"
Sử Ký II. Liệt Truyện (Thượng) - Tư Mã Thiên & Phạm Văn Ánh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sử Ký II. Liệt Truyện (Thượng) - Tư Mã Thiên & Phạm Văn Ánh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
QUYỂN 61
BÁ DI LIỆT TRUYỆN
Phàm kẻ học phải kể cứu thư tịch rộng khắp, lại cần khảo tìm chứng cứ trong Lục nghệ*. Thi, Thư tuy tàn khuyết, nhưng vẫn có thể biết qua di văn của thời Ngu thời Hạ. Nghiêu sắp thoái vị, nhường ngôi cho Ngu Thuấn, từ Thuấn đến Vũ, quan Tứ nhạc và Thập nhị mục* đều tiến cử người, bèn cho thử thách, tạm giao chức vụ trong mấy chục năm, có công tích mới trao thực quyền, để tỏ rõ rằng thiên hạ là hệ trọng, vương giả là ngôi tôn quý, truyền thiên hạ là việc khó khăn đến thế đó. Nhưng có thuyết cho rằng Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không nhận, còn cảm thấy xấu hổ mà trốn đi ở ẩn. Đến thời Hạ lại có thêm Biện Tùy và Vụ Quang. Điều này giải thích sao đây?
Thái sử công bàn rằng: Ta lên Ky Sơn, đại để trên đó có mộ Hứa Do. Khổng tử phân hàng chia thứ những bậc nhân - thánh - hiền thời cổ như Ngô Thái Bá, Bá Di rất ư tường tận. Theo những điều ta được nghe thì Hứa Do, Vụ Quang là những người vô cùng nghĩa khí, nhưng ghi chép về họ thì lại quá ư ít ỏi, ấy là vì sao?
Khổng tử nói: “Bá Di, Thúc Tề không nhớ đến thù cũ, niềm oán hận cũng ít. Cầu nhân được nhân, còn oán gì nữa?” Ta buồn về cách nghĩ của
Bá Di, xem các bài thơ còn lại của ông cũng lấy làm lạ thay. Lời truyền về ông như sau:
Bá Di, Thúc Tề là hai trong số các con trai của vua Cô Trúc. Cha muốn lập Thúc Tề lên thay, đến khi cha chết, Thúc Tề nhường cho Bá Di. Bá Di nói: 'Đó là lệnh của cha vậy.' Thế rồi bỏ đi. Thúc Tề cũng không chịu lên ngôi mà bỏ đi theo. Bách tính trong nước lập người con giữa lên ngôi. Thế rồi Bá Di và Thúc Tề nghe nói Tây bá là Xương khéo chăm sóc người già, bèn đi đến đó. Tới nơi, Tây bá đã chết, Vũ vương nâng thần chủ của cha, tôn thụy hiệu là Văn vương, rồi tiến về đông đánh vua Trụ. Bá Di, Thúc Tề
khấu đầu trước ngựa can rằng: "Cha chết chưa chôn đã động can qua, có gọi là hiếu chăng? Bề tội giết vua, có gọi là nhân chăng?" Tả hữu chực đâm hai ông. Thái công* nói: “Đây là những người có nghĩa vậy" bèn đỡ dậy đưa đi. Vũ vương dẹp được loạn nhà Ân, thiên hạ quy thuận nhà Chu, còn Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đó, vì nghĩa không ăn thóc gạo nhà Chu, ẩn cư ở núi Thú Dương, hái rau vi* mà ăn. Tới khi đói sắp chết có làm bài ca, lời rằng:
Đăng bỉ Tây sơn hề, thái kỳ vị hĩ.
Dĩ bạo dịch bạo hề, bất tri kỳ phi hĩ.
Thần Nông, Ngu, Hạ hốt yên một hè, ngã an đích quy hĩ? Vu ta tồ hề, mệnh chi suy hĩ!
(Lên non Tây kia chừ, hái ngọn rau vi.
Lấy bạo thay bạo chừ, chẳng biết rằng sai.
Thần Nông, Ngu, Hạ thoắt đã qua chừ, ta biết về đâu?
Hỡi ôi chết chừ, mệnh đã suy rồi).
Thế rồi chết đói trên núi Thú Dương.
Từ đó mà xét, phỏng oán hay chăng?
Có người nói: “Đạo trời không thiên vị ai, thường dành cho bậc thiện nhân.” Như Bá Di, Thúc Tề, có thể gọi là thiện nhân hay không? Tích chứa điều nhân, đức hạnh thuần khiết đến thế mà chết đói! Và trong số 70 học trò*, Trọng Ni* chỉ coi Nhan Uyên* là người hiếu học. Nhưng Nhan Hồi nghèo khó, tấm mẳn không đủ no, rốt cuộc cũng chết yểu. Trời báo đáp
cho bậc thiện nhân như thế ư? Hằng ngày Đạo Chích* giết kẻ vô tội, róc thịt người, tàn bạo vô chừng, tụ tập bè đảng mấy ngàn người, hoành hành khắp chốn trong thiên hạ, rốt cuộc lại sống thọ. Thế là noi theo cải đức gì vậy? Đó là những trường hợp rất tiêu biểu dễ thấy vậy. Đến như gần đây, những kẻ làm điều vô phép, phạm việc cấm kỵ mà cả đời thảnh thơi an lạc, giàu có nối đời không dứt. Hoặc có người chọn chỗ [chính đáng] mà đứng chân, lựa lúc [thích hợp] mới mở miệng, không đi theo lối tắt, không phải việc công chính thì không gắng sức làm, thế mà gặp tai họa, nhiều không sao kể xiết. Ta rất mực hoài nghi, cái gọi là đạo trời, thực có hay không?
Khổng tử nói: “Đạo không tương đồng thì chẳng thể cùng mưu tính”, mỗi người đều có chí hướng riêng. Nên mới nói: “Giàu sang mà có thể cầu được, tuy chỉ làm kẻ cầm roi ngựa, ta cũng làm. Còn không thể cầu được, thì ta theo cái mình thích.” “Năm lạnh, sau mới hay cây tùng cây bách điêu tàn cuối cùng.” Đời thảy ô trọc, mới thấy được kẻ sĩ thanh cao. Há vì có người coi trọng phú quý mới thấy kẻ xem nhẹ giàu sang ư?
“Người quân tử hận rằng sau khi chết mà danh tiếng không được xưng tụng.” Giả tử* nói: “Người nghèo tham lam chết vì của, kẻ sĩ cương liệt chết vì danh, kẻ chuộng hư vinh chết vì quyền, chúng dân thì tranh đấu vì cuộc sống.” “Cùng sáng thì phản chiếu nhau, cùng loại thì tìm đến nhau.” “Mây theo rồng, gió theo hổ, thánh nhân chế định khuôn phép mà muôn vật hiện rõ.” Bá Di và Thúc Tề tuy là người hiền, được phu tử xưng tụng nên danh tiếng càng tỏ rạng. Nhan Uyên dù ham học, được theo đuôi ngựa ký* mà đức hạnh càng thêm rạng rỡ. Kẻ sĩ ẩn cư nơi hang núi, tuy xuất-xử hợp thời như thế, nhưng tên tuổi mai một không ai biết tới, buồn thay! Những người ở xóm làng, muốn rèn đức lập danh, không theo kẻ sĩ hiển đạt, sao có thể vang danh hậu thế?
QUYỂN 62
QUẢN, YẾN LIỆT TRUYỆN
Quản Trọng
Quản Trọng tên Di Ngô, người Dĩnh Thượng. Thuở trẻ thường giao du với Bão Thúc Nha, Bão Thúc biết ông là người hiền. Quản Trọng nghèo khốn, thường dối gạt Bão Thúc, Bão Thúc trước sau vẫn đối xử tốt với ông, không hề phàn nàn. Rồi sau, Bão Thúc thờ Công tử Tiểu Bạch nước Tề, Quản Trọng thờ công tử Củ. Đến khi Tiểu Bạch lên ngôi, đó là Hoàn công, công tử Củ chết, Quản Trọng bị bỏ tù. Bão Thúc liền tiến cử Quản Trọng. Quản Trọng được dùng, nắm chính sự ở Tề. Tề Hoàn công trở thành bá chủ, chín lần hội họp chư hầu, chấn chỉnh thiên hạ, đều nhờ mưu lược của Quản Trọng.
Quản Trọng nói: “Ta lúc đầu khốn khó, thường cùng Bão Thúc đi buôn, khi chia lời thì lấy phần hơn, Bão Thúc không cho ta là tham, vì biết ta nghèo. Ta thường bày mưu tính kế cho Bão Thúc song càng khiến ông ta khốn quẫn, Bão Thúc không cho ta là ngu, vì biết thời thế có lúc lợi, có lúc bất lợi. Ta từng làm quan mấy lần nhưng đều bị vua đuổi đi, Bão Thúc không cho ta là bất tài, vì biết ta chưa gặp thời. Ta từng đánh trận đôi ba lần nhưng đều chạy trốn, Bão Thúc không cho ta là nhát, vì biết ta có mẹ già. Công tử Củ thất bại, Thiệu Hốt chết theo, ta chịu nhục trong tù ngục tối tăm, Bão Thúc không cho là ta không biết xấu hổ, vì biết ta không nệ
tiểu tiết, chỉ xấu hổ khi công lao và danh tiếng không được rạng tỏ trong thiên hạ. Sinh ra ta là cha mẹ ta, người hiểu ta là Bão tử vậy.” Bão Thúc tiến cử Quản Trọng, còn mình nhận chức thấp hơn. Con cháu
đời đời hưởng lộc ở nước Tề, trên mười đời có ấp phong, đều là các bậc đại phu danh tiếng. Thiên hạ không có nhiều người hiền năng như Quản Trọng, càng hiếm kẻ biết nhìn người như Bão Thúc vậy.
Quản Trọng làm Tướng quốc, nắm chính sự nước Tề, cho Tề là nước nhỏ bên bờ biển, cần lưu thông hàng hóa, tích trữ của cải, khiến nước giàu
quân mạnh, chung lòng yêu ghét với dân. Nên ông từng nói: “Kho đụn đầy thì dân biết lễ tiết, quần áo đủ thì dân biết vinh nhục, trên có pháp độ thì người thân cận biết đoàn kết gắn bó. Bốn giềng mối* không giương ra thì nước sẽ diệt vong. Lệnh ban xuống như nước đầu nguồn, thuận với lòng dân.” Cho nên chính lệnh đơn giản mà dễ thi hành. Điều mà dân muốn, bởi thế ban cho; thứ dân không muốn, theo đó bỏ đi.
Quản Trọng thi hành chính sự, khéo đổi họa thành phúc, chuyển bại thành thắng, biện rõ nặng nhẹ, thận trọng quyền hành. Hoàn công nổi giận với nàng Thiếu Cơ, liền tiến sang phía nam đánh úp đất Sái, Quản Trọng nhân đó đánh nước Sở, hạch tội Sở không mang cỏ bao mao* vào cổng nhà Chu. Hoàn công muốn lên mạn bắc đánh Sơn Nhung, Quản Trọng lại nhân đó lệnh cho nước Yên phải chấn chỉnh theo chính giáo của Thiệu công. Trong cuộc hội minh ở đất Kha, Hoàn công muốn bội ước với Tào Mạt, Quản Trọng vì thế thủ tín với họ, do đó chư hầu quy phục nước Tề. Cho nên nói: “Biết cho đi để nhận về, đó là phép báu của chính sự vậy.”
Quản Trọng giàu có ngang vua, có đài Tam Quy tráng lệ, lại có đài riêng thết yến, nhưng người nước Tề không cho là xa xỉ. Quản Trọng chết, nước Tề noi theo đường lối chính trị của ông, thường hùng mạnh hơn các chư hầu. Trăm năm sau lại có Yến tử*.
Yến Anh
Yến Bình Trọng tên Anh, người Di Duy đất Lai. Ông thờ Linh công, Trang công, Cảnh công nước Tề, sống tiết kiệm, lại dốc sức thi hành chính sự nên được nước Tề trọng dụng. Khi đã làm Tướng quốc nước Tề, ăn không hai món thịt, thiếp không mặc lụa là. Lúc tại triều, vua hỏi đến thì đáp lời chính trực; không hỏi đến thì làm đúng phép công. Nước có pháp
độ thì thuận theo lệnh vua, nước không theo pháp độ thì cân nhắc mệnh vua mà thi hành. Thế nên làm quan trải ba đời vua, danh tiếng lẫy lừng các nước chư hầu.
Việt Thạch Phủ là người hiền, bị giam cầm. Yến tử xuất hành, gặp trên đường đi, liền tháo ngựa bên trái xe ra chuộc, rồi chở về. Không lời hỏi han, Yến tử vào phòng. Lâu sau, Việt Thạch Phủ yêu cầu tuyệt giao, Yến tử kinh ngạc, xốc vội áo mũ đến tạ lỗi rằng: “Anh này tuy không phải người có đức nhân, nhưng từng cứu ngài khỏi nơi nguy khốn, sao ngài lại đòi tuyệt giao sớm vậy?" Thạch Phủ nói: “Không phải, tôi nghe nói người quân tử thì bỏ kẻ không hiểu mình mà tin người hiểu mình. Mới rồi, tôi trong cảnh giam hãm, do họ không hiểu tôi vậy. Xét lẽ, ngài đã biết mà chuộc tôi, đó là hiểu tôi; hiểu tôi mà không đối đãi bằng lễ, thì chẳng bằng trong cảnh giam hãm.” Thế là Yến tử liền mời Thạch Phủ vào, tôn làm thượng khách.
Yến tử làm Tướng quốc nước Tề, khi ra ngoài, vợ người đánh xe ngựa ngó nhìn chồng qua cánh cửa. Người chồng được đánh xe cho Tướng quốc, ngồi xe có lọng lớn, cầm cương bốn ngựa, dương dương tự đắc. Đến lúc về, vợ anh ta xin đi khỏi nhà. Chồng hỏi lý do, người vợ đáp: “Yên tử cao chưa đầy sáu thước, thân là Tướng quốc nước Tề, nổi danh chư hầu. Nay thiếp nhìn ông ta khi ra ngoài, chí khí thâm sâu, tỏ vẻ khiêm hạ. Còn chàng cao tám thước, lại là kẻ hầu đánh xe, nhưng có ý tự cho thế là đủ, nên thiếp xin đi.” Về sau, người đánh xe tự biết sửa đổi. Yến tử thấy lạ mới hỏi, người đó đáp rõ ngọn ngành, Yến tử bèn cất nhắc làm đại phu.
Thái sư công bàn rằng: Ta đọc các bài Mục dân, Cao sơn, Thừa mã, Khinh trọng, Cửu phủ cho tới sách Quản tử xuân thu của Quản Trọng,
những lời của ông tường tận thay! Đã xem trước thuật, muốn thấy việc làm, cho nên soạn ra truyện ký. Đến như sách của ông, người đời phần nhiều đều có, do vậy không luận đến, chỉ bàn đội việc còn được nghe truyền.
Quản Trọng được người đời coi là bề tôi hiền năng, nhưng bị Khổng tử xem thường. Có lẽ vì Quản Trọng cho đạo của nhà Chu suy vi, Hoàn công là người hiền đức, lại không khích lệ ông ta theo vương đạo, mà chỉ xưng bá chăng? Cổ ngữ có nói: “Cần thuận thế khuyến khích đức tốt của vua, để sửa đổi chỗ lầm lỗi, cho nên vua tôi trên dưới thân ái vậy.” Há để nói về Quản Trọng chăng?
Khi Yến tử đang quỳ khóc bên xác Trang công, tận lễ rồi bỏ đi, há gọi là người “thấy việc nghĩa không làm thì không có dũng khí” chăng? Đến khi can gián, phạm đến nhà vua, đó chính là người “tại triều phải nghĩ sao cho hết lòng trung, lui về lại nghĩ cách để khắc phục lỗi lầm của vua” vậy. Giả như Yến tử còn sống, dẫu chỉ làm kẻ cầm roi ngựa cho ông, ta cũng vui lòng.
QUYỂN 63
LÃO TỬ, HÀN PHI LIỆT TRUYỆN
Lão tử Lý Nhĩ
Lão tử người làng Khúc Nhân, hương Lệ, huyện Khổ, nước Sở. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đam, giữ chức sử quan coi kho sách cho nhà Chu. Khổng tử đến nhà Chu, hỏi Lão tử về lễ. Lão tử nói: “Lễ mà ngài nói, những người chế định ra xương cốt đều mục nát cả rồi, chỉ còn lời nói mà thôi. Vả lại bậc quân tử được thời thì ngồi xe ngựa, không được thời thì phiêu bạt như cỏ bồng. Ta nghe nói, lái buôn giỏi thì giấu kín tài vật như không có gì, người quân tử đức cao thì dung mạo tựa kẻ ngu. Hãy vứt bỏ khí chất kiêu ngạo và đa dục, thần sắc và chí hướng cao vời của ngài đi, vì chúng thảy không có ích cho người quân tử. Điều ta muốn nói với ngài chỉ vậy mà thôi.” Khổng tử lên đường, bảo học trò rằng: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy thì có thể sập lưới, bơi thì có thể mắc câu, bay thì có thể trúng tên, đến như con rồng thì ta không thể biết, vì nó cưỡi gió mây mà bay lên trời. Nay ta gặp Lão tử, ông ta cũng giống con rồng vậy?”
Lão tử tu rèn đạo đức, học thuyết của ông chuộng việc tự ẩn dật không cầu danh tiếng. Ông ở nhà Chu lâu ngày, thấy triều Chu suy vi, bèn bỏ đi. Đến quan ải, viên lệnh là Doãn Hỷ nói: “Ngài sắp đi ở ẩn, gắng vì tôi mà viết sách.” Thế là Lão tử bèn viết sách, chia làm hai thiên thượng và hạ,
nói về ý nghĩa của “đạo” và “đức” với hơn năm nghìn chữ, rồi đi, không ai biết kết cục cuối cùng.
Có người nói: Lão Lai tử cũng là người nước Sở, viết sách gồm 15 thiên, nói về tác dụng của Đạo gia, cùng thời với Khổng tử. Đại để Lão tử thọ trên 160 tuổi, có người nói thọ trên hai trăm tuổi, vì tu đạo nên kéo dài được tuổi thọ.
Khổng tử mất, 129 năm sau sử ghi rằng: Thái sử Đam nhà Chu gặp Tần Hiến công, nói: “Hồi đầu Tần và Chu hợp làm một, hợp năm trăm năm thì tách, tách bảy mươi năm thì bá vương xuất hiện.” Có người cho rằng Đam tức Lão tử, có người nói không phải, người đời chẳng biết ai nói đúng, ai nói sai. Lão tử là bậc quân tử ẩn cư vậy.
Con của Lão tử tên là Tông, làm tướng nước Ngụy, được phong đất Đoạn Can. Con Tông là Chú, Con Chú là Cung, chắt của Cung là Giả, Giả làm quan thời Hiếu Văn đế nhà Hán. Còn con của Giả là Giải thì làm Thái phó cho Giao Tây vương là Ngang, bởi thế gia đình sống ở nước Tề.
Người đời học Lão tử thì bài xích nho học, theo Nho học thì chê bai Lão tử. “Đạo không tương đồng thì chẳng thể cùng mưu tính”, có lẽ là vậy chăng? Lý Nhĩ chủ trương “vô vi” mà dân tự cải hóa, “thanh tĩnh” mà dân tự theo đường chính.
Trang Chu
Trang tử, người đất Mông, tên là Chu. Chu từng giữ chức lại Tất Viên, đất Mông, cùng thời với Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương. Học thuyết của ông không gì không đề cập, nhưng cái gốc quan trọng nhất là lời Lão tử. Do đó ông viết sách hơn mười vạn chữ, đại để đều theo lối ngụ ngôn. Viết các thiên “Ngư phủ”, “Đạo Chích”, “Khư khiếp” nhằm chế giễu môn
đồ của Khổng tử, để xiển phát học thuyết của Lão tử. Các thiên “Ủy lũy hư”, “Kháng tang tử” đều là những lời nói suông, không phải sự thực. Nhưng ông giỏi phân tích văn từ, khéo tả tình tả cảnh, để công kích nho gia, Mặc gia, ngay các bậc học vấn uyên bác đương thời cũng không sao biện bác được. Ngôn từ của ông mênh mông phóng khoáng, cốt thỏa ý mình. Vì thế từ vương công đại phu đều không thể sử dụng học thuyết của ông.
