"
Sử Ký 1: Bản Kỷ - Tư Mã Thiên PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sử Ký 1: Bản Kỷ - Tư Mã Thiên PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
THÁI SỬ
CÔNG
TỰ VIẾT TỰA
Xưa vào thời Chuyên Húc, vua sai quan Nam Chính họ Trọng trông thiên văn, quan Bắc Chính họ Lê coi địa lý. Khoảng thời Đường – Ngu, cho hậu duệ họ Trọng – Lê nối nghiệp, tiếp tục vâng mệnh cho đến thời Hạ – Thương, vậy nên họ Trọng – Lê đời đời coi thiên văn, địa lý. Thời Chu, Trình Bá Hưu Phủ là hậu duệ của họ vậy. Vào thời Chu Tuyên vương, để mất chức phận mà thành ra họ Tư Mã. Họ Tư Mã đời đời vâng chép sử nhà Chu. Khoảng thời Chu Huệ vương, Chu Tương vương, họ Tư Mã rời nhà Chu tới nước Tấn. Tướng Trung quân nước Tấn là Tùy Hội chạy đến nước Tần, họ Tư Mã chuyển vào đất Thiếu Lương.
Từ khi họ Tư Mã rời nhà Chu tới nước Tấn, liền chia ra tản mác, có người ở nước Vệ, có người ở nước Triệu, có người ở nước Tần. Ở nước Vệ, có người làm quan tướng nước Trung Sơn. Ở nước Triệu, có người nổi danh và truyền dạy kiếm luận mà Khoái Hội chính là hậu duệ chi này. Ở Tần có người tên Tư Mã Thố, tranh luận với Trương Nghi, thế rồi Tần Huệ vương sai Thố cầm quân đánh Thục, hạ được thành Thục, bèn trấn giữ ở đó. Cháu của Thố là Cận, phò Võ An quân Bạch Khởi. Lúc này đất Thiếu Lương đổi tên thành Hạ Dương. Cận cùng Võ An quân chôn sống hàng binh nước Triệu trong trận Trường Bình, đến khi quay trở về đều cùng được ban chết ở Đỗ Bưu, táng ở Hoa Trì. Cháu của Cận là Xương, Xương làm quan chuyên lo việc rèn sắt cho nhà Tần. Vào thời Thủy Hoàng, chắt của Khoái Hội là Ngang, cầm quân cho Võ Tín quân, chiếm được Triêu Ca. Khi nhà Tần phong vương chư hầu, Ngang được phong vương ở đất Ân. Đến khi Hán đánh Sở, Ngang quy phụ Hán, dâng đất của mình làm quận Hà Nội. Tư Mã Xương sinh ra Vô Trạch, Vô Trạch làm chức quan Thị trưởng của
nhà Hán. Vô Trạch sinh ra Hỷ, Hỷ làm Ngũ đại phu, chết đều táng ở Cao Môn. Hỷ sinh ra Đàm, Đàm làm Thái sư công.
Thái sư công học thiên văn ở Đường Đô, nghe giảng Kinh Dịch từ thày Dương Hà, thọ giáo đạo luận từ thày Hoàng Tử. Thái sử công làm quan vào thời Kiến Nguyên, Nguyên Phong, lo người học không hiểu thấu ý nghĩa các học thuyết, noi theo sai lạc, bèn bàn luận những điều cốt yếu của sáu nhà mà viết rằng:
Thiên Hệ từ trong Kinh Dịch viết: “Thiên hạ chung một mối mà lo lắng trăm chiều, về cùng nơi mà đường đi mỗi khác.” Xét các nhà Âm Dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp, Đạo Đức đều chú trọng ở việc trị nước, chẳng qua theo học thuyết khác nhau, có thuyết rõ ràng, có thuyết không mà thôi. Tôi từng trộm ngẫm, thuật của nhà Âm Dương trong điềm báo mà lắm kiêng kỵ, khiến con người bị buộc đâm nhiều sợ hãi, song thứ tự bốn mùa họ đã sắp thì không thể để mất. Nhà Nho học rộng mà thiếu điều cốt yếu, nhọc sức mà ít hiệu quả, bởi vậy việc của họ khó theo hết; song lễ vua tôi, cha con, sự phân biệt vợ chồng, lớn bé họ đã đặt thì không thể thay. Nhà Mặc tiết kiệm mà khó theo, bởi vậy việc của họ không thể tuân thủ rộng khắp; song sự tự cường, chuộng tiết kiệm họ đề ra thì không thể phế bỏ. Nhà Pháp nghiêm khắc, ít ban ơn, song thân phận vua tôi trên dưới họ đã lập thì không thể đổi khác. Nhà Danh khiến người ta nệ vào danh mà dễ đánh mất thực; song sự biện chứng giữa danh và thực họ đã nêu thì không thể không xét. Nhà Đạo khiến tinh thần người ta chuyên nhất, hành động hợp lẽ vô hình, vạn vật sung túc. Thuật của nhà này dựa vào phép lớn âm dương, rút lấy điều hay của nhà Nho, nhà Mặc, tóm điều cốt yếu của nhà Danh, nhà Pháp, thay đổi theo thời, biến hóa tùy vật, dựng nề nếp, dùng xử sự, không việc gì không hợp, tôn chỉ gọn mà dễ nắm bắt, dùng sức ít mà hiệu quả nhiều. Nhà Nho thì không như vậy. Nhà Nho cho rằng bậc quân chủ là gương mẫu của thiên hạ, quân chủ đề xướng rồi bề tôi phụ hội, quân chủ làm trước rồi bề tôi theo sau. Như vậy thì quân chủ khó nhọc mà bề tôi thảnh thơi. Còn như yếu chỉ của Đạo cả, ấy là dẹp sự cứng rắn tham lam, bỏ sự thông minh sáng suốt, loại những điều này mà dùng
Đạo thuật. Xét tinh thần dùng quá nhiều thì hao kiệt, thể xác làm quá sức thì mệt mỏi. Thân tâm đều xao động mà lại muốn dài lâu cùng trời đất, thực chưa từng nghe nói đến vậy.
Xét nhà Âm Dương với bốn mùa, tám quẻ, mười hai độ1, hai mươi tư tiết đều có điều răn dạy, thuận theo thì hưng thịnh, trái lại không chết cũng tổn. Song chưa chắc đã vậy, cho nên nói “khiến con người bó buộc đâm ra nhiều sợ hãi”. Xét mùa xuân sinh sôi, mùa hạ nảy nở, mùa thu gặt hái, mùa đông giữ gìn, ấy là ý lớn của đạo trời vậy, không thuận theo thì không lấy gì làm riềng mối cho thiên hạ, vậy nên nói “thứ tự bốn mùa không thể để mất”.
Xét nhà Nho coi sáu kinh2 làm phép tắc. Kinh truyện hàng ngàn vạn quyển, nhiều đời không thể tinh thông đạo học, một đời không thể biết hết lễ nghi, cho nên nói “học rộng mà thiếu điều cốt yếu, nhọc sức mà ít hiệu quả”. Còn như lễ vua tôi, cha con họ đặt, sự phân biệt vợ chồng, lớn bé họ nêu, dù là học thuyết trăm nhà cũng không thể thay đổi.
Nhà Mặc cũng chuộng đạo của Nghiêu, Thuấn, bàn về đức hạnh nói rằng:“Nhà cao ba thước, thềm đất ba bậc, cỏ tranh không cắt, cột gỗ không gọt. Ăn chén đất, uống liền đất, cơm gạo lứt, canh lá đậu, rau lê. Ngày hè mặc áo vải cát, mùa đông mặc áo cừu da hươu” Việc ma chay thì dùng quan tài gỗ vông dày ba tấc, khóc đám không quá đau buồn. Dạy về tang lễ ắt phải đem phép này làm gương cho muôn dân. Khiến thiên hạ đều noi theo phép này thì tôn ti không còn khác biệt. Xét thời thế đổi khác, sự việc vị tất tương đồng, vậy nên nói “tiết kiệm mà khó theo”. Điều cốt yếu của nhà Mặc là ở sự tự cường, tiết kiệm, ấy là đường lối để người ta sung túc giàu có. Đây là sở trường của Mặc Tử, dù là học thuyết trăm nhà cũng không thể phế bỏ.
Nhà Pháp bất luận thân sơ, không phân sang hèn, nhất loạt phán quyết bằng pháp luật, vậy thì ân tình họ tộc, tôn trưởng đứt cả. Có thể dùng làm kế một thời, không thể dùng lâu dài, vậy nên nói “nghiêm khắc, ít ban ơn”. Còn như việc đề cao quân chủ hạ thấp
bề tôi, làm rõ chức phận, không được lấn vượt nhau, dù là học thuyết trăm nhà cũng không thể đổi khác.
Nhà Danh xét nét rắc rối, khiến người ta không thể lý giải bản ý, chuyên dùng tên gọi quyết đoán mọi việc, trái tình người, vậy nên nói “nệ vào danh mà dễ đánh mất thực”. Còn như việc dựa vào tên gọi mà tìm tòi thực tế, so sánh cho khỏi sai sót, điều này không thể không xét.
Nhà Đạo vô vi, cũng lại nói vô bất vi, kỳ thực dễ làm, song lời khó hiểu. Thuật nhà Đạo coi hư vô là gốc, coi nương thuận là phép, không có vị thế cố định, không có hình dạng bất biến, cho nên có thể suy xét tình lý của vạn vật. Không ở trước vật, không ở sau vật, cho nên có thể làm chủ vạn vật. Phép tắc cần không, tùy thời mà đặt; quy củ cần không, tùy vật mà xét. Vậy nên nói “thánh nhân bất hủ, theo thời là đủ. Hư Vô là thể thường của đạo. Nương thuần là cương lĩnh của vua.” Quần thần đều tới, khiến ai nấy đều tự rõ chức phận. Thực đúng với danh gọi là Đoàn (ngay thẳng), thực không đúng với danh gọi là Khoản (sáo rỗng). Lời sáo rỗng không nghe, gian tà không xuất hiện, giỏi kém tự rõ ràng, trắng đen lộ chân tướng. Chỉ là muốn dùng hay không mà thôi, có việc gì không làm nên được! Như vậy hợp với Đạo cả, hỗn độn mịt mùng, nhưng sáng soi thiên hạ, sau đó lại trở về sự vô danh. Phàm sinh mệnh con người ta tồn tại nhờ tinh thần, gửi gắm nhờ thể xác. Tinh thần dùng quá nhiều thì hao kiệt, thể xác làm quá sức thì mệt mỏi, tinh thần và thể xác chia lìa thì chết. Chết không thể sống lại, lìa không thể trở lại, cho nên thánh nhân rất mực coi trọng. Từ đó mà coi, tinh thần là gốc rễ của sinh mệnh, thể xác là công cụ của sinh mệnh. Không ổn định tinh thần trước mà lại nói “ta có thể trị thiên hạ”, vậy dựa vào đâu?
Thái sư công giữ chức Thiện quan (coi thiên văn), không quản việc dân. Có con trai tên Thiên.
Thiên sinh ra ở Long Môn, cày ruộng chăn trâu ở vùng phía bắc Hoàng Hà, phía nam núi Long Môn. Năm mười tuổi học Cổ văn.
Hai mươi tuổi đi về phương nam du ngoạn vùng Trường Giang – Hoài Hà, leo lên núi Cối Kê, tìm Vũ Huyệt, ngắm núi Cửu Nghi, du thuyền trên sông Nguyên – Tương; đi lên phương bắc vượt sông Vấn – Tứ ; dạy học ở đô thành đất Tề – Lỗ, xem di phong của Khổng Tử, dự lễ hương xạ3 ở huyện Trâu, núi Dịch; chịu khó nhọc ở huyện Bà, huyện Tiết, Bành Thành; đi qua đất Lương, đất Sở về quê. Bấy giờ Thiên giữ chức Lang trung, vâng mệnh đi sứ miền Tây chinh phạt vùng Ba – Thục trở về nam, đánh các đất Cung – Trách, Côn Minh, rồi về triều bẩm báo.
Năm ấy, thiên tử bắt đầu làm lễ phong thiện của nhà Hán, Thái sử công bị giữ lại ở Chu Nam, không được theo dự tế, nên phẫn uất gần chết. Con ông là Thiên vừa vặn đi sứ về, gặp cha ở vùng Hoàng Hà – Lạc Thủy. Thái sư công nắm lấy tay Thiên mà khóc rằng: “Tổ tiên ta làm Thái sử cho nhà Chu. Các đời trước từng có công danh hiển hách vào thời Ngu, thời Hạ, giữ chức Thiên quan. Đời sau nửa đường suy sụp, chấm dứt ở đời ta chăng? Con lại làm Thái sử thì sẽ nối nghiệp tổ tiên ta vậy. Nay thiên tử nhận mối đại thống ngàn năm, phong thiện ở Thái Sơn mà ta không được theo dự, ấy là mệnh sao! Là mệnh sao! Ta chết, con ắt sẽ làm Thái sử; làm Thái sử, chớ quên trước tác ta muốn làm. Vả lại đạo hiếu bắt đầu từ việc thờ cha mẹ, thứ đến thờ vua, cuối cùng là việc lập thân. Nổi danh với hậu thế, làm rạng rỡ cha mẹ, ấy là điều lớn nhất của đạo hiếu vậy. Xét thiên hạ xưng tụng Chu Công, nói rằng ông ta có thể bàn luận, ca ngợi đức của Văn vương – Võ vương, tuyên dương phong thái của Chu Công – Thiệu Công, bày tỏ tâm tư của Thái Vương – Vương Quý; viện đến Công Lưu để truy tôn Hậu Tắc. Sau đời U – Lệ, vương đạo khiếm khuyết, lễ nhạc suy đồi, Khổng Tử sửa sách cũ, dựng lễ xưa, luận bàn Thi – Thư, viết sách Xuân Thu, học giả đến nay đều noi gương ngài. Từ khi Lỗ Ai cũng bắt được kỳ lân đến nay đã hơn bốn trăm năm, chư hầu thôn tính lẫn nhau, sách sử ghi chép tản mác đứt đoạn. Nay nhà Hán nổi lên, thiên hạ thống nhất, chúa sáng vua hiền, trung thần nghĩa sĩ, ta làm Thái sử mà không ghi chép luận bàn, vất bỏ sử sách của thiên hạ, ta rất mực sợ hãi. Con nhớ lấy
đấy!” Thiên cúi đầu rơi lệ, đáp rằng:“Con không giỏi, song cũng xin luận thuật hết thảy kiến văn cũ cha đã sắp, không dám để khuyết!”
Thái sư công mất được ba năm thì Thiên làm Thái sư lệnh, thu thập sử cùng các sách cất trong Kim quỹ, Thạch thất4. Năm năm sau, nhằm năm Thái Sơ đầu tiên, sáng sớm ngày Giáp Tý mồng một giao tiết Đông chí tháng Mười một, lịch trời bắt đầu đổi, tuyên bố ở Minh đường, các thần đón lịch mới.
Thái sử Công nói: “Cha có lời rằng: “Sau khi Chu công mất năm trăm năm thì có Khổng Tử. Sau khi Khổng Tử mất đến nay đã năm trăm năm, liệu đã đến lúc có người có thể tiếp nối, soi sáng đời, đính chính Dịch truyện, kế tục Xuân Thu, luận bàn chính xác ý nghĩa của Thi, Thư, Lễ, Nhạc hay chưa? Ý là ở lúc này đây! Ý là ở lúc này đây! Con nào dám chối từ.
Thượng đại phu Hồ Toại nói:“Ngày xưa tại sao Khổng Tử lại làm kinh Xuân Thu!”
