"Sự Hưng Thịnh Và Suy Tàn Của Athens - Plutarch full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Hưng Thịnh Và Suy Tàn Của Athens - Plutarch full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo Thông tin Staff: – PDF: @Nhân Tình – Soát thô: @huybinh_89, @Ngáo Ngơ Ngơ, @tiendungtmv, @kerry_13, @Bọ Cạp, @tiendungtmv, @songuyento – Soát tổng lần 1: @tiendungtmv – Soát tổng lần 2 và đóng gói: @tna SỰ HƯNG THỊNH VÀ SUY TÀN CỦA ATHENS Tác giả: Plutarch Tác phẩm thuộc về công chúng Bản quyền Bản dịch tiếng Việt © Công ty Cổ phần Sách Omega Việt Nam, 2019 Dịch từ bản dịch tiếng Anh của Ian Scott-Kilvert. Công ty Cổ phần Sách Omega Việt Nam xuất bản, bìa mềm áo ôm, 2019 Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Plutarch Sự hưng thịnh và suy tàn của Athens / Plutarch; Bùi Thanh Châu dịch. -H.: Thế Giới; Công ty Sách Omega Việt Nam, 2019. - 416tr: minh họa; 24cm Tên sách tiếng Anh: The Rise and Fall of Athens ISBN: 9786047754885 1. Lịch sử cổ đại 2. Nhân vật lịch sử 3. Hy Lạp 938.0099 - dc23 TGF0266p-CIP VỀ PLUTARCH VÀ IAN SCOTT-KILVERT PLUTARCH là một trong những sử gia kinh điển cuối cùng của Hy Lạp. Ông sinh vào khoảng năm 46 tại Chaeronea ở Boeotia,1 sau này ông mở một ngôi trường ở đây, và vào tuổi trung niên ông trở thành tu sĩ tại Đền Delphi gần đó.2 Khi Nero tới thăm Hy Lạp vào năm 66, Plutarch đang theo học tại Athens. Ông trở thành một triết gia, một người có thể thuyết giảng và thảo luận về nhiều đề tài uyên bác, viết một số lượng lớn tiểu luận và đối thoại về các chủ đề triết học, khoa học và văn chương (Moralia3 (Đạo đức luận)). Ông theo lập trường triết học của một môn đồ Plato,4 và thường xuyên công kích cả hai trường phái Stoic5 và Epicurus.6 Ông viết các tác phẩm lịch sử của mình có phần hơi muộn trong đời, và cuốn Parallel Lives (Những cuộc đời song hành) viết về các danh nhân Hy Lạp và La Mã có lẽ là tác phẩm nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của ông (bản dịch của Thomas North đã được Shakespeare lấy làm nguồn cảm hứng cho những vở kịch La Mã của mình). Plutarch từng du lịch đến Ai Cập và La Mã, nơi đây ông kết giao với nhiều bằng hữu lỗi lạc. Để tôn vinh ông, Hoàng đế Hadrian đã ban cho ông một chức vụ trong chính quyền ở Hy Lạp, thế nhưng ông vẫn gắn bó mật thiết với quê hương Chaeronea của mình. Thời điểm ông qua đời có lẽ là năm 120. IAN SCOTT-KILVERT là Giám đốc Văn học Anh tại Hội đồng Anh và là Biên tập viên của Writers and their Works (Tác giả và tác phẩm). Ông cũng đã dịch Makers of Rome: Nine Lives (Chín người làm nên Rome) và The Age of Alexander (Thời đại Alexander) của Plutarch và The Roman History (Lịch sử La Mã) của Cassius Dio cho tủ sách Classics của Nhà xuất bản Penguin. Ông qua đời năm 1989. 1. Lưu ý: Chú thích ghi (ND) là của người dịch. Bản tiếng Việt được dịch từ bản tiếng Anh của Ian Scott-Kilvert và toàn bộ các chú thích ghi (I.S.-K) là của ông. Các chú thích còn lại đều của người biên tập. Tên các tác phẩm trong cuốn sách đều giữ nguyên tên tiếng Anh, kèm theo tên tạm dịch để trong ngoặc. 2. Một thị trấn ở miền trung Hy Lạp, có đền thờ Apollo, và là nơi đặt hòn đá được coi là trung tâm của vũ trụ. 3. Một tuyển tập gồm 78 bài luận và bài nói chuyện được ghi lại. 4. (Khoảng 427-347 TCN), triết gia Hy Lạp cổ đại. 5. Trường phái khắc kỷ, do triết gia Hy Lạp cổ đại Zeno (334-262 TCN) sáng lập vào thế kỷ 3 TCN. 6. (341-270 TCN), triết gia Hy Lạp cổ đại, sáng lập trường phái khoái lạc. LỜI GIỚI THIỆU NGÀI THOMAS NORTH đã đặt nhan đề cho bản dịch lừng danh tác phẩm của Plutarch là The Lives of The Noble Grecians and Romans7 (Cuộc đời của những người La Mã và Hy Lạp cao quý). Noble (cao quý) là từ được ông bổ sung thêm vào, nhưng đó là một tính ngữ đặc biệt đắc địa, vì nó góp phần nêu bật những phẩm chất khiến Plutarch khác biệt với các sử gia Hy Lạp thời kỳ hoàng kim. Nó gợi cho chúng ta về khoảng cách giữa tác giả với các chủ đề của mình và phong vị anh hùng toát ra xung quanh chúng trong thời gian đó. Như vẫn vậy, Plutarch là một tác giả hướng vọng quá vãng đứng trên miền cuối cùng phân chia nền văn minh ngoại giáo với Ki-tô giáo. Ở ông không có tính độc đáo gây sửng sốt và phẩm chất phi cá tính của văn phong Pericles,8 giống như văn phong của Pericles một mặt thiếu sự thân tình, mặt khác thiếu chiều sâu của sự khoan dung và lòng bác ái với người khác như của Plutarch. Ông không phải là Thucydides,9 người vận dụng quyết liệt phép phân tích khách quan để khám phá tiến trình lịch sử. Ông là một người yêu truyền thống, mục tiêu hàng đầu của ông là nuôi dưỡng và hiểu thấu sự vĩ đại của quá khứ và tái khẳng định nó như một lý tưởng sống động. Quãng đời khoảng 75 năm của Plutarch trải dài từ giữa những năm 40 đến khi bắt đầu triều đại Hadrian. Đó là thời kỳ mà sự hòa trộn giữa văn hóa Hy Lạp và