Sở Uy vương nghe danh Trang Chu là người hiền năng, sai sứ mang hậu lễ đến đón, hứa phong làm Tướng quốc. Trang Chu cười nói với sứ giả
của Sở vương rằng: “Ngàn vàng là lợi lớn, khanh tướng là tước cao. Ngài không thấy con vật tế ở lễ tế giao ư? Được nuôi dưỡng mấy năm, được
mặc tơ lụa đẹp, để rồi vào thái miếu. Khi ấy, lại chỉ muốn làm con lợn côi cút, phỏng có được không? Ngài mau đi đi, đừng làm nhơ đến ta. Ta thà bơi đùa trong ngòi đục mà tự thấy vui, chứ không để người làm vua trói buộc, trọn đời không làm quan để thỏa chí ta mà thôi.”
Thân Bất Hại
Thân Bất Hại, người đất Kinh, vốn là bề tôi hèn mọn nước Trịnh. Ông dùng học thuật [hình danh] dâng lên Chiêu hầu nước Hàn nhằm cầu quan tước, được Chiêu hầu dùng làm Tướng quốc. Ông trong thì sửa Sang chính sự, ngoài thì ứng phó chư hầu, trải mười lăm năm. Rốt cuộc Thân tử cũng khiến nước mạnh binh hùng, không nước nào dám xâm phạm nước Hàn.
Học thuyết của Thân tử gốc ở Hoàng-Lão*, chủ ở “hình danh”*. Ông viết sách gồm hai thiên, gọi là sách Thân tử.
Hàn Phi
Hàn Phi là một trong các công tử nước Hàn, thích cái học “hình danh” nhưng học thuyết thì quy về cái học Hoàng-Lão. Phi là người nói lắp, không thể luận đàm nhưng giỏi viết sách. Cùng Lý Tư đều thờ Tuấn Khanh làm thày, Tư tự cho mình không bằng Phi.
Phi thấy nước Hàn suy yếu, nhiều lần dâng thư can gián, Hàn vương không nghe theo. Thế rồi, Hàn Phi chán việc trị quốc mà không làm sáng rõ pháp độ, cậy thế để sai khiến bề tôi, không biết cầu hiền tài giúp nước giàu quân mạnh, trái lại chỉ cất nhắc kẻ phù phiếm có hại cho nước đứng trên người có công tích thực sự. Ông cho rằng người theo đạo nho dùng văn làm loạn phép tắc, còn đám võ hiệp dùng võ phạm điều cấm kỵ. Khi thanh bình thì sủng ái người có danh tiếng, lúc nguy cấp lại dùng võ sĩ
mang giáp trụ. Nay, người được cung dưỡng thì không thể sử dụng, người cần sử dụng lại không chịu cung dưỡng. Ông buồn vì bề tôi liêm khiết chính trực thì bọn tà vạy không dung chứa, xem khắp sự biến thiên được mất các đời, mà viết các tác phẩm: Cô phẫn, Ngũ đố, Nội ngoại trữ, Thuyết lâm, Thuyết nan, thảy trên mười vạn chữ.
Hàn Phi biết cái khó của việc du thuyết nên viết sách Thuyết nan vô cùng đầy đủ, vậy mà sau rốt bị chết ở Tần, không thể đào thoát. Sách Thuyết nan viết:
Phàm cái khó của việc du thuyết không khó ở việc đem điều ta biết ra nói, cũng không khó ở chỗ khó diễn đạt rõ ý mình, càng không khó ở chỗ ta có dám nói hết ý hay không. Mà cái khó của việc du thuyết là ở chỗ phải biết tâm của người mình muốn du thuyết, vậy mới có thể nói cho thỏa đáng.
Du thuyết người muốn có danh vọng cao mà nói về lợi lớn, họ sẽ xem mình thấp kém mà xử theo lối hạ tiện, ắt bỏ ta thật xa. Du thuyết kẻ muốn được lợi lớn mà lại nói về danh vọng cao, họ sẽ cho mình vô tâm mà không hiểu rõ sự tình, ắt chẳng chịu nghe theo. Người được du thuyết thực sự muốn lợi lớn nhưng lại tỏ vẻ muốn danh vọng cao, mà mình lại lấy danh vọng cao để du thuyết, họ sẽ và lắng nghe mà thực tâm hờ hững; nếu đem lợi lớn để du thuyết, họ ngấm ngầm nghe theo mà bề ngoài tỏ vẻ lạnh nhạt, Những điều đó không thể không biết đến vậy.
Xét lẽ, việc bí mật thì thành công, lời tiết lộ thì thất bại. Chưa hẳn là do người du thuyết tiết lộ, mà khi du thuyết, người du thuyết nói ra điều mà người được du thuyết muốn giữ kín, như thế sẽ nguy đến thân. Người nắm quyền mắc lỗi mà người du thuyết lại khéo léo bàn luận đến lỗi của họ, tất sẽ nguy đến thân. Khi ấn trạch chưa nhuần thấm mà người du thuyết đã
nói tận ý, nếu thi hành có công hiệu cũng sẽ bị lãng quên, còn chẳng may thi hành thất bại tất sẽ bị nghi ngờ, thế đều nguy đến thân. Người nắm quyền có kế sách nhưng muốn tự quy công về mình mà người du thuyết tỏ ra biết tâm ý đó, vậy sẽ nguy đến thân. Họ bề ngoài muốn tự làm một số việc mà người du thuyết lại trình bày chân tướng, tỏ ra biết hết, vậy sẽ nguy đến thân. Ép họ làm việc mà họ quyết không làm, buộc họ dừng việc họ không thể dừng, vậy sẽ nguy đến thân. Cho nên nói: Cùng bàn về nhân vật lớn, họ cho là mình ly gián, bàn về nhân vật nhỏ, họ cho là mình bán quyền. Bàn đến điều họ thích, liền cho là mình bợ đỡ, bàn đến thứ họ ghét, lại cho là mình thăm dò. Nói quá giản lược, họ cho là mình không biết mà xem thường, nói to tát quá, họ cho là mình lan man mất thì giờ. Trình bày sự việc theo ý muốn, họ cho là mình khiếp nhược mà không dám tận ý; xét kỹ càng chân tướng sự việc, họ cho là mình quá ư thô lỗ và ngạo mạn. Đó là những cái khó trong việc du thuyết, không thể không biết vậy.
Phàm điều cốt yếu trong du thuyết ấy là phải biết điểm tô thêm điều mà người được du thuyết tôn kính, và loại bỏ không nói những điều họ ghét. Họ tự cho là biết kế sách thì chớ vạch lỗi làm khó họ; tự coi là mạnh mẽ quyết đoán thì đừng chọc giận khích tướng họ; tự coi là thế lực mạnh thì đừng lấy việc khó thử thách họ. Khi họ mưu việc với người khác, hoặc khen người mà họ cùng mưu tính thì tô điểm thêm chứ đừng làm tổn hại. Người nào có chung lỗi lầm giống họ thì phải tô vẽ lên để họ không có lỗi lầm. Khi lòng trung thành của mình không còn bị ngờ vực, trước những lời mình nói ra họ không còn nghi kỵ, rồi sau mình mới thể hiện tài năng biện bác và kiến văn. Đó chính là thân cận mà không nghi ngờ, là chỗ khó của việc thi triển hết tài trí vậy. Qua một thời gian dài, ơn trạch đã nhuần thấm, bày thâm kế mà không bị nghi hoặc, cùng tranh luận mà không bị
hạch tội, mới có thể nêu kế sách hay biện rõ lợi hại để đưa họ đến thành công, vạch rõ phải trái để họ chính đáng, làm thế để phụ giúp họ, vậy là việc du thuyết thành công vậy.
Y Doãn là đầu bếp, Bách Lý Hề là nô lệ, nhưng đều được nhà vua trọng dụng. Hai người ấy đều là thánh nhân mà không thể không làm những việc lao dịch, sống trong cảnh ở tạp, đó không phải là sự sắp đặt khiến bề tôi giỏi phải xấu hổ.
Nước Tống có người giàu, trời mưa khiến tường lở, người con nói: “Không đắp lại tường thì trộm vào nhà.” Người hàng xóm cũng nói thế, tối đến, quả nhiên bị mất nhiều tài sản. Người cha rất hiểu con mình nên nghi người hàng xóm kia lấy trộm. Xưa, Trịnh Vũ công muốn đánh Hồ, bèn đem con gái gả cho vua nước đó. Nhân đấy hỏi quần thần: “Ta muốn dụng binh, kẻ nào đáng đánh?” Quan Kỳ Tư nói: “Đánh người Hồ.” Trịnh Vũ công bèn giết Quan Kỳ Tư, nói: “Hồ là nước anh em của ta, ngươi nói đánh họ, cớ làm sao?” Vua nước Hồ biết chuyện, cho rằng nước Trịnh thân với mình mà không phòng bị. Người nước Trịnh đánh úp nước Hồ, chiếm lấy nước. Hai trường hợp nói trên, đều là người hiểu chuyện, nặng thì bị giết, nhẹ thì bị ngờ. Biết không khó, xử lý cái mình biết mới khó.
Xưa, Di Tử Hà được vua nước Vệ sủng ái. Pháp luật nước Vệ quy định, kẻ nào lén ngồi xe của nhà vua sẽ bị chặt chân. Thế rồi, mẹ Di Tử bị bệnh, có người hay chuyện, đêm đến báo tin, Di Tử vội lấy xe của nhà vua mà đi. Nhà vua biết chuyện, cho Di Tử là con hiếu, nói: “Hiếu thay, vì mẹ mà phạm tội chặt chân.” Di Tử dạo chơi trong vườn cùng vua, ăn đào thấy ngọt, bèn dâng vua quả đào ăn dở, vua nói: “Yêu quý ta thay, không đành ăn mà nghĩ đến ta.” Đến khi nhan sắc Di Tử đã suy, không còn được sủng ái như trước, đắc tội với vua, vua nói: “Kẻ này từng lén đi xe của ta, lại
đưa ta ăn quả đào ăn dở.” Việc làm của Di Tử không khác lúc trước, ban đầu được coi là hiếu mà sau bị tội, đều do yêu ghét xui nên như thế. Cho nên được chủ yêu thì nhờ cái mình biết để càng thêm thân, bị chủ ghét thì vì chút lỗi lầm khiến càng xa cách. Vì thế kẻ sĩ can gián hay du thuyết trước khi nói không thể không xét niềm yêu ghét của chủ.
Xét lẽ, rồng là loài vật, có thể thuần hóa rồi cưỡi được. Nhưng dưới họng nó có cái vảy ngược độ thước, kẻ nào đụng vào ắt bị giết ngay. Người làm vua cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết phải làm sao đừng đụng vào, ngõ hầu mới được an toàn.
Có người mang sách của Hàn Phi đến nước Tần, Tần vương đọc Cô phẫn, Ngũ đố, than rằng: “Ôi chao, quả nhân được giao du với người này, chết cũng không ân hận.” Lý Tư nói: “Đó là sách do Hàn Phi viết vậy.” Tần nhân đó vội đánh nước Hàn. Ban đầu Hàn vương không trọng dụng Phi, đến khi cấp bách bèn sai Phi đi sứ sang Tần. Tần vương thích Phi, nhưng chưa tin dùng. Lý Tư, Diêu Giả muốn hại Phi, gièm rằng: “Hàn Phi là một trong những công tử của nước Hàn. Nay nhà vua muốn thôn tính chư hầu, Phi sau rốt vẫn vì Hàn chứ không vì Tần, đó là tình của con người vậy. Nay nhà vua không dùng, lưu lại lâu rồi cho về, là tự để lại mối lo, chẳng bằng lấy cớ phạm pháp mà giết đi.” Tần vương cho là phải, giao ngục lại trị tội Phi. Lý Tự sai người đem thuốc độc đến, bắt Phi tự sát. Hàn Phi muốn phân trần nhưng không được tiếp kiến. Sau, Tần vương hối hận, sai người thả ra thì Phi đã chết.
Thân tử, Hàn tử đều viết sách, truyền cho đời sau, kẻ học phần nhiều đều có. Ta riêng buồn cho Hàn tử viết ra Thuyết nan mà không thể tránh được cái chết.
Thái sử công bàn rằng: Điều mà Lão tử coi trọng là “đạo” và “hư vô" bởi chúng đều biến hóa ở chỗ “vô vi nên viết sách ngôn từ vi diệu khó hiểu. Trang tử nói rộng về “đạo” và “đức” bàn luận phóng túng, song cốt vẫn quy ở tự nhiên. Thân tử thì miệt mài thi hành ra ở “danh” và “thực”. Hàn Phi đưa ra khuôn phép, quyết đoán sự tình, biện rõ đúng sai, học thuyết rất ư thảm khốc, ít lòng nhân đức. Các thuyết trên đều gốc ở “đạo” và “đức” nhưng Lão tử là uyên áo nhất.
QUYỂN 64
TƯ MÃ NHƯƠNG TƯ LIỆT TRUYỆN
Tư Mã Nhương Tư* là hậu duệ của Điền Hoàn. Thời Tề Cảnh Công, nước Tấn đánh đất A và đất Chân, còn nước Yên xâm phạm vùng phía nam Hoàng Hà, quân Tề thất bại. Cảnh công rất lo lắng. Yến Anh liên tiến cử Điền Nhương Tư, nói: “Nhương Tư tuy là con tỳ thiếp của họ Điền, nhưng người này vẫn có thể khiến dân chúng quy phục, võ có thể ra oai với địch quân, xin bệ hạ thử dùng.” Cảnh công triệu Nhương Tư đến, cùng bàn việc binh, vô cùng thích thú, bèn phong làm tướng, cầm quân chống lại quân đội nước Yên, nước Tấn. Nhương Tư nói: “Thần vốn thấp hèn, được nhà vua cất nhắc từ nơi thôn xóm, giao trọng trách đứng trên cả quan đại phu, quân lính chưa theo, trăm họ chẳng tin, người không có tiếng tăm thì quyền uy cũng kém, xin nhà vua phái một bề tôi mà mình sủng ái, chức vị tôn quý trong nước, làm giám quân mới được.” Cảnh công đồng ý, sai Trang Giả đến. Nhương Tư từ biệt nhà vua, hẹn với Trang Giả: “Sáng mai, lúc mặt trời đứng bóng gặp nhau ở cửa quân doanh.” Hôm sau, Nhương Tư cưỡi ngựa đến trước, dựng cột biểu tính thời gian chờ Giả. Giả vốn là kẻ quyền quý kiêu căng, cho mình đứng đầu trong quân mà còn làm giám quân thì không cần vội, đám thủ hạ thân thích đưa tiễn rồi giữ lại uống rượu. Giữa trưa vẫn chưa thấy Giả đến, Nhương Tư cho hạ cột biểu để xác định thời gian, rồi vào quân doanh, điều khiển quân binh, nêu rõ kỷ luật.
Quán triệt xong xuôi, đến chiều tối, Trang Giả mới tới. Nhương Tự hỏi: “Sao trễ hẹn vậy?” Giả tạ lỗi rằng: “Các đại phu, thân thích đưa tiễn, cho nên tôi đến muộn.” Nhương Tư nói: “Tướng vào ngày nhận lệnh thì quên gia đình, vào trong quân theo quân kỷ thì quên người thân, trống giục nguy cấp thì quên thân mình. Nay, địch đã lấn sâu, trong nước rúng động, quân sĩ dãi nắng dầm sương nơi biên cảnh, vua ăn không ngon ngủ không yên, tính mạng trăm họ gửi cả ở ông, sao còn nói việc đưa tiễn?” Bèn triệu người phụ trách quân pháp đến hỏi: “Quân pháp quy định việc trễ hẹn thế nào?" Đáp: “Phải chém” . Trang Giả sợ hãi, sai người ruổi ngựa cầu cứu Cảnh công. Người đi cầu cứu chưa về, Trang Giả đã bị chém trước ba quân, quân sĩ thảy đều kinh khiếp. Hồi lâu sau, Cảnh công sai sứ giả cầm cờ tiết đến xá tội cho Giả, phóng ngựa vào trong quân doanh. Nhương Tư nói: “Tướng ở trong quân, lệnh vua có lúc không theo.” Lại hỏi người phụ trách quân pháp: “Phóng ngựa vào trong quân doanh thì xử trí thế nào?” Đáp: “Phải chém”. Sứ giả cả sợ. Nhương Tư liền bảo: “Sứ giả của vua thì không thể giết.” Bèn chém kẻ theo hầu, chém cả càng xe và con ngựa kéo xe bên trái để làm gương cho ba quân. Sau đó sai sứ giả về báo với nhà vua rồi tiến quân. Quân sĩ dựng trại đào giếng, làm bếp ăn uống, thăm bệnh bốc thuốc, Tư đều đích thân sắp đặt. Nhương Tư lấy lương bổng tướng quân của mình, chia đều cho sĩ tốt, nhất là với những binh sĩ gầy yếu. Sau ba ngày chỉnh đốn quân ngũ, người ốm kẻ gầy cũng xin đi, phấn chấn tranh nhau ra đánh trận. Quân Tấn hay tin bèn rút lui. Quân Yên nghe tiếng, vượt sông tháo vây. Nhương Tư liền cho quân đuổi đánh, thu lại đất cũ bị mất ở biên cảnh rồi dẫn quân về. Chưa đến kinh đô, cởi bỏ vũ trang, dẹp đi quân lệnh, cùng ăn thề rồi mới vào kinh. Cảnh công cùng các đại phu ra tận ngoài thành nghênh đón, làm lễ ủy lạo quân sĩ xong, cùng trở về
tẩm cung. Sau đó, Nhương Tư được tôn làm Đại tư mã. Họ Điền ở nước Tề ngày một hiển quý.
Về sau, các đại phu họ Bào, Cao, Quốc muốn hại ông, mới gièm với Cảnh công. Cảnh công bãi chức Nhương Tư, khiến ông phát bệnh mà chết. Từ đấy Điền Khất, Điền Báo oán bọn Cao, Quốc. Về sau, Điền Thường giết Giản công, tận diệt họ Cao và họ Quốc. Đến chắt của Thường là Hòa, tự lập làm vua, là Tề Uy vương, dùng binh lập vai, phần lớn đều theo cách của Nhương Tư, còn chư hầu phải quy phục nước Tề.
Tề Uy vương sai đại phu kiếm tìm và chỉnh lý bộ Tư Mã binh pháp, rồi phụ chép binh pháp của Nhương Tư, nhân đó gọi là Tư Mã Nhương Tư binh pháp.
Thái sử công bàn rằng: Ta đọc Tư Mã binh pháp, thấy thực rộng lớn sâu xa, tuy việc chinh phạt thời Tam đại cũng chưa đủ để mường tượng hết nghĩa lý, mà văn của nó khó thêm thắt được gì. Nhưng nếu Nhương Tư chỉ khiển binh ở một nước nhỏ, người ta có rảnh mà nói đến Tư Mã binh pháp chăng? Người đời phần nhiều đều có Tư Mã binh pháp, nên ta không bàn đến, chỉ làm liệt truyện về Nhương Tư.