Thái sử Công nói:“Ta nghe Đổng Trọng Thư nói: Đạo nhà Chu lụn bại, Khổng Tử làm Tư Khấu nước Lỗ, bị chư hầu ganh ghét, đại phu cản trở, Khổng Tử biết lời mình không được dùng, đạo mình không được thi hành, bèn đánh giả những việc xảy ra trong hai trăm bốn mươi hai năm, làm khuôn phép cho thiên hạ. Chê thiên tử, trách chư hầu, vạch tội đại phu, nhằm nêu rõ đạo vua mà thôi Khổng Tử nói: “Ta chép những lời suông, chẳng bằng soi xét nó việc làm, hẳn sâu sắc, rõ ràng hơn.‘Kìa như kinh Xuân Thu, trên làm rõ đạo của Tam vương, dưới phân biệt phép tắc của người đời, biện bạch sự hiềm nghi, soi sáng điều phải trái, quyết định việc do dự, khen cái hay, chê cái dở, đề cao người hiền, hạ thấp kẻ kém, giữ gìn nước đã mất, nối lại đời đã tuyệt, và những thứ đã rách, dựng những điều bị bỏ, ấy là việc lớn của đạo vua vậy. Kinh Dịch chép trời đất, âm dương, bốn mùa, ngũ hành, cho nên giỏi biến hóa. Kinh Lễ đặt khuôn phép, luân lý làm người, cho nên giỏi hành xử. Kinh Thư ghi lại việc của các vua đời trước, cho
nên giỏi chính trị. Kinh Thi ghi chép núi sông, khe động, chim muông, cây cỏ, trống mái, đực cái, cho nên giỏi trào phúng. Kinh Nhạc, phải dựa vào để dựng nên âm nhạc, cho nên giỏi hòa hợp. Kinh Xuân Thu phân biệt phải trái, cho nên giỏi trị người. Bởi vậy, Kinh Lễ dùng để ước thúc con người, Kinh Nhạc dùng để lấy sự hòa hợp. Kinh Thư dùng để bàn luận việc xưa. Kinh Thi dùng để bày tỏ tình ý. Kinh Dịch dùng để bàn lẽ đổi thay. Kinh Xuân Thu dùng để soi tỏ đạo nghĩa. Dẹp đời loạn, khiến trở lại đường ngay, không có sách nào thiết thực bằng Xuân Thu. Xuân Thu có hàng vạn lời, đến hàng ngàn ý. Vạn vật tan hợp đều ở Xuân Thu. Trong kinh Xuân Thu có ba mươi sáu vua bị giết, năm mươi hai nước bị mất, chư hầu bỏ chạy không giữ nổi xã tắc nhiều không đếm xuể. Xem xét nguồn cơn đều do đánh mất gốc rễ (tức lễ nghĩa) vậy. Cho nên Kinh Dịch viết: “Sai một hào ly, lầm đi ngàn dặm. Cho nên nói: “Tôi giết vua, con giết cha, không phải duyên do sớm chiều, mà bởi sự ngấm ngầm lâu ngày vậy. Bởi vậy người giữ nước không thể không biết sách Xuân Thu, bằng không, trước có gian nịnh mà không thấy, sau có quân giặc mà chẳng hay. Kẻ bề tôi không thể không biết sách Xuân Thu, bằng không, xử việc công không biết nên chăng, gặp biến cố chẳng hay quyền chước. Người làm vua, làm cho không thấu hiểu đạo nghĩa Xuân Thu, ắt chuốc tiếng đại ác. Kẻ làm tôi, làm con không thấu hiểu đạo nghĩa Xuân Thu, ắt sa vào việc soán giết bề trên mà bị tru diệt, mang danh tử tội. Kỳ thực họ đều cho rằng việc họ làm là phải, làm mà chẳng biết lễ nghĩa, bị trách mắng không đâu mà không biết biện giải. Xét việc không thấu hiểu yếu chỉ của lễ nghĩa, thành thử vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con. Xét vua chẳng ra vua thì bị mạo phạm, tôi chẳng ra tôi thì bị giết chết, cha chẳng ra cha thì vô đạo, con chẳng ra con thì bất hiếu. Bốn việc này là lỗi lớn trong thiên hạ vậy. Đem lỗi lớn của thiên hạ đổ lên đầu thì chỉ có thể nhận mà không chối được. Vậy nên kinh Xuân Thu là gốc rễ của lễ nghĩa. Xét lễ dùng để ngăn cấm trước khi việc xảy ra, pháp luật dùng để thi hành sau khi việc đã rồi. Công dụng thi hành của luật pháp thì dễ thấy, còn công dụng ngăn cấm của lễ nghĩa thì khó biết vậy.”
Hồ Toại nói: “Thời Khổng Tử, trên không có vua sáng, dưới không được tin dùng, cho nên làm sách Xuân Thu, truyền lại lời suông, cắt đặt lễ nghĩa mà làm phép tắc cho đế vương. Nay thày trên thì gặp bậc vua sáng, dưới thì được giữ chức quan, mọi việc đầy đủ, vậy những lời thày bàn luận là muốn làm sáng tỏ điều gì?”
Thái sử Công nói: “Dạ, dạ! Không, không! Không phải vậy! Tôi nghe cha tôi nói: Phục Hy rất mực thuần hậu, làm ra tám quẻ Dịch. Thời Nghiêu – Thuấn thịnh trị, sách Thượng Thư đã chép, lễ nhạc dựng lên từ đó. Thời Thang – Vũ phát đạt, có thể nhân ngợi ca. Kinh Xuân Thu lựa việc thiện, chê việc ác, tôn sùng đức chính thời Tam đại, khen nhà Chu, nào có châm biếm giễu cợt thôi đâu. Từ khi nhà Hán nổi lên tới giờ, đến bậc thiên từ sáng suốt, nhận được điềm lành, làm lễ phong thiện, đổi niên hiệu, thay sắc áo, nhận mệnh từ đấng cao xanh, ban ơn vô cùng, các nước có tục la ngoài bể nhiều lần thông dịch, tới gõ cửa đi xin vào cống nạp, không thể kể xiết. Bá quan thần tử ra sức ca tụng thánh đức còn chưa thể bày tỏ hết ý. Vả lại có kẻ sĩ tài giỏi mà không dùng, ấy là điều sỉ nhục của người trị nước; có chúa thượng sáng suốt mà đức không ban rộng để ngợi ca, ấy là lỗi của các quan. Còn như tôi giữ chức này mà bỏ thánh đức không chép, vất công nghiệp của công thần, thế gia, đại phu hiền đức không thuật lại, mặc lời cha dạy thì có tội nào to hơn! Tôi chỉ thuật lại chuyện cũ, sắp gọn sự tích các đời thôi, đâu phải trước tác mà ông đem so với sách Xuân Thu, thật là làm vậy” .
Thế rồi biên chép thành văn được bảy năm thì Thái sử Công gặp họa Lý Lăng, phải chịu gông cùm, bèn cảm khái than rằng:“Ấy là tội của ta vậy! Ấy là tội của ta vậy! Thân tàn này không thể dùng được nữa rồi!” Đoạn lui lại ngẫm nghĩ sâu xa: “Xét Kinh Thi, Kinh Thư ẩn ý kiệm lời là vì muốn bày tỏ sự suy ngẫm nơi tâm trí người ta. Xưa Tây Bá bị cầm tù ở Dữu lý thì diễn giải Chu Dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần – Sái thì làm sách Xuân Thu; Khuất Nguyên bị trục xuất thì viết áng Ly tao; Tả Khưu Minh mù mắt thì có sách Quốc Ngữ; Tôn Tử bị khoét bánh chè thì bàn luận Binh pháp; Lã Bất Vi bị đày tới đất Thục thì đời truyền sách Lữ
Lãm, Hàn Phi bị nhốt ở Tần thì viết thiên Thuyết Nan, Cô Phẫn; ba trăm bài thơ trong Kinh Thi phần lớn do thành hiện làm để xả nỗi bực dọc. Những người ấy đều vì có uất ức không thể bộc lộ, cho nên thuật lại chuyện cũ để suy ngẫm tương lai vậy.” Thế rồi bèn thuật lại từ thời Đào Đường trở về sau cho tới khi Hán Vũ đế bắt được kỳ lân thì chấm dứt, bắt đầu từ thời Hoàng Đế.
Thuở xưa Hoàng Đế, noi theo trời đất, bốn thánh5 lần lượt, lập nên pháp độ, Đường Nghiêu nhường ngôi, Ngu Thuấn chẳng vui, Công đức các vị, truyền tụng muôn đời. Chép làm Ngũ đế bản kỷ, quyển một.
Vũ lập nên công, chín châu vui cùng, Đường – Ngu rạng rỡ, đức truyền hậu duệ; Hạ Kiệt dâm kiêu, đày tới Minh Điều. Chép làm Hạ bản kỷ, quyển hai.
Tiết dựng nhà Thương, truyền tới Thành Thang; Thái Giáp ở Đồng, đức ở A Hành; Võ Đinh có Duyệt, bèn xưng Cao Tông; Đế Tân mê đắm, chư hầu bỏ chầu. Chép làm Ân bản kỷ, quyển ba.
Khí làm Hậu tắc, Tây Bá có đức;Vũ Vương ra trận, đánh ở Mục Dã, vỗ yên thiên hạ, U – Lệ hôn loạn, để mất Phong – Cảo;Noãn Vương kiệt quệ, Lạc Ấp bỏ tế. Chép làm Chu bản kỷ, quyển bốn.
Tổ tiên nhà Tần, Bá phò Vũ; Mục Công có nghĩa, truy điệu quân sĩ, chết trận Hào Sơn; dùng người tuẫn táng, thơ ngâm Hoàng Điểu; đến ngài Chiêu Tương, dựng nghiệp đế vương. Chép làm Tần bản kỷ, quyển năm.
Thủy Hoàng được lập, thôn tính sáu nước, nấu giáo đúc chuông, muốn dứt chiến tranh, xưng làm hoàng đế, khoe cậy vũ lực; Nhị Thế nhận ngôi, Tử Anh đầu hàng. Chép làm Tần Thủy Hoàng bản kỷ, quyển sáu.
Nhà Tần vô đạo, hào kiệt quấy nhiễu; Hạng Lương dấy nghiệp, Hạng Vũ nối tiếp; diệt Khanh6 cứu Triệu, chư hầu cùng lập; giết
chết Tử Anh, phản bội Hoài vương, thiên hạ chê trách. Chép làm Hạng Vũ bản kỷ, quyển bảy.
Hạng Vũ bạo ngược, Hán ban ơn đức; dấy ở Thục Hán, bình định Tam Tần; giết Vũ dựng nghiệp, thiên hạ yên bình, đổi triều thay tục. Chép làm Cao tổ bản kỷ, quyền tám.
Huệ đế yểu mệnh, họ Lã mất lòng; dùng bọn Lộc – Sản, chư hầu bàn giết; khử Triệu Ẩn vương, diệt U vương Hữu, đại thần lo sợ, chuốc họa diệt tộc. Chép làm Lã Thái Hậu bản kỷ, quyển chín.
Nhà Hán mới lập, nối ngôi chưa rõ, đón lập Đại vương, thiên hạ đồng lòng; nhục hình phế bỏ, cầu đường khơi thông, rộng ban ơn huệ, ngài xưng Thái tông. Chép làm Hiếu Văn bản kỷ, quyển mười.
Chư hầu ngang ngược, Ngô cầm đầu phản, kinh sư thảo phạt, bảy nước chịu tội, thiên hạ bình yên, vững mạnh giàu có. Chép làm Hiếu Cảnh bản kỷ, quyển mười một.
Hán trải năm đời, thỉnh thời Kiến Nguyên, ngoài dẹp man mọi, trong sửa pháp độ, phong thiện đổi lịch, rồi thay phục sắc. Chép làm Kim Thượng bản kỷ, quyển mười hai.
Thời Tam đại xa, niên đại khôn khảo, đại để tham chiếu, phả điệp cổ thư, dựa vào lần suy, chép làm Thế biểu Tam đại, quyển một.
Sau thời U – Lệ, nhà Chu suy vi, chư hầu chuyên chính, Xuân Thu cũng khuyết; phả điệp vắn gọn, ngũ bá mạnh yếu thay nhau, muốn xem các đời chư hầu nhà Chu, chép làm Niên biểu Mười hai chư hầu, quyển hai.
Sau thời Xuân Thu, gia thần chấp chính, quan tướng nước mạnh xưng vương; đến như nhà Tần, rốt nuốt Trung Nguyên, bãi bỏ đất phong, tự xưng hoàng đế. Chép làm Niên biểu Sáu nước, quyển ba.
Nhà Tần bạo ngược, người Sở làm phản, họ Hạng dấy binh, Hán vương phò nghĩa chinh phạt; trong khoảng tám năm, đổi vua ba lần,
đầy rẫy biến cố, cho nên viết rõ Nguyệt biểu Tần Sở, quyển bốn.
Nhà Hán dấy lên tới nay, trong khoảng trăm năm tới thời Thái Sơ, chư hầu hoặc bị phế truất, hoặc được lập nên, đất đai chia cắt, phá chép mập mờ, sử thần gián đoạn, dựa theo mạnh yếu mà chia từng đời, viết Niên biểu chư hầu từ khi nhà Hán lập nên, quyển năm.
Các bậc công thần hàng đầu, bề tôi đắc lực thời Cao tổ, được chẻ phù phong tước, ơn trải đến cháu con, nay quên mất dòng dõi, có người mang họa sát thân, diệt quốc, viết thành Niên biểu công thần thời Cao tổ, quyển sáu.
Vào thời Huệ – Cảnh, hoàng đế gia phong, Công thần tôn thất, tước vị thực ấp. Viết thành Niên biểu các hầu thời Huệ – Cảnh, quyển bảy.
Bắc đánh Hồ dữ, Nam diệt Việt mạnh, chinh phạt mọi rợ, luận công phong hầu. Viết thành Niên biểu các hầu từ thời Kiến Nguyên trở lại, quyển tám.
Chư hầu đã mạnh, bảy nước a dua, con em đầy rẫy, chưa phong tước ấp, vua bèn ban ơn, làm suy chư hầu, khiến lòng người hướng về kinh sư. Viết thành Niên biểu Vương tử, quyển chín.
Nước có quan hiền tướng giỏi, ấy là mô phạm của dân. Xem niên biểu danh thần lương tướng từ thời nhà Hán lập nên, người giỏi ghi công trạng, người kém nêu sự tình. Viết thành Niên biểu danh thần lương tướng từ khi nhà Hán lập nên, quyển mười.
Lễ thời Tam đại gia giảm, ý nghĩa khác nhau, song cốt gần với tình người, hợp với đạo vua, cho nên lỗ dựa vào bản chất con người mà bạn chế rườm rà, đại để thuận thời thay đổi. Viết thành Lễ thư, quyển một.
Nhạc có thể dùng thay đổi phong tục. Từ khi tiếng Nhã, Tụng cất lên, người ta đã thích âm thanh Trịnh – Vệ. Âm thanh Trịnh – Vệ
Có nguồn gốc lâu đời. Tình người cảm động, tục xa hướng về. Tham chiếu Nhạc Thư để thuật lại cổ nhạc. Viết thành Nhạc thư, quyển hai.
Không có binh lực không thể mạnh, không có đạo đức không thể thịnh. Hoàng Đế, Thang, Võ vì vậy thịnh cường, Kiệt, Trụ, Nhị Thế bởi vậy diệt vong, có thể không thận trọng chăng? Tư Mã pháp từ khi xuất hiện đã được coi trọng. Thái Công, Tôn Tử, Ngô Khởi, Vương Tử, tiếp nối phát huy. Đem so gần đây, có thể thấy rõ sự biến đổi của việc người. Viết thành Luật thư, quyển ba.
Luật ở âm mà chế dương, lịch ở dương mà chế âm, Luật – Lịch kìm chế, không cho sai sót. Lịch năm nhà mâu thuẫn7, riêng lịch đầu thời Thái Sơ chuẩn xác. Viết thành Lịch thư, quyển bốn.
Các sách chiêm tinh khí số, phần nhiều lẫn điềm may rủi, không hợp kinh điển; xét từ câu chữ, khảo sự ứng nghiệm, đều không đặc biệt. Đến khi bàn việc tinh khí vận hành, nghiệm chứng độ số quỹ đạo để sắp xếp, viết thành Thiên Quan thư, quyển năm.
Nhận mệnh trời làm vua, không tùy tiện phong thiện, cử hành thì ngàn vạn thần linh đều được cúng tế. Truy nguyên các lễ tế thần núi thiêng sông cả, viết thành Phong Thiện thư, quyển sáu.