La Mã lên tới đỉnh cao phát triển của nó: gần như tất cả các tác giả lớn đã làm xong phần việc của mình, và tác phẩm của Plutarch trên nhiều phương diện là một sự tổng kết của nền văn hóa đó. Ông xuất thân từ một gia đình Thebes10 cổ xưa và ông chưa bao giờ thoát ly quá xa quê nhà Chaeronea, một thành phố nhỏ nằm giữa vùng đồng bằng Boeotia bao la mà người Hy Lạp gọi là “sàn khiêu vũ của Ares,”11 nơi từng chứng kiến những trận đánh quyết định như Haliartus, Leuctra, Chaeronea, và nhiều nữa. Nói vậy không có nghĩa là nhãn quan của ông mang tính tỉnh lẻ theo một nghĩa hạn hẹp nào đó. Ông nghiên cứu triết học ở Athens hồi còn thanh niên, chu du khắp Hy Lạp và Ai Cập, nổi tiếng với tư cách là một học giả và nhà ngoại giao ở Rome, kết giao với nhiều bạn bè quyền thế trong quá trình đó, và thậm chí có thể đã từng được phong chức chấp chính quan danh dự. Bản thân Plutarch đã cần mẫn thực hiện lý tưởng về thành bang, rằng người có học nên góp phần mình vào đời sống xã hội; ông đã lần lượt giữ các cương vị quan tòa tại Chaeronea và tu sĩ tại Delphi. Tất nhiên, theo ý nghĩa chính trị nào đó, Hy Lạp đã đánh mất những dấu tích cuối cùng về nền độc lập của mình với cuộc xâm chiếm Corinth12 hai thế kỷ trước. Trong thời gian đó, chẳng những dân số của nó đã bị teo đi, mà sự giàu có cùng các phần thưởng vật chất khác của Ý và Á châu đã thu hút nhiều chiến binh, nhà quản lý, và học giả có năng lực nhất tới nhập cư, bởi vậy mà trong thời ông, theo ước tính của Plutarch, Hy Lạp chỉ có thể vừa vặn đưa 3.000 quân có vũ trang ra mặt trận. Trên bình diện thực tiễn trực tiếp, chẳng người Hy Lạp nào có thể làm gì để thay đổi hiện trạng này, song thay vì chỉ là một tình cảm hoài cổ đơn thuần, nó đã ảnh hưởng đến Plutarch khiến ông quyết gìn giữ tinh thần dân tộc Hy Lạp vẹn nguyên đến mức có thể dấn thân, chẳng hạn, vào sự nghiệp của một công chức đế chế. Với giới thống trị ngày đó, học vấn La Mã và Hy Lạp đã trở nên hòa quyện không thể tách, và ở đế chế La Mã lúc bấy giờ vốn đang bắt đầu tận hưởng những lợi ích của một chính quyền ổn định và vẫn chưa có được vị thế của một trung tâm đạo đức và tri thức, thì một vị thầy tầm cỡ như Plutarch vẫn có thể hy vọng làm lợi cho đồng bào mình bằng niềm cảm hứng và tấm gương. Hình thức các trước tác của Plutarch gợi ý rằng tài năng của ông nằm ở mảng tiểu luận hơn là lịch sử trường thiên. Ngoài những tập tiểu sử thì tác phẩm quan trọng khác của ông, Moralia, là một tập hợp những chuyên luận và đối thoại tương đối ngắn bao trùm một phạm vi rộng lớn các chủ đề về văn chương, đạo đức, chính trị, và khoa học. Có một sự tương hợp rõ rệt giữa hai tác phẩm, Moralia tán dương tư tưởng của quá khứ còn Lives ngợi ca hành động của nó, và hai tác phẩm này soi rọi lẫn nhau rất nhiều. Plutarch chưa bao giờ thử viết một tác phẩm với quy mô đồ sộ, và các chủ đề của ông không được triển khai một cách tự nhiên mà như một chuỗi các phát biểu dựa trên sự kiện có thật được tiếp nối bởi những bình luận. Cả trong Moralia và Lives, khách thể chính của ông là mô phạm. Khi chuyển sang lĩnh vực lịch sử, quyết tâm của ông không chỉ là thuyết phục người Hy Lạp rằng biên niên sử của Rome đáng được họ chú ý, mà còn để nhắc nhở người La Mã rằng Hy Lạp có những chiến binh và chính khách có thể sánh ngang được với họ. Ông chỉ viết về những con người hành động, và ông giải thích trong phần mở đầu Life of Pericles (Cuộc đời Pericles) lý do ông chọn họ thay vì các họa sĩ hay triết gia. Có lẽ vì tin tưởng chắc chắn rằng hai chủng tộc sẽ đúc rút được lợi ích tương hỗ từ truyền thống của nhau, nên ông đã đặt tên cho loạt bài viết ấy là Parallel Lives và nhóm các danh nhân Hy Lạp và La Mã thành từng cặp. Theo một nghĩa nào đó, ông thích coi lịch sử Hy Lạp và La Mã như là sự bổ sung lẫn nhau, và cách sắp xếp chất liệu kiểu này cho phép ông tổng kết phẩm chất đạo đức của các vị anh hùng cũng như đánh giá thành tựu của họ trong tiểu luận đối chiếu chuẩn mực được ông dùng để khép lại hầu hết các cặp trong Lives. Nhưng những nét tương đồng này thường mang tính ngẫu nhiên hơn là xác thực, và thực tế Plutarch không đeo đuổi điều đó được đến đầu đến đũa; quả thực ông không thể thực hiện điều đó mà không làm méo mó nghiêm trọng chất liệu của mình. Trình tự bố cục của Lives vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi, nhưng có những biểu hiện cho thấy chúng đã được chia thành bốn nhóm riêng biệt. Một nhóm viết về tiểu sử của Sertorius và Eumenes, Cimon và Lucullus, Lysander và Sulla, Demosthenes và Cicero, Agis và Cleomenes và Tiberius và Caius Gracchus, Pelopidas và Marcellus, Phocion và Cato Trẻ, Aristides13 và Cato Già. Plutarch cho biết, chuỗi nhân vật này được ông thực hiện theo yêu cầu của bạn bè mình, và có thể nó còn bao gồm cả tiểu sử bị thất lạc của Epaminondas, nhân vật ưa