QUYỂN 65
TÔN TỬ, NGÔ KHỞI LIỆT TRUYỆN
Tôn Vũ
Tôn tử tên Vũ, người nước Tề, nhờ giỏi binh pháp nên được tiếp kiến Ngô vương Hạp Lư. Hạp Lư nói: “Mười ba thiên binh pháp của ông, ta đã xem cả rồi, có thể thử bày đội ngũ được chăng?" Đáp rằng: “Được.” Hạp Lư nói: “Dùng phụ nữ để thử được chăng?” Đáp: “Được.” Thế là Hạp Lư cho 180 mỹ nữ trong cung ra thử. Tôn tử chia làm hai đội, dùng hai người được vua sủng ái làm đội trưởng, đều ra lệnh cầm kích. Lệnh hỏi: “Các ngươi có biết tay phải, tay trái, phía trước, phía sau ở đâu không?" Các mỹ nữ đáp: “Biết.” Tôn tử nói: “Hô 'trước' thì nhìn về trước mặt, hô 'trái' thì nhìn phía tay trái, hô 'phải' thì nhìn phía tay phải, hô 'sau' thì nhìn phía sau lưng.” Các mỹ nữ đáp: “Dạ.” Ban bố quy định xong xuôi, bèn bày búa rìu làm hình cụ xử tội, nhắc lại mệnh lệnh mấy lần liền, rồi nổi trống ra lệnh quay sang phải. Các mỹ nữ cười ngặt nghẽo. Tôn tử nói: “Quy định không rõ, truyền lệnh không kỹ, là lỗi của kẻ làm tướng”. Lại giải thích các quy định thêm mấy lần, rồi thúc trống sai quay sang trái. Các mỹ nữ lại cười ngặt nghẽo. Tôn tử nói: “Quy định không rõ, truyền lệnh không kỹ, đó là lỗi của kẻ làm tướng; nếu đã rõ mà không tuân quân pháp, đó là lỗi của binh sĩ.” Bèn chực chém hai đội trưởng. Ngô vương từ trên đài nhìn xuống, thấy định chém phi tần sủng ái của mình thì cả sợ, sai sứ
hạ lệnh: “Quả nhân đã biết tài dụng binh của tướng quân. Quả nhân không có hai người họ thì ăn không ngon, xin đừng chém.” Tôn tử nói: “Thần đã vâng mệnh làm tướng, tướng ở trong ở quân, lệnh vua có khi không theo.” Bèn chém hai đội trưởng để thị chúng, dùng người tiếp sau làm đội trưởng, rồi lại thúc trống chỉ huy. Các mỹ nữ quay trái, phải, trước, sau, quỳ, đứng đều đúng quy định, không dám sai sót. Xong xuôi, Tôn tử sai sứ báo với vua rằng: “Binh lính đã chỉnh tề, bệ hạ hãy thử xem, nếu bệ hạ muốn dùng họ, dẫu sai vào nước sôi lửa bỏng cũng có thể được.” Ngô vương nói: “Tướng quân bãi binh về lữ quán nghỉ ngơi, quả nhân không muốn xem tiếp nữa.” Tôn tử nói: “Bệ hạ chỉ thích nói trên sách vở chứ không muốn thi hành trong thực tế.” Hạp Lư biết Tôn tử giỏi dùng binh, sau phong làm tướng. Tây phá nước Sở hùng mạnh, vào tận Dĩnh đô; bắc ra oai với Tề, Tấn, nổi danh chư hầu, đều nhờ công Tôn tử vậy.
Tôn Tẫn
Tôn Vũ chết, hơn trăm năm sau xuất hiện Tôn Tẫn. Tẫn sinh tại vùng thành A và thành Quyên, cũng là hậu duệ của Tôn Vũ. Tôn Tẫn và Bàng Quyên cùng học binh pháp. Bàng Quyên phụng sự nước Ngụy trước, được Huệ vương phong làm tướng quân, nhưng tự cho mình chẳng bằng Tôn Vũ, bèn ngầm sai sứ triệu Tôn Tẫn đến. Tẫn tới, Bàng Quyên sợ Tẫn giỏi hơn mình, sinh lòng ganh ghét, rồi khép Tẫn chịu tội, chặt lìa hai chân, thích chữ lên mặt, muốn phải lánh mặt không cho ai thấy.
Sứ Tề đến Đại Lương, Tôn Tẫn lấy thân phận tội nhân ngầm gặp, thuyết phục sứ Tề. Sứ Tề cho là bậc kỳ tài, lén đưa lên xe chở về Tề. Tướng quốc nước Tề là Điền Kỵ quý Tẫn, tiếp đãi như tân khách. Nhiều lần Kỵ cùng các công tử nước Tề đua ngựa cá cược. Tôn tử thấy ngựa
chạy không thua nhau là mấy. Ngựa chia ba hạng, thượng, trung và hạ. Tôn tử bèn nói với Điền Kỵ: “Ngài cứ đặt cược lớn, tôi sẽ giúp ngài thắng.” Điền Kỵ tin theo, đặt cược cùng vua và các công tử ngàn lạng vàng. Tới khi sắp đua, Tôn tử nói: “Hãy lấy ngựa hạng hạ của ngài đấu với hạng thượng, lấy hạng thượng đấu với hạng trung, lấy hạng trung đấu với hạng hạ.” Đấu ba hạng xong, Điền Kỵ thua một nhưng thắng hai, cuối cùng được ngàn vàng từ vua. Sau đó, Điền Kỵ tiến cử Tôn tử lên Uy vương. Uy vương hỏi về binh pháp rồi tôn làm thầy.
Về sau, Ngụy đánh Triệu, Triệu nguy cấp, xin Tề cứu. Tề Uy vương muốn phong Tôn Tẫn làm tướng, Tẫn từ chối, nói: “Kẻ bị ngục hình không thể làm tướng quân.” Thế là bèn phong Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư. Tẫn thường ngồi trong xe có rèm che để hoạch định mưu kế. Điền Kỵ muốn dẫn quân đến Triệu, Tôn Tẫn nói: “Xét lẽ, gỡ chỗ rối thì không phải xốc tay, chữa chỗ đánh nhau thì chẳng cần xông vào, tránh thực dùng hư, khiến họ thấy khó sẽ phải tự bỏ. Nay Lương, Triệu đánh nhau, tinh binh ắt mỏi mệt ở chiến trường, quân già yếu uể oải ở trong nước. Chẳng bằng ngài hãy dẫn quân đến thẳng kinh đô Đại Lương, chặn đứng đường đi, đánh vào chỗ không phòng bị, họ ắt bỏ vây nước Triệu quay về tự cứu nước mình. Như vậy ta cất quân một lần mà giải được vây cho Triệu, dẫn dắt được nước Ngụy.” Điền Kỵ nghe theo, quân Ngụy quả nhiên bỏ Hàm Đan, đánh nhau với Tề Quế Lăng, đại phá quân Lương.
Mười ba năm sau, Ngụy và Triệu đánh Hàn, Hàn báo nguy với Tề. Tề sai Điền Kỵ đem quân sang, đến thẳng Đại Lương. Tướng Ngụy là Bàng Quyên biết tin, bỏ Hàn rút về thì quân Tề đã sang phía tây rồi. Tôn Tẫn nói với Điền Kỵ: “Quân Tam Tấn* vốn dũng mãnh nên khinh quân Tề, quân Tề có tiếng là khiếp nhược, người giỏi đánh trận sẽ lựa theo tình thế mà dẫn
dắt để có lợi cho mình. Binh pháp nói, tiến quân gấp trăm dặm để đoạt lợi thì chủ tướng cũng kiệt quỵ, tiến gấp năm chục dặm thì chỉ nửa số quân đến nơi. Sai quân Tề vào Ngụy làm mười vạn bếp, hôm sau bớt đi còn năm vạn, hôm sau nữa bớt còn ba vạn.” Bàng Quyên tiến quân ba ngày, thấy vậy cả mừng, nói: “Ta vốn biết quân Tề nhát gan, vào đất ta có ba ngày mà quân lính đã trốn quá nửa rồi.” Bèn bỏ quân bộ, cùng quân khinh kỵ ngày đêm gấp rút đuổi đánh. Tôn tử tính hành trình quân địch, biết buổi tối sẽ đến Mã Lăng. Đường Mã Lăng hẹp, hai bên hiểm trở, có thể phục binh, bèn chặt cây lớn tước vỏ lộ phần trắng, viết lên rằng: “Bàng Quyên chết ở dưới cây này”. Thế rồi sai vạn tay cung thiện xạ trong quân Tề mai phục hai bên đường, hẹn rằng: “Buổi tối, nếu thấy nổi lửa thì nhất tề bắn tên”. Đêm ấy, quả nhiên Bàng Quyên đến chỗ cây nọ, thấy trên cây thân trắng có dòng chữ, bèn đốt đuốc lên xem, đọc chưa xong thì vạn tay cung nước Tề nhất loạt bắn ra, quân Ngụy đại loạn, không ứng cứu được nhau. Bàng Quyên tự biết trí cùng binh bại, liền tự vẫn, nói: “Ta làm thằng nhãi nổi danh rồi?” Quân Tề thừa thắng phá tan quân Ngụy, bắt được thái tử Thân nước Ngụy làm tù binh rồi rút về. Từ đó, danh tiếng Tôn Tẫn vang lừng thiên hạ, binh pháp của ông được lưu truyền ở đời.
Ngô Khởi
Ngô Khởi người nước Vệ, thích dùng binh, thường học binh pháp của Tăng tử*, thờ vua Lỗ. Người Tề tấn công Lỗ, Lỗ muốn phong Ngô Khởi làm tướng, nhưng phải lấy vợ nước Tề nên còn nghi ngờ. Ngô Khởi muốn lập danh, bèn giết vợ để tỏ mình không can hệ gì với Tề. Cuối cùng nước Lỗ phong Ngô Khởi làm tướng. Ngô Khởi cầm quân đánh Tề, cả phá được.
Người nước Lỗ có kẻ gièm Ngô Khởi rằng: “Khởi làm người, quá nhẫn tâm. Lúc trẻ, nhà có ngàn vàng, đi du thuyết hòng làm quan không thành, đến nỗi phá tán toàn bộ sản nghiệp, làng xóm chê cười, Ngô Khởi giết hơn ba mươi người chê cười mình, rồi rời nước Vệ đi sang phía đông. Khi chia tay mẹ già, Khởi bèn cắn vào cánh tay mà thề: 'Khởi không làm nên khanh tướng, không về nước Vệ nữa.' Rồi thờ Tăng tử làm thầy. Không lâu sau, mẹ mất, Khởi vẫn không về. Tăng tử cho Khởi là người bạc bẽo nên cắt đứt quan hệ thầy trò. Khởi bèn sang nước Lỗ, học binh pháp rồi thờ vua Lỗ. Vua Lỗ nghi ngờ Khởi, Khởi liền giết vợ để mong làm tướng. Xét lẽ, Lỗ là nước nhỏ, nếu có danh nghĩa chiến thắng, chư hầu sẽ đánh nước Lỗ. Vả Lỗ và Vệ là nước anh em, nếu vua Lỗ dùng Khởi thì mất lòng nước Vệ.” Vua Lỗ nghi ngờ nên từ chối Ngô Khởi.
Ngô Khởi nghe nói Ngụy Văn hầu hiền đức, muốn thờ ông ta. Văn hầu hỏi Lý Khắc: “Ngô Khởi là người thế nào?" Lý Khắc đáp: “Khởi tham lam hiếu sắc, nhưng dùng binh thì Tư Mã Nhương Tư cũng không hơn được.” Thế là Ngụy Văn hầu cho làm tướng. Khởi cầm quân đánh Tần, hạ được năm thành.
Khởi làm tướng, ăn mặc giống sĩ tốt thấp nhất, nằm không trải chiếu, đi không ngựa xe, chia bớt phần lương, san sẻ khỏ nhọc cùng binh sĩ. Quân lính có kẻ bị u nhọt, Khởi dùng miệng hút mủ cho. Mẹ binh lính đó biết chuyện bật khóc. Có người hỏi: “Con bà là lính mà được tướng quân dùng miệng hút mủ cho, sao lại phải khóc?” Bà mẹ đáp: “Không phải đâu. Khi trước Ngô công hút mủ cho cha nó, cha nó xông pha chiến đấu rồi chết trong tay địch. Nay Ngô công lại hút mủ cho nó, tôi không biết rồi nó sẽ chết ở đâu, vì thế mà khóc.”
Văn hầu cho Ngô Khởi giỏi dụng binh, liêm khiết công bằng, khéo thu phục nhân tâm binh sĩ, bèn phong làm Thái thú Tây Hà để chống Tần và Hàn.
Ngụy Văn hầu chết, Khởi thờ con trai ông là Vũ hầu. Vũ hầu đi thuyền từ Tây Hà xuống, giữa dòng quay lại bảo Ngô Khởi: “Đẹp thay, non sông hiểm trở, đó chính là báu vật của nước Ngụy vậy.” Khởi đáp: “Cốt ở đức chứ không ở đất hiểm yếu. Xưa, Tam Miêu bên trái có hồ Động Đình, bên phải có bến Bành Lãi, không sửa sang đức nghĩa, bị Hạ Vũ tiêu diệt. Chỗ vua Kiệt nhà Hạ ở, trái là sông Hoàng sông Tế, phải là Thái Sơn, Hoa Sơn, núi Y Khuyết ở phía nam, núi Dương Trường trấn mạn bắc, nhưng chính trị bất nhân, bị Thành Thang xua đuổi. Nước của vua Trụ nhà Ân, trái có núi Mạnh Môn, phải có Thái Sơn và Hành Sơn, Thường Sơn ở mạn bắc, sông Hoàng Hà rộng lớn chắn phía nam, nhưng chính sự không dùng đức, bị Vũ vương giết chết. Từ đó mà xét, cốt ở đức chứ không ở đất hiểm hay không. Nhà vua không tu đức, người trong thuyền thảy đều là người nước địch vậy.” Vũ hầu nói: “Phải lắm”.
Ngô Khởi làm Thái thú Tây Hà, rất có danh tiếng. Ngụy lập Tưởng quốc, phong cho Điền Văn. Ngô Khởi không vui, bảo Điền Văn rằng: “Xin luận công với ngài, được chăng?” Điền Văn đáp: “Được.” Khởi hỏi: “Thống lãnh ba quân, khiến sĩ tốt vui lòng xông vào chỗ chết, nước địch không dám động binh, ngài với Khởi ai hơn?" Văn đáp: “Tôi không bằng ngài.” Khởi hỏi: “Sắp đặt trăm quan, muôn dân quy thuận, kho đụn đầy ắp, ngài với Khởi ai hơn?” Văn đáp: “Tôi không bằng ngài.” Khởi hỏi: “Trấn giữ Tây Hà mà quân Tần không dám quấy rối phía đông, Hàn, Triệu quy phục, ngài với Khởi ai hơn?" Văn đáp: “Tôi không bằng ngài.” Khởi hỏi: “Ba việc đó ngài đều kém tôi, mà địa vị lại trên tôi, cớ làm sao?” Văn
đáp: “Vua tuổi còn nhỏ, nước vẫn chưa yên, đại thần chưa quy phục, trăm họ chưa tin theo, vào lúc này đây, giao ngài làm Tướng quốc hay giao cho tôi?” Khởi trầm ngâm hồi lâu, đáp: “Giao cho ngài.” Văn nói: “Chính thế tôi ở chức cao hơn ngài vậy.” Ngô Khởi tự biết mình không bằng Điền Văn.
Điền Văn chết, Công Thúc làm Tướng quốc, lấy công chúa nước Ngụy, ghét bỏ Ngô Khởi. Kẻ hầu của Công Thúc nói: “Khởi dễ trừ thôi.” Công Thúc hỏi: “Tại sao?” Y đáp: “Ngô Khởi là người liêm khiết nhưng hiếu danh. Ngài nói trước với Vũ hầu rằng: 'Ngô Khởi là người hiền mà nước của Vũ hầu thì nhỏ, lại giáp Tần mạnh, thần e Khởi không có ý ở lại lâu dài.' Vũ hầu sẽ hỏi: 'Tại sao?' thì ngài đáp: 'Thử gả công chúa cho Khởi, nếu Khởi có ý ở lại lâu dài sẽ chấp thuận, bằng không sẽ từ chối. Từ đó sẽ biết thôi.' Nhân thế, ngài triệu Ngô Khởi đến nhà, cố ý khiến công chúa giận mà coi thường ngài. Ngô Khởi thấy công chúa coi thường ngài thì ắt từ chối.” Quả nhiên, Ngô Khởi thấy công chúa coi thường Tướng quốc nước Ngụy, liền từ chối yêu cầu của Ngụy Vũ hầu. Vũ hầu nghi ngờ Ngô Khởi nên không tin dùng nữa. Ngô Khởi sợ đắc tội, bèn bỏ đi, đến nước Sở.
Sở Điệu vương vốn nghe danh Khởi hiền tài, vừa đến lập tức phong làm Tướng quốc. Ngô Khởi thẩm xét rõ pháp lệnh, bỏ các chức quan không cần thiết, cắt bổng lộc những người họ xa với vua để cấp phát cho chiến binh. Coi trọng quân đội hùng mạnh, đả phá những kẻ du thuyết. Vì thế phía nam bình định Bách Thành; phía bắc thôn tính Trần và Sái, đẩy lùi Tam Tấn; phía tây đánh Tần. Chư hầu lo sợ trước sự hùng mạnh của Sở. Do quý tộc nước Sở thảy muốn hại Ngô Khởi nên sau khi Điệu vương chết, các đại thần trong tông thất làm loạn, công kích Ngô Khởi, Khởi
chạy núp ở chỗ đặt thi thể nhà vua. Bọn công kích bèn bắn Ngô Khởi, trúng cả thi thể Điệu vương. Chôn Điệu vương xong, thái tử lên ngôi, bèn lệnh giết bọn đã bắn Ngô Khởi và thi thể nhà vua. Những kẻ liên quan bị diệt tộc lên đến hơn bảy mươi nhà.
Thái sử công bàn rằng: Người đời xưng tụng chuyện quân lữ, đều nói đến 13 thiên Tôn tử và sách binh pháp của Ngô Khởi. Các sách này người đời phần nhiều đều có, nên không bàn thêm, chỉ bàn về cách hành sự của họ. Có câu: “Người làm giỏi chưa chắc nói giỏi, người nói giỏi chưa chắc làm giỏi.” Tôn tử tính toán tường minh mưu kế của Bàng Quyên nhưng không sớm nghĩ đến việc bị Bàng Quyên gia hại. Ngô Khởi nói với Vũ hầu coi trọng thế hiểm yếu chẳng bằng tu đức, nhưng thi hành chính sự ở nước Sở lại tàn khốc ít lòng nhân, đến nỗi phải mất mạng. Buồn thay!
QUYỂN 66
NGŨ TỬ TƯ LIỆT TRUYỆN
Ngũ Tử Tư người nước Sở, tên là Viên. Cha Viên là Ngũ Xa, anh là Ngũ Thượng. Tổ tiên của Ngũ Tử Tư là Ngũ Cử, thờ Sở Trang vương, can gián thẳng thắn, vô cùng hiển hách, nhờ thế con cháu có danh tiếng ở nước Sở.
Sở Bình vương có thái tử tên là Kiến, sai Ngũ Xa làm Thái phó, Phí Vô Kỵ làm Thiếu phó. Vô Kỵ bất trung với thái tử Kiến. Bình vương sai Vô Kỵ dẫn thái tử sang lấy vợ ở nước Tần, con gái nước Tần rất xinh đẹp, Vô Kỵ phi ngựa về báo với Bình vương rằng: “Người con gái nước Tần ấy tuyệt đẹp, bệ hạ hãy lấy cô ta, đổi thái tử cưới cô khác.” Bình vương bèn lấy cô gái ấy, hết mực sủng ái, sinh con là Chẩn, rồi cho thái tử lấy cô vợ khác.
Vô Kỵ nhân việc cô gái nước Tần nên được Bình vương sủng ái, bèn bỏ thái tử để thờ Bình vương. Song lại sợ một ngày kia, sau khi Bình vương chết, thái tử nối ngôi sẽ giết mình, liền gièm pha thái tử Kiến. Mẹ của Kiến là người đất Sái, không được Bình vương sủng ái. Bình vương dần xa lánh Kiến, sai Kiến trấn giữ Thành Phụ, giữ việc quân phòng chốn biên cảnh.
