với Bhima. Khi các hoàng tử đã lớn, sư phụ Kripa bèn dạy cho họ thuật bắn cung, cách sử dụng các vũ khí và những điều khác mà các hoàng tử cần phải học. Vì Duryodhana ghen tức với Bhima nên ý nghĩ của y đâm ra lầm lạc khiến y phạm nhiều hành động không đúng. Duryodhana lấy làm bứt rứt vô cùng. Cha y bị mù nên Pandu cai trị đất nước. Ông ta mất đi thì Yudhishthira, là hoàng thái tử, một khi đã đến tuổi sẽ lên làm vua. Cha y mù hoàn toàn bất lực nên Duryodhana thấy cần phải nghĩ cách giết chết Bhima thì mới ngăn ngừa được việc Yudhishthira lên ngôi. Duryodhana ngầm lo mưu tính kế giết Bhima từ khi y cho rằng uy thế chi họ Pandava sẽ suy yếu nếu như Bhima bị chết. Duryodhana và các anh em của y định ném Bhima xuống sông Hằng, bắt giam Arjuna và Yudhishthira rồi chiếm lấy vương quốc để nắm quyền cai trị. Thế là Duryodhana cùng các anh em y rủ anh em Pandava ra bơi lội ở sông Hằng. Chơi đùa xong, mệt nhoài, họ bèn vào lều vải để ngủ. Vì Bhima chơi đùa nhiều hơn cả và vì thức ăn của chàng bị bỏ thuốc mê nên chàng cảm thấy buồn ngủ ríp mắt rồi nằm vật ra trên bờ sông. Duryodhana lấy dây thừng trói chàng lại và ném xuống sông, nơi ấy gã Duryodhana độc ác đã cho cắm những cái cọc nhọn sắc. Bhima có thể bị cọc xiên vào người mà chết. May thay, ở chỗ Bhima rơi xuống, không có cọc, mà có những con rắn độc. Rắn độc cắn vào người chàng. Chất độc trong thức ăn bị rắn độc làm cho mất tác dụng cho nên cuối cùng thì Bhima lại được giải độc và ngay sau đó nước sông xô dạt vào bờ. Duryodhana nghĩ rằng Bhima chắc chắn phải chết khi bị ném xuống sông lúc nhúc những rắn độc và lởm chởm những cọc nhọn. Bởi vậy y cùng đồng bọn hí hửng trở về đô thành. Khi Yudhishthira hỏi Bhima đâu, Duryodhana bảo rằng chàng ta đã trở về thành phố trước họ. Yudhishthira không tin lời Duryodhana nên vừa tới nhà, chàng liền hỏi mẹ Bhima đã về chưa. Vì chàng hỏi một cách lo lắng nên người nhà vội vã trả lời rằng Bhima vẫn chưa về. Yudhishthira ngờ Bhima có thể bị hại nên rủ các em đi vào rừng để tìm. Những vẫn không thấy Bhima đâu. Họ đành quay về, trong lòng hết sức lo buồn. Một hồi sau khi ném xuống nước, Bhima tỉnh dậy và nhọc mệt lần đường trở về nhà. Kunti và Yudhishthira mừng rỡ, sung sướng ôm hôn chàng. Do chất độc đã ngấm vào toàn thân nên Bhima càng trở nên khỏe hơn trước. Kunti cho mời Vidura tới và nói riêng với ông: “Duryodhana rất xấu xa và tàn bạo. Hắn tìm cách giết Bhima vì hắn muốn nắm quyền cai trị đất nước. Tôi rất lấy làm khổ tâm!”. Vidura đáp: “Điều hoàng hậu nói là có thật, nhưng xin hãy để bụng; nếu gã Duryodhana xấu xa ấy mà bị tố cáo hoặc bị khiển trách thì hắn ta chỉ lại thêm căm giận và thêm thù hằn mà thôi. Nhờ ơn trời, các con của Người sẽ được trường thọ. Hoàng hậu không phải lo sợ gì về việc đó”. Yudhishthira cũng báo cho Bhima biết mà đề phòng, và nói: “Hãy giữ kín việc này. Từ nay trở đi, anh em ta phải cẩn trọng, giúp đỡ lẫn nhau và bảo vệ cho nhau”. Duryodhana lấy làm kinh ngạc thấy Bhima còn sống. Lòng ghen tị và thù hằn của y tăng thêm. Y thở dài bực bội và đau khổ đến gầy mòn đi. """