thích của Plutarch, ghép đôi với Scipio Africanus. Nhóm thứ hai được biên soạn để toại nguyện cho chính ông, nó bao gồm những con người vĩ đại được chọn làm biểu tượng minh họa cho một đức tính cụ thể người thực việc thực: Pericles và Fabius Maximus, Nicias và Crassus, Dion và Brutus, Timoleon và Aemilius Paulus, Philopoemen và Titus Flaminius, Themistocles và Camillus, Alexander và Julius Caesar, Agis và Pompey, Pyrrhus và Marius và Solon và Publicola. Nhóm thứ ba chọn ra những người mà sự nghiệp có tác dụng như một lời cảnh tỉnh. Nó bao gồm Demetrius và Mark Antony và Alcibiades và Coriolanus, và ở đây, nghịch lý thay, Plutarch đã tạo nên ba bức chân dung lộng lẫy nhất của mình từ góc độ văn chương. Sau cùng, ông chuyển sang đề tài bán thần thoại, viết về những tổ phụ lập quốc và nhà lập pháp của Hy Lạp và La Mã, Theseus và Romulus, Lycurgus và Numa. Tuyển tập hiện thời [Sự hưng thịnh và suy tàn của Athens] được thực hiện theo cùng nguyên tắc như cuốn Lives (nội dung về La Mã, bản dịch của Rex Warner).14 Thay vì lặp lại cách sắp xếp các danh nhân Hy Lạp và La Mã theo từng cặp của Plutarch, tôi đã nhóm chín danh nhân trong Lives theo niên đại để lần về một trong những thời kỳ quyết định của lịch sử Hy Lạp, ở trường hợp này là câu chuyện về Athens từ thời đại huyền thoại của Theseus cho đến khi kết thúc Chiến tranh Peloponnese.15 Đọc Lives theo trình tự này có ưu điểm, trong số những ưu điểm khác, là nêu bật tài năng của Plutarch như một sử gia xã hội. Sự thích thú của ông với giai thoại và khí chất cá nhân, sự đồng cảm của ông với người bình dân, và sự sẵn lòng của ông khi giới thiệu những nhân vật thứ yếu làm nền cho các vị anh hùng, đã dệt nên một tấm thảm nhân văn lộng lẫy mà trên đó những sự kiện vĩ đại của các cuộc Chiến tranh Ba Tư và thời đại Pericles được trải ra. Vào thời Plutarch, đã tồn tại một dạng tiểu sử theo lối quy ước. Nó bắt đầu với một mô tả về sự ra đời, gia thế, và học vấn của chủ thể, tiến tới phác họa tính cách và tường thuật chi tiết những sự kiện quan trọng và tiêu biểu nhất trong sự nghiệp, và chốt lại với một mô tả về hậu duệ và ảnh hưởng của nhân vật đó. Tác phẩm của Plutarch theo sát cơ cấu tổ chức tư liệu kiểu này, nhưng ông vận dụng nó với kỹ năng và sự phong phú vượt xa các bậc tiền bối. Ông giải phóng Lives của mình khỏi tính chất hoa mỹ và hay lý lẽ của thể loại tiểu sử Hy Lạp và tán dương nhạt nhẽo kiểu laudatio (tán tụng) của La Mã; trên tất cả, ông phả vào chúng sức hấp dẫn trong cá tính của ông và sự thấu triệt sâu xa nơi ông về bản chất con người. Ông là một nhà sưu tập tư liệu tận tâm, và ông dựa, nhất là trong Lives [nội dung về Hy Lạp], vào rất nhiều nguồn căn cứ, mặc dù rõ ràng chúng có giá trị không đồng đều, vì ông giỏi thu thập hơn là sàng lọc chúng. Nhưng ông cho rằng nhiệm vụ xử lý những tư liệu mà về đại thể đã quen thuộc với độc giả ở đây, không phải là đánh giá các dữ liệu mà là tạo nên một bức chân dung truyền cảm. Và vì thế, như một họa sĩ vẽ chân dung, chúng ta thấy ông lựa chọn một tư thế đặc trưng song có lẽ đã được lý tưởng hóa cho những chủ thể của mình. Ông là một bậc thầy vĩ đại về ben trovato (hư cấu hợp lý), và lời bình của ông trong câu chuyện về Solon và Croesus16 lý giải cho thủ pháp mà ông luôn nhất quán tuân thủ: Khi một câu chuyện đã quá nổi tiếng và được quá nhiều nhà chức trách xác nhận, và quan trọng hơn, khi nó rất khớp với tính cách của Solon và mang dấu ấn của đầu óc khôn ngoan và vĩ đại nơi ông, tôi không thể đồng ý rằng nó nên bị bác bỏ vì cái gọi là những quy tắc niên đại… Phần kết luận của Life of Themistocles (Cuộc đời Themistocles) là một ví dụ khác ở đây. Hiếm khi Plutarch lại đem đến những màu sắc với hiệu ứng như thế và ít dựa vào cứ liệu lịch sử đến thế. Ông cảm thấy tầm vóc của vị anh hùng đòi hỏi một bản mô tả tỉ mỉ về việc Vua Ba Tư tiếp đón ông ta như thế nào; và cuối cùng khi mô tả vụ tự sát bằng độc dược nhằm tránh làm hoen ố vinh quang của những chiến thắng đã qua của ông ta, ông đã chủ ý bác bỏ phiên bản của Thucydides vốn vẫn cho rằng Themistocles chết một cái chết tự nhiên. Mặt khác, nếu không có Plutarch chúng ta gần như sẽ chẳng biết gì về con người của Cimon, người mà nếu chỉ xét đến kết quả, ắt phải được liệt vào hàng những chiến binh và chính khách vĩ đại nhất Athens. Câu chuyện về Athens trong thời kỳ này là sự pha trộn giữa vinh quang và bi kịch mà không cần giới thiệu thêm, và sự nghiệp của Theseus, con người trẻ tuổi từng giết tên khổng lồ và không chịu trưởng thành sau khi lên đến đỉnh cao quyền lực, cung cấp một tiết mục mở màn mà cũng chỉ là lời tiên liệu cho những gì tiếp theo. Plutarch phê phán các biến cố này, và sự sụp đổ các giá trị tự do Hy Lạp như là hệ quả của nó, trong một đoạn văn đáng nhớ trích từ Life of Flamininus (Cuộc đời Flamininus): Vì