"Sự Thật Về X.30 - Đặng Thanh full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Thật Về X.30 - Đặng Thanh full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] Ebooks Nhóm Zalo Tưởng nhớ Đồng chí T. D. T. (X. 30) và các đồng chí trong Ban Quân ngoại Công an Trung bộ và Ban II Công an Thừa Thiên đã chiến đẩu, hy sinh thầm lặng. Đ. T. GIỚI THIỆU Từ những năm đầu của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà văn Đặng Thanh đã phụ trách công tác tình báo phản gián ở Trung Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, anh là một trong số người lập ra Ban Phản gián. Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 ở miền Trung Trung bộ, anh cũng là người duy nhất còn sống được Hồ Chủ tịch xét thành tích và tặng huân chương Kháng chiến hạng nhì đầu tiên trong toàn quốc, vì đã có công lớn trong việc xây dựng cơ sở ở vùng địch hậu và lập được nhiều chiến công. Thu được nhiều tài liệu quan trọng, đoạt được nhiều vũ khí và thu được nhiều kết quả trong công tác địch vận". (1949) Trong sự nghiệp chống Mỹ, anh đảm nhiệm Phòng Phản gián trong Cục Phản gián X. của Bộ Công an. Sau đó anh được chuyển sang ngành Tòa án Nhân dân được ủy ban Thường vụ Quốc hộị bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao. Do những thành tích trên, nhà văn Đặng Thanh được tặng thương huân chương Chiến thắng hạng nhì, huân chương Kháng chiến hạng ba, huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, huân chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc và bằng khen của Chính phù về thành tích Công an. Người chiến sĩ phản gián tài ba Đặng Thanh, đồng thời lại là một nhà văn được đông đảo bạn dọc ái mộ. Cương vị công tác và sự lịch lãm trong cuộc đời đã giúp nhà văn sáng tác một loạt truyện tình báo phin gián như:CẨT VÓ (1967), X.30 LƯỚI (1976),TẤM BẢN ĐỒ (1983), ĐỌ sức (1986), LẦN THEO CHUỖI HẠT (1987), NỮ DIỆP VIÊN SAO CHĂMPA (1988), ĐI TÌM THẦN CHẾT (1989), LÁ THƯ VĨNH BIỆT CỦA JACQUELINE (1990)... Đọc truyện tình báo của nhà văn Đặng Thanh ta không thấy nhiều pha đánh đấm, bắn giểt như trong phần lớn các truyện tình báo Âu- Mỹ. Dưới cây bút của nhà văn hiện lên người tình báo Việt Nam hào hoa, phong nhã, vì thương dân đến dám coi thường tính mạng; đầy trí tuệ để dối phó với những tình huống tường như không sao thoát được; bên cạnh những éo le đau thắt của con người trước một bên là nhiệm vụ đối với Tổ quốc và bên kia là những tình cảm tan nát của con tim; những mất mát cá nhân không gì bù đắp nổi để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng. Đó là những trang hồi hộp qua những cuộc đấu trí, đấu lực có thật giữa chiến sĩ tình báo của ta chống màng lưới dày dặc của mật vụ, điệp báo dịch, CIA Mỹ, ngay tại sào huyệt của kẻ thù trên cuộc chiến đấu thầm lặng. Đó là những trang rung động se thắt trước bao nhiêu bi kịch nội tâm, vô vàn thảm cảnh xã hội trong vùng địch tạm chiếm mà nay, nếu không ai nhắc lại, thì thời gian sẽ sớm phủ lên lớp bụi lãng quên. Trái tim nào không ngậm ngùi khi đọc bức thư tuyệt mệnh của Vân Anh trong 'X.30 PHÁ LƯỚT' Ai gấp cuốn truyện lại mà nén được tiếng thở dài trước số phận của Jacqueline. Bao nhiêu bóng ma đằng sau các báo cáo thắng lợi. Năm 1976, quyển truyện X.30 PHÁ LƯỚI của Đặng Thanh xuất bản lần đầu với số bản in 200.000 cuỗn được đông đảo bạn dọc hoan nghênh nhiệt liệt; sau đó đã được tái bản. Đó là tiền thân của quyển tiểu thuyết tư liệu tình báo 'Sự THẬT VỀ X.30' mà các bạn có trong tay hiện nay, dày gấp đôi, chứa đựng nhiều tư liệu thật và mới mẻ mà tác giả đã tái hiện. Với tính chân thật cao, cộng với bút pháp linh hoạt, 'SỰ THẬT VỀ X.30" đã đem lại cho bạn đọc sức cuốn hút ngay từ những trang đầu với những tư liệu trước nay chưa hề ai biết, ly kỳ và bất ngờ trong thực tế đấu tranh giữa ta và địch trên chiến trường thầm lặng. Với phương pháp làm việc khoa học, chuẩn mực, tác giả Đặng Thanh đã có những nhận định mới mẻ, có khác với những suy nghĩ của nhiều nhà văn, nhà báo về tính cách và đời tư của các nhân vật phản diện như Ngô Đình Diệm, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu, ... Cuốn truyện có trên một trăm nhân vật thật, trong số này có nhiều cán bộ và chiến sĩ công tác trong ngành Công an nhân dân đương thời và hiện nay một số vẫn còn sống. Kèm với câu chuyện, tác giả đã sưu tầm giới thiệu hình ảnh nhiều nhân vật chủ yếu như X.30, Vũ Long, vị hôn thê của Phan Thúc Định, Vân Anh, Tố Loan, Hồng Nhật, Trần Mai, ... và hình ảnh về gia đình Ngô Đình Diệm, Ba Cụt, Trịnh Minh Thế, vũ nữ Cẩm Nhung, người yêu của Hai Paul con trai Bảy Viễn, v.v... Trước những nhân chứng của lịch sử đã được tác giả trình bày, mô tả một cách sinh động, tiểu thuyết 'Sự THẬT VÊ X.30' làm cho người đọc thích thú, làm sống lại một giai đoạn đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch qua hai cuộc trường kỳ kháng chiến, đánh dấu sự trưởng thành của ngành Công an nhân dân phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng vô cùng hào hùng của dân tộc ta. Xin trân trọng giới thiệu với độc giả thân mến tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh. Giáo sư LÊ ANH TRÀ Viện Trưởng VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM PHẦN MỘT BIẾN ĐỔI 1. PHAN THÚC ĐỊNH - Anh từ Nghệ An ra ? - Ngô Đình Nhu hỏi người.thanh niên có nước da trắng, dong dỏng cao ngồi trước mặt - Bác nhà có được khỏe không ? Gã buồn rầu trả lời : - Thưa ông, thầy tôi đã bị bọn Việt Minh sát hại. Chúng tịch thu hết tài sản, ruộng đất qui là của bóc lột. Mẹ tôi phải về nương nhờ bà con bên ngoại. Còn tôi, ở Huế ra. Ngô Đình Nhu giận dữ và tỏ vẻ bùi ngùi : - Bọn Việt Minh là thế. Từ nay anh là khách của tôi, anh Phan Thúc Định ạ ! Cụ Thượng1 nhà tôi với Cụ nhà anh vốn là bạn đồng liêu, anh cứ coi như đây là gia đình mình, công việc sau ta sẽ liệu. Thế là từ hôm ấy, ngày 4 tháng 3 năm 1946, Phan Thúc Định ở tại nhà Ngô Đình Nhu trong khuôn viên Thư viện Quốc gia Hà Nội. Tuy được giữ làm Giám đốc Thư viện Quốc gia nhưng Nhu vẫn ngấm ngầm mang một mối hận thù sâu sắc với Cách mạng và luyến tiếc không nguôi cái thời vàng son trước đây. Đồng lương giám thủ trước kia do Pháp trả rất hậu, vợ chồng Nhu ăn tiêu sung sướng thừa thãi. Trong nhà có người hầu kẻ hạ, ra khỏi nhà là có ô-tô. Cách mạng lên, những thứ đó không còn nữa. Chị vú, con sen cái hạng người quen nô lệ để sai khiến vậy mà đều trở thành những nữ cứu thương, y tá cho Việt Minh. Xe hơi thì chỉ dùng để đi công tác... Nhưng thực ra, đó chưa phải là nguyên nhân chính gây cho Nhu căm thù Cách mạng. Tin Ngô Đình Khôi - anh cả trong gia dinh họ Ngô - bị Việt Minh xử bắn ở huyện Phong Điền, làm cho Nhu bàng hoàng mấy ngày đêm. Sau đó không lâu, Nhu lại được tin Ngô Đình Diệm - người anh thứ ba của Nhu, bị bắt tại Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nhu lo lắng Diệm cũng sẽ cùng chung số phận với Khôi và cái gia đình họ Ngô sẻ tiêu tan hết. Nào ngờ lại được cụ Hồ đánh điện bảo đưa ra Thủ đô cho Cụ gặp. Thế là Diệm thoát chết. Sáng hôm ấy, sau khi dặn người nhà bố trí cho Phan Thúc Định một cản phòng, Nhu đi lễ Nhà thờ Hàng Bột, gặp Diệm. Nhu kể chuyện Phan Thúc Định đến nhà cho biết tin bố anh ta là Cụ Tuần Ngân không còn nửa. Diệm sửng sốt : - Lạy Chúa ! thật à ! - Vâng, đúng rứa đó anh. Diệm trầm ngâm một lúc rồi ngước lên nhìn Nhu : - Chú đã thấy đó, anh Khôi chỉ vì trước đây đàn áp bọn phiến loạn Cộng sản nên bị Việt Minh trả thù. Còn Cụ Ngân trong thời kỳ làm Tuân vũ Hà Tĩnh giết quá nhiều người và làm lắm chuyện thất đức nên không tránh khỏi bàn tay của Việt Minh Cộng sản. Còn tui vì "liêm khiết", "treo án từ quan" nên được Cụ Hồ Chí Minh lượng thứ, nhờ đó mới thoát. Tuy vậy, mỗi ngày còn ở đây là một ngày như "cá nằm trên thớt". Chú xem cách nào liên lạc với người Pháp nhờ họ giải cứu cho tui được không? Ngô Đình Nhu cắn môi suy nghĩ. Điều Diệm vừa nói ra, không phải là Nhu chưa tính tới. Ngay từ khi đại quân Pháp của tướng Lơ-cờ-lác (Leclerc) đến Hà Nội, Nhu đã bí mật bắt liên lạc với Phòng Nhì và có lần đề nghị với viên chỉ huy Pháp tìm cách cứu Ngô Đình Diệm. Thời kỳ đó, Diệm còn ở Bắc Bộ 1 Ngô Đình Diệm có thời kỳ làm Thượng thư Bộ lại của Nam triều. Trong gia đình thường gọi Diệm là "Cụ Thượng". (T. G) phủ, khó bề thực hiện, nên viên chỉ huy Phòng Nhì Pháp hẹn khi nào có cơ hội thuận tiện sẽ ra tay giúp đỡ. Bây giờ, phải chăng là cơ hội đã đến. Nhu bèn thú nhận : - Thưa anh, em đã bắt liên lạc với Phòng Nhì Pháp và củng đã tính đến chuyện nhờ họ bố trí đưa anh ra nước ngoài, nhưng chưa gặp thời cơ. Nay nhân dịp anh đã được về ở đây2, lại có thêm thằng Phan Thúc Định, để em bàn việc này với họ xem sao. Diệm có vẻ hớn hở, gật gù : - Rứa mà bây giờ chú mới cho tui biết. Việc ni quan trọng lắm. Chú phải bàn thật kỹ với họ. Và nói với Định đến gặp tui mau lên hí. Phải giữ kín đừng cho thêm ai biết, chú nhớ hí ! Thư viện Quốc gia ở phố Tràng Thi khách đến đọc rất đông. Lợi dụng kẻ vào người ra, Ngô Đình Nhu hẹn gặp bọn gián điệp nước ngoài. Hôm ấy, qua một phụ nữ lai Pháp, Nhu gửi Phòng Nhì một bức thư yêu cầu bố trí cho Phan Thúc Định vào thành gặp tướng Moóc-li-e (Morlière) đề nghị giúp Diệm trốn ra nước ngoài. Được gặp tên tướng khét tiếng của Pháp, Định đưa thư của Diệm gửi với những lời thống thiết cầu xin cứu mạng. Đọc xong thư Moóc-li-e gọi viên sĩ quan chỉ huy Phòng Nhì đến bàn kế hoạch cứu Diệm và giao Định cho hắn để thực hiện kế hoạch quan trọng này. Ba hôm sau, đêm 4 tháng 2 âm lịch - trời tối như mực vẫn còn rét ngọt, Phan Thúc Định ngồi trên một chiếc xe hơi nhà binh Pháp, đi đến chỗ quy định đón Ngô Đình Diệm, đưa thẳng vào doanh trại quân đội Pháp trong thành. Việc giải thoát cho Diệm trót lọt. Và cũng bắt đầu từ đêm hôm ấy, Định trở thành nhân viên của Phòng Nhì Pháp. Từ đó, với danh nghĩa là một công chức của Thư viện Quốc gia, được Ngô Đình Nhu cấp giấy chứng nhận, Phan Thúc Định ngang nhiên sống ở Thủ đô, thu thập tin cho bọn tình báo quân đội Pháp. Một hôm, Ngô Đình Nhu ngỏ ý nhờ Định mang một bức thư về Huế gửi cho Khâm mạng Drapier, Nhu nói : - Vừa rồi tôi nhận được của Đức Khâm mạng Tòa Thánh một bức thư cho biết sắp tới Ngài sẽ tổ chức một Hội nghị bàn công việc Giáo hội liên quan đến ba xứ Trung - Nam - Bắc. Ngài mời tôi về dự. Nếu tôi không đi được, thì cử người mang thư về cho Ngài. Anh xem, tôi lấy lý do gì để đi và vị tất công an Việt Minh đã cho đi. Bởi vậy, tôi nhờ anh giúp việc này nhé! Phan Thúc Định, suy nghĩ rồi trả lời từ tốn : - Thưa ông, được ạ ! Ngô Đình Nhu xoa tay, mỉm cười : - Tôi biết, chỉ có anh mới giúp tôi được việc này. Công việc này không kém phần quan trọng như lần anh đưa Cụ Thượng vào thành đâu. - Thưa ông, - Phan Thúc Định hỏi - Cụ lớn nhà ta hiện nay ở đâu, sức khỏe Cụ có được an khang không ? - Sau khi được người Pháp đưa sang Hồng Kông, Cụ Thượng sang Nhật Bản thăm Ngài Kỳ Ngoại Hầu3. Rồi đi đâu tôi chưa rõ. 2 Theo lời thỉnh cầu của Ngô Đình Diệm, Hồ Chủ tịch chấp nhận cho Diệm được vào ờ hẳn trong nhà thờ Thiên chúa giáo ở phố Hàng Bột, hồi ấy do một cố đạo người Pháp tên là Denis PAQUETTE QUÝ cai quản. (Tác giả). 3 Chỉ Cường Để - Một ông Hoàng nhà Nguyễn lưu vong. - Cầu Chúa ban phúc lành cho Cụ lớn - Phan Thúc Định nói với vẻ tôn kính - Mong sao Cụ lớn chóng trở về ! - Tôi cũng mong thế, sao cho đất nước sớm được thoát nguy - Nét mặt Ngô Đình Nhu đanh lại, hắn rít qua kẽ răng - mà có nhất thiết phải đợi cho đến ngày Cụ Thượng về không ? Không, không nên như thế ! Ngay từ bây giờ nếu làm được bất cứ việc gì xét thấy có hại dù lớn, dù nhỏ cho Việt Minh, thì ta phải làm không ngần ngại. Như công việc anh đang làm cho Phòng Nhì Pháp là rất tốt. - Dạ, tôi củng xác định như thế và nguyện làm hết sức mình để sớm trả mối thù nhà, cho hương hồn ông cụ tỏi được ngậm cười nơi chín suối ! Ngô Đình Nhu lấy một bức thư dán kín, đưa cho Phan Thúc Định : - Theo lời Đức Khâm mạng viết trong thư, thì Ngài sẽ chủ tọa cuộc Hội nghị quan trọng này... Có đại biểu các Địa phận, các Xứ về dự. Tại cuộc họp, Ngài truyền đạt Thông điệp luân lưu của Tòa Thánh và sau đó sẽ bàn kế hoạch chống phá lâu dài bằng cách nào cho hữu hiệu nhất. Tôi không đi được là một điều đáng tiếc. Nhờ anh trình lên Đức Cha lá thư này. Trong thư tôi có góp một số ý kiến và giới thiệu anh với Ngài. Phan Thúc Định đón bức thư và cẩn thận cho vào túi áo, cúi đầu chào Ngô Đình Nhu. Ngô Đình Nhu nắm tay Định nhìn thẳng vào mắt người thanh niên như muốn dò xét điều gì - Rồi hỏi với giọng thân mật : - Ở Huế, anh còn ai thân tình như bà con cô bác không? Phan Thúc Định trả lời : - Thưa ông, người thân trong họ hàng thì không còn ai. Nhưng... - Định đỏ mặt áp úng, trước mắt thoáng hiện người thiếu nữ gương mặt trái xoan, dáng người thon thả, tính tình thùy mị - ... Có một người không rõ còn ở Huế không ? - Anh có thể cho tôi biết người đó là ai được không ? - Thưa, đó là vị hôn thê của tôi. Ngô Đình Nhu cười khẽ : - Cô ấy con ai, có trong dòng dõi hoàng tộc không ? - Dạ, cô ta con gái út của Cụ Án Sát4 Trần, người huyện Hải Lăng ạ. - Cụ Án Sát Trần - Nhu gần như reo lên - Con gái nhà ấy được lắm. Cụ Án Sát Trần được đào tạo ở trường Hậu Bổ5sau "Cụ Thượng" một khóa. Rồi Nhu hỏi tiếp : - Mới yêu hay là đi hỏi rồi ? - Dạ, hai gia đình đã đi lại hơn một năm rồi - Định thở dài - Thời thế đã đổi thay, không rõ lòng dạ người ấy như thể nào ! - Đó là anh suy nghĩ về cô ta. Còn riêng mình anh thì sao? - Ngô Đinh Nhu hỏi ? - Thù nhà nợ nước canh cánh bên lòng. Ông bảo tôi còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện vợ con nữa. 4 Chức quan trông coi việc hình trong một tính, dưới thời nhà Nguyễn 5 Trường đào tạo các chức quan Nam triều thời Pháp thuộc - Phải, anh nghĩ vậy là tốt. Cứ để chuyện riêng tư đó đã, sau này ta sẽ tính... - Ngô Đình Nhu hạ giọng tiếp - Tôi khuyên anh đi chuyến này cần hết sức giữ bí mật, không để ai được biết việc anh cầm bức thư của tôi vào cho Đức Khâm mạng ở Phú Cam. Do đó, tôi đề nghị anh tuyệt đối không đến nhà thăm cô áy... - Thưa ông, tôi hứa làm đúng theo lời ông dặn. Ra khỏi nhà, Phan Thúc Định thong thả theo đường bờ hồ Hoàn Kiếm về nhà. Cản phòng thuê ở gác hai phó Hàng Gai của một bà cụ già trên sáu mươi tuổi. Bà cụ góa chồng ở với một đứa cháu bé gái ở tầng dưới. Trông thấy Định, bà cụ chủ nhà niềm nở : - Hôm nay cậu đi làm vè sớm thế ? - Thưa cụ, hôm nay cháu mệt xin phép ông giám đốc về sớm một chút. Định trả lời qua loa rồi bước lên cầu thang vào phòng. Căn phòng rộng mỗi chiều chưa đến năm mét, chỉ kê một cái giường gỗ, một cái bàn làm việc cạnh cửa sổ và một chiếc ghế tựa. Định đến ở đây thấm thoát đã được ba tuần lễ mà tuyệt nhiên không một bạn bè lui tới. Hàng ngày hai buổi, Định đi về đúng vào giờ giấc của những viên chức làm việc ở cơ quan Nhà nước, để che mắt những người xung quanh. Tuy nhiên, nếu có cặp mắt bí mật nào theo dõi thì dễ nhận ra Định không đến một cơ quan nào cả, mà bắt gặp anh thường hay lảng vảng những nơi có doanh trại Vệ Quốc quân, các trụ sở Tự vệ cứu quốc và các nhà máy trong và ngoại ô thành phố. Đến tối, Định làm báo cáo và vẽ sơ đồ các địa hình, địa vật những nơi đó, để sáng hôm sau đi đến một địa điểm được quy định trước, trao lại các tài liệu đã điều tra cho một nhân viên Phòng Nhì Pháp. Lúc này cửa sổ đóng kín và Định cũng chẳng bật đèn, trong phòng tối lờ mờ. Anh ta cởi áo, kéo ngăn bàn ra lấy hai viên thuốc an thần rồi rót nước uống. Xong, Định nặng nề buông người xuống chiếc giường. Hai viên thuốc an thần làm dịu bớt thần kinh, lúc đầu Định nghĩ đến cảnh thơ ấu của mình sống trên chăn, dưới đệm, có kẻ hầu người hạ, được bố mẹ quý như ngọc như vàng. Lớn lên được cho ra Hà Nội ăn học, thi đậu vào trường Luật, tưởng rồi đây tốt nghiệp sẽ theo con đường hoạn lộ của bố, tha hồ làm giàu, mà lại có thêm quyền uy. Nào ngờ, Cách mạng Tháng Tám nổ ra làm tan biến giấc mộng làm quan của Định. Cả nước đổi đời, cả dân tộc đổi đời. Mọi việc đều hoàn toàn khác trước. Định hằn học nhìn những cuộc biểu tình của dân lao động khắp thành thị thôn quê. Đùng một cái, người ta lôi bố Định ra trước một phiên tòa được thành lập ngay trong địa phương, chủ tọa phiên tòa là một anh nông dân trước Cách mạng làm thuê cho gia đình Định, sau ngày khởi nghĩa thành một cán bộ chính quyền Cách mạng. Những người nông dân đã đứng ra vạch tội của bố Định. Tội của bố Định gây ra suốt mười lăm nảm là rất lớn, dân quanh vùng ai cũng biết. Phiên tòa được tiến hành đàng hoàng và kết thúc bằng một bản án tử hình. Dân chúng hò reo ủng hộ người xử án. Định rụng rời, tường chết theo bố. Nhưng tỉnh lại Định rít qua kẽ răng : "Sẽ có ngày xích cổ hết chúng mày". - Sau đó, Định rời bỏ quê nhà vào Huế tìm đến nhà một số quan lại cũ vốn là bạn bè của bố, để nghe ngóng tình hình. Một số trong bọn này khuyên Định nên đi gặp "Cụ Ngô" đang ở Hà Nội may ra có ngày vinh hiển. Thế là Định ra di... 2. BÍ MẬT TRONG TÒA KHÂM MẠNG PHÚ CAM Theo tài liệu lịch sử giáo đường Phú Cam được dựng trên một cánh đồi, nằm về phía tả ngạn con sông Hương, từ thời Chúa Ninh Vương Nguyễn Phước Trú (1725 - 1738). Đến năm 1750, Phú Cam bị Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát đập phá. Đến đầu thế kỷ thứ 19, sau khi Gia Long làm vua, nhà thờ lại được dựng trên nền của giáo đường đổ nát. Nhà thờ Phú Cam tồn tại cho đến nay, do các giáo sĩ của Hội ngoại quốc truyền giáo cai quản6. Khâm mạng Đờ-ra-pi-ê có quốc tịch Bỉ, là một giáo sĩ của Hội ngoại quốc truyền bá đạo Thiên chúa, được Tòa Thánh Va-ti-căng cử sang truyền đạo chăn dắt con chiên ở Đông Dương từ những năm đầu của thập kỷ 20 đã trên sáu mươi tuổi. Ông ta không cao lớn như những người phương Tây khác, nhưng nước da hồng hào, râu tóc bạc trắng trông rất đẹp lão. Hàng ngày Đờ-ra-pi-ê mặc một chiếc áo chùng màu tím, cùng màu áo của nữ học sinh trường Trung học Đồng Khánh. Đờ-ra-pi-ê có một đàn con nuôi người bản xứ, đủ lứa tuổi, thường đến gặp ông ta tại ngôi nhà riêng đồ sộ nằm vè phía bên trái nhà thờ. Theo dư luận vào thời kỳ ấy, Đờ-ra-pi-ê là một người đàn ông mắc chứng bệnh mà chỉ có một số người phương Tây chấp nhận7 và vì vậy ông ta thích nhận làm cha nuôi một số nam thanh niên. Sáng hôm ấy, sau khi điểm tâm xong, một người nữ tu già vào báo với ông có một thanh niên xin yết kiến. Đờ-ra-pi-ê hỏi: "Lạ hay quen ?" Người nữ tu già trả lời : "Bẩm Đức Cha, họ ở Hà Nội mới vô có thư giới thiệu". Ông ta suy nghĩ một lúc rồi nói : "Con đưa nó vô đây". Ba phút sau có tiếng gõ cửa. Đờ-ra-pi-ê đáp : - Cho vào ! Người nữ tu già mở rộng cánh cửa. Một thanh nién dong dỏng cao từ tốn trong bộ âu phục màu tráng, bước vào. Người thanh niên cúi đầu lễ phép chào Đờ-ra-pi-ê : - Thưa Đức Cha, con xin kính chào Đức Cha. Người nữ tu già im lặng bước ra, sau khi khép cánh cửa phòng lại. Đờ-ra-pi-ê chỉ khẽ gật đầu mà không trả lời. Ông ta nheo mắt nhìn người lạ như có ý hỏi anh ta muốn gì. Hiểu ý, người thanh niên lấy trong túi áo ra chiếc phong bì dán kín trong đó có bức thư của Ngô Đình Nhu kính cẩn đật lên bàn. Đờ-ra-pi-ê cầm tấm danh thiếp, lật phía sau đọc mấy dòng chữ của Ngô Văn Hân viết bằng tiếng Pháp : "Thưa Đức Cha tôn kính, Con xin giới thiệu người bạn thân của con là Phan Thúc Định vừa ở Hà Nội vô, đến yết kiến Đức Cha. Con cùa Đức Cha. Ký tên : Ngô Văn Hân8 Đọc xong, Đờ-ra-pi-ê ngước lên nhìn Định với đôi mắt dò xét nghiêm ngặt, Định đứng vòng tay nhìn ông, tỏ vẻ cung kính của một kẻ bè dưới. Ông đưa tay chỉ chiếc ghế trước bàn : 6 Pierre Pigneau de Béhaine, tức Évêque d’ Adran (Bá Đa Lộc) là giáo sĩ của Hội này 7 Bệnh đồng tính luyến ái 8 Ngô Văn Hân : giáo sư dạy trường Khải Định. Bí thư Việt Nam Quổc dân Đảng tính Thừa Thiên vào những năm 1945- 1946 - Cho phép con ngồi. Phan Thúc Định khẽ nâng lùi chiếc ghế dịch sang một bên, và ngòi xuống. Đờ-ra-pi-é xé chiếc phong bì lấy ra lá thư của Ngô Đình Nhu. Thư viết bằng tiếng Pháp như sau : "Kính lạy Đức Cha, Con có nhận được thư của Đức Cha gọi con về Huế để nghe Đức Cha truyền thụ Thông điệp cứa Tòa Thánh. Con rất tiếc không thể về được để cùng với các đạo hữu con trên tinh thần "Phụng sự Chúa" cùng nhau bàn bạc tìm phương cách đối phó với Cộng sản vô thần. Được Đức Thánh Cha9 quan tâm lo nghĩ và có Đức Cha hằng giúp đỡ, là nguồn động viên cổ vũ lớn lao khiến cho chúng con rất đỗi cảm kích. Đây là một sứ mệnh cao cả thiêng liêng mà Chúa đã trao cho mỗi tín đồ Công giáo Việt Nam chúng con có trách nhiệm phải làm tròn. Ngày nay ở trên thế gian này, Cộng sản là kẻ thù của những người theo đạo Thiên Chúa cũng như ngày xưa người Do Thái đối xử với Chúa Ki-tô. Bởi vậy; trong trận chiến đấu này, chúng con nguyện hết lòng "Tử vì Đạo" để làm sáng danh Chúa. Con xin cầu Chúa ban phép lành cho Đức Cha, để Dức Cha lèo lái con thuyền Giáo hội qua khỏi cơn bão táp vô thần dang tràn qua bán đảo Đông Dương khốn khổ này, để sớm trở về nước Chúa. Nhân tiện dây, con xin giới thiệu với Đức Cha người cầm bức thư đến gặp Đức Cha là : PHAN THÚC ĐỊNH. Định là người tin cẩn của con. Bố anh ta là Cụ Tuần Ngân, trước kia là bạn làm quan với anh Diệm con, mới bị Việt Minh sát hại. Gia đình không còn ai nên anh ta đã tìm đến nhờ con giúp dỡ. Thưa Dức Cha, một lần nửa con cầu Chúa ban phép lành cho Đức Cha dược an khang trường thọ. Con của Đức Cha, Ký tên : Ngô Đình Nhu." Đờ-ra-pi-ê đọc xong nhưng vẫn cầm lá thư trong tay, nhìn Phan Thúc Định rồi hỏi : - Con vô bằng chi ? - Thưa Đức Cha, con đi chuyến xe lửa đêm. - Lấy vé có khó không ? - Thưa Đức Cha, cũng dễ thôi ạ. - Có bị ai hỏi han chi không ? - Thưa Đức Cha, lúc ra cửa ga có người hỏi giấy. Ai có đủ giấy tờ thì được đi. - Cơ quan nào cấp giấy cho con ? - Thưa Đức Cha, ông Nhu lo cho con tất cả. Vừa nói, Định lấy trong chiếc ví ra tờ giấy chứng nhận là nhân viên Thư viện Quốc gia và cái thẻ thông hành của Công an cấp đưa cho Đờ-ra-pi-ê xem. Ống ta nhìn chiếc ảnh trong chứng minh thư, rồi liếc nhìn Phan Thúc Định, mỉm cười : - Trông con khôi ngô lắm ! Con đã có gia đình chưa ? Phan Thúc Định đỏ mặt : 9 Chỉ Giáo hoàng - Thưa Đức Cha, con chưa nghĩ đến. Đờ-ra-pi-ê ra vẻ tò mò : - Vì sao ? Con hãy nói cho Đức Cha nghe. - Thưa Đức Cha, thời kỳ còn đi học con chỉ biết học sao cho thi đỗ sau này ra làm quan, lúc đó sẽ có vợ đẹp, tiền nhiều. Vì thế, con chưa nghĩ đến chuyện lập gia đình. Còn bây giờ lại khác, thù nhà chưa trả, con không thấy thích thú gì nghĩ đến chuyện yêu đương. Đờ-ra-pi-ê hỏi sang chuyện khác : - Thời kỳ thầy con làm quan đã trị nhậm ở những nơi nào? - Thưa Đức Cha, thày con xuất thân ở trường Hậu Bổ ra làm tri huyện Phú Lộc, rồi tri phủ Triệu Phong, nhờ có công đốc thuế, bắt phu đưa sang Tân Thế Giới10 cho các quan Tây nên bốn năm sau được thăng chức Tuần vũ Hà Tĩnh. - Năm thầy con về trị nhậm ở Hà tĩnh con mấy tuổi ? - Thưa Đức Cha, thời kỳ này con lên sáu. - Như vậy năm nay con hai mươi tuổi ? - Thưa Đức Cha, vâng ạ. - Mẹ con giờ ở đâu ? Phan Thúc Định chớp mau mắt, giọng nói xót xa : - Thưa Đức Cha, sau ngày thầy con bị Viột Minh sát hại thì nhà cửa, ruộng đất cũng bị tịch thu sạch. Mẹ con phải chạy về Anh Sơn11, nương nhờ nhà cậu ruột con. Đã mấy tháng nay biệt vô âm tín. - Vô đây con ở nhà ai ? - Thưa Đức Cha, ở Huế còn có một số bạn bè quen biết cũ của thầy con, nên con tìm đến. - Người ta có hỏi con vô đây làm chi không ? - Thưa Đức Cha, có. Con nói con vô chơi và giấu chuyện thầy con đã mất. Đờ-ra-pi-ê thong thả đút lá thư vào ngản bàn, lấy thuốc lá ra hút. Ỏng ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc, rồi chậm rãi nói : - Ta thấy hoàn cảnh của con thật đáng thương. Nhưng ngặt một điều là con không theo đạo, nên có khó cho ta. Vậy, con hãy chờ đến ngày kia, khi đoàn đại biểu của địa phận Hà Nội vô, ta hỏi xem nếu họ chịu thì ta xin cho con là đại biểu không chính thức của Hội nghị sắp tới. Giờ đây, con trở về nhà quen, nhớ tuyệt đối không được nói cho ai biết là con đã đến gặp ta. Nếu có người quen hỏi, thì con cứ trả lời với họ như con vừa trả lời cho ta. Phan Thúc Định "dạ”, rồi với giọng cung kính, anh hỏi : - Thưa Đức Cha, con còn có dịp nào được phép trở lại đây hầu Đức Cha không ạ ? Đờ-ra-pi-ê vui vẻ : - Ba ngày nữa con hãy đến cũng vào giờ này, để ta cho con biết điều mà ta sẽ quyết định. 10 Tân Thế Giới : Nouvelle Calédonie, một hòn đảo thuộc Pháp ở miền Nam Thái Binh Dương. 11 Một huyện miền núi trung du của tỉnh Nghệ An Nói xong, Đờ-ra-pi-ê đứng lên. Phan Thúc Định cũng đứng dậy cúi đầu chào, rồi lặng lẽ bước ra. Đúng ba ngày sau, Phan Thúc Định trở lại gặp Đờ-ra-pi-ê. Cũng như hai lần trước, khi đưa Phan Thúc Định vào, người nữ tu già khép cánh cửa phòng, rồi im lặng bước ra. Phan Thúc Định cúi đầu lễ phép : - Thưa Đức Cha, con có việc xin được trình bày lên Đức Cha. - Việc chi con cứ nói. - Con vừa đến thăm anh Hân12, được anh ấy cho biết ở Hà Nội ông Nhu bị công an Việt Minh gọi đến chất ván và đã bị cách chức Giám đốc Thư viện Quốc gia. - Chuyện Nhu thôi làm Giám đốc Thư viện Quốc gia thì ta chưa rõ. Nhưng hôm trước, phái đoàn Hà Nội cho ta biết Ngô Đình Diệm đã trốn thoát ra nước ngoài. Nay Nhu bị Việt Minh gọi ra chất vấn chắc cũng vì việc đó. - Thưa Đức Cha, nếu thế thì bất lợi cho ông Nhu và ... cả cho con nữa. - Sao lại bất lợi cả cho con ? - Thưa Đức Cha, việc ông Diệm trốn ra nước ngoài là nhờ có người Pháp, nhưng trong đó có một phần con giúp sức. Rồi đây, con e rằng công an Việt Minh sẽ khám phá ra nội vụ, ắt hẳn thế nào con cũng bị Việt Minh bắt. Lại thêm, cũng theo anh Hân, thì vừa qua, sau khi họp xong các đại biểu ra về có nhiều vị bị bắt ở dọc đường, và anh sợ cho con nay mai trở về Hà Nội không khéo cũng sẽ bị bắt; bởi lẽ con được Đức Cha cho phép dự Hội nghị với tư cách là đại biểu không chính thức của đoàn Hà Nội. Đờ-ra-pi-ê ra chiều suy nghĩ, một lúc sau ông nói : - Ta có nghe những chuyện bắt bớ tra khảo và đã gửi "Thư Luân Lưu" nhắc Cha xứ các địa phận bằng mọi cách phải cứu những tín đồ. Riêng đối với con, ta nghĩ rồi đây cũng có thế bị công an Việt Minh bắt, nếu chúng biết con có mặt trong cuộc họp. Vậy con có ý kiến chi cho ta biết. - Thưa Đức Cha, bị bắt thì con không sợ. Chỉ tiếc rằng thù nhà chưa trả nên con chưa yên, Việt Minh cộng sản là kẻ thù không riêng gì đối với Chúa, mà hết thảy những ai bị ruồng bỏ, bị mất người ruột thịt như con, nên không thể chung sống với chúng được. Con cúi xin Đức Cha cứu vớt con. - Bằng cách nào con thử nói xem ? - Hiện nay, quân đội Pháp đã có mặt ở trong thành phố. Nhờ Đức Cha nói với họ giúp con lánh khỏi nơi đây bằng phương tiện riêng của họ. Chỉ có họ mới làm được việc này. Con xin đội ơn Đức Cha. Đờ-ra-pi-ê lại nhìn Định với cặp mát dò xét. Trông anh ta còn trẻ tuổi, nhanh nhẹn và đặc biệt là có mối thâm thù đối với Cách mạng nên tỏ vẻ hài lòng. - Nếu con đã có quyết tâm như thế thì để đến chúa nhật này gặp tướng Lơ-bờ-rít13 ta sẽ nói cho. Đúng trưa ngày chúa nhật con hãy đến đây, ta sẽ cho biết kết quả. 12 Ngô Văn Hân, tốt nghiệp đại học dạy môn Văn ờ trường Khải Định (nay là trường Quốc Học) ở Huế Hân là người sáng lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Thừa Thiên trong những năm đầu của thập kỷ 40. 