Không lâu sau, Vô Kỵ lại ngày đêm chê bai thái tử trước mặt Bình vương rằng: “Thái tử vì việc cô gái nước Tần, không thể không oán giận,
xin bệ hạ hãy đề phòng. Từ khi thái tử ra Thành Phụ, thống lĩnh quân binh, kết giao chư hầu, ý chừng muốn kéo về làm loạn.” Bình vương bèn triệu Thái phó Ngũ Xa đến tra hỏi. Ngũ Xa biết Vô Kỵ gièm thái tử, nhân nói: “Sao bệ hạ vì lời gièm của kẻ bề tôi hèn mọn mà xem nhẹ tình cốt nhục vậy?” Vô Kỵ nói: “Nay bệ hạ không xử trí, khi việc thành rồi, ắt sẽ bị bắt.” Thế là Bình vương nổi giận, tống Ngũ Xa vào tù, rồi sai quan Tư mã ở Thành Phụ là Phấn Dương đi giết thái tử. Chưa tới nơi, Phấn Dương sai người báo trước cho thái tử rằng: “Thái tử trốn ngay đi, không sẽ bị giết.” Thái tử Kiến liền trốn đến nước Tống.
Vô Kỵ nói với Bình vương: “Ngũ Xa có hai con trai, đều giỏi, ví không giết, sẽ là mối lo của Sở. Hãy dùng cha làm con tin để triệu đến, nếu không sẽ thành tai họa của nước Sở.” Bình vương sai sứ nói với Ngũ Xa: “Ngươi gọi được hai con đến thì sống, nếu không sẽ phải chết.” Ngũ Xa nói: “Thượng là người nhân ái đôn hậu, gọi ắt đến. Viên là người cương cường kiên nhẫn, có thể làm nên đại sự, nó thấy đến sẽ bị bắt, ắt không đến đâu.” Vua không nghe, sai triệu hai người: “Đến, ta để cho các ngươi sống, không đến, hôm nay giết luôn.” Ngũ Thượng định đến, Viên nói: “Sở vương triệu anh em ta tới, không phải muốn cha ta sống đâu, chẳng qua sợ anh em ta thoát được sẽ thành mối lo sau này, nên bắt cha làm con tin, và triệu anh em ta đó. Cả hai cùng đến thì cha con đều chết, có ích gì đâu? Đến thì thù không báo được, chẳng bằng chạy sang nước khác, mượn sức họ mà rửa thù cho cha, chết cả thì vô ích.” Ngũ Thượng nói: “Ta biết là đến cũng chẳng cứu được mạng cha. Nhưng hận nỗi cha triệu ta đến để mong sống mà ta không đến, về sau ví không thể rửa nhục, rốt cuộc bị thiên hạ chê cười.” Bèn báo Viên: “Hãy trốn đi! Em có thể báo được thù cho cha, ta sẽ vào chỗ chết.” Thượng đã bị bắt, sứ giả định bắt Ngũ Tư. Ngũ Tư giương cung, nhằm thẳng sứ giả, sứ giả không dám xông lên, Ngũ Tư nhân đó trốn thoát. Hay tin thái tử Kiến ở nước Tống, Tư liền qua theo. Ngũ Xa nghe tin Tử Tư trốn thoát, bèn than: “Vua tôi nước Sở e sẽ khổ vì binh đao thôi.” Ngũ Thượng đến Sở, Sở vương giết cả hai cha con.
Ngũ Tư vừa đến, nước Tống xảy ra loạn họ Hoa, bèn cùng thái tử Kiến chạy sang nước Trịnh, được người Trịnh rất coi trọng. Thái tử Kiến lại đến nước Tấn, Tấn Khoảnh Công nói: “Thái tử được Trịnh hậu đãi, tức đã tin tưởng. Nếu Thái tử làm nội ứng, ta từ ngoài đánh vào, ắt diệt được nước Trịnh. Diệt Trịnh xong ta sẽ phong đất cho thái tử.” Thái tử Kiến bèn trở
về nước Trịnh. Việc chưa thành, thái tử vì tình riêng, định giết những người đi theo, họ biết âm mưu, bèn báo với Trịnh. Trịnh Định công cùng Tử Sản giết thái tử Kiến. Kiến có con là Thắng. Ngũ Tư sợ hãi, bèn cùng Thắng chạy sang nước Ngô. Đến ải Chiêu, quân coi giữ định bắt lại. Ngũ Tư phải cùng Thắng đi bộ mà trốn, suýt không thoát thân. Quân đuổi đến sau. Tới bờ sông, trên sông có ông chài đang chèo thuyền, biết Ngũ Tư nguy cấp, bèn đưa sang sông. Ngũ Tư sang đến bờ, cởi kiếm nói: “Kiếm này đáng giá trăm lượng vàng, xin trao tặng ông.” Người đó nói: “Theo pháp lệnh nước Sở, ai bắt được Ngũ Tư sẽ thưởng năm vạn thạch thóc, ban tước Chấp khuê*, há chỉ bằng thanh kiếm trăm lạng vàng sao?” nói rồi không nhận. Ngũ Tư chưa đến Ngô thì ốm, phải dừng giữa đường xin ăn. Đến Ngô, Ngô vương là Liêu đang nắm quyền, Công tử Quang làm Tướng quốc. Ngũ Tư bèn thông qua công tử Quang cầu kiến Ngô vương.
Lâu sau, Sở Bình vương vì việc người ấp Chung Ly ở biên giới nước Sở và người ấp Ty Lương Thị ở biên giới nước Ngô đều nuôi tằm, phụ nữ hai bên tranh chấp đất trồng dâu, bèn cả giận, đến mức hai nước giao binh. Nước Ngô sai công tử Quang đánh Sở, chiếm được Chung Ly và Cư Sào rồi rút về. Ngũ Tử Tư nói với Ngô vương Liêu: “Có thể phá được nước Sở, hãy sai công tử Quang tiếp tục cầm quân sang đánh.” Công tử Quang nói với Ngô vương: “Cha và anh của Ngũ Tư kia đều bị Sở vương giết nên khuyên bệ hạ đánh Sở, ý muốn báo thù riêng. Chứ đánh Sở chưa chắc phá được.” Ngũ Tư biết công tử Quang có dã tâm riêng, muốn giết vua để lên thay, nên chưa thể du thuyết việc khác, bèn tiến cử Chuyên Chư cho công tử Quang, rồi lui về cày ruộng cùng con thái tử Kiến là Thắng.
Năm năm sau, Sở Bình vương chết. Lúc trước, Bình vương cướp người con gái nước Tần định gả cho thái tử Kiến, sinh con là Chẩn, Bình
vương qua đời, Chẩn được nối ngôi, đó là Chiêu vương. Ngô vương Liêu nhân nước Sở có tang, sai hai công tử đem quân đánh úp nước Sở. Sở đem quân chặn hậu, quân Ngô không còn đường rút. Nước Ngô trống không, công tử Quang bèn lệnh cho Chuyên Chư bất ngờ hành thích Ngô vương, tự lập làm vua, đó là Ngô vương Hạp Lư. Hạp Lư lên ngôi, đắc chí, bèn triệu Ngũ Viên, giao làm Hành nhân*, cùng bàn việc nước.
Nước Sở giết đại thần là Khích Uyển và Bá Châu Lê. Cháu nội Bá Châu Lê là Bá Phỉ* chạy trốn sang Ngô, Ngô cho Phỉ làm đại phu. Trước đây, hai công tử được Ngô vương Liêu sai đem quân đánh Sở, bị chặn đường không về được. Sau, nghe tin Hạp Lư giết Liêu, tự lập làm vua, bèn đem quân hàng Sở, được Sở phong cho đất Thư. Hạp Lư lên ngôi được ba năm, bèn giao Ngũ Tư và Bá Phỉ cất quân đánh Sở, hạ được đất Thư, bắt được cả hai. Nhân đó Hạp Lư định tiến đánh Dĩnh đô nước Sở, tướng quân Tôn Vũ nói: “Dân khó nhọc, chưa thể tiến, hãy chờ đã.” Bèn rút quân về.
Hạp Lư năm thứ tư, nước Ngô đánh nước Sở, chiếm đất Lục và đất Tiềm. Năm thứ năm, lại đánh nước Việt, Việt thua trận. Năm thứ sáu, Sở Chiêu vương sai công tử Nang Ngõa đem quân đánh Ngô. Ngô sai Ngũ Viện dẫn quân đón đánh, đại phá quân Sở tại Dự Chương, chiếm được Cư Sào của Sở.
Năm thứ chín, Ngô vương Hạp Lư bảo Tử Tư và Tôn Vũ: “Khi trước, các ngươi nói chưa thể tiến đánh Dĩnh đô, nay thì sao?” Cả hai đáp: “Tướng Sở là Nang Ngõa tham lam, nước Đường và nước Sái đều hận, bệ hạ muốn cất đại quân tiến đánh, trước tiên cần được Đường, Sái ủng hộ.” Hạp Lư nghe theo, huy động quân đội cùng hai nước Đường, Sái tiến đánh Sở. Ngô và Sở bày trận hai bên Hán Thủy. Em Ngô vương là Phu Khái dẫn tinh binh xin theo, nhà vua không cho, Phu Khái bèn kén năm nghìn quân
đánh tướng Sở là Tử Thường. Tử Thường đại bại, chạy đến nước Trịnh. Thế là quân Ngô thừa thắng xông lên, đánh liền năm trận, tiến đến tận Dĩnh đô. Ngày Kỷ Mão, Sở Chiêu vương chạy trốn. Ngày Canh Thìn, Ngô vương vào Dĩnh đô.
Chiêu vương trốn chạy, tiến vào đầm Vân Mộng; bị trộm cướp tấn công, phải chạy đến đất Vân. Em của Vân công là Hoài nói: “Bình vương giết cha ta, ta giết con ông ấy, thế chẳng phải lẽ ư?” Vân công sợ em giết Sở vương, bèn cùng Sở vương chạy đến đất Tùy. Quân Ngô bao vây Tùy, nói với người Tùy rằng: “Con cháu nhà Chu ở Hán Xuyên đều bị Sở giết sạch.” Người Tùy chực giết Sở vương, con Sở vương là Kỳ liền giấu vua đi, tự nhận là Sở vương để thế thân. Người Tùy bói quẻ về quan hệ giữa Sở vương với nước Ngô, điềm gở, bèn tạ lỗi nước Ngô vì đã không giao nộp Ngô vương.
Hồi đầu, Ngũ Viên và Thân Bao Tư giao du với nhau, khi Viên chạy trốn có nói với Bao Tư: “Ta nhất định lật đổ nước Sở.” Bao Tư nói: “Tôi nhất quyết bảo tồn nước Sở.” Đến khi quân Ngô vào Dĩnh đô, Ngũ Tử Tư tìm Chiêu vương. Thế nhưng không thấy, bèn đào mả Sở Bình vương, quật xác lên đánh ba trăm roi mới thôi. Thân Bao Tư chạy trốn vào trong núi, sai người nói với Tử Tư rằng: “Ông báo thù, thực quá lắm! Tôi nghe nói, người đông thì thắng trời, trời định cũng có thể phá được người. Nay ông vốn là bề tôi của Bình vương, thân ngoảnh về bắc mà xưng thần thờ vua, nay quá đến mức người chết rồi còn làm nhục, thế chẳng phải là không coi đạo trời ra gì sao?” Ngũ Tử Tư nói: “Ngươi hãy thay ta tạ lỗi với Thân Bao Tư, ta đường xa sớm tối, chỉ có thể theo cách trái lẽ thường như thế thôi.” Thế rồi Thân Bao Tư chạy sang báo tin nguy cấp và cầu cứu nước Tần. Tần không giúp. Thân Bao Tư đứng giữa sân đình nước Tần, ngày
đêm khóc lóc, ròng rã bảy ngày đêm. Tần Ai công động lòng thương, nói: “Sở tuy vô đạo, nhưng có bề tôi như thế, há không bảo tồn nước Sở?” Bèn sai đem năm trăm cỗ xe sang cứu Sở, đánh Ngô. Tháng Sáu, đánh bại quân Ngô ở đất Tắc. Đúng lúc Ngô vương ở Sở tìm kiếm Chiêu vương đã lâu, còn Phu Khái, em của Hạp Lư lại trốn về tự lập làm vua. Hạp Lư nghe tin, liền bỏ Sở rút về đánh Phu Khái. Phu Khái thua chạy, trốn sang nước Sở. Sở Chiêu vương thấy Ngô có nội loạn, bèn trở lại Dĩnh đô, phong cho Phu Khái đất Đường Khê, xưng là Đường Khê thị. Sở lại giao chiến với Ngô, đánh bại quân Ngô, Ngô vương liền rút quân về.
Hai năm sau, Hạp Lư sai thái tử Phù Sai đem quân đánh Sở, chiếm được đất Bà. Sở sợ Ngô lại mang đại quân tiến sang, liền bỏ đất Dĩnh, dời sang đất Nhược. Bấy giờ, Ngô theo kế của Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ, tây phá nước Sở hùng mạnh, bắc ra oai với Tề, Tấn, nam chế phục người Việt.
Bốn năm sau, Khổng tử làm Tướng quốc nước Lỗ.
Năm năm sau, Ngô đánh Việt. Việt vương Câu Tiễn đem quân nghênh địch, đánh bại quân Ngô ở Cô Tô, khiến Hạp Lư bị thương ở chân, Ngô phải rút lui. Vết thương của Hạp Lư phát tác, ốm nặng sắp chết, liền bảo thái tử Phù Sai: “Mày có quên việc Câu Tiễn giết cha mày không?" Phù Sai đáp: “Con không dám quên!” Đêm ấy, Hạp Lư chết. Phù Sai lên làm vua, dùng Bá Phỉ làm Tể tướng, sai tập trận, bắn cung. Năm sau, đánh nước Việt, Việt thua trận ở Phù Tưu. Việt vương Câu Tiễn bèn đem hơn năm nghìn tàn quân đóng trên núi Cối Kê, sai đại phu là Chủng mang hậu lễ đến Thái tể Bá Phỉ giảng hòa, xin đem nước Việt làm nước tôi đòi. Ngô vương định đồng ý. Ngũ Tử Tư can rằng: “Việt vương là người có thể chịu đựng cay đắng, nay không diệt đi, sau ắt hối hận.” Ngô vương không nghe, theo kế Thái tể Bá Phỉ, giảng hòa với nước Việt.
Năm năm sau, Ngô vương nghe tin Tề Cảnh công chết, đại thần tranh quyền, vua mới yếu thế, liền xuất quân lên phía bắc đánh Tề. Ngũ Tử Tư can rằng: “Câu Tiễn bữa không ăn hai món, điếu viếng người chết, han hỏi người ốm, là muốn có chỗ dùng họ vậy. Người này không chết, ắt thành mối họa cho Ngô. Nay Ngô còn nước Việt, như người có bệnh trong tim phổi, vậy mà bệ hạ không đánh nước Việt trước mà đi đánh Tề, thế chẳng phải sai lầm ư?” Ngô vương không nghe, đánh Tề, cả phá quân Tề ở Ngải Lăng xong, uy hiếp vua Trâu và vua Lỗ rồi rút về. Từ đó càng lạnh nhạt với mưu kế của Tử Tư.
Bốn năm sau, Ngô vương định kéo quân lên bắc đánh Tề, Việt vương Câu Tiễn theo kế của Tử Cống, bèn xuất quân giúp Ngô, lại đem nhiều châu báu đút lót Thái tể Phỉ. Bá Phỉ nhiều lần nhận hối lộ của nước Việt nên hết sức tin tưởng Câu Tiễn, ngày đêm nói tốt với Ngô vương. Ngô vương nghe theo kế của Bá Phỉ, Ngũ Tử Tư can gián: “Xét lẽ, nước Việt là bệnh trong tim phổi, nay tin theo những lời giả dối của họ, tham đánh Tề. Phá được Tề cũng như có mảnh ruộng đầy đá, dùng được vào việc gì. Vả thiên Bàn Canh chi cáo* viết: 'Có kẻ ngả nghiêng không cung kính, phải trừ diệt đi, không để mầm mống, không cho giống lạ mọc ở ấp này.' Đó là lý do khiến nhà Thương hưng thịnh. Xin bệ hạ bỏ việc đánh Tề mà đánh Việt trước; bằng không, sau hối cũng không kịp.” Ngô vương không nghe, sai Tử Tư đi sứ nước Tề. Tử Tư lên đường, nói với con rằng: “Ta can vua nhiều lần, vua đều không nghe, nay ta thấy nhà vua sắp bại vong. Con chết cùng nước Ngô, cũng vô ích thôi.” Bèn gửi gắm con cho Bào Mục ở Tề, rồi về báo cáo tình hình cho Ngô vương.
Thái tể Bá Phỉ vốn có hiềm khích với Tử Tư, nhân đó gièm pha: “Tử Tư là người cương cường tàn bạo, ít lòng nhân, hay ngờ vực, lòng oán
hận của ông ta e thành đại họa. Ngày trước bệ hạ muốn đánh Tề, Tử Tư cho là không được, nhưng rốt cuộc bệ hạ lập được đại công. Tử Tư xấu hổ vì mưu kế không được dùng, bèn trở nên oán hận. Nay bệ hạ sắp đánh Tề, Tử Tư lại can ngăn quyết liệt, hủy báng việc đó, những mong nước Ngô thất bại để cho kế của mình cao minh. Nay bệ hạ thân chinh, đem hết quân binh trong nước đi đánh Tề, mà Tử Tư khuyên ngăn lại không nghe, nhân đó ông ta lấy cớ đau ốm không đi, bệ hạ không thể không phòng bị, dễ chừng dấy họa từ đó vậy. Vả Phỉ này ngầm sai người dò xét, ông ta đi sứ sang Tề, đã gửi con cho Bào Mục nước Tề rồi. Xét lẽ, làm phận bề tôi, trong lòng không như ý, bên ngoài lại dựa chư hầu, tự cho mình là mưu thần của tiên vương, nay không được dùng thì sinh oán thán. Xin bệ hạ sớm xử trí ông ta.” Ngô vương nói: “Không cần người nói, ta cũng nghi rồi.” Bèn sai sứ ban cho Tử Tư thanh kiếm Chúc Lũ, nói: “Ngươi dùng kiếm này để tự kết liễu.” Ngũ Tử Tư ngẩng lên trời mà than: “Hỡi ôi! Kẻ bề tôi sàm nịnh Bá Phỉ làm loạn nên nhà vua mới giết ta. Ta từng khiến cha ngươi làm nên nghiệp bá. Từ khi ngươi chưa được lập, các công tử tranh giành ngôi vị, ta cố chết tranh đấu trước tiên vương, ngươi thiếu chút nữa không được lập. Ngươi lên ngôi rồi, muốn chia một phần nước Ngô cho, ta đã không dám vọng tưởng rồi. Nhưng nay ngươi nghe lời bề tôi sàm nịnh mà giết bậc tôn trưởng sao?” Bèn nói với môn khách: “Hãy trồng trên mộ ta một cây tử, sau có thể lấy gỗ làm quan tài khoét mắt ta treo trên cửa đông nước Ngô, để ta tận mắt thấy quân Việt kéo vào diệt nước Ngô.” Thế rồi cắt cổ tự tử. Ngô vương nghe nói cả giận, bèn đem xác Tử Tư cho vào túi da, vứt xuống sông Giang. Người Ngô thương xót Tử Tư, bèn lập miếu thờ bên sông, nhân thế gọi tên núi là Tư Sơn.