nếu chúng ta không kể đến chiến thắng Marathon, trận thủy chiến Salamis, các trận Plataea và Thermopylae và những chiến công của Cimon tại Eurymedon… Hy Lạp đã chiến đấu mọi trận chiến chống lại [sự nô dịch] và lại tự nô dịch chính mình. Nó dựng lên tất cả các đài tưởng niệm về nỗi ô nhục và bất hạnh của mình và hầu như mọi tội lỗi cùng tham vọng ở những con người vĩ đại của nó đã đưa nó tới cảnh đổ nát suy vong. Tuy nhiên, điều thật sự thu hút sự chú ý của Plutarch không phải là chu kỳ lịch sử, và thói quen nhìn mọi biến cố từ góc độ cá nhân vừa là điểm yếu vừa là điểm mạnh ở ông. Mục đích của ông là làm nổi bật kiểu mẫu đạo đức trong sự nghiệp của nhân vật, quá trình đi từ phẩm hạnh tới đồi bại (Theseus) hay trái lại (Cimon), vì ông tin rằng một người không thể bất biến về đức hạnh, và rằng nếu anh ta không tiến tới ắt sẽ thoái lui. Ông đưa vào lịch sử niềm xác tín của một môn đồ Plato rằng tri thức là đức hạnh, và rằng nhân quả chỉ vận hành trong lãnh địa Tư tưởng: vì vậy ông có khuynh hướng mô tả đường lối của các chính khách đơn giản từ góc độ nhân phẩm của họ, và thẩm định hạnh kiểm chốn quan trường theo những tiêu chuẩn đạo đức của đời sống cá nhân. Ông quên rằng một chính khách rất thường hay phải đối mặt với một sự xung đột giữa những lợi ích đối nghịch hơn là một lựa chọn thẳng tưng giữa đúng và sai, và ông dường như coi quá khứ là một thế giới hoàn toàn tách biệt, thay vì như một thể liên tục hòa lẫn hiện tại và tương lai tinh tế đến không thể nhận ra. Mặt khác, chính sự quan tâm vô hạn đến tính cách cá nhân này đã khiến Lives mãi mãi được yêu chuộng từ đời này qua đời khác. Plutarch có một cảm thức chính xác về kịch tính của con người trong những trạng huống vĩ đại. Con mắt của ông soi rọi một phạm vi hành động của con người rộng lớn hơn bất kỳ sử gia cổ điển nào. Ông nghiên cứu hành xử của con người trong chiến tranh, trong hội đồng, trong tình yêu, trong cách sử dụng tiền bạc - luôn là một phép thử tối cao về năng lực của một người theo nhãn quan Hy Lạp - trong tôn giáo, trong gia đình, và ông có cách đánh giá của một người khoan hòa và dày dạn kinh nghiệm. Tin tưởng tuyệt đối vào tầm vóc của các nhân vật của mình, ông có tài làm nổi bật sự vĩ đại qua các hành động nhỏ. Chúng ta nhớ đến việc Alexander trao mẩu giấy cho vị bác sĩ của mình vạch mặt hắn là kẻ mưu sát, và trong cùng cử chỉ uống cạn chén thuốc người này đã chuẩn bị cho ông, hoặc về việc Aristides viết tên mình để giúp một đồng hương Athens mù chữ tẩy chay ông: những cảnh huống này cùng vô số cảnh huống khác đã được Plutarch khắc sâu vào tâm khảm của muôn đời hậu thế. Chắc chắn chính năng lực thâu tóm sự vĩ đại về đạo đức của thế giới cổ đại này của Plutarch là điều đã lôi cuốn Shakespeare và Montaigne mạnh mẽ nhất, và đã gợi cảm hứng cho các phác họa lớn lao về những anh hùng tiêu biểu thời Phục hưng như Coriolanus và Mark Antony, mà về sau đã khiến cho bà Roland nhận xét rằng Lives là cánh đồng ngao du của những tâm hồn vĩ đại. * Plutarch không phải là một tác giả với bút pháp mà các sinh viên Hy Lạp được khích lệ lấy làm hình mẫu. Ông có thể kể một câu chuyện với hiệu ứng tuyệt vời - hãy xem ông kể về các trận đánh Salamis và Plataea, và về công cuộc kiến thiết Athens thời Pericles. Ông tỏ ra độc đáo nhất, cả trong tư tưởng và ngôn từ, khi bắt tay phân tích các tính cách, động cơ hay tâm trạng. Nhưng nói chung cấu trúc các câu của ông quá lỏng lẻo và lòng vòng, khó chuyển thể bám sát sang tiếng Anh, và người dịch luôn phải rút ngắn và nắn lại câu từ nếu muốn câu chuyện được trôi chảy mượt mà. Dịch mới hẳn nhiên sẽ là quá trễ rồi, và quan tâm chính của tôi ở đây là vận dụng những nguồn thành ngữ hiện đại vào việc diễn đạt tư tưởng của Plutarch một cách chính xác nhất có thể. Tuy nhiên, có một vẻ trang trọng cố ý trong cách chọn từ của ông thường khiến người dịch phải tiết chế để không bị suồng sã thái quá. Ở chỗ nào ngẫm thấy có vẻ chính xác, tôi đã không ngần ngại vay mượn lối diễn đạt của Langhorne, Clough, hoặc những dịch giả khác. Sau cùng, tôi muốn tỏ lòng tri ân nồng nhiệt đến Tiến sĩ G. T. Griffith ở Đại học Gonville and Caius, Cambridge, đã đưa ra nhiều phê bình hữu ích cho bản dịch và những chú giải cùng lời gợi ý quý báu có tính xây dựng. I.S.-K. 7. Từ đây gọi tắt là Lives hay Parallel Lives, tạm dịch là Những cuộc đời song hành. 8. Còn gọi là Perikles (khoảng 495-429 TCN), nhà chính trị, nhà hùng biện, vị tướng tài ba của Athens, sẽ được Plutarch viết riêng ở Chương 6. 9. (460-395 TCN), sử gia Hy Lạp. 10. Thành phố của Boeotia, miền trung Hy Lạp. 11. Thần chiến tranh trong thần thoại Hy Lạp. 12. Thành phố Hy Lạp cổ đại, cũng là tên gọi của nghệ thuật kiến trúc cột đương thời. 13. (530-468 TCN), chính khách Athens cổ đại, sẽ được Plutarch viết riêng ở Ch. 4. 