13 Lebris, thiếu tướng chỉ huy lực lượng quân Pháp kiêm chức Ủy viên Cộng hòa, đại diện cho nước Pháp ở Trung phần Việt Nam. 3. NĂM NĂM SAU Ngô Đình Diệm xem rát kỹ chiếc ví mà Lên-sđên14 và Phi-sin15 trao cho. Lên-sđên nói : - Tất nhiên chúng tôi đã xem kỹ. Bây giờ xin mời ông, sau đó xin ông hoàn lại cho chúng tôi. Vài ngày nữa Sở Cảnh sát Nữu Ước sẽ điện báo tin đã tìm được và sẽ trả lại cho chủ nhân của nó. Chiếc ví bằng loại da cừu mềm đắt tiền, sản xuất ở Pháp. Trong ví có một số đô-la, một số phơ răng Pháp, mấy cái danh thiếp in kiểu chữ nhã rất đẹp. PHAN THÚC ĐỊNH Tiến sĩ Luật Diệm lẩm bẩm : - À, ra anh chàng đã đỗ tiến sĩ luật, khá đó. Một cái hộ chiếu của Định được cấp từ Pháp cho phép nhập cảnh nước Mỹ. Một cái ảnh Định đứng cạnh chân tháp Ép-phen. Tất cả những thứ ấy, Diệm không chú ý tới. Nhưng có hai vật, Diệm cứ mải miết ngắm nghía, cầm mãi trên tay. Một là bức bưu ảnh màu in hình Đức Bà Ma-ri-a, đề in rõ tại nhà in riêng của Va-ti-căng. Đức Bà bồng Đức Chúa Hài Đồng trên tay, mặt phúc hậu đẹp dịu dàng, cặp mắt đượm buồn đầy thương yêu, chung quanh người tỏa hào quang. Nét vẽ trau chuốt, sinh động khiến người ta nhớ những bức họa của Lê-ô-na đơ Vanh-xi16. Đây không phải là bức bưu ảnh thường. Vừa nhìn thấy, Diệm biết ngay đây là của Đức Cha anh, Ngô Đình Thục. Người cầm bức ảnh ấy - chỉ anh em Diệm mới hiểu riêng với nhau thôi - là người đã được Ngô Đình Thục thẩm tra rồi và tin cẩn được. Ngô Đình Diệm là người rất tin ờ C.I.A, nhưng lại tin anh em ruột mình hơn cả C.I.A. Diệm biết anh mình là Ngô Đình Thục, có cả một màng lưới tai mắt tay chân riêng rộng lớn mà nhiều lần Phòng Nhì Pháp ở Việt Nam đã phải nhờ vả. Đức Chúa Giê-su dạy các tông đồ rằng : "Được cả và thiên hạ làm gì nếu mà mất nước thiên đàng ?". Giám mục Ngô Đình Thục thì "nước thiên đàng" không trọng bằng "nước hạ giới" nên Người "tinh” việc đời lắm. Người đã giao cho Định bức bưu ảnh Đức Bà Ma-ri-a này. Vật thứ hai là một cái thẻ ngà. Khi đưa ví cho Diệm, cả Lên-sđên và Phi-sin cũng không hiểu vật đó là gì ? Diệm phải giải thích cho hai tên Mỹ hiểu : Đây là cái thẻ của Nam triều ban cho các quan lại, trên ghi chức tước, phẩm ngạch đế treo ở ngực bên trái chiếc áo dài. Chiếc thẻ ngà có khắc dòng chữ nhỏ bằng chữ Hán sơn đỏ. Vốn của người đồng liêu Phan Thúc Ngân đã quá cố. Phan Thúc Định vẫn giữ những di vật một thời làm quan của cha. Anh ta thật là một người con chí hiếu. Những người như thế này làm sao quên được mối thù của Cộng sản đối với gia đình mình? Những người như thế này sẽ là cộng sự rất đắc lực cho ta đây. Bức bưu ảnh của Đức Cha anh Ngô Đình Thục và cái thẻ ngà của cha mà anh ta còn trân trọng như một báu vật này đủ cho ta hiểu con người ấy như thế nào rồi. Các ông C.I.A nhiều khi cũng quá cẩn thận. Người Mỹ làm thế nào lại có thể hiểu được người Việt Nam bằng người Việt Nam, bằng ta. Cái thẻ ngà vẫn đặt trên bàn tay béo múp và ngắn ngủn của Diệm. Ở giữa cái nước Mỹ xa xôi, cái vật lạc loài này tự dưng làm cho Diệm xót xa nhớ tới dĩ vãng bạc vàng. Nhìn cái thẻ ngà, Diệm như nhìn thấy quá khứ sống lại. Chỉ riêng việc Phan Thúc Định trân trọng giữ gìn cái thẻ ngà này đủ làm cho Diệm ưu ái Định hơn lên. Có tiếng chuông reo khẽ ở đầu buồng, báo hiệu có người đến gặp Diệm. Diệm xếp tất cả các vật vào chiếc ví như cũ, mở khóa tủ áo của mình cất chiếc ví vào. Trường Đại học Mi-si-gân dành riêng 14 Edward Lansdale, đại tá chỉ huy tình báo Mỹ CIA ở Việt Nam. 15 Wesley Rshiel, tiến sĩ giáo sư khoa Chính trị trường Đại học Michigan. Nhân viên cơ quan tình báo Mỹ CIA. 16 Leonard de Vinci : Họa sĩ kiêm nhà văn, nhà điêu khắc đã vẽ nhiều bức tranh đẹp nổi tiếng. cho Diệm hai buồng rộng : buồng ngủ có kê giường, tủ gương đựng quần áo. Buồng làm việc và tiếp khách có tủ sách, bàn giấy, bộ ghế bành và bàn uống nước. Diệm ngồi ở sau bàn giấy chờ đợi. Trên bàn giấy là quyển "Mein Kamft"17 của Hít-le mở rộng. Thường thường Diệm có hai cách tiếp khách, một là đối với khách người Mỹ thì Diệm thường ngồi ở ghế bành nói chuyện tự nhiên. Hai là đối với khách người Việt Nam - dù Diệm hầu như không có khách người Việt, ngoài mấy gã mà C.I.A đưa sang học như Trần Kim Tuyến, Phạm Xuân Phòng... - Diệm bao giờ cũng bố trí cách ngồi của mình sao cho có uy thế của bề trên, nói năng đường bệ, khẩu khí, hách dịch. Năm phút sau có tiếng gõ cửa. Diệm ra lệnh : - Cứ vào. Một nhân viên nhà trường mở cửa, cúi chào và đưa tay mời một thanh niên người Việt dong dỏng cao, nhanh nhẹn trong bộ quần áo xám nhạt sang trọng, bước vào. Anh ta cúi đầu lễ phép : - Bẩm Cụ lớn, con kính chào Cụ lớn. Diệm giữ thái độ im lặng, vờ nheo mắt nhìn anh ta chăm chú. Người thanh niên vẫn lịch sự, lễ độ : - Kính thưa Cụ lớn, con là Phan Thúc Định. Thầy con là Phan Thúc Ngân năm 1945 đã cùng cụ lớn đi Tân-Gia-Ba18 Năm 1946, con đã có dịp gặp Cụ lớn... Diệm làm như mới chợt nhớ ra. - A ! Anh là Định, con cụ tuần Ngân. Năm sáu năm qua rồi, anh có hơi khác đôi chút và "diện” quá làm tui không nhận ra được ngay. Diệm đưa tay chỉ chiếc ghế trước bàn giấy : - Mời anh ngòi. Người thanh niên cảm ơn và ngồi xuống ghế. - Tui vẫn nhớ cụ Tuần Ngân - Diệm nói - Tội nghiệp cụ, chẳng may... Câu nói của Diệm như khơi dậy nỗi đau thương sâu kín trong tim Phan Thúc Định. Anh ta cúi xuống, buồn bã, bậm môi lại. Diệm dằn giọng vào mặt anh soi mói : - Bọn Cộng sản đã giết thầy anh, đã làm cho gia đình anh tan nát. Mối thù này tui không quên. Mắt Định chớp chớp. Anh rút vội khăn tay chấm mắt. Im lặng nặng nề. Diệm vẫn chăm chú quan sát từng thay đổi trên mặt anh. Mấy giây sau, Định ngửng lên, mắt đỏ hoe và nói qua hàm răng nghiến chật : - Con không bao giờ quên mối thù đó. Con ghi vào xương tủy. Nét mặt Diệm vui hẳn lên ; - Cháu nghĩ thế là phải. Cháu thật là người con có hiếu. Thày cháu cũng là người tử vì đạo. Bổn phận của những người sống là phải trả thù cho thầy cháu. Không phải chỉ mình cháu, còn nhiều người 17 Mon Combat : trận chiến đấu của tôi. 18 Singapor nữa cũng muốn trả thù. Bác cũng sẽ làm tất cả mọi việc để trả thù cho thầy cháu. Chắc cháu biết lúc sinh thời thầy cháu và bác đã kết giao thân thiết, thày cháu đã gởi gắm cháu cho bác. Giọng nói của Định vẫn chưa hết xúc động : - Vâng, thầy con có kể cho con nghe những ngày theo hầu Cụ lớn bôn ba nơi hải ngoại. Thấy Cụ lớn, con lại nhớ đến thầy con. Con chi mong nối được chí thày con, được đi theo Cụ lớn, nghe lời Cụ lớn chỉ bảo. Diệm gật đầu : - Bác cũng thấy có trách nhiệm với cháu. Nhưng bác muốn hỏi cháu : sao cháu biết bác ở đây mà tìm ? - Con vẫn nhớ lời thày con dặn phải nương tựa Cụ lớn. Con vẫn cố tìm Cụ lớn. Đầu năm nay, sau khi tốt nghiệp ở Pháp, con về Huế, gặp được Cha Co-rát-xơ19. Nhắc đến Cụ lớn Cha Cơ-rát-xơ giới thiệu con vào thăm Đức cha Thục ở Vĩnh Long. Đức cha cho con biết Cụ lớn đang ở Mỹ. Lúc ấy, Người nói Người đang bận, hẹn con nửa tháng sau đến Người mới có thời gian nói chuyện được nhiều (Diệm hơi mỉm cười). Y hẹn, con đến, Người chỉ cho con sang bên này gặp Đức Giáo chủ Spen-man20 ở tu viện Ma-ry Nôn21. Người có viết cho con hai bức thư, một bức trình Đức Giáo chủ, một bức chuyến đến tận tay Cụ lớn. Định móc túi lấy ra một phong bì, lễ phép đưa cho Diệm. Diệm cầm chiếc phong bì, không mở ra xem ngay. Định ngập ngừng : - ... Còn điều này con không dám giấu Cụ lớn... Diệm vẫn chăm chú nghe Định : - Sao ? Cháu cứ nói, đừng e ngại gì cả... - Con thật có lỗi với Cụ lớn. Ngoài bức thư, Đức Cha Thục có gởi cho con chuyển đến Cụ lớn một bức ảnh Đức Bà Ma-ri-a để lấy phước lành. Bức ảnh ấy con đế trong ví chẳng may cách đây vài hôm đi dạo phố bị kẻ cắp móc mất. Con không ngờ Hoa Kỳ này cũng nhiều kẻ cắp thế... May mà lá thư này con để trong cặp, không mang theo người hôm đó. - Cháu bị mắt cắp ư ? Có mát nhiều thứ không ? Định xót xa : - Trong ví con có hộ chiếu, tiền. Hộ chiếu con xin lại được, tiền con không tiếc. Con chỉ ân hận để mất chiếc ảnh Đức Bà của Đức Cha Thục ban phước lành cho Cụ lớn và một kỷ vật của thầy con, con vẫn mang theo mình hàng chục năm nay. - Cháu đã trình Sở Cảnh sát chưa ? - Con đã đi báo với Sở Cảnh sát Nữu Ước rồi. Người ta hứa sẽ tìm hộ con, nhưng con không tin sẽ tìm thấy, vì qua báo chí, con thấy hàng ngày ở thành phố Nữu Ước xảy ra hàng nghìn vụ phạm pháp : giết người, ăn cắp xe hơi, cướp của có vũ khí mà nhiều vụ không thể tìm ra được thủ phạm thì việc mất chiếc ví nhỏ bé của con, họ quan tâm gì đến. 19 Père Cras, một linh mục Pháp thuộc dòng Rédemptoriste, hoạt động tình báo cho SEDCE (Sở nghiên cứu về tư liệu phản gián), ở Huế, trong những năm trước và sau Thế giới đại chiến thứ hai. 20 Spelman, Hồng y Giáo chủ Mỹ 21 Chủng viện Mary Knoll, Lakevvood ở bang New Jersey - Cháu không được nói về Hoa Kỳ như vậy ! Cháu mới ờ Pháp sang, chưa hiểu Hoa Kỳ đấy thôi. Báo chí hay làm to chuyện giật gân để gợi tò mò. Đây là đất nước của tự do. Cháu hãy tin ở Cảnh sát Hoa Kỳ. Họ nhiều và được đào tạo cẩn thận lắm. Họ hứa tìm hộ cháu thì biết đâu họ chẳng tìm ra. Diệm vẫn soi mói nhìn Định hỏi tiếp : - À ... thế sau cái dạo bác gặp cháu năm 1946, rồi cháu làm những gì ? Cháu kể chuyện cho bác nghe. Định thản nhiên : Năm 1946, sau khi gặp Cụ lớn ở Hà Nội, và đưa Cụ lớn vào thành rồi, con vẫn liên lạc với người Pháp và ông Nhu. Ít lâu sau, người Pháp cho con biết Cụ lớn đã qua Hồng Kông va sẽ đi Pháp, nhờ Pháp đưa thêm viện binh sang đánh Việt Minh, con muốn đi theo Cụ lớn quá mà không được. Ông Nhu cử con trở lại Huế mang theo bức thư của ông gởi Đức Khâm mạng Đờ-ra-pi-ê22, triệu tập một hội nghị thành lập Liên đoàn Công giáo chống Cộng với sự bảo trợ của người Pháp. Con phải gian khổ lắm mới gặp được Đức Khâm mạng và trình bức thư lên Ngài. Con được dự cuộc họp bí mật đó tại Phú Cam. Đức Khâm mạng Đơ-ra-pi-ê sơ hở thế nào để lọt một nữ công an Việt Minh vào trong đám đại biểu họp kín23. Thế là toàn bộ tổ chức và mưu đồ của Đức Khâm mạng với ông Nhu bị bại lộ. Nhiều người của ta bị bắt ngay chưa kịp hành động gì cả. Con sự quá, chạy trốn vào khu Pháp kiều, nương nhờ tướng Lơ-bơ-rít lúc bấy giờ có mặt ở Huế. Tướng Lơ-bo-rít cho máy bay đưa con vào Sài gòn. Thấy con còn trẻ, có học ít nhiều, là con một gia đình đã từng có công với chính phủ Bảo hộ trước đây, tướng Lơ-bơ-rít giúp đỡ con tiếp tục học tập, để thâu nhận nền văn hóa tốt đẹp của nước Pháp. Năm 1947, con đỗ tú tài ở Sài Gòn. Sau đó, con được học bổng sang Pháp. Năm vừa qua, con tốt nghiệp luật khoa tiến sĩ. Mấy trường Đại học ở Pháp mời con giáng dạy nhưng nghĩ đến thù nhà chưa trả, vận mệnh đất nước đang nghiêng ngửa, con không thế an tâm ở nước ngoài được. Đầu năm nay con về nước nhà và như đã thưa với Cụ lớn, con may mắn được gặp Cha Cơ-rát-xơ24... Cái nhìn của Diệm dịu xuống : - Cháu lặn lội tìm bác như vậy, hẳn có ý định ? Giọng Định tha thiết : - Thầy con xưa kia đã theo hầu Cụ lớn. Con còn trẻ tuổi, mang nặng thù nhà, nhưng không biết phải làm gì. Con thật bơ vơ như người đứng giữa ngã ba đường, nếu không gặp được Cụ lớn... Con quyết tâm nối chí thầy con, một lòng một dạ trung thành với Cụ lớn. Con chỉ mong gặp được Cụ lớn, xin Cụ lớn chỉ bảo, con phải làm gì. Con xin làm bất cứ việc gì Cụ lớn sai khiến. Từ bao năm nay, con vẫn tâm niệm rằng chỉ có đi theo Cụ lớn, con mới có thể trả được thù nhà. - Cháu nghĩ thể là phải lắm. Bác rất sung sướng gặp lại cháu. Bác cháu ta có rất nhiều việc phải làm, rất nhiều việc phải làm. Diệm đứng dậy, giơ một nắm tay vè phía xa, đe dọa : - Bác còn sống đây thì bọn Việt Minh đừng hòng yên ổn với bác. Bác sẽ lập lại tôn ti trật tự. Bác sẽ trở về nước, sẽ xử tất cả những đứa nào đã giết thầy cháu, sẽ xử tất cả những đứa nào chống đối. Người Mỹ sẽ giúp chúng ta. Chúng ta sẽ không thiếu súng đạn, tiền bạc. Rồi Diệm chỉ tay về phía quyển sách của Hít-le như để dẫn chứng : 22 Drapier, Khâm mạng Tòa thánh Huế. 23 Xem Đọ Sức - Tiểu thuyết phản gián - Nhà xuất bản Thuận Hóa. In lần thứ I năm 1986, in lần thứ II năm 1988. Cùng một tác giả. 24 Père Cras. cố đạo Pháp thuộc dòng Rédemptoriste, hoạt động tình báo cho S.E.D.C.E, ở Huế, trong những năm trước và sau Thế giói đại chiến thứ hai. - Bất độc bất anh hùng. Muốn làm được việc lớn thì phải biết tàn nhẫn, phải có bàn tay sắt. Cháu phải nhớ lấy điều đó. Định im lặng nghe Ngô Đình Diệm nói với thái độ thành khẩn. Ngô Đình Diệm trở về bàn ngồi, vẫy tay cho Định kéo ghé nhích lại gần và nói : - Bắt đầu từ hôm nay cháu là người của bác. Cháu có định ở lại Hoa Kỳ lâu không ? - Bẩm Cụ lớn, con không có ý định ở lại đây lâu. Thù cha chưa trả, con không thể nào an tâm ờ lại đất nước phồn hoa này được. Diệm gật gù : - Đúng. Cháu nên trở về Việt Nam ngay. Cháu muốn trả thù cho thầy cháu, muốn tuổi trẻ của cháu sớm thành đạt, cháu hãy nghe lời bác, làm tất cả những việc gì bác trao cho cháu. Định ngoan ngoãn : - Con xin tuân theo lời dạy của Cụ lớn. Diệm nói thong thả : - Cháu hãy trở về Viẽt Nam. Chúng ta muốn làm việc lớn thì phải có lực lượng. Đàng sau chúng ta đã có người Mỹ rồi, nhưng người Mỹ không muốn xuất đầu lộ diện. Người Mỹ chỉ muốn đưa cố vấn và vũ khí sang giúp chúng ta, chúng ta phải làm lấy. Việc của chúng ta thật là nặng nề. Chúng ta vừa phải chống lại bọn cộng sản, vừa phải gạt bỏ những người thân Pháp. Cho nên ngay từ bây giờ chúng ta phải có nhiều người của mình ở trong nước, ở cả vùng người Pháp lẫn vùng Việt Minh kiểm soát. Từ cuối năm 1951, bác có phái Lê Mậu Thành (Phan Thúc Định cau mày, cố nhớ lại một điều gì. Cái tên Lê Mậu Thành anh đã nghe thấy ở đâu một lần rồi) giáo sư nổi tiếng ở Huế vờ theo Cộng sản, vào chiến khu Việt Minh ỏ miền Trung Trung phần, để lập "Nhóm kháng chiến quốc gia" nhầm phục sẵn ở đó, đợi thời cơ, làm đảo chính. Không hiểu anh ta đã gây được lực lượng ở trong đó chưa mà từ hai năm nay, bác chưa nhận được liên lạc gì của anh ta. Tin tức báo về, chưa chính xác cho lắm cho biết anh ta vẫn còn sống và hình như đã lọt vào làm việc ở một cơ quan của Việt Minh25. Bác giao cho cháu việc thứ nhứt là tìm mọi cách liên lạc được với anh ta, xem anh ta mở rộng được màng lưới đến đâu rồi, đã sẵn sàng hoạt động chưa. Thấy Ngô Đình Diệm ngưng lại, Định hỏi : - Thưa Cụ lớn con xin hỏi một điều : Lê Mậu Thành có đáng tin cậy không ? Vì con sợ khoảng thời gian hai năm không có liên lạc ấy, lòng người có thể có những đổi thay, ai mà đoán trước được? Diệm xua bàn tay ngắn ngủn : - Cháu đa nghi như thế là tốt, nhưng bác tin ở Lé Mậu Thành. Cũng như bác tin ở cháu đây. Đấy, cháu xem, bác có cần phải mở thư của Đức Cha Vĩnh Long ra đâu, mà bác vẫn tin cháu. Giáo sư Lê Mậu Thành cũng có mối thù không đội trời chung với bọn Việt Minh như cháu. Cha Lê Mậu Thành là cụ Nghị Dục, trước đây là một đại điền chủ có hàng nghìn mẫu ruộng đất, dinh cơ đồ sộ thế mà mát hết. Lê Mậu Thành lại là người có mang một lý tường quốc gia sâu sắc, quả rát đáng tin cậy của chúng ta. - Nếu tìm được Lê Mậu Thành thì con làm thế nào đế anh ta biết con là người của Cụ lớn phái về? Diệm mỉm cười : 25 Xem truyện phán gián CẤT VÓ - NXB Quân đội Nhân dân năm 1967 - NXB Thuận Hóa tái bản năm 1987 - Cùng một tác giả. - Bác sẽ viết thư riêng trả lời Đức Cha Vĩnh Long. Cháu về yết kiến Đức Cha, Người sẽ dặn dò cháu mật khẩu để liên lạc với Lê Mậu Thành. Việc thứ hai là cháu nhân danh một nhà trí thức quốc gia, tiếp xúc với các tổ chức công khai, các giáo phái trong vùng người Pháp kiểm soát, thăm dò thái độ của họ ra sao để bác dễ xử sự với họ sau này. Cháu tìm hết cách lôi kéo một số người trong bọn họ về với chúng ta. Mấy đảng phái công khai như Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia liên minh đang múa may, thì chắc cũng dễ nói chuyện với bọn chúng thôi, vì bọn chúng gió chiều nào che chiều ấy, ai mạnh thì chúng theo. Còn các giáo phái thì bác hơi e ngại vì Đức Cha Vĩnh Long có cho biết người Pháp nắm họ khá chặt. Công việc này cháu sẽ gặp khó khăn đấy ! Diệm ngưng lại nhìn Phan Thúc Định có ý thăm dò. Định cúi đầu : - Con xin đem hết sức ra làm việc, đổ đền cm sự tín nhiệm của Cụ lớn, xứng đáng với sự ủy thác của Cụ lớn. Ngô Đình Diệm xoa hai tay vào nhau : - Việc của chúng ta thật nặng nề. Cùng một lúc vừa phải có người của chúng ta ở vùng Việt Minh, vừa phải có người của chúng ta ở vùng Pháp kiểm soát. Cần bao nhiêu tiền, người Mỹ sẽ giúp chúng ta. Nhung kẻ thù của chúng ta là Việt Minh Cộng sản. Dù sao, chúng ta cũng phải thừa nhận là chúng có lý tưởng và lý tưởng áy đă thu hút được nhiều người. Để đối chọi với Việt Minh cho có kết quả, chúng ta phải có một lý tưởng có sức thu hút mọi người theo chúng ta. Bác giao cho chú Nhu, với sự giúp đỡ của các giáo sư Mỹ ở trường này, xây dựng một học thuyết, một lý tưởng, một nền triết học riêng khả dĩ có thể chống lại được Cộng sản. Một học thuyết làm người ta mê tín tuân theo như tuân theo một đạo giáo... Ngô Đình Diệm cười thỏa mãn làm những thớ thịt vốn bì bì trên mặt Diệm nở ra : - Việc thành công, bác về nước, cháu sẽ là người thân cận của bác, cháu có công lớn, ước mơ tuổi trẻ của cháu nhát định sẽ được mãn nguyện. Phan Thúc Định kính cẩn ngồi nghe những lời vừa là nhiệm vụ, vừa là bài học, vừa là lời hứa hẹn động viên của Diệm. - Cháu ở đây ăn cơm với bác - Diệm lại nói. - Thưa Cụ lớn, con xin phép Cụ lớn cho con về khách sạn thu xếp. Con nóng lòng muốn về nước. Con gặp Cụ lớn ở đây, được Cụ lớn chỉ bảo cho tham gia vào việc lớn là con mãn nguyện rồi. Con không muốn để thời gian trôi phí... - Được, bác cũng không giữ cháu. Bác cũng rất nóng ruột. Vậy ngày mai cháu lại đây, bác viết thư cho cháu về trình với Đức Cha Vĩnh Long. Ở nước Mỹ nầy, cháu cần tiền tiêu, cứ bảo bác. Còn về nước, nếu cháu cần bao nhiêu, cháu cứ xin Đức Cha Vĩnh Long. Phan Thúc Định đứng lên lễ phép : - Con xin phép Cụ lớn. Con kính chào Cụ lớn. Diệm vẫn ngồi yên sau bàn giấy, chìa bàn tay ngắn ra. Phan Thúc Định đỡ lấy, hơi cúi đầu. Cánh cửa khép lại sau lưng Phan thúc Định chưa được lâu thì lại có tiếng gõ cửa. Diệm dõng dạc: - Mời vào. Cánh cửa mở rộng, Phi-sin và Lên-sđên hiện ra. Thái độ Diệm thay đổi, niềm nở đứng dậy đón hai tên Mỹ. - Gút mo-ning26. Phi-sin hỏi ngay : - Ông vừa tiếp Phan Thúc Định ? - Vâng. Hai tên Mỹ ngồi xuống ghế bành, vắt chéo chân, rút thuốc lá ra hút. Lên-sđên hỏi : - Ông thấy anh ta thế nào ? - Chúng ta dùng được. Chắc chắn là Đức Cha anh tôi cũng dã thầm tra anh ta rồi, đây có cả thư của anh tôi Lúc ấy, Diệm vừa đọc, vừa dịch lại cho hai tên Mỹ nghe thư của Ngô Đình Thục. "Chú Diệm Nhân dịp anh Phan Thúc Định sang Mỹ, tôi viết thư này nhờ anh mang cho chú (Diệm giải thích : khi anh tôi nhờ ai cầm thư tay mang sang cho tôi như thế nầy, tức là đã ngầm giới thiệu người đó với tôi là tôi có thề sử dụng được). Anh Định là con trai cụ Tuần Phan Thúc Ngân, bạn đồng liêu của chú chắc chú đã biết. Anh đến tôi từ lâu nhung tôi bận việc, nên bây giờ mới giới thiệu anh sang gặp chú dược, (ý anh tôi muốn nói: anh tôi đã để thời gian điều tra về Định rồi). Anh Định là một thanh niên có nhiệt huyết, muốn phụng sự đạo cả. Chú hãy nói con đường tuân theo ý Chúa để anh Định rõ. (ý anh tôi muốn nói : có thể giao nhiệm vụ cho Định hoạt động được). "Tiện đây tôi báo tin gia đình ta để chú rõ : Gia đình ta mọi người đều mạnh khỏe, các cháu mỗi ngày một thêm đông. Riêng "bên ngoại" vẫn gập nhiều khó khăn, tôi chẳng được tin gỉ cà. (ý anh tôi muốn nói : tổ chức cứa chúng ta ở trong vùng người Pháp kiểm soát tốt, có thêm nhiều người tham gia. Còn riêng vùng Việt Minh kiểm soát như thế nầy là không thể làm ăn gì được). "Chúc chú mạnh khỏe, Chúa sẽ ban phước lành cho chúng ta". Ngô Đình Thục” Hai tên Mỹ nghe Diệm vừa đọc thư, vừa giải thích những ý ngầm trong thư, dáng trầm ngâm. Khi Diệm đọc xong, Phi-sin nói : - Ở chỗ nào chúng ta cũng vào được, chỉ riêng vùng Việt Minh kiểm soát vẫn là một vùng rất bí mật đối với chúng ta. Như để chứng minh thêm lời của Phi-sin, Lên-sđên ngậm ngùi: - Nghiên cứu các báo cáo từ Việt Nam gởi về, tôi cũng lấy làm lạ. Đầu năm 1950, cơ quan tình báo của ta có giao cho Phòng Nhì Pháp một nhân viên tên là Hồ Minh vào chiến khu Việt Minh ở Thừa Thiên để tổ chức "Chiến khu quốc gia" nhưng bị bại lộ27. Ông Diệm phái Lê Mậu Thành vào vùng chiến khu Việt Minh ở miền Trung Trung phần từ năm 1951 đến nay cũng không làm ăn được gì. Những tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh, Việt Nam Quốc dân đảng ở mấy tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên sẵn sàng theo ta thì cũng như rắn nằm tịt trong hang, không dám thò đầu ra. Phía Bắc Việt Nam, những nhóm "Liên hiệp quốc gia", "Liên tôn chống Cộng" ở ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đều tan rã cả. Cả một nhóm người của Phòng Nhì Pháp giới thiệu với ta định đưa vào 26 Good morning (Tiếng Anh) : Chào buổi sáng. 27 Vụ này đả bị công an Thừa Thiên khám phá, hồi ấy đài Tiếng nói Việt Nam đã vạch tràn âm mưu và thủ đoạn của đich trước dư luận thế giới. Thanh Hóa lập "Chiến khu quốc gia" thì bị Việt Minh lừa cho bắt gọn28. Những điệp viên được huấn luyện rất công phu của Phòng Nhì Pháp như Hải Đường, Trà Mi, Nguyễn Phước v.v... được phái ra vùng Khu 4 của Việt Minh đến nay vẫn chưa có tin tức gì29. Người Pháp đã mất vào đây bao nhiêu của, bao nhiêu người... Thế là thế nào ? Chúng ta phải tìm hiểu cho ra. Vì khi ông Diệm về nước thì không phải thông qua Phòng Nhì của Pháp nữa, mà chính chúng ta phải đấu trực diện với tình báo Việt Minh. Phi - sin quả quyết : - Không. Nhất định chúng ta phải hơn bọn Phòng Nhì Pháp. Với những kỹ thuật tiên tiến, với đô la, với những phương tiện đầy đủ, với những người được chúng ta đào tạo kỹ lưỡng, với một kế hoạch hành động tỉ mỉ, chu đáo, nhất định chúng ta phải hơn người Pháp. Ngô Đình Diệm gật đầu : - Tôi cũng đồng ý với giáo sư. Lên-sđên hỏi Diệm : - Thế ông đã giao nhiệm vụ hoạt động cho Định ? - Tôi đã giao cho anh ta một vài việc rồi. Tát nhiên mới chỉ là những việc thử thách bước đầu. Anh ta không thế nắm được điều gì quan trọng của chúng ta cả. Diệm quay về mở tủ, lấy chiếc ví của Phan Thúc Định, kéo ở ví ra chiếc ảnh Đức Bà Ma-ri-a : - Mặc dù anh tôi cũng đã gỏi cho tôi vật này. Diệm cất chiếc ảnh vào chiếc ví, trả lại cho Lên-sđên. - Phan Thúc Định đã nói cho tôi rõ việc "mất cắp" chiếc ví này. Người của chúng ta làm rất giỏi. Định không biết mất vào lúc nào khi dạo chơi trên phố. Anh ta nói tất cả những gì có trong ví, không giấu một thứ gì. Bây giờ, tôi xin trả lại đại tá. Lên-sđên cầm lấy chiếc ví : - Chiều nay, tôi sẽ cho Sở Cảnh sát Nữu Ước gọi điện báo cho anh ta biết đã tìm ra chiếc ví và mời anh ta đến nhận. - Đại tá trả Định tất cả những thứ có trong ví nay ? - Diệm hỏi. Lên-sđên mỉm cười. - Trả lại tất cả, trừ đô-la trong ví, để cho nó hợp lý. Và hắn hỏi Ngô Đình Diệm : - Bao giờ anh ta về nước ? - Anh ta định ngày mai - Diệm đáp. Lên-sđên nói : - Trong giai đoạn này, chúng ta phải cử một người bí mật giám sát những hoạt động của anh ta. Nguyên tắc của chúng ta là như thế. - Cử ai ? - Diệm hỏi. 28 Vụ này xảy ra ở Thanh Hóa. bị công an bắt gọn vào năm 1950 29 Xem "CẤT VÓ". Truyện phản gián - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ờ Hà Nội in năm 1967 - Cùng một tác giả. Lên-sđên suy nghĩ một lát, rồi thong thả nói : - Theo ý tôi, nên cho một người của ta mà tình báo Pháp và Định chưa hề biết về làm việc đó. Tôi đề nghị cho Phạm Xuân Phòng, bí mật về Việt Nam vừa làm những việc ta định giao cho Phòng, vừa theo dõi Phan Thúc Định. 4. VÂN ANH Sân bay Tân Sơn Nhát đầy máy bay quân sự và máy bay dân dụng. Những đường băng rộng thênh thang dài vút. Có những đường băng bê tông nhẵn lì. Có những đường băng rải lưới thép. Đây là đầu não của con đường hàng không tỏa di khắp Đông Dương đi châu Âu, châu Á, châu Mỹ... Cách 5 phút lại có một chiếc máy bay cất cánh, hoặc hạ cánh. Những người lính không quân, thợ máy, lính thông tin, quần áo ka-ki, mũ ca-lô xanh nước biển hoặc mũ lưỡi trai đen bọc vải trắng, những cô chiêu đãi viên hàng không váy hẹp màu xanh nước biển, sơ-mi trắng, mũ ca-lô xanh đi lại tấp nập. Phan Thúc Định, vẫn chiếc cặp du lịch trên tay, với bộ quần áo đúng thời trang, bước vào phòng khách sân bay, người đông nghịt ồn ào. Chỗ này vài ba viên sĩ quan người Pháp đang đứng nói chuyện gẫu. Chỗ kia, mấy hành khách đang quây quanh quày giải khát, uống nước, ăn bánh ngọt. Có hành khách tay chắp sau lưng đi bước một quanh phòng, vẻ chờ đợi. Có hành khách ngồi thản nhiên trên ghế, mở báo xem, phì phèo điếu thuốc lá trên môi. Theo thói quen, bao giờ Phan Thúc Định cũng quan sát khắp gian phòng, đặc biệt chú ý đến những người hành khách ngồi có vẻ ung dung xem báo. Trong những người cầm tờ báo che lấp mặt hoặc đang chăm chú xem sách kia, có kẻ nào cần phải đề phòng không ? Kinh nghiệm cho biết những người ấy mới là những người anh phải quan tâm đến. Hình như không có gì đặc biệt cả. Anh đến gần sát giờ máy bay cát cánh. Có tiếng loa mời những hành khách đi Huế ra máy bay. Mọi người ra máy bay, theo sau cô chiêu đãi viên thân hình dong dỏng, xinh xắn, cặp môi tô son màu phớt tím luôn nở nụ cười duyên dáng. Chiếc thang máy bay đã để sẵn ở cửa một chiếc máy bay Công-sten-la-siông bốn động cơ của hãng "Pháp quốc Hàng không". Cô chiêu đãi viên dừng bước, đứng sang cạnh thang, giơ tay nghiêng đầu rất kiểu cách, nói bằng tiếng Pháp : - Xin mời quí vị lên máy bay. Hành khách lần lượt bước lên thang, vào chỗ ngồi của mình. Phan Thúc Định bước vào khoang máy bay, ý tứ đưa mắt nhìn một lượt các hành khách. Nhanh như chớp, anh thu vào đôi mắt sắc sảo của mình những đặc điểm biểu lộ trên nét mặt đám hành khách cùng đi. Mấy sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp người thì ngồi trầm tư, người thì thầm nói nhỏ với nhau. Máy ông người Việt cỡ trung niên được Phan Thúc Định chia làm hai loại : người nào láu táu, mặt lộ vẻ sốt ruột chắc là nhà buôn đi giao dịch ; người nào có quần áo phẳng phiu, đầu mượt bóng, nét mặt đăm chiêu thì chắc là công chức cao cấp của chính phủ Bảo Đại hoặc là một thứ "chính khách" chưa kiếm chác được gì, đi Huế để vận động một ghế ngồi nào đó có thể hốt bạc được. Một bà già - hay nói đúng hơn một "mệ" Huế búi tóc bằng trâm ngà, cổ đeo "kiềng" vàng, lên máy bay vẫn cầm hộp trầu trên tay. Cuối khoang máy bay có một người đàn ông khoảng gần năm mươi tuổi, chải chuốt, đeo kính mát gọng to, ngồi bên cạnh một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi. Người đàn ông ít nói, chỉ gật đầu hoặc lắc đầu như sợ người khác nghe mát giọng của mình, trong khi đó cô gái hay nhí nhảnh hỏi chuyện. Cô gái tóc buông xỏa kiểu tóc các