Đại Vũ khơi sông, chín châu yên bình, đến khi dựng cung Tuyên Phòng, ngòi lạch đều thông. Viết thành Hà Cù thư, quyển bảy.
Tiền tệ lưu hành, thuận tiện nông – thương; cùng cực thì xuất hiện gian xảo, thôn tính khuếch trương, đua nhau trục lợi, bỏ gốc theo ngọn. Viết thành Bình Chuẩn thư để xem sự biến, quyền tám.
Thái Bá nhường Quý Lịch, lánh đất mọi Giang Nam;Văn – Võ vương nổi dậy, dấy nghiệp của Cổ Công. Hạp Lư giết Ngô vương Liêu, hàng phục miền Kinh Sở; Phù Sai thắng Tề, bỏ xác Tử Tư vào túi da, tin Bá Hỷ thân Việt, nước Ngô liền bị diệt. Khen Thái Bá khiêm nhường, viết thành Ngô thế gia, quyển một.
Nước Thân – Lã suy, Thượng Phụ hàn vi, rốt theo Tây Bá, cầm quân Văn – Võ; công vượt trăm quan, lẳng lặng có quyền, phau phau tóc bạc, nhận phong Doanh Khưu. Giữ hẹn đất Kha, Hoàn Công lớn mạnh, bao phen họp chư hầu, bá nghiệp thật hiển hách. Điền – Khám tranh sủng, họ Khương tan vỡ. Khen Thượng Phụ đa mưu, viết thành Tề Thái công thế gia, quyển hai.
Người theo kẻ chống, Chu Công vỗ về, giáo hóa ban đức, thiên hạ hưởng ứng; phò tá Thành vương, chư hầu suy tôn Chu thiên tử. Thời Ẩn – Hoàn công, vì sao tranh giành? Tam Hoàn đọ sức, Lỗ chẳng thịnh hàng. Khen sách Kim Đằng của Chu Công Đán, viết thành Chu công thế gia, quyển ba.
Võ vương diệt Trụ, chưa yên đã băng. Thành vương còn nhỏ, Quản – Sái nghi ngờ, Hoài Di làm phản, thế rồi Thiệu Công làm gương, đoàn kết vương thất, giữ yên miền đông. Yên vương Khoái nhường ngôi, gây ra họa loạn. Khen bài thơ Cam Đường, viết thành Yên thế gia, quyển bốn.
Quản – Sái phó Võ Canh, giữ đất cũ triều Thương, khi Chu Công nhiếp chính, hai “thúc” không tước lộc; thoạt giết Quản thúc Tiên, rồi đuổi Sái thúc Độ, Chu công mở hội thề; Thái Nhậm sinh mười trai, dòng tộc nhà Chu mạnh. Khen Sái Trọng hối tội, viết thành Quản Sái thế gia, quyển năm.
Dòng tiên vương không đứt, Thuấn – Vũ vui mừng; đức nghiệp rạng rỡ, hậu duệ nhờ ơn. Trăm năm thờ cúng, đời Chu phong nước Trần – Kỷ, sau bị Sở diệt. Họ Điền nước Tề nổi lên. Thuận là người thế nào? Viết thành Trần Kỷ thế gia, quyển sáu.
Thu nhận dân sót lại của nhà Thương, Khang Thúc được phong, bắt đầu có Vệ Ấp, nêu mối loạn thời Thương, viết thiên Tửu Cáo, Tử Tài làm răn, đến khi Sóc sinh ra, Vệ chẳng yên bình, Nam Từ ghét Khoái Hội, phận cha con đảo điên. Đức nhà Chu suy, bảy nước lớn mạnh, Vệ nhỏ lại yếu, Giác sau diệt vong. Khen bài Khang Cáo, viết thành vệ thế gia, quyển bảy.
ẳ
Than ôi Cơ Tử! Than ôi Cơ Tử! Lời đúng chẳng được dùng, lại bị làm nô bộc. Võ Canh chết đi, Chu phong cho Vi Tử. Tương Công bị thương ở sông Hoằng. Quân tử ai đáng khen? Cảnh công khiêm tốn, khiến sao Hỏa lui. Dịch Thành bạo ngược, Tống bèn diệt vong. Khen Vi Tử thỉnh giáo thái sư, viết thành Tống thế gia, quyển tám.
Võ vương đã băng, Thúc Ngu phong tại Đường Ấp. Quân tử châm biếm việc Tấn hầu đặt tên con, rốt bị Võ Công tiêu diệt, Ly Cơ được sủng, họa loạn năm đời; Trùng Nhĩ bất đắc chí, mới hoàn thành bá nghiệp. Lục khanh chuyên quyền, nước Tấn suy vong. Khen Văn Công được ban ngọc Khuê, rượu nếp thơm, viết thành Tấn thế gia, quyển chín.
Trọng Lê dựng nghiệp, Ngô Hồi tiếp nối; cuối thời nhà Thương, Chúc Tử được chép vào phả điệp. Chu dùng Hùng Dịch, Hùng Cừ kế tục. Trang vương giỏi giang, khôi phục nước Trần; tha cho Trịnh Bá, lui vì Hoa Nguyên. Hoài vương chết tha hương, Tử Lan hại Khuất Nguyên; thích nghe gièm pha, Sở nhập vào Tần. Khen Trang vương có nghĩa, viết thành Sở thế gia, quyển mười.
Con của Thiếu Khang, phong gần Nam Hải, xăm mình cắt tóc, ở cùng lươn giải, giữ núi Phong Ngung, phụng thờ Đại Vũ. Câu Tiễn khốn đốn, bèn dùng Chủng – Lãi. Khen Câu Tiễn man mọi, có thể sửa đức, diệt nước Ngô mạnh, tôn sùng nhà Chu, viết thành Việt vương Câu Tiễn thế gia, quyển mười một.
Hoàn Công về đông, dùng lời Thái sử. Phạm ruộng nhà Chu, vương triều chỉ trích. Sái Trọng buộc liên minh, nước Trịnh mãi không mạnh. Tử Sản nhân từ, nhiều lời khen giỏi. Tam Tấn xâm lược, Trịnh nhập vào Hàn. Khen Lệ Công nhận Huệ vương, viết thành Trịnh thế gia, quyển mười hai.
Riêng ngựa Lộc Nhĩ, làm rạng Tạo Phủ. Triệu Túc thờ Hiến công, Triệu Suy nối nghiệp. Phò tá Văn công, suy tôn vua Chu, rốt phò nước Tấn. Tương Tử khổ nhục, bèn bắt Trí Bá. Chủ Phụ bị vây,
bắt ăn chim sẻ, rốt vẫn chết đói. Triệu vương Thiên dâm, tướng giỏi bị quở. Khen Triệu Ưởng dẹp nội loạn nhà Chu, viết thành Triệu thế gia, quyển mười ba.
Tất Vạn phong ở Ngụy, thầy bói biết trước. Ngụy Giáng làm nhục Dương Can, Nhung – Địch nghị hòa. Văn Hầu chuộng nghĩa, Tử Hạ làm thày. Huệ vương kiêu căng, Tề – Tần cùng đánh. Ngờ vực Tín Lăng, chư hầu rời bỏ. Rốt cuộc chết ở Đại Lương, Ngụy vương Giả thành đứa ở. Khen Ngụy Võ Tử phò tá Tấn Văn công dựng nên bá nghiệp, viết thành Ngụy thế gia, quyển mười bốn.
Hàn Quyết ngầm ban ơn, Triệu Võ được phục hưng. Nối dòng đất, dựng việc phế, người Tấn tôn sùng. Chiêu Hầu hiển hách, do dùng Thân Tử. Nghi ngờ Hàn Phi, người Tần đánh úp. Khen Hàn Quyết phò tá vua Tấn, sửa đổi thuế phú của Chu thiên tử, viết thành Hàn thế gia, quyển mười lăm.
Hoàn Tử lánh nạn, tới Tề cầu viện, ngầm ban ơn năm đời, người Tề ca ngợi. Thành Tử đoạt chính quyền, Điền Hòa thành chư hầu. Chí Tề vương Kiện lung lay, mới bị dời đến Cộng Ấp. Khen Uy vương, Tuyên vương có thể cứu đời loạn mà riêng suy tôn nhà Chu, viết thành Điền Kính Trọng Hoàn thế gia, quyển mười sáu.
Nhà Chu suy vi, chư hầu lộng hành. Trọng Ni xót lễ băng nhạc hoại, sửa sang kinh điển, để nêu đạo vua, vực đời loạn trở về ngay thẳng, thông qua lời văn, đặt lễ nghi phép thức cho thiên hạ, lưu lại Lục nghệ truyền cho hậu thế. Viết thành Khổng Tử thế gia, quyển mười bảy.
Kiệt – Trụ mất đạo mà Thang – Võ nổi lên, nhà Chu mất đạo nên “Xuân Thư” xuất hiện. Nhà Tần để mất nền chính trị nên Trần Thiệp cất quân, chư hầu tạo phản, mây đùn gió nổi, rốt diệt họ Tần. Mở đầu thiên hạ, kể từ Trần Thiệp. Viết thành Trần Thiệp thế gia, quyển mười tám.
Xét đài Thành Cao, họ Bạc phát tích. Bị ép tới Đại, họ Đậu vẻ vang. Lật Cơ cậy sang, họ Vương toại nguyện. Trần Hậu quá kiêu,
rốt cuộc suy tôn Vệ Tử Phu. Khen Tử Phu đức tốt dường vậy, viết thành Ngoại thích thế gia, quyển mười chín.
Hán Cao tổ bày mưu, bắt Hàn Tín ở Trần; Việt – Sở nhanh mạnh, bèn phong người em, Giao làm Sở vương, đóng đô Bành Thành, đẩy mạnh Hoài – Tử, cho làm phên giậu. Lưu Mậu chìm đắm, trong vòng ty niệm, Lưu Lễ nối ngôi. Khen Lưu Du phò rập Cao tổ, viết thành Sở Nguyên vương thế gia, quyển hai mươi.
Cao tổ cất quân, Lưu Giả tham dự; Kình Bố đánh úp, mất đất Ngô – Sở. Doanh Lăng khích Lã, phong Lang Da vương; dụ Ngọ tin Tề, đi mà chẳng về, bèn từ phía tây vào quan trung, gặp đón Hiếu Văn, lại phong làm Yên vương. Thiên hạ chưa yên bình, Cổ – Dịch cùng họ vua, giúp rập làm phên giậu. Viết thành Kinh Yên thế gia, quyển hai mươi mốt.
Thiên hạ đã yên, tôn thất lại ít, Điệu Huệ lớn nhất, được giữ miền đông. Ai Vương tự cất quân, nổi giận đánh họ Lã, Tử Quân bạo ngược, triều thần chẳng nghe. Còn như Lệ vương, gia quyến hoang dâm, Chủ Phụ gieo họa. Khen Lưu Phì là bề tôi đắc lực, viết thành Tề Điệu Huệ vương thế gia, quyển hai mươi hai.
Người Sở vây ta ở Huỳnh Dương, giằng co ba năm; Tiêu Hà trấn giữ Sơn Tây, bày kế viện quân, cấp lương không dứt, khiến trăm họ yêu Hán, không ưa giúp Sở. Viết thành Tiêu tướng quốc thế gia, quyển hai mươi ba.
Cùng Hàn Tín dẹp Ngụy, phá Triệu diệt Tề, làm yếu người Sở. Nối Tiêu Hà làm tướng quốc, không thay không đổi, dân chúng bình yên. Khen Tào Tham không diễu võ khoe tài, viết thành Tào tướng quốc thế gia, quyển hai mươi bốn.
Suy tính trong màn trường, đắc thắng trong vô hình, Tử Phòng bày mưu kế, không mang tiếng cơ trí, chẳng được công dũng cảm, xử khó từ dễ, làm lớn từ nhỏ. Viết thành Lưu hầu thế gia, quyển hai mươi lăm.
Dùng sáu kế lạ, chư hầu thần phục Hán, việc trừ họ Lý, Trần Bình chủ mưu, rốt yên tông miếu, vững xã tắc. Viết thành Trần thừa tướng thế gia, quyển hai mươi sáu.
Họ Lã cấu kết, mưu suy hoàng thất, Chu Bột quyền biển, không theo thói thường; Ngô – Sở dấy binh, Á Phu đóng ở Xương Ấp, để chặn Tề – Triệu, bỏ mặc đất Lương. Viết thành Giáng hầu thế gia, quyển hai mươi bảy.
Bảy nước phản nghịch, riêng có nước Lương che chở kinh đô; cậy sủng khoe công, cơ hồ chuốc vạ. Khen việc có thể chống lại Ngô – Sở, viết thành Lương Hiếu vương thế gia, quyển hai mươi tám.
Ngũ tông phong vương, thân thích hòa thuận, chư hầu lớn nhỏ làm phên giậu, ai yên phận nấy, những việc tiến vượt, ngày một ít đi. Viết thành Ngũ tông thế gia, quyển hai mươi chín.
Ba vị hoàng tử, đều được phong vương, văn từ sách cáo, đều đáng thưởng thức. Viết thành Tam vương thế gia, quyển ba mươi.
Mạt thế tranh lợi, họ vẫn giữ nghĩa, nhường nhau ngôi vua, rốt cuộc chết đói, thiên hạ tán dương. Viết thành Bá Di liệt truyện, quyển một.
Án Tử tiết kiệm, Di Ngô xa xỉ, Tề Hoàn nhờ vậy xưng bá, Cảnh Công nhờ vậy thịnh trị. Viết thành Quản Án liệt truyện, quyển hai.
Lý Nhĩ vô vi, để mặc thay đổi, chuộng sự thanh tịnh, để tùy cải chính; Hàn Phi suy xét sự tình, thuận thời hợp lý. Viết thành Lão Tử Hàn Phi liệt truyện, quyển ba.
Từ xưa bậc vương giả đã có Tư Mã pháp, Nhương Tư có thể phát huy. Viết thành Tư Mã Nhương Tư liệt truyện, quyển bốn.
Không phải người tín – liêm – nhân – dũng, không thể truyền binh pháp, giảng kiếm thuật, phải hợp với đạo, trong có thể sửa mình,
ngoài có thể ứng biển, quân tử coi đó là đức vậy. Viết thành Tôn Tử Ngô Khởi liệt truyện, quyển năm.
Kiện bị gièm pha, liên lụy đến Xa, Ngũ Thượng cứu bố, Ngũ Viên đến Ngô. Viết thành Ngữ Tử Tư liệt truyện, quyển sáu.
Họ Khổng viết sách, đệ tử nối nghiệp, thảy làm thay day, mến nghĩa chuộng nhân. Viết thành Trọng Ni đệ tử liệt truyện, quyến bảy.
Ưởng rời Vệ tới Tần, có thể làm sáng đạo thuật, khiến Hiếu Công lớn mạnh xưng bá, đời sau noi phép. Viết thành Thương quân liệt truyện, quyển tám.
Thiên hạ lo Tần liên hoành, lòng tham không đáy, Tô Tần lại có thể bảo toàn chư hầu, hẹn hợp tung để kìm sự tham bạo. Viết thành Tô Tần liệt truyện, quyển chín.
Sáu nước hợp tung thân thiết, mà Trương Nghi có thể làm sáng luận thuyết, lại khiến chư hầu giải tán. Viết thành Trương Nghi liệt truyện, quyển mười.
Tần sở dĩ về đông xưng hùng với các chư hầu, là nhờ kế sách của Sư Lý, Cam Mậu. Viết thành Sư Lý Cam Mậu liệt truyện, quyển mười một.
Ôm Hà Sơn, vây Đại Lương, khiến chư hầu bó tay mà thờ Tần, ấy là công của Ngụy Nhiễm, Viết thành Nhương hầu liệt truyện, quyển mười hai.
Nam nhổ Yên – Dĩnh, Bắc xô Trường Bình, rồi vây Hàm Đan, Võ An làm tướng; phá Sở diệt Triệu, là kế của Vương Tiễn. Viết thành Bạch Khởi Vương Tiễn liệt truyện, quyển mười ba.