14. Fall of the Roman Republic, Penguin Books, 1958. (I.S.-K) 15. Còn gọi là Peloponnesus, một bán đảo thuộc miền Nam Hy Lạp. 16. (Khoảng 595-546 TCN), còn gọi là Kroisos, Vua của Lydia. 1 THESEUS ANH biết không, Sosius Senecio,17 các nhà địa lý, khi đối mặt với những vùng xa xôi cách trở của Trái đất mà họ không biết chút gì, thường trú chi chít bên lề bản đồ của họ, “Xa hơn nơi đây là sa mạc hoang liêu, cằn khô đầy dã thú,” hoặc “những đầm lầy không lối đi,” hoặc “Scythia tuyết phủ,” hoặc “đại dương băng giá.” Tương tự, giờ đây khi viết Parallel Lives, tôi đã đi qua hết những thời kỳ mà ở đó các lý thuyết có thể được kiểm chứng bằng lý lẽ, hay những nơi mà lịch sử có thể lưu lại một căn cứ khả tín trên thực tế, tôi rất có thể noi gương họ để nói về những thời đại xa xôi hơn rằng, “Nằm bên kia ranh giới này là những điều kỳ diệu và hoang đường, lãnh địa của các nhà thơ và tác giả lãng mạn, nơi không có gì xác thực hay đáng tin.” Tuy nhiên, sau khi tôi đã xuất bản pho tiểu sử về nhà lập pháp Lycurgus và Vua Numa, thì dường như chẳng có gì là không phải lẽ trong việc dấn tới một bước nữa để nói về Romulus, vì cuốn lịch sử của tôi đã đưa tôi về quá gần thời đại ấy. Thế rồi, khi tôi tự hỏi mình, như cách Aeschylus18 đã diễn đạt19 Một bậc cao vời như thế ai dám sánh? Ai có thể xếp ngang hàng với chàng? Ai có thể đương đầu với thử thách? có vẻ rõ ràng là tôi chẳng thể tìm được một nhân vật tương xứng với vị tổ phụ Rome huy hoàng và bất khả chiến bại nào khác ngoài Theseus, nhà sáng lập thành phố Athens lừng danh mỹ lệ. Thôi thì, ta hãy hy vọng, rằng tôi sẽ thành công trong việc làm sáng tỏ bức màn huyền hoặc, và đem nó đến trước lý tính và khoác lên diện mạo lịch sử. Nhưng khi nó ngang ngạnh cố chấp và từ chối trưng ra bất kỳ yếu tố khả tín nào, tôi đành dốc lòng nuông chiều độc giả và những ai có thể độ lượng lắng nghe mấy chuyện huyền hoặc này. 2. Dù sao đi nữa, tôi lấy làm ấn tượng rằng có một số nét tương đồng là điểm nhấn của cặp đôi này. Cả hai đều là con vô thừa nhận của những bậc cha mẹ chưa được xác định và được cho là có dòng dõi thần linh. Cả hai là những chiến binh, như cả thế giới đều biết,20 và cả hai đều thừa hưởng một trí tuệ sắc bén cùng sức vóc mạnh mẽ phi thường. Trong hai thành phố nổi tiếng nhất thế giới thì Romulus sáng lập một còn Theseus xây dựng cái kia thành kinh đô, và mỗi người đều dùng đến thủ đoạn bắt cóc phụ nữ. Cả hai từng chịu nỗi bất hạnh nơi quê nhà và bị họ hàng oán giận, và về cuối đời nghe đâu cả hai đã xảy chuyện bất hòa với đồng bào mình, nếu chúng ta có thể chấp nhận những câu chuyện có vẻ đã được viết với sự tiết chế tối đa phép cường điệu thi vị như là một chỉ dẫn tới sự thật này. 3. Về đằng nội, Theseus thuộc dòng dõi Erechtheus21 và những cư dân đầu tiên của vùng Attica, còn về đằng ngoại là thuộc dòng dõi Pelops. Pelops là người quyền lực nhất trong các vị vua ở Peloponnese, chủ yếu chẳng phải sự giàu có mà vì đám con cháu đông đúc của ông. Ông gả nhiều con gái của mình cho những bậc quyền cao chức trọng nhất xứ và đưa nhiều con trai lên làm nhà cai trị của các thành phố ở Peloponnese. Một trong số đó tên là Pittheus, ông ngoại của Theseus, đã sáng lập Troezen;22 đây thật ra chỉ là một thành phố nhỏ, nhưng ông ta nổi danh là người thông thái nhất và am hiểu sâu sắc nhất kho tàng tri thức của thời đại mình. Bản chất của sự khôn ngoan nơi ông ta và việc hình thành nên nó dường như cùng kiểu với những gì đã làm cho Hesiod23 nổi tiếng, đặc biệt là tập hợp các câu châm ngôn trong Works and Days (Lao động và ngày tháng) của ông ta. Một trong số đó được cho là của Pittheus: Khi bạn hứa trả tiền cho một người bạn, hãy dành cho anh ta một mức thật rộng lượng.24 hay như chúng ta được nghe những lời của Aristotle,25 và Euripides,26 khi ông ta là nguyên do để Hippolytus27 được nhắc đến như là “học trò của Pittheus thần thánh,28” cho thấy quan điểm thế giới về Pittheus là thế nào. Bấy giờ khi Aegeus vị vua của Athens muốn có con, nghe nói ông ta đã hỏi ý kiến nữ tư tế Pythia,29 và nhận được lời tiên tri nổi tiếng, cấm ông ta quan hệ với bất kỳ phụ nữ nào cho đến khi ông ta tới Athens. Tuy nhiên, Aegeus nghĩ rằng lời chỉ dạy này được diễn đạt quá mơ hồ, và vì vậy trên đường về nhà ông ta tạt qua Troezen và kể lại với Pittheus những lời thực tế của thần linh như sau: Chớ mở nút túi da đựng rượu, món tuyệt thú của con người, Tới khi ngươi một lần nữa đặt chân đến thành Athens. Pittheus hiển nhiên hiểu rõ hàm ý của lời tiên tri và đã thuyết phục hoặc dụ dỗ để ông ta ngủ với Aethra. Sau đó, khi Aegeus phát hiện ra nàng là con gái của Pittheus và ngờ rằng nàng đã mang thai với mình, ông bèn để lại thanh gươm và đôi dép giấu dưới một tảng đá lớn, nó có một cái hốc vừa đủ để các vật này vào. Ông không tin ai ngoài Aethra, và nói với nàng rằng nếu nàng sinh cho mình một đứa con trai, và khi đến tuổi trưởng thành, nếu nó có thể nâng tảng đá lên và lấy những thứ đã được để bên dưới, nàng phải bí mật gửi nó đến với ông ta, mang theo những tín vật này, và giữ kín hết mức có thể cuộc hành trình của mình. Bấy giờ Aegeus vô cùng e ngại các con trai, không ít hơn 50 đứa, của Pallas, em trai ông ta, vốn đang rắp tâm hạ bệ ông và khinh nhờn ông vì không có con cái; Rồi ông chia tay Aethra. 