Ngô vương giết Ngũ Tử Tư xong bèn đánh Tề. Họ Bào ở nước Tề giết vua là Điệu Công, lập Dương Sinh lên thay. Ngô vương muốn đem quân hỏi tội nhưng không thắng được, phải rút về. Hai năm sau, Ngô vương triệu vua hai nước Lỗ và Vệ hội kiến ở Thác Cao. Năm sau, nhân đã kéo lên phía bắc hội chư hầu tại Hoàng Trì, để ép nhà Chu. Việt vương Câu Tiễn đánh úp giết Thái tử nước Ngô, phá tan quân Ngô. Ngô vương nghe tin, liền rút quân về, sai sứ mang hậu lễ đến nước Việt cầu hòa. Chín năm sau, Việt vương Câu Tiễn liền diệt nước Ngô, giết vua Phù Sai, giết cả Thái tể Bá Phỉ vì cho Phỉ bất trung với vua của mình, còn nhận hối lộ của người ngoài, câu kết với nước Việt.
Trước đây, Thái tử Kiến cùng Ngũ Tử Tư trốn sang nước Sở, con là Thắng ở nước Ngô. Thời Ngô Vương Phù Sai, Sở Huệ vương muốn triệu Thắng về Sở. Diệp Công can rằng: “Thắng hiếu dũng mà ngầm cầu binh sĩ cảm tử, e có lòng riêng!” Huệ vương không nghe, bèn triệu Thắng tới, cho ở đất Yên tại biên giới nước Sở, gọi là Bạch công. Bạch công về Sở được ba năm thì nước Ngô giết Tử Tư.
Bạch Công Thắng về Sở, oán Trịnh giết cha mình, bèn ngầm nuôi dưỡng binh sĩ cảm tử, toan báo thù Trịnh. Về Sở được năm năm, liền đề nghị đánh Trịnh. Sở sai Lệnh doãn Tử Tây đi đánh. Quân Sở chưa xuất phát thì Tấn đã đánh Trịnh, Trịnh cầu cứu Sở. Sở sai Tử Tây sang cứu, kết minh rồi về. Bạch công Thắng tức giận nói: “Không thù nước Trịnh, mà thù Tử Tây.” Thắng đích thân mài kiếm, có người hỏi: “Mài kiếm làm gì?” Thắng đáp: “Muốn giết Tử Tây.” Tử Tây biết chuyện, cười nói: “Thắng như quả trứng, làm được trò gì.”
Bốn năm sau, Bạch công Thắng cùng Thạch Khất tập kích giết Lệnh doãn Tử Tây và Tư mã Tử Kỳ ngay tại triều nước Sở. Thạch Khất nói:
“Không giết vua, không được.” Liền cướp vua đưa đến Cao Phủ. Kẻ theo Thạch Khất là Khuất Cố cõng Sở Huệ vương trốn vào cung Chiêu phu nhân. Diệp công nghe tin Bạch công làm loạn, thống lĩnh người trong nước tiến đánh. Bọn Bạch Công thua trận, chạy trốn vào trong núi rồi tự sát. Thạch Khất bị bắt làm tù binh, hỏi thi thể Bạch công ở đâu, không nói sẽ bị nấu chín. Thạch Khất nói: “Việc thành thì làm quan khanh, không thành thì bị nấu chín, đó vốn là chức phận vậy.” Rốt cuộc không chịu khai. Diệp công cho nấu chín Thạch Khất rồi đi tìm hậu duệ của Huệ vương để lập làm vua.
Thái sử công bàn rằng: Oán hận trong con người ta đáng sợ thay! Bậc vương giả còn không thể kết oán với bề tội dưới quyền, huống nữa là ngang hàng nhau! Ví phỏng Ngũ Tử Tư chết cùng Ngũ Xa, thì khác nào con sâu cái kiến. Bỏ nghĩa nhỏ, rửa thù lớn, lưu danh hậu thế, bi tráng thay! Đương khi Tử Tư cùng quẫn bên sông, ăn xin trên đường, tâm trí há có phút nào quên đất Dĩnh chăng? Vì thế ẩn mình nhẫn nhục để đạt được công danh, không phải bậc trượng phu lẫm liệt thì ai có thể làm được? Như Bạch công không tự lập làm vua thì công tích và mưu lược cũng không thể nói viết được vậy!
QUYỂN 67
TRỌNG NI ĐỆ TỬ LIỆT TRUYỆN
Khổng tử nói: “Học trò tinh thông có 77 người”, đều là những kẻ sĩ có tài lạ. Đức hạnh có: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng
Cung; chính sự có: Nhiễm Hữu, Quý Lộ; ngôn từ ứng đối có: Tể Ngã, Tử Cống; văn học có: Tử Du, Tử Hạ. Sư* thì cong vạy, Sâm* thì trì độn, Sài*
thì ngu tối, Do* thì thô lỗ, Hồi* thì cùng quẫn. Tứ* không chịu mệnh trời mà đi buôn, cân nhắc sự lý chính đáng chuẩn xác.
Người Khổng tử cho là bậc tôn nghiêm: nhà Chu có Lão tử, nước Vệ có Cừ Bá Ngọc, nước Tề có Yến Bình Trọng, nước Sở có Lão Lai tử, nước Trịnh có Tử Sản, nước Lỗ có Mạnh Công Xước. Nhiều lần khen ngợi có Tang Văn Trọng, Liễu Hạ Huệ, Đồng Đê Bá Hoa, Giới Sơn Tử Nhiên. Khổng tử đều sinh sau, không cùng một đời.
Nhan Hồi
Nhan Hồi người nước Lỗ, tự Tử Uyên, kém Khổng tử 30 tuổi. Nhan Hồi hỏi về đức nhân, Khổng tử đáp: “Sửa mình trở về theo lễ thì thiên hạ quay về đức nhân vậy.”
Khổng tử nói: “Hiền thay trò Hồi! Một giỏ thức ăn, một bầu nước uống, ở trong ngõ sâu, người ta không chịu nổi ưu phiền, còn Hồi thì không thay đổi niềm vui của mình.” “Hồi như kẻ ngu, nhưng khi lui về thì
tự mình suy xét, chỉ thế cũng đủ phát huy, Hồi chẳng ngu đâu.” “Dùng thì thi hành, bỏ thì quy ẩn, duy ta với ngươi là làm được như vậy thôi.” Năm Hồi 29 tuổi, tóc bạc hết, chết sớm. Khổng tử khóc lóc đau đớn, nói: “Từ khi ta có trò Hồi, học trò ngày càng thêm thân.” Lỗ Ai công hỏi: “Học trò ngài ai là người hiếu học?” Khổng tử đáp: “Có Nhan Hồi là
người hiếu học, không giận lây người khác, không mắc lỗi hai lần, nhưng chẳng may vắn số chết rồi, nay không còn ai nữa.”
Mẫn Tổn
Mẫn Tổn tự là Tử Khiêm, kém Khổng tử 15 tuổi.
Khổng tử nói: “Hiếu thay Mẫn Tử Khiêm! Người khác không thể nói lời chia rẽ được cha mẹ anh em Tử Khiêm.” [Mẫn Tổn] không làm quan đại phu, không ăn lộc của hôn quân. [Từng nói]: “Như có người lại đến mời, ta ắt trốn đến thượng lưu sông Vấn.”
Nhiễm Canh
Nhiễm Canh tự Bá Ngưu. Khổng tử cho là người có đức hạnh. Bá Ngưu bị bạo bệnh, Khổng tử đến thăm, từ ngoài cửa sổ cầm tay nói: “Số mệnh vậy chăng! Người thế này mà mắc bệnh này, số mệnh vậy chăng?”
Nhiễm Ung
Nhiễm Ung tự Trọng Cung.
Trọng Cung hỏi về chính sự, Khổng tử đáp: “Ra cổng như thấy khách quý, sai dân như thừa hành cuộc tế lớn. Trong nước không để ai oán, tại ấp phong không để ai oán”.
Khổng tử cho Trọng Cung là người có đức hạnh, nói: “Ung đó, có thể sai ngoảnh mặt về phía nam.”*
Cha Trọng Cung là người hèn mọn. Khổng tử nói: “Con của con trâu loang lổ mà lông lại thuần màu đỏ, hai sừng đều đặn, không muốn dùng để tế thì thần núi thần sông có bỏ nó không?”
Nhiễm Cầu
Nhiễm Cầu tự Tử Hữu, kém Khổng tử 29 tuổi, làm quan tế cho họ Quý Tôn.
Quý Khang tử hỏi Khổng tử: “Nhiễm Cầu là người nhân chăng?” Đáp: “Ấp phong có ngàn hộ, gia tộc có trăm cỗ xe, có thể sai Cầu nắm việc quân sự. Còn như nhân hay không thì tôi không biết.” Lại hỏi: “Tử Lộ là người nhân chăng?” Khổng tử đáp: “Cũng như Cầu.”
Cầu hỏi: “Nghe rồi thì phải thi hành điều đã nghe chăng?” Khổng tử đáp: “Thi hành thôi!” Tử Lộ hỏi: “Nghe rồi thì phải thi hành điều đã nghe chăng?” Khổng tử đáp: “Có cha có anh, sao lại nghe rồi thì thi hành điều đã nghe?" Tử Hoa lấy làm lạ, hỏi: “Dám hỏi, sao hỏi giống nhau mà thầy trả lời lại khác?” Khổng tử đáp: “Cầu hay bàn lùi nên phải khích lệ. Do hơn người thường nên phải kìm hãm.”
Trọng Do
Trọng Do tự Tử Lộ, người đất Biện, kém Khổng tử 9 tuổi. Tử Lộ tính quê mùa, sính cường, cương trực, đội mũ kiểu gà trống, đeo bao kiếm da lợn, khinh khi Khổng tử. Khổng tử dùng lễ dần dần dẫn dụ Tử Lộ. Sau, Tử Lộ khép mình theo đạo nho, rồi thông qua môn nhân xin làm học trò Khổng tử.
Tử Lộ hỏi về chính sự, Khổng tử đáp: “Tự làm trước, chịu nhọc trước.” Tử Lộ xin thầy nói thêm, Khổng tử nói: “Đừng có biếng nhác.” Tử Lộ hỏi: “Quân tử có chuộng dũng không?” Khổng tử đáp: “Đặt nghĩa lên trên. Quân tử hiếu dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân hiếu dũng mà không có nghĩa thì trộm cắp.”
Tử Lộ nghe rồi nhưng chưa thể thi hành, chỉ sợ lại được nghe điều khác.
Khổng tử nói: “Vài lời vẻn vẹn mà có thể xử đoán việc hình ngục, chỉ có Do thôi!” “Do hiếu dũng hơn ta, không có tài gì khác.” “Như Do, ắt không trọn vẹn với cái chết của mình.” “Người mặc áo bào rách đứng chung với người mặc áo lông cáo mà không thấy xấu hổ, chỉ có trò Do thôi!” “Trò Do đó, mới bước lên nhà thôi chứ chưa vào trong nhà vậy.”*
Quý Khang tử hỏi: “Trọng Do là người nhân chăng?” Khổng tử đáp: “Nước có nghìn cỗ xe, có thể giao phụ trách quân đội, không biết Do có nhân hay không?"
Tử Lộ vui vì được xuất du cùng thầy, từng gặp Trường Thư, Kiệt Nịch, Hạ Điều Trương Nhân.
Tử Lộ làm quan tể cho họ Quý Tôn, Quý Tôn hỏi Khổng tử: “Tử Lộ có thể coi là bậc đại thần không?" Khổng tử đáp: “Có thể gọi là thần tử.” Tử Lộ làm đại phu ấp Bồ, đến từ biệt Khổng tử. Khổng tử nói: “Ấp Bồ nhiều tráng sĩ, lại khó trị lý, song ta dặn con rằng: cung kính có thể chế ngự được uy dũng, khoan hòa chính trực có thể cố kết chúng nhân, cung kính chính trực thì nơi ấy được yên, có thể lấy đó báo đáp bề trên.” Lúc trước, Vệ Linh công có thiếp yêu là nàng Nam tử. Thái tử Quỹ Khoái của Linh công đắc tội với Nam tử, sợ bị giết nên trốn sang nước khác. Khi Linh công chết, phu nhân muốn lập công tử Dĩnh. Dĩnh không chịu, nói: “Con của Thái tử đã chạy trốn là Triếp hãy còn.” Thế là nước Vệ lập Triếp làm vua, đó là Xuất công. Xuất công lên ngôi được mười hai năm, cha là Quỹ Khoái sống ở nước khác, không chịu trở về. Tử Lộ làm đại phu nước Vệ, Khổng Lý làm ấp tể. Quỹ Khoái bèn cùng Khổng Lý làm loạn, toan vào ấp của Khổng Lý, cùng đồ đang tập kích Xuất công. Xuất
công chạy sang Lỗ, thế rồi Quỹ Khoái về nước làm vua, đó là Trang công. Khi cùng Khổng Lý làm loạn, Tử Lộ ở ngoài, nghe tin vội đến. Gặp Tử Cao ra khỏi cổng thành nước Vệ, Tử Cao nói với Tử Lộ: “Xuất công chạy rồi, còn cổng đã đóng, ngài hãy về đi, nếu không sẽ tai vạ đấy.” Tử Lộ đáp: “Ăn bổng lộc của người thì không tránh họa nạn của người.” Tử Cao bèn đi. Có sứ giả vào thành, cổng thành mở, Tử Lộ cũng theo vào. Tới chỗ Quỹ Khoái, Quỹ Khoái và Khổng Lý lên đài. Tử Lộ nói: “Sao ngài dùng Khổng Lý? Hãy để tôi giết y”. Quỹ Khoái không nghe. Thế là Tử Lộ định đốt đài, Quỹ Khoái hoảng sợ, bèn hạ lệnh cho Thạch Khất và Hồ Yểm tấn công Tử Lộ, chém đứt dải mũ của Tử Lộ. Tử Lộ nói: “Quân tử dẫu chết cũng không bỏ mũ.” Bèn buộc lại dải mũ rồi mới chết.
Khổng tử hay tin nước Vệ có loạn, nói: “Ôi, trò Do chết rồi.” Quả nhiên chết thật. Nên Khổng tử nói: “Từ khi ta có trò Do, bên tai không nghe lời dữ.” Bấy giờ Tử Cống đang đại diện cho Lỗ đi sứ sang Tề.
Tể Dư
Tể Dư tự Tử Ngã, lợi khẩu, giỏi biện luận. Khi theo học Khổng tử, có hỏi: “Để tang [cha mẹ] ba năm, chẳng quá dài sao? Quân tử ba năm không tập lễ nghi, lễ tất bỏ phế; ba năm không tấu âm nhạc, nhạc ắt băng hoại. [Một năm] lúa cũ đã hết, lúa mới đã lên, cây dùi lấy lửa đã thay, [để tang] một năm là được rồi.” Khổng tử đáp: “[Làm thế] trò thấy yên lòng chăng?” Đáp: “Yên.” “Trò thấy yên lòng thì cứ làm. Quân tử khi để tang thì ăn không thấy ngon, nghe nhạc không thấy vui, nên không làm như thế.” Tể Ngã ra ngoài, Khổng tử bảo: “Dư thực bất nhân vậy! Con người ta ba năm sau sinh mới thôi ẵm bế. Xét lẽ, để tang ba năm, là nghĩa chung của thiên hạ vậy.”
Tể Dư ngủ ngày, Khổng tử nói: “Cây mục thì không chạm trổ được, tường đất lở thì không trát lại được vậy.”
Tể Ngã hỏi về đức của Ngũ đế, Khổng tử đáp: “Con không nên hỏi đến các vị ấy.”
Tể Ngã làm quan đại phu ở Lâm Truy, cùng Điền Thường làm loạn, nhân đó bị diệt tộc, Khổng tử lấy làm xấu hổ.
Đoan Mộc Tứ
Đoan Mộc Tứ người nước Vệ, tự Tử Cống, kém Khổng tử 31 tuổi. Tử Cống lợi khẩu, giỏi biện luận, thường bị Khổng tử phản bác. Khổng tử hỏi: “Con với Hồi ai hơn?” Đáp rằng: “Tứ này đâu dám sánh với Hồi! Hồi nghe một biết mười, Tứ nghe một biết hai thôi.”
Sau khi Tử Cống học xong, hỏi thầy: “Tứ này là người thế nào?” Khổng tử đáp: “Con là đồ dùng". Hỏi: “Đồ gì ạ?" Đáp: “Là cái bát đựng đồ cúng trong tông miếu vậy.”
Trần Tử Cầm hỏi Tử Cống: “Trọng Ni học ai?” Tử Cống đáp: “Đạo của Văn vương, Vũ vương chưa rớt xuống đất, [đạo đó] ở người, người hiền năng thì biết nhiều, người kém thì biết ít, chẳng ai không có đạo của Văn vương, Vũ vương. Phu tử ở đâu chẳng học, há phải theo một thầy cụ thể nào!” Lại hỏi: “Khổng tử đến đâu ắt nghe chính sự nước đó, là tự tìm nghe hay có người nói cho biết?” Tử Cống đáp: “Phu tử tôi lấy ôn, lương, cung, kiệm, nhượng để nghe những việc ấy, cách nghe của thầy tôi cũng khác người khác vậy.”
Tử Cống hỏi thầy: “Giàu mà không kiêu căng, nghèo mà không nịnh bợ, thế thì sao?" Khổng tử đáp: “Được đấy, nhưng chẳng bằng nghèo mà
vui với đạo, giàu mà chuộng lễ.”
Điền Thường muốn làm loạn ở Tề, nhưng sợ thế lực của họ Cao, Quốc, Bào, Yến, bèn chuyển quân chực đánh Lỗ. Khổng tử hay tin, bảo các học trò: “Lỗ là chốn đặt mộ tổ tiên, là đất nước của cha mẹ, nước nguy như thế, các con sao không ai đi đi?” Tử Lộ xin đi, Khổng tử ngăn lại. Tử Trương Tử Thạch xin đi, Khổng tử không cho. Tử Cống xin đi, Khổng tử đồng ý.
Tử Cống liền đến nước Tề, nói với Điền Thường: “Ngài đánh Lỗ là sai đấy. Bởi Lỗ là nước khó đánh, thành mỏng mà thấp, hào hẹp mà nông, nhà vua ngu tối mà bất nhân, đại thần dối trá mà vô dụng, sĩ dân căm ghét chuyện đao binh, như thế không thể đánh họ được. Chẳng bằng nhà vua hãy đánh nước Ngô. Do nước Ngô có thành cao dày, hào rộng sâu, giáp mới mà bền cứng, sĩ tốt được tuyển đầy đủ, trọng khí và tinh binh nước ấy không thiếu, lại có đại phu sáng suốt trấn giữ, như thế sẽ dễ đánh.” Điền Thường giận nói: “Cái ông cho là khó thì người khác thấy dễ, cái ông cho là dễ thì người khác thấy khó. Ông đem việc đó chỉ giáo tôi là ý làm sao?” Tử Cống đáp: “Tôi nghe nói, người có nỗi lo bên trong thì đánh nước mạnh, người có nỗi lo bên ngoài thì đánh nước yếu. Nay ngài có nỗi lo bên trong nước. Tôi nghe ngài ba lần được phong mà ba lần không thành, do các đại thần không chịu vậy. Nay ngài phá Lỗ để mở rộng Tề, chiến thắng thì khiến chúa ngài thêm kiêu, đại thần thêm trọng, còn ngài chẳng được công tích gì, theo đó quan hệ giữa ngài với vua ngày một nhạt dần. Trên thì nhà vua có lòng kiêu ngạo, dưới thì quần thần mặc sức làm càn, ngài mong thành đại sự, khó lắm thay. Phàm vua kiêu thì buông tuồng, tôi kiêu thì tranh giành, vậy là trên thì ngài mâu thuẫn với vua, dưới lại tranh giành với đại thần, hẳn sẽ gặp nguy. Cho nên nói đánh nước Ngô. Đánh Ngô
không thắng, dân chúng chết ở nước ngoài, đại thần trong nước trống trơn, vậy là ngài trên thì không có bề tôi mạnh đối địch, dưới sẽ không bị chúng dân đổ lỗi, chúa cô độc mà người khống chế nước Tề chỉ có ngài thôi.” Điền Thường nói: “Phải lắm! Nhưng quân tôi đã đánh Lỗ, giờ rút chuyển đánh Ngô, đại thần sẽ nghi ngờ, tôi phải làm sao đây?” Tử Cống đáp: “Ông cho án binh bất động, tôi xin đi sứ sang thuyết Ngô vương, khiến ông ta cứu Lỗ, đánh Tề, ông nhân đó đem quân nghênh chiến.” Điền Thường đồng ý, sai Tử Cống xuống phía nam yết kiến Ngô vương.