Lược bàn di văn của Nho – Mặc, sáng tỏ yếu lĩnh của lễ nghĩa, ngăn chặn ý nghĩ trục lợi của Huệ vương, thuật kể việc hưng suy
của các đời. Viết thành Mạnh Tử Tuân Khanh liệt truyện, quyển mười bốn.
Mến khách yêu kẻ sĩ, kẻ sĩ theo về đất Tiết, vì Tề chống Sở – Ngụy. Viết thành Mạnh Thường quân liệt truyện, quyển mười lăm.
Dùng quyền biến giành được Phùng Đình, tới Sở để giải vây Hàm Đan, khiến vua nước ấy lại có tiếng nói trong các chư hầu. Viết thành Bình Nguyên quân Ngu Khanh liệt truyện, quyển mười sáu.
Giàu sang núp bóng kẻ nghèo hèn, hiền tài dưới trướng người kém cỏi, duy Tín Lăng quân mới có thể làm được. Viết thành Ngụy Công tử liệt truyện, quyển mười bảy.
Liều mình vì vua, nên thoát được Tần, khiến nhân sĩ du thuyết về Nam chạy vào nước Sở, ấy là lòng trung nghĩa của Hoàng Yết. Viết thành Xuân Thân quân liệt truyện, quyển mười tám.
Có thể nhẫn nhục ở Ngụy – Tề, uy tín vang tới Tần mạnh, tiến cử hiền tài, khiêm nhường ngôi vị, có hai ngài như vậy. Viết thành Phạm Thư Sái Trạch liệt truyện, quyển mười chín.
Dẫn đầu thi hành mưu lược, liên hợp quân năm nước, vì nước Yên yếu báo thù nước Tề mạnh, rửa nỗi nhục cho tiến quân. Viết thành Lạc Nghị liệt truyện, quyền hai mươi.
Mặc ý bày tỏ với Tần vương, khom mình trước Liêm Tử, tận trung với quốc quân, có tiếng trong chư hầu. Viết thành Liêm Pha Lạn Tương Như liệt truyện, quyền hai mươi mốt.
Mẫn Vương để mất Lâm Truy, chạy đến Cử Thành, riêng có Điền Đan nhờ Tức Mặc đánh đuổi Kỵ Kiếp, nên bảo toàn được xã tắc nước Tề. Viết thành Điền Đan Việt truyện, quyển hai mươi hai.
Có thể bày lời ngụy biện giải nỗi lo vây thành, khinh tước lộc, thích tùy ý. Viết thành Lỗ Trọng Liên Trâu Dương liệt truyện, quyển hai mươi ba.
Làm từ8 ngầm can gián, ví von nêu đạo nghĩa, Ly Tao là như vậy. Viết thành Khuất Nguyên Giả Sinh liệt truyện, quyển hai mươi bốn.
Kết thân với Tử Sở, khiến kẻ sĩ trong các nước chư hầu tranh nhau tới phụng sự nước Tần. Viết thành Lã Bất Vi liệt truyện, quyển hai mươi lăm.
Tào Tử cầm dao găm, nước Lỗ thu lại ruộng, Tề tỏ ra thành thật, Dự Nhượng không hài lòng. Viết thành Thích khách liệt truyện, quyển hai mươi sáu.
Có thể nêu rõ trù hoạch, thuận thời giúp Tần, thỏa chí trong thiên hạ, Lý Tư đứng đầu. Viết thành Lý Tư liệt truyện, quyển hai mươi bảy.
Mở đất mộ dân cho nhà Tần, phía bắc đánh bại Hung Nô, cậy Hoàng Hà làm đất hiểm, dựa núi cố thủ, xây dựng Du Trung. Viết thành Mông Điền liệt truyện, quyển hai mươi tám.
Trấn thủ nước Triệu, giữ vững Thường Sơn để mở rộng Hà Nội, làm suy yếu thế lực nước Sở, nêu uy tín của Hán vương ra khắp thiên hạ. Viết thành Trương Nhĩ Trần Dư liệt truyện, quyển hai mươi chín.
Thu gom quân Tây Hà, Thượng Đảng, theo tới Bành Thành; Bành Việt đánh lấy đất Lương làm nhọc Hạng Vũ. Viết thành Ngụy Báo Bành Việt liệt truyện, quyển ba mươi.
Đem quân Hoài Nam phản Sở theo Hán, Hán dùng Đại tư mã Ân, rốt cuộc đánh bại Hạng Vũ ở Cai Hạ. Viết thành Kình Bố liệt truyện, quyển ba mươi mốt.
Người Sở vây khốn ta ở Kinh – Sách, mà Hàn Tín đánh lấy Ngụy – Triệu, bình định Yên – Tề, khiến Hán chia ba thiên hạ mà chiếm lấy hại phần, tiêu diệt Hạng Tịch. Viết thành Hoài Âm hầu liệt truyện, quyển ba mươi hai.
Sở – Hán giằng co ở Củng – Lạc, mà Hàn Tín trấn giữ Dĩnh Xuyên cho Hán, Lư bản cắt đứt quân lương của Hạng Tịch. Viết thành Hàn Tín Lư Oản liệt truyện, quyển ba mươi ba.
Chư hầu phản Hạng vương, riêng Tề kìm Hạng Vũ ở Thành Dương, Hán mới có thể thừa cơ đánh vào Bành Thành, Viết thành Điền Đam liệt truyện, quyển ba mươi tư.
Đánh thành dã chiến, lập Công về báo, Khoái – Thương góp sức, không những cầm roi ruổi ngựa, còn giúp Hán vương thoát nạn. Viết thành Phàn Lịch liệt truyện, quyển ba mươi lăm.
Thiên hạ vừa đình, văn pháp chưa rõ, Trương Lương bày kế, thống nhất đo lường, đặt định luật lịch. Viết thành Trương thừa tướng liệt truyện, quyển ba mươi sáu.
Giao ước thông hiểu, kết nối chư hầu; chư hầu gần gũi, quy thuận Hán vương, giúp làm phên giậu. Viết thành Lịch Sinh Lục Giả liệt truyện, quyển ba mươi bảy.
Muốn biết rõ việc Tần – Sở, riêng có Chu Tiết thường theo Cao tổ, bình định chư hầu. Viết thành Phó Cận Khoái Thành liệt truyện, quyển ba mươi tám.
Di dời phú hào, đóng đô Quan Trung, hòa ước với Hung Nô, định rõ lễ nghi triều đình, sắp đặt phép thức trong tông miếu. Viết thành Lưu Kính Thúc Tôn Thông liệt truyện, quyển ba mươi chín.
Có thể biến cương thành nhu, rốt làm đại thần; Loan công không chịu khuất phục trước thế lực mà phản bội người chết, Viết thành Quý Bố Lạc Bố liệt truyện, quyển bốn mươi.
Dám mạo phạm thiên tử, bày tỏ chủ trương, bất chấp tính mạng, vì nước nhà bày kế lâu dài. Viết thành Viên Áng Triều Thố liệt truyện, quyển bốn mươi mốt.
Giữ luật không để mất đại thể, giảng người hiền thời xưa, khiến vua thêm sáng suốt. Viết thành Trương Thích Chi Phùng Đường liệt truyện, quyển bốn mươi bốn.
Đôn hậu hiếu hiền, nói năng ấp úng, hành sự mau lẹ, tận tụy cúc cung, đứng đầu quân tử. Viết thành Vạn Thạch Trương Thúc liệt truyện, quyển bốn mươi ba.
Giữ tiết tháo chính trực, có thể nói liêm khiết, khích lệ được người hiền, giữ trọng trách, không thể khuất phục trước sự phi lý. Viết thành Điền Thúc liệt truyện, quyển bốn mươi bốn.
Biển Thước luận về y, đáng là bậc thầy, tay nghề cao minh, hậu thế noi học, không thể đổi khác, mà Thương cũng có thể nói gần được như ngài. Viết thành Biển Thước Thương công liệt truyện, quyển bốn mươi lăm.
Lưu Trọng bị cắt tước, Lưu Tỵ làm Ngô vương, Hán vừa định thiên hạ, cho trấn giữ Giang – Hoài. Viết thành Ngô vương Tỵ liệt truyện, quyển bốn mươi sáu.
Ngô – Sở làm loạn, thân thuộc riêng có Đậu Anh giỏi giang mà yêu kẻ sĩ, kẻ sĩ hướng về, cầm quân đánh bọn Sơn Đông ở Huỳnh Dương. Viết thành Ngụy Kỳ Võ An liệt truyện, quyển bốn mươi bảy.
Mưu trí đủ để ứng phó với biến cố cận thế, khoan hòa đủ để đắc nhân tâm. Viết thành Hàn Trường Nhụ liệt truyện, quyển bốn mươi tám.
Dũng cảm chống địch, nhân ái với quân, hiệu lệnh rõ ràng, tướng sĩ quy thuận. Viết thành Lý tướng quân liệt truyện, quyển bốn mươi chín.
Từ thời Tam đại trở lại, Hung Nô thường là mối lo của Trung quốc; muốn biết lúc mạnh yếu, công cuộc phòng bị chinh phạt, viết thành Hung Nô liệt truyện, quyển năm mươi.
Dẹp yên biên tái, mở rộng Hà Nam, đánh vỡ Kỳ Liên, khai thông Tây Vực, dẹp rợ Hồ phương Bắc. Viết thành Vệ tướng quân phiêu kỵ liệt truyện, quyển năm mươi mốt. .
Đại thần tôn thất, khoe mẽ xa hoa, riêng Công Tôn Hoằng, ăn mặc cần kiệm, làm gương trăm quan. Viết thành Bình Tân hầu liệt truyện, quyển năm mươi hai.
Hán đã dẹp Trung quốc, mà Triệu Đà có thể vỗ về Dương Việt, bảo vệ Nam Phiên, giữ phận nộp cống. Viết thành Nam Việt liệt truyện, quyển năm mươi ba.
Nước Ngô phản nghịch, người Âu Việt chém Lưu Tỵ, giữ núi Phong Ngung xưng thần. Viết thành Đông Việt liệt truyện, quyển năm mươi tư.
Bộ thuộc của Yên Đan, tan tác ở Liêu Đông, Triều Tiên vương Mãn, thu nhận dân sót, tụ tập phía đông biển, liên kết Chân Phiên, giữ biên tái làm ngoại thần. Viết thành Triều Tiên liệt truyện, quyển năm mươi lăm.
Đường Mông sai sứ, thông hiếu Dạ Lang, vua đất Cung – Trách, xin làm nội thần, đón nhận triều quan. Viết thành Tây Nam di liệt truyện, quyển năm mươi sáu.
Việc trong phú Tử Hư, lời trong phú Đại Nhân, hoa lệ khoa trương, Song tôn chỉ châm biếm khuyên răn, quy về lẽ vô vi nhi trị. Viết thành Tư Mã Tương Như liệt truyện, quyển năm mươi bảy.
Kình Bố phản nghịch, Lưu Trưởng làm vua, trấn giữ miền Nam Giang – Hoài, vỗ yên dân dữ nước Sở. Viết thành Hoài Nam Hành Sơn liệt truyện, quyển năm mươi tám.
Quan lại tuân hành pháp luật, không khoe giỏi cậy công, trăm họ không oán, cũng không tội lỗi. Viết thành Tuần lại liệt truyện, quyển năm mươi chín.
Chỉnh đốn áo mũ đứng trong triều đình, quần thần không ai dám nói bóng gió, Cấp Trường Nhụ nghiêm trang, thích tiến cử người tài, xứng làm bậc trưởng giả, Trinh Tráng có khí khái. Viết thành Cấp Trinh liệt truyện, quyển sáu mươi.
Từ khi Khổng Tử mất, kinh kỳ không ai coi trọng trường học, riêng thời Kiến Nguyên – Nguyên Thủ, thơ văn rực rỡ. Viết thành Nho lâm liệt truyện, quyển sáu mươi mốt.
Dân bỏ nghề gốc phần nhiều xảo trá, gian manh nhờn luật, người tốt không thể cảm hóa, chỉ có trừng trị nghiêm khắc mới rèn sửa được. Viết thành khốc lại liệt truyện, quyển sáu mươi hai.
Hán sai sự thông hiếu với Đại Hạ, dân mọi xa tận miền Tây, dẫn nhau trông ngóng, muốn ngắm Trung quốc. Viết thành Đại Uyên liệt truyện, quyển sáu mươi ba.
Cứu người lúc khó, giúp người lúc nghèo, bậc nhân giả là vậy chăng? Không thất tín, chẳng nuốt lời, bậc nghĩa giả có chỗ khả thủ vậy. Viết thành Du hiệp liệt truyện, quyển sáu mươi tư,
Thờ vua có thể khiến vua vui tai vui mắt, sắc mặt ôn hòa, được hầu gần gũi, chẳng những được yêu vì sắc, mà ai nấy cũng có sở trường. Viết thành Ninh hạnh liệt truyện, quyển sáu mươi lăm.
Chẳng màng thế tục, chẳng tranh quyền lợi, trên dưới không có chỗ nào ngưng trệ, chẳng ai ám hại, mà đạo nghĩa vẫn được dùng. Viết thành Hoạt kê liệt truyện, quyển sáu mươi sáu.
Thày bói các nước Tề, Sở, Tần, Triệu, ở mỗi vùng dùng mỗi tục khác nhau. Muốn lần xem yếu chỉ của họ, viết thành Nhật giả liệt truyện, quyển sáu mươi bảy.
Phép bói rùa thời Hạ, Thương, Chu bất đồng, cách chiêm bốc của man di tứ phương khác biệt, song phép nào cũng đều dùng đến đoán may rủi. Xem qua yếu chỉ, viết thành Quy cách liệt truyện, quyển sáu mươi tám.
Bọn sất phu áo vải, không hại tới triều chính, không tổn tới trăm họ, lựa thời cơ mua bán để tăng của cải, về mặt trí tuệ cũng có điều khả thủ. Viết thành Hóa thực liệt truyện, quyển sáu mươi chín.
Nhà Hán tiếp nguồn cuối của Ngũ đế, nối nghiệp đứt của Tam đại. Đạo nhà Chu lụn bại, Tần vất bỏ cổ văn, thiêu hủy các sách Thi – Thư, cho nên sách vở chốn Minh Cường, Thạch thất, Kim quỹ, Ngọc bản tản mác. Thế rồi nhà Hán nổi lên, Tiêu Hà sắp luật lệnh, Hàn Tín nêu quân pháp, Trương Thương đặt điển chương, Thúc Tôn Thông định nghi lễ, tức thì văn học rạng rỡ đi lên, Thi – Thư lũ lượt xuất hiện. Từ khi Tào Tham tiến cử Cái công, giảng đạo Hoàng – Lão, rồi Lục Sinh – Triều Thố làm sáng tư tưởng Thân – Thương9, Công Tôn Hoằng vì học thuyết nhà Nho mà sang hiển, trong vòng trăm năm, việc cũ văn xưa của thiên hạ thảy được gom về chỗ Thái sử công. Thái sử công, cha truyền con nối, giữ lấy chức này. Bàn rằng: “Than ôi! Tổ tiên ta từng quản việc này, hiển hách vào thời Đường – Ngu, đến thời Chu lại được giữ chức, cho nên họ Tư Mã đời đời giữ việc thiên quan. Đến thời ta rồi, phải kính nhớ đấy! Kính nhớ đấy!” Tìm khắp thiên hạ chuyện xưa mất mát, nguồn cơn khởi nghiệp đế vương; truy nguồn tìm ngọn, xem xét sự thịnh suy, khảo bàn việc hành xử, đại để suy thời Tam đại, chép việc Tần – Hán, trên từ Hiên Viên, dưới tới hiện tại, làm thành mười hai bản kỷ. Phân chia thiên mục, cùng thời khác thế, niên đại sai khác không rõ, làm thành mười biểu. Lễ nhạc tăng giảm, luật lịch sửa đổi, quan hệ giữa binh quyền, sông núi, quỷ thần, trời người, lần suy lụn bại thông tỏ sự biến, làm thành tâm thư. Nhị thập bát tú vây quanh Bắc cực, ba mươi nan hoa hướng vào một trục, vận hành vô tận, ứng với bề tôi giúp rập đắc lực, trung thực thành tín, thi hành đạo cả, phụng sự chúa thượng, làm thành ba mươi thế gia. Bảo vệ chính nghĩa, trác tuyệt phi phàm, chẳng để bản thân lỡ thời, lập công danh với thiên hạ, làm thành bảy mươi liệt truyện. Cả thảy ba trăm thiên, năm mươi hai vạn sáu ngàn năm trăm chữ, gọi là Thái sở Công thư. Lời tựa đại khái, góp nhặt dông dài bổ sung sáu kinh, làm thành tiếng nói một nhà, kết hợp với sự truyền thuật khác nhau của lục nghệ, chỉnh lý tạp
thuyết của bách gia, bản chính cất chốn danh sơn, bản phụ lưu đất kinh kỳ, ngõ hầu chờ bậc thánh nhân quân tử đời sau. Quyển bảy mươi.