4. Theo một phiên bản của câu chuyện này, khi Aethra hạ sinh một đứa con trai, lập tức được đặt tên là Theseus vì những tín vật để nhận ra cậu bé đã được đặt bên dưới tảng đá. Tuy nhiên các phiên bản khác cho rằng cậu bé chỉ được ban tên ấy tại Athens sau này, khi Aegeus thừa nhận30 đấy là con trai mình. Cậu bé được Pittheus nuôi dưỡng và có một gia sư tên là Connidas. Thậm chí hiện nay người Athens vẫn còn tục hiến tế một con cừu đực cho người này vào đêm trước lễ hội Theseus, và thật sự thì sự bày tỏ niềm thành kính này xứng đáng vượt xa những vinh dự mà họ dành cho Silanio và Parrhasius, vốn chỉ là tác giả của những bức họa và tượng của Theseus. 5. Vào thời đó vẫn tồn tại phong tục thanh niên đến tuổi trưởng thành tới thăm Delphi và dâng lên thần linh một nhúm tóc bấy giờ mới cắt lần đầu của mình. Theseus đã đến Delphi vì nghi lễ này, và nghe nói nơi ấy ngày nay đã được gọi theo tên ông là Theseia. Tuy nhiên, ông chỉ cắt đi phần tóc trước trán, như cách người Abantes vẫn làm theo lời kể31 của Homer,32 và kiểu xuống tóc này đã được gọi là Theseis để tưởng nhớ về ông. Lúc bấy giờ dân Abantes, những người đầu tiên cắt tóc kiểu này, đã không học nó từ người Ả-rập như một số người tin thế, cũng chẳng phải học đòi theo người Mysia. Lý do ở chỗ họ là một dân tộc hiếu chiến quen đánh giáp lá cà, và đã trở nên lão luyện hơn bất kỳ chủng tộc nào trong lối tấn công cận chiến đầy mạnh mẽ trước kẻ thù. Archilochus33 đã xác thực điều này trong đoạn sau:34 Không có lấy một khoảng trống để xoay trở ná bắn đá hoặc giương cung, Khi Chiến thần Ares hung tợn tràn vào giữa trận địa dày đặc Dưới bình nguyên: lưỡi kiếm mang đến đầy chết chóc và tang thương, Vì đây là cuộc giao chiến trực diện mà những gã này là bậc thầy, Những kiếm sĩ lừng danh và là chúa tể Euboea…35 Vì vậy để ngăn kẻ thù nắm được tóc mình, họ bèn cắt nó đi. Không nghi ngờ là Alexander của Macedon36 hiểu điều này, khi ông ta ra lệnh cho các tướng lĩnh, như chúng ta được kể, bắt người Macedon cạo sạch râu, vì đó là chỗ dễ bị túm nhất trong giao đấu. 6. Trong suốt thời thơ ấu của Theseus, Aethra đã giữ bí mật lai lịch người cha thật sự của cậu, và Pittheus bịa ra câu chuyện cha cậu là Poseidon.37 Người dân Troezen đặc biệt tôn kính Poseidon; ngài là thần bảo trợ của thành phố, họ dâng lên ngài hoa trái đầu mùa và cây đinh ba của ngài là một biểu trưng trên tiền xu của họ. Tuy nhiên, khi Theseus trở thành một chàng trai và tỏ ra chẳng những có sức vóc mạnh mẽ, mà cả lòng can đảm và tinh thần bất khuất, cộng với lương tri và trí tuệ mẫn tiệp, thì Aethra dẫn ông đến tảng đá, giải thích tường tận sự thật về dòng dõi của ông và bảo ông lấy những tín vật cha mình để lại dưới đó và dong buồm đến Athens. Theseus kề vai vào tảng đá và nhẹ nhàng nhấc lên, nhưng ông từ chối cuộc hành trình trên biển, cho dù đây là lộ trình an toàn nhất và ông ngoại cùng mẹ đã hết lời nài nỉ. Lúc bấy giờ du hành đến Athens bằng đường bộ là điều thậm khó khăn, vì đường đi đầy rẫy những kẻ cướp và lưu manh và hiếm có đoạn nào vắng bóng chúng. Dường như thời ấy đã sinh ra một giống người, với đôi tay hoàn toàn mạnh mẽ và đôi chân nhanh nhẹn, không biết mỏi mệt và vượt xa người thường, nhưng chúng lại không dùng những thiên phú này cho mục đích chính đáng và hữu ích. Thay vì thế, chúng hống hách xấc xược, dùng sức mạnh để hành xử vô luân và bắt bớ, hành hạ, giết hại tất cả những ai rơi vào tay mình. Những thứ khác như lòng bác ái, sự công bình, hay lòng nhân đạo bị chúng coi là những phẩm chất mà người ta chỉ ngợi ca khi họ thiếu can đảm để làm bậy, hoặc hèn nhát sợ sệt: họ không quan tâm tới những người đủ mạnh mẽ để làm theo ý mình. Một vài tên trong số đó đã bị Heracles38 tiêu diệt trong nhiều cuộc du hành của mình, nhưng những tên khác đã thu mình ẩn nấp khi Heracles đi qua và nhờ vậy mà thoát thân, hoặc được tha vì khinh bỉ. Về sau, khi Heracles chẳng may giết nhầm Iphitus,39 bèn đến Lydia đền tội và làm nô lệ một thời gian dài trong cung của Hoàng hậu Omphale.40 Ở đấy thời gian này khá thanh bình và an ninh, nhưng nạn hãm hiếp cướp bóc lại một lần nữa lan tràn khắp Hy Lạp, vì không còn ai để trấn áp hay chế ngự chúng. Vì vậy thật nguy hiểm khi di chuyển từ Peloponnese đến Athens bằng đường bộ, và Pittheus đã cố thuyết phục Theseus đi đường biển, bằng cách mô tả tường tận diện mạo từng tên côn đồ và cách hắn ta đối