Gặp Ngô vương, Tử Cống bảo: “Thần nghe nói, bậc vương giả không để nước bị diệt, người làm bá không có kẻ địch mạnh, vật nặng ngàn cân chỉ cần thêm một chút cũng đủ làm nghiêng lệch. Nay Tề có vạn cỗ xe muốn chiếm Lỗ, có nghìn cỗ xe để tranh cường với Ngô, trộm thấy nguy thay cho nhà vua. Và cứu Lỗ thì danh tiếng rạng rỡ; đánh Tề thì thu mối lợi lớn vậy. Lấy danh nghĩa vỗ yên chư hầu ở Tứ Thượng, diệt Tề bạo ngược để chế phục Tấn hùng mạnh, lợi nào lớn hơn. Danh nghĩa là bảo tồn nước Lỗ mà thực lại khiến nước Tề mạnh nguy khốn, bậc trí giả không còn do dự nghi ngờ gì nữa.” Ngô vương đáp: “Phải lắm! Nhưng ta hay giao chiến với nước Việt, vây khốn ở Cối Kê. Việt vương cực nhọc nuôi quân, ôm lòng thù ta. Ông đợi ta đánh Việt, rồi sẽ theo lời ông.” Tử Cổng nói: “Việt không mạnh bằng Lỗ, Ngô chẳng mạnh hơn Tề, ngài bỏ Tề đánh Việt thì Tề đánh được Lỗ rồi. Vả nhà vua lấy danh nghĩa bảo tồn nước cho nước khác, đánh nước Việt nhỏ mà dọa nước Tề mạnh, đó không phải dũng. Người dũng không tránh việc khó, người nhân không để người khác lâm cảnh khốn cùng, người trí không bỏ lỡ thời cơ, bậc vương giả không để nước bị diệt, phải lập đạo nghĩa của mình. Nay, bảo tồn Việt là tỏ lòng nhân với chư hầu, cứu Lỗ đánh Tề là ra oai với nước Tấn, chư hầu ắt dắt nhau đến
chầu nước Ngô, bá nghiệp sẽ thành công. Nếu nhà vua thực sự lo nước Việt, thần xin qua phía đông yết kiến Việt vương, khiến ông ta xuất binh phụ giúp, như thế làm cho nước Việt trống không, danh nghĩa là theo chư hầu đi chinh phạt vậy.” Ngô vương cả mừng, bèn sai Tử Cống đi sứ nước Việt.
Việt vương hay tin Tử Cống đến, cho quét đường, ra tận ngoài thành nghênh đón, đích thân đánh xe đến khách xa hỏi: “Nơi này là nước man di, đại phu sao lại hạ mình đến đây?” Tử Cống đáp: “Nay tôi thuyết phục Ngô vương đánh Tề cứu Lỗ, ý Ngô vương muốn đánh, nhưng e ngại nước Việt, có nói: 'Chờ ta đánh Việt xong đã.' Như thế, ắt sẽ đánh Việt. Huống nữa, không có chí báo đáp mà khiến người ta nghi ngờ ấy là vụng về; có chí báo đáp mà khiến người ta biết rõ thì không an toàn; việc chưa làm mà đã biết trước thì nguy hiểm. Ba điều ấy là mối lo lớn của người hành sự.” Câu Tiễn dập đầu vái lạy nói: “Cô* thường không tự lượng sức, nên đánh nhau với nước Ngô, bị vây khốn ở Cối Kê, đau đớn đến tận xương tủy, ngày đêm cháy lưỡi khô môi, muốn sống chết với Ngô vương, là ước nguyện của cô vậy.” Rồi hỏi Tử Cống. Tử Cống đáp: “Ngô vương là kẻ dũng mãnh tàn bạo, bề tôi không chịu nổi; nước suy yếu vì chiến tranh liên miên, sĩ tốt không chịu nổi; trăm họ oán thán người trên, đại thần có ý làm loạn; Tử Tư vì can ngăn mà phải chết, Thái tể Bá Phỉ nắm quyền, hùa theo lỗi của vua để củng cố lợi riêng. Đó là nền cai trị của đất nước hung tàn vậy. Nay nhà vua thực lòng phát binh giúp ông ta thỏa chí nguyện, cống tiến nhiều của quý khiến ông ta vui lòng, lời lẽ nhún nhịn phải lễ để tôn ông ta lên, ông ta nhất định đánh Tề. Nước Ngô đánh mà không thắng, là phúc của nhà vua vậy. Đánh mà thắng, ắt đem quân đến Tấn, thần xin lên phía bắc yết kiến vua Tấn, khiến Tấn cùng tấn công, Ngô nhất định suy yếu.
Quân tinh nhuệ của Ngô thảy ở Tề, đại quân bị khốn ở Tấn còn nhà vua đánh nước yếu, như thế nước Ngô chắc chắn bị diệt.” Việt vương cả mừng, đồng ý, rồi đưa tặng Tử Cống trăm dật vàng, một thanh kiếm, hai cây giáo tốt. Tử Cống không nhận, lên đường.
Tử Cống về báo Ngô vương: “Thần cung kính dâng lời đại vương cho Việt vương, Việt vương cả sợ, nói: 'Cô bất hạnh, thuở nhỏ mất cha, không tự lượng sức, đắc tội với Ngô, quân thua thân nhục, co cụm ở Cối Kê, đất nước hoang tàn, nhờ đại vương ban tặng, để được phụng thờ tế tự, chết không dám quên, nào dám toan tính gì khác!'” Năm ngày sau, nước Việt sai quan đại phu Chủng dập đầu nói với Ngô vương: “Kẻ nô bộc do Câu Tiễn ở Đông Hải sai đến là Chủng, mạo muội xin thưa. Nay trộm nghe đại vương sắp vì đại nghĩa, đánh kẻ mạnh cứu nước yếu, vây khốn nước Tề hung bạo để vỗ về vương triều Chu, xin đem ba nghìn sĩ tốt trong nước, đích thân mặc giáp dày cầm vũ khí, đi trước chịu tên. Nhân đó, bề tôi hèn mọn là Chủng mang vũ khí do tiền nhân để lại gồm 20 bộ giáp sắt, dao lớn, giáo Khuất Lư, kiếm Bộ Quang để làm lễ chúc mừng quân đội.” Ngô vương cả mừng, nói với Tử Cống: “Việt vương muốn đích thân theo quả nhân đánh Tề, được không?” Tử Cống đáp: “Không được. Bởi nước Việt không người, ta đã tụ tập hết binh sĩ nước họ mà còn bắt Việt vương đi theo là bất nghĩa. Nhà vua đã nhận lễ vật của họ, hãy cho quân đội của họ đến, còn vua thì thôi.” Ngô vương đồng ý, bèn từ chối Việt vương. Thế rồi Ngô vương liền phát quân ở chín quận đi đánh Tề.
Tử Cống đến nước Tấn, nói với vua Tấn: “Thần nghe nói, việc không lo tính trước thì không thể ứng biến kịp, quân đội không dự phòng trước thì không thể thắng địch. Nay, Tề đánh nhau với Ngô, Ngô không thắng Tề thì nước Việt ắt loạn; nếu Ngô thắng Tề thi ắt kéo quân đánh Tấn.” Vua
Tấn cả sợ, nói: “Phải làm thế nào?" Tử Cống đáp: “Luyện quân nuôi lính để đợi họ.” Vua Tấn đồng ý.
Tử Cống lại đến nước Lỗ. Quả nhiên Ngô vương đánh người Tề ở Ngải Lăng, đại phá quân Tề, bắt được bảy tướng mà không rút quân, lại đem quân đến Tấn, gặp người Tấn ở trên Hoàng Trì. Ngô và Tấn tranh cường. Quân Tấn ra đánh, cả phá quân Ngô. Việt vương hay tin, vượt sông đánh úp Ngô, đóng quân cách đô thành nước Ngô bảy dặm. Ngô vương biết chuyện, bỏ Tấn rút về, đánh nhau với quân Việt ở Ngũ Hồ. Đánh ba lần đều thua, không giữ được cổng thành, quân Việt liền bao vây cung Ngô, giết Phù Sai và Tướng quốc. Sau khi diệt Ngô được ba năm, nước Việt xưng bá ở phía đông.
Cho nên, Tử Cống xuất mã một lần mà bảo tồn được Lỗ, làm Tề hỗn loạn, phá tan nước Ngô, khiến Tấn hùng cường, giúp Việt thành bá chủ. Tử Cống đi sứ một lần khiến các thế lực cầm cự, trong vòng mười năm, năm nước đều có thay đổi.
Tử Cống thích buôn bán, tùy lúc chuyển vận hàng hóa; thích tán dương điểm tốt của người nhưng lại không biết che đi lỗi lầm của người. Từng làm tướng nước Lỗ và nước Vệ, gia sản có ngàn vàng, sau chết ở nước Tề.
Ngôn Yển
Ngôn Yển người nước Ngô, tự Tử Du, kém Khổng tử 45 tuổi. Tử Du sau khi theo học Khổng tử, làm quan tể ở Vũ Thành. Khổng tử đi qua, nghe tiếng đàn ca, mỉm cười nói: “Làm thịt gà cần gì dao mổ trâu?” Tử Du đáp: “Khi trước, Yển nghe phu tử bảo, người quân tử học đạo thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến.” Khổng tử nói: “Này các trò, lời Yển
nói đúng đấy. Trước ta chỉ đùa anh ta thôi.” Khổng tử cho Tử Du là người giỏi văn học.
Bốc Thương
Bốc Thương tự Tử Hạ, kém Khổng tử 44 tuổi.
Tử Hạ hỏi: “[Kinh Thi viết]: Cười khéo miệng duyên, mắt đẹp lúng liếng, trên nền trắng lại điểm vẽ thêm, ý nói gì?” Khổng tử đáp: “Có nền trắng rồi mới điểm vẽ.” Hỏi: “Lễ sau chăng?” Khổng tử đáp: “Trò Thương bắt đầu có thể nói về Thi rồi đấy.”
Tử Cống hỏi: “Sư và Thương ai giỏi hơn?” Khổng tử đáp: “Sư còn mắc lỗi, Thương còn bất cập.” Hỏi: “Thế Sư hơn chăng?" Đáp: “Lỗi thì cũng như bất cập.”
Khổng tử nói với Tử Hạ: “Con hãy làm nhà nho quân tử, chớ làm nhà nho tiểu nhân.”
Khổng tử mất rồi, Tử Hạ dạy học ở Tây Hà, làm thầy Ngụy Văn đế. Con chết, Tử Hạ khóc mù cả đôi mắt.
Chuyên Tôn Sư
Chuyên Tôn Sư người đất Trần, tự Tử Trương, kém Khổng tử 48 tuổi. Tử Trương hỏi việc cầu bổng lộc, Khổng tử đáp: “Nghe nhiều và thận trọng với những điều đã nghe, như thế ít lỗi lầm; thấy nhiều và thận trọng với những việc mình làm, như thế ít hối hận. Lời nói ít lỗi lầm, việc làm ít hối hận, lộc ở chính chỗ ấy vậy.”
Lần nọ Tử Trương theo Khổng tử đến vùng Trần-Sái, bị vây khốn, hỏi cách đi, Khổng tử đáp: “Nói lời trung tín, hành vi thành kính, tuy vào nước man muội cũng thông; lời nói không trung tín, làm việc chẳng thành kính, dù trong châu trong làng liệu đi được chăng? Khi đứng thì thấy trung tín thành kính ở ngay trước mặt, khi ngồi xe lại thấy như ở ngay càng xe, thế thì sau đó mới đi được.” Tử Trương bèn chép những lời ấy vào dải áo.
Tử Trương hỏi: “Kẻ sĩ như thế nào được coi là thông đạt?” Khổng tử đáp: “Cái mà con cho là thông đạt là như thế nào?” Tử Trương đáp: “Ở trong nước ắt có tiếng tăm, ở gia ấp ắt có tiếng tăm.” Khổng tử nói: “Đó là có tiếng tăm thôi chứ không phải thông đạt. Người thông đạt thì chính trực thích điều nghĩa, xét lời nói rồi xem nét mặt, khiêm nhượng với kẻ dưới, như thế ở trong nước hay gia ấp đều coi là thông đạt. Người có
tiếng tăm thì sắc mặt như theo điều nhân mà hành vi lại trái, nhưng vẫn tin mình có lòng nhân, như thế ở trong nước hay gia ấp ắt có tiếng tăm cả.”
Tăng Sâm
Tăng Sâm người Nam Vũ Thành, tự Tử Dư, kém Khổng tử 46 tuổi. Khổng tử cho Tăng Sâm là người biết giữ đạo hiếu, cho nên truyền dạy. Ông soạn sách Hiếu kinh. Chết ở nước Lỗ.
Đạm Đài Diệt Minh
Đạm Đài Diệt Minh người Vũ Thành, tự Tử Vũ, kém Khổng tử 39 tuổi. Đạm Đài Diệt Minh mặt mày hung tợn, muốn thờ Khổng tử làm thầy, Khổng tử cho là tư chất kém. Sau khi thụ nghiệp, lui về tu dưỡng đức hạnh, không đi đường nhỏ*, không phải việc công không gặp quan khanh đại phu.
Đạm Đài Diệt Minh du ngoạn phía nam, đến Trường Giang, đệ tử đi theo đến ba trăm người, hành vi đích đáng, nổi danh chư hầu. Khổng tử biết chuyện, nói: “Ta dựa lời nói để chọn người nên nhìn nhầm Tể Dư; theo dáng vẻ để chọn người mà nhầm mất Tử Vũ.”
Mật Bất Tề
Mật Bất Tề tự Tử Tiện, kém Khổng tử 30 tuổi.
Khổng tử bảo: “Tử Tiện thực quân tử thay! Nếu nước Lỗ không có quân tử thì Tử Tiện học được từ đâu?”
Tử Tiện làm quan tể ấp Đan Phụ, về nói với Khổng tử: “Đất này có năm người hiền như Bất Tề, họ dạy Bất Tề về cách cai trị.” Khổng tử nói: “Tiếc thay Bất Tề cai trị vùng đất nhỏ, chỗ cai trị rộng lớn thì đáng kỳ vọng hơn vậy.”
Nguyên Hiến
Nguyên Hiến tự Tử Tư.
Tử Tư hỏi về sự hổ thẹn, Khổng tử đáp: “Nước có đạo thì làm quan hưởng lộc; nước vô đạo mà làm quan hưởng lộc, đó là hổ thẹn vậy.” Tử Tư hỏi: “Biết kiềm chế để không hiếu thắng, không tự kiêu, không oán hận và không ham muốn, như thế có phải là nhân chăng?” Khổng tử
đáp: “Như thế là khó lắm rồi, có phải nhân hay không thì ta không biết.” Khổng tử mất, Nguyên Hiến liền ẩn cư nơi đầm cỏ. Tử Cống làm Tướng quốc nước Vệ, đi hàng đoàn xe tử mã, mở cổng cỏ lá vào căn nhà tồi tàn thăm Nguyên Hiến. Hiến xốc lại mũ áo cũ rách ra gặp Tử Cống. Tử Cống xấu hổ, nói: “Ôi, bác há lại khốn cùng đến thế này ư?” Nguyên Hiến đáp: “Tôi nghe nói, không có của cải gọi là nghèo, học đạo mà không thể thi hành gọi là khốn cùng. Như Hiến này là nghèo, không phải khốn cùng vậy.” Tử Cổng thẹn, buồn bã ra về, trọn đời xấu hổ vì mình đã lỡ lời.
Công Dã Tràng
Công Dã Tràng người nước Tề, tự Tử Trường. Khổng tử nói: “Có thể gả con cho Tràng, tuy bị trói buộc trong chốn ngục tù, đó cũng không phải tội của Tràng vậy.” Thế rồi gả con gái cho.
Nam Cung Quát
Nam Cung Quát tự Tử Dung.
Nam Cung Quát hỏi Khổng tử: “Sao Nghệ giỏi bắn cung, Ngạo thạo thủy chiến, cả hai đều không toàn mạng; còn ông Vũ, ông Tắc đích thân trồng lúa lại có cả thiên hạ?” Khổng tử không đáp. Tử Dung đi ra, Khổng tử nói: “Người này quân tử thay! Người này chuộng đức thay!” “Nước có đạo chẳng bị bỏ phế, nước vô đạo không bị sát hại.” Tử Dung nhiều lần tụng đọc câu thơ “Bạch khuê chi điếm”*, Khổng tử đem con gái của anh trai mình gả cho.
Công Tích Ai
Công Tích Ai tự Quý Thứ.
Khổng tử nói: “Kẻ sĩ trong thiên hạ không có đức hạnh, phần nhiều làm gia thần hay làm quan ở các đô ấp; duy Quý Thứ là chưa từng làm quan.”
Tăng Điểm
Tăng Điểm tự là Tích.
Tăng Điểm theo hầu Khổng tử, Khổng tử nói: “Hãy nói về chí của mình.” Điểm thưa: “Quần áo mùa xuân đã may xong, cùng dăm sáu người tuổi đôi mươi, sáu bảy đứa trẻ, tắm trên sông Nghi, hóng gió ở đài Vũ Vu, cùng ca hát rồi kéo nhau về.” Khổng tử bùi ngùi nói: “Chí ta cũng giống trò Điểm vậy.”
Nhan Vô Diêu
Nhan Vô Diêu tự là Lộ. Lộ là cha của Nhan Hồi, cha con theo học Khổng tử vào các thời kỳ khác nhau.
Nhan Hồi chết đi, Nhan Lộ nghèo khó, bèn xin Khổng tử bán xe đang đi lấy tiền mai táng. Khổng tử nói: “Có tài hay không cũng là con mình. Thằng Lý* chết, có quan mà không có quách, ta không thể đi bộ để lấy tiền mua quách, vì ta từng làm quan đại phu, cho nên không thể đi bộ được.”
Thương Cù
Thương Cù người nước Lỗ, tự Tử Mộc, kém Khổng tử 29 tuổi. Khổng tử truyền [Kinh] Dịch cho Cù, Cu truyền lại cho Hãn Tý Tử Hoằng người nước Sở, Hoằng truyền cho Kiều Tử Dung là Tỳ người Giang Đông, Tỳ truyền cho Chu Tử Gia là Thụ người nước Yên, Thụ truyền cho Quang Tử Thừa là Vũ người ở Thuần Vu, Vũ truyền cho Điện Tử Trang là Hà người
nước Tề, Hà truyền cho Vương Tử Trung là Đồng người Đông Vũ, Đồng truyền cho Dương Hà người ở Truy Xuyên. Thời Nguyên Sóc*, Dương Hà nhờ nghiên cứu Dịch nên được làm Trung đại phu triều Hán.
Cao Sài
Cao Sài tự Tử Cao, kém Khổng tử 30 tuổi. Tử Cao cao chưa đến năm thước, theo học Khổng tử, Khổng tử cho là tối dạ.
Tử Lộ sai Tử Cao làm quan tể ở ấp Phí và ấp Hậu, Khổng tử nói: “Hai con em người ta đấy!” Tử Lộ thưa: “Có dân chúng ở đấy, có thần xã thần tắc ở đấy, đâu nhất thiết phải đọc sách mới là có học” Khổng tử nói: “Thế nên ta ghét kẻ xảo biện.”
Tất Điêu Khai
Tất Điêu Khai tự là Tử Khai. Khổng tử sai Khai đi làm quan, đáp rằng: “Con chưa tự tin về việc ấy.” Khổng tử lấy làm vui.