nữ sinh trung học, mặc một chiếc áo dài trắng diếm hoa nhỏ và thưa, màu xanh; trán rộng, lông mày thanh, đôi mắt đen láy thông minh, mũi dọc dừa, đối môi gọn nhỏ. Cô gái nói chuyện đôi lúc pha một câu tiếng Pháp. Qua câu chuyện loáng thoáng, Phan Thúc Định biết đấy là hai cha con. Anh ngồi xuống ghế, ghế bên cạnh anh vẫn còn trống. Anh tự hỏi trong đám hành khách này ai là người của C.I.A ? Ai là người của SEDCE30 ? Ai là người của Việt Minh ? Có ai theo dõi mình không ? Lại còn có thể có những gián điệp của các nước khác nữa. Bởi vì, từ sau cuộc chiến tranh Nga-Nhật và từ đầu thế kỷ 20 này, tất cả các nước trên thế giới đều thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tình báo. Nó có thể góp phần quyết định vào thắng hoặc bại của mỗi bên. Trước cuộc chiến tranh 30 SEDCE : Service cTétude et documentation de contre - espionnage (Sở nghiên cứu và tư liệu phản gián) Nga-Nhật 1905, hàng nghìn gián điệp Nhật Bản đóng vai thợ giày, thợ cắt tóc đá lọt vào đất Nga làm cho tất cả những cuộc vận chuyển, kế hoạch tác chiến của quân đội Nga Hoàng bị Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Nhật Bản nắm vững. Rồi trong hai cuộc chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai, diễn ra bao nhiêu cuộc đấu trí giữa các cơ quan tình báo Gết-ta-pô của Đức, Hắc Long của Nhật với Phòng Nhì của Pháp, Intelligence Service của Anh, Ghê-pi-iu của Nga, v.v... Riêng ở Đông Dương này trước khi Nhật đổ bộ vào, đã có hàng trăm, hàng nghìn gián điệp Nhật đóng vai bán kem, bán sâm cao-ly, nhà buôn, du học sinh, sang sục sạo khắp nơi. Trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp năm 1949 vụ tình báo Việt Minh lấy được bản báo cáo của tướng Rơ-ve chẳng làm chấn động thế giới đấy ư ? Vụ đó đã làm cho kế hoạch hành quân của Pháp bị thất bại ngay từ bước đầu, làm cho chính phủ Pháp suýt bị đổ và nhiều nhân viên chỉ huy SEDCE phải bị cách chức. Những nơi nóng bỏng trên thế giới đều là nơi thu hút, tập trung những gián điệp quốc tế. Việt Nam đang là một trong những nơi nóng bỏng nhất thế giới. Pháp đang muốn chèo chống giữ cho con thuyền tả tơi của mình trước cơn bão táp tấn công của Việt Minh, Mỹ đang muốn thay chân Pháp, Nhật đang muốn đục nước béo cò, Tưởng đang muốn nắm số Hoa kiều đông đảo ở đây, Anh muốn dò la để giữ vững ảnh hưởng của mình ở Mã Lai, Tân Gia Ba, Miến Điện, v.v... Việc anh về nước với nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho ấy, liệu có cơ quan nào biết và đang theo dõi ? Anh cứ phải đề phòng. Một điều nữa làm anh phải suy nghĩ là làm thế nào liên lạc được với Lê Mậu Thành ? Làm thế nào biết được hoạt động và thái độ của Lê Mậu Thành ? Từ Mỹ về Pa-ri, từ Pa-ri về Sài Gòn, Định hy vọng nhiều vào cuộc tiếp xúc với Giám mục Ngô Đình Thục, chắc chắn ông ta sẽ giúp đỡ anh dễ dàng trong việc hoàn tất nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho. Nhưng khi đến Vĩnh Long, gặp Ngô Đình Thục, Định thấy tự mình phải xoay sở lấy là chính. - Từ mùa thu năm 1951 đến nay - Ngô Đình Thục nói - Tôi chưa nhận được báo cáo nào của Lê Mậu Thành cả, nhưng nguồn tin riêng cho tôi biết Lê Mậu Thành vẫn còn sống và đang ở một cơ quan của Việt Minh. Còn lòng trung thành của anh ta đối với Cụ Thượng (chỉ Ngô Đình Diệm) thế nào thì chưa có bằng chứng gì bảo đảm. Cụ Thượng ở xa không rõ đấy thôi, chứ chưa nối được trạm liên lạc nào giữa Lê Mậu Thành với chúng tôi. Có thể anh ta phải phục xuống tạm thời cắt đứt mọi mối liên lạc để giữ mình, cũng có thể anh ta không còn là người của chúng ta nữa. Phan Thúc Định không biết những lời của Ngô Đình Thục là thực hay giả. Vì trong ngôi nhà uy nghi của Tòa Giám mục Vĩnh Long, Ngô Đình Thục đã điều khiển nhiều việc bí mật, ngoài việc lên bục giảng đạo, ngồi buồng kín rửa tội, Thục đã từng phản bội người ta và bị người ta phản bội nhiều lần, cho nên ông ta rất già dặn công việc tiếp xúc với mọi người. Ngô Đình Thục hạ giọng nói tiếp : - Cụ Thượng đã giao trách nhiệm cho anh, thì anh nên cố gắng làm cho xong. Anh nên tìm mọi cách liên lạc được với Lê Mậu Thành. Nếu anh trực tiếp gặp được Thành thì càng tốt, nói cho Thành rõ những điều Cụ Thượng đã dặn. - Nhưng thưa Đức Cha, làm thế nào con có thể bắt liên lạc được với Thành ? Cha có cách nào giúp cho con được không? Ngô Đình Thục nheo mắt cười tinh quái, bộ mặt khác hẳn lúc giảng đạo : - Cái đó tùy thuộc vào trí thông minh và tài tháo vát của anh. Tôi chỉ giúp được anh mật khẩu để liên lạc với Thành mà thôi. Ngô Đình Thục mở khóa chiếc tủ lim lớn đàng sau ông. Phan Thúc Định liếc nhanh vào trong tủ, thấy tủ chia làm nhiều ngăn nhỏ đánh số như tủ đựng hồ sơ. Ngô Đình Thục tìm một ngăn, lấy ra một phong bì dán kín đưa cho Định, rồi lặng lẽ đứng dậy, bắt tay Định. Bước chân ra khỏi Tòa Giám mục Vĩnh Long, Phan Thúc Định băn khoăn : "Có phải anh em họ Ngô thử mình không?". Nếu gặp được Lê Mậu Thành, anh em họ Ngô sẽ đặt câu hỏi : làm thế nào mà một người như mình, vừa ở Pháp về, con một kẻ tử thù của Việt Minh, lại có thể gặp được Lê Mậu Thành ở vùng chiến khu Việt Minh một cách dễ dàng? Còn nếu không gặp, không liên lạc được với Lê Mậu Thành thì nhiệm vụ của Diệm giao cho sẽ không hoàn thành. Mới chỉ có một việc bình thường, bước đầu đã không hoàn thành được thì về sau ra sao? Phan Thúc Định ngả người trên ghế suy nghĩ miên man. Bề ngoài trông anh có vẻ lơ đãng, thản nhiên nhưng thật ra tất cả những việc gì xảy ra quanh anh trong khoang máy bay, vẫn không lọt khỏi mắt anh. Ở anh đã hình thành cái nếp : trong bất cứ một môi trường xa lạ nào, bao giờ anh cũng chỉ để một nửa tâm trí suy nghĩ, một nửa tâm trí thì theo dõi quan sát chung quanh. Có một cô gái vội vã bước lên máy bay, đến ngồi ghế bỏ trống bên anh. Anh quay lại... vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ : - Ồ... Vân Anh ! Cô gái cũng nhận ra anh, ngạc nhiên không kém anh : - Anh Định, ôi, thật là một sự may mắn kỳ diệu ! Anh quay lại ... vừa ngạc nhiên, vừa mừng rở : - Ồ... Vân Anh ! Với mái tóc uốn chải công phu, cắt cao, để lộ chiếc cổ trắng ngần, với cặp mắt hơi buồn ẩn sau hàng mi dài vuốt thuốc, với đôi môi tô son cầu kỳ thỉnh thoảng hơi nhếch lên một cách kênh kiệu, chiếc áo dài màu xanh nước biển có thêu nổi một bông hồng trắng trên ngực trái, Vân Anh hiện ra trước mắt Phan Thúc Định vẫn diễm lệ, vẫn quyến rũ, vẫn lộng lẫy như hai năm trước... ... Hai năm trước, trong một buổi chiều đông, trời Pa-ri đầy hoa tuyết đầu mùa. Chàng sinh viên xóm La-tinh nghèo Phan Thúc Định đang chuẩn bị luận án tiến sĩ luật khoa đã gặp Vân Anh ở một thư viện. Xa quê hương, người cùng một nước gặp nhau, hai người làm quen với nhau dễ dàng và mau chóng trở thành đôi bạn. Những buổi gặp nhau ở thư viện, những buổi sóng đôi đưa nhau về một quãng đường, những buổi rủ nhau vào một quán cà phê ấm cúng ngồi tâm sự, Vân Anh đã kể cho Phan Thúc Định nghe về cuộc đời riêng của mình. Vân Anh là con một viên Án sát ờ một tỉnh lẻ miền Nam Trung Bộ tên là Cao Xuân Thọ. Vì có nợ máu với nhân dân nên hồi Cách mạng Tháng Tám 1945, Thọ đã bị Tòa án Nhân dân xử tử hình. Vân Anh phải về ở với chú ruột là Cao Xuân Đăng, trước Cách mạng vốn là Tham tá Tòa sứ của Pháp, lúc đó chuyển sang làm công chức cho chánh quyền Cách mạng. Năm 1946 lúc thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, Cao Xuân Đăng ở lại Huế, nhảy ra làm tay sai cho Pháp và được thực dân Pháp cho làm Tỉnh trưởng ở một tỉnh Trung phần. Đăng nuôi Vân Anh và cho sang Pháp học ở trường Đại học Soóc-bon-nơ. Một buổi đẹp trời, Phan Thúc Định và Vân Anh sánh vai nhau đi dọc bờ sông Xen31. Họ đi qua những quán sách cũ có những ông chủ quán để râu thủy thủ, ngồi lim dim như ngủ giữa đống sách đủ loại : khoa học, văn học, lịch sử,... Họ đi qua những người Pháp đội mũ nồi, ngậm ống tẩu, ngồi câu bên bờ sông có những con chó ngoan ngoãn nằm bên cạnh. - Chú em chiều em lắm, không để em thiếu thốn gì cả. - Vân Anh nói - nhưng em vẫn hay buồn. Cái buồn ấy, các bạn em bảo, hiện lên đôi mắt em. Người Pháp vẫn thường bảo đấy là cửa sổ của tâm hồn. Có lẽ đúng. Bởi vì dù sao em cũng là một cô gái mồ côi. Cha em đã chết bất đắc kỳ tử. - Em có oán hận gì những người đã giết cha em không ? 31 Seine - Oán hận tất nhiên là có, nhưng em có thể làm gì được ? Lịch sử đã chuyển qua trang khác rồi... Vả lại, em chỉ là một người phụ nữ yếu đuối, cô đơn, đâu phải như đấng nam nhi các anh. - Em thiếu tình cảm gia đình nhưng em có thể có những tình cảm đẹp đẽ khác động viên em, an ủi em. Chẳng hạn... tình bạn... tình yêu... Vân Anh giương cặp mắt có hàng mi dài và cong, nhìn thăm thẳm vào mắt Phan Thúc Định, hình như muốn ngăn không để Định nói một câu tiếp theo : - Em không muốn giấu anh làm gì : em có người yêu rồi. Hai người im lặng. Cái xắc da trên tay Vân Anh buông thõng, đung đưa theo nhịp bước chân chậm rãi của cô. Lại mấy cửa hàng sách cũ... Lại mấy người ngồi câu... Có thêm vài anh họa sĩ dựng giá khung đang nheo mắt bôi màu lên vải... Một lát sau, Vân Anh thở dài : - Người yêu em ở xa lắm. - Ở Việt Nam ? - Vâng. Còn xa hơn nửa, vì... ở bên kia chiến tuyến, Lại một phút im lặng. - Xin lỗi. Em không nói thì anh không dám hỏi, em đã nói thì cho phép anh hỏi nhé : em có thể cho anh biết người áy là ai được không ? - Phan Thúc Định hỏi. - Đối với anh thì được chứ. Anh Lê Mậu Thành, giáo sư trường Trung học Khải Định, Huế. - Người ấy ở bên kia chiến tuyến ? - Vâng. Mùa hè năm ngoái, lúc em vừa đỗ tú tài phần hai, cũng chính là lúc chúng em xa nhau. Giọng nói của Vân Anh nhỏ hẳn, trầm trầm xúc động : - Chúng em yêu nhau tha thiết, nhưng anh Thành lại yêu lý tưởng của anh ấy hơn cả người yêu. Anh ấy tự nhiên bỏ thành phố Huế lên chiến khu Việt Minh. Anh ấy để lại cho em một bức thư vỏn vẹn có mấy dòng : MAnh ra đi vì tiếng gợi của Tổ quốc, vì nhiộm vụ thiêng liêng đối với đất nước. Anh biết rằng em không thể đi theo anh được nhưng anh vẫn hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ gặp nhau, ở chiến khu. Sau đó, em không được tin gì của anh ấy nữa, rồi chú em nhất định bắt em sang đây du học. Em viết thư cho mấy người bạn cũ của anh Thành, ghi rõ địa chỉ của em bên này, mong mỏi nhận được thư từ tin tức của anh Thành, nhưng suốt từ đó đến nay, vẫn đằng đẵng biệt vô âm tín. Linh cảm em sợ một sự tan vỡ vì anh biết đấy, em không bao giờ đi con đường của anh Thành được. Em với anh Thành ở hai trận tuyến khác nhau : Anh Thành đã theo Việt Minh, còn em và Việt Minh có một mối thù không đội trời chung. Chao ôi, khoảng cách về không gian không sợ bằng khoảng cách về tư tưởng. - Trước đó, em có thấy anh Thành nói gì với em về kháng chiến không ? Đôi lông mày kẻ chì của Vân Anh hơi cau như cố nhớ lại chuyện cũ : - Anh Thành là một người rất kín đáo. Thường thường nói chuyện về văn học, nghệ thuật, anh tỏ ra hiểu biết nhiều và nói sôi nổi. Nhưng đối với các vấn đề chính trị, thời cuộc thì anh ta thường không phát biểu gì. - Xin lỗi em nhé, em đừng trách anh là quá tò mò và thô lỗ, cho anh hỏi thêm một điều : Em vẫn còn yêu anh Thành ? - Tình cảm của em đối với anh Thành vẫn nguyên vẹn. Tình yêu trong người phụ nữ không phải là một thứ dễ đổi thay. Nhất là mối tình đầu. Sự đổi thay trong tình yêu là một điều không đẹp đẽ. Huống chi, từ trước đến nay, anh Thành đối với em vẫn rất tốt. Giữa hai chúng em, yêu nhau mấy năm trời, vẫn giữ nguyên được lòng tôn trọng nhau. Chỉ trừ việc anh Thành bỏ đi một cách đột ngột, bất ngờ... Em vẫn mong gặp anh Thành, vẫn chờ đợi anh ấy. Dòng sông Xen lững lờ trôi. Thỉnh thoảng một chiếc ca- nô chở khách lướt sóng để lại một vệt trắng dài ngầu bọt. Sau buổi ấy, Phan Thúc Định không gặp lại Vân Anh nữa. Có người nói Vân Anh bỏ học, qua Luân Đôn, thủ đô sương mù ảm đạm. Hình ảnh diễm lệ của Vân Anh với đôi mắt buồn sau hàng mi dài và cong, hình ảnh những ngày ngồi bên cốc cà phê thơm phức ờ khu xóm La - tinh, hình ảnh những ngày đón nhau ở thư viện về, đi dưới những cây sên mùa đông trụi hết lá, hình ảnh một cuộc dạo chơi bên bờ sông Xen váng vất một tiếng còi ca - nô... lùi dần vào dĩ vãng. Hai năm qua rồi... Phan Thúc Định nắm lấy bàn tay mềm mại của Vân Anh mà như thấy dĩ vãng sống lại. Câu chuyện cũ hiện ra, đồng thời cái tên Lê Mậu Thành nổi bật lên rõ rệt trong óc Phan Thúc Định : "À, Lê Mậu Thành đây rồi. Thế mà mình cứ cố nhớ mãi. Đáp số của bài toán đó anh em họ Ngô ra cho mình ở đây rồi". Chiếc máy bay đóng cửa, sau khi lướt một quãng dài trên đường băng, nó nhấc mình lên, rời khỏi mặt đất. Những căn nhà, lùm cây, những con đường phố tấp nập người và xe cộ lươn lướt dưới thân máy bay và lùi xa, bé dần lại. Rồi đến những cánh dòng, những dòng sông... Rồi nhìn thấy màu nước biển xanh ngắt... Rồi mây trắng bồng bềnh trôi bên ngoài khung cửa, trôi dưới thân máy bay... Trong lúc Phan Thúc Định và Vân Anh vui mừng gặp lại nhau, họ không ngờ tất cả thái độ, cử chỉ của họ đều được thu gọn, đầy đủ vào cập mắt của người đàn ông chải chuốt đeo kính mát ngồi cạnh cô con gái. Cô nữ sinh vẫn hồn nhiên không hay biết gì, vẫn ríu rít trò chuyện. - Con không thích Sài Gòn bằng Huế, ba ạ - Cô gái nói - bởi vì Huế có gia đình ta. Sao ba cứ bắt con ở Sài Gòn, ít cho con về thăm Hué ? Người đàn ông đeo kính mát trả lời : - Tố Loan ạ, lúc này việc học tập của con là trên hết. Con cần để thời gian vào học tập. - Nhưng con nhớ biệt thự của nhà ta, nhớ dòng sông Hương lắm. Người đàn ông im lặng, trầm tư như đang suy nghĩ gì làm cô gái không dám hỏi thêm nửa. Sau cặp kính mát hướng thẳng về phía trước mặt, cặp mắt ngời ấy vẫn thỉnh thoảng nhanh chóng liếc nhìn về phía Phan Thúc Định và Vân Anh. - Không ngờ lại gặp Vân Anh ở đây . - Phan Thúc Định nói. - Em cũng vậy. Đúng là quả đất tròn thật. - Sau buổi em nói chuyện với anh ở bên dòng sông Xen, em đi đâu mà anh không nhận được tin tức gì của em cả ? - Hồi ấy em mê những bi kịch của Sếch- spia lắm... Em nảy ra ý dịnh muốn đi sâu vào ngôn ngữ Anh. Được chú em đồng ý, em qua Anh và xin vào học trường Đại học Kem- brít- giơ. Mải học nên cũng không viết thư từ cho ai cả, anh tha lối cho. Còn anh, đã bảo vệ xong luận án rồi chứ ? - Cảm ơn em, xong rồi. - Xin có lời chúc mừng anh. Một cô chiêu đãi viên người Pháp dong dỏng, duyên dáng bưng khay kẹo, bánh ngọt và nước hoa quả đốn mời hành khách. Cập dưới khay bánh kẹo, cô ta cầm một bản quảng cáo các đường bay của hãng "Pháp quốc Hàng không" in màu sắc sặc sỡ. Đến chỗ Phan Thúc Định, Định nhật mấy chiếc kẹo sô- cô- la sữa, rồi lịch sự hỏi cô chiêu đãi viên : - Xin lối, cô có thể cho tôi xin tờ quảng cáo nầy được không? Cô chiêu đãi viên nhìn Định mỉm cười, đưa tờ quảng cáo cho Định : - Rất vui lòng biếu ông... Mắt người đàn ông đeo kính mát nhìn quanh tờ quảng cáo. Tờ quảng cáo gấp nếp lại thành nhiều trang nhỏ, ở trang đằu tiên có in hình huy hiệu hãng Tháp quốc Hàng không nửa mình một con ngựa trắng có cánh bay lên và ảnh cổng Khải Hoàn Môn của thủ đô nước Pháp. Phan Thúc Định hỏi thêm cô chiêu đãi viên : - Ở Huế, tôi muốn đặt trước vé máy bay thì gọi điện thoại số bao nhiêu ? Cô chiêu đãi viên vẫn duyên dáng : - Thưa ông số diện thoại 377. Lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng hầu ông. - Cảm ơn cô. Cô chiêu đãi viên đi sang hàng ghế khác. Phan Thúc Định cất tờ quảng cáo vào trong túi áo ròi nói với Vân Anh : - Anh thích có những kỷ niệm nho nhỏ trong mỗi chuyến đi. - Em về nhà ai ở Huế ? - Định hỏi. - Chú em hiện nay làm việc ở Huế. Em về nhà chú em. Chú em đã hẹn ra đón em ở sân bay, - Em về nhà thôi chứ ? Có dự định làm gì nữa không ? Vân Anh nói nho nhỏ như hơi gió thoảng bên tai Định : - Em định tìm gặp cho được anh Lê Mậu Thành. Phan Thúc Định nhìn vào mắt Vân Anh. Anh thấy đôi mắt đượm buồn ấy sâu như biển thẳm. Óc anh nẩy ra một ý nghĩ rất nhanh khi nghe Vân Anh nhắc đến tên Lê Mậu Thành : sự gặp gỡ tình cờ với người con gái này biết đâu chẳng giúp anh giải được con toán hắc búa do anh em họ Ngô ra cho anh. Gặp Lê Mậu Thành bây giờ thì không nên, nhưng vẫn phải bắt được liên lạc với Lê Mậu Thành cho Ngô Đình Diệm. Hay nhất là qua một người khác để có thể chắp được đường dây với Lê Mậu Thành. Có thể qua Vân Anh. Phan Thúc Định nói nhỏ : - Em làm thế nào tìm gặp được anh ấy ? Giọng Vân Anh có vẻ bí mật : - Em sẽ nói chuyện với anh sau. Những khu rừng màu xanh bát ngát, con đường Số 1 như một sợi chỉ, rồi lại đến làng mạc, ruộng nương nhỏ xíu hiện ra dưới thân máy bay. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Phú Bài. Hành khách lục đục bước xuống. Người đàn ông đeo kính mát dần dà bước xuống sau Phan Thúc Định và Vân Anh. Ở phòng khách đã có một người đàn ông cao to, mặt bèn bẹt, đầu vuốt mượt, y phục sang trọng và diêm dúa một cách quá đáng, bước ra đón Vân Anh. Vân Anh chào : - Chú ạ ! Chú bận thế mà cũng ra đón cháu. Rồi cô quay sang giới thiệu với Phan Thúc Định : - Đây là chú em, em đã nói chuyện với anh. Xin giới thiệu với chú đây là anh Phan Thúc Định, tiến sĩ luật khoa, bạn của con từ hồi ở bên Pháp. - Hân hạnh ! - Hân hạnh ! Cao Xuân Đảng hỏi Định : - Có ai đi đón anh không ? - Thưa ông, không ạ. - Anh về phố nào ? Tôi có xe, xin mời anh về cùng. - Cảm ơn ông, tôi trọ ở khách sạn. Tôi có một số việc mua bán ở ngoài phố nữa. Xin ông cho phép vài hôm nữa tôi được đốn thăm ông và Vân Anh. Xin mời ông và Vân Anh cứ về trước. Cao Xuân Đáng không mời thêm câu nào nữa, mở ví rút ra một cái danh thiếp ghi địa chỉ mình, chìa tay ra bắt tay Định: - Đây là địa chỉ của tôi, lúc nào rảnh, mời anh đến chơi. Vân Anh cũng chìa tay nuột nà, móng sơn đỏ chót ra : - Thế nào anh cũng lại thăm em nhé ! Tạm biệt ! Hai chú cháu bước ra một cái xi- trô- en 15 màu đen. Cao Xuân Đáng cầm lái láy, mở máy. Bên trong cửa xe, Vân Anh còn thò bàn lay trắng nuốt ra vẫy Định. Định cũng bước lên chiếc xe ca của hãng Hàng Khỏng về thành phố. Người đàn ông đeo kính mát, lúc ấy mới cùng con gái bước ra. Miệng gã lẩm bẩm một con số : - 377. Trên cái cặp du lịch gã xách, có một cái thiếp nhỏ ghi tên: Phạm Xuân Phòng. Ba ngày sau, Phan Thúc Định theo địa chỉ trên tấm danh thiếp tìm đến nhà Cao Xuân Đáng thăm Vân Anh. Cao Xuân Đăng đi vắng. Vân Anh tiếp Định ở phòng khách bày toàn đồ đạc cổ kính : bộ sa- lông kiểu Trung Quốc bằng gỗ lim mặt đá vân, một chiếc tủ chạm trổ rồng phượng cầu kỳ, những bức tứ bình vẽ điển tích đầy chữ Hán. Sau những chuyộn xã giao bình thường, Phan Thúc Định dẫn đầu câu chuyện vào ván đè ý định của Vân Anh định đi gập Lê Mậu Thành. Vân Anh nhìn Định như dò hỏi, nhưng cũng thong thả nói: - Cách đây ba tháng, em ở Luân Đôn về Sài Gòn. Em gặp một người bạn trai trước cùng học ở Huế cho em biết chắc chắn là giáo sư Lê Mậu Thành hiện đang ở chiến khu Việt Minh trong tỉnh Thừa Thiên. Người bạn đó cũng đã bỏ học ra đi theo Việt Minh. Hắn có gặp giáo sư Lê Mậu Thành ở ngoài đó. Hắn không thổ lầm được, vì trước hắn đã nghe anh Thành giảng. ít lâu sau, hắn không chịu dược gian khổ nên lại trốn về đầu hàng nhà đương cuôc Pháp. Đươc biết tin anh Thành, em nảy ra ý định quyốt di tìm anh ấy. Em biết nhiêu phụ nữ ỏ trong nay có chòng ngoài kia vẫn ra thám chồng được... Phan Thúc Định nhìn cách trang điểm lúc nào cũng cầu kỳ, chải chuốt của Vân Anh hỏi : - Em làm thế nào để ra được ngoài ấy ? - Hoậc là em sẽ đi theo một bà nào ra thăm chồng ở ngoài ấy ; hoặc là em đến một người cậu có con đi theo Việt Minh, em sẽ nhờ cậu ấy bắn tin là em muốn bỏ vùng quốc gia lên chiến khu. Chắc Việt Minh sẽ không từ chối một người trí thức muốn theo họ. Hoặc là em sẽ viết đơn hẳn hoi xin phép Việt Minh ra gặp anh Lê Mậu Thành. - Em làm như viết đơn gởi Việt Minh dễ lắm ! - Em được biết hiện ở Huế đây, có một trạm liên lạc của Việt Minh, gọi là Trạm 14 Nội thành". - Em giỏi thật. Vừa ở nước ngoài về được mấy tháng sao em biết được nhanh vậy ? Vân Anh ngước nhìn Phan Thúc Định, môi trên đỏ chót hơi nhếch lên : - Anh tò mò quá nhỉ. Phan Thúc Định cảm thấy ở Vân Anh có một điều gì bí ẩn mà anh chưa rõ. "Tại sao cô ta lại biết được ? Cô ta tìm gặp Lê Mậu Thành có phải do tiếng gọi của tình yêu không ? Chắc không phải chỉ có thế. Còn có cái gì nữa chứ ?". Nhưng bắt người thiếu nữ này nói rỏ sự thật không phải là chuyện dễ. Phan Thúc Định phải dùng một đòn táo bạo hơn : - Vân Anh ạ, có một điều trước dây anh chưa nói cho em rõ là anh có quen anh Thành từ xưa. Nếu Vân Anh gặp anh Thành, thì nói hộ anh rằng : "Người bạn cũ cứa Thành nhà ở bên núi Ngự Bình có lời hỏi thăm và muốn biết anh Thành đã làm xong sự nghiệp lớn chưa ?" Vân Anh mỉm cười : - Vâng, em sẽ nhắc đúng như lời anh dặn : "Người bạn cũ của Thành nhà ở bên núi Ngự Bình có lời hỏi thăm..." - Vân Anh có nói với anh Thành viết thư cho "người bạn ở bên núi Ngự", nhé ! - Viết nói gì ? - Điều ấy tùy anh Thành thôi. Nụ cười trên môi Vân Anh trở nên bí mật : - Hay là giữa anh và anh Thành có âm mưu gì ? Rồi Vân Anh nhún vai : - Phải. Biết đâu đấy. Đời bây giờ chỗ nào chẳng có âm mưu, bí mật và bí mật. Phan Thúc Định cười to : - Em bắt nọn giỏi thật. Vân Anh khẽ đập vào tay Phan Thúc Định, giọng đổi khác : - Ông tiến sĩ luật ơi ! Ông hãy nói thật với tôi đi : Có phải người ta đã giao cho ông nhiệm vụ bắt mối liên lạc với anh Lê Mậu Thành đó không ? Nếu không, tại sao lại có mật khẩu "núi Ngự Bình"...? Nhưng thôi, đó là công việc của các anh. Còn tôi, tôi chỉ cần gặp anh Thành là đủ rồi. Và, anh yên chí, tôi hứa khi gặp anh Thành, tôi sẽ nói lại lời anh dặn... - Thế... cô là ai ? - Em là em... là Vân Anh ! 5. GẶP LẠI NGƯỜI XƯA... Đồng chí Vũ Long - Trưởng Ban Công tác đặc biệt Trị-Thiên đặt tập hồ sơ trên tay xuống, hỏi người ngồi trước mặt mình, đồng chí Trần Mai - Đội trưởng một Đội công tác Nội thành của thành phố Huế : - Đồng chí vừa nói trong đơn xin phép vào chiến khu của Cao Thị Vân Anh ghi là vào thăm ai ? - Báo cáo anh, cô ta xin vào thăm Lê Mậu Thành và nói là chồng chưa cưới. - Đồng chí cho tôi biết rõ hơn về Vân Anh. Trần Mai mở chiếc xắc - cốt đặt bên mình, lấy ra quyển sổ tay, anh tìm một trang có ghi về điều Vũ Long hỏi, nói : - Như anh đã biết sơ qua đấy : Vân Anh, năm nay hai mươi nhăm tuổi, con Án sát Cao Xuân Thọ. Thọ bề ngoài là một quan lại của triều đình bù nhìn Huế, nhưng là một chỉ điểm riêng của tên Khâm sứ cáo già Pháp Gơ-ráp-phơi32- Hắn đã cài một số tay chân xuông tận các xã, thôn để dò la những hoạt động của nhân dân. Hắn đã xử rất nặng những người đấu tranh cho độc lập, tự do - ngay cả những viên quan lại của Nam triều, người nào liêm khiết, dễ dãi với nhân dân cũng bị hắn báo cáo ngầm cho Pháp biết. Hắn đã nhận nhiều ân huệ về tiền nong, ruộng đất của thực dân Pháp ban thưởng cho công lao đó. Thực dân Pháp đang dự định thăng hắn lên Tổng đốc thì Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Hắn đã chống đối lại Cách mạng, hô lính bắn vào đoàn nhân dân biểu tình thị uy cướp chính quyền. Trước khí thế của nhân dân, bọn lính không theo lệnh hắn đã bỏ chạy hết. Hắn bị bắt và bị Tòa án Nhân dân két án tử hình. Vợ hắn đem Vân Anh về ở với người em ruột của hắn là Tham tá Cao Xuân Đăng. Ít lâu sau, vợ hắn cũng chết, Vân Anh ở với Cao Xuân Đăng. Đăng ra làm tay sai cho Pháp, khi Pháp quay trở lại. Do công lao của tên anh ruột trước đây, do thái độ trung thành với đế quốc, Đăng được bọn thực dân cho làm Tỉnh trưởng. Hắn muốn leo lên nữa, nên thường thì thọt đi lại nhà riêng tên Nguyễn Đệ - Đổng lý văn phòng của Bảo Đại - định làm một ghế Bộ trưởng, Thứ trưởng gì đó của chính phủ bù nhìn. Hắn nuôi Vân Anh cũng có dụng ý riêng. Hắn muốn dựa vào công lao đối với thực dân và cái chết của tên Thọ để được tín nhiệm với Pháp. Tuy mang tiếng là nuôi Vân Anh, nhưng thực ra tất cả tiền ăn học của Vân Anh hồi ở Huế cũng như học bổng sang Pháp du học của Vân Anh đều do Pháp trợ cấp hết. Hình như chính Vân Anh cũng không biết điều đó, bởi vì mọi việc đơn từ xin xỏ, kể công với thực dân Pháp đều do Đăng làm, mọi giấy từ chứng nhận cũ của tên Thọ, Đăng còn giữ được cả. Riêng về Vân Anh thì hồi còn đi học ở Huế thường ít nói, hay buồn, hay tránh những cuộc tụ họp đông đảo của học sinh, thanh niên. Trong thời kỳ này, Vân Anh gặp Lê Mậu Thành và yêu Thành - sau đó Lê Mậu Thành ra vùng ta thì Vân Anh cũng sang Pháp. Theo sự điều tra của ta thì thời kỳ Vân Anh ở Pháp, chủ yếu là đi học chứ chưa có hoạt động gì cho bọn đế quốc cả. Lúc sang học ở Cambridge thì có hiện tượng hay vào Phòng thông tin Mỹ mượn sách báo. Mùa hè năm nay trước khi về nước, cô ta có sang Mỹ một tháng dưới danh nghĩa ở trong đoàn đi du lịch tìm hiểu nước Mỹ, do Phòng thông tin Mỹ ở Anh tổ chức. Việc sang Mỹ làn này Vân Anh không cho ai biết cả. Về nước, cô ta có đến Phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn vài lần. Theo sự phán đoán của tôi thì có thể là Vân Anh đã bị bọn tình báo nước ngoài mua chuộc trong thời kỳ ở Anh. Việc cô ta đến Phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn chắc không phải chỉ đế mượn sách, mà có thể là để nhận chỉ thị gì của bọn địch. Bởi vì rất nhiều tên gián điệp của Mỹ không bao giờ đến tiếp xúc trực tiếp với Tòa Đại sứ Mỹ mà chỉ qua bọn đội lốt nhân viên Phòng thông tin. 32 Gratteuil Vũ Long lắng nghe Trần Mai nói, rất chăm chú. Mái tóc sớm hoa râm, trên khuôn mặt hãy còn trẻ của anh hơi nghiêng nghiêng. Đôi lúc lông mày anh cau lại, anh cầm bút ghi một vài chữ vào giấy. Khi Trần Mai nói xong, anh mỉm cười : - Không phải có thể nữa đâu mà chính Vân Anh đã là người của tình báo nước ngoài rồi đấy. Tài liệu thu thập được và sự phán đoán của đồng chí về Vân Anh rất phù hợp với những điều X.30 báo cáo về. Việc Vân Anh xin ra vùng ta, qua X.30, chúng ta đã biết trước. Nhưng cô ta ra, mục đích gì, chúng ta chưa rõ. Việc xin phép ra này cũng là cách cô ta đánh một ván bài cao tay với ta đây. Vân Anh xin phép công khai chứ không bí mật vì biết rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của ta, cô đi bí mật thì ta cũng biết và có thể ta sẽ vin vào cớ đó mà giữ cô ta lại gây thêm nhiều cái rắc rối cho cô ta. Còn một điều nữa, nếu Vân Anh lẻn ra tiếp xúc với Lê Mậu Thành thì sẽ gây thêm cho ta mối nghi ngờ lớn đối với Thành, nếu chúng ta chưa hiểu biết gì về Thành - cô ta xin phép công khai nhu thế này để dễ đánh lạc hướng chúng ta, làm chúng ta tin rằng một khi đi đàng hoàng như vậy là không có ẩn ý gì như trăm nghìn người khác vẫn ra thăm người thân thích ngoài vùng ta. Nếu chúng ta không cho phép Vân Anh ra, Vân Anh vin vào cớ đó nói rằng chúng ta ngăn cản sự đi lại, chia cắt tình cảm gia đình, buông "bức màn sắt" - như bọn địch vẫn thường rêu rao. Vả lại, như thế chẳng khác gì báo cho địch rằng ta đã biết cô ta là ai rồi và làm cho Lê Mậu Thành thấy động. Trần Mai nhìn người thủ trưởng của mình và nhận xét thấy gần đây tóc Vũ Long lại thêm nhiều sợi bạc nữa. Anh nghĩ thầm: "Làm gì mà không sớm bạc đầu. Ngũ Tử Tư chi một đêm suy nghĩ, tóc đã trắng xóa