xử với người lạ. Điều ông ta không biết là người thanh niên đã thầm cảm phục danh tiếng mà Heracles giành được do lòng can đảm của mình. Theseus ngưỡng mộ Heracles hơn hết mọi anh hùng khác, và không thích gì hơn ngoài việc nghe ai đó kể về người ấy, đặc biệt là những ai tận mắt chứng kiến bất cứ cái gì người ấy đã nói hoặc làm. Thật ra, rõ ràng là ông đang có cùng tâm trạng mà Themistocles41 từng chiêm nghiệm ở nhiều thế hệ sau này, khi ông ta nói mình cứ thao thức mỗi khi nghĩ về chiến công của Miltiades.42 Vì vậy mà với Theseus sự quả cảm của Heracles trở thành giấc mơ hằng đêm, còn ban ngày nỗi khao khát noi gương người anh hùng đã choán hết tâm trí và thúc giục ông đạt được những kỳ công như thế. 7. Thật tình cờ, cả hai đều là con dì con cô, và vì vậy có quan hệ huyết thống. Aethra là con gái của Pittheus, Alcmene mẹ của Heracles là con gái của Lysidice, còn Lysidice và Pittheus là hai chị em con của Pelops và Hippodameia. Bởi vậy Theseus cảm thấy sẽ là điều nhục nhã không thể dung thứ nếu trốn chạy khỏi những thử thách bất kỳ về lòng can đảm mà mình có thể phải đối mặt, trong khi người anh họ đã lên đường trừ gian diệt ác khắp nơi và xóa sạch chúng khỏi đất liền và biển cả. Ông sẽ khiến Poseidon người cha danh nghĩa phải hổ thẹn bởi ông chẳng khác nào gã lánh nạn du hành trên biển, và sẽ chẳng mang đến cho người cha thật sự của mình cái gì ngoài đôi dép và thanh gươm chưa thấm máu như là bằng chứng của dòng dõi quý phái, thay vì lập tức chứng tỏ điều ấy bằng chiến công huy hoàng ngang tài ngang sức nào đó. Với quyết tâm và suy nghĩ này trong đầu mà ông đã lên đường, quyết không làm hại bất kỳ ai, nhưng sẽ trừng phạt đích đáng kẻ nào sinh sự với mình. 8. Vậy là trước hết ở Epidauria, ông đụng độ với Periphetes, người sử dụng một cây chùy làm vũ khí, và vì vậy được gọi là Kẻ Mang Chùy. Periphetes sấn tới tấn công và toan đánh ngã ông, Theseus liền áp sát và giết chết đối thủ. Ông thích cây chùy, bèn tước lấy và tiếp tục dùng nó làm vũ khí y như cách Heracles đã làm với bộ da sư tử. Bộ da bị được Heracles khoác lên người để chứng tỏ con ác thú mà người anh hùng đã hạ to lớn nhường nào, và Theseus cũng vậy với cây chùy của mình, ông từng tránh được cú đánh của nó, nhưng khi ở trong tay mình đã trở nên vô địch. Tại eo Corinth, ông hạ được Sinis Kẻ-Vặn-Cây-Thông bằng chính thủ đoạn mà hắn dùng để giết rất nhiều người khác. Theseus cũng làm điều đó mà chưa từng tập qua trò này, theo đó chứng tỏ rằng lòng dũng cảm đích thực sẽ thắng mọi mưu mô thủ đoạn. Bấy giờ Sinis có một cô con gái cao lớn và rất xinh đẹp tên là Perigune, đã phải chạy thoát thân khi cha bị giết. Theseus tìm kiếm nàng khắp nơi, nhưng nàng đã biến mất vào một chốn um tùm những bụi cây bấc và măng tây dại; cô gái còn trẻ con thơ ngây đã cầu khẩn những bụi cây che giấu mình, và hứa rằng nếu được cứu thoát, nàng sẽ không bao giờ giẫm đạp hay đốt cháy chúng. Khi Theseus gọi nàng và nói sẽ không làm hại mà đối xử tốt với nàng bằng cả danh dự, nàng liền xuất hiện. Theseus đưa nàng lên giường, và nàng hạ sinh cho ông một đứa con trai đặt tên là Melanippus. Sau này, Theseus đã nhường nàng cho Deioneus con trai của Eurytus xứ Oechalian cưới làm vợ. Về phần mình, Melanippus, là cha của Ioxus, người cùng với Ornytus dẫn dắt một nhóm người đi vào Caria, và điều này giải thích vì sao hậu duệ của Ioxus, cả nam lẫn nữ, đã lưu giữ một phong tục cổ xưa là không đốt những bụi gai măng tây hoặc cây bấc, mà rất mực tôn kính chúng. 9. Con lợn nái rừng tên là Phae ở Crommyon tê không phải một con vật bình thường, mà là một sinh vật hung tợn và rất khó chế ngự. Trên đường đi, Theseus tìm để giết con vật này, vì ông không muốn tạo nên ấn tượng là ông chỉ thực hiện những kỳ công khi bị bắt buộc phải đương đầu với chúng. Ông cũng tâm niệm rằng trong hành xử với con người thì một người quả cảm chống lại kẻ xấu chỉ là để tự vệ, nhưng với những con thú hung dữ thì mình sẽ là người chủ động xông pha mạo hiểm dù là cả tính mạng. Tuy nhiên, một chuyện khác kể rằng Phaea là một nữ tặc, một kẻ sát nhân đồi bại sống ở Crommyon và mang biệt danh Lợn cái vì lối sống sa đọa của mình, và là kẻ bị Theseus hạ sát sau đó. 10. Tiếp đến ông giết Sciron trên biên giới Megara43 bằng cách ném hắn xuống từ vách đá. Theo một câu chuyện thường được truyền miệng, Sciron là một kẻ đạo tặc chuyên hãm hại du khách, nhưng cũng có câu chuyện nói rằng hắn hay xấc xược dạng chân tè he bắt du khách rửa cho, và khi họ đang rửa, hắn bất ngờ tung chân đá họ xuống biển. Mặt khác, các tác giả theo trường phái Megaria lại nghi ngờ phiên bản này, và như cách Simonides44 diễn đạt, đã mở một chiến dịch chống lại quan điểm nệ cổ. Họ nói rằng Sciron không phải là kẻ hung bạo hay một tên cướp, mà trái lại, là người đã chống nạn trộm cướp, và chẳng những có quan