Công Bá Liễu
Công Bá Liễu tự Tử Chu.
Chu gièm Tử Lộ với họ Quý Tôn, Tử Phục Cảnh Bá nói với Khổng tử, rằng: “Phu tử [Quý Tôn] vốn có ý ngờ Tử Lộ, với Liễu, tôi đủ sức bêu thây y giữa chợ hoặc triều đình.” Khổng tử nói: “Đạo được thi hành do mệnh, đạo bị phế bỏ cũng do mệnh. Công Bá Liễu làm gì được mệnh”
Tư Mã Canh
Tư Mã Canh tự Tử Ngưu.
Ngưu lắm lời mà nóng vội, hỏi Khổng tử về đức nhân, Khổng tử đáp: “Người nhân nói lời cẩn trọng.” Hỏi: “Lời nói cẩn trọng sao gọi là nhân?” Khổng tử đáp: “Làm được mới khó, lời nói có thể không cẩn trọng ư?”
Hỏi về quân tử, Khổng tử đáp: “Quân tử không lo không sợ.” Hỏi: “Không lo không sợ, sao gọi là quân tử?” Khổng tử đáp: “Tự xét lòng mình không thấy hổ thẹn, đâu cần lo sợ gì nữa.”
Phàn Tu
Phàn Tu tự Tử Trì, kém Khổng tử 36 tuổi.
Phàn Trì xin học làm ruộng, Khổng tử nói: “[Cái đó] ta không bằng lão nông." Xin học làm vườn, Khổng tử nói: “Ta không bằng ông lão làm vườn.” Phàn Trì đi ra, Khổng tử nói: “Tiểu nhân thay, Phàn Tu! Người trên ham lễ thì dân không ai không kính; người trên ham nghĩa thì dân không ai không phục; bề trên ham tín thì dân không ai không thực lòng. Làm được thế thì dân chúng bốn phương địu cõng con mà đến, sao phải học làm ruộng.”
Phàn Trì hỏi về đức nhân, Khổng tử đáp: “Yêu người.” Hỏi về đức trí, đáp: “Biết người.”
Hữu Nhược
Hữu Nhược kém Khổng tử 43 tuổi. Hữu Nhược nói: “Chỗ dụng của lễ, lấy hòa làm quý, đạo của tiên vương coi đó là tốt đẹp. Lớn nhỏ đều theo đó, có điều không thi hành; biết hòa mà hòa, không dùng lễ tiết chế, thì không thi hành được.” “Đức tín gần với điều nghĩa, lời nói có thể kiểm
chứng; cung kính gần với lễ tiết, tránh xa được điều sỉ nhục; nhờ đó không mất chỗ thân cận, mà cũng có thể trông cậy được.”
Khổng tử mất rồi, học trò thương nhớ, dung mạo Hữu Nhược giống Khổng tử, các học trò cùng tôn lên làm thầy, phụng thờ như khi phu tử còn sống. Một hôm, học trò đến trước mặt hỏi: “Xưa, phu tử còn sống, sai các học trò cầm đồ hứng mưa, thế rồi mưa thật, học trò hỏi: 'Sao phu tử biết trời sẽ mưa', phu tử đáp: Kinh Thi chẳng nói đấy ư? 'Trăng dời đến Tất, khiến đổ mưa to. Đêm qua chẳng phải trăng ở vị trí sao Tất ư?' Hôm khác, trăng ở vị trí sao Tất trời lại không mưa. Thương Cù tuổi đã cao mà chưa có con, bà mẹ bèn cưới cho cô vợ khác. Khổng phu tử sai Cù đến Tề, bà mẹ xin cho ở lại, phu tử nói: 'Đừng lo, sau tuổi bốn mươi sẽ có năm con trai.’ Sau đúng như lời. Dám hỏi, sao phu tử biết những việc đó?” Hữu Nhược lặng im không đáp. Học trò đứng dậy nói: “Hữu tử tránh ra, đây không phải chỗ anh ngồi đâu!”
Công Tây Xích
Công Tây Xích tự Tử Hoa, kém Khổng tử 42 tuổi.
Tử Hoa đi sứ nước Tề, Nhiễm Hữu xin thóc cho mẹ Tử Hoa, Khổng tử nói: “Cho một phủ”*. Lại xin thêm, Khổng tử nói: “Cho một dữu.”* Nhiễm tử mang cho năm thưng. Khổng tử nói: “Trò Xích đang ở nước Tề, cưỡi ngựa béo khỏe, mặc áo cừu nhẹ. Ta nghe quân tử giúp người khốn quẫn chứ không khiến người giàu thêm.”
Vu Mã Thi
Vu Mã Thi tự Tử Kỳ, kém Khổng tử 30 tuổi.
Quan Ty bại đất Trần hỏi Khổng tử: “Lỗ Chiêu cũng biết lễ chăng?" Khổng tử đáp: “Biết lễ.” Trần Ty bại lui xuống, vái chào Vu Mã Kỳ, nói: “Tôi nghe quân tử thì không a dua, quân tử mà cũng a dua ư? Vua Lỗ lấy người con gái nước Ngô làm phu nhân, đặt tên là Mạnh Tử. Mạnh Tử họ Cơ, nói tránh vì cùng họ, nên gọi là Mạnh Tử. Vua Lỗ mà biết lễ, ai là không biết lễ!” Thi nói lại với Khổng tử, Khổng tử nói: “Khâu này thực may, nếu có lỗi ắt người nói cho biết. Bề tôi không thể nói ra lầm lỗi của vua, vì thế phải tránh, đó là lễ vậy.”
- Lương Chiên, tự Thúc Ngư, kém Khổng tử 29 tuổi.
- Nhan Hạnh, tự Tử Liễu, kém Khổng tử 46 tuổi.
- Nhiễm Nhụ, tự Tử Lỗ, kém Khổng tử 50 tuổi.
- Tào Tuất, tự Tử Tuần, kém Khổng tử 50 tuổi.
- Bá Kiện, tự Tử Tích, kém Khổng tử 50 tuổi.
- Công Tôn Long, tự Tử Thạch, kém Khổng tử 53 tuổi.
Từ Tử Thạch trở lên gồm 35 người, có tên tuổi rõ ràng và việc theo học Khổng tử được chép trong sách vở. Ngoài ra, 42 người dưới đây không biết tuổi, cũng không thấy chép trong sách vở.
- Nhiễm Quý, tự Tử Sản.
- Công Tổ Cú Tư, tự Tử Chi.
- Tần Tổ, tự Tử Nam.
- Tất Điêu Xa, tự Tử Liễm.
- Nhan Cao, tự Tử Kiêu.
- Tất Điêu Đồ Phủ.
- Nhưỡng Tứ Xích, tự Tử Đồ.
- Thương Trạch.
- Thạch Tác Thục, tự Tử Minh. - Nhậm Bất Tề, tự là Tuyển. - Hậu Xứ, tự Tử Lý.
- Tần Nhiễm, tự là Khai.
- Công Hạ Thủ, tự là Thừa. - Hề Dung Châm, tự Tử Tích. - Công Kiên Định, tự Tử Trung. - Nhan Tử, tự là Tương.
- Khiêu Đan, tự Tử Gia.
- Cú Tỉnh Cương.
- Hãn Phủ Hắc, tự Tử Sách. - Công Lương Nhụ, tự Tử Chính. - Tần Thương, tự Tử Phi. - Thân Đảng, tự là Chu.
- Vinh Kỳ, tự Tử Kỳ.
- Huyện Thành, tự Tử Kỳ. - Tả Nhân Dĩnh, tự là Hành. - Yên Cấp, tự là Tư.
- Trịnh Quốc, tự Tử Đồ.
- Tần Phi, tự Tử Chi.
- Nhan Chi Bộc, tự là Thúc. - Thi Chi Thường, tự Tử Hằng.
- Nhan Khoái, tự Tử Thanh.
- Bộ Thúc Thừa, tự Tử Xa.
- Nguyên Cang Tịch.
- Nhạc Khái, tự Tử Thanh
- Liêm Khiết, tự là Dung.
- Thúc Trọng Hội, tự Tử Kỳ.
- Nhan Hà, tự là Nhiễm.
- Địch Hắc, tự là Tích.
- Bang Tổn, tự Tử Liễm.
- Khổng Trung.
- Công Tây Dư Như, tự Tử Thượng.
- Công Tây Châm, tự Tử Thượng.
Thái sư công bàn rằng: Kẻ học phần nhiều nói đến 70 học trò của Khổng tử, người tán dương thì nói quá sự thực, kẻ hủy báng thì làm sai lệch sự thực, họ đều chưa tận mắt nhìn thấy dung mạo, vậy bàn về thư tịch nói tới các học trò thì cổ văn của họ Khổng* là gần sự thực. Ta ghi họ tên, đoạn văn... đều trích từ các đoạn đệ tử hỏi trong Luận ngữ, lần lượt biên chép lại, chỗ nào còn ngờ thì để trống.
QUYỂN 68
THƯƠNG QUÂN LIỆT TRUYỆN
Thương quân là con hầu thiếp một quý tộc nước Vệ, tên Ưởng, họ Công Tôn, tổ tiên vốn họ Cơ. Khi trẻ, Ưởng thích cái học “hình danh”, làm Trung thứ tử cho Tướng quốc nước Ngụy là Công Thúc Tọa. Công Thúc Tọa biết Ưởng hiền năng, chưa kịp tiến cử. Tọa lâm bệnh nặng, Ngụy Huệ vương đích thân tới thăm, hỏi: “Công Thúc ốm, như có điều chẳng may, xã tắc sao đây?" Công Thúc đáp: “Trung thứ tử của Tọa là Công Tôn Ưởng, tuy còn trẻ tuổi nhưng có kỳ tài, xin bệ hạ trao đại sự quốc gia cho anh ta.” Vua im lặng. Lúc vua sắp đi, Tọa đuổi mọi người ra ngoài, rồi bẩm: “Nếu bệ hạ không dùng Ưởng, nhất định phải giết đi, không được để người này ra khỏi nước Ngụy.” Vua đồng ý rồi ra về. Công Thúc Tọa gọi Ưởng đến tạ lỗi rằng: “Nay nhà vua hỏi ta, ai có thể làm Tướng quốc, ta nói ngươi, xem sắc mặt nhà vua hẳn không nghe. Ta trước phải lo cho vua, sau mới đến bề tôi, nhân đó ta nói với nhà vua nếu không dùng người thì phải giết đi. Vua đã đồng ý. Ngươi mau trốn đi, không sẽ bị bắt.” Ưởng nói: “Nhà vua không nghe lời ngài mà dùng tôi, lẽ đâu lại theo lời ngài mà giết tôi?” Rốt cuộc không đi. Sau khi Huệ vương ra đi, nói với tùy tòng: “Công Thúc bệnh nặng, buồn thay, muốn quả nhân giao đại sự quốc gia cho Công Tôn Ưởng, há chẳng phải hồ đồ sao?”
Sau khi Công Thúc chết, Công Tôn Ưởng nghe tin Tần Hiếu công hạ lệnh tìm người hiền tài trong nước, ý muốn chấn hưng bá nghiệp của Mục công, thu lại đất đã mất ở phía đông, Ưởng sang phía tây đến nước Tần, thông qua sủng thần của Hiếu công là Cảnh Giám, xin yết kiến Hiếu công. Hiếu công gặp Vệ Ưởng, nói chuyện hồi lâu, nhiều lúc ngủ gật, không nghe. Sau đó, Hiếu Công tức giận nói với Cảnh Giám: “Khách của ngươi là người nhảm nhí, dùng làm sao được!” Cảnh Giám bèn trách Thương Ưởng. Ưởng bảo: “Tôi thuyết nhà vua về đế đạo, nhưng chí nhà vua không hiểu được.” Năm ngày sau, Ưởng lại xin vua cho triệu kiến. Ưởng gặp lại Hiếu Công, có khá hơn trước, nhưng chưa trúng ý vua. Rồi sau, Hiếu công lại trách Cảnh Giám, Giám cũng trách lại Ưởng. Ưởng đáp: “Tôi thuyết nhà vua về vương đạo, nhưng vua không lọt tai. Xin cho tôi yết kiến lần nữa.” Ưởng lại gặp Hiếu Công, Hiếu công thích nhưng chưa dùng. Thương Ưởng về rồi, Hiếu công bảo Cảnh Giám: “Khách của người giỏi đấy, có thể nói chuyện được.” Ưởng nói: “Tôi thuyết nhà vua về bá đạo, ý vua muốn dùng đấy. Như được triệu kiến nữa thì tôi biết phải nói gì rồi.” Vệ Ưởng lại được triệu gặp Hiếu công, vua trò chuyện với Ưởng, say sưa đến mức không biết đầu gối mình đã nhích đến trước chiếu của Ưởng. Nói chuyện liền mấy ngày không chán. Cảnh Giám nói: “Ông sao nói trúng ý vua đến thế? Vua tôi rất thích thú.” Ưởng nói: “Tôi thuyết vua về đạo của Ngũ đế, Tam vương, mong vua được như thời Tam đại, nhưng vua nói: 'Lâu quá, ta không thể đợi được. Vả các bậc vua hiền, đều rạng danh thiên hạ, sao có thể lặng lẽ đợi đến mấy trăm năm để thành đế vương được'. Do đó tôi đem thuật làm nước hùng mạnh ra nói với vua, vua rất thích thuật đó, nhưng đức chính khó mà sánh được thời Ân, Chu vậy.”
Hiếu công dùng Vệ Ưởng, Ưởng muốn đổi pháp chế, Hiếu công sợ thiên hạ bàn tán. Vệ Ưởng nói: “Hành động do dự thì không nên danh, việc làm do dự thì không thành công. Vả như người làm việc vượt hơn người thường sẽ bị người đời bài bác; có chính kiến chỉ riêng mình biết ắt bị dân chúng chê trách. Kẻ ngu vẫn còn u mê dầu việc đã thành; bậc trí thấy sự việc khi chưa phát sinh. Dân chúng không thể cùng mưu đại sự lúc ban đầu, chỉ vui chung khi việc đã xong. Muốn bàn đến đức hạnh thì không hòa với thói tục, muốn làm nên đại cũng đừng mưu sự cùng đám đông. Vì thế, thánh nhân nếu có thể khiến quốc gia hùng cường thì không theo phép cũ; nếu có thể làm lợi cho dân thì chẳng theo lễ chế xưa.” Hiếu công nói: “Phải lắm.” Cam Long bèn tâu: “Không phải. Thánh nhân không đổi dân chúng để giáo hóa, bậc trí không đổi pháp chế để cai trị. Dựa vào dân mà giáo hóa, không vất vả mà thành công, nhân phép tắc mà cai trị; quan quen việc mà dân cũng thích.” Vệ Ưởng nói: “Lời Long nói là lời của thế tục vậy. Người thường muốn người ta yên phận với thói cũ, kẻ học nguyện chìm đắm vào những điều được nghe. Hai hạng đó cho làm quan giữ phép tắc thì khả dĩ, chứ không thể bàn đến cái vượt ra ngoài khuôn phép được. Thời Tam đại, lễ chế khác nhau mà thành vương đạo, Ngũ bá theo phép khác nhau mà nên nghiệp bá. Kẻ trí làm ra phép tắc, người ngu bị phép chế định; người hiền thay đổi lễ chế, kẻ kém bị lễ bó buộc.” Đỗ Chí nói: “Không lợi gấp trăm, không đổi pháp chế; không thành công gấp mười, không đổi đồ vật. Theo phép cổ thì chẳng lỗi lầm, noi lễ chế thì không tà vạy.” Vệ Ưởng đáp: “Trị đời không chỉ một cách, tiện cho nước không cần nói phép cũ. Vì thế Thành Thang, Vũ vương không theo cổ mà thành nghiệp vương; vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân, không đổi lễ mà bị diệt vong. Kẻ làm trái phép cổ không thể không gặp khó khăn, người chỉ theo lễ chế
không đủ để được xưng tụng.” Hiếu Công nói: “Phải.” Bèn phong Vệ Ưởng làm Tả thứ trưởng, hạ lệnh thay đổi pháp chế.
Lệnh dân hợp thành “thập” “ngũ”*, coi xét giám sát lẫn nhau*. Không cáo giác kẻ gian sẽ bị chém ngang lưng, cáo giác thì tưởng thưởng như chém được đầu giặc, nếu che giấu thì tội như đầu hàng quân địch. Nhà nào có hai con trai trở lên mà không tách riêng, đánh thuế gấp đôi. Người có quan công đều được nhận tước vị cao; kẻ vì lợi riêng đánh nhau, án theo mức độ nặng nhẹ để dùng hình. Dốc sức làm nghề gốc*, người cày ruộng dệt vải có nhiều thóc lụa, được miễn lao dịch thuế khóa. Kẻ theo cái lợi phần ngọn* và kẻ lười biếng mà nghèo khó, đều bị sung làm nô. Người trong tông thất không có công lao, không được ghi vào gia phả. Biện rõ trên dưới tước trật, dựa theo chức vụ khác nhau để phân chia đất đai, nhà cửa, nô tỳ, trang phục. Người có công thì hiển vinh, ai không công thì tuy giàu cũng không được tiếng thơm.
Pháp lệnh đã đủ, Ưởng chưa công bố, vì e dân không tin, bèn cho dựng cây gỗ dài ba trượng ở cửa nam quốc đô, mộ dân ai có thể dời cây gỗ đến cửa bắc, thưởng mười lượng vàng. Dân lấy làm lạ, chẳng ai chịu làm. Ưởng lại nói: “Ai dời đi được, thưởng năm mươi lượng.” Có một người chịu dời cây gỗ, liền thưởng năm mươi lượng, để tỏ mình không lừa dối. Sau đó hạ lệnh biến pháp.
Lệnh thi hành được một năm, ban đầu hàng ngàn dân chúng kinh đô nước Tần nói rằng pháp lệnh mới không tiện lợi. Thế rồi thái tử phạm pháp, Vệ Ưởng nói: “Pháp lệnh không thể không thi hành, dù người trên phạm phải.” Định trị tội thái tử. Thái tử là người nối ngôi vua, không thể dùng hình, bèn dùng hình với Thái phó của công tử Kiền, thích chữ vào mặt Thái sư của công tử Giả. Hôm sau, người Tần đều theo pháp lệnh. Thi
hành tân pháp được mười năm, dân Tần cả mừng, đi đường không nhặt của rơi, trong núi không có giặc cướp, nhà nhà sung túc, người người no đủ. Dân dũng cảm chiến đấu, không tự ý đánh nhau, hương ấp yên trị. Ban đầu dân Tần nói pháp lệnh mới không tiện, nay có người lại nói lệnh mới tiện ích. Vệ Ưởng nói: “Đó đều là đám dân làm loạn giáo hóa vậy.” Bèn dời bọn họ đến biên thành. Sau đấy, dân chúng không ai dám dị nghị nữa.
Thế rồi Tần phong Ưởng làm Đại lương tạo*, đem quân bao vây An Ấp nước Ngụy, buộc An Ấp đầu hàng. Qua ba năm, cho xây dựng trang hoàng cung điện ở Hàm Dương, nước Tần từ đất Ung dời đô về đây. Lại lệnh cho dân, cha con anh em, không được chung nhà. Rồi tập hợp thành hương ấp nhỏ, gộp lại thành huyện, đặt chức lệnh, thừa, được 31 huyện. Các khu ruộng bỏ bờ, mở rộng diện tích, khiến việc đánh thuế được tiện lợi. Chuẩn hóa dụng cụ đo lường: đấu, thưng, cân, trượng, thước. Thi hành được bốn năm nữa, công tử Kiền lại phạm pháp, bị cắt mũi. Được năm năm, người Tần giàu mạnh, thiên tử gửi thịt tế cho Hiếu công, chư hầu đều đến chúc mừng.