Thái tử công bàn rằng: Ta thuật từ thời Hoàng Đế trở lại, tới thời Thải Sợ thì dừng, gồm ba trăm thiên.
Mười hai độ: người xưa chia dải xích đạo từ Tây sang Đông thành mười hai vùng để quan trắc vị trí và sự vận động của mặt trăng, mặt trời và nằm sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mười hai vùng này được gọi là Thập nhị độ hoặc Thập nhị thứ.↩
Sáu kinh: nguyên văn là lục nghệ, chỉ các sách Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.↩
Hương xạ: lễ bắn cung uống rượu.↩
Kim quỹ, Thạch thất: rương vàng, buồng đá, chỉ sách vở trong cung.↩
Chỉ Chuyên Húc, Đế cốc, Nghiêu, Thuấn.↩
Tức Khanh tử quán quân.↩
Năm nhà: chỉ lịch của các đời Hoàng Đế, Chuyên Húc, Hạ, Thương, Chu.↩
Từ: ở đây chỉ một thể loại văn học.↩
Tức Thân Bất Hại, Thương Ưởng.↩
QUYỂN
1
NGŨ
ĐẾ
BẢN
KỶ
Hoàng Đế là con cháu của Thiếu Điển1, họ Công Tôn, tên là Hiên Viên, sinh ra thần dị, chớm sinh biết nói, nhỏ thì thông minh, lớn thì đôn hậu, trưởng thành thì sáng suốt. Vào thời Hiên Viên, họ Thần Nông suy yếu, chư hầu xâm chiếm lẫn nhau, bạo ngược trăm họ, vậy mà họ Thần Nông không thể chinh phạt được. Bấy giờ Hiên Viên bèn dùng vũ lực, chinh phạt kẻ không đến chầu, chư hầu đều thần phục theo. Riêng Xi Vưu bạo ngược nhất, không ai đánh nổi. Viêm Đế muốn xâm chiếm chư hầu, chư hầu đều quy thuận Hiên Viên. Hiên Viên bèn sửa sang đức chính, chấn chỉnh quân đội, thuận theo khí của ngũ hành, gieo trồng ngũ cốc, vỗ về muôn dân, đo đạc bốn phương, huấn luyện gấu, beo, hổ, báo, tỳ, hưu2, rồi cùng Viêm Đế đánh nhau ở cánh đồng Bản Tuyền, qua ba trận mới thắng. Xi Vưu dấy loạn, không theo lệnh vua. Vậy là Hoàng Đế liền trưng tập quân chư hầu, cùng Xi Vưu đánh nhau ở cánh đồng Trác Lộc, sau đó bắt Xi Vưu mà giết đi. Chư hầu đều tôn Hiên Viên làm thiên tử, thay họ Thần Nông, đây chính là Hoàng Đế. Trong thiên hạ có kẻ không quy thuận, Hoàng Đế liền tới chinh phạt, dẹp yên rồi bỏ đi, đến đâu cũng xẻ núi mở đường, chưa từng sống yên một chỗ.
Hoàng Đế (tranh đời Minh)
Hoàng Đế đi về phía đông đến biển, lên Hoàn Sơn và Đại Tông; đi về phía tây tới Không Đồng, lên núi Kê Đầu; đi về phía nam tới Trường Giang, lên Hùng Sơn, Tương Sơn. Lên phía bắc đuổi bọn Huân Dục, hội chư hầu ở Phủ Sơn, định độ ấp ở bình nguyên Trác Lộc, nhưng di dời, đi lại thường xuyên, không ở nơi nào cố định, sắp đặt quân đội thành vòng tròn xung quanh mình để bảo vệ. Tên của bá quan đều lấy chữ ‘Vân’ để đặt, quân đội gọi là ‘Vân sư’, đặt ra chức tả, hữu Đại Giám, giám sát muôn nước. Muôn nước hòa hợp, việc cúng tế quỷ thần, sông núi, trời đất rất thịnh. Hoàng Đế từng có được đỉnh báu; bói cỏ thi để dự đoán ngày tháng, cắt cử Phong Hậu, Lực Mục, Thường Tiên, Đại Hồng để trị dân. Thuận theo quy luật của trời đất, suy đoán sự biến hóa của âm dương, đặt ra lễ nghi sinh tử, gieo trồng cỏ cây bách cốc theo thời vụ, thuần dưỡng muông thú côn trùng, đức của Hoàng Đế lan tỏa rộng khắp tới nhật nguyệt, tinh tú, cùng sông ngòi, đất đá, vàng
ngọc. Ngài lao tâm khổ tứ, lại tiết kiệm tài vật, có nét đẹp của thủ đức, nên được gọi là Hoàng Đế.
Hoàng Đế có hai mươi lăm người con trai, nhưng người được ban họ chỉ có mười bốn người. Hoàng Đế sống ở gò Hiên Viên, lấy con gái nước Tây Lăng làm vợ, đây chính là bà Luy Tổ. Bà Luy Tổ là chính phi của Hoàng Đế, sinh được hai người con trai, con cháu sau này đều có được thiên hạ. Người thứ nhất tên là Huyền Hiêu, chính là Thanh Dương, Thanh Dương được phong ở Trường Giang; người thứ hai tên là Xương Ý, được phong ở Nhược Thủy. Xương Ý lấy con gái họ Thục Sơn, tên là Xương Bộc, sinh ra Cao Dương. Cao Dương có đức của bậc thánh nhân. Hoàng Đế băng, táng ở Kiều Sơn. Cháu nội, con trai của Xương Ý là Cao Dương lên ngôi, đây chính là Đế Chuyên Húc vậy.
Để Chuyên Húc Cao Dương là cháu nội của Hoàng Đế, con trai của Xương Ý. Ngài thâm trầm, sâu sắc mà có mưu lược; sáng suốt, thông đạt mà hiểu thấu lễ nghĩa. Trồng trọt chăn nuôi tận dụng địa lợi, phân chia thời tiết hợp với tự nhiên, dựa vào quỷ thần để đặt ra lễ nghĩa, nghiền ngẫm khí của tử thời, ngũ hành để giáo hỏa muôn dân, dùng sự thanh khiết, thành khẩn để tế tự. Ngài từng phía bắc đến U Lăng, phía nam đến Giao Chỉ, phía tây đến Lưu Sa, phía đông đến Phiên Mộc. Mọi vật động hay tĩnh, thần linh lớn hay nhỏ, phàm những nơi có ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi tới, không đâu không quy thuận ngài.
Đế Chuyên Húc sinh được người con tên là Cùng Thiền. Chuyên Húc băng, cháu nội của Huyền Hiêu là Cao Tân lên ngôi, chính là Đế Khốc.
Chuyên Húc (Tam Tài đồ hội)
Đế Khốc Cao Tân là chắt của Hoàng Đế. Cha của Cao Tân là Kiều Cực, cha của Kiều Cực là Huyền Hiêu, cha của Huyền Hiêu là Hoàng Đế. Huyền Hiêu và Kiều Cực đều không được ở ngôi, đến Cao Tân mới lên ngôi vua. Cao Tân là cháu họ của Chuyên Húc. Cao Tân sinh ra đã thần dị, tự nói được tên mình. Ngài rộng ban ơn huệ, chẳng vì bản thân. Ngài thông minh nên biết được
việc xa, sáng suốt nên nhận ra điều nhỏ, trên thì thuận theo đạo nghĩa của trời, dưới thì hiểu nỗi khốn khó của dân, nhân hậu mà uy nghiêm, hiền từ mà thành thật. Ngài tu thân khiến thiên hạ đều kính phục. Ngài sử dụng tài vật mà tiết kiệm, vỗ về muôn dân mà bảo ban, quan sát mặt trăng, mặt trời mà sửa sang lịch pháp, xét rõ quỷ thần mà kính thờ. Thần thái thì trang nghiêm, đức độ thì cao vọi, cử chỉ thì đúng mực, ăn vận thì phải chừng. Đế Khốc giữ đạo trung dung, đem ân đức tưới khắp thiên hạ, phàm những nơi nhật nguyệt chiếu soi, gió mưa gội tới, không nơi đâu không thần phục ngài.
Đế Khốc lấy con gái họ Trần Phong, sinh ra Phóng Huân, lại lấy con gái họ Tu Tử, sinh ra Chí. Đế Khốc băng, Chỉ nối ngôi. Đế Chí lên ngôi, chính trị suy yếu, sau khi băng, em là Phỏng Huân lên ngôi, đây là Đế Nghiêu.
Đế Nghiêu tên là Phóng Huân, nhân từ như trời, trí tuệ như thần. Gần gụi thì thấy ngài như mặt trời, đoái trông thì ngỡ ngài như áng mây. Giàu có mà không kiêu căng, cao sang mà không ngạo mạn. Ngài đội mũ vàng, vận áo đen, đi xe đỏ, cưỡi ngựa trắng. Ngài có thể làm rạng đức tốt để khiến chín họ hòa thuận. Chọn họ đã hòa thuận rồi, ngài tỏ đức tốt cho cả trăm họ. Trăm họ sáng tỏ rồi, ngài hòa hợp với cả muôn nước chư hầu. Ngài bèn sai hai họ Hy, Hòa kính thuận phép trời, xem xét sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các vì sao, rồi kính cẩn truyền cho dân gian biết thời vụ cấy gặt. Sai Hy Trọng đến ở Úc Di, gọi là Dương Cốc, kính cẩn đón mặt trời mọc, đôn đốc vụ xuân. Ngày Xuân phân thì ngày đêm bằng nhau, lúc hoàng hôn sao Điểu ở chính nam, lấy đó để định tháng Trọng xuân. Dân tản ra đồng, muông thú sinh nở. Lại sai Hy Thúc đến ở Nam Giao, đôn đốc vụ hè, kính cẩn làm tốt việc gieo trồng. Ngày Hạ chí là ngày dài nhất, lúc hoàng hôn sao Hỏa ở chính nam, lấy đó để định tháng Trọng hạ. Dân thảy làm đồng, muông thú thưa lông. Lại sai Hòa Trọng đến ở phương Tây, gọi là Muội Cốc, kính cẩn tiễn mặt trời lặn, đôn đốc vụ thu. Ngày Thu phân thì đêm ngày bằng nhau, lúc hoàng hôn sao Hư ở chính nam, lấy đó để định thảng Trọng thu. Dân chúng vui tươi, thú thay
lông mới. Lại sai Hòa Thúc đến ở phương Bắc, gọi là U Đô, đôn đốc thu hoạch. Ngày Đông chỉ là ngày ngắn nhất, lúc hoàng hôn sao Mão ở chính nam, mới lấy đó để định tháng Trọng đông. Dân mặc áo ấm, muông thú lông rậm. Một năm có ba trăm sáu mươi sáu ngày, lại đặt ra tháng nhuận để bốn mùa được chính xác. Bá quan cần mẫn, mọi sự hưng thịnh.
Đế Nghiêu
Đế Nghiêu hỏi: “Ai có thể nối ngôi ta?” Phóng Tề đáp: “Thái tử Đan Chu thông minh sáng láng!” Đế Nghiêu nói: “Ôi dào! Bướng bỉnh hay cãi, không được!” Đế Nghiêu lại hỏi: “Ai được nhỉ?” Hoan Đâu đáp: “Cộng Công biết tập trung nhân lực, lại có công lớn, có thể dùng được” Đế Nghiêu nói: “Cộng Công nói hay nhưng trong lòng tà vạy, tưởng cung kính nhưng ngạo mạn ngất trời, không được!” Đế Nghiêu lại nói: “Này! Bốn vị Tứ nhạc3! Giờ nước lũ cuồn cuộn ngang trời, mênh mông nhấn nuốt núi đồi, muôn dân sợ hãi, sai ai trị thủy được?” Mọi người đều nói Cổn có thể làm được. Đế Nghiêu nói: “Cổn hay làm trái lệnh, lại tàn sát người trong họ, không được!” Bốn vị Tứ nhạc đáp: “Không phải vậy đâu! Đức vua cứ thử, không được thì thôi vậy?” Thế rồi Đế Nghiêu nghe lời bốn vị đại thần dùng Cổn. Nhưng suốt chín năm, Cổn chẳng làm được gì.
Để Nghiêu nói: “Ôi! Tứ nhạc! Ta ở ngôi đã bảy mươi năm rồi, ai có thể nhận mệnh trời, bước lên ngôi vua?” Bốn vị Tứ nhạc đáp: “Đức mọn e làm bẩn ngôi vua!” Đế Nghiêu nói: “Cất cử người thân thích hay ẩn sĩ ở xa cũng được!” Mọi người đều nói với Đế Nghiêu rằng: “Có một người chưa vợ trong dân gian, tên là Ngu Thuấn” Đế Nghiêu nói: “Đúng, ta cũng nghe nói, người đó thế nào?” Bốn vị Tứ nhạc nói: “Người đó là con một gã mù. Ông bố thì ngang ngạnh, bà mẹ thì điêu ngoa, thằng em thì xấc xược, thế mà có thể dùng lòng hiếu thảo dàn hòa mọi việc, xử trí êm ru, không làm gì gian ác” Đế Nghiêu nói: “Ta thử hắn xem sao?”
Thế rồi Đế Nghiêu gả hai cô con gái cho Thuấn, để qua đó xem đức hạnh của Thuấn thể nào. Thuấn bèn đưa hai vợ xuống ven sông Vị, theo đúng đạo làm vợ. Đế Nghiêu hài lòng, bèn sai Thuấn cẩn thận điều hòa năm mối nhân luân4, mọi người đều tuân theo cả; Đế Nghiêu bèn vời vào triều điều khiển bá quan, bá quan mới có trật tự; lại sai ra bốn cửa tiếp đón tân khách, việc tiếp đón
ở bốn cửa đều cung kính, hòa mục, tân khách ở các nước chư hầu phương xa đều kính cẩn. Đế Nghiêu sai Thuấn vào rừng núi đầm lầy, gặp mưa gió bão bùng, Thuấn vẫn đi không lạc. Đế Nghiêu cho vậy là bậc thánh, bèn vời Thuấn lại nói: “Ngươi mưu sự rốt ráo, hễ nói là làm được, ba năm rồi, ngươi hãy lên ngôi vua!” Thuấn khiêm nhường từ chối, bởi nghĩ đức mình chưa vẹn. Mồng một tháng Giêng, Thuấn nối ngôi tại miếu Văn Tổ. Văn Tổ, chính là thủy tổ của Đế Nghiêu vậy.