hết, huống chi đằng này phải đối phó với những kẻ địch vô cùng lợi hại, nhiều mưu sâu kế hiểm, len lỏi cài vào khắp nơi. Làm sao phân biệt được người ngay với kẻ gian ? Người ngay thì phải bênh vực, bảo vệ. Kẻ gian thì phải trừng trị, nhưng không phải đối phó với kẻ gian nào cũng giống - nhau. Người làm công tác đặc biệt này phải hằng ngày hằng giờ luôn luôn suy nghĩ, nhận xét, phán đoán, phân tích, tổng hợp, đề ra biện pháp, kế hoạch, v.v... Mình đến năm bốn mươi tuổi cũng bạc đầu sớm mất". Anh lại có thêm một nhận xét nữa về thủ trưởng của mình :"Mỗi lúc Vũ Long suy nghĩ thì nét mặt anh thật nghiêm nghị, già hẳn đi, nhưng mỗi lúc anh cười thì thấy anh như trẻ hẳn lại, niềm lạc quan, yêu đời ánh lên trong cặp mắt đen thông minh, trong hàm răng trắng bóng của anh". Trần Mai tự nhủ : "Công tác này làm người ta già trước tuổi, nhưng mình lúc nào cũng phải giữ được cái lạc quan như anh ấy. Điều ấy thật là khó, nhưng đấy cũng là một nét của con người cách mạng". Thấy Vũ Long trở lại vấn đề Lê Mậu Thành, Trần Mai hỏi: - Anh đã xác minh được vấn đề Lê Mậu Thành chưa ? - Vấn đề Lê Mậu Thành đã rõ rồi. Lê Mậu Thành tên thật là Lê Hùng. Bố hắn là Lê Dục, thường gọi là Nghị Dục, có đồn điền trồng cà phê ở Kon-tum và có nhiều ruộng đất ở Quảng Ngãi. Lê Mậu Thành là con thứ hai của Nghị Dục. Vào đảng Đại Việt Quốc Xã khi Nhật sang. Sau khi Nhật đầu hàng, hắn cùng đồng bọn tìm cách lẩn trốn. Hùng đổi tên là Lê Mậu Thành, giấu kín quá khứ, đi dạy học ở trường Khải Định. Hắn nổi tiếng nói chuyện hay, nên đã lôi kéo được một số thanh niên học sinh. Năm 1951, hắn bắt liên lạc với ta, bỏ dạy học, từ giã bạn bè, ra vùng giải phóng xin tham gia kháng chiến. Chúng ta đã đón tiếp hắn niềm nở và theo nguyện vọng của hắn, xếp công tác ở cơ quan giáo dục. Hai năm nay, hắn làm việc rất tích cực, chứng tỏ có nhiều khả năng, hay đi lại thăm hỏi săn sóc anh em, được người trong cơ quan tín nhiệm. Nhưng nghiên cứu lý lịch tự khai của hắn, ta thấy hắn giấu cái quá khứ tham gia đảng Đại Việt mà hắn tưởng ta không biết. Đồng thời, bảo vệ cơ quan cho biết hắn thường xung phong nhận những công tác lưu động. Mỗi lần đi như vậy, thường lân la tiếp xúc với nhiều người, trong đó có một số phần tử có nghi vấn chính trị. Chúng ta chưa kết luận được về Lê Mậu Thành vì thấy hắn hoàn toàn không liên hệ gì với bọn tay chân Phòng Nhì của Pháp cả, trong khi hầu hết bọn Đại Việt khác đều chuyển sang làm tay sai cho Pháp. Gần đây, theo báo cáo của X.30 thì ra hắn là người của Ngô Đình Diệm cài vào hàng ngũ ta ... Sở dĩ ta vẫn để Lẽ Mậu Thành ở đây vì muốn theo dõi thêm hoạt động của hắn, để có những chứng cớ cụ thể mà hắn không chối cãi được và xem đồng bọn của hắn như thế nào ? Ta phải phán đoán xem mục đích của Vân Anh gặp hắn để làm gì ? Có phải là vì tình yêu hay đây là mối dây liên lạc đầu tiên giữa bọn gián điệp ? Hai người cùng im lặng. Từ bên ngoài một tiếng chim hót lảnh lót bay vào. Trăn Mai hỏi : - Bên ủy ban hỏi chúng ta có cho phép Vân Anh vào thăm Lê Mậu Thành không ? Chúng ta sẽ trả lời ủy ban như thế nào ? Giọng Vũ Long cương quyết : - Chúng ta sẽ cho phép Vân Anh vào gặp Lê Mậu Thành. Chúng ta làm cho chúng tưởng rằng chúng ta không nghi ngờ gì cả. Quyết định như thế này : Tôi sẽ báo cho ủy ban biết ý kiến của chúng ta, đề nghị Uy ban cứ cho phép Vân Anh vào chiến khu thăm Thành. Còn đồng chí trực tiếp đến cơ quan Lê Mậu Thành đang công tác, hoàn toàn giữ kín chuyện Vân Anh vào thăm Thành, đề nghị cơ quan chuyển ngay bộ phận của Thành làm việc ra một chỗ khác thật xa nơi cơ quan đang đóng, lấy cớ vì lý do an ninh. Sau khi chuyển xong độ một tuần lễ thì ta để cho Vân Anh vào. Đồng chí sẽ đến chỗ Thành vừa đến đóng vai ... (Vũ Long nói nhỏ vào tai Trần Mai). Đồng chí đề nghị với cơ quan giáo dục đón tiếp Vân Anh thật tốt. Sau đó, kế hoạch cụ thể sẽ như thế này ... * * * Vừa bước chân ra khỏi dãy lán tập thể, Vân Anh kêu lên, ngạc nhiên như phát hiện ra một điều kỳ lạ : - Trời ơi, trăng đẹp quá. Cô đứng sững lại. Lê Mậu Thành đứng lại theo. Tráng đẹp thật. Trảng mười sáu vừa mới lên, tròn vành vạnh. Trời xanh ngắt, rộng mênh mông, những vì sao mờ đi nhấp nháy lảng ra xa. Ánh trảng phủ một màu sáng xanh huyền ảo lên cảnh vật như trong mơ. Bóng tối nấp vương vất trong các lùm cây càng làm tăng thêm vẻ nửa mộng, nửa thực. Mỗi lúc gió thổi qua các lùm cây, những chiếc lá xao động, run rẩy, ánh trăng ùa vào vờn nhau với bóng tối, rồi sau đó trăng lại bát ngát, bao la. Yân Anh nói : - Bao nhiêu năm sống ở thành phố, nhất là các thành phố châu Âu toàn ánh điện nê-ông, em chưa bao giờ được nhìn cảnh trăng sáng đẹp như thế này. Lê Mậu Thành đáp : - Với anh có lẽ quen rồi, không thấy đẹp như em. Anh chỉ thấy ở chiến khu này đêm nào không có trăng khổ lắm, đi lại phải mò mẫm. Những đêm có trăng, sinh hoạt được thuận lợi hơn nhiều. Hai người qua một khoảng đất trống, đi trên con đường dẫn ra ngoài cánh đồng mênh mang ánh trăng. Trăng vươn lên mái tóc, vai áo họ. Trăng vương lên mỗi bước đi của họ. Vân Anh đã viết đơn gởi ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Thừa Thiên xin vào vùng giải phóng thăm Lê Mậu Thành. Hằng ngày có nhiều người ở quê ngoại Vân Anh thuộc xã Nguyên Thủy lên Huế bán thực phẩm. Vân Anh nhờ bà dì ở xã lên chuyển hộ lá đơn ấy thông qua ủy ban hành chính kháng chiến huyện Hương Thủy đến ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh. Khi nhận được giấy phép do ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Thừa Thiên cấp, cũng do bà dì đưa lại, Vân Anh liền thay đổi áo, mặc một cái áo tím sẫm, một chiếc quần đen, tóc cặp sát mái đầu như hầu hết những phụ nữ lao động ở nội ngoại thành phố Huế theo bà dì về làng. Ở lại nhà bà dì một buổi chiều đợi lúc gà vào chuồng, cô mới lên đường theo một người du kích đến đón. Đường đi lên xuổng gập ghềnh, khúc khuỷu. Trời tối. Trong đời Vân Anh chưa bao giờ vất vả khó nhọc như thế. Nghĩ đến sắp được gặp Lê Mậu Thành, Vân Anh cố theo kịp người du kích dẫn đường. Người này thoăn thoắt bước đều, thỉnh thoảng đứng lại chờ cô. Vấp mấy cái suýt ngã, Vân Anh không dám bật lên tiếng xuýt xoa. Một tràng đạn liên thanh nghe như từ ven nội thành Huế vọng lại. Ánh pháo sáng run rẩy trên một cái dòn xa xa. Thỉnh thoảng đi gần tới một làng nào đó, hai người lại gặp một người du kích như từ trong bóng tối tách ra chặn lại hỏi giấy, rồi lại biến mất vào trong bóng tối. Một đoàn hơn chục người, có mang súng lặng lẽ như những cái bóng đi ngược lại phía Vân Anh và người du kích dẫn đường. Không có một tiếng chó sủa. Một nỗi lo sợ bâng quơ, một sự hồỉ hộp trước những điều mới lạ choán ngợp tâm hồn Vân Anh. Vào khoảng hơn ba giờ sáng, Vân Anh đến chiến khu Dương Hòa33. Cô gập các đồng chí công an ở trạm tiền tiêu. Sự tò mò kích thích Vân Anh cao độ. Đây là những người kháng chiến! Đây là những người Cộng sản. Đây là những người xuất quỷ nhập thần đã làm tan rã sự thống trị của người Pháp trên đát nầy. Đây là những người mà báo chí sách vở Pháp và nước ngoài, tùy theo quan điểm của người viết, mỗi người nói một cách khác nhau. Đây là những người mà cô coi là kẻ thù. Vân Anh chăm chú quan sát những người kháng chiến đầu tiên mà cô gặp. Họ đều mặc quần áo may bằng thứ vải si34. Người nào cũng sạm nắng gió nhưng họ luôn tươi cười. Cô hơi ngỡ ngàng ngạc nhiên. Các đồng chí công an đưa cô vào nghỉ tại nhà tiếp khách và báo tin cho Lê Mậu Thành biết. Khoảng 9 giờ sáng, Lé Mậu Thành ra đón Vân Anh. Họ gặp nhau trong phòng tiếp khách của trạm công an. Nói là phòng tiếp khách cho đúng nghĩa thôi chứ thật ra là một cái phòng nhỏ dựng bằng tre, lợp lá. Trên vách có treo một bức ảnh Hồ Chủ tịch. Đồ đạc giản dị nhưng sạch sẽ. Một bộ bàn ghé gỗ mộc trên có ám chén và phích nước. Vừa trông thấy Vân Anh, Lê Mậu Thành rất kinh ngạc kêu lên : - Trời ơi, em ! Vân Anh cũng nghẹn ngào : - Anh ! Cô ngắm Thành từ đầu đến chân. Cô thấy Thành gầy và đen đi nhiều so với hồi ở Huế nhưng rắn rỏi, nhanh nhẹn hơn trong bộ quần áo nâu sẫm, đi dép lốp như tất cả các cán bộ kháng chiến khác. Lê Mậu Thành đón Vân Anh về nơi cơ quan mình đóng. Những người trong cơ quan Thành đón Vân Anh với tháỉ độ nồng nhiệt. Mọi người trong cơ quan quí Vân Anh như người nhà của họ ra thăm. Họ nhất định bắt Thành phải nghỉ công tác ngày hôm đó để tiếp Vân Anh. Họ thu xếp chỗ nghỉ ngơi cho cô. Ai cũng lưu cô ở lại chơi mấy ngày. Tất cả những điều phỏng đoán của Vân Anh trước khi ra đây và những tính toán đối phó của Vân Anh đều bị lật nhào. Cô rơi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vân Anh trở nên bị động, lúng túng. Vân Anh lúng túng nhiều trong khi mọi người rất tự nhiên, hỏi thăm tình hình sức khoẻ gia đình Vân Anh. Vân Anh đã phải nói dối và một điều càng ngạc nhiên đối với Vân Anh là trước đây cô cứ tường cán bộ Việt Minh đều là những người vô học thì bây giờ Vân Anh thấy ngược lại, họ đều là những người biết khá sâu về mọi vấn đề. Trong đám người ấy, Lê Mậu Thành "của mình" không phải là người trí 33 Một chiến khu nổi tiếng nằm về phía tây Thừa Thiên có chợ và hàng quán. 34 Một loại vải nội hóa phổ biến trong vùng giải phóng Bình Trị Thiên và Liên Khu V thời chống Pháp. thức nổi bật lên như cô vẫn hình dung. Tất nhiên cô vẫn không bao giờ quên đây là những kẻ thù của cô, nhưng Vân Anh cảm thấy lo sợ, một nỗi lo sợ cô đơn của bất cứ ai đứng trước một kẻ thù vững vàng, mạnh mẽ hơn mình tưởng. Bữa cơm chiều hôm đó, vì có khách nên có thêm một bát canh cá. Ăn cơm xong, sau khi quây quần bên ấm nước chè, nói chuyện vui, mọi người kiếu từ về nơi mình làm việc, để Lê Mậu Thành và Vân Anh tự do nói chuyện. Hai người rời khỏi lán, đi chơi giữa lúc trăng đang lên. Suốt ngày, vì mới gặp nhau, vì hoàn cảnh khách quan không tiện, vì phải tiếp cán bộ trong cơ quan đến hỏi -thăm, hai người giữ ý chưa nói chuyện nhiều với nhau, tuy vẫn thấy có những điều muốn nói với nhau ngay. Bây giờ chỉ còn có vầng trăng với họ. Họ bước trong ánh trăng như trong một làn sương mờ. Lán cơ quan đã lùi xa về phía sau. Sự tĩnh mịch càng làm tăng thêm vẻ huyền ảo. Lê Mậu Thành có vẻ trầm ngâm trong khi Vân Anh không nén nổi sự hồi hộp. Có người thiếu nữ nào đi bên cạnh người yêu trong một đêm trăng mà không hồi hộp. - Chắc anh không ngờ em ra gặp anh phải không ? - Vân Anh hỏi. Thành gật đầu : - Anh cứ tưởng em vẫn còn ở bên Pháp. Anh không ngờ em đã về nước rồi, trong khi anh đã ở một trận tuyến khác. - Anh ạ. Khi tình yêu đã lên tiếng gọi thì người ta có thể đi đến chân trời góc biển tìm nhau. - Cảm ơn em. Anh sẽ xứng đáng với tình yêu của em. - Suốt thời gian em ở nước ngoài, em nhớ anh vô cùng. Em chỉ giận anh khi bỏ ra đây anh không nói gì cho em biết, thậm chí không cho em được gặp lần cuối cùng. - Em hiểu cho anh, lúc ấy anh đi vội quá. Có liên lạc anh phải lên đường ngay. Vả lại, việc anh đi theo kháng chiến, sợ em không đồng ý ... Anh xin lỗi em. Vân Anh im lặng. Cô đi sát vào Lê Mậu Thành. Trăng đã lên cao hơn. - Bây giờ thì em quên rồi - Vân Anh nói - Em quên hết những gì đã qua rồi. Bây giờ, em chỉ biết em đang ở bên anh. Khoảng cách về không gian và thời gian giữa hai chúng ta không còn nữa. Em vẫn yêu anh. Em muốn chung sống với anh. Cho nên vừa ở nước ngoài về, em đi tìm anh ngay. - Anh cũng rất yêu em. Nếu không được chung sống với em thì cuộc đời anh coi như đã hết. Nhưng em biết đấy, anh dang là người kháng chiến mà em thì chắc không thể ra ngoài này ở với anh được ... - Anh nói đúng. Em ra ngoài này ở thế nào được. Mọi cái ở đây đều không hợp với em. Từ cách sống đến nếp suy nghĩ, những người ở đây khác xa em. Chẳng lẽ em quên mối thù của gia đình em hay sao ? Anh Thành, anh hãy về Huế cùng em. Chúng ta yêu nhau, chúng ta đừng nên để tuổi trẻ chúng ta qua đi. Anh hãy về cùng em. Ở đây gian khổ lắm, anh gày đi nhiều quá. Anh hãy về cùng em. Chúng ta sẽ xây dựng gia đình. Chú em có thể bảo đảm cho anh, nếu anh muốn đi làm. Chắc chắn anh sẽ có một cương vị xứng đáng với tài năng của anh. Nếu anh không muốn ở trong nước, chúng ta đi ra nước ngoài, chúng ta sẽ sống trọn đời hạnh phúc. Lê Mậu Thành hơi cúi đầu xuống : - Em xui anh về thành theo Pháp ư. Không. Anh không thể trở về được. Trước sau Pháp sẽ thua. Anh rất yêu em nhưng anh không thể vì yêu em mà phản bội lý tưởng của anh. Nếu em yêu anh, em hãy có gắng đợi anh cho đến khi nào anh làm xong sự nghiệp. Vân Anh vội chớp mắt mau. Câu nói của Lê Mậu Thành gợi cô sực nhớ một điều gì. Cô ngước mắt nhìn Thành : - Anh có quen Phan Thúc Định không ? Lê Mậu Thành ngạc nhiên nhìn vào mắt Vân Anh thăm dò. Hắn chỉ thấy đôi mắt cô đọng ánh trăng long lanh. Hắn hỏi lại : - Nhưng tại sao tự nhiên em lại hỏi anh như thế ? - Em chợt nhớ ra. - Em nhớ ra cái gì ? - Lê Mậu Thành căn vặn. - Em chợt nhớ ra khi anh nói đến "làm xong sự nghiệp" Nhưng anh hãy trả lời em đi : Anh có quen Phan Thúc Định không đã ? Lê Mậu Thành cau mày, cố suy nghĩ : - Em hỏi để làm gì đã ? Vân Anh vừa nói;vừa nhìn Thành : - Trước khi ra đây, em có gặp Phan Thúc Định, Định nói có quen anh và nhắn em nói hộ với anh rằng : "Người bạn cũ của Thành, nhà ở bên núi Ngự Bình, có lời hỏi thăm và muốn biết anh Thành đã làm xong sự nghiệp lớn chưa". Nét mặt Lê Mậu Thành hiện rỏ nét vui vẻ : - À, à... Phan Thúc Định là bạn rất thân với anh. Thế bây giờ anh ấy ra sao ? Làm gì rồi ? - Anh ấy đã đậu tiến sĩ luật khoa, và cũng mới về nước. Hiện nay anh ấy chưa nhận một chức vụ gì của chính phủ Bảo Đại. Anh ấy nói còn tiếp tục đi nghiên cứu thêm luật pháp ở một số nước ... - Em về nói với anh Phan Thúc Định là anh cảm ơn anh ấy hãy còn nhớ đến anh. Em nói hộ thêm là "không bao giờ từ bỏ sự nghiệp anh đang theo đuổi cả. Sự nghiệp lớn nằm trong tay những người quyết tâm. Sự nghiệp lớn của anh sắp hoàn thành rồi". Anh sẽ đi theo kháng chiến đến cùng. 6. MỘT CÂU CHUYỆN TÌNH CỦA NGUỜI CÁN BỘ Lê Mậu Thành cầm một gói giấy nhỏ bước vào phòng làm việc của đồng chí Nguyễn Phong - Thủ trưởng cơ quan. Nghe tiếng gõ cửa, Nguyễn Phong đang hí hoáy ghi chép vội ngẩng lên. Thấy Thành, anh đứng dậy, niềm nở : - Mời anh vào, chị Vân Anh về rồi phải không ? Mời anh ngồi. Lê Mậu Thành gật đầu : - Vâng, cô ấy đi đêm hôm qua. Vì khuya không dám làm phiền anh, nên cô ấy nhờ tôi sáng nay chuyển đến anh lời cảm ơn anh và các anh, các chị trong cơ quan đã đón tiếp cô ấy niềm nở trong mấy ngày vừa qua. Vẫn giọng cởi mở, Nguyễn Phong nói : - Có gì đâu mà phải cảm ơn, anh cũng khách khí quá! Chiều hôm qua chị ấy cũng có đến gập tôi gởi lời chào trước. Tôi có nói chuyện với chị ấy và nhờ chị ấy chuyển hộ lời chúc sức khỏe của chúng tôi đến gia đình. Tôi cũng xin lỗi chị ấy vì hoàn cảnh kháng chiến còn đang gian khổ, khó khăn, chúng tôi lại bận quá, nên việc đón tiếp chị ấy thế nào cũng có điều sơ xuất. Lê Mậu Thành dè dặt : - Cô ấy thổ lộ chuyện gì với anh không ? - Chị ấy nói là rất sung sướng gặp được anh, thấy anh mạnh khỏe. Hồi ở nước ngoài, chị ấy thú thực không tưởng tượng nổi cuộc sống kháng chiến của chúng ta lạc quan như thế này. Nhiều điều làm chị ngạc nhiên. Chị ấy bảo rất tự hào vì anh đã đi theo kháng chiến. Thành hơi nhếch miệng cười : - Vâng, cô ấy cũng nói với tôi như vậy. Hắn đặt cái gói nhỏ trên góc bàn giấy của Nguyễn Phong móc túi lấy ra một bao thuốc lá Phi-líp, đưa cho anh : - Đây là quà cô ấy mang ra. Anh nhận cho cô ấy vui. Nguyễn Phong không cầm bao thuốc, nói : - Cảm ơn anh, tôi có nghiện đâu. Thỉnh thoảng vui với anh em thì tôi hút một điếu thôi. Anh giữ mà hút. Hôm trước chị Vân Anh cũng đã cho tôi mấy bao, tôi chia đều cho anh em cả. - Tôi hãy còn anh ạ. Đây là phần riêng của tôi để dành biếu anh. Nguyễn Phong đỡ lấy bao thuốc, nhẹ nhàng bóc một đầu bao, rút ra một điếu. - Tôi xin anh một điếu thế thôi, lấy cả bao không hút để mốc thì phí đi. Anh trao lại bao thuốc cho Thành. Không biết làm thế nào hơn, Thành đành phải nhận lại. Hắn mờ bọc giấy trên bàn : - Tôi thấy có bổn phận phải báo cáo với anh, Vân Anh đã mang ra làm quà cho tôi một số thứ. Ngoài thuốc lá, đường, sữa ra, cô ấy tặng tôi một chiếc đồng hồ Mô-va-đô, một đôi bút máy Pa-ke 51, một cái bật lửa Flam-ma-ri-ông. Tôi từ chối nhưng cô ấy không nghe. Tôi không muốn giấu cơ quan điều gì và xin mang nộp lại toàn bộ những vật ấy cho cơ quan. Anh nhận hộ. Nguyễn Phong chăm chú nghe. Cặp mắt anh thờ ơ nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, hộp bút máy, chiếc bật lửa sáng óng ánh trên tờ giấy Lê Mậu Thành vừa giở ra. Anh mỉm cười bảo Thành : - Không. Những vật này là của Vân Anh tặng anh, là thuộc quyền sở hữu của riêng anh, anh cứ việc giữ lấy mà dùng. Anh báo cáo lại chúng tôi biết thế này là tốt rồi. Lê Mậu Thành cũng cười : - Tôi thấy phải báo cáo đầy đủ với anh. Vì những đồ ăn, thức uống không sao, nhưng những đồ dùng loại này tôi không dám giữ, sợ một vài anh em nào đó trong cơ quan không hiểu lại thắc mắc. Nguyễn Phong gạt đi : - Không. Anh không phải lo gì điều ấy. Anh cứ giữ mà dùng. Anh em ở đây đều hiểu anh cả. - Vâng, tôi cũng biết anh em trong cơ quan của ta phần lớn là trí thức - Thành đưa đà theo câu nói của Nguyễn Phong. Có tiếng lao xao ở ngoài hè, ai hỏi và ai trả lời một câu gì đó, rồi một người ngoài ba mươi tuổi, tầm thước, da ngâm đen, mát sáng, mặc bộ quần áo nâu, đeo sắc-cốt hiện ra trước khung cửa làm việc của Nguyễn Phong. Thành gói mấy đồ vật của Vân Anh tặng vào tờ giấy, định đứng dậy, Nguyễn Phong giữ Thành lại : - Anh cứ ngồi chơi. Đây là Lê Quang, cán bộ Ủy ban về kiểm tra tình hình và bàn phương hướng phát triển các ngành trong khu vực của ta. Lê Quang bước vào với nụ cười cởi mở trên khuôn mặt nắng gió : - Xin lỗi, các anh đang nói chuyện gì riêng ? Nguyễn Phong nắm chặt tay Lê Quang rồi giơ tay giới thiệu Thành : - Chúng tôi nói chuyện xong rồi. Mời anh vào. Xin giới thiệu với anh : giáo sư Lê Mậu Thành, một trí thức nổi tiếng ở Huế trước đây. Lê Quang niềm nở bắt tay Thành : - Tỏi nghe tiếng anh đã lâu, hôm nay mới được gặp mặt. Tôi cũng là người sinh trưởng ở Huế. - Tôi cũng rất sung sướng được quen biết anh - Lê Mậu Thành đáp. - Hai anh ở cùng một thành phố, lại cùng họ Lê cả, có khi có họ hàng với nhau mà không biết đấy. Anh Quang sẽ ở lại công tác trong cơ quan ta vài ngày, Hay là trong thời gian ở đây, anh Quang sẽ ở cùng phòng với anh Thành cho vui. Đồng chí Đông, người ở cùng phòng với anh Thành, đi công tác hơn tuần nay chưa về. Quang gật đầu : - Nếu thế thì còn gì bằng nữa. Tôi có bạn để nói chuyện rồi. Tôi nhớ những kỷ niệm về Huế lắm. Tối hôm đó, cơ quan tổ chức nói chuyện thời sự. Mọi người trong cơ quan đều tập trung ở hội trường. Lê Quang không tham dự buổi nói chuyện đó, ở nhà làm việc. Chín giờ rưỡi, buổi nói chuyện kết thúc. Lê Mậu Thành về đến phòng vẫn thấy Quang một mình, một ngọn đèn, hí húi đọc và ghi chép. Liếc nhanh mặt trên đầu mấy tài liệu đánh máy Lê Quang đặt trước mặt, Thành thấy rõ có dấu chữ nhật đóng đỏ chói hai chữ "Tối mật". Làm như không để ý đến, Thành hỏi : - Anh chưa đi nghỉ ? Quang xếp những giấy tờ cẩn thận cho vào sắc-cốt, chậm rãi - Tôi thường quen làm việc khuya anh ạ. - Anh cứ tự nhiên. Quang treo sắc-cốt lên trên đầu giường. - Hôm nay đi nhiều tôi hơi mệt. Tôi có mang theo ít trà ngon, pha một ấm, vừa uống, vừa đợi anh đấy. Thành hưởng ứng : - Tôi cũng có ít thuốc lá ngon đặc biệt. Mọi tối, không có sinh hoạt, học hành gì, anh em cũng thường quây quần nhau quanh ấm trà nói chuyện. Thành đặt lên bàn bao thuốc lá Phi-líp. Quang ngạc nhiên : - Ở đâu ra thế này ? - Của người yêu cho - Thành đáp. Quang cầm phích đổ thêm nước vào ấm trà. - Chắc chị ấy ở nội thành gửi ra. - Không, cô ấy vừa mới ra thăm tôi. Quang rót nước trà ra chén : - Xin mừng anh. Chị ấy lại về ngay rồi à ? - Vâng, cô ấy vừa mới đi đêm qua. Quang nâng một chén nước đưa cho Thành : - Anh uống thử xem trà này có ngon không ? Tôi thích uổng trà từ hồi ông thân sinh còn sống, hay bắt tôi đứng hầu trà. Uống trà ngon và được đọc thơ hay là sở thích duy nhất của cụ ... Câu chuyện đưa hai người trở về những phong tục tập quán cổ của Huế, những món quà đặc biệt của chợ Đông Ba, những buổi chiều mùa hè hóng mát trên cầu Tràng Tiền, những tiếng hò buồn bã mênh mông chạy dài trên sông Hương, những bức tường thành cổ rêu phong đứng trầm tư, những con đường lấp loáng nắng, rì rào tiếng gió thở than trên vòm cây thông của các lăng tẩm, những buổi tan học đường phố chao đảo bởi những cái nón bài thơ và sáng rực màu tím áo dài của các cô nữ sinh trung học ... Lê Mậu Thành rất thích giọng nói về Huế say sưa chứng tỏ một tình cảm yêu mến đặc biệt đối với nơi mình sinh ra ấy của Lê Quang. Càng lúc, Thành càng thích Quang vì thấy Quang có một tâm hồn văn học, một trí thức về lịch sử khá sâu sắc mà Thành có thể nói chuyện tương đắc cả đêm không biết chán. Câu chuyện dẫn dần đến tình cảm riêng tư. Thành hỏi về gia đình Lê Quang và được biết Quang chưa lập gia đình. Trước khi đi theo kháng chiến, anh có yêu một cô gái thuộc dòng Tôn Thất. Hai người quen nhau từ hồi còn học trường Trung học. Kháng chiến bùng nổ, mỗi người di theo một con đường. - Cô ta là Công Tằng Tôn Nữ - Quang nói - tâm hồn rất lãng mạn, khi yêu nhau, chúng tôi tưởng không bao giờ có thể xa nhau được và chỉ cần sống với tình yêu thôi. Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra trước mắt tôi một chân trời mới. Tôi thấy có cái còn cao đẹp hơn, tôn quí hơn tình yêu rất nhiều. Đó là Tổ quốc, là dân tộc. Đang tuổi thanh niên, nhiệt tình hảng hái, tôi lao vào những hoạt động xã hội. Tất nhiên, chúng tôi ít có thời gian đi chơi, gập gỡ nhau. Điều ấy, làm cô ta không bằng lòng. Nhưng làm thế nào được ? Cách mạng vừa thành công, công việc bề bộn sôi nổi, việc gì cũng cần thiết, việc gì cũng quan trọng, việc gì cũng đòi hỏi phải làm ngay, ai có thể ngồi im được ? Muốn gần nhau luôn, chỉ có một cách là cô ta cũng phải lao vào công tác như tỏi. Tôi đã nghĩ đến điều đó. Anh bảo còn gì đẹp bằng đi hoạt động cùng có nhau, đi họp hành cũng có nhau. Nhưng tôi không thể nào đưa cô ta ra khỏi được cái nhà đầy đồ đồng, tủ chè, sập gụ khảm xà cừ với những tập quán phong kiến nặng nề, với ông bố và bà mẹ luôn luôn tự hào về dòng giống Tôn Thất của mình để tham gia những hoạt động xã hội dược. Những lúc gặp nhau, tôi sôi nổi kể lại những hoạt động của tôi và lứa bạn trẻ cùng tuổi cho cô ta nghe thì cảm thấy những điều ấy không hấp dẫn đối với cô ta. Dần dần, tôi phát hiện ra rằng : Nếu Cách mạng Tháng Tám mở ra cho tôi một cuộc sống mới say sưa, tự hào, đầy ý nghĩa thì đối với gia đình cô ta, với bản thân cô ta như có cái gì mát mát, sứt mẻ. Trong khi tôi sôi nổi thì cô ta dè dặt. Trong khi tôi muốn hát thật to ca ngợi độc lập tự do thì cô ta im lặng nghe ngóng. Đến ngày toàn quốc kháng chiến thì tôi lên đường đi theo kháng chiến, còn gia đình cô ta ờ lại Thành. Con đường đến đây chia làm hai. Gần đây tôi được tin cô ta lấy một viên sĩ quan ngự lâm của Bảo Đại và đã có con... Lê Mậu Thành im lặng nghe. Thấy Lê Quang ngừng lại, hắn hỏi : - Anh có buồn không ? Một nụ cười thoáng qua trên đôi môi Lê Quang : - Cái gì tan vỡ mà chẳng buồn, huống chi là chuyện tình yêu. Nhưng tôi cũng rút ra được một kết luận cho bản thân tôi, xin lỗi anh, hơi có vẻ triết lý một chút, là người ta chỉ có thể thực yêu nhau, thực sống với nhau có hạnh phúc được khi mà thế giới quan, nhân sinh quan hợp nhau. Tư tưởng đã không hợp nhau thì trước sau cũng sẽ tan vỡ. Câu chuyện riêng của Quang hình như tác động mạnh đến Lê Mậu Thành. Hắn trầm ngâm suy nghĩ rồi thong thả nói : - Cái kết luận của anh đúng đấy. Tôi cũng ờ trường hợp tương tự như anh. Bây giờ chưa tan vỡ, nhưng sợ sau này cũng tan vỡ mất. Hắn chậm rãi kể cho Quang nghe câu chuyện tình duyên giữa hắn với Vân Anh. Chuyện những ngày yêu nhau thơ mộng ở Huế. Chuyện Thành cương quyết gạt bỏ tình riêng, gạt bỏ cuộc đời danh vọng, xe hơi, nhà lầu đi theo kháng chiến. Chuyện Vân Anh được chú cho sang Pháp học vừa tốt nghiệp và đã ra chiến khu tìm Thành. - Cô ấy vẫn dẹp như xưa, vẫn yêu tôi như xưa - Thành nói - Phải có một tình yêu chung thủy lắm, cô ấy mới vượt dược tất cả cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ờ nước ngoài, mới vượt bao nhiêu khó khăn ra đây tìm gập tôi. Nhưng giá cô ấy ra đây để di theo kháng chiến cùng với tôi thì đáng quí biết bao nhiêu. Đằng này, không thế. Tôi thú thực riêng với anh điều này : cô ấy rủ tôi bỏ kháng chiến về nội thành sống với cô ấy. Cô ấy nói đến căn biệt thự xinh xắn bên bờ sông Hương, chiếc xe hơi du lịch kiểu mới cho hai vợ chồng, nói đến cái bục giảng dạy ở một trường Đại học nào đó với số lương hơn chục ngàn đồng. Những cái ấy tôi có cả rồi và tôi đã bỏ tất cả để đi theo kháng chiến. Những cái ấy không thể làm xóa mờ được lý tưởng tôi đã theo. Trước đây, ở Huế, đã sống giữa cảnh nhà cao, cửa rộng đầy đủ tiện nghi như thế, tôi có thấy sung sướng hạnh phúc đâu khi quanh tôi bọn cướp nước ngang nhiên dày xéo Tổ quốc tôi, đồng bào tôi đang vùng dậy đấu tranh. Cô ấy mang cho tôi nhiều quà, đồng hồ, bút máy... Nhưng tôi dửng dưng vì tôi bỏ những thứ quí gấp hàng ngàn vạn làn mấy cái đó lặt vặt đó để đi theo kháng chiến. Chẳng lẽ bây giờ tôi lại đi tham mấy thứ đó, coi chúng hơn nhân phẩm, danh dự của tôi ? Tôi có nói nhiều với Vân Anh. Cô ấy vẫn khăng khăng là không chịu được khổ; không thể theo tôi ra ngoài này sống được; lấy nhau, cô ấy muốn cuộc sổng của hai người phải đầy đủ về vật chất, sống đầy đủ tiện nghi và cuộc sống ấy chỉ có thể có ở trong nội thành. Cô ấy nói với tôi : "Chúng ta xa nhau lâu rồi. Tuổi trẻ của người ta chóng qua. Em chỉ muốn từ nay về sau, chúng ta sống hoàn toàn bên nhau, bao nhiêu thời gian chúng ta đều để dành cho nhau. Chúng ta phải được hưởng sung sướng trong tuổi trẻ. Bao nhiêu người ở nội thành nhưng tâm hồn vẫn hướng về kháng chiến thì sao ? Anh không muốn nhìn thấy bọn Pháp đốt phá đất nước thì chúng ta đi ra nước ngoài sống..." Lẽ Mậu Thành ngả người trên giường, bỏ lửng câu chuyện, kéo một hơi thuốc lá dài, mắt đăm đăm nhìn lên mái nhà, Quang hỏi : - Anh trả lời chị Vân Anh sao ? Thành ném mẩu thuốc lá còn khá dài ra cửa, đáp : - Tôi trả lời cô ấy : như thế là ngụy biện. Đã vào thành là theo địch rồi. Đi nước ngoài lúc này là trốn đấu tranh, trốn trách nhiệm đối với đất nước. Tôi không thể sống như thế được. Cuối cùng cô ấy giận dỗi bỏ về. Thành nói xong, im lặng, mắt nhìn bâng quơ lên mái nhà. Quang cũng im lặng như thông cảm với sự đấu tranh dữ dội, sự dằn vặt ghê gớm đang diễn ra trong tâm tư Thành. Tiếng con mối chặc lưỡi trên xà nhà nghe rõ mòn một. Lát sau, Thành thở dài: - Chưa ai, trong hai chúng tôi nói đến sự tan vỡ, mà tôi cảm thấy sự tan vỡ đã bắt đầu. Mỗi người đi theo một con đường, rồi mỗi người sẽ có một cuộc sống khác. Nhưng tôi không thể nghe theo cô ấy được. Tôi không thể phản bội lại lý tưởng của tôi, không thể phản bội lại Tổ quốc để mong sống lại cuộc sống sung sướng cá nhân. Chung quanh vắng lặng, không một tiếng động. Trời đã về khuya. Lê Quang bảo Thành : - Tôi chắc anh sẽ buồn một thời gian nhưng tôi tin rằng cũng như tôi, anh sẽ tìm thấy niềm an ủi lớn trong công tác, trong tập thể. Tuy vậy, chuyện riêng tư của anh cũng có điều khác tôi. Cô Công Tằng Tôn Nữ của tôi thì đi lấy chồng, có con, chắc quên hết chuyện cũ rồi; còn chị Vân Anh thì vẫn yêu anh, vẫn chờ đợi anh. Nếu chị ấy tìm ra gặp anh lần nữa, anh thử cố gắng thuyết phục xem... Khuya rồi, chúng ta tắt đèn đi nằm nhé. Thành như chợt nhớ ra : - Vâng, xin lỗi anh, tôi quên mất hôm nay anh đi nhiều đã mệt rồi. - Có gì đâu. Tôi cũng thích được nói chuyện với anh. Anh có tin tôi thì anh mới kể cho tôi nghe chứ. Mong sao được về công tác đây luôn để nói chuyện với anh. Thành ngồi dậy buông màn chiếc giường cá nhân của mình. Quang cũng tắt đèn, lên giường mình buông màn. Đêm đi rất nhẹ chân thong thả, sợ kinh động giấc ngủ mọi người. Ánh tráng cuối tuần bị mây che, làm cho nhợt nhạt, hắt qua song cửa sổ tre vào một thứ ánh sáng mờ mờ, ảo ảo. Càng về khuya, sự im lặng càng mênh mang, bao la, có lẽ đã quá hai giờ sáng. Tiếng thở của Lê Quang đều đều chứng tỏ anh đang ngủ say. Có tiếng động khẽ bên giường Lê Mậu Thành. Tiếng thở cùa Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành vén màn, đặt chân xuống đất. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành rón rén đứng dậy. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Nhưng từ trong màn, mắt Quang hơi hé ra nhìn như dán chặt vào cái bóng mờ mờ của Lê Mậu Thành và chiếc sắc-cốt treo đầu giường. Lê Mậu Thành xỏ chân vào dép, rón rén... mở cửa đi ra ngoài. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Mấy phút sau Thành từ bên ngoài vào. Tiếng cửa tre nhè nhẹ cót két. Tiếng chiếc then ngang lạch cạch, cũng nhè nhẹ. Mắt Quang hết sức tập trung theo dõi cái bóng mờ của Lê Mậu Thành. Nhưng cái bóng ấy rón rén đi về phía giường mình, chui vào trong màn, nằm xuống. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Đêm hoàn toàn yên tĩnh. * * * Người thanh niên tên Lê Quang đang ngồi trước mặt Vũ Long. Vũ Long mỉm cười : - Đồng chí Trần Mai, tiếp tục cho biết ý kiến đi chứ ? Trần Mai đưa máy bản báo cáo cho Vũ Long : - Đây là những báo cáo của cơ quan Lê Mậu Thành. Đồng chí bảo vệ cơ quan không phát hiện thấy ở hắn những điều gì khả nghi. Đồng chí Nguyễn Phong, thủ trưởng cơ quan nhận xét về tinh thần thái độ công tác của hắn tốt. Anh em trong cơ quan đều có cảm tình với hắn. Việc Vân Anh ra thăm, hắn có báo cáo đầy đủ với cơ quan. Vân Anh mang ra tặng những đồ vật gì, hắn đều báo cáo lại với đồng chí Nguyễn Phong và định nộp cho cơ quan. Qua tiếp xúc trực tiếp với hắn tôi thấy hắn tỏ ra phần nào là con người đứng đắn, có nhiều tình cảm, không tò mò gì về nội dung công việc của tôi, về những "tài liệu mật" tôi đọc. Thậm chí, việc Vân Anh rủ rê hắn về thành, việc ấy nói ra hoàn toàn không có lợi cho người yêu của hắn, hắn cũng không giấu giếm. Vũ Long cau mày, suy nghĩ. Anh gõ nhẹ cái bút chì trên mấy tờ giấy báo cáo. - Những vấn đề mà đồng chí vừa báo cáo đó chúng ta phải phân tích suy nghĩ thêm - Vũ Long nhận xét - Nhưng, tôi cân nhắc lại để đồng chí lưu ý, với một người như Lê Mậu Thành, một người đã tôn sùng Ngô Đình Diệm và đã có một quá trình như hắn, thì không cho phép chúng ta suy nghĩ một cách đơn giản. 7. SỐ ĐIỆN THOẠI 377 Phan Thúc Định đi dọc từ khách sạn về phía cầu Tràng Tiền. Buổi sáng, gió sông Hương nhè nhẹ thổi mát rượi. Sông Hương chia Huế ra làm hai khu rõ rệt. Bên kia là khu cung điện cũ của vua chúa phong kiến với những bức tường cao, những mái nhà cong có rồng chầu, phượng múa, những gác vọng lâu cổ kính. Đi vào khu thành cũ, người ta có cảm tưởng sống lùi lại hàng thế kỳ, thơ, vàng son đấy, nhưng nặng nề, tù túng. Những tòa cung điện, những bức tường thành rêu phong như đè trĩu mảnh đất xuống. Bèn này sông là những công trình hiện đại, những cơ quan cùa bọn Pháp xây dựng như khách sạn, nhà bưu điện, nhà băng, sở lục lộ, tòa sứ, viện dân biểu, và các trường học như trường Đồng Khánh, trường Khải Định35, trường Kỹ Nghệ vv... Nổi bật là một số đồn bốt, trại lính mới. Cầu Tràng Tiền nối liền hai khu với nhau. Phan Thúc Định nhìn những người qua cầu : người đi làm, người đi chợ, các cm nhỏ đi học. Phong cách chung của người Huế là ung dung, từ các bà mệ điếu thuốc lá phì phào trên môi, cắp rổ đi chợ, đến các cô nữ sinh mặc áo dài màu tím Huế cắp cặp đến trường. Không một ai lộ vẻ gì vội vã. Phan Thúc Định hít một hơi dài không khí trong sạch dịu ngọt buổi sáng vào lòng ngực, bồi hồi nhìn cái thành phố quen thuộc đã gắn bó với anh bao nhiêu kỷ niệm từ thời thơ ấu. Quen sống với cái không khí vội vã, tấp nập, khẩn trương, náo động những âm thanh của các thành phố châu Âu, châu Mỹ, lúc mới trở về, anh hơi ngỡ ngàng với không khí hơi trầm lặng của Huế - mặc dầu thuở nhỏ, anh đã sống ở dây - cái ngỡ ngàng ấy anh không có khi anh về Sài Gòn. Sài Gòn là một thành phố gần với những thành phố châu Âu. Cũng không khí vội vã, khẩn trương. Cũng những tiếng động ầm ĩ cả ngày cả đêm. Cũng những xe tắc-xi đi lại như những con thoi. Cũng những ngôi nhà nhiều tầng. Cũng những ánh đèn nê-ông và nhạc nhảy điên dại ở các khu ăn chơi. Tất nhiên có vẻ lộn xộn hơn, nhiều nét lam lũ hơn. Không khí hơi trầm lặng - với con người, với tiếng nói nhẹ, dáng đi khoan thai đến cảnh sinh hoạt cũng mang nhiều nét cũ của dân tộc - anh chỉ tìm thấy ở Huế. Cái ngỡ ngàng của anh mất đi nhanh chóng. Chỉ mấy ngày sau, anh cảm thấy tất cả tình cảm thân thuộc, sâu sắc đối với Huế trong con người anh trỗi dậy. Đến cầu Tràng Tiền, anh ngừng lại. Anh ngắm trìu mến chiếc cầu sắt bắc qua dòng sông Hương êm đềm. Chiếc cầu là hình ảnh của Huế trong lòng bất cứ người Huế nào phải xa nơi sinh trưởng của mình như hình ảnh Tháp Rùa trong lòng người Hà Nội, hình ảnh chợ Bến Thành trong lòng người Sài Gòn. Bao nhiêu chiếc cầu đẹp đẽ, to lớn khác anh đã nhìn thấy trên quãng đường phiêu lưu của anh vẫn không xóa mờ được hình ảnh chiếc cầu này. Vì chiếc cầu này là chiếc cầu quê hương. Hai bên bờ sông Hương lác đác có những con đò nằm ngủ muộn, sau một đêm biến thành những "hộp đêm nổi" đồng lõa với bóng tối phủ trên mặt sông. Đó là nỗi xót xa cho những con người của thành phố Huế. Phan Thúc Định nhìn các cô nữ sinh trung học đi ngang qua . Những chiếc nón bài thơ, những tà áo dài, những dáng đi thướt tha như đem lại cho cảnh Huế buổi sáng một sức sống tươi mát. Sức sống hiện trên những đôi mắt thông minh, những nụ cười duyên dáng của các cô. Qua câu chuyện ríu rít, thoáng nghe được, Phan Thúc Định thấy các cô đang nói về những truyền đơn kháng chiến mà bàn tay bí mật nào đó đã dán trên các đường phố đêm qua. Các cô nói những điều đó một cách say sưa và với niềm khâm phục thật sự. Phan Thúc Định mỉm cười. Bên trong cái vẻ trầm lặng bề ngoài của Huế, còn có một cuộc sống khác - một cuộc sống sôi sục như trong ruột một trái núi lửa chưa có dịp phụt tung ra ngoài. Tiếng động cơ rầm rầm làm Phan Thúc Định quay lại. Một đoàn xe nhà binh Pháp chạy về phía An Cựu. Mở đầu là máy xe thiết giáp chĩa lăm lăm trọng liên ra phía trước, xích sắt nghiến nặng nề, 35 Nay là trường Quốc Học để lại mặt đường nhựa những vết xước như dao băm. Theo sau là hơn hai chục chiếc xe vận tải GMC, chở đầy bọn lính Pháp đội mũ sắt, quần áo dã chiến, trang bị vũ khí đầy mình, mắt chúng như mắt thú dại. Cuối cùng là mấy chiếc háp trắc lừ lừ vươn nòng pháo ra phía trước, ngất nghểu chiếc cần thông tin dài ngoằng, bụi cuốn theo mù mịt. Người đi đường dừng lại nhìn bọn chúng, nhưng đều im lặng. Một sự im lặng khó hiểu. Phan Thúc Định đi thẳng đến nhà bưu điện. Anh trả tiền rồi vào buồng thuê điện thoại (ở khách sạn anh trú cũng có điện thoại nhưng anh không muốn dùng). Khi có một mình ở trong buồng điện thoại, anh gọi sổ 377. Anh hỏi bằng tiếng Pháp : - A lô. Có phải bàn giấy hãng "Tháp Quốc Hàng Không" không? Tiếng một người phụ nữ Pháp ở bên kia đầu dây : - Vâng, tôi nghe đây. - Xin vui lòng cho tôi gặp ông phụ trách chi nhánh của hãng. - Ông đợi một chút nhé. Im lặng. Phan Thúc Định cầm ổng nghe chờ. Hai phút sau, trong ống nghe có tiếng một người Pháp hỏi : - A lô, ai đấy ? - Có phải ông Rơ-nê đấy không ? - Vâng, tôi đây. - Chào ông. Tôi là Phan Thúc Định. - A ... chào ông. - Tôi xin báo để ông biết tôi chưa sử dụng được chiếc vé khứ hồi về Sài Gòn. Khi nào xong việc, tôi sẽ gọi dây nói báo ông chuẩn bị chỗ cho tôi về Pháp ngay nhé ! - Vâng, có thế thôi ư ? Ông có căn dặn gì thêm không ? - Vâng, có thế thôi. Xin cảm ơn ông và chào ông. - Xin chào ông và chúc ông may mắn. Phan Thúc Định rời nhà bưu điện. Anh quan sát một lượt những người xung quanh rồi lững thững đi qua nhà thờ Sainte Marie, xuôi xuống phía cầu An Cựu. Đến một biệt thự hai tầng, có hàng rào sắt sơn đỏ lại có tôn che kín chung quanh, anh bấm chuông. Một người đày tớ gái mở cửa. Lúc ấy, anh mới nhìn thấy Cao Xuân Đáng đang đứng trên sân sỏi thọc tay và0 hai túi quần, nói chuyện với một gã mặc quân phục rất thẳng nếp, vai đeo gạch vàng. Hai gã nhìn ra. Phan Thúc Định gật đầu chào, rồi hỏi người đày tớ : - Cho tôi hỏi cô Vân Anh có ở nhà không ? Người đầy tớ chưa kịp trả lời thì Cao Xuân Đăng đã nói vọng ra : - Chào anh Định. Có phải anh hỏi cháu Vân Anh không? Cháu đi vắng chưa về. Mời anh vào chơi đã. Phan Thúc Định bước vào. Chiếc cổng sắt khép lại. Cao Xuân Đáng chìa tay bắt tay anh và giới thiệu : - Đây là trung úy Thiệu, một người bạn của tôi. Đây là anh Phan Thúc Định, bạn của cháu Vân Anh, tiến sĩ luật ở pháp về. Định và gã trung úy bắt tay nhau. Đó là một gã ngoài ba mươi tuổi, mặt nhỏ và nhẵn nhụi, tóc đen mượt ốp vào hai bên sọ, mắt bé có vẻ gian xảo, thâm hiểm. Cao Xuân Đáng giơ tay: - Xin mời hai anh vào trong nhà chơi. Phan Thúc Định hỏi : - Tôi có làm phiền gì hai ông không ? - Không. Chúng tôi đang nói chuyện thời thế. Không có chuyện gì riêng tư đâu. Vẫn cái phòng khách bày toàn đồ đạc cổ kính mà Phan Thúc Định đã nói chuyện với Vân Anh ở đây một lần. Cao Xuân Đáng bảo người đầy tớ gái pha trà. Ba người ngồi xuống ghế sa-lông. Tên trung úy hỏi: - Anh Đáng có biét "maitre”36 Phúc Sơn không ? Người xem tướng và bói bài tây nổi tiếng từ hai mươi năm nay ấy mà. Hôm trước ghé qua Sài Gòn, vợ chồng tôi có nhờ lão coi tướng dùm. - Hắn bảo anh sao ? - Chà chà, thằng cha nói giỏi thật. Tên trung úy giơ bàn tay trắng trẻo ra trước mặt mọi người. - Hắn coi tướng tay kết hợp với tướng mặt, tính tôi năm trăm đồng. Vợ tôi mất năm trăm đồng nữa là một ngàn. Mất một ngàn cũng đáng. Hắn nói rất đúng. Hắn bảo xưa nay số tôi rất an nhàn, có quý nhân phù trợ. Đúng vậy. Anh xem bao nhiêu lần chúng nó định đẩy tôi ra trận mà tôi cứ ngồi đàng hoàng chỗ tốt nhất trong cái đệ nhị quân khu này. Các vị tướng Pháp đều quí hóa, yêu mến tôi. Trước đây, tướng Sa-lăng định giúp tôi vào quốc tịch Pháp. "Ma-phăm"37 cứ xui tôi nhận lời ngay. Tôi nghĩ kể ra vào quốc tịch Pháp cũng có nhiều cái lợi, trước hết là người Pháp sẽ tín nhiệm hơn, nhưng sau nghĩ mình còn là sĩ quan trong quân đội quốc gia thì chưa nên vào vội. Mình phải khôn khéo, tính sâu hơn đàn bà chứ. Cao Xuân Đáng mời trà. Tên trung úy vẫn say sưa ngắm bàn tay của mình và nói : - Phúc Sơn nói về tương lai của tôi mà tôi giật mình. Mới đầu, hắn tưởng hắn lầm không dám nói ra ngay, về sau, hắn cứ chặc chậc lưỡi, dùng thước đo đi tính lại trên bàn tay của tôi, gặng mãi hắn mới nói số tôi về sau nay giàu sang không biết thế nào mà kể hết, uy danh lừng lẫy. Không hiểu có nên tin hắn không, nhưng về quá khứ hắn nói rất đúng. Vợ tôi cũng rất phục hắn. Sau khi coi tướng cho vợ tôi rồi, hắn lại khẳng định lời tiên đoán của hắn về hậu vận của tôi và lời đoán về hậu vận của vợ tôi cũng rất phù hợp. Hắn khoe với tôi là trước đây hắn đã từng coi tướng cho cả quốc trưởng Bảo Đại, cả toàn quyền Brê-vi-ề và được hậu thưởng rất nhiều. Tên trung úy có vẻ không thích uống trà, chỉ nhón mứt sen ăn, cũng như có vẻ không thích nói chuyện gì khác, chỉ thích nói về mình : - Hắn có nói nhỏ với tôi một điều mà tôi suy nghĩ mãi. Hắn bảo lần này thì quí nhân phù trợ tôi không phải từ phương Tây lại mà từ một phương trời xa hơn nữa đến. Khi gặp quí nhân thì phải biết lợi dụng ngay kèo dịp may nhiều khi chỉ đến với người ta một lần thôi. Hắn có xin tôi ngày sinh tháng đẻ để lấy một lá số tử vi thì rõ ràng hơn và hẹn lần sau nếu tôi đến một mình, hắn có thể nói nhiều điều chi tiết hơn. Mất với hắn ngàn rưỡi đồng một lá số tử vi nữa. Cao Xuân Đáng đưa đẩy : - Có điều chắc chắn là : Với cái tài của anh, tôi tin rằng anh sẽ còn được thăng cấp nhiều. 36 "maitre" “Thày" Một số bọn coi tay. coi bói tự xưng là “thày" để dễ bịp 37 Ma Femme : Nhà tôi. Tên trung úy cười tự mãn : - Thời thế nay, người Pháp đang cần đến bọn mình. Anh xem đấy. khối thằng cha vô học chỉ là lính khố đỏ, cai đội khố xanh như mình bây giờ đã lên cấp tá, cấp tướng. Cao Xuân Đáng rót thêm trà vào chén của Phan Thúc Định: - Nhưng thời thế gần đây tôi lo lắm. Mấy mũi tấn công của tướng Na-va vào vùng địch đã không... thành công. Bọn lính đào ngũ nhiều lắm phải không ? Tên trung úy nhún vai : - Ồ, bao giờ chúng tôi chẳng đánh xong rồi lại rút. Những địa điểm nào không có lợi về chiến lược thì giữ làm gì. Còn bọn lính đào ngũ bao nhiêu thì bất bọn khác thay vào. Chi càng giàu cho bọn O. D38 thôi - À, hôm nọ có một phái đoàn quân sự Hoa Kỳ đến thăm bộ tham mưu đệ nhị quân khu chúng tôi, có lộ vẻ ngạc nhiên hỏi chúng tôi tại sao đi toàn xe "díp" cũ, vì họ giúp cho người Pháp toàn xe mới cả. Chúng tôi trả lời không biết... Mấy ngày sau thấy người Pháp cho thêm năm xe "díp" mới nguyên. Thấy câu chuyện như hết chỗ để khoe về cái tôi rồi tên trung úy đứng dậy vuốt cái đàu mượt, cầm lấy cái mũ bình thiên có gắn huy hiệu hai con rồng châu vào một miếng ba vạch, đứng dậy : - Thôi, xin phép, tôi phải về xem việc giải quyết cho mấy đứa cháu vào học trường Đà Lạt xong chưa. Hắn chìa tay bắt tay Cao Xuân Đáng và Phan Thúc Định. - Au revoir39. Cao Xuân Đáng tiễn hắn ra đến cửa. Lúc quay vào, Đáng nói như thanh minh với Phan Thúc Định: - Trung úy Nguyễn Văn Thiệu này là người nhiều thủ đoạn thâm hiểm lắm. Anh nghe nói chuyện thì biết tính nết anh ta đấy. Bọn sĩ quan quốc gia đều như thế cả. Rồi Cao Xuân Đáng nói sang chuyện khác : -Tôi sốt ruột về cháu Vân Anh quá. Cháu bảo đi chơi với mấy người bạn gái ở Đà Nẵng, hẹn hôm nay về mà chưa thấy về. Nếu mai chưa thấy cháu về, tôi phải đánh điện vào anh bạn quen ở Đà Nẵng nhờ anh ta hỏi hộ xem. Phan Thúc Định lịch sự : - Chắc Vân Anh vui bạn chưa kịp về. Ông cứ an tâm, vì Đà Nẵng là vùng an toàn. Cao Xuân Đáng lắc đầu : - Anh mới về nước chưa hiểu tình hình đấy. Có vùng nào là an toàn đâu. Ban ngày là quốc gia, ban đêm là Việt Minh. Ngay giữa những vùng người Pháp coi là an ninh tuyệt đối. Việt Minh vẫn hoạt động nhiều lúc công khai. Nguy hiểm cho chúng ta là dân lại che chở giúp đỡ họ. Đáng đưa thuốc lá mời Phan Thúc Định, hỏi : - Rất nhiều người tính đến chuyện rút ra nước ngoài. Theo ý anh, tôi có nên sang Pháp không ? Anh ở bên ấy về anh thấy bên ấy thế nào ? Có thể sống yên ổn làm ăn được không ? 38 O. D chữ tắt của tiếng Pháp "Otticier de détail" tức là sĩ quan hậu cần. 39 ô - rơ - voa : hẹn gặp lại Phan Thúc Định châm điếu thuốc lá đáp : - Thưa ông, suốt thời gian ở Pháp tôi bận học nên không chú ý gì đến chính trị cả. Cao Xuân Đảng nói như với chính mình : - Bọn họ có tiền, có quyền nên dễ hơn mình anh ạ. Ông Nguyễn Đệ, Đổng lý văn phòng của Quốc trưởng đã góp cổ phần với dệt Dormeuil, lại có cổ phần ở hãng dầu xăng. Ổng Phan Văn Giáo, thủ hiến Trung Phần nay thì mua rất nhiều cổ phần của hãng rượu Martini, lại khối tiền gởi nhà băng Pháp. Ai cũng vơ cho thật nhanh để chuẩn bị đường rút cả rồi. Tôi thì mới làm việc được ít lâu, phải thù tạc chạy chọt nhiều, dành dụm mãi mới mua được cái biệt thự này và cái xe hơi. Bây giờ chẳng lẽ lại bỏ đi. Sang bên ấy, mình là người trắng tay thì sống ra làm sao ? Thực khó nghĩ quá. Hắn ghé cái mặt bè bè, phì nộn vào sát Phan Thúc Định đến nỗi cả mùi sáp bóng bôi đầu cũng xộc vào mũi anh, hỏi nhỏ : - Nghe cháu Vân Anh nói : anh cũng có qua Mỹ một thời gian phải không ? Phan Thúc Định nhìn thẳng vào mắt hắn : - Vâng. Tôi có sang đó trong một chuyến du lịch. Giọng hắn càng nhỏ dần : - Tôi hỏi thực anh nhé : anh có gặp cụ Ngô không ? Phan Thúc Định tỏ vẻ ngạc nhiên : - Xin lỗi ông, cụ nào ạ ? - Cụ Thượng Ngô Đình Diệm ấy mà. Nghe nói cụ ấy đang ở Mỹ và người Mỹ chuẩn bị đưa cụ ấy về nước. Anh sang Mỹ mà không biết gì ư ? Phan Thúc Định lắc dầu : - Không, tôi không được biết gì ạ. Vì đi du lịch nên tôi chỉ thăm phong cảnh mấy thành phố lớn. Vả lại, như tôi đã nói với ông, tôi mải học nên chẳng còn bụng dạ nào để ý đến chính trị cả. Cao Xuân Đáng thất vọng nhìn vồ phía chiếc lọ cổ để góc phòng : - Rất tiếc anh không biết mà tìm gặp cụ Ngô xem ý kiến cụ ấy ra sao. Tôi cảm thấy thời thế sắp đổi thay. Anh bảo anh không biết gì đến chính trị, ấy là lúc di học. Chứ bây giờ đã học xong rồi, ra làm việc thì muốn hay không, anh cũng phải để ý đến. Vì nó liên quan ngay đến chỗ đứng của anh, chức vị của anh, nguồn sống của anh, đồng tiền anh kiếm được. Tôi nhiều tuổi hơn anh, tôi khuyên anh : Sổng phải biết theo thời thế, anh ạ. Cây gỗ cứng thường hay gãy. Cây mềm gió chiều nào, uốn theo chiều ấy thì chẳng bao giờ gãy cả. - Xin cám ơn ông... - Dạo này ờ Huế nhiều người nhắc đến cụ Ngô. Có người đã bí mật đến thăm cậu Cẩn40 rồi. Thiên hạ lắm anh bợm thật. - Thưa ông, họ nhắc đến cụ Ngô như thế nào ? Cao Xuân Đăng quay lại nhìn Phan Thúc Định : - Sao anh vừa nói anh không quan tâm gì đến chính trị ? Phan Thúc Định thản nhiên : 40 Chỉ Ngô Đình Cẩn, em ruột Ngô Đình Diệm. - Ông chẳng vừa nói : tôi sắp ra làm việc, cần phải hiểu biết thời thế là gì. Tôi nghe lời khuyên của ông muốn hỏi để biết đôi chút thôi; hướng sau này của tôi là mở phòng luật sư hoặc đi dạy học chứ không muốn làm một công chức. Cao Xuân Đáng cười : - Tất nhiên họ sẵn sàng theo cụ Ngô nếu cụ Ngô vẫn giữ nguyên được cho họ những cái gì họ có được trong mấy năm nay. Uống cạn chén trà, Phan Thúc Định đứng dậy cáo từ : - Xin phép ông, tôi về. Hôm khác, mong lại đến hầu chuyện ông. Nếu Vân Anh về, ông làm ơn nói hộ tôi đến thăm và Vân Anh gọi điện báo cho tôi biết. Tôi ở khách sạn Thuận Hóa, số điện thoại 1203. Cao Xuân Đáng tiễn Phan Thúc Định ra đến cổng sắt, chìa tay ra : - Tôi sẽ nói lại với cháu. Lúc nào rảnh rỗi, mời anh lại chơi. Tôi cũng đang mong cháu. Phan Thúc Định lững thững đi về phía khách sạn mình ở. Anh nghĩ miên man; bọn này đã cảm thấy sự thất bại của Pháp đang đi tìm quan thầy mới. Nhưng từ đâu đã tung ra những tin đồn về Ngô Đình Diệm ? Tại sao những tin đồn ấy loan ra nhanh vậy ! Việc về của Ngô Đình Diệm đã được chuẩn bị như thế nào ? Anh không biết rằng trong một khoang thuyền đậu bên bờ sông An Cựu, có một người đàn ông đeo kính đen nhìn theo anh. Anh đi được một quãng, người ấy cũng rời thuyên, lên bờ. Trên thuyền chỉ còn một gã Hoa Kiều thản nhiên bắc bếp nấu cơm... Huế vẫn trầm lặng, vẫn thơ, vẫn mộng... * * * Khi nhận được điện thoại của Vân Anh báo tin, Phan Thúc Định lại đến ngay nhà Cao Xuân Đăng. Vân Anh đã đợi anh ở phòng tiếp khách. Cô mặc quần áo lụa trắng. Thân hình trau chuốt như vừa tắm gội xong, nhưng cặp mắt có quầng và dáng điệu mệt mỏi của người mất ngủ. Cô chìa bàn tay mềm mại cho anh : - Chắc anh mong em lắm. Phan Thúc Định đỡ lấy bàn tay đã được tô màu lại từng móng rất cầu kỳ : - Ở Huế này chỉ có em là người quen biết cũ nến em đi vắng cũng nhớ. Em đi về có khỏe không ? Vân Anh uể oải : - Không được khỏe, anh ạ. Có nhiều cái ngoài sức chịu đựng của em. - Sao vậy ? - Ăn uống kham khổ, đi bộ nhiều, luôn luôn lo lắng, suy nghĩ, anh bảo em khỏe làm sao được. - Em kể chuyện vùng Việt Minh cho anh nghe với. Anh không hình dung được ở ngoài đó họ sống ra sao. Vân Anh đưa tay hát tóc xòa xuống một bên mắt, lắc đầu: - Em chẳng còn lòng dạ nào kể chuyện cho anh nghe bây giờ. Tâm trí em đang rối loạn... Phan Thúc Định nhìn Vân Anh dò hỏi : - Chắc vì chuyện Lê Mậu Thành ? Em có gặp Thành không? Vân Anh thở dài : - Anh ấy bây giờ đổi khác. Việt Minh đã nhuộm đỏ anh ấy rồi. Em thấy anh ấy gầy và đen đi nhiều quá ! Anh ấy khăng khảng không chịu về. Tình yêu của em không lay chuyển được quyết tâm của anh ấy. Giữa em và anh Thành đã có một hố sâu ngăn cách. Em và anh Thành đã đi theo hai con dường khác nhau rồi. Thế là không hàn gắn nổi. Thế là tan vỡ. Anh khuyên em nên làm gì bây giờ ? Phan Thúc Định an ủi. - Em hãy cố gắng chờ đợi. - Khi người ta đã khác nhau về lý tưởng, thì làm gì còn hy vọng gần nhau trong cuộc sống ? Đám mây buồn cố hữu lại che rợp hàng mi dài và đẹp của Vân Anh. Một lát sau, cô ta chợt nhớ ra : - Xin lỗi anh, em mải nói chuyện riêng của em nên quên mất chuyện của anh. Em có chuyển lời hỏi thăm của anh đến anh Thành. Anh ấy cảm ơn anh và nhờ em nói hộ với anh là anh ấy "không bao giờ từ bỏ sự nghiệp anh ấy đang theo đuổi cả". Anh ấy nói thêm : "Sự nghiệp lớn nằm trong tay những người quyết tâm và sự nghiệp lớn của anh ấy sắp hoàn thành rồi". Đầu óc Phan Thúc Định ghi nhớ rất nhanh những lời Vân Anh nói, anh mỉm cười : - Anh Thành thực là một người kiên định. Chắc xong sự nghiệp rồi anh ấy sẽ tìm em. - Nhưng anh quên rằng sự nghiệp của anh áy không có chỗ dung em. * * * Chiều hôm ấy, Phan Thúc Định sang bên kia cầu vào mấy hiệu tạp hóa mua vài thứ lặt vặt, rồi đến một hiên sách nằm giữa phố Trần Hưng Đạo. Lúc đó, hiệu sách không có khách. Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, tóc lốm đốm bạc, đeo kính trắng đang ngồi mải mê đọc sách. Phan Thúc Định đứng nhìn những sách bày một lượt, rồi hỏi : - Ngoài những sách bày đây, ông còn những tiểu thuyết cũ bán không ? Người chủ hiệu đạt quyển sách đang đọc xuống, hỏi lại Phan Thúc Định : - Ỏng cần mua những loại tiểu thuyết nào ? Phan Thúc Định đáp : - Tôi muốn mua những tiếu thuyết lịch sử xuất bản thời kỳ 1930 đến 1945. Người chủ quán sách niềm nở. - Chúng tôi còn có tiểu thuyết tâm lý xã hội từ 1945 đến nay thôi. Néu ông cần chúng tôi sẵn sàng để lại. Hai người nhìn nhau cười. Phan Thúc Định chỉ mấy quyển sách bày trên giá, nhờ người chủ gói hộ. Lúc móc tiền ở ví trả, anh kẹp ở giữa hai tờ giấy bạc một tờ giấy mỏng anh đã viết sẵn, rồi chào người chủ quay ra. Người chủ sách im lặng nhìn theo anh. Sau đó, Phan Thúc Định trở về bưu điện gọi số điện thoại 377. - A lô, cho tôi gặp ông Rơ-nê. Lúc Rơ-nê ra cầm máy, Phan Thúc Định nói : - A lô, ông Rơ-nê đấy phải không ? Chào ông. Tôi là Phan Thúc Định đây. Xin báo ông biết, công việc tôi ở Huế xong rồi. Ngày mai ông giữ cho tôi một chỗ đi Sài Gòn và một chỗ đi Pháp trong chuyến bay sắp tới của hãng nhé. Xin cám ơn ông.... 8. SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT NỘI CÁC Cái gì phải xảy ra đã xảy ra. Ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954 quân đội viễn chinh Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ. Như một tiếng nổ lớn có sức chấn động dây chuyên, chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm lịch sử Việt Nam, cũng như lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới chuyển sang một trang mới. Ở hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề Đông Dương, bọn thực dân Pháp chuẩn bị chấp nhận một sự thất bại hoàn toàn. Chủ nghĩa thực dân cũ chuẩn bị chấp nhận sự cáo chung của vai trò ăn cướp, giết người dã man, đẫm máu đã kéo dài trên sân khấu chính trị thế giới. Nhưng chủ nghĩa thực dân mới giấu bên trong bộ áo sặc sỡ của mình những bom nguyên tử và máy bay phản lực, những kế hoạch thống trị và hủy diệt nhân loại, lồng lộn ra trò, ở châu Á thì đeo chiếc mặt nạ da vàng, ở châu Phi thì đeo chiếc mặt nạ da đen... Giữa lúc bọn thực dân Pháp và lũ ngụy quân, ngụy quyền tay sai tuyệt vọng, bối rối, hoang mang, gục xuống tưởng không thể nào đứng dậy được thì bọn quan chức và nhân viên Mỹ thi nhau bay đến Sài Gòn, Hà Nội. Có người của C.I.A, người của D.I.A41... Trong đó, có đại tá Lên-đên, có "giáo sư" Phi sin, thiếu tá Tô-ma, nhà báo Xôn-xăng-đơ42 Trong khi Phô-stơ Đa-lét, bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ bỏ hội nghị Giơ-ne-vơ đi gặp thủ tướng Anh I-dơn, Thủ tướng Pháp La-ni-en và Măng đét Phơ-răng để vận động chống lại việc công nhận chủ quyền của ba nước Đông Dương và kéo dài chiến tranh, để Mỹ đổ quân vào Việt Nam, thì ở Việt Nam, máy bay do phi công Mỹ lái tiếp tục ném bom dữ dội xuống các làng mạc, hạm đội 7 Mỹ tiến vào vịnh Bắc bộ. Bọn quan chức nhân viên Mỹ tới tấp sang "nghiên cứu về vấn đề Việt Nam", hết gặp tướng Na-va lại gặp Bảo Đại, hết gặp công khai những nhân vật công khai lại gặp bí mật những nhân vật bí mật. Những nhân vật bí mật này làm đủ nghề, từ công chức trong bộ máy ngụy quyền, sĩ quan ngụy quân đến bọn lý lịch bất hảo vẫn vỗ ngực là "lãnh tụ đảng phái quốc gia", từ bọn đội lốt thầy tu khoác áo chùng đen lẫn áo nâu, áo cà-sa vàng, đến bọn thầy bói, thầy tướng, từ một nhà buôn xuất nhập khẩu giàu có đến bọn du thủ, du thực đứng ở các bến xe. Chưa bao giờ Tòa đại sứ Mỹ và các phòng thông tin Mỹ, cơ quan viện trợ Mỹ ở Hà Nội, ở Huế, ở Sài Gòn bận tíu tít đến thế. Rồi những tin đồn úp úp, mở mở, hư hư, thực thực. Rồi những lời dụ dỗ, thăm dò, hứa hẹn, mặc cả. Cuối cùng, như các báo chí nước ngoài đưa tin, từ trong tay áo chú Sam thò ra một con nộm... Ngày 26 tháng 6 năm 1954, ở sân bay Tân Sơn Nhát diễn ra một cuộc đón tiếp kỳ lạ, nửa công khai, nửa bí mật, nửa chính thức, nửa không chính thức, nửa bình thường, nửa nghi thức như đón tiếp một nhân vật quan trọng. Bí mật, không chính thức, và bình thường vì cuộc đón tiếp này chỉ có riêng một số người biết, sân bay không có cờ quạt, khẩu hiệu, dàn nhạc, đội quân danh dự. Công khai, chính thức, nghi lễ vì không khí sân bay nghiêm trang, chờ đợi, nhiều cảnh sát, hiến binh canh gác, nhiều lính kín lởn vởn đi lại, một số nhà báo mang máy ảnh dén đưa tin. Người đi đón đều là những nhân vật quan trọng, tuy không phải là những kẻ cầm đầu bộ máy xâm lược của đế quốc thực dân và lũ ngụy quyền, ngụy quân nhưng đều là đại diện chính thức của những kẻ ấy. Người ta thấy đại diện của cao ủy Pháp ở Đông Dương đứng cạnh đại tá Mỹ Lên-sđên; đại diện cho Bảo Đại ở Sàì Gòn (Bảo Đại có hai văn phòng đại diện ở Hà Nội và Sài Gòn) đứng cạnh đại diện của đại sứ Mỹ tại Việt Nam; "nhà báo" Xôm-xăng-đơ đứng cạnh giám mục Ngô Đình Thục; thủ lĩnh Đại Việt đứng cạnh Tô - ma... Thái độ đám đi đón hoàn toàn khác nhau, người thì vênh vang đắc chí như "cờ đã đến tay", kẻ thì buồn rầu miễn cưỡng như bị cướp mất miếng ăn; người thì hớn hở tràn trề hy vọng như nắm chắc ghế "tổng trưởng" trong tay; kẻ thì vẫn dò dặt, lấm lét mất trước mắt sau như phân vân không biết dã nên theo ỏng chủ mới hay chưa và liệu ông chủ cũ đối với mình thế nào... 41 Déíence Intelligence Agency, cơ quan phản gián của nước Mỹ 42 Soỉ Xanders, nhân viên CIA đội lốt nhà báo Một chiéc máy bay bổn động cơ của hãng hàng không "Trccdom Air Lines"43 từ từ hạ cánh xuống sân bay. Mội người im lặng chăm chứ nhìn lên khung cánh cửa máy bay. Cửa máy bay mở rộng. Cầu thang máy bay đẩy tới. Một người ngoài năm mươi tuổi mập lùn, mặt bừ bự, lông mày rậm, mắt tráng dã, bộ âu phục vải trắng, thắt cà-vạt đen, tay áo che đến nửa bàn tay, đôi chân ngắn trong ống quần rộng : Ngô Đình Diệm. Diệm hấp háy mắt trước ánh nắng chói chang của sân bay, cười nhăn nhó cả mặt, giơ một bàn tay lên chào những người ra đón. Đằng sau Diệm, một tên Mỹ chắc nịch như một võ sĩ, mặt cau có lầm lì : "giáo sư" Phi-sin. Rồi lần lượt đến Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phan Thúc Định xuống thang... Máy ảnh của mấy nhà báo giơ lên bấm. Ngô Đình Diệm bước nhanh đến chỗ đám người ra đón, bắt tay mọi người. Vừa bắt tay, Diệm vừa nghe giới thiệu về tên và chức vụ, nghề nghiệp từng người. Diệm dè dặt khi bắt tay mấy tên Pháp, vồ vập khi gặp lại bọn Mỹ mà Diệm đã từng quen biết, hân hoan khi gặp những người trong gia đình, nhìn ban ơn và hứa hẹn với bọn ngụy quyền, ngụy quân chạy theo chủ mới. Giám mục Ngô Đình Thục làm dấu ban phước lành cho Diệm. Mấy nhà báo xô đến định phỏng vấn. Ngô Đình Diệm cười bí mật. - Tôi tuyên bố bây giờ cũng còn hơi sớm. Các ông đợi cho 10 ngày nữa. Cả đám kéo nhau ra xe hơi đủ kiểu đậu ở cửa sân bay. Còn lại đám cảnh sát, lính kín ngơ ngác nhìn theo không hiểu ra sao cả. Vì chúng được lệnh theo dõi thái độ những người đi đón thì những người đi đón lại đểu là cấp to có thể sai phái được các "xếp" của chúng; chúng được lệnh theo dõi người được đón, thì người được đón lại là ngưòi mà các "xếp" của chúng phải chạy ra thật xa, không dám đến gần. Thực là khó hiểu. Ngay chiều hôm đó, trong tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn có cuộc họp giữa ba người: Cô-lin44, Lên-sđên và Ngô Đình Diệm. Rượu rót ra, hai cái cốc chạm vào cốc Ngô Đình Diệm. - Chúc mừng ông Diệm đã trở về xứ sở của ông. - Thế là chúng ta đã gặp nhau ở Sài Gòn. Ngô Đình Diệm gật dầu : - Xin cảm ơn các ông, xin cảm ơn các ông. Đó là nhờ sự giúp đỡ tận tình của các ông. Cô-lin chỉ về phía Lên-sđên : - Phải nói trước hết là sự cố gắng của đại tá Lên-sđên và cơ quan của ông ấy. Ngô Đình Diệm có vẻ áy náy : - Tôi cảm thấy người Pháp không hài lòng đối với việc về nước của tôi. Tôi thấy cần phải đề phòng người Pháp. Lên-sđên mỉm cười - Tất nhiên là như vậy, nhưng ông cứ yên tâm. Người Pháp đã thỏa thuận với chúng tôi, đã hứa với chúng tôi là hoàn toàn bảo đảm an ninh cho ông. Bọn tướng tá ở Đông Dương này còn lừng khừng nhưng mọi việc không phải quyết định ở đây mà đã quyết định ở Pa-ri và Oa-sinh-tơn rồi. Sau này, ta sẽ gạt nốt Pa-ri. Ngài ngoại trưởng Đa-lét đang hết sức nôn nóng, ngài có chỉ thị cho chúng tôi là tình 43 Một tổ chức ngụy trang của C.I.A 44 Cô - lin : J. Lawton Collin’s, đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam. hình rất cấp bách, trong bất kỳ tình huống nào, chúng ta phải bắt tay vào thực hiện kế hoạch của chúng ta. Ngô Đình Diệm không giấu nổi sự sung sướng : - Tôi cũng tán thành phải làm ngay... Cô-lin lắc đầu : - Chúng ta chưa có thể làm ngay mọi việc một lúc. Tôi nắm vững tình hình ở đây hơn các ông. Lên-sđên cương quyết : - Nhưng ngay bây giờ chúng ta phải thực hiện điểm một của kế hoạch. Người Pháp đã thỏa thuận với chúng ta rồi, chúng ta phải buộc người Pháp thi hành, không để người Pháp khất lần nữa : ngay trong tháng tới, chúng ta yêu cầu người Pháp phải giải tán chính phủ Bửu Lộc để ông Diệm đây lập một chính phủ mới. Chúng ta chưa yêu cầu truất phế Bảo Đại là chúng ta đã nhân nhượng rồi... Ngô Đình Diệm hằn học : - Trong kế hoạch, chúng ta phải truất phế cả Bảo Đại - Đúng. Lên-sđên đáp - Ta sẽ làm dần dần. Trước mắt hãy tạm để Bảo Đại đấy, nhưng chúng ta phải nắm lấy quyền hành trước khi hội nghị Giơ-ne-vơ đi đến một quyết định nào đó. Bất cứ một quyết định nào ở Giơ-ne-vơ chúng ta cũng chống lại vì đấy không phải là quyết định của Oa - sinh - tơn. Trong tháng tới, phải có một chính phủ do ông Diệm cầm đầu, nếu không, quốc hội sẽ không thông qua viện trợ. Đây là thông báo của ngài ngoại trưởng Đa-lét. Người Mỹ chịu 80% chiến phí cho người Pháp ở Đông Dương, không phải để mất không. Từ năm 1950 đến nay, chúng ta đã bỏ ra 2 tỷ đô la. - Tôi đề nghị chúng ta không nên để phí thời gian : nên bàn ngay vè việc tổ chức chính phủ cho ông Diệm, các chức vụ quan trọng khác trong chính quyền tương lai để ngày mai ông Diệm có thể tiếp xúc với những người đó. Ông Diệm cần nắm được những người ủng hộ ông từ bây giờ; ông có thể nói thẳng với họ, người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương và chúng tôi sẽ viện trợ tháng cho ông, trực tiếp giúp đỡ ông để ông tiếp tục cuộc chiến đấu chống Cộng sản trên bán đảo này... Giọng của Cô-lin trờ nên nghiêm trang : - Chúng ta hết sức khẩn trương nhưng cũng phải thận trọng. Trước đây tôi đã trao đổi với đại tá Lên-sđên về thành phần của một chính phủ quốc gia Việt Nam mới; hôm nay, tôi muốn nhắc lại với ông Diệm. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện điểm một kế hoạch, chúng ta cần mềm dẻo một chút. Chúng ta không thể và cũng không nên thay đổi ngay toàn bộ bộ máy cai trị của người Pháp đã tổ chức từ bao nhiêu năm nay. Vì như vậy, chúng ta sẽ tạo nên một sự chống đối rất bất lợi cho ông Diệm và cho người Mỹ chúng ta lúc này. Cho nên trừ những chức vụ quan trọng chủ chốt phải có người của chúng ta nắm giữ, còn chúng ta có thể sử dụng một số người cũ. Theo chỗ tôi tiếp xúc với bọn họ thì tôi biết, ta có thể "mua" được họ. Xin đề nghị đại tá Lên-sđên trình bày để ông Diệm rõ dự kiến mà tôi và đại tá đã thống nhát về thành phần chính phủ quốc gia tương lai do ông Diệm làm thủ tướng... Lên-sđên đi lại góc phòng, mở chiếc cặp da, lấy ra một tờ giấy có ghi tên một số người. Trong khi Ngô Đình Diệm đỡ lấy chăm chú xem thì Lên-sđên giải thích thêm : - Những người có tên trong danh sách này là những người mà C.I.A chúng tôi đã thẩm tra45. 45 Những người có tên trong bản danh sách là : Trần Văn Chương, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Của, Nguyễn Dương Đôn, Trần Văn Bạch, Phan Khắc Sửu. Phạm Hữu Chương, Nguyễn Tăng Nguyên. Trần Chánh Thành, Lê Quang Luật, Phạm Duy Khiêm, Nguyên Ngọc Thơ, Lê Ngọc Chấn, Bùi Văn Thinh, Nguyễn Văn Thoại, Tràn Hữu Phương. - Lúc này, tôi cần có một số người thân cận luôn ở bên tôi - Diệm nói. Lên-sđên đáp : - Cố vấn của ông là ông Ngô Đình Nhu, bí thư riêng của ông là Võ Văn Hải. Ngô Đình Diệm ngạc nhiên : - Sao lại Hải ? - Ổng không bằng lòng Võ Văn Hải ư ? Lên - sđên hỏi lại - Tôi biết người này rất tận tụy trung thành với ông. Anh của Hải là bạn đồng liêu cũ của ông. Bản thân anh ta đã từng tổ chức đảng "Phục quốc đồng minh” giúp ông trong những ngày ông còn ở Nhật Bản. Một tay chống Cộng có truyền thống. Ngô Đình Diệm lắc đầu : - Tôi không nghi ngờ gì Võ Văn Hải cả. Nhưng tôi muốn Phan Thúc Định làm bí thư riêng cho tôi. Tôi muốn một người tháo vát, thông minh, có tri thức. Lên-sđên chậm rãi : - Nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi chưa tin được Phan Thúc Định. - Có phải vì Định đã cộng tác với S.E.D.C.E không ? - Không, ngàn lần không phải thế, ông bạn thân mến. Chúng tôi đã nói với ông rằng : chúng tôi có thể mua được bát cứ tình báo viên nào của S.E.D.C.E ngay cả với viên chỉ huy của Định. Nhưng về Phan Thúc Định, chúng tôi chưa nắm được anh ta. Dù sao đi nữa, anh ta vẫn không phải là người của chúng tôi. Đối với bất cứ một người nào, khi chúng tôi cần tìm hiểu về người ấy, thì chỉ một thời gian ngắn, chúng tôi có thể nắm được tất cả gốc tích họ hàng, bạn bè, thói quen, hoạt động, thậm chí đến cả những sở thích nhỏ của người ấy như thích uống rượu gì, thích xem loại sách nào... Nhưng riêng đối với Định, chúng tôi vẫn thấy còn những dấu hỏi. - Về gốc tích, họ hàng anh ta, tôi biết rõ - Diệm nói. - Đúng ! Lên-sđên gảt đầu. - Về bản thân anh ta, chúng ta vẫn tiếp xúc. - Đúng ! - Chính ông đã hỏi những nhân viên C.I.A cài trong S.E.D.C.E về anh ta. - Đúng ! - Họ nói sao ? - Ông còn lạ gì tổ chức tình báo nữa. Mỗi nhân viên tình báo hoạt động một lĩnh vực, trong đường dây khác nhau : điều đó hoàn toàn phải bí mật, tuy cùng là nhân viên của S.E.D.C.E nhưng nhiều khi cũng không biết nhau, làm thế nào mà nắm được rõ về mọi hoạt động của nhau. Họ chỉ báo cáo cho tôi biết là Định được S.E.D.C.E tín nhiệm, còn những chi tiết khác thì không ngoài những điều ta đã biết rồi : gia đình thế nào, sang Pháp học ra sao. - Ông không thể liên lạc thẳng với những người chỉ huy S.E.D.C.E để hỏi cho rõ ? Dù sao họ cũng là đồng minh của chúng ta. Lên-sđên phá ra cười làm Cô-lin cũng cười theo. Hắn giải thích với Ngô Đình Diệm : - Trong lĩnh vực tình báo không có "đồng minh", theo đúng nghĩa của nó, ông Diệm ạ. "Đồng minh" cũng là một đối tượng ta phải điều tra, giữ miếng, và đối phó không khác gì đối với kẻ thù. Chúng ta gài người của chúng ta vào S.E.D.C.E thì S.E.D.C.E cũng phải gài người của họ vào C.I.A chứ ! Bây giò hỏi tin tức về bọn cộng sản thì họ có thế cung cấp cho ta một phần nào, nhưng ta không ngây thơ gì lại hỏi họ về nhân viên của họ cả. Ngô Đình Diệm vẫn hỏi thêm : - Thế còn báo cáo của Phạm Xuân Phòng về thời gian Phan Thúc Định trở về Viột Nam ? Lên-sđên đáp : - Trong thời gian Phan Thúc Định trở về Việt Nam. Phạm Xuân Phòng có theo sát Định. Trên máy bay từ Sài Gòn, Định liên lạc với một cô chiêu đãi viên. Thời gian ở Huế, Định thường gọi dây nói đến số điện thoại 377. Số điện thoại này thẩm tra lại là số điện thoại của Rơ-nê Ca-sanh, phụ trách chi nhánh hãng Pháp quốc hàng không ở Huế, đồng thời là một nhân viên bí mật của S.E.D.C.E. Chúng ta không làm thế nào thu dược nội dung những cuộc nói chuyện đó. Ở Sài Gòn, Định hay lui tới các tiệm nhảy Arc-en-ciel, Mỹ Cảnh, Liberty Palace... Đợi Lên-sđên nói xong, Diệm mới mỉm cười : - Thời gian ở Huế, Định đã làm được một việc rất tốt mà Phạm Xuân Phòng không biết. Lên-sđên ngạc nhiên : - Việc gì ? Không có việc gì mà chúng tôi không biết cả. Diộm thủng thẳng : - Định đã nắm cho tôi được tình hình của công chức, sĩ quan ở Huế và quan trọng nhất là nối được mối liên hệ giữa tôi với Lê Mậu Thành... Lên-sđên đập tay xuống ghế bành : - Tôi biết ! tôi biết ! Và Lê Mậu Thành đã phản lại ông rồi chứ gì ? Một trong những lãnh tụ Đại Việt, người mà ông đã tìm cách cài vào hàng ngũ cộng sản, phá từ trong nội bộ của chúng phá ra, đã bị "nhuộm đỏ" rồi chứ gì ? - Sao ông biết ? - Xin lỗi ông, ông cử Định đi bắt liên lạc với Lê Mậu Thành thì chúng tôi cũng cử người đi gặp hắn, đồng thời để giám sát quan hệ giữa hắn và Định. Thành đã bị Việt Minh tẩy não, đã được chúng giao cho công tác, đã tỏ ý đi theo Việt Minh đến cùng. Diệm vẫn thủng thẳng : - Người của ông lầm rồi ! Tất cả những điều ấy chỉ là bề ngoài. Nếu không thế thì Lê Mậu Thành sống sao được giữa lòng chiến khu Việt Minh mấy năm nay và sẽ còn với Cộng sản một thời gian nữa. Bọn Việt Minh rất tinh quái nhưng tôi tin Lê Mậu Thành cao tay hơn chúng, sẽ cho chúng một đòn nặng. Bằng mật khẩu thống nhất với nhau từ trước, Thành đã nhắn về cho tôi biết anh ta đang xúc tiến việc tôi giao phó cho anh ta. Đó là một con người rất trung thành với tôi, với lý tưởng quốc gia "Không bao giờ từ bỏ sự nghiệp anh ta theo đuổi cả", một con người hiểu biết già dặn và có kinh nghiệm đối phó với Cộng sản. Tôi đã nhận được báo cáo đầu tiên của Lê Mậu Thành. Phan Thúc Định đã giúp tôi việc đó. Lúc này, Cô-lin thấy cần phải xen vào câu chuyện : - Dù sao chúng tôi cũng thấy chưa nên giao cho Phan Thúc Định một chức vụ gì chính thức trong chính phủ mới. Chúng tôi chịu trách nhiệm trước Tổng thống Ai-sen-hao-ơ và ngài Ngoại trưởng Đa lét về việc đưa ông về và giúp đỡ ông thực hiện kế hoạch đã định, ông Diệm ạ. Ngoài ông Nhu làm cố vấn, Võ Văn Hải làm bí thư riêng, ông có thêm một cánh tay đắc lực nửa giúp việc cho ông : Ông Trần Kim Tuyến sẽ là cố vấn nghiên cứu tình hình chính trị, xã hội giúp ông. (Cô-lin mỉm cười khi nói đến từ "nghiên cứu tình hình chính trị, xã hội"). Lên-sđên đứng dậy, hai tay thọc túi quần đi đi lại lại trong phòng : - Tôi nghĩ ra rồi, các ông ạ. Chúng ta dùng Phan Thúc Định nhưng vào việc khác. Vừa phần thử lại xem Định là người như thế nào, vừa phần có lợi cho ta. Định là người của S.E.D C.E thì chắc chắn phải hiểu rõ tổ chức này. Ông Diệm nên đề nghị với Định tìm hết cách nắm hết được bọn nhân viên S.E.D.C.E của Pháp ở Việt Nam này và cung cấp cho chúng ta bản danh sách bọn đó. Bọn này được Pháp đào tạo, tổ chức hàng bao năm nay sẽ rất được việc cho chúng ta. Chúng ta sẽ tìm cách sử dụng những đứa theo ta, còn những đứa nào không theo ta, chúng ta sẽ tìm cách trừ đi. Chúng ta phải quét sạch những ảnh hưởng khác trên mảnh đất này để chỉ còn ảnh hưởng của chúng ta mà thôi. Cô-lin gật đầu : - O-K ! Ý kiến của đại tá Lên-sđên rất hay. Sau này, nếu Phan Thúc Định vừa tỏ ra có năng lực, vừa tỏ ra trung thành với chúng ta, chúng ta sẽ cử anh ta vào một chức vụ chính thức nào đó cũng không muộn. Ý kiến ông Diệm thế nào, xin cho biết ? Ngô Đình Diệm đọc lại cái danh sách nằm trên tay, nói : - Tôi chấp nhận ý kiến của các ông. Tôi chỉ đề nghị với các ông thương lượng nhanh chóng với người Pháp để tôi nắm chính quyền thật sớm, nếu để chậm e muộn mất, không cứu vãn nổi tình hình. Cô-lin vui vẻ : - Ông cứ an tâm. Việc chúng tôi với người Pháp coi như xong rồi. Vì thế chúng tôi mới đưa ông về nước. Lên-sđên đứng dậy, hai tay vẫn thọc vào túi quần : - Bắt đầu từ bây giờ, việc của chúng ta mới thực là bận rộn, nặng nề... 9 . NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA MỘT CHẾ ĐỘ |Ngày mồng 7 tháng 7 nảm 1954, bị áp lực mạnh mẽ của Mỹ, Pháp đành hạ bệ chính phủ bù nhìn Bửu Lộc thay vào đó một nội các mới, gồm mười bảy nhân viên, đứng đầu là Ngô Đình Diệm. Ngoài chức vụ thủ tướng, Diệm còn nắm giữ các bộ trọng yếu : Nội vụ, quốc phòng và thông tin. Lúc này, Lên-sđên được chính thức cử sang làm việc ở phái đoàn MAAG46 để trên danh chính ngôn thuận tiếp xúc hằng ngày với Ngô Đình Diệm. Lên-sđên đã tổ chức một ban tham mưu mới ở MAAG để lo những công viộc trong lĩnh vực tình báo được mệnh danh là những vấn đề "phi quy ước" gồm cả huấn luyện quân đội về hoạt động tình báo, tâm lý chiến và thông tin cho binh sĩ. Một hôm, Lên-sđên hỏi Diệm : - Vừa rồi, tướng E-ly và tướng Ỏ Đa-ni-en gặp nhau bàn về chuyện lực lượng quân đội cộng sản ở miền Bắc gia tăng mạnh. Không rõ tình hình này ông Nhu đã cho ông biết chưa ? Ngô Đình Diệm gật đầu : - Chú Nhu cũng vừa thông báo cho tui biết. - Vậy các ông có những ý kiến gì về vấn đề này và đã đề ra những biện pháp nào để đối phó ? - Chúng tôi mới sơ bộ thảo ra một kế hoạch phòng thủ nếu miền Nam bị Cộng sản tấn công. - Đại cương như thế nào ? - Lên-sđên hỏi cộc lốc. - Chúng tôi cho rằng muốn chống Cộng sản hữu hiệu thì phải dùng chiến thuật du kích để chống lại hoạt động du kích của Việt cộng mà tướng Võ Nguyên Giáp gọi là "chiến tranh nhân dân". Lên-sđên gật đầu : - Đó là một ý kiến hay. Nhưng để thực hiộn, ông Nhu đã có kế hoạch cụ thể như thế nào ròi ? Ngô Đình Diệm mỉm cười : - Tổ chức du kích hữu hiệu nhất phải do các lực lượng của chúng tôi nắm được, trung thành tuyệt đối với chúng tôi, nhất là các đảng viên Đảng Đại Việt Quốc xã do tôi tổ chức nằm rải rác ở khắp miền Nam này. - Ông là lãnh tụ quốc gia, thì tùy ông chỉ định những người cầm đầu lực lượng này ; nhưng nên để cho tôi làm cố vấn về mặt chính trị - Lên-sđên nói như ra chỉ thị - Đồng thời, nên lập trong quân đội quốc gia một cơ quan tham mưu để làm việc cùng những đảng viên cao cấp trong Đảng Đại Việt Quốc xã ở mỗi địa phương. Ông nên mau chóng thiết lập một Nha trực thuộc ông để lo việc này. Buổi nói chuyên đến đây chấm dứt. Lên-sđên vừa đi thì Ngô Đình Diộm gọi điện mời Nhu đến. - Đại tá Lên-sđên vừa đến gặp tui và hỏi tui đã có kế hoạch phòng thủ miền Nam nếu bị Cộng sản miền Bắc tấn công chưa. Tui dã cho ông ta hay việc ni chúng ta đã bàn rồi. Ông ta nhắc nhở tui nên mau chóng thành lập một Nha trực thuộc để lo việc ni. - Được rứa thì tốt - Nhu nói - Lên-sđên đã đồng ý thì chắc chắn người Mỹ sẽ viện trợ thêm cho ta các khoản tiền. Mấy tuần qua, em đã tổ chức nhiều căn cứ du kích ở những khu vực hành quân của Cộng sản; các đảng viên Đại Việt Quốc xã nhập ngũ được cử làm cán bộ chính trị và được huấn luyện về căn bản du kích chiến theo tài liệu của Cộng sản; Các hệ thống truyền tin được thiết lập. 46 MAAG : Military Aid Adviser G.oup, tức phái đoàn viện trợ Hoa Kỳ. Quan niệm võ trang dân chúng xã ấp để tự vệ được ứng dụng. Với cái đà như hiện nay thì không bao lâu sẽ phát triển rộng khắp. - Vậy chú đã nghĩ ra danh xưng của lực lượng võ trang ni chưa? - Đó là tổ chức "Dân Vệ Đoàn”. - Ừ, nghe hay hí ! - Diệm gật gù - tui sẽ báo cáo cho Đại tá Lên-sđên biết tin ni, để yêu cầu ông ta đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết cho tổ chức "Dân Vệ Đoàn". - Nếu anh có tường trình cho họ - Ngô Đình Nhu giải thích - thì nói rõ cho họ thấy sở dĩ ta thực hiện võ trang cho nhân dân cách ni vì đó là cách thực tế nhất để bảo đảm chế độ dân chủ ở miền Nam Việt Nam. Quy chế các sắc tộc miền núi sống đời du mục hai bên các đường mòn nội địa do Cộng sản sử dụng, các sắc tộc được người Pháp dùng vào tổ chức biệt kích47 chống Việt Minh căn phải duyệt lại kỹ càng. Do người Việt Nam ta đã phạm sai lầm là coi họ như giống người hạ đẳng, cho nên từ nay ta cần đối xử bình đẳng để tránh có sự hiềm tỵ nhau. Em nghĩ rằng rồi đây nên sửa lại các công việc về hành chánh và về thái độ chính trị đối với vùng sắc tộc. Song song với các chương trình cải tiến xã hội, một lần nữa các sắc tộc phải được tổ chức chống Cộng sản mạnh hơn. Các sĩ quan quân đội quốc gia trong quân khu Cao nguyên Trung phần bắt đầu đeo vòng Thượng và việc này sẽ là một biểu hiện cụ thể mới tranh thủ lòng người Thượng để họ ủng hộ chế độ Cộng hòa và trung thành với chính nghĩa quốc gia... - Rứa cái việc chú tổ chức "Phong trào cách mạng Quốc gia" đến mô rồi ? - Ngay từ tháng 5-1955, "Phong trào cách mạng Quổc gia" đã có cơ sở trên phạm vi toàn quốc. Em nắm chắc Ban chấp hành phong trào. Sang đầu mùa thu năm nay, em chuẩn bị một cuộc đấu tranh mạnh mẽ đòi truất phế Bảo Đại và hô hào ủng hộ anh. Em đã đề xướng nhiều cải tổ về chính trị, có những đề nghị rõ ràng minh bạch và cũng có những đề nghị ngấm ngầm tái lập những cơ chế cũ để tôn sùng người đứng đầu nội các như một vị quốc trưởng. Nói cách khác là em muốn phục hồi chế độ cũ, coi người đứng đầu nhà nước như một ông vua thời phong kiến, mặc dù chúng ta đang ở trong một chế độ Cộng hòa và đang đề cao khẩu hiệu "Đả thực, bài phong". Còn thêm một vấn đề nữa là... - Nhu nhìn Diệm như để thăm dò - Anh nghĩ xem có nên thiết lập ra một chương trình "Cộng đồng tự lực" không ? - "Cộng đồng tự lực" là chi ? - Ngô Đình Diệm hỏi. - Theo em, muốn cho chế độ tồn tại vững vàng và thẳng tiến thì cần có một guồng máy tổ chức dân chúng tố cáo lẫn nhau giống y như tổ chức mật vụ Nhật Bản đã làm khi họ tổ chức liên gia để kiếm soát dân chúng trong vùng chiếm đóng hồi Đại chiến thế giới thứ II. Em muốn bắt chước cách đó để biết hết mọi tình hình diễn biến trong xã hội và diệt trừ mọi mầm móng chống đối ngay từ trong trứng. Chương trình đó, em lấy danh xưng là : "Cộng đồng tự lực". - Ừ, cái tên nghe cũng hay hay... - Diệm khen - Chú nghĩ xa như rứa là phải. Bọn hiến binh Nhật Bản làm được thì ta sợ chi mà không làm. Vẻ mặt Ngô Đình Diệm tươi lên, nhưng rồi lại thoáng nét nghi ngờ : - Nhưng đó mới chỉ nhắm vô Cộng sản, còn đối với các đạo giáo ở miền Nam mọc lên nhiều như nám sau cơn mưa, thì chú tính răng ? Ngô Đình Nhu suy nghĩ một lúc, rồi trả lời : - Ở miền Nam lúc này đạo Cao Đài được lòng dân tín phục, có hằng mấy triệu tín đồ. Không dễ gì công khai cấm đoán họ hoạt động. Để đối phó, em cho rằng chỉ cần hại ngầm họ bằng cách mua chuộc, dụ dỗ tướng Trịnh Minh Thế và anh em Nguyễn Thành Phương ở Tây Ninh về phong chức và 47 Fulro. cho nhiều tiền; đồng thời thuê một số tín đồ thân cận của Hộ pháp Phạm Công Tắc xui họ vu cáo Tắc đã hãm hiếp các nữ tín đồ để làm giảm bớt uy tín của Cao Đài. Đối với Hòa Hảo, chỉ cần dụ hàng Năm Lửa48 ở Cái Vồn và mấy chục sĩ quan của y là đủ thu phục. Riêng đối với Bình Xuyên, một lũ dầu trộm đuôi cướp đã gây ra các tộ nạn xã hội như cờ bạc, gái điếm, buôn lậu, thì một mặt ta tuyên bổ tiến hành cuộc Cách mạng Quốc gia toàn diện, vừa để lành mạnh hóa cái xã hội đồi trụy do chúng gây ra, đồng thời là dùng lực lượng các đạo giáo đánh chúng, Khi mà "Mặt trận thống nhất toàn lực Quốc gia" là chỗ dựa của Bảy Viễn bị tan rã, thì đương nhiên bè lũ Bình Xuyên sẽ cô thế và lực lượng của chúng cũng đổ theo... Nói đến đây, Ngô Đình Nhu lấy thuốc lá ra hút. - Còn một vấn đề nữa - Nhu thở khói thuốc, rồi chậm rãi tiếp - Không hiểu anh đã nghĩ đến chưa. Đó là việc chống đối với Bảo Đại và các thế lực thân Pháp hiện đang tồn tại ở miền Nam này... Ngô Đình Diệm chợt nhớ đến bức công điện của Bảo Đại triệu Diệm qua Pháp để trách cứ về việc không thực thi một số điều kiện mà Diệm đã thỏa thuận với Bảo Đại trước khi về nước. Diệm nói với giọng hằn học : - Ngày nay, tui không phải là Thượng thư Bộ lại nữa. Để coi hắn làm chi được tui vì tui đang nắm chắc chính quyền. Ngô Đình Nhu nhìn thẳng Diệm, nói rành mạch : - Không phải đợi hắn làm chi mình mà do sự đòi hỏi của tình thế nghiêm trọng hiện nay là phải đoàn kết toàn lực quốc gia để chống Cộng, sẽ triệu tập một cuộc Hội nghị các đảng phái và nghiệp đoàn49 lấy danh nghĩa là hội nghị của "Hội đồng Cách mạng chống Cộng" (nhưng thực chất là để hạ uy thế của Bảo Đại và tay chân bộ hạ của y); cực lực phản đối và tố cáo cựu hoàng Bảo Đại là bù nhìn do thực dân Pháp dựng lên, không xứng đáng đại diện cho Việt Nam và tuyên bố truất phế Bào Đại - Hội nghị nhát trí biểu quyết ủy nhiệm cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm thành lập một Chánh phủ lâm thời quốc gia Việt Nam thực hiện ba nhiệm vụ : Một là : Bình trị bọn phiến loạn để duy trì an ninh trật tự; Hai là : Thu hồi toàn vẹn nền độc lập và yêu cầu quân đội viễn chinh Pháp triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam. Ba là : Gấp rút tổ chức Quốc hội dân cử, để trả lại chính quyền cho nhân dân. Thực chất là bầu cử tổng thống đế cai trị đất nước, mà tổng thống chỉ có thể là anh chứ không ai khác. Khi đó, mặc nhiên chức vụ Tổng tư lệnh quốc gia sẽ vào tay tổng thống. Bằng cách đó, ta cách chức Tổng tư lệnh quân đội quốc gia của tướng Nguyễn Văn Vỹ và chức Tham mưu trưởng của tướng Nguyễn Văn Hinh do cựu hoàng Bảo Đại nhân danh Quốc trưởng bổ nhiệm. Ta sẽ đưa người thân tín vào nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong quân đội, các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan hành chánh từ địa phương đến Trung ương. Thế là, mọi quyền hành trong nước ta tóm thâu vào một mối... - Toàn bộ kế hoạch trên đây chú đã đưa ra bàn bạc với ai chưa? - Ngô Đình Diệm hỏi. - Do em phác ra và mới bàn với nhà em thôi - Ngô Đình Nhu trả lời. 48 Tức Trần Văn Soái. 49 Các đại diện các đảng phái và đoàn thể đó là : Mặt trận Quốc gia kháng chiến Việt Nam, Việt Nam Phục quốc hội, Thanh niên Quốc dân xã Việt Nam, Việt Nam Dân chù xã hội, Phong trào tranh thủ độc lập Việt Nam, Phụ nữ Quốc dân xã Việt Nam, Việt Nam cần lao, Nhân vị cách mạng đảng, Tịnh độ Phật giáo đồ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Phong trào dân chúng liên hiệp Việt Nam, Phong trào cách mạng Quốc gia, Tập đoàn công dân, Nhóm tinh thần, Xả hội Công giáo. Thanh niên dân chủ Việt Nam, Cựu chiến sĩ kháng chiến Việt Nam, Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam, Hội tương trợ đồng bào Nghệ - Tinh - Bình. - Nhà em có đóng góp một số ý kiến... - Ỷ kiến của thím ra răng ? - Nhà em có ý định tập hợp giới phụ nữ ở trong nước vào một đoàn thể cách mạng gọi là "Phong trào Phụ nữ liên đới". - "C'est une bonne idée"50- Diệm gật gù - Việc tập hợp như rứa có tốn kém chi không ? - Đã có mấy mụ vợ bọn công chức cao cấp sẵn sàng bỏ tiền ra đóng góp. Khi Phong trào được thành lập, ta cho mấy con mụ đó vào giữ các ghế trong Ban chấp hành, là chúng thích rồi. - Không phải tốn kém mà làm có kết quả thì tốt lắm hí ! - Chỉ mới nghe nhà em bàn việc tổ chức mà đã có hàng chục đứa tranh nhau đóng góp tiền vào quỹ bảo trợ sáng lập Phong trào. - Rứa thì chú về nói với thím hãy tiến hành ngay đi. Để khi mô có bầu cử, thím sẽ nhân danh là Chủ tịch của Phong trào ra ứng cử vô Quốc hội để có tiếng nói cho phụ nữ nước nhà. Ngô Đình Nhu dụi điếu thuốc lá đã cháy gần hết vào chiếc gạt tàn, rồi "dạ" một tiếng và đứng lên. Câu chuyện đến đây giữa hai anh em kết thúc. Hôm ấy là ngày thứ sáu mồng 8 tháng 7 năm 1955. 