Năm sau, Tề đánh bại Ngụy ở Mã Lăng, bắt thái tử Thân làm tù binh, giết tướng quân Bàng Quyên. Năm sau nữa, Vệ Ưởng nói với Hiếu công: “Tần với Ngụy, như người có bệnh trong tim phổi, không phải Ngụy chiếm Tấn, Tần sẽ chiếm Ngụy. Sao vậy? Nước Ngụy ở phía tây dãy núi cao, đóng đô ở An Ấp, phân giới với Tần bằng sông Hà mà chiếm riêng nguồn lợi phía đông Hào Sơn. Thuận lợi thì sang phía tây chiếm Tần, bất lợi thì thu các đất phía đông. Nay Tần có vua hiền thánh, nước nhờ đó mà thịnh. Còn Ngụy năm ngoái đại bại ở Tề, chư hầu phản bội, có thể thừa cơ hội này đánh Ngụy. Ngụy không chống nổi Tần, ắt rời về phía đông. Rời về phía đông, Tần chiếm cứ chỗ núi sông hiểm yếu, hướng về đông để khống
chế chư hầu, đó là sự nghiệp của đế vương vậy.” Hiếu công cho là phải, sai Vệ Ưởng cầm quân đánh Ngụy. Ngụy sai Công tử Ngang dẫn quân đánh Tần. Hai quân áp sát, Vệ Ưởng gửi thư cho công tử Ngang, viết: “Khi trước tôi và công tử vốn thân thiết, nay làm tướng ở hai nước, không nỡ đánh nhau, xin được gặp mặt công tử, kết minh ước, uống rượu vui vẻ rồi bãi binh, để Tần và Ngụy đều yên ổn.” Công tử Ngang nước Ngụy cho là phải. Hội minh xong, cùng uống rượu, không dè Vệ Ưởng cho phục sẵn giáp binh đánh úp, bắt công tử Ngang làm tù binh, nhân đó tấn công quân Ngụy, phá tan quân Ngang, bắt hết về Tần. Quân Ngụy Huệ vương nhiều lần bị Tề và Tần đánh tan, trong nước trống không, ngày càng suy yếu, lo sợ, bèn sai người cắt đất Hà Tây dâng Tần để cầu hòa. Còn Ngụy bỏ An Ấp, dời đô đến Đại Lương Huệ Vương nói: “Quả nhân hối hận đã không nghe lời của Công Thúc Tọa vậy.” Vệ Ưởng phá được Ngụy trở về, nước Tần phong cho 15 ấp ở đất Y và Thương, gọi là Thương quân.
Thương quân làm Tướng quốc nước Tần mười năm, tông thất quý thích nhiều người oán giận. Triệu Lương gặp Thương quân. Thương quân nói: “Ưởng được gặp ông là nhờ Mạnh Lan Cao, nay Ưởng xin kết giao, được chăng?” Triệu Lương nói: “Tôi không dám mong thế. Khổng Khâu có nói: 'Tiến cử người hiền, kẻ có tài và yêu dân sẽ đến; tụ tập hạng kém cỏi, bậc vương giả rút lui.' Tôi kém cỏi, nên không dám vâng lời. Tôi nghe nói rằng: 'Không phải địa vị của mình mà cứ ngồi, là tham vị; không phải cái danh của mình mà chiếm lấy, là tham danh.' Nếu tôi nhận lời ngài, e là tham vị, tham danh vậy. Vì thế không dám vâng lời.” Thương quân nói: “Ông không hài lòng việc tôi cai trị ở Tần ư?” Triệu Lương đáp: “Tự phản tỉnh là thông minh, tự nhìn lại là sáng láng, tự thắng mình là mạnh giỏi. Ngu Thuấn có nói: 'Kẻ tự cho mình thấp kém, đáng chuộng vậy.' Ngài
không theo đạo của Ngu Thuấn, không nên hỏi tôi.” Thương quân nói: “Ban đầu Tần theo giáo hóa của Nhung, Địch, cha con không phân biệt, cùng ở chung một nhà. Nay tôi sửa đổi chế độ giáo hóa, khiến trai gái có sự phân biệt, xây dựng cung điện to lớn, không kém gì nước Lỗ nước Vệ. Ông xem tôi cai trị nước Tần, so với Ngũ Cổ đại phu*, ai giỏi hơn?” Triệu Lương đáp: “Ngàn tấm da dê, chẳng bằng nách một con cáo; ngàn kẻ vâng dạ, không bằng một người nói thẳng. Vũ vương vì lời nói thẳng thắn mà hưng khởi, vua Trụ nhà Ân vì bề tôi không dám lên tiếng mà diệt vong. Nếu ngài muốn theo Vũ vương thì tôi xin suốt ngày nói lời ngay thẳng, xin đừng trách phạt, như thế được không?” Thương quân đáp: “Có câu: Lời cốt ứng đãi là lời phù hoa, lời nói đáng quý là lời thành thực, lời khó nghe là thuốc vậy, lời ngon ngọt là bệnh vậy. Phu tử quả chịu hằng ngày nói thẳng, là thuốc của Ưởng vậy. Ưởng sẽ phụng thờ ngài như thầy, sao ngài lại từ chối?” Triệu Lương nói: “Xét lẽ, Ngũ Cổ đại phu là người thấp hèn đất Kinh. Nghe Tần Mục công là vua hiền nên mong được cầu kiến, trên đường đi không có tiền, tự bán mình cho khách Tần, mặc quần áo cộc chăn trâu. Đầy năm, Mục công biết đến, cất nhắc từ dưới miệng trâu lên đứng trên trăm họ mà Tần không ai dám phàn nàn. Làm Tướng quốc nước Tần sáu bảy năm, phía đông đánh Trịnh, ba lần đặt ngôi vua nước Tấn, một lần ngăn hoa cho nước Sở. Ban hành giáo hóa trong nước mà người đất Ba đến dâng cống, đức ban ra khắp chư hầu mà người Nhung tám hướng đến thần phục. Do Dư biết vậy, đến xin cầu kiến. Ngũ Cổ đại phu làm Tướng quốc nước Tần, khi mệt không ngồi xe, trời nắng không dùng lọng, đi lại khắp nơi trong nước, không có xe ngựa tùy tòng, không mang giáo mác phòng vệ, công lao ghi vào sử sách, đức hạnh truyền mãi đời sau. Ngũ Cổ đại phu chết, trai gái nước Tần khóc, con trẻ không ca hát, người giã gạo không hò. Đó là đức của Ngũ Cổ đại phu vậy. Nay ngài thông qua sủng
thần Cảnh Giám để được yết kiến Tần vương, đó không phải cách lập danh vọng vậy. Làm Tướng quốc nước Tần mà không coi trọng việc trăm họ, lại xây đắp cung điện to lớn, đó không phải cách lập công vậy. Thích chữ vào mặt thầy của Thái tử, dùng hình khốc liệt làm tổn thương chúng dân, là gây oán tích họa vậy. Giáo dục làm dân thay đổi nhanh hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn chính lệnh. Nay ngài lập uy quyền trái lẽ, tự sửa đổi lệnh vua, đó không phải cách thi hành giáo hóa. Ngài lại quay mặt về nam xưng là quả nhân, hằng ngày chế ước các quý công tử nước Tần. Kinh Thi nói: 'Con chuột còn có thân thể, con người há không có lễ; Người không có lễ, sao không mau chết đi’. Xét qua Kinh Thi, không phải là lời chúc thọ cho ngài. Công tử Kiền đóng cổng, tám năm không ra khỏi cửa, ngài còn giết cả Chúc Hoan và khắc chữ lên mặt Công Tôn Giả. Kinh Thi viết: 'Được lòng người thì hưng thịnh, mất lòng người thì đổ vỡ.' Mấy việc ấy đều không được lòng người. Khi ngài ra ngoài, hàng chục xe đi sau, theo xe có giáp sĩ, dùng những kẻ dũng lực tùy tòng, lại có lính cầm giáo kích chạy theo. Thiếu một thứ ngài nhất định không đi. Kinh Thư viết: 'Dựa vào đức thì được tốt lành, dựa vào sức tất sẽ bại vong.' Cái nguy của ngài như giọt sương mai, còn muốn kéo thêm tuổi thọ được ư? Vậy thì sao không trả lại mười lăm ấp, về tưới vườn cây chốn thôn quê, khuyên Tần vương với kẻ sĩ ẩn mình nơi núi khe, nuôi dưỡng người già bảo bọc kẻ côi cút, kính trọng cha anh, sắp xếp người có công, đề cao người có đức, như thế may được chút yên. Ngài còn tham giàu ở đất Thương, Ư, sùng việc giáo hóa ở Tần, chất oán với trăm họ, một ngày kia Tần vương bỏ tân khách không ra thiết triều*, người Tần há không bắt ngài sao? Sự diệt vong của ngài có thể nhón chân mà đợi.” Thương quân không nghe.
Năm tháng sau, Tần Hiếu công chết, Thái tử lên ngôi. Bọn công tử Kiền tố cáo Thương quân muốn làm phản, vua phái người bắt Thương quân. Thương quan trốn đến dưới cửa quan ải, muốn vào trọ trong quán khách. Chủ quán không biết Thương quân, nói: “Theo tân pháp của Thương quân, cho người ở trọ mà không đảm bảo, chịu tội liên lụy.” Thương quân ngậm ngùi than rằng: “Ôi chao, cái tệ của biến pháp đến thế ư?” Rồi sang nước Ngụy. Người Ngụy oán Thương quân đã lừa công tử Ngang rồi đánh phá quân Ngụy, không chịu dung nạp. Thương quân muốn đến nước khác. Người Ngụy nói: “Thương quân là giặc của Tần. Tần là nước mạnh, mà giặc vào nước Ngụy, không thể không đưa về.” Bèn đưa Thương quân về Tần. Thương quân trở lại nước Tần, đến ấp Thương, cùng thuộc hạ đem quân trong ấp tiến lên phía bắc đánh nước Trịnh. Tần phát binh tấn công Thương quân, giết Thương quân ở Mãnh Trì nước Trịnh. Tần Huệ vương cho dùng xe ngựa xé xác Thương quân thị chúng, nói: “Không kẻ nào được làm phản như Thương Ưởng!” Rồi diệt cả nhà Thương quân.
Thái sử công bàn rằng: Thương quân là người thiên tư khắc bạc. Xem việc ông ta muốn đem thuật của đế vương nói với Hiếu công, thuyết suông phù phiếm, không phải thực tâm vậy. Vả ông thông qua sủng thần để tiếp kiến vua Tần, khi được dùng, dùng hình với công tử Kiền, lừa tướng Ngụy là Ngang, không theo lời Triệu Lương, vậy đủ thấy Thương quân ít ân đức rồi. Ta thường đọc các thiên sách “Khai tắc", “Canh chiến"* của Thương quân, thấy cũng giống việc ông ta đã làm. Rốt cuộc bị tiếng xấu ở Tần, cũng là đáng lắm!
QUYỂN 69
TÔ TẦN LIỆT TRUYỆN
Tô Tần, người Lạc Dương, Đông Chu. Từng sang phía đông đến nước Tề tìm thầy, rồi theo học Quỷ Cốc tiên sinh.
Đi du thuyết mấy năm, khốn khó quá phải trở về. Anh em, chị dâu, em gái, thê thiếp đều cười thầm, nói: “Phong tục của người Chu là gây dựng sản nghiệp, ra sức việc công thương đặng kiếm lợi hai phần mười. Nay ông bỏ gốc mà chuộng khua mội múa mép, bị khốn cùng, chẳng cũng là phải ư?” Tô Tần nghe nói xấu hổ, tự thấy cảm thương, bèn đóng cửa không ra ngoài, lấy sách vở xem khắp lượt, nói: “Kẻ sĩ vùi đầu theo học sách vở mà không thể giành được tôn quý vinh hoa, dù đọc nhiều có làm được trò gì?” Thế rồi tìm được quyển Âm phù của nhà Chu, vùi đầu vào đọc. Đầy năm, rút được cách thăm dò người, nói: “Phen này có thể du thuyết vua đương thời rồi.” Bèn xin du thuyết Chu Hiển vương. Hầu cận của Hiển vương vốn biết Tô Tần, đều coi thường, không tin.
Tô Tần bèn qua phía tây, sang nước Tần. Tần Hiếu công chết. Tô Tần thuyết Huệ vương rằng: “Nước Tần bốn phía hiểm yếu, dựa núi cao, có sông Vị liền một dải, đông có cửa Hàm Cốc và sông Hà, tây có Hán Trung, nam có đất Ba đất Thục, bắc có quận Đại quận Mã, đó là kho trời vậy. Nước Tần có sĩ dân đông đúc, đem binh pháp mà dạy cho họ, có thể thôn tính thiên hạ, xưng đế mà cai trị.” Tần vương nói: “Lông cánh chưa đủ,
chẳng thể bay cao; văn lý chưa rõ, không thể thôn tính thiên hạ.” Lại nhân mới giết Thương Ưởng, ghét bọn biện sĩ, rốt cuộc không dùng. Tô Tần bèn đi về đông, sang nước Triệu. Triệu Túc hầu phong em trai là Thành làm Tướng quốc, hiệu Phụng Dương quân. Phụng Dương quân không thích Tô Tần.
Tô Tần liền đến du thuyết nước Yên, hơn một năm sau mới được yết kiến. Tô Tần nói với Yên Văn hầu:
“Nước Yên phía đông có Triều Tiên, Liêu Đông; phía bắc có Lâm Hồ, Lâu Phiền; phía tây có Vân Trung, Cửu Nguyên; phía nam có sông Hồ Đà, Dịch Thủy, đất dài hơn hai nghìn dặm, giáp binh có mấy chục vạn, xe có hơn sáu trăm cỗ, chiến mã tới sáu bảy nghìn, lương thảo đủ dùng mấy năm. Phía nam có đất Kiệt Thạch, Nhạn Môn màu mỡ, phía bắc có nguồn lợi táo và dẻ, dân tuy không chuộng nghề nông nhưng nhờ tác dẻ cũng đủ sống. Đó là kho trời vậy.
Yên vui vô sự, không thấy cảnh quan thua tướng chết, chẳng nước nào hơn được nước Yên vậy. Đại vương có biết sao lại thế không? Sở dĩ nước Yên không bị giặc cướp, không bị chiến tranh, vì có nước Triệu che chắn ở mặt nam vậy. Tần và Triệu năm lần giao chiến, Tần thắng hai còn Triệu thắng ba. Tần và Triệu cùng gặp khốn đốn, còn nhà vua lấy vẹn nước Yên mà khống chế phía sau, cho nên nước Yên không bị xâm phạm vậy. Và Tần muốn tấn công Yên phải qua đất Vân Trung và Cửu Nguyên, vượt đất Đại và Thượng Cốc, xa đến mấy ngàn dặm, tuy lấy được thành nước Yên nhưng Tần cũng không thể giữ được. Tần không thể hại đến Yên, điều đó đã rõ vậy. Nay Triệu muốn đánh Yên, hiệu lệnh ban ra, chưa đầy mười ngày mà mấy chục vạn quân đã kéo đến Đông Viên. Vượt Hô Đà, băng Dịch Thủy, không tới bốn năm ngày đã áp sát quốc đô rồi. Do đó nói Tần
đánh Yên là đánh ngoài ngàn dặm, Triệu đánh Yên là đánh trong trăm dặm. Không lo mối vạ trong trăm dặm mà coi trọng việc ngoài ngàn dặm, không có kế nào sai lầm đến thế. Vì vậy xin đại vương kết thân với Triệu, thiên hạ thành một, nước Yên tất không lo gì nữa.”
Văn hầu đáp: “Lời ông nói đúng, nhưng nước ta nhỏ, tây bị Triệu hùng mạnh bức ép, nam gần nước Tề, Tề và Triệu đều là nước mạnh. Nếu ông quyết muốn hợp tung để an nước Yên, quả nhân xin đem cả nước cùng theo.”
Thế rồi Văn hầu cấp cho Tô Tần ngựa xe vàng lụa để đến Triệu. Lúc này Phụng Dương quân đã chết, nhân đấy Tô Tần nói với Triệu Túc hầu: “Bậc khanh tướng, đám bề tôi cho tới kẻ sĩ áo vải trong thiên hạ đều coi đại vương là hiền quân bởi ngài theo điều nghĩa, cùng nguyện vâng lời dạy, phô bày lòng trung trước ngài từ lâu. Thế nhưng, Phụng Dương quân ganh ghét mà đại vương không trọng dụng được họ, vì thế đám tân khách, du thuyết không ai dám cạn lời trước mặt đại vương. Nay Phụng Dương quân đã chết, đại vương có thể gần gũi sĩ dân vậy, nên thần mới dám dâng những suy nghĩ ngu muội.
Thần vì đại vương mà trộm nghĩ, chẳng gì bằng dân yên vui vô sự, vả lại chẳng nên làm phiền nhiễu dân. Gốc của việc an dân, chỗ chọn đối tượng kết giao, chọn đúng thì dân được yên, chọn không đúng thì dân trọn đời không yên. Xin nói về nỗi lo bên ngoài: Tề và Tần là hai kẻ địch khiến dân không được yên, dựa Tần đánh Tề thì dân không được yên, dựa Tề đánh Tần dân cũng không được yên. Cho nên mưu hại chúa người, tấn công nước người, thường khó nói lời cắt đứt quan hệ của người. Xin đại vương thận trọng, chớ nói ra cửa miệng. Xin biện rõ trắng đen để đại vương thấy phải trái. Nếu đại vương thực sự nghe thần, nước Yên ắt dâng
đất làm áo chiên cừu, chó ngựa; nước Tề ắt dâng vùng biển có cá, muối; nước Sở ắt dâng khu vườn có quất, bưởi; nước Hàn, Ngụy, Trung Sơn đều phải sai sứ đến dâng đất thang mộc, còn các bậc quý thích, cha anh đại vương đều được phong hầu. Xét lẽ, muốn được cắt đất thu lợi, Ngũ bá phá quân bắt tướng để đòi; muốn phong hầu cho quý thích, Vũ, Thang đuổi giết thiên tử để tranh vậy. Nay đại vương chắp tay áo ngồi ngôi cao mà được hai điều ấy, là điều thần mong muốn cho đại vương vậy.
Nay đại vương thân với Tần, Tần ắt làm Hàn, Ngụy suy yếu; thân với Tề, Tề ắt khiến Sở và Ngụy suy yếu. Ngụy yếu thì cắt đất Hà Ngoại, Hàn yếu thì dâng đất Nghi Dương, dâng Nghi Dương thì Thượng Quận bị chặn, cắt Hà Ngoại thì đường không thông, Sở yếu thì [Triệu] mất nguồn tiếp viện. Các phương sách ấy không thể không tính toán cho kỹ vậy.
Tần kéo xuống Chỉ Đạo thì Nam Dương nguy cấp, cướp được Hàn, bao vây Chu thì người Triệu phải cầm binh khí; chiếm nước Vệ, thu đất Quyển thì người Tề phải vào chầu Tần. Tần đã muốn chiếm Sơn Đông, ắt cất quan tiến đánh Triệu. Quân Tần vượt sông Hà, qua sông Chương, chiếm lấy Bà Ngô thì quân ắt giao chiến ở phía dưới Hàm Đan. Đó là điều thần lo thay đại vương vậy.
Lúc này, các nước ở Sơn Đông không nước nào mạnh bằng Triệu. Nước Triệu đất vuông hơn hai nghìn dặm, binh lính có mấy chục vạn, ngàn cỗ xe vạn ngựa chiến, lương thực dùng đủ mấy năm. Tây có núi Thường Sơn, nam có sông Hà sông Chương, đông có Thanh Hà, bắc có nước Yên. Yên vốn nước yếu, không đáng để sợ. Tần cho là nguy hại trong thiên hạ không nước nào bằng Triệu, nhưng Tần không dám cất quân đánh Triệu, vì sao? Bởi sợ có Hàn và Ngụy đứng sau. Vậy thì Hàn và Ngụy là nước che chắn mạn nam của Triệu. Tần tấn công Hàn và Ngụy, không bị ngăn trở
"""