Bấy giờ, Đế Nghiêu đã già, lệnh cho Thuấn thay mình xử trí chính sự của thiên tử để xem mệnh trời. Thuấn bèn dùng máy Toàn Cơ, Ngọc Hành5 để điều hòa sự vận hành của Thất chính6. Thứ đến dùng lễ tế Loại để tế thượng đế, lễ tế Nhân để tế Lục tông7, lễ tế Vọng để tế núi sông và tế tự khắp cả bách thần. Ngài thu về năm loại ngọc, chọn ngày lành tháng tốt, hội kiến bốn vị Tứ nhạc cùng các châu lục, rồi lại ban ngọc cho mọi người8. Tháng Hai cùng năm, ngài đi tuần thú phương Đông, đến núi Đại Tông, làm lễ tế Sài để tế thượng đế, sau đó lần lượt tế vọng các thần sông núi. Ngài tiếp kiến các quân trưởng phương Đông, định lại bốn mùa, tháng, ngày cho phù hợp, thống nhất âm luật, đo lường, sửa sang năm loại lễ9, năm loại ngọc, ba loại lụa10, hai vật sống, một vật chết11 để làm lễ vật gặp mặt. Như năm loại ngọc, sau khi tế lễ hoàn tất thì trả lại cho chư hầu. Tháng Năm ngài tuần thú phương Nam, tháng Tám tuần thú phương Tây, tháng Mười một tuần thú phương Bắc, đều như lần tuân thủ đầu tiên. Khi trở về, ngài tới Tổ miếu và Nễ miếu12, giết trâu đực tế lễ. Năm năm một lần tuần thú, các vua chư hầu lần lượt vào chầu trong bốn năm. Ngài nghe họ tâu bày việc trị lý, xét rõ chính tích của từng người, rồi tùy theo công trạng mà bạn thưởng cho xe cộ, áo mão. Ngài bắt đầu chia nước làm mười hai châu, khơi thông sông ngòi. Công bố những hình phạt mà pháp luật đã định. Người bị tội ngũ hình, có khi được khoan giảm thành xử lưu đày13. Dùng roi xử các quan, dùng thước phạt học trò, cho dùng vàng để chuộc tội. Vô
tình phạm tội thì tha, gian ác đến cùng thì phải trừng trị. Cẩn thận thay! Cẩn thận thay! Riêng việc dùng hình phải thận trọng thay!
Hoan Đâu tiến cử động công, vua Nghiêu bảo không được, song lại cho thử làm Công sư, Cộng công quả nhiên tàn ác. Tứ nhạc tiến cử Cổn trị lũ lụt, vua Nghiêu cho rằng không được, Tứ nhạc vẫn gắng xin cho thử, nhưng khi làm thử lại không có công tích gì, còn khiến dân thêm bất tiện. Tam Miêu nhiều lần nhiễu loạn ở Giang Hoài, Kinh Châu. Thế rồi, Thuấn trở về tâu lên vua Nghiêu, xin đày Cộng Công tới U Lăng, để biến đổi bọn người Bắc Địch; đày Hoan Đâu tới Sùng Sơn để biến đổi bọn người Nam Man; dời Tam Miêu tới Tam Nguy để biến đổi bọn người Tây Nhung; đày Cổn tới Vũ Sơn để biến đổi bọn người Đông Di. Xử bốn tội như vậy, thiên hạ đều cảm phục.
Vua Nghiêu ở ngôi bảy mươi năm thì có được Thuấn, hai mươi năm sau nữa thì cáo lão, lệnh cho Thuấn nhiếp chính thay
Đế Thuấn (Tam Tài đồ hội).
thiên tử, tiến cử Thuấn với trời. Vua Nghiêu rời ngôi hai mươi tám năm thì băng. Trăm họ đau buồn như mất cha mẹ. Trong ba năm, bốn phương không nơi nào tấu nhạc, để tưởng nhớ vua Nghiêu. Vua Nghiêu biết con mình là Đan Chu kém cỏi, không
xứng trao cho thiên hạ, bèn trao quyền cho Thuấn. Trao cho Thuấn thì lợi cho thiên hạ nhưng khổ cho Đan Chu; trao cho Đan Chu thì khổ cho thiên hạ mà riêng Đan Chu được lợi. Vua Nghiêu nói: “Suy cho cùng không thể bắt cả thiên hạ khổ để làm lợi cho một người được” Vua Nghiêu, trao thiên hạ cho Thuấn rồi mất. Vua Nghiêu băng, sau khi hết tang ba năm, Thuấn nhường ngôi cho Đan Chu mà lánh về phía nam vùng Nam Hà. Chư hầu triều kiến không tới chầu Đan Chu mà lại tới chầu Thuấn. Những kẻ kiện tụng, không tới tìm Đan Chu mà lại tới tìm Thuấn. Những kẻ ca hát, không ca tụng Đan Chu mà lại ca tụng Thuấn. Thuấn nói rằng: “Đó là ý trời vậy” Sau đó vào kinh đô, lên ngôi thiên tử. Đây chính là Để Thuấn.
Ngu Thuấn, tên là Trung Hoa. Bố của Trung Hoa là Cổ Tẩu, bố của Cổ Tẩu là Kiều Ngưu, bố của Kiều Ngưu là Câu Vọng, bố của Câu Vọng là Kinh Khang, bố của Kính Khang là Cùng Thiền, bố của Cùng Thiền là Đế Chuyên Húc, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, đến Thuấn là được bảy đời. Từ Cùng Thiền tới Đế Thuấn đều là dân mọn.
Bố Thuấn là Cổ Tẩu bị mù, mẹ Thuấn mất, Cổ Tẩu lấy vợ khác sinh ra Tượng. Tượng xấc xược. Cổ Tẩu yêu chiều con vợ hai, thường muốn giết Thuấn, Thuấn phải né tránh, khi có lỗi nhỏ thì cam tâm chịu phạt. Thuấn hiếu thuận mà thờ cha, mẹ kế và em trai, hằng ngày cung kính cẩn trọng, không dám lơi là.
Thuấn là người Ký châu, cày ruộng ở Lịch Sơn, bắt cá ở Lôi Trạch, làm gốm ven Hoàng Hà, làm đồ đạc ở Thọ Khưu, buôn bán ở Phụ Hạ. Bố Thuấn là Cổ Tẩu ngang ngạnh, mẹ kế điêu ngoa, em trai xấc xược, đều muốn giết Thuấn. Thuấn vẫn hiếu thuận, không mất đạo con, hiền với huynh đệ. Cả nhà muốn giết nhưng không được, lúc nào cần tìm đến Thuấn thì Thuấn đều ở bên. Năm Thuấn hai mươi tuổi đã nổi tiếng hiếu thảo, năm ba mươi tuổi, Đế Nghiêu hỏi xem có ai có thể dùng được thì bốn vị Tứ nhạc cùng tiến cử Ngu Thuấn, nói rằng Thuấn dùng được. Thế rồi vua Nghiêu bèn đem hai con gái gả cho Thuấn để xem cách Thuấn
tề gia, lại sai chín con trai qua lại với Thuấn để xem cách Thuấn xử thế. Thuấn sống ở ven sông Vị, cử chỉ trong nhà lại càng nghiêm cẩn khiến hai cô con gái của vua Nghiêu không dám lấy sự cao quý, kiêu mạn đối đãi với người thân của Thuấn, mà lại rất giữ đạo làm vợ. Chín người con trai của vua Nghiêu cũng đều ngày một thuần hậu, kính cẩn. Thuấn cày ở Lịch Sơn thì người Lịch Sơn đều nhường bờ ruộng; bắt cá ở Lôi Trạch thì người Lôi Trạch đều nhường chỗ ở; làm gốm ven Hoàng Hà thì đồ gốm ven Hoàng Hà đều không còn thứ thô xấu. Sau một năm thì nơi Thuấn ở thành thôn xóm, sau hai năm thành thành ấp, sau ba năm thành đô thị. Vua Nghiêu bèn ban cho Thuấn áo bằng vải sắn mịn cùng đàn cầm, xây cho kho đụn, tặng cho trâu dê. Cổ Tẩu vẫn muốn giết Thuấn, sai Thuấn lên trát kho, Cổ Tẩu ở dưới phỏng hỏa đốt kho, Thuấn lấy hai chiếc nón che mình mà xuống, rồi bỏ chạy, thoát được chết. Sau đó, Cổ Tẩu lại sai Thuấn đào giếng. Thuấn đào giếng rồi đào riêng một đường hầm ở mé bên để chui ra. Khi Thuấn ở sâu dưới giếng, Cổ Tẩu và Tượng cùng đổ đất lấp giếng, Thuấn liền chui vào đường hầm chạy thoát. Cổ Tẩu và Tượng đều mừng, tưởng Thuấn đã chết. Tượng nói: “Mưu này của Tượng”. Tượng chia chác với bố mẹ, nói: “Vợ Thuấn, hai con gái vua Nghiêu, với đàn thì Tượng lấy. Trâu dê, kho đụn thì cho bố mẹ.” Tượng bèn tới nhà Thuấn, vỗ đàn. Thuấn quay về. Tượng ngạc nhiên, không vui nhưng nói: “Ta đang nhớ Thuấn da diết lắm!” Thuấn nói: “Ngươi như vậy mới là phận em!” Thuấn lại thờ Cổ Tẩu, yêu em trai, càng thêm kính cẩn. Thế rồi vua Nghiêu mới thử để Thuấn điều hòa năm mối, khảo sát trăm quan, Thuấn đều làm được.
Xưa họ Cao Dương có tâm tài tử, người đời được lợi, gọi là “Bát Khải”. Họ Cao Tân có tám tài tử, người đời gọi là “Bát Nguyên”. Mười sáu họ này, đời đời thành tựu đức tốt, không làm mất đi danh tiếng. Vào thời vua Nghiêu, vua Nghiêu chưa thể cất nhắc, nay Thuấn cất nhắc Bát Khải, sai làm chủ việc đất đai, cai quản trăm việc, việc nào cũng ngăn nắp trật tự; cất nhắc Bát Nguyên, sai truyền bá năm điều giáo hóa ra bốn phương: cha nhân nghĩa, mẹ
hiền từ, anh thân thiện, em cung kính, con hiểu thảo, trong yên bình, ngoài vô sự.
Xưa họ Đế Hồng có con bất tài, ruồng bỏ đạo nghĩa, nham hiểm hung tà, ưa làm việc ác, thiên hạ gọi là Hỗn Độn. Họ Thiếu Hạo có con bất tài, ghét bỏ trung tín, chuộng lời ác độc, thiên hạ gọi là Cùng Kỳ. Họ Chuyên Húc có con bất tài, không thể dạy dỗ, chẳng biết nói năng, thiên hạ gọi là Đào Ngột. Ba tộc này khiến người đời lo lắng. Vào thời vua Nghiêu, nhà vua chưa thể đuổi đi. Họ Tấn Vân có con bất tài, ham ăn uống, mê của nả, thiên hạ gọi là Thao Thiết. Thiên hạ đều ghét họ, ví với Tam hung. Thuần đảm nhiệm việc tiếp đón tân khách ở bốn cửa, bèn lưu đày bốn tộc hung hãn này tới bốn miền xa xôi để chế ngự những tộc người tàn ác. Thế là bốn cửa rộng mở, không còn kẻ dữ.
Thuấn vào rừng sâu, gió mưa dữ dội mà không lạc đường, vua Nghiêu thời biết Thuấn là người xứng đáng trao cho thiên hạ. Vua Nghiêu cáo lão, sai Thuấn làm thay chính sự của thiên tử, đi tuần thú. Thuấn được cất nhắc làm việc trong hai mươi năm, vua Nghiêu sai nhiếp chính, nhiếp chính tám năm thì vua Nghiêu mất. Hết tang ba năm, Thuấn nhường ngôi cho Đan Chu, nhưng thiên hạ lại theo về Thuấn. Vũ, Cao Dao, Tiết, Hậu Tắc, Bá Di, Quỳ, Long Thủy, Ích, Bành Tổ từ thời vua Nghiêu đều đã được cắt cử, nhưng chưa phân rõ chức phận. Thế rồi Thuấn bèn tới miếu Văn Tổ, bàn với Tứ nhạc, mở rộng bốn cửa, thông suốt tai mắt bốn phương, lệnh cho mười hai châu mục luận bàn đức của vua Nghiêu, rồi thi hành ơn đức, xa kẻ xiểm nịnh, man di đều thần phục. Thuấn nói với Tứ nhạc: “Có ai gắng gỏi làm việc, khiến đức nghiệp của vua Nghiêu được rạng rỡ thì cho giữ việc quan tướng?” Tứ nhạc đều đáp: “Bá Vũ làm Tư không, có thể làm rạng rỡ công tích của vua” Thuấn nói: “Ồ, đúng! Vũ, người đẹp yên nước lũ, thật gắng gỏi thay!” Vũ chắp tay dập đầu, nhường Tắc, Tiết và Cao Dao. Thuấn nói: “Vậy là đúng rồi, ngươi làm đi!” Thuấn nói: “Khí này, lê dân bắt đầu đói kém, ngươi làm quan Hậu tắc, gieo trồng bách cốc đi?” Thuấn nói: “Tiết này, trăm họ không thân, năm phẩm14 không thuận, người làm quan Từ đồ, kính cẩn thực thi năm điều
giáo hóa, phải nên khoan hậu?” Thuấn nói: “Cao Dao này, Man Di quấy rối Hoa Hạ, cướp bóc tàn sát, ngươi làm chức Sĩ15, dùng năm hình phạt theo năm cấp độ, thi hành ở ba chỗ16, dùng năm cách lưu đày theo năm cấp độ, thi hành ở ba nơi17. Xét xử rõ tội, mọi người tín nhiệm.” Thuấn nói: “Ai có thể đảm đương được việc Công (các nghề thủ công) cho ta?” Mọi người đều đáp Thùy có thể làm. Thế rồi Thuấn cho Thủy làm chức Cộng Công. Thuấn nói: “Ai có thể cai quản rừng núi đầm sông, cỏ cây muông thú cho ta?” Mọi người đều đáp ích có thể làm. Thế rồi Thuấn cho Ích làm chức Trẫm ngu. Ích chắp tay dập đầu, nhường các bề tôi là Chu Hổ, Hùng Bi. Thuấn nói: “Làm đi! Ngươi là hợp rồi?” Đoạn liền cho Chu Hổ, Hùng Bi phò tá Ích. Thuấn nói: “Hỡi Tứ nhạc! Có ai có thể chủ trì ba lễ cho trẫm?” Mọi người đều đáp Bá Di có thể làm. Thuấn nói: “Này Bá Di, cho người làm chức Trật tông, sớm hôm kính cẩn, thẳng thắn trong sạch đấy!” Bá Di nhường cho Quỳ và Long. Thuấn nói: “Được. Cho Quỳ coi về âm nhạc, dạy dỗ con em, phải ngay thẳng ôn hòa, khoan hậu nghiêm cẩn, cương trực mà không thô bạo, giản dị mà không kiêu căng. Thơ nói ý chí, hát kéo dài lời, thanh âm nương giọng, nhạc luật quận thanh, bát âm hài hòa, không cùng tranh lấn, thần người mới hòa hợp.” Quỳ nói: “Ôi! Tôi đánh đá gõ đá, trăm muông đều đến nhảy múa.” Thuấn nói: “Long, trẫm ghét bọn sàm tấu gian ngụy, kinh động mọi người, lệnh người làm chức Nạp ngôn, sớm hôm truyền lệnh của trẫm, phải thành thật đấy!” Thuấn nói: “Này! Hai mươi hai người các ngươi, phải kính lấy đấy, theo thiên thời mà hành sự?” Ba năm một lần xét công, qua ba lần xét để định thăng thưởng, phế truất, mọi việc xa gần đều hưng thịnh, đồng thời phân trị được rợ Tam Miêu ở phương Bắc.
Hai mươi hai người này đều có công trạng: Cao Dao làm Đại Lý (nằm việc Tư pháp), giữ phép công bình, dân đều phục tính chân thực. Bá Di giữ việc Lễ, trên dưới nhún nhường; Thùy làm Công sư, trăm nghề tấn tới; Ích làm Trẫm ngu, núi đầm mở rộng; Khí làm Hậu tắc, bách cốc tốt tươi; Tiết làm Tư đồ, trăm họ hòa thuận; Long giữ việc tiếp đón tân khách, người phương xa tới;
mười hai châu mục hành sự khiến chín châu không ai dám gian manh phạm pháp; riêng công của Vũ lớn nhất, Vũ xẻ chín núi, thông chín đầm, khơi chín sông, đặt chín châu, chư hầu đều đến triều cống theo chức phận, không hề mất quy củ. Đất vuông năm nghìn dặm, trải đến các vùng hoang viễn. Phía nam vỗ về rợ Giao Chỉ, Bắc Phát. Phía tây vỗ về vợ Nhung, Tích Chi, Củ Sấu, Đê Khương. Phía bắc vỗ về rợ Sơn Nhung, Phát, Tức Thận. Phía đông vỗ về rợ Trường, Điểu Di. Khắp bốn bể đều đội công ơn của Đế Thuấn. Thế rồi, Vũ bèn cho tấu nhạc Cửu Thiều, với muôn vật lạ, phượng hoàng bay tới. Đức sáng trong thiên hạ đều bắt đầu từ Ngu Thuấn vậy.