50 Đó là một ý tưởng hay 10. MON COEUR A SON SECRET51 Căn phòng riêng của Ngô Đình Diệm vừa để ngủ và làm việc, có hai cận vệ gác cửa cùng một số sĩ quan tùy viên túc trực. Bất kỳ ai ở ngoài dinh Gia Long gặp Diệm, phải qua sĩ quan tùy viên. Còn người ở trong dinh muốn gặp phải qua già Ân - tay chân thân tín của gia đình họ Ngô được Nhu cắt đặt bên cạnh Diệm. Một đêm, ông già Ân đến phòng Phan Thúc Định báo cho anh biết Tổng thống muốn gặp. Diệm đang ngồi trên đi-văng gỗ. Trước mặt đặt một đĩa bánh pa-tê sô52. Đó là loại bánh Diệm thích nhất trong mỗi lần tiếp khách quí. Tuy là ban đêm, nhưng Phan Thúc Định vẫn ăn mặc chỉnh tề, vì biết tính Diệm không thích ai ăn mặc lè phè làm mất uy danh dinh Tổng thống. Đã có lần, Ngô Đình Nhu vào phòng làm việc của Diệm, mặc áo sơ-mi cổ bẻ, cộc tay, bỏ ngoài quần. Diệm gọi thẳng vợ Nhu phiền trách :Thím phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng. Chú ấy ăn mặc lôi thôi mấy đứa nó bắt chước, mất cả thể thống..." Trông thấy Định bước vào, Diệm cười : - Bác tưởng cháu đi chơi, té ra ở nhà hí. Định cúi đầu chào lễ phép : - Bẩm Cụ lớn, chỉ có lúc nào cần con mới đi. Chứ ban đem con thường ở nhà đọc sách. - Nghe nói, dạo này ở thành phố mở ra nhiều phòng trà, tiệm nhảy lắm hí ? - Thưa Cụ lớn, con cũng nghe nói như vậy. Diệm thân mật chỉ chỗ cho Định ngồi xuống đi-văng rồi bảo ông già Ân mang đến hai ly cà-phê sữa. Diệm nhìn Định trìu mến : - Hôm nay làm việc liên quan đến chuyện cũ, bác nhớ thầy cháu quá. Mới dó mà bảy, tám năm qua rồi. Mau quá hí ! Định nói với giọng bùi ngùi : - Giá mà thầy con không mắc nặng gánh gia đình mà đi theo Cụ lớn thì đâu đến nổi. Cánh cửa phòng mở, già Ân bưng chiếc khay gỗ chạm trổ cầu kỳ có hai ly cà-phê sửa vào đặt trên đi-văng trước mật hai người, rồi lặng lẽ bước ra. - Tội nghiệp ! - Diệm chép miệng - Chẳng qua cũng vì số mệnh. Bác độc thân nên dễ bề bôn ba nơi hải ngoại... Vừa nói, Diộm lấy bánh ăn và mời Định : - Bánh ngon tuyệt. Cháu ăn đi. - Diệm vừa nhai bánh vừa hỏi : - Nì, hồi bác đi rồi ờ nhà có dư luận chi không ? Phan Thúc Định nuốt xong miếng bánh, trả lời với giọng nghiêm túc : 51 Trái tim tôi cũng cố điều bí ẩn 52 Pâté chaud : Một thứ bánh nướng làm bằng bột mì có nhân thịt và gia vị. - Thưa Cụ lớn, dư luận về việc Cụ lớn vượt qua khỏi vòng vây của bọn mật thám Pháp là một chuyện thần kỳ, huyền thoại. Diệm cười khoái trá : - Chi có cái mẹo nhỏ là đánh lừa được bọn thám tử, có chi lạ53 - Con cũng được nghe kể lại hôm đó Cụ lớn cải trang rồi đàng hoàng đi ra khỏi nhà trước mặt bọn mật thám. Thưa, có đúng thế không ạ ? Diệm cười khà khà, gật đầu : - Ai nói mà cháu biết như rứa ? - Thưa Cụ lớn, "Xơ54” Tài kể lại cho bà Khôi55 nghe. Rồi sau đó, bà Khôi nói chuyện lại với mẹ con. Nghe hai tiếng "Xơ Tài", cặp mắt Diệm sáng lên nhớ lại dĩ vãng xa xưa như đã vùi sâu vào tiềm thức. Năm ấy hai mươi lăm tuổi, khi đang còn là sinh viên trường Hậu Bổ56, thỉnh thoảng Diệm đến nhà Ngô Đình Khôi thăm anh. Vào một buổi sáng mùa hè, Diệm đang ngồi đọc sách trên lầu nhìn xuống thấy có ba cô gái Huế đến chơi dưới nhà. Trong ba cô, có một người thuộc loại sắc nước hương trời, nét mặt hau hau giống vợ Ngô Đình Khôi, ăn nói duyên dáng mặn mà. Lần đầu tiên cậu ấm57 Diệm thấy tim mình rung động. Sau khi ba người thiếu nữ kia về, Diệm tìm hiểu và được biết người đẹp đó là em gái chị dâu mình, con gái út của cụ Tể tướng Nguyễn Hữu Bài58, năm ấy vừa tròn 18 tuổi. Thời kỳ này, các thiếu nữ con nhà khuê các ở Huế, bị làn sóng tiểu thuyết ái tình lãng mạn Tây phương chi phối; và nếu là người theo đạo Thiên chúa thì họ bị ảnh hưởng bởi giáo lý nói về "cái mong manh của người đời, làm dậy lên nỗi khao khát cống hiến cuộc sông cho một thực tại vững bền, vô tận ở nước Thiên đàng". Hồi bấy giờ, cậu ấm Diệm là đối tượng của một số không ít thiếu nữ mơ ước cuộc sống công hầu; nhưng cô Nguyễn Thị Tài, con gái út của vị đương kim Tế tướng đầy quyền uy kia lại sớm có một suy nghĩ bi quan về nhân sinh thế sự lúc được nghe cha mình kể chuyện Thượng thư Ngô Đình Khả59 bị "lạc hồi dương tịch60". Nàng đã trả lời bức thư ngỏ tình của Diệm bằng cách đoạn tuyệt cuộc sống ngoài đời, dấn thân vào cuộc hành trình đi theo chúa Kitô, trong một Đan viện thuộc dòng tu kín Carmélite ở Kim Long61. - "Xơ" nớ đã đổ cho bác một vết thương lòng không thể nào hàn gắn được - Diệm trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp một câu tiếng Pháp - Mon coeur a son secret ! - Nhưng, thưa Cụ lớn... - Phan Thúc Định nhẹ nhàng cất tiếng sau một phút đắn do - Vì sao "Xơ" lại đi tu ? Theo lời mẹ con nói lại, thì khi còn là nữ sinh trường Jeanne d’Arc62, 53 . Vào khoảng cuối năm 1944, sở Liêm phóng Trung kỳ nhận được điện của Phủ Toàn quyền Pháp ở Hà Nội ra lệnh bắt Ngô Đình Diệm. Diệm được người thân tín làm việc ở sở Bưu điện Huế báo cho biết. Diệm nghĩ ra một mẹo là cải trang làm người giúp việc, lợi dụng lúc trời nhá nhem tối ra khỏi nhà, đi đến chỗ có một chiếc xe kéo đợi sẵn ở dốc Phú Cam. xe chờ Diệm đến trường Hồ Đắc Hàm là nơi sở Hiến binh Nhật Bản đóng. Ngay trong đêm hôm ấy. Diệm được quân đội Nhật Bán cho xe nhà binh đưa vào Đà Nẵng và sáng hôm sau thì xuống tàu thủy sang Singapor lánh nạn. (Tác giả) 54 Soeur : Danh xưng của một nữ tu Thiên chúa giáo. 55 Vợ Ngô Đình Khôi là chị ruột "xơ" Nguyễn Thị Tài (xem Phụ lục). 56 Trường đào tạo quan lại cấp thấp của Nam triều. 57 Từ trong xã hội cũ dùng để chỉ hoặc gọi người con trai con quan. 58 Cụ Nguyễn Hữu Bài hồi bấy giờ là Hiệp biện đại thần, đứng đầu các quan trong triều, nên còn được gọi là Tể tướng - Tác giả. 59 Bố của Ngô Đình Diệm 60 Thượng thư Ngô Đình Khả vì chống việc phế truất và đua đi đày vua Thành Thái nên trong cuộc họp nội các Nam triều, khi viên Khâm sứ Pháp hỏi : Ai không đồng ý ?" Chỉ riêng đại biện đại học sĩ Ngô Đinh Khả giơ tay phản đối. Vì thế, ít lâu sau, ông bị cách chức đuổi về làm thứ dân, và bị lý trưởng địa phương bắt làm xâu đi canh. 61 Dòng nữ tu này còn gọi là dòng tu kín. Trước ờ Kim Long (Huế) nay là Đan viện Carméllte ở Bình Triệu - Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh. "Xơ" Nguyễn Thị Tài còn sống. Năm nay 83 tuổi. Tác giả. 62 Đọc Jan Đác, tên một vị nữ anh hùng Pháp "Xơ" Nguyễn Thị Tài có cảm tình với Cụ lớn. Vì vậy, sau này khi nghe Cụ lớn thoát nạn, bà mừng lắm. - Ừ, ừ... - Diệm ngậm ngùi - Cháu không phải là người có đạo nên cháu không biết, chứ mối cảm tình của "Xơ" đối với bác chỉ là một mối cảm tình đối với "tha nhân”; còn tâm hồn của "Xơ" thuộc về Thiên chúa. Rồi Diệm thở dài, hỏi Định : - Cháu có tin số mệnh không ? - Bẩm Cụ lớn, có ạ ! - Ừ, ừ... Có số mệnh cả ! Diệm nói - Đó, cháu coi nếu bác và "Xơ" Tài thành duyên nợ, thì chắc chi như ngày nay... Thầy cháu cũng vì vướng có mẹ con các cháu nên không đành tâm bỏ ra đi như bác. Dẫn tới... Phan Thúc Định cúi đầu tỏ vẻ đau buồn khi nghe Diệm nhắc đến chuyện cha mình, anh khẽ nói : - Bẩm Cụ lớn, đúng thế ạ ! Qua phút cảm xúc, Định ngẩng đầu lên nhìn Diệm và hỏi như còn muốn đi sâu vào câu chuyện tình của ông : - Làm sao Cụ lớn biết được mối cảm tình của "Xơ" đối với Cụ lớn chỉ là một mối cảm tình đối với tha nhân ? Câu hỏi của Định gợi lại trong trí nhớ của Diệm những kỷ niệm đẹp như bất cứ kỷ niệm đẹp nào của một đôi nam nữ con nhà gia giáo ờ chốn đế đô lúc bắt đầu biết yêu. Nàng đã tỏ tình qua những nụ cười, khóe mắt. Nàng và chàng đã sánh bước nhau đi trên con đường đá sỏi quanh núi Ngự Bình, và ngồi hằng giờ bên cạnh nhau dưới một gốc thông già mà không dám trao đổi những cái hôn nồng cháy. Diệm nhớ lại những ngày lễ lớn ở nhà thờ Phú Cam, người đi xem lễ rất đông, vì thế "chàng" và "nàng" thường hỏi nhau trước về màu sắc áo quần họ mặc, để khi đi lễ trong đám đông người dễ nhận ra nhau... Tình cảm mặn nồng như thế đấy, nhưng duyên nợ lại không thành ! Âu cũng là do số phận ! Ngô Đình Diệm giải thích : - Bác nói "Xơ" Tài coi bác như là tha nhân vì cuối cùng "Xơ" đã chọn con đường đi theo chúa Kitô, nghĩa là noi theo gương Người và sống như Người đã sống. "Xơ" đã nói cho bác rõ tâm tư của mình rằng : "Cuộc sống xô bồ, sa đọa, giả tạo hư danh, làm nẩy sinh trong lòng "Xơ" một ước ao sống ẩn dật trong thinh lặng của tâm hồn, mong đạt đến sự trong sáng của cái CHÂN, cái THIỆN đích thực". Bác biết nói rằng khi "Xơ" đã nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa ! Diệm thở dài, rồi nói tiếp : - Mà rứa cũng phải. Sau khi nghe "Xơ" cho biết ý định, bác về dở sách ra khảo63, thì đúng là tuổi bác và tuổi của "Xơ" Tài sống chung không hợp. - Thưa Cụ lớn - Định hỏi - Về vấn đề này, con thật sự chưa hiểu. Xin Cụ lớn chỉ bày cho con để sau này con rút kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình. - Bác sinh năm Tân Sửu (1901), còn "Xơ" Tài sinh năm Mậu Thân (1908), theo sách thánh hiền để lại thì caractère64 và mêntalité65 của những người sinh vào năm Sửu và năm Thân không thể ăn đời 63 Tìm biết bằng cách so sánh, đối chiếu kỹ các tài liệu bằng chứng. 64 Tính nết riêng của mỗi người. Tiếng pháp gọi là caractère. 65 Tình cảm và sự suy nghĩ của con người trong một hoàn cành cụ thể nào đó (nói tổng quát). Tiếng Pháp gọl là mentalité ở kiếp với nhau được. Bác mạng Hỏa còn "Xơ" Tài mạng Thủy. Hỏa, Thủy xung khắc. Vì thế, mối tình giữa bác và "Xơ" Tài không được trọn vẹn. Âu cũng là do số phận đã an bài. Bà nớ chọn con đường đi theo Chúa Kitô là phải. Rồi, như muốn xua tan cái dĩ vãng xa xưa đó để trở về với thực tại, Diệm nói : - Bác cháu ta hôm nay sống bên nhau như ri cũng do số mệnh cả. - Bẩm Cụ lớn, ngày nay con không đi theo hầu Cụ lớn thì đời con còn có nghĩa lý gì nữa đâu. - Cháu nghĩ như rứa là phải - Ngô Đình Diệm dừng lại như có điều gì băn khoăn, rồi nói tiếp - Rứa đó... Nhưng mấy ông cố vấn Mỹ lại khống muốn như rứa. - Thưa Cụ lớn - Định hỏi - Vì sao ạ ? Ngô Đình Diệm bèn kể lại cho anh nghe cuộc họp trong Tòa Đại sứ Mỹ, lúc bàn đến việc thành lập nội các, Lên-sđên đã không tán thành việc đưa anh làm bí thư riêng cho Diệm, và đề cử Võ Văn Hải với lý do là Hải đã đi theo Diệm từ hồi còn niên thiếu. - Cái chính không phải rứa - Diệm hậm hực nói - Mặc dù Hải theo bác đã từ lâu, nhưng bác biết rõ hắn đã bí mật giúp việc cho O.S.S. và, sau này là người của Lên-sđên... Phan Thúc Định vốn biết Võ Văn Hải là một người theo đạo Phật. Việc C.I.A. bố trí một Phật tử làm bí thư riêng cho một ông Tổng thống người Công giáo rõ ràng là có ý đồ đen tối. Trong cuộc sống chung giữa cộng đồng dân tộc ta từ trước đến nay không có vấn đề kỳ thị tôn giáo; song trên phương diện quốc gia nhiều cái vụn vặt và rất tầm thường lại dễ dàng tạo nên những hiện tượng như là kỳ thị tôn giáo. Không những thế, Võ Văn Hải ở vào ghế bí thư cho Diệm, thì nhất cử nhất động của Diệm, C.I.A. đều biết cả. Thủ đoạn cai trị của thực dân mới đối với một nước bị chúng xâm lược là như thế đó. Ngô Đình Diệm biết rõ điều này, vì thế, hôm nay Diệm cho gọi Định đến để nói cho anh biết C.I.A. không tin anh. - Bác cần nói cho cháu biết điều này, để sau này cháu thông cảm với bác hơn - Diệm nói. Phan Thúc Định vẫn giữ thái độ kính cẩn : - Con chỉ tâm nguyện có một điều là dù trong hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối trung thành với Cụ lớn. Sau này, dù thịt nát xương tan con nguyện sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ. Ngô Đình Diệm nhìn Định trìu mến : - Cháu quả thật xứng đáng là con nhà trâm anh thế phiệt. Lòng Định rạt rào cảm động, anh xin cáo từ ra về. Ngô Đình Diệm cũng muốn ở một mình để suy ngẫm về chuyện cũ. Lúc Định đã về, Diệm ngồi tràm ngâm bên bàn làm việc. Những chuyện cũ với mối tình hư thực trở lại với Diệm, có lẽ chưa bao giờ Diệm cô độc như đêm nay. Nhưng rồi cái tham vọng chính trịsẽ làm bá chủ đất nước Việt Nam lại thôi thúc Diệm, đưa Diệm trở lại với thực tại. Diệm bấm chuông gọi già Ân cho ông một ly cà-phê sữa nóng. 11. CHIẾN TRƯỜNG MỞ RỘNG. Dạo này cảng Sài Gòn tấp nập, ồn ào. Những chiếc tàu há mồm LCT, LCM cùa bọn nhà binh Pháp, cạnh những tàu buôn, những chiếc tàu vận tải, tàu chở hành khách nằm bên những chiến hạm của hải quân Mỹ đã ngang nhiên kéo cờ sòng sọc xanh trắng trên cột tàu. Hàu hết các tàu đều đổ lên bến những người bị cưỡng ép di cư - đa số là những người công giáo vùng Bùi Chu, Phát Diệm, Xã Đoài... Nét mặt người nào cũng ngao ngán, mệt mỏi, lo lắng. Bỏ tất cả nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông cha, vào đây bơ vơ không biết ngày mai của mình sẽ ra sao. Nhiều ông già, em nhỏ đi biển xa không chịu được, chết trên tàu. Không có chuyến tàu nào mà không có người chết. Mỗi chuyến tàu cập bến, mấy cái cáng khiêng xuống trước. Rồi mẹ bòng con, chồng kéo vợ chen chúc nhau ra cầu tàu. Đò đạc vứt lỏng chỏng. Có người nhặt nhạnh tất cả gia tài mò hôi nước mắt suốt mấy đời lao động mang theo, phút chốc mất sạch. Mấy thằng Mỹ đứng trên boong tàu lúc thì nheo mắt bĩu môi nhìn đám người di cư gồng gánh, khổ sở, nheo nhóc, lúc thì chúng há miệng hô hố cười cảnh vợ lạc chồng, con lạc cha chạy nháo nhác, tìm gọi nhau í ới... Tiếng loa phóng thanh nheo nhéo như chọc thủng màng tai, cứ nhại đi nhại lại mấy câu sĩ nhục : - Đồng bào lưu ý. Khi xuống khỏi tàu, mỗi đồng bào được lãnh một tấm thẻ xanh. Tấm thẻ xanh sẽ đổi lấy 100 đ do Hiệp chủng quốc tặng. Ai lấy tiền rồi, lấy nữa "dô" tù nghe. Máy tay phóng viên Mỹ vác máy quay phim chạy đến quay cảnh người di cư nhận tiền bố thí của Mỹ. Một anh lái tắc xi người miền Nam hỏi một đồng bào di cư : - Ngoài đó độc lập rồi. Thầy Hai còn dô đây mần chi ? Người di cư bị hỏi, mặt hơi cúi xuống, sượng sùng. Những chiếc xe vận tải nhà binh tám bánh to lớn đã đứng đón sẵn đám người di cư. Những tên chủ đồn diền cao su hau háu nhìn họ như nhìn những món hàng nhập kho của chúng, những tên mật vụ ngụy mắt lừ lừ soi mói sau cặp kính mát, những tên đội lốt thày tu mật hồng hào hớn hở đếm từng đầu người lên ô tô giao cho bọn chủ đồn điền. Những chiếc xe vận tải sẽ đựa thẳng đám người di cư đến một trại tặp trung hoặc một đồn điền nào đó và những con người đang tự do đó biến thành những tên nô lệ. Giữa sự hỗn độn nhốn nháo, không ai để ý đến một chiếc hạm thuyền nhỏ của Mỹ đậu ở gần cuối Cảng. Nó cũng đậu neo vào giữa các tàu khác. Nhìn bề ngoài, không khác gì các tàu bè, các hạm thuyền quanh nó. Chiếc hạm thuyền đã bốc hết hàng. Những người phu khuân vác Việt Nam và Hoa kiều đã xuống hết, chuyển sang bốc dỡ hàng ở tầu khác. Trên hạm thuyền, bọn thủy thủ đang phun nước rửa boong. Một chiếc xe hơi đến đậu ở cảng. Cánh cửa xe mở, hai tên Mỹ bước xuống, cả hai tên cùng mặc thường phục. Một tên mặc áo sơ-mi trắng, quần trắng, mặt lạnh lùng, khắc khổ : đại tá Lên-sđên; một tên mặc áo sơ mi chim cò quần têch-gan, tay luôn luôn muốn sờ mó vào những vật chung quanh : trung tá Tô-ma. Hai tên đi về phía chiếc hạm thuyền Mỹ. Trên tàu, tên thuyền trưởng và một tên trung úy lục quân đang đứng đợi. Lên-sđên và Tô-ma bước lên tàu. Tên thuyền trưởng và tên trung úy lục quân đứng nghiêm, giơ tay lên ngang mặt chào. Lên- sđên, Tô-ma giơ tay chào lại. Tô-ma giới thiệu : - Đây là đại tá Lên-sđên, người chỉ huy mọi hoạt động an ninh của chúng ta ở đây. Xin giới thiệu với đại tá đây là thiếu tá hải quân A-lan66, chỉ huy trưởng của tàu, đây là trung úy En-đru67, người nổi tiếng về tổ chức những hoạt động bí mật đặc biệt mà tôi vẫn thường nói chuyện với đại tá. Mấy tên bắt tay nhau. Lên-sđên hỏi : - Xong rồi chứ ? En-đru đáp : - Thưa đại tá xong rồi ! - Bao nhiêu tên ? - Báo cáo, hai mươi mốt tên và hai tên đi theo làm bếp. - Đưa xuống có ai biết không ? Mặt En-đru ánh lên nét tự mãn : - Thưa đại tá, không ai có thể biết được. Tôi đã tổ chức cho chúng giả làm đám phu khuân vác, trà trộn lẫn với đám phu, rồi từng đứa một lần xuống tầng dưới tàu. - Chúng nó trung thành cả chứ ? - Thưa đại tá, trung tá Tô-ma và tôi đã tuyển lựa rất kỹ trong đám di cư. Chúng đều rất thích làm việc cho chúng ta. - Ở căn cứ "Clác"68 đã chuẩn bị xong hết cả chưa ? - Thưa đại tá, đã dành một khu riêng ở cạnh căn cứ để huấn luyện chúng. Mấy chuyên viên của ta về ám sát, phá hoại bằng mìn, thu nhập tin tức tình báo điện đài v.v... đã sang đầy đủ. Chương trình huấn luyện bọn chúng, chắc trung tá Tô-ma đã trình bầy để đại tá duyệt. - Có, tôi đã nắm được rồi, nhưng tôi đề nghị rút ngắn thời gian huấn luyện lại. Trước định hai tháng rưỡi, bây giờ chỉ nên huấn luyện một tháng rưỡi thôi, vì thời gian gấp lắm. Chúng ta phải lợi dụng khi người Pháp chưa rút hết miền Bắc mà tung chúng ra phối hợp với bọn của thiếu tá Cô-nên69 ngoài đó. Thời gian huấn luyện càng ngắn thì chúng ta càng huấn luyện được nhiều toán. Lúc này ta chỉ cần số lượng, chưa cần chất lượng vội. Mỗi toán chỉ cần phá hoại một vài công trình của bọn Cộng sản rồi hy sinh chúng đi cũng chẳng sao. - Xin chấp hành ý kiến của đại tá. - Cho tôi xem mặt bọn chúng. En-đru và A-lan đi trước dẫn đường, Lên-sđên và Tô-ma đi theo. Chúng bước về phía cuối tàu, xuống một khoang riêng. Ở đó, có hai mươi ba người Việt mặc quần áo lấm láp như những người phu khuân vác, đang nằm ngồi ngổn ngang. Thấy bọn chủ Mỹ xuống, lũ tay sai như là lò xo bật cả dậy, đứng cứng người. Tên En-dru chỉ từng tên một, báo cáo với Lên-sđên : - Đây là tên Bình, đảng viên đảng Đại Việt đã từng đi lính cho Nhật. Đây là tên Hảo, vệ sĩ công giáo ở Phát Diệm, sau vào lính nhảy dù Pháp, bỏ trốn khỏi lính nhảy dù vì cướp của tống tiền. Đây là 66 Allen - Sĩ quan tình báo CIA, đóng vai thiếu tả hải quân Mỹ 67 Andrevvs - Sĩ quan tình báo C.I.A 68 Clark - Một căn cứ không quân Mỹ ở Phi Luật Tân 69 . Lucien Conein, phó chỉ huy phái đoàn MAAG - Sĩ quan của CIA được bố trí vào MAAG để ngụy trang hoạt động. tên Phan bị tòa án Việt Minh truy tố về tội giết người. Đây là tên Đính làm cho Phòng Nhì Pháp từ năm 1946... Lên-sđên nhìn mặt bọn chúng : mỗi thằng một khuôn mặt khác nhau, đứa thì hàm bạnh mũi hếch, đứa thì trán ngắn, lông mày rậm, đứa thì tóc đít vịt, răng vàng, nhưng chúng đều có những cái nhìn giống nhau : gian xào, quỷ quyệt lại rất quỵ lụy, khúm núm trước mặt chủ. Lên-sđên gật gù bằng lòng hỏi : - Chúng nó có nói được tiếng Anh khỏng ? - Thưa đại tá không, có mấy thằng nói được tiếng Pháp. - Chúng nó có yêu cầu gì không ? - Chúng chỉ xin được đưa tiền trước. Có đứa thì xin sau được đi Phi Luật Tân hoặc Nhật Bản chơi bời. - Trung úy hãy cho chúng tiền, hứa với chúng muốn đi đâu cũng được nếu chúng làm được việc. Lên-sđên và Tô-ma quay lên. Hai tên sĩ quan CIA không mặc quân phục, đi dọc cảng, giữa những đám người di cư hỗn độn, đau khổ, ngơ ngác. Đằng sau chúng, chiếc hạm thuyên Mỹ kéo một hòi còi. Bỗng Lên-sđên hích khẽ Tô-ma, mặt hơi cau lại hất hàm ra phía trước Tô-ma nhìn theo cái hất hàm của Lên-sdên : Phan Thúc Định đang đứng trên bờ cảng, chiếc máy ảnh cạnh sườn ngắm nhìn đồng bào di cư và những chiếc tàu đậu dài bến cảng. Giữa những người bận bịu tấp nập, anh có thái độ ung dung của một người đi dạo. Đúng lúc ấy Phan Thúc Định cũng nhìn thấy hai tên Mỹ. Anh mỉm cười, gật đầu chào. Lúc đến gần Định, Lên-sđên hỏi : - Ông Định có việc gì lại ra đây vậy ? Định mỉm cười đáp : - Cũng như các ông thôi. Lên-sđên nghiêm nét mặt : - Chúng tôi ra xem cảnh đón tiếp người Bắc Việt di cư. Phan Thúc Định vẫn lịch sự : - Tôi cũng vậy. Lên-sđên hỏi: - Ỏng thấy người Mỹ chúng tôi tổ chức giúp dân các ông tị nạn Cộng sản chu đáo không ? - Thủ tướng Ngô Đình Diệm sẽ cảm ơn các ông. Câu chuyện rời rạc và hai tên Mỹ cũng không muốn kéo dài, chìa tay bắt tay Phan Thúc Định. Lúc đã ngồi vào xe ô tô, Tô-ma vừa mở máy vừa hỏi Lên-sđên: - Bản danh sách bọn nhân viên s. E. D. c. E của Định cung cáp cho Ngô Đình Nhu như thế nào ? - Một bản danh sách có đầy đủ tên người nhưng vô ích. - Tại sao ? - Trong đó, có ghi một số tên quan trọng có thành tích chống Cộng, nắm được nhiều tin, ta có thể dung được, nhưng khi người ta tìm đến thì những tên đó mất tích không hiểu vì sao. Còn lại một số tên làng nhàng hám danh hám lợi, chỉ thích có tiền tham lam và đần độn. Đối với những thằng tham tiền, đần độn như vậy, chúng ta không thiếu gì, và cũng chi dùng được chúng trong một việc nào đó thôi. Muốn chống lại Cộng sản một cách có hiệu lực, chúng ta cần phải có những tên có lý tường chống Cộng, có tử thù với Cộng sản ... Bản danh sách của Phan Thúc Định cung cấp có thể nói là vô ích ! Tôi đang đánh dấu hỏi vào số người mất tích kia. Nếu chúng bị thủ tiêu hay bị Việt Minh bắt đi thì thật là một thiệt hại lớn vì chúng am hiểu tình hình ở đây, chúng ta đã mát một số tên giúp việc có khả năng. Nếu ta không có một số tên bản xứ trung thành thì công việc sẽ gặp nhiều khó khản. - Chúng ta có thể dùng Phan Thúc Định không, thưa đại tá ? - Đây là điều chúng ta phải cân nhắc. - Vì sao ? - Vì nhiều lẽ : Định là người tin cẩn của Ngô Đình Diệm, có học thức, có trình độ, có khả năng, ta không thể dùng vào những việc nhỏ, những việc nhất thời, những việc liều lĩnh chỉ càn gây một chấn động như dùng bọn "Bình", bọn "Hảo"70 vừa rồi được. Có dùng Định, phải dùng vào những việc lớn, vào những kế hoạch lâu dài. Nhưng đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa nắm được Định, nếu Định là người của s. E. D. c. E, nếu Định chỉ trung thành với Diệm thôi mà không trung thành với chúng ta, nếu Định bị một lực lượng thứ ba nào đó lôi kéo, thì ta không thể dùng được. Chúng ta cần tìm hiểu kỹ về Định hơn nữa. Và còn điều này mới quan trọng, một nhân viên của ta, phục vụ tại khách sạn Ma - giết - tích cho tôi biết Định vừa có một bản danh sách cán bộ Việt Minh cũ ở Sài Gòn - Chợ Lớn còn nằm lại. Một nhân viên tình báo Pháp của s. E. D. c. E đã bán bản danh sách đó cho Phan Thúc Định. Tô-ma nhổm người lên như ngồi phải lửa : - Chúng ta cần phải có ngay bản danh sách đó. Một nụ cười nhạt hiện ra trên bộ mặt lạnh lùng của Lên-sđên: - Đúng. Nhưng vấn đề là làm thế nào ... Chiếc xe của hai tên Mỹ phóng nhanh quá suýt đâm vào một cụ già đi ngang đường. Tô-ma hãm phanh gấp vòng tay lái, miệng bật ra tiếng chửi, thô tục. Chiếc xe lao nhanh qua các phố xá tấp nập xe cộ của Sài Gòn, bất chấp những luật lệ giao thông, chạy về phía vườn Ông Thượng71. Đến cổng dinh Gia Long, chúng bấm còi inh ỏi. Trông thấy chiếc xe quen thuộc, tên lính gác mở chiếc cổng sắt. Chiếc xe chạy thẳng vào phía trong. Những tên bảo vệ, công chức ở trong dinh đã quen mặt chúng đứng nghiêm chào. Chúng lạnh lùng gật đầu đáp lại và đi thẳng đến một chiếc phòng lớn : phòng làm việc của Ngô Đình Nhu và mấy nhân viên cao cáp khác. Thấy hai tên Mỹ vào, mấy tên tay chân đứng dậy cáo từ sang phòng bên. Lên-sđên với giọng đùa cợt, chào hai anh em Diệm : - Kính chào ngài Thủ tưởng và ngài Cố vấn chính trị. Hình như hai ngài đang nghị bàn đại sự. Chúng tôi đến lúc này có gì phiền cho các ngài không ? - Chúng tôi đang mong gặp các ông để báo tin việc chúng tôi vừa cho bắt : trung tá Lan và đại úy Giai vì bọn này đã công khai phát thanh trên đài Sài Gòn chống đối chúng tôi và hô hào lật đổ chúng tôi. 70 . Một nhóm gián điệp biệt kích, do tên Nguyễn Văn Vỹ, tướng ngụy Sài Gòn tổ chức, nhằm tung ra hoạt động phá hoại miền Bắc. Tên thiếu tá Mỹ Allen đã chỉ huy trực tiếp nhóm này. 71 Ngày nay là vườn Tao Đàn. Ngô Đình Nhu tiếp lời anh : - Chúng tôi thấy cần phải bóp chết bọn chống đối - bất kỳ chúng là ai - ngay trong trứng nước. Giọng Lên-sđên hết đùa cợt : - Tôi đề nghị các ông thả chúng ra. Không phải tôi bênh gì chúng. Lúc nào chúng tôi cũng đứng về phía ông, ông Diệm ạ. Nhưng lúc này, chưa phải lúc diệt bọn chúng. Lúc này, chúng ta phải tập họp được nhiều người đổ chống Cộng. Ngỏ Đình Nhu dáp : - Tôi tổ chức đảng Cần lao nhân vị. Lên-sđên lắc dầu : - Chưa đủ, các ông không thả chúng ra thì chỉ làm cho hàng ngũ chống đối các ông thêm đông đảo, trong lúc các ông chưa yên chỗ đứng, chỉ làm cho những người trước đây đã làm việc cho Pháp nghi kỵ, oán ghét các ông, trong lúc các ông vẫn cần đến họ. Vả lại, chúng dám làm như vậy vì đằng sau chúng, có những thế lực mà lúc này các ông không làm gì nổi, đang đe dọa hất đổ các ông lúc nào không biết. Tôi xin báo riêng để ông rõ : Tướng Nguyễn Văn Hinh đang xúc tiến một cuộc đảo chính. Họ sẽ đem xe bọc thép tấn công vào dinh này. - Quân phản bội ! Ngô Đình Nhu mím chặt môi rít thuốc lá. Lên-sđên tiếp : - Còn nữa : vừa rồi ở Can-nơ, Bảo Đại đã gặp Bảy Viễn. Bảo Đại đã biết các ông định gạt Bảo Đại bằng cách loại bỏ hết người thân cận của hắn trong nội các. Hắn khuyến khích Bảy Viễn tập hợp lực lượng lật đổ các ông, nếu lật được các ông thì hắn sẽ phong cho Viễn làm Thủ tướng. Tôi tự hỏi : Các ông đã thấy hết mối nguy cơ của các ông chưa ? Ngô Đình Diệm ngồi im. Ngô Đình Nhu mặt đanh lại, dữ dằn. Lên-sđên và Tô-ma có vẻ thích thú nhìn hai anh em Ngô Đình Diệm. Một lát sau, Ngô Đình Diệm ngẩng đầu lên hỏi Lên-sđên: - Tui chỉ cần biết thái độ của chính phủ Hoa Kỳ. Xin các ông cho biết ? - Tôi với ông là bạn thân - Lên-sđên đáp úp mở, không trả lời thẳng vào câu hỏi của Diệm - Tôi sẽ giúp ông, ông Diệm ạ. Chúng tôi đã đưa ông về nước, hẳn chúng tôi có trách nhiệm với ông. - Chúng tui sẵn sàng nghe các ông. Lên-sđên tự phụ : - Chưa cần các ông đề nghị, chúng tôi đã có kế hoạch hành động đầy đủ rồi. Trước hết, chúng tôi sẽ phá âm mưu đảo chính của tướng Hinh. Tướng Hinh đang định dựa vào tên trung tá Lan và tên đại úy Giai. Chúng tôi sẽ điều tra xem ngày nào bọn họ định tiến hành đảo chính. Gần đến ngày đó, tôi sẽ đề nghị tướng Ô Đa-ni-en72 mời bọn họ đi ra một nước ngoài tham quan - chẳng hạn như sang Phi Luật Tân - Chúng ta làm nhẹ nhàng thế thôi, không gây một chút ồn ào nào. Mặt khác, ông Diệm cần phải có một lực lượng quân sự tin cậy làm chỗ dựa. Đại sứ Cô-lin đã thỏa thuận với tôi, giúp ông một số tiền để ông "mua" một số tướng tá, một số thủ lĩnh giáo phái có quân trong tay. Ngay bọn bảo vệ ông ở cái dinh này cũng không tin được. Tôi đã đề nghị với một người bạn thân tôi ở Phi Luật Tân; 72 O’Daniel, tướng Mỹ được Ai-xen-hao-ơ cử sang làm trường đoàn cố vấn MAAG đại tá Na-pô-lê-ông Va-lê-ri-a-nô73 vừa là cánh tay phải vừa là người tổ chức đội quân bảo vệ cho Tổng thống Mắc-xay-xay74 sang đây tổ chức và huấn luyện một tiểu đoàn riêng để bảo vệ dinh của ông, chống lại các cuộc tấn công có thể xảy ra... Ngô Đình Diệm không giấu nổi sung sướng : - Các ông chu toàn quá. Một lần nữa, xin tri ân các ông. Ngô Đình Nhu không nói gì, vẫn im lặng hút thuốc lá, nhưng nét mặt hắn đã rãn ra và hơi thuốc hắn rít không kéo dài như trước. Lên-sdên tiếp tục nói : - Chúng tôi đã bỏ rất nhiều tiền ra để đưa người Bác Việt di cư vào đây. Chúng ta sẽ tuyển lựa trong đó nhiều người dùng được. Đó là nguồn nhân lực để giúp các Công ty Hoa Kỳ khai thác sau này. Lúc áy, Ngô Đình Nhu mới nói : - Chúng tôi sẽ có gắng nắm những người di cư đó. Lên-sđên gật đầu : - Đúng ! Còn một vấn đề nữa : việc phá hoại miền Bắc và những vùng Việt Minh còn kiểm soát ở miền Nam, chúng tôi sẽ làm thay các ông trong giai đoạn này. Các ông sẽ thấy những vụ nổ lớn, có những sự tàn phá, gây hoang mang trong các vùng đó. Bây giờ các ông hãy làm thế nào đối phó các lực lượng chống đối các ông ở đây để giữ vững chỗ đứng. Trong các lực lương chống đối đó có bọn Bình Xuyên và các giáo phái. Chúng tôi chưa nắm được mọi hoạt động của chúng, ông có người nào làm được việc đó không ? Ngô Đình Diệm ngẫm nghĩ ròi đáp : - Tui thấy có một người làm được, đó là Phan Thúc Định. Nghe đến tên Phan Thúc Định, Lên-sdên ngần ngại : - Tại sao Định có thể làm được ? - Vì bọn ấy trước đây là người của Pháp chi phối. Phan Thúc Định biết nhiều nhân viên . E. D. C. E. Chắc chắn sẽ có cách tìm hiểu được mọi hoạt động của chúng. Chúng lại rất thích tìm những người trí thức làm quân sư, cố vấn. Chắc chúng không thể nghi ngờ một người trí thức như Định. Tui tin rằng tui giao việc chi Định sẽ làm hết sức. Lên-sđên cau mày suy nghĩ một lát, gật đầu : - Cũng được ! Như chợt nhớ ra, Lên-sđên hỏi Ngô Đình Diệm : - Phan Thúc Định đang có trong tay một bản danh sách các cán bộ kháng chiến cũ ở lại Sài Gòn - Chợ Lớn. Vậy anh ta có cho ông biết chưa ? Ngô Đình Diệm ngạc nhiên : - Quái thật ! Việc chi đại tá cũng biết cả ! - Anh ta đã đưa cho chú Nhu. 73 Napoléon Valériano, cùng 3 sĩ quan Phi Luật Tân khác tháng 1 - 1955 giúp Ngô Đỉnh Diệm tổ chức một tiểu đoàn vệ sĩ 74 MACSAYSAY : nguyên Tổng thống Phi Luật Tân - Phải, chúng tôi đã có bản danh sách đó. - Ngô Đình Nhu tiếp lời anh. Tôi đã bàn với ông Trần Kim Tuyến kế hoạch làm ngay một mẻ lưới - Ông Tuyến sẽ trình với ông kế hoạch đó. Hai tên Mỹ bước ra xe. Tô-ma mở máy và nhìn Lên-sđên có ý hỏi - Lên-sđên xem đồng hò, rồi nói: - Chúng ta đi điểm tâm một chút, xong tôi phải đến lớp dạy tiếng Anh riêng cho các quí phu nhân đây ! Rồi hắn nói với một giọng thích thú : - Trong đó có cả Nguyễn Văn Hinh phu nhân và cô con gái yêu của bà... những người phụ nữ Pháp mới lịch sự, duyên dáng làm sao ! 