Thuấn năm hai mươi tuổi nổi tiếng có hiếu, năm ba mươi tuổi được vua Nghiêu cất nhắc, năm năm mươi tuổi làm thay chính sự của thiên tử, năm năm tám tuổi vua Nghiêu băng, năm sáu mốt tuổi thay vua Nghiêu lên ngôi đế. Ở ngôi đế ba mươi chín năm, khi tuần thú phương Nam, ngài băng ở cánh đồng Thương Ngô, táng tại núi Cửu Nghi ở phía nam sông Trường Giang, nơi đó gọi là Linh Lăng. Thuấn lên ngôi vua, chở cờ thiên tử đến chầu bố là Cổ Tẩu, kính cẩn trang nghiêm theo đúng đạo con, phong em là Tượng làm chư hầu. Con trai Thuấn là Thương Quân cũng kém cỏi, Thuấn bèn tiến cử Vũ với trời. Mười bảy năm sau thì băng. Hết tang ba năm, Vũ cũng nhường ngôi cho con trai vua Thuấn như vua Thuấn nhường cho con trai vua Nghiêu. Chư hầu đều theo Vũ. Sau đó Vũ lên ngôi thiên tử. Con trai vua Nghiêu là Đan Chu, con trai vua Thuấn là Thương Quân đều có đất phong để phụng thờ tiên tổ, họ vẫn mặc trang phục và dùng lễ nhạc của tổ tiên truyền lại, dùng lễ của tân khách để triều kiến thiên tử. Thiên tử lại không coi họ là bề tôi, để tỏ ý không dám giữ riêng ngôi vị.
Từ Hoàng Đế tới Thuấn, Vũ đều cùng họ nhưng khác quốc hiệu, để làm rạng rỡ đức sáng. Vậy nên hiệu của Hoàng Đế là Hữu Hùng, hiệu của Đế Chuyên Húc là Cao Dương, hiệu của Đế Khốc là Cao Tân, hiệu của Đế Nghiêu là Đào Đường, hiệu của Đế Thuấn là Hữu Ngu. Hiệu của là Đế Vũ là Hạ Hậu nhưng khác thị
tộc, họ Tự. Tiết là thủy tổ của nhà Thương, họ Tử. Khí là thủy tổ của nhà Chu, họ Cơ.
Thái sư công bàn rằng: Học giả phần đông xưng tán Ngũ đế, đã xa xưa lắm rồi, vậy mà Thượng Thư riêng chép từ thời Nghiêu trở lại. Còn như bách gia, tuy có nói đến Hoàng Đế, song lời văn không chuẩn xác. Sĩ phu khó có thể nói bàn. Khổng Tử truyền dạy Tể Dư Vấn Ngũ Đế Đức và Đế Hệ Tính, nay nhà Nho có khi không giảng tập. Tôi từng phía tây tới Không Đồng, phía bắc qua Trác Lộc, phía đông ra bể lớn, phía nam lướt Giang Hoài, đến đâu các trưởng lão cũng đều nói về di tích của Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, phong tục giáo hóa vốn rất khác biệt, nhưng tổng chi không sai khác với những điều chép trong cổ tịch. Tôi xem sách Xuân Thu, Quốc Ngữ, những chỗ xiển phát từ Ngũ Đế Đức và Đế Hệ Tính rất rõ ràng, chỉ vì chưa đi sâu khảo cứu, còn những gì biểu hiện ra đều không sai lạc. Sách chép thiếu khuyết từ lâu, những chỗ mất mát cũng thường thấy ở các sách khác. Phi người hiếu học nghĩ sâu, tứ bên trong, thời khó đem nói cho những kẻ kiến văn thiển cận được. Tôi gom ghi chép sắp xếp lại, lựa lời đích xác, viết thành Bản kỷ đưa vào đầu sách.
Thiếu Điển: có thuyết cho rằng Thiếu Điển là quốc hiệu chư hầu, không phải tên người, có thuyết cho rằng Thiếu Điển là tên bộ tộc, cũng có thuyết cho rằng Thiếu Điển là thủ lĩnh bộ Lạc Hữu Hùng.↩
Hùng bi tỳ hưu xu hổ: có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thuyết cho rằng đây là sáu loài mãnh thú; cũng có thuyết cho rằng đây là sáu bộ tộc có totem là các con vật kể trên; lại cũng có thuyết cho rằng, đây là tên của sáu cánh quân, đặt tên như vậy nhằm uy hiếp kẻ địch.↩
Bốn vị thủ lĩnh chư hầu.↩
Ngũ điển: năm mối nhân Luân, cha con, vua tôi, vợ chồng, anh em, bè bạn.↩
Toàn Cơ, Ngọc Hành: dụng cụ quan trắc thiên văn được làm bằng ngọc,↩
Thất chính: gọi chung mặt trời, mặt trăng và năm sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.↩
Lục tông: chỉ trời đất và bốn mùa, có thuyết cho rằng chỉ trời đất và bốn phương.↩
Ngũ thụy: năm loại ngọc gồm Hoàn Khuê, Tín Khuê, Cung Khuê, Cốc Bích và Bồ Bích dành cho năm tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam,↩
Ngũ Lễ: gồm Cát (tức tế lễ 3, Hung (tức tang lễ), Quân bái tướng, xuất sư, hiến phù…), Tân [ngoại giao), Gia (gồm các lễ thông dụng trong đời sống, chủ yếu gồm quan lễ, hôn lễ, hương, xã, yên…).↩
Tam bạch: ba(oại lụa, lụa màu đỏ, lụa màu đen và lụa màu vàng, dùng để lót ngọc khi cầm trên tay.↩
Nhị sinh, nhất tử: hai vật sống là dê con và chim nhạn, một vật chết là chim trĩ.↩
Tổ miếu, Nễ miếu: Tổ miếu là miếu thờ ông nội, Nễ miếu là miếu thờ cha.↩
Ngũ hình:năm hình phạt gồm thích chữ (Mặc), cắt mũi Tt, chặt chân (Phí), hoạn [Cung, tử hình {Đại tịch).↩
Ngũ phẩm: như Ngũ Điển, chỉ năm mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè.↩
Sĩ: chức quan nắm giữ hình ngục thời cổ.↩
Tam tựu: ba nơi xử tội hình là chợ, nhà nuôi tằm và nơi kín đáo.↩
Tam cư: ba nơi xử tội lưu đày. Tội nặng thì đày ra ở chỗ mọi rợ, tội hơi nặng thì đày ra ở chín châu, tội nhẹ thì đày ra ngoài nghìn dặm.↩
QUYỂN
2
HẠ
BẢN
KỶ
Hạ Vũ tên là Văn Mệnh. Bố của Vũ là Cổn, bố của Cổn là Đế Chuyên Húc, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, bố của Xương Ý là Hoàng Đế. Vũ là huyền tôn của Hoàng Đế, là cháu của Đế Chuyên Húc. Tằng tổ Xương Ý và bố Cổn của Vũ đều không được ngôi vua, chỉ là bề tôi.
Thời Đế Nghiêu, lũ lụt ngập trời, mênh mông nhấn nuốt núi đồi, lê dân lo sợ. Nghiêu tìm người có thể trị thủy, quần thần Tứ nhạc đều nói Cổn có thể làm. Nghiêu nói: “Cổn hay làm trái lệnh, tàn sát người trong họ, không được” Tứ nhạc đáp: “So ra thì vẫn chưa có ai giỏi hơn Cổn, vẫn mong vua thử dùng xem sao?” Thế rồi Nghiêu nghe lời Tứ nhạc, dùng Cổn trị thủy. Qua chín năm mà lũ vẫn không dứt, chẳng nên công trạng. Thế rồi Đế Nghiêu lại tìm người, liền được Thuấn. Thuấn được cất nhắc, làm thay chính sự của thiên tử, đi tuần thủ các nơi. Thấy Cổn trị thủy không có công trạng, bèn đáy Cổn tới Vũ Sơn cho đến chết. Thiên hạ đều cho rằng Thuấn trách phạt đúng. Thuấn bèn cất nhắc con của Cổn là Vũ, sai Vũ tiếp tục công việc của Cổn.
Vua Nghiêu băng, Đế Thuấn hỏi Tứ nhạc: “Có ai có thể phát huy và làm rạng rỡ được đức nghiệp của vua Nghiêu thì cho làm quan?” Mọi người đều đáp: “Bá Vũ làm chức Tư không, có thể phát huy và làm rạng rỡ công tích của vua Nghiêu” Thuấn nói: “Ô, đúng!” Rồi mệnh cho Vũ rằng: “Ngươi dẹp yên nước lũ, thật gắng gỏi” Vũ chắp tay dập đầu, nhường cho Tiết, Hậu Tắc và Cao Dao. Thuấn nói: “Ngươi đi coi việc của người được rồi!”
Hạ Vũ (Tam Tài đồ hội)
Vũ là người mẫn tiếp, cần cù, phẩm hạnh chuẩn mực, nếp nhân đáng gần, lời nói đáng tin, giọng tựa nhạc luật, thân là thước đo, cân nhắc rồi mới làm, cần mẫn trang nghiêm, là gương là mẫu.
Vũ bèn cùng Ích và Hậu Tắc vâng mệnh vua, lệnh cho chư hầu bá quan điều động nhân lực đào đất trị thủy, vượt núi cắm mốc, xác định núi cao sông cả. Vũ thương Cổn cha mình công trạng chưa thành lại bị phạt, liền lao tâm khổ tứ, ở ngoài mười ba năm, qua cửa nhà không dám vào. Áo cơm đạm bạc, hết mực kính thờ quỷ thần. Cung thất giản đơn, dốc hết chi phí cho việc trị thủy. Đường đất đi bằng xe, đường sông đi bằng thuyền, đường bùn đi bằng khiêu, đường núi đi bằng cúc, tay trái thì mang cái chuẩn, cái thừng, tay phải thì mang cái quy, cái củ1, mang suốt bốn mùa, để vạch chín châu, thông chín đường, đắp chín đầm, đo chín núi. Lại sai Ích cho dân lúa, để có thể trồng ở vùng trũng ẩm. Sai Hậu Tắc cho dân lương thực hiếm có. Lương thực thiếu thì điều động ở những nơi dư thừa để cung cấp cho nhau, cân đối lương thực giữa các nước chư hầu. Vũ còn đi xem xét địa vật các nơi để định đồ cống phú và hình thế tiện lợi của núi sông.
Vũ bắt đầu trị thủy ở Ký châu. Tại Ký châu, xong ở Hồ Khẩu thì trị đến núi Lương và núi Kỳ. Trị xong Thái Nguyên thì đến mé nam của núi Thái Nhạc. Đàm Hoài hoàn công thì trị đến sông Hành và sông Chương. Đất ở đó trắng lại mềm. Thuế phú hạng nhất, có khi xuống hạng hai, đồng ruộng hạng năm2. Sông Thường và sông Vệ đã lưu thông, chằm Đại Lục cũng đã sửa. Người Điểu di mặc áo da. Họ đi vòng qua bên phải núi Kệ Thạch để vào biển.
Đại Vũ trụ thủy tranh khắc đá thời Đông Hán
Tế Thủy, Hoàng Hà bao bọc Duyện châu. Chín sông đã khơi, Lôi Hạ thành đầm, sông Ung, sông Thu chung dòng chảy vào đầm, đất trồng dâu đã nuôi được tằm, thế là dân được xuống núi, ở trên mặt đất. Đất ở đây đen và màu mỡ, cỏ rậm cây cao. Đồng ruộng hạng sáu, thuế phú hạng chín, canh tác mười ba năm mới bằng vùng khác. Cống phẩm có sơn và tơ, vải dệt hoa văn đựng bằng sọt. Họ đi thuyền trên sông Tế, sông Tháp, rồi vào sông Hoàng Hà.
Biển và núi Đại Tông bao bọc Thanh châu. Ngu Di đã định, sông Duy và sông Truy đã lưu thông. Đất ở đây trắng và màu mỡ, bờ biển dài rộng, ruộng muối mênh mông. Đồng ruộng hạng ba, thuế phú hạng bốn. Cống phẩm là muối, vải sắn mịn, đồ biển đa dạng, cùng tơ, gai, chì, gỗ thông và các thứ đá lạ ở hang núi Đại Tông. Người Lai di làm nghề chăn nuôi. Tơ tằm đựng bằng sọt. Họ đi thuyền trên sông Vấn, thông vào sống Tế.
Biển, núi Đại Tông và sông Hoài bao bọc Từ châu. Sông Hoài và sông Nghi đã trị xong, núi Mông và núi Vũ có thể gieo trồng. Đầm Đại Dã đã chứa nước, đất Đông Nguyên đã bằng phẳng. Đất ở đây là đất sét màu đỏ, màu mỡ, cỏ cây dần rậm tốt. Đồng ruộng hạng hai, thuế phí hạng năm. Cống phẩm là đất ngũ sắc, chim trĩ trong hẻm núi Vũ Sơn, gỗ vông ở phía nam núi Dịch Sơn, khánh đá ở ven sông Tứ. Người Hoài di cống ngọc trai và cá, lụa đen the mộc đựng bằng sọt. Họ đi thuyền trên sông Hoài, sông Tử, rồi thông vào Hoàng Hà.
Sông Hoài và biển bao bọc Dương châu. Bành Lãi thành hồ, chim nhạn về ở. Ba sông (Tùng Giang, Lâu Giang, Đông Giang) chảy vào bể, vùng Trấn Trạch yên định. Tre trúc khắp nơi, cỏ mọc tươi tốt, cây cối vươn cao, đất bùn ẩm ướt. Đồng ruộng hạng chín, thuế phú hạng bảy, lần lên hạng sáu. Cống vật có vàng ba phẩm3, ngọc dao, ngọc côn, tre nhỏ, ngà voi, da thủ, lông vũ, đuôi mao ngưu. Người Đảo di mặc áo đỏ. Gấm Bối đựng bằng sọt. Bọc
quýt, bưởi dâng cống. Họ đi thuyền từ sông Trường Giang ra biển, rồi đến sông Hoài, sông Tử.
Kinh Sơn và phía nam của Hành Sơn bao bọc Kinh châu: sông Giang và sông Hán từ đây đổ về biển. Chín con sông đã chia, sông Đà, sông Sầm đã xuôi dòng. Đầm Vân Thổ, đầm Mộng chưa xong. Đất ở đây ẩm thấp và bùn lầy. Đồng ruộng hạng tám, thuế phú hạng ba. Cống phẩm có lông vũ, đuôi mao ngưu, ngà voi, da thú, vàng ba phẩm, gỗ suân, gỗ cán, gỗ quát, gỗ bách, đá mài, đá làm tên, đan sa. Ba nước tiến cộng đặc sản là tre huân lộ và gỗ cây khổ thì phải dùng cỏ thanh mao để bọc lại. Chuỗi ngọc ky và các thớt tơ lụa màu đen lẫn đỏ thì đựng bằng sọt. Vùng Cửu Giang khi có lệnh thì phải cống rùa lớn. Họ đi thuyền trên sông Giang, sông Đà, sông Sầm, sông Hán, vượt đường bộ qua sông Lạc, rồi đến Nam Hà.
Kinh Sơn, Hoàng Hà bao bọc Dự châu: các sông Y, sông Lạc, sông Triền, sông Giản đổ vào Hoàng Hà, Huỳnh Bá đã chứa nước, Hà Trạch nắn theo dòng nước chảy đến Minh Đô. Đất ở đây xốp, vùng thấp trũng thì đất rắn đen, màu mỡ. Đồng ruộng hạng bốn, thuế phú hạng hai, có khi lên tới hạng nhất. Cổng phẩm có sơn, tơ, vải sẵn mịn, vải gai. Bông mịn đựng bằng sọt. Khi có lệnh thì cống đá mài khánh. Người ta đi thuyền trên sông Lạc, rồi đến Hoàng Hà.