12. NHỮNG ĐÒN ĐẦU TIÊN CỦA MlẾN BẮC GIÁNG XUỐNG C.I.A... Vũ Long chăm chú ngắm tập ảnh... xem xong từng chiếc, anh lại chuyển cho Trần Mai. Nhìn tấm ảnh chụp hai tên Mỹ đi giữa cảnh bến tàu Sài Gòn, Vũ Long nói : - Đây là đối thủ của chúng ta. Tên cao là Lên-sđên. Tên mập hơn mặc áo sơ-mi hoa này là Tô-ma. Chúng ta đã thắng bọn tình báo Pháp trong cuộc chiến tranh vừa qua. Bây giờ, đối với những đối thủ này, chúng ta còn ít hiểu biết về chúng quá. Bổn phận chúng ta là tìm hiểu kỹ về chúng, không thể chủ quan với bọn này được. Chúng có nhiều tiền, có phương tiện kỹ thuật tối tân, tiến hành phá hoại trên phạm vi toàn thế giới và đem những kinh nghiệm ấy áp dụng vào nước ta. Cuộc đấu trí, đấu sức giữa ta và chúng chắc chắn sẽ gay go, khó khăn và quyết liệt lắm đấy. Có tấm ảnh chụp một chiếc tàu biển. Cái tài của người chụp là ở chỗ lấy được toàn bộ hình dáng con tàu lẫn số hiệu tàu rõ rệt vào ảnh. Vũ Long chỉ vào con tàu bảo Trần Mai : - Theo báo cáo của X.30 gửi kèm cuộn phim về thì đồng chí đó muốn ta đặc biệt chú ý đến con tàu này. Tại sao hai tên trùm C.I.A lại xuống thăm con tàu này ? Vũ Long ngừng lại suy nghĩ. Theo thói quen, sự suy nghĩ ấy dẫn anh ta từ chi tiết nọ đến chi tiết kia của sự việc bật ra sự liên hệ giữa các chi tiết đó. Anh vừa thủng thẳng nói, vừa cân nhắc : - Theo sự điều tra của X.30 thì hành trình của con tàu này là Sài Gòn - Hải Phòng và Sài Gòn - Phi Luật Tân. Hải Phòng thì hãy còn là khu vực tập kết của quân đội Liên hiộp Pháp, đang là chố đón những người dao động, lạc hậu, những kẻ chạy trốn cách mạng muốn bám theo địch đến cùng, đồng thời cũng đang là cái bàn đạp để kẻ địch tung bọn gián điệp thâm nhập vào miền Bắc vừa được giải phỏng, tiến hành chiến tranh tâm lý, chiến tranh phá hoại... Phi Luật Tân là một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ ở Thái Bình Dương, đồng thời cũng là nơi bọn Mỹ dùng để huấn luyện những thứ binh chủng đặc biệt của chúng. Sài Gòn - Hải Phòng, Sài Gòn - Phi Luật Tân, hai tên trùm C.I.A và một chiếc tàu... tất cả những điều ấy phải liên quan gì với nhau ? Đồng chí có thấy những điều ấy liên quan với nhau không ? Ý đồng chí thế nào ? Trần Mai không đáp ngay câu hỏi của Vũ Long mà hỏi lại anh : - Anh đã đọc bản báo cáo của cơ sở chúng ta ở cảng Sài Gòn chưa ? Vũ Long gật đầu : - Có, tôi đọc rồi. Các báo cáo ấy cũng liên quan đến một con tàu. Cơ sở ta ở cảng phát hiện có một số tên khuân vác đáng nghi ngờ, ngày thường không thấy xuất hiện ờ cảng, đã xuống một con tàu. Anh em theo dõi thì không thấy chúng lên nữa. Ấy đấy, nếu tổng hợp các chi tiết tưởng chừng rời rạc ấy lại với nhau thì sự việc đã tương đối rõ đấy nhỉ. Chúng ta có thể sơ bộ nhận định thế này : bọn C.I.A đang bí mật tung người ra tiến hành những âm mưu thâm hiểm đối với miền Bắc vừa được giải phóng. Đồng chí hãy gởi gấp phiên bản cuốn phim của đồng chí X.30, những báo cáo của cơ sở ta ở cảng Sài Gòn... lên cấp trên ngay. Đồng chí ghi rõ nhận định của chúng ta nữa. Khi Trần Mai quay ra, Vũ Long tiếp tục xem lại từng bức ảnh, mong tìm ra thêm được những chi tiết đáng chú ý nữa. Kinh nghiệm cho anh thấy rằng có những bức ảnh, bức thư... chỉ xem, chỉ dọc một lần thường không phát hiện hết những điều đáng chú ý, nhưng nếu ta xem, ta đọc thêm mấy lần sau nữa, có khi ta tìm ra được những điều rất thú vị. Anh nheo mắt ngấm bức ảnh chụp hai thằng trùm tình báo Mỹ mặc thường phục đi giữa những người Việt ở cảng Sài Gòn. Những ý nghĩ lúc nãy lại quay trở về với anh : "Đây là những đối thủ mới. Bọn này ghê gớm hơn bọn cũ rất nhiều. Tất nhiên, ta chưa hiểu hết về địch, nhưng ta tin ở sức mạnh của nhân dân, tin ở sự sáng suốt của cấp trên. Nhân dân thuộc về ta. Chúng có nhiều tiền bạc, nhiều phương tiện tối tân, nhiều mánh khóe, thủ đoạn thâm hiểm, nhưng sang đây, chúng không thể sống riêng biệt chỉ có chúng nó với nhau được, chúng không thể vác cái mũi lõ, mắt xanh thâm nhập vào hàng ngũ của ta được. Chúng sẽ cần những người Việt Nam, cần những người thông ngôn, cần những cô thư ký, cần những ông già quét dọn nhà cửa, cần những anh lái xe, cần những em nhỏ đánh giày... giúp việc cho chúng. Và những người ấy sẽ là tai mắt cho ta, sẽ là những người góp phần thầm lặng vào việc tống cổ chúng ra khỏi đất nước này. Tiền bạc của chúng có thể mua được một số tay sai, nhưng chắc chắn không mua được tâm hồn, tấm lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Phương tiện tối tân của chúng có thể gây nhiều khó khăn cho ta, nhưng chắc chắn không thể giúp chúng kiểm soát được những người ngay bên cạnh chúng, không thể giúp hiểu được mỗi người dân Việt Nam nghĩ gì. Mà người dân Việt Nam thì ai cũng yêu nước, ghét bọn ngoại bang xâm lược. Không thể chủ quan với chúng được, nhưng chắc chắn chúng cũng sẽ thất bại như bọn trước thôi, có khi còn thất bại đau hơn !" Vũ Long mỉm cười, cái cười của người bước vào trận đánh biết trước sẽ gay go, căng thẳng, đầy nguy hiểm, nhưng tin ở sức mình, Anh tin ở ngày mai miền Nam cung sẽ được hoàn toàn giải phóng như miền Bắc. Miền Bắc đã được giải phóng chỉ còn khu vực Hải Phòng ở trong thời hạn ba trăm ngày qui định theo Hiệp định Giơ-ne-vơ cho các lực lượng vũ trang Liên hiệp Pháp tập kết rút đi. Chưa bao giờ người ta thấy được sự tương phản của hai chế độ đến như thế. Đường phố Hải Phòng đầy rẫy bọn tàn binh đủ các màu da. Chúng ở các trại lính. Chúng chiếm các nhà tư để đóng quân. Chúng căng lều ra khắp các vườn hoa, bãi đá bóng để trú trong lúc chờ đợi xuống tàu. Bao nhiêu thú tính của chúng trước đây tung ra ở khắp đồn bót chúng đóng trên miền Bắc thì bây giờ thu lại, phá phách trên một cái thành phố nhỏ. Không thể kể hết được sự hỗn loạn, bẩn thỉu, mất dạy của đám bại binh đó gây ra. Nhiều người dân lương thiện Hải Phòng phải đưa con cái tránh lên Hà Nội. Cùng với bọn bại binh đó là tất cả bọn lưu manh, bọn mất gốc, bọn đĩ bợm, bọn có nợ máu với nhân dân... xưa nay sống bám vào gót giày quân xâm lược từ khắp miền Bắc cũng theo thầy đổ dồn về như những rác rưởi bị dòng thác lũ cuốn trôi, dồn vào một góc, trước khi bị tống ra biển. Chúng ăn uống vội vã, trác táng vội vã, vơ vét vội vã như đã nhìn thấy thần chết bay trên đầu chúng bây giờ. Những chiếc tàu há mồm, những chiếc máy bay vận tải cỡ lớn sơn màu tam sắc, sơn cờ sao vạch trắng ùn ùn đến hốt chúng. Cho đến giờ phút chót ấy, chúng vẫn chưa ly khai với tội ác. Chúng cưỡng bức, dụ dỗ, bắt cóc người khác đi theo chúng. Chúng như những con rắn độc thỉnh thoảng luồn lên Hà Nội. Trong khi đó, Hà Nội nhộn nhịp, tươi vui cuộc sống mới, cuộc sổng của những người dân làm chủ đất nước mình, làm chủ cuộc đời mình. Không ai quên được cái ngày cả Hà Nội tưng bừng đón Đảng và Chính phủ về thủ đô. Không ai quên được những buổi đại hội văn công đầy màu sắc mà nhiều người thủ đô xem muốn ứa nước mắt vì xúc động thấy dậy lên tất cả tình cảm dân tộc, đất nước. Không ai quên được những buổi họp bàn việc quản lý các nhà máy, các trường học, các công sở, các bệnh viện... ngày nay đã thuộc về mình. Ga Hà Nội như sống lại. Các chuyến xe lửa hừng hực chạy đi các ngả và từ các ngả về giúp việc lưu thông các mạch máu trên một cơ thể hồi sinh, cường tráng, mạnh mẽ hơn trước. Hành khách lên, xuống tấp nập. Những người công nhân quần áo xanh chạy đi, chạy lại. Những cô gái đường sắt giữ trật tự đeo băng đỏ trên tay hướng dẫn khách đi, về. Trong một đầu máy xe lực lưỡng như toát ra sức mạnh, hai đồng chí công nhân lái xe, một già, một trẻ, đang chuẩn bị cho đoàn xe chạy. Các toa xe đã nối vào đầu máy. Trong toa xe, các bà mẹ có con mọn đang nựng con vừa chỉ trỏ ra ngoài cửa sổ, vừa nói chuyện với con; các thanh niên nam nữ sôi nổi bàn với nhau về cái nhà máy mới mà mình sắp đi xây dựng, các ông già trầm ngâm đọc số báo mới phát hành, các bà phụ nữ lao động sắp xếp lại quang gánh sao cho gọn gàng. Chiếc đầu máy sung sức sẵn sàng vượt quãng đường dài. Khoang lò đầu máy lửa than cháy rừng rực. Khoang sau đầu máy chứa đầy than, những miếng than hình chữ nhật dẹp, to hơn viên gạch, nằm dự trữ. Bác công nhân già xem lại các đồng hồ của đầu máy, quệt mồ hôi đẫm trán, bảo anh công nhân trẻ : - Cho thêm than vào lò, chuẩn bị. Anh công nhân trẻ cầm những miếng than trên tay ném mạnh vào lò. Một miếng... hai miếng... ba miếng... bốn miếng... Đến miếng thứ năm, đang dang tay định ném vào lò, anh công nhân trẻ bỗng rụt tay lại. Anh ngắm nghía miếng than. Nó cũng một màu đen, cũng kích thước như mọi miếng than khác. Anh định ném tiếp nhưng nghĩ thế nào, anh lại tung thử nó trên tay. Bác công nhân già giục giã : - Khẩn trương lên chứ. sắp đến giờ rồi. Anh công nhân trẻ rụt rè : - Bác ạ, miếng than này cháu thấy nó khang khác. Bác công nhân già cau mày : - Nó làm sao ? Nó bé hơn à ? Anh công nhân trẻ lắc đầu : - Không phải, cháu thấy kích thước nó cũng bằng những miếng khác, nhưng tại sao nó nhẹ hơn, và cầm không thật tay. Bác công nhân già lại quệt mồ hôi trán, bước gần lại chỗ người đồng nghiệp trẻ : - Cậu đưa tôi xem nào ? Bác cầm miếng than trên tay, cũng tung thử trên bàn tay chai sạn, đầy dầu mỡ của mình. Bác đưa lên tay lắc thử nghe ngóng. Bác chuyổn nó sang lòng bàn tay trái và dùng ngón tay phải gò thử. Vẻ mặt bác trầm hẳn xuống. Bác gật đầu nói với anh công nhân trẻ : - Nó khác thật. Cái này là phải cảnh giác đây. Bác nhớ đến lời các đồng chí lãnh đạo luôn luôn dặn dò : "Phải hét sức cảnh giác. Bọn địch đã phải rút đi, nhưng chúng không muốn nhân dân ta được sống trong hòa bình. Chúng luôn luôn tìm cách phá hoại cuộc sống hòa bình và xây dựng của chúng ta". Bác nhớ đến mới tuần trước đây thôi, nhân dân gần kho xăng Gia Lâm đã phát hiện giúp công an hai kẻ lạ mặt lảng vảng quanh kho xăng. Đúng là hai tên mà công an đang theo dõi. Công an đã bố trí bắt được quả tang chúng định mang chất nổ vào phá kho xăng. Nghe nói chúng đã được đào tạo từ một cái đảo xa xôi nào của Mỹ trên Thái Binh Dương. Ngẫm nghĩ, bác bảo anh công nhân trẻ : - Tàu khởi hành chậm lại một chút cũng được, tính mạng hàng trăm hành khách ở trong tay chúng ta. Cậu mang ngay miếng than này lên báo cáo với trưởng ga để điện sang bén công an ngay... Anh công nhân trẻ với cái khản lau qua đôi tay lem luốc, cầm miếng than, nhanh nhẹn rời khỏi đầu máy. Bác công nhân già băn khoăn nhìn từng bộ phận của đầu máy, chiếc đầu máy mà bác đã góp phần đấu tranh giữ nó lại không cho bọn địch cướp đi, để trao nó vào tay chính quyền Cách mạng, vào tay nhân dân, chiếc đầu máy mà bác coi như cơ thể của bác. Bọn địch định giơ bàn tay gớm ghiếc, bẩn thỉu, đẫm máu đụng vào nó chăng ? Bất cứ chúng là đứa nào, bác cũng đập cho vỡ sọ... Anh công nhân trẻ đã quay vô cùng với mấy đồng chí công an. Miếng than khác thường kia đã được xét nghiệm : đó là một quả mìn có sức công phá mạnh, làm giả dạng giống miếng than như thật. Các đồng chí công an phối hợp cùng hai đồng chí công nhân kiểm tra lại toàn bộ đống than dự trữ trên đầu máy, kiểm tra lại từng bộ phận máy móc. Cả đoàn xe cũng được kiểm tra lại. Hành khách trên xe vui vẻ xem lại chung quanh chỗ ngồi của mình theo sự hướng dẫn của các đồng chí công an. Lát sau, đoàn xe kéo một hồi còi dài đắc thắng, từ từ chuyến bánh, tốc độ mỗi lúc một nhanh, băng băng suốt quãng đường dài. Anh công nhân trẻ thêm than vào lò. Bác công nhân già hát cao chiếc mũ công nhân, chăm chú nhìn quãng đường sát phía trước, nhìn những phố xá đang nhộn nhịp xe cộ, nhìn chiếc cầu vươn mình qua dòng sông, trên đó đang lừ dừ trôi những bè gỗ nứa từ miền ngược về giúp miền xuôi xây dựng, nhìn những cánh đồng mênh mông một màu xanh lúa chín, nhìn mây trắng nhởn nhơ bay trên nền trời xanh bao la, mỉm cười... Tiếng nổ bọn địch mong đợi nghe thấy, chỉ nổ ra sau này ở miền Nam vào bất cứ chỗ nào có bọn xâm lược Mỹ... 13. TỪ ĐẠI THẾ GIỚI ĐẾN LIBERTY PALACE... Phan Thúc Định đứng trước gương thắt cà-vạt. Nam gã giúp việc, hỏi anh : - Ngài có dùng áo không ạ ? Định rất khó chịu với gã giúp việc này, nhưng nét mặt và lời nói của anh vẫn thản nhiên : - Cảm ơn bác, hôm nay tôi đi chơi mát thôi. Gã giúp việc lặng lẽ lui ra. Đó là một gã đàn ông ngoài bốn mươi tuổi, mặt vuông, môi dày, trán tháp, lông mày rậm, có vẻ đần độn. Dáng điệu gã chậm chạp. Lời ăn tiếng nói xem chừng thật thà. Riêng đôi mắt gã thật kỳ lạ : bình thường thì lờ đờ nhưng đôi lúc nhanh như mắt mật thám. Phan Thúc Định biết gã từng hầu hạ gia đình Ngô Đình Nhu trên hai mươi năm, từ hồi Ngô Đình Diệm còn mũ cao áo dài giữa triều đình Huế. Gã được liệt vào hạng tôi tớ trung thành của gia đình họ Ngô. Phan Thúc Định lại biết thêm mưu mô của Ngô Đình Nhu đưa gã Nam đến giúp việc anh. Có lần về, nhìn lại ngăn kéo bàn giấy, Định tháy tuy khóa vẫn đóng nhưng sợi tóc nhỏ anh đánh dấu rơi ra ngoài. Anh được Ngô Đình Diệm cho ở hẳn trong dinh Gia Long và được dùng hai phòng thoải mái : một phòng ngủ và một phòng làm việc. Anh có riêng một chiếc xe hơi kiểu Rơ-nôn bốn mã lực, khi chạy ra đường, lản với hàng nghìn chiếc tắc-xi dang được dùng phổ biến ở Sài Gòn lúc đó! Định đóng cửa buồng và bảo gã giúp việc : - Bác ở nhà nhé, nếu Cụ75 gọi, bác thưa với Cụ hộ là tôi ra phố. Anh đi qua sân, về phía nhà xe. Một tiếng gọi thỏ thẻ làm anh đứng lại : - Anh Định. Trần Lệ Xuân -Vợ Ngô Đình Nhu đang ngồi trên một chiếc ghế đá, khuất sau lùm cây, nhìn anh đăm đăm. Định lịch sự, hơi cúi đầu: - Chào bà. Trần Lệ Xuân khoảng ngoài ba mươi, có điệu bộ, dáng dấp một người còn tiếc rẻ tuổi xuân và đổ nhiều thời gian vào các mỹ viện. Người đàn bà đó mặc chiếc áo dài trắng "kiểu Trần Lệ Xuân", hở cổ để lộ khoảng vai trắng ngần, quần trắng, đi dép đầm cũng màu trắng. Tay đeo đầy vàng, kim cương. Từng cái cau mày, từng cử chỉ, từng lời nói, Lệ Xuân đều lấy điệu như một minh tinh màn bạc và lúc nào cũng như có máy ảnh đặt trước mặt. Tuy chỉ học lớp đệ tam76 trường Albert Sarraut Hà Nội, nhưng vốn có tư chất thông minh, sinh ra trong một gia đình quý tộc, từ tấm bé đã được nuôi nấng và dạy dỗ theo kiểu cách phương Tây, khi còn đi học nổi tiếng là một tiểu thư lả lướt, lãng mạn. Lệ Xuân âu yếm nhìn Phan Thúc Định và nhẹ nhàng trách móc : - Tôi đã nhiều làn bảo anh đừng gọi tôi như thế. Tôi hãy còn trẻ. Định lịch sự trả lời : - Vâng... nhưng xin lỗi bà, bà là bà Cố vấn. Tôi muốn tỏ sự kính trọng của tôi. Lệ Xuân lắc đầu : 75 Chỉ Ngô Đình Diệm 76 Classe de seconde - Không. Nhà tôi với tôi cũng có những điểm khác nhau. Vả lại, nhà tôi hơn tôi cả trên hai mươi tuổi. Không những thế, công việc làm tính nết nhà tôi già đi nhiều. Còn tôi, thì ngược lại. Nhà tôi ít nói, tôi thìthích nói chuyện. Nhà tôi hầu như chỉ biết có công việc, sống cô độc.Còn tôi, tôi muốn tiếp xúc với mọi người... Rồi Lộ Xuân nhìn Định thăm dò : - Lúc nào có mặt mọi người anh gọi thế cũng không sao, nhưng những lúc chỉ có riêng tôi với anh, xưng hô như vậy là kém thân mật và tạo ra ngăn cách. - Vâng... - Tôi rất quí anh, anh có biết không ? - Dạ, cảm ơn... bà. - Đấy lại thế rồi. Tôi rất quí anh cho nên tôi muốn mách riêng anh rằng giáo sư Phi-sin không ưa anh và để ý anh. Anh có hiểu tại sao không ? - Tôi cũng khỏng hiểu tại sao ông ta lại quá quan tâm đến tôi như vậy. Phan Thúc Định trả lời Lệ Xuân. Thị nhìn anh một cách ý nhị. Lệ Xuân mỉm cười : - Chẳng lẽ do tôi. Bởi vì Phi-sin - tên giáo sư Mỹ, cố vấn chính trị đặc biệt của Ngô Đình Diệm, được ở liền trong dinh Gia Long - luôn luôn bám sát Lệ Xuân. Hắn săn đón, chiều chuộng Lệ Xuân với một thái độ quá nồng nhiệt đến nỗi chính Ngô Đình Nhu cũng phải khó chịu. Trong khi đó thì Lệ Xuân... Lệ Xuân vẫn nhìn Phan Thúc Định đăm đăm : - Anh hiểu cho. Tôi hoàn toàn không muốn thế. - Thưa... tôi không bao giờ nghĩ như vậy. Phan Thúc Định thừa biết Phi-sin để ý đến mình, nhưng không phải đơn thuần vì Lệ Xuân. Trước khi là một kẻ si tình, bao giờ tên C.I.A cũng vẫn là tên C.I.A. - Nghe nói anh có ý định ra ở ngoài phổ phải không ? - Lệ Xuân hỏi. - Vâng, tôi định thế. - Tại sao vậy ? Gia đình tôi có đirrgu gì làm anh không vừa ý ? Hay tại Thủ tướng chưa kịp giao cho anh một chức vụ gì trong nội các ? Anh nhớ rằng có những người không giữ chức vụ gì công khai nhưng lại quan trọng hơn những người giữ chức vụ công khai đấy nhé. - Không phải thế đâu. Mong... bà - xin lỗi tôi quen miệng - đừng hiểu lầm. Tôi rất biết ơn Thủ tướng và gia đình nhà ta đã dành nhiều ưu ái cho tôi, coi tôi như người thân. Tôi ra ở ngoài vì, xin lỗi bà, muốn bảo vệ bà. Lệ Xuân cau đôi lông mày được tô chì rất cẩn thận : - Tôi chưa hiểu anh định nói gì. - Tôi tránh việc ông Phi-sin có thể tung ra những dư luận không hay. Đôi lông mày tô chì dãn ra : - Không. Anh đừng ngại. Đối với tôi, dư luận không có nghĩa gì hết. Nhưng nếu anh rời khỏi dinh Gia Long này, anh bị hại ngay. Tôi không phải kể công với anh đâu, anh ở đây, tôi có thể bảo vệ được anh. Chính tôi mới là người bảo vệ anh. Ngoài Thủ tướng ra, anh có một vị thần hộ mệnh nữa mà anh không biết. Lệ Xuân ngã đầu vào thành ghế đá cười, cố tình phơi cái cổ trắng ngần ra khêu gợi. Phan Thúc Định vẫn lễ độ : - Xin cảm ơn bà. Lệ Xuân dành chỗ trống một bên ghế đá : - Anh có bận gì không, ngồi xuống đây nói chuyện. Ai lại người ngồi, người đứng thế không tiện. - Xin lỗi bà, tôi có việc phải ra phố bây giờ. Lệ Xuân cau mày : - Tôi nghe nói dạo này anh hay đến các phòng trà, tiệm nhảy lắm phải không ? - Thưa bà, tôi muốn giải trí. - Thế ở dinh Gia Long này anh không tìm thấy nguồn vui ư ? - Ấy chết, bà đừng hiểu lầm như vậy. Sự ưu ái của Thủ tướng và gia đình nhà ta đã là nguồn vui lớn cho tôi rồi... Thấy đứng lại thêm thì rất khó xử, Phan Thúc Định lẽ phép kiếu từ. Trần Lệ Xuân nhìn anh bất giác khẽ thờ dài. Trời ngả sang màu tím. Bóng tối đã lẫn quất ở dưới các vòm cây. Chiếc xe con của Phan Thúc Định bon ra cổng. Bao giờ anh cũng tự lái. Tên lính mở cổng. Chiếc xe ra đến đường hòa vào dòng xe hơi cuồn cuộn trên đường phố. Sài Gòn đã lên đèn. Buổi tối, khi hơi nóng ban ngày đã dịu đi và gió mát từ sông thổi vào, Sài Gòn tấp nập khác thường. Người ta đổ ra đường. Xe tắc xi, xe du lịch, xe buýt, xe máy, xe xích lô gắn máy dan nhau như mắc cửi. Các cửa hàng rực rỡ ánh đèn. Tiếng nhạc, tiếng rao hàng, tiếng động cơ ồn ào. Người ta ra phố uống "la-ve" nhắm với củ kiệu hoặc trứng vịt lộn, sò huyết... hoặc ra trước cửa chợ Bến Thành ăn "chả giò". Người ta lao vào các đại hí trường "Kim Chung", "Đại thế giới", vào các tiệm nhẩy, các phòng chiếu bóng có ca nhạc. Người ta vào Chợ Lớn tìm thú vui hương sắc đổ "xả hơi" sau một ngày vật lộn mưu sinh căng thẳng. Những tên lính viễn chinh đủ các màu da của quân đội Liên hiệp Pháp, trắng có, đen có, nhờ nhờ có, với nhiều kiểu quần áo, lon mũ khác nhau, dồn từ khắp các nẻo Đông Dương về đi lại đầy đường, sắm sửa, mua bán để chuẩn bị hồi hương. Tất cả những cảnh ấy chạy qua khung cửu kính khi Định cho xe chạy dọc đường Ga-li-nê-ni77 vào chợ Lớn. Xe đỗ trước cổng hí trường Đại thế giới. Tên là hí trường nhưng thực chất đó là một sòng bạc lớn, do bọn ngụy quyền mở và cho bọn du côn đầu trộm đuôi cướp Bình Xuyên của Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, bao thầu. Mỗi ngày bọn Bình Xuyên đóng thuế cho quỹ của ngụy quyền Sài Gòn một triệu đồng. Ngoài cửa hí trường, có hai tên Bình Xuyên mặc quần áo bà ba đen, đứng khám tất cả khách vào. Chúng sợ người ta mang chất nổ, mang súng vào phá sòng bạc... Phan Thúc Định xuống xe, đến trước mặt hai tên Bình Xuyên hỏi : 77 Tức đường Trần Hưng Đạo ngày nay. - Cậu Hai Pôn78 có đây không ? Hai Pôn là con trai Bảy Viễn. Tuy mới ngoài hai mươi tuổi đầu nhưng dựa vào thế bố, hắn đã nổi tiếng ăn chơi, du đãng ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Phan Thúc Định bất quen với hắn trong một tiệm nhảy. Thấy phong cách "Pa-ri-diêng"79 của Phan Thúc Định trong cách đối xử với các cô gái nhảy, hắn rất phục, muốn học đòi và tôn Định làm ông anh. Định đã nhanh chóng chinh phục được hắn, biến hắn thành một "hạt nhân" của mình trong Bình Xuyên nói riêng, các giáo phái nói chung. Vì hắn hiếu biết tất cả chuyện nội bộ của Bình Xuyên như chuyện nội bộ gia đình hắn. Vì bố hắn là Bảy Viễn nên một số bọn trẻ trong nhóm phản động theo Pháp đội lốt giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo thích kết thân với hán đế sống phóng túng càn dỡ mà bọn cảnh sát mật thám ngụy quyền không dám làm gì. Cũng vì bố hắn là Bảy Viễn, nên hắn quen mặt, đi lại thân thuộc với bọn cầm đầu cảnh sát, mật thám ngụy quyền Sài Gòn, Chợ Lớn và nhiều sĩ quan trẻ trong quân đội. Còn Phan Thúc Định đối với hắn, hắn chỉ biết là "anh Phan" du học ở Pháp về chơi một thời gian, quen nếp sống kinh thành Ba Lê hoa lệ, hiếu biết các cách sống hào hoa phong nhã, cư xử rộng rãi, lịch sự, thế thôi. Hai tên Bình Xuyên gác cổng hí trường thấy Phan Thúc Định ăn mặc lịch sự lại hỏi con trai thủ lánh trùm sỏ của mình không dám khám anh, vội vã nói : - Dạ, dạ... có. Có lẽ cậu Hai ở phòng lớn. Phan Thúc Định thản nhiên đi vào. Hí trường chia ra làm nhiều khu vực. Khu vực nào cũng có bàn đánh bạc kê dài nối tiếp nhau. Khu vực nào cũng có những tên Bình Xuyên lảng vảng đi lại. Ở đây, người ta thấy đủ các lối cờ bạc : từ đánh đề đến quay ru-lô, từ tài xìu đến sóc đĩa ; đủ các cách bóc lột con bạc, từ chỗ đánh cò con một hai đồng đến chỗ đánh bạc không đặt tiền, mà bằng thẻ tiền80. Đồ giải trí cho con bạc sau mỗi canh bạc căng thẳng, cũng như để mồi chài được đông khách đến, bọn chủ sòng gian xảo, lắm mưu nhiều kế, còn tổ chức trong hí trường chỗ này tiệm ăn, tiệm uống, chỗ kia ca nhạc khiêu vũ, chỗ này diễn tuồng cải lương, hát bội, chỗ kia chiếu bóng xem không mất tiền, chỗ này sân chơi đi những chiếc ô tô con có bọc cao su dày chung quanh, chỗ kia vòng quay trai gái ngồi có máy chạy dềnh lên, thụt xuống như ngồi trên sóng. Sống lúc nhúc trong đó có hàng nghìn những tên cò mồi ma cô. Chúng vui sướng khi nhìn thấy những cặp mắt dại đi, tuyệt vọng đến liều lĩnh, những nét mặt ngơ ngác bần thần đến mất hết trí khôn của người thua bạc. Chúng sán ngay đến, xòe tiền ra ngay trước mặt họ với những lời thì thầm, đường mật, gạ gẫm cầm đồng hồ, cầm nhẫn vàng hoặc nếu người thua bạc là một phụ nữ không có cái gì đổ cầm cố nữa thì chúng tìm cách làm cho người ấy tặc lưỡi, nhắm mắt đến một phòng ngủ có sẵn trong hí trường. Phan Thúc Định đi qua những đám người chen chúc quanh bàn tài xỉu có những cô gái Trung Hoa mặc áo kiểu Thượng Hải để lộ những đôi tay trắng ngần, đang cát tiếng rao trong lanh lảnh; đi qua những bàn ru-lô quay tít có hàng trăm cặp mắt chăm chú nhìn như dán chặt vào cái mặt bàn tròn đang mờ ảo xao động. Anh đến chỗ "phòng lớn". Đây là một ngôi nhà dành riêng cho những con bạc giàu kếch xù. Ngoài cửa, có treo cái biển gỗ với mấy dòng chữ kẻ kiểu chữ in "Cấm những người ăn mặc tồi và đi guốc vào đây". Trái với không khí ồn ào chung của hí trường, cản nhà này rất tĩnh. Những con bạc, có rất nhiều người nước ngoài quay quanh bàn bạc, im lặng đặt từng đống "sầu" và im lãng thu những thẻ tiền đó về. Thỉnh thoảng mới có tiếng trao đổi, tiếng thở dài, tiếng chép miệng rất khẽ. 78 Lô Paul (Pôn) con trai Bảy Viễn, sau này được Viễn phong làm đại tá quân đội Bình Xuyên. Bị quân đội Ngô Đình Diệm bắt trong một trận đánh nhau. Ngày 14 tháng 4 năm 1956, Hai Pôn bị thủ tiêu và bị vất xác tại một nơi cách Phú Lâm 6 ki-lô-mét. Tay chân của Diệm tung tin rằng vì y chạy trốn nên bị bắn chết. 79 Parisien : người Ba-lê 80 Thẻ tiền còn được gọi là "Sầu", thay thế cho tiền mặt trong các sòng bạc lớn ở Đại thế giới. Thẻ tiền có nhiều loại, giá trị từ 10 đồng đến 10.000 đồng Phan Thúc Định nhìn thấy Hai Pôn đang đứng cạnh một cô gái bên bàn bạc. Hai Pôn khoảng hai mươi lăm tuổi, người tầm thước, to ngang, đàu để tóc dài chải mượt úp ra đàng sau kiểu đít vịt, mật vuông, lông mày rậm, da hơi đen, mặc quần áo ka ki Mỹ bó chẽn lấy người, tay áo xắn lên quá khuỷu. Cô gái chừng mười chín đôi mươi, có dáng một cô gái Bắc di cư, người nhỏ nhắn, mặc áo dài màu xanh nhạt. Hai Pôn lấy trong túi áo từng nắm "sầu" đưa cho cô gái để cô gái đặt lên bàn bạc. Phan Thúc Định đến gần Hai Pôn. Hắn nhận ngay ra anh, nhăn nhở nhìn anh cười, bắt tay anh và giới thiệu: - Đây là em Cẩm Nhung81 và quay sang cô gái đây là anh Phan, anh kết nghĩa của anh vừa ở Ba lê về chơi. Cô gái nghiêng đầu chào Định. Anh đáp lại với cử chỉ lịch thiệp, rồi quay sang phía Hai Pôn : - Ba ở nhà vẫn mạnh chứ chú ? Hai Pôn nói nhỏ với Định, nhưng cũng đủ để cô gái nghe thấy, giọng khoe khoang : - Ba em vừa sang Pháp để gặp Quốc trưởng Bảo Đại. - Có việc gì quan trọng thế ? Ba đi một mình à ? - Điện của Quốc trưởng mời sang ngay. Em chưa rõ việc gì. - Anh đang tìm chú, nhưng chắc hôm nay chú mắc bận. Hắn toét mồm cười : - Vâng, hôm nay em mắc bận phải đưa Nhung đi giới thiệu cho Nhung biết thế nào là hòn ngọc của Viễn Đông. Có việc chi cần không anh ? - Không có việc chi cần lắm. Tỏi định rủ chú đi Mỹ Cảnh. Hôm nay, ở đó có giàn nhạc Phi Luật Tân mới sang, chơi những bàn nhạc "Jazz" mới nhất mà. Cô gái thấy hai người nói chuyện không dính líu gì đến mình thì lại quay sang theo dõi bàn bạc. Phan Thúc Định như vô tình chợt nhớ ra hỏi Hai Pôn : - À, chú định đưa anh đến chơi nhà anh thư ký riêng của tướng Năm Lửa82- Bao giờ anh em ta đi nhỉ ? Biết thêm một người bạn là một điều đáng quí. - Tối mai anh nhé ! Phan Thúc Định chìa tay bắt tay Hai Pôn : - Được rồi. Hẹn trước với chú một chầu say túy lúy. Anh quay sang gật đầu chào cô gái. Hai Pôn và cô gái lại chúi đầu vào bàn bạc. Định rời khỏi hí trường Đại thế giới, lái xe quay về Sài Gòn. Chiếc xe chạy vào đường Ca-ti-na83 khu phố ăn chơi, mua bán của người Âu ở Sài Gòn, đến trước cửa tiệm nhảy "Liberty Palace", một tiệm nhảy lớn, lộng lẫy nhất Sài Gòn dành riêng cho các sĩ quan Pháp, cố vấn Mỹ và giới thượng lưu của thành phố. Anh lái xe đỗ vào dãy xe của khách đến tiệm. Anh mở cửa xe bước xuống, đứng bên xe, thong thả mở hộp thuốc lá, lấy một điếu châm lưa ngắm nhìn hàng chữ "Liberty Palace" nhấp nháy rực rỡ bằng ống đèn huỳnh quang xanh đỏ. Tiếng nhạc văng vẳng vọng ra với những tiếng trống giần giật, tiếng kèn "trom-pét" mời gọi. 81 Cẩm Nhung - một vũ nữ, quê ở Hải Phòng di cư ở miền Bắc vào. Sau khi Hai Paul bị Ngô Đình Diệm thủ tiêu, Cẩm Nhung được trung tá Thức "bao". Vợ trung tá Thức là Lâm Thị Nguyệt ghen, thuê người tạt a-xít vào mặt Nhung. Hiện nay Cẩm Nhung vẫn còn sống. TG 82 Tức là Trần Văn Soái : một lãnh tụ của giáo phái Hòa Hảo 83 Ngày nay là đường Đồng Khởi. """