Phía nam của núi Hoa Sơn và sông Hắc Thủy bao bọc Lương châu: núi Vấn, núi Ba đã gieo trồng được, sông Đà, sông Sầm đã lưu thông, núi Sái, núi Mông cử hành tế Lữ4, đất Hòa Di hoàn công. Đất ở đây xanh và đen. Đồng ruộng hạng bảy, thuế phủ hạng tám, có khi lên hạng bảy hoặc xuống hạng chín. Cống phẩm có ngọc cẩu, sắt, bạc, thép, đá làm tên, khánh, gấu, beo, chồn, cáo, thảm dệt bằng lông thú. Người núi Tây Khuynh xuôi theo sông Hoàn mà tới, đi thuyền trên sông Tiềm, chuyển đường bộ qua sông Miện, vào sông Vị, rồi bắt ngang sang Hoàng Hà.
Sông Hắc Thủy và phía tây Hoàng Hà bao bọc Ung châu: sông Nhược Thủy chảy về phía tây, sông Kinh đổ vào sông Vị, sông Tất, sông Thư chảy theo, sông Phong cũng đổ cùng. Núi Kinh, núi Kỳ cử hành tế Lữ, cả từ núi Chung Nam, núi Đôn Vật đến núi Điểu Thử. Đồng bằng, thung lũng hoàn công, chữa đến chằm Chư Dã. Xứ Tam Nguy đã có dân cư, rợ Tam Miêu thảy đều trật tự. Đất ở đây vàng và xốp. Đồng ruộng hạng nhất, thuế phú hạng sáu. Cống phẩm có ngọc cầu, ngọc lâm, đã lang, đá can. Đi thuyền từ núi Tích Thạch đến núi Long Môn, Tây Hà, họp ở sông Vị. Thảm dệt bằng lông thú xuất ở Côn Lôn, Tích Chi, Cừ Sưu. Rợ Tây Nhung vào vòng trật tự.
Thông chín núi: từ núi Khiên tới núi Kỳ đến núi Kinh Sơn, qua Hoàng Hà; từ núi Hồ Khẩu, núi Lôi Thủ tới núi Thái Nhạc; từ núi Để Trụ, núi Tích Thành tới núi Vương Ốc; từ núi Thái Hàng, núi Thường Sơn tới núi Kệ Thạch, ra đến biển; từ núi Tây Khuynh, núi Chu Ngữ, núi Điểu Thử tới núi Thái Hoa; từ núi Hùng Nhĩ, núi Ngoại Phương, núi Đồng Bách tới núi Phụ Vĩ; thông núi Ba Trung cho tới núi Kinh Sơn; núi Nội Phương thông tới núi Đại Biệt; phía nam núi Vấn Sơn thông tới núi Hành Sơn; qua vùng Cửu Giang tới núi Phu Thiển Nguyên.
Khơi chín sông: từ sông Nhược Thủy tới Hợp Lê, đoạn sông còn lại đổ vào Lưu Sa; khơi sông Hắc Thủy cho tới Tam Nguy, đổ vào Nam Hải; khơi thông Hoàng Hà, từ núi Tích Thạch cho tới núi Long Môn, phía nam tới mạn bắc núi Hoa Sơn, phía đông tới núi Để Trụ, lại một nhánh đông tới Minh Tân, phía đông qua Lạc Nhuế chảy tới núi Đại Phi, phía bắc qua sông Giáng Thủy tới chằm Đại Lục, phía bắc lại chia làm chín sông, sau đó hợp lưu, gọi là Nghịch Hà, đổ ra biển. Từ núi Ba Trung khơi sông Dạng, chảy về đông thành sông Hán Thủy, lại một nhánh đồng thành sông Thượng Lãng, qua Tam Phệ, đổ về núi Đại Biệt, phía nam đổ vào Trường Giang, phía đông tích lại thành chằm Bành Lãi, lại chảy về đông thành sông Bắc Giang, đổ vào biển. Từ núi Vấn Sơn khơi Trường Giang, phía đông thành một nhánh riêng là sông Đà, lại một nhánh phía đông tới sông Lễ, qua Cửu Giang tới Đông Lăng,
phía đông uốn khúc chảy qua phía bắc dồn vào chằm Bành Lãi, phía đông thành sông Trung Giang, đổ vào biển. Khơi sông Doãn Thủy, chảy về đông thành sông Tế, đổ vào Hoàng Hà, nước tràn lên thành chằm Huỳnh, đổ về phía đông, tới mạn bắc Đào Khưu, lại một nhánh đông tới chằm Hà, lại chảy về phía đông bắc đổ vào sông Vấn, lại về phía đông bắc đổ vào biển. Khơi sông Hoài từ núi Đồng Bách, chảy về phía đông họp với sông Tứ, sông Nghi, lại chảy về đông đổ vào biển. Khơi sông Vị tử núi Điểu Thử Đồng Huyệt, chảy về phía đông họp với sông Phong, chảy về phía đông bắc tới sông Kinh, lại chảy về phía đông qua sông Tất, sông Thư, đổ vào Hoàng Hà. Khơi sông Lạc từ núi Hùng Nhĩ, chảy về phía đông bắc họp với sông Giản, sông Triền, lại chảy về phía đông họp với sông Y, lại chảy về phía đông bắc đổ vào Hoàng Hà.
Thế là chín châu đại đồng, bốn cõi an cư, chín núi tế Lữ, chín sông khơi dòng, chín chằm có đập, bốn bể lưu thông. Sáu phủ5 sửa sang, đất đai định đúng, đánh thuế thận trọng, đều chiểu theo ba hạng đất trung thu. Vua ban đất và đặt tên họ trong nước. Ngài nói rằng: “Kính giữ đức tốt trước thì không ai chống việc ta làm!”
Quy định vùng từ kinh kỳ của thiên tử trở ra ngoài năm trăm dặm gọi là Điện phục: cách kinh kỳ một trăm dặm thuế nộp toàn thân cây lúa, cách hai trăm dặm nộp bông lúa, ba trăm dặm nộp thân bông lúa bỏ bì, bốn trăm dặm nộp thóc, năm trăm dặm nộp gạo. Ngoài vùng Điện phục năm trăm dặm là vùng Hầu phục: cách một trăm dặm là đất thái ấp, hai trăm dặm là đất nhậm quốc6, ba trăm dặm là đất chư hầu. Ngoài vùng Hầu phục năm trăm dặm là vùng Tuy phục: cách ba trăm dặm truyền bá văn chương giáo hóa, hai trăm dặm chấn chỉnh võ bị. Ngoài vùng Tuy phục năm trăm dặm là vùng Yêu phục: cách ba trăm dặm là nơi dân di ở, hai trăm dặm là nơi tù đày. Ngoài vùng Yêu phục năm trăm dặm là vùng Hoang phục: cách ba trăm dặm là nơi dân man ở, hai trăm dặm là nơi lưu đày kẻ trọng tội.
Đông vươn đến biển, Tây chạm Lưu Sa, Bắc Nam trải dài, thanh giáo trùm khắp bốn bể. Bấy giờ đế Thuấn ban cho Vũ ngọc khuê màu huyền, bá cáo thành công với thiên hạ. Thiên hạ thái bình thịnh trị.
Cao Dao làm chức Sĩ để quản dân. Đế Thuấn vào triều, Vũ, Bá Di, Cao Dao bàn luận trước mặt vua. Cao Dao trình bày sách lược nói: “Chân thành thi hành đức chính thì kế sách sáng rõ, bá quan thuận hòa.” Vũ nói: “Đúng rồi, vậy làm thế nào?” Cao Dao nói: “Ôi! Sửa mình cẩn mực, suy nghĩ lâu dài, chín họ hòa mục, hiền tài giúp rập. Từ gần tới xa, thảy đều ở đó.” Vũ lạy khen lời hay, nói: “Đúng quá!” Cao Dao nói: “Ôi! Còn ở chỗ biết người và vỗ yên lòng dân nữa.” Vũ nói: “Chà! Đều được như vậy thì đến Đế Nghiêu cũng thấy khó vậy. Biết người là trí, có thể cho người ra làm quan; vỗ yên lòng dân là ơn, lê dân ắt yêu kính. Có thể biết người, có thể ban ơn thì lo gì Hoan Đâu, cần gì phải di dời Tam Miêu, sợ gì những kẻ xảo ngôn xiểm nịnh?” Cao Dao nói: “Đúng rồi! Ôi! Hành sự có chín đức, lời nói cũng có đức.” Đoạn liền nói rằng: “Đầu tiên phải xem cách hành xử, rộng lượng mà nghiêm túc, mềm dẻo mà quyết đoán, thành khẩn mà khiêm cung, giỏi giang mà kính cẩn, hòa thuận mà cương nghị, thẳng thắn mà ôn tồn, giản dị mà liêm khiết, cứng rắn mà chân thực, rắn rỏi mà nhân nghĩa, có thể tỏ rõ phẩm đức thì thật tốt đẹp! Ngày nêu ba đức, sớm tối gắng gỏi, thì có thể làm chức khanh, đại phu. Hằng ngày nghiêm cẩn thi hành sáu đức, xử sự chân thành, thì có thể làm được chư hầu. Gồm đủ chín đức, ban khắp thiên hạ, trọng dụng hiền tài, trăm quan nghiêm cẩn, chớ dùng bọn tà dâm mưu mẹo. Để người không xứng đáng giữ chức quan, ấy tức là làm loạn việc trời. Trời phạt kẻ có tội, dùng năm hình phạt mà trị. Lời tôi nói liệu thi hành được không?” Vũ nói: “Ông nói chí lý, có thể thi hành thành công.” Cao Dao nói: “Tôi không có kiến văn, chỉ là nghĩ giúp rập thế nào cho đạo trị nước thôi.”
Đế Thuấn bảo Vũ rằng: “Ngươi cũng nói lời hay xem?” Vũ lạy rồi thưa: “Ôi! Thần biết nói gì đây! Thần chỉ nghĩ hằng ngày phải chăm chỉ.” Cao Dao hỏi Vũ: “Thế nào là chăm chỉ?” Vũ nói:
“Nước lũ ngập trời, mênh mông nhân nuốt núi đồi, hạ dân khốn khổ vì lũ. Tôi thì đường đất đi bằng xe, đường sống đi bằng thuyền, đường bùn đi bằng khiêu, đường núi đi bằng cúc, lên núi cắm mốc, cùng Bá Ích phát cho dân chúng thóc gạo thịt thà, khơi chín sông đổ ra bốn bể, thông mương rãnh chảy ra sông ngòi, cùng Hậu Tắc phát cho dân chúng đồ ăn khan hiếm. Lương thực ít thì điều động chỗ dư thừa bổ sung cho nơi thiếu thốn, hoặc cho di dời chỗ ở, Dân chúng được yên định, muôn nước được trị bình.” Cao Dạo nói: “Đúng quá! Thế là đẹp rồi!”
Vũ nói: “Ôi! Đế Thuấn! Người ở ngôi thận trọng, giữ yên chức phận, dùng người có đức phò tá, thiên hạ sẽ ưng thuận. Dùng tâm ý thuần khiết để vâng chịu và làm sáng tỏ mệnh của thượng đế, thì trời sẽ trọng dụng và ban phúc lành.” Đế Thuấn nói: “Chà, bề tôi ơi bề tôi! Bề tôi là tai mắt chân tay của ta. Ta muốn xung quanh có người quản dân, các ngươi hãy giúp rập! Ta muốn xem hình vẽ của cổ nhân, đem nhật nguyệt tinh tú làm hoa văn thêu lên sắc phục, các ngươi hãy khảo rõ! Ta muốn nghe lục luật, ngũ thanh, bát âm, để xem chính sự liệu có lợi là, truyền bá hoặc thu nạp những lời bàn về năm loại đúc, các ngươi hãy nghe ngóng! Ta có sai lầm, ngươi chỉnh đốn giúp ta. Ngươi chớ có trước mặt thì nịnh bợ, lui về thì phỉ báng ta. Phải kính trong bốn vị đại thần phò tá. Đám sủng thần nói láo, một khi đạo quân vương thực sự thi hành là quét sạch.” Vũ nói: “Đúng rồi ạ! Nếu đức vua không làm như vậy, đánh đồng thiện ác thì chẳng có công quả.”
Đế Thuấn nói: “Chớ ngạo mạn như Đan Chu, chỉ thích chơi bời biếng nhác, du thuyền nước cạn, dâm loạn trong nhà, tuyệt cả nòi giống. Ta không chấp nhận kiểu ấy được.” Vũ nói: “Thần lấy vợ họ Đồ Sơn, mới được bốn ngày Tân, Nhâm, Quý, Giáp (thì phải đi). Từ khi sinh cháu Khải, thần chưa hề nuôi nấng, nhưng vì vậy mà hoàn thành được công việc trị thủy, đặt ra Ngũ phục đến năm nghìn dặm, mỗi châu mười hai sư, ngoài chạm tới bốn biển, mỗi phương đặt năm trưởng, các đạo đều có công. Rợ Miêu ngoan cố, khuất phục không thành, đức vua nên lưu ý” Đế Thuấn nói: “Đức chính của ta được ban bố là nhờ công người khéo thu xếp vậy?”
Cao Dao bấy giờ tôn kính đức của Vũ, lệnh cho dân thảy noi gương Vũ, không nghe lời thì dùng hình phạt bắt theo. Đức của vua Thuấn rạng tỏ.
Bấy giờ Quỳ làm nhạc, tổ tiên giáng về, các vua chư hầu nhún nhường, chim muông bay múa, khúc Tiêu Thiều tấu chín lần, phượng hoàng về chầu, trăm thú nhảy nhót, thăm quan thuận hòa. Để Thuấn nhân đó làm bài ca: “Kính vâng mệnh trời, thuận thời cẩn trọng”, bèn hát rằng: “Đại thần vui mừng! Đế vương phấn khởi! Bách công tươi sáng!” Cao Dao chắp tay dập đầu dâng lời rằng: “Xin nhớ! Gương mẫu chấn hưng, thận trọng pháp độ. Kinh thay!” Đoạn bèn hát: “Đế vương anh minh, đại thần hiền lương, mọi việc an khang. Lại hát: “Đế vương chấp nhặt, đại thần lười nhác, mọi việc hỏng hết.” Đế Thuấn lạy tạ nói: “Đúng vậy! Hãy kính cẩn!” Thế là thiên hạ đều tôn kính Vũ đã làm sáng rõ pháp độ nhạc luật, đáng làm chủ cả sông núi cùng bách thần.
Đế Thuấn tiến cử Vũ với trời, để làm người kế vị. Mười bảy năm sau, Đế Thuấn băng. Hết tang ba năm, Vũ nhường ngôi cho con của Đế Thuấn là Thương Quân, ra ở Dương Thành. Chư hầu trong thiên hạ đều rời Thương Quân mà tới chầu Vũ. Bấy giờ Vũ bèn lên ngôi thiên tử, ngoảnh mặt về phía nam nhận thiên hạ đến chầu, đặt quốc hiệu gọi là Hạ Hậu, lấy họ Tự.
Đế Vũ lên ngôi liên tiến cử Cao Dao, giao phó chính sự, nhưng Cao Dao chết. Phong cho hậu duệ Cao Dao ở đất Anh, đất Lục, hoặc ở đất Hứa, sau đó tiến cử Ích với trời, cho xử lý chính sự.
Mười năm sau, Đế Vũ đi tuần hướng đông, đến Cối Kê thì băng, trao thiên hạ cho Ích. Hết tang ba năm, Ích nhường ngôi cho con của Đế Vũ là Khải, lánh ra ở phía nam Kỳ Sơn. Khải, con Vũ, là người hiền, thiên hạ quy thuận. Kịp khi Vũ băng, tuy trao ngôi cho Ích, nhưng Ích phò tá Vũ ít ngày, thiên hạ chưa hòa hợp. Vậy nên chư hầu đều rời Ích mà sang chầu Khải, nói rằng: “Vua ta là con của Đế Vũ vậy”. Bấy giờ Khải liền lên ngôi thiên tử, đây là Đế Khải nhà Hạ Hậu.
"""