hệ với người tốt và công chính mà còn chủ động kết bạn với họ. Họ nhắc nhở chúng ta rằng Aeacus thường được xem là người Hy Lạp chính trực nhất, trong khi Cychreus xứ Salamis45 lại được tôn kính như thần linh tại Athens, và mọi người đều biết đến những phẩm hạnh của hai anh em Peleus và Telamon.46 Sciron là con rể của Cychreus, cha vợ của Aeacus và ông ngoại của Peleus và Telamon. Mẹ của Peleus và Telamon là Endeis, con gái của Sciron với Chariclo. Họ lập luận, vậy thì có rất ít khả năng những người mẫu mực như vậy lại kết thông gia với một kẻ hoàn toàn bất lương và trao đổi những giao ước quan trọng và trân quý nhất cùng với hắn. Phiên bản của họ cho rằng tình tiết này đã không hề xảy ra khi Theseus lần đầu đến Athens, nhưng về sau ông đã đánh lừa được Diodes, nhà cai trị xứ Eleusis,47 đoạt lấy thành phố từ tay người Megaria và chính ở nơi đó ông đã giết Sciron. Những biến cố này bị vây bủa bởi các mâu thuẫn kiểu này. 11. Tại Eleusis, ông còn hạ Cercyon48 xứ Arcadia trong cuộc đấu vật và giết hắn. Từ đây, ông tiếp tục cuộc hành trình xa hơn chút nữa đến Erineus, giết Damastes, thường gọi là Procrustes, bằng cách bắt hắn phải nằm vừa vặn trên chiếc giường của chính hắn, như cách Procrustes đã từng làm với nhiều người lạ. Làm vậy là ông đang noi gương Heracles, vì người anh hùng ấy luôn đáp lại những kẻ gây hấn bằng chính thủ đoạn mà chúng rắp tâm sử dụng với mình. Bằng cách này, Heracles đã hạ sát Busiris, kết liễu Antaeus trong trận đấu vật và Cycnus trong một cuộc chiến duy nhất, giết Termerus bằng cách đập vỡ sọ hắn. Chúng ta được nghe kể rằng thành ngữ “trò quỷ quái Termerus” là bắt nguồn từ tên của nhân vật này, vì hình như Termerus có thói quen giết những ai mà hắn gặp bằng cách đập đầu mình vào đầu họ. Vậy là Theseus tiếp tục hành trình của mình, trừng phạt kẻ ác và giáng cho chúng những đòn tương tự mà chúng vẫn gây ra cho người khác, khiến chúng buộc phải quy phục thứ công lý được tạo ra từ sự bất công của chính mình. 12. Khi ông tiếp tục hành trình và đến bên sông Cephissus,49 cánh đàn ông của chủng tộc Phytalidae là những người đầu tiên gặp gỡ và tiếp đón ông. Ông muốn được thanh tẩy đôi tay nhuốm máu, và sau khi họ đã đáp ứng ông bằng những nghi lễ thường ngày và một sự hiến tế xoa dịu, họ bèn thết đãi ông ngay tại nhà mình. Đây là hành động tử tế đầu tiên mà ông được hưởng trong chuyến du hành. Nghe đâu vào ngày thứ tám của tháng Cronius, bấy giờ gọi là Hecatombeion,50 ông đặt chân đến Athens. Ở đó ông thấy thành phố ngập chìm trong hỗn loạn và bất hòa, còn chính sự và hoàng cung của Aegeus thì đang rối như tơ vò. Ông ta đang sống cùng Medea,51 người đã bị trục xuất khỏi Corinth và hứa cứu ông ta khỏi họa tuyệt tự bằng bùa chú của mình. Bà ta là người đầu tiên phát hiện ra Theseus là ai, và vì Aegeus chẳng hề biết gì về điều này khi tháng năm trôi qua đã lâu và đang chất đầy những nỗi lo bởi thảm trạng ngổn ngang của thành phố, nên bà ta xúi giục ông ta tiếp đón Theseus như một vị khách xa lạ và hạ thủ bằng độc dược. Khi Theseus ngồi vào bàn tiệc, ông nghĩ tốt nhất là chẳng nói trước về lai lịch của mình, mà cho cha một manh mối để nhận ra mình: ngay khi món thịt được dọn lên, ông bèn rút kiếm ra như thể toan dùng nó để cắt, và cố gắng thu hút sự chú ý của cha mình. Aegeus lập tức nhận ra tín vật, lao tới hất đổ chén thuốc độc, và sau khi thấy đúng là con mình, bèn sung sướng ôm lấy; sau đó ông ta chính thức thừa nhận Theseus trước một hội đồng của người Athens, họ đã hân hoan chào đón ông vì những đức tính cao quý của ông. Nghe đâu khi cái chén bị đổ, thuốc độc đã tràn ra chỗ mà giờ đây là đền thờ Apollo ở Delphi, đó là nơi tọa lạc của hoàng cung Aegeus, và bức tượng Hermes52 ở phía đông đền thờ được mệnh danh là Hermes nơi cổng hoàng cung Aegeus. 13. Trước khi Theseus xuất hiện trên vũ đài, các con trai của Pallas đã rắp tâm soán ngôi nếu Aegeus qua đời không người nối dõi, và họ đã tức điên khi Theseus được tuyên bố là người kế vị. Việc Aegeus lên ngôi đã đủ gây bất mãn, vì ông ta chỉ là con nuôi của Pandion và không có quan hệ huyết thống với hoàng tộc Erechtheus, nhưng Theseus kia, chỉ là một kẻ nhập cư và một tên ngoại quốc, sẽ trở thành vị vua tương lai, vậy là quá đủ, và vì thế họ bèn gây chiến. Họ chia quân làm hai cánh, một cánh do Pallas thống lĩnh, từ Sphettus công khai tiến vào thành phố, trong khi cánh còn lại nằm mai phục tại Gargettus, với ý định tấn công địch thủ từ hai phía. Tuy nhiên, có một người đưa tin của họ tên là Leos, thuộc tiểu khu53 Hagnus, đã tiết lộ với Theseus về kế hoạch của anh em nhà Pallas. Theseus tiến hành đột kích cánh quân đang mai phục và quét sạch chúng, còn cánh quân kia dưới quyền Pallas khi hay tin liền tháo chạy tan tác. Đây là lý do vì sao, như người ta kể, người ở huyện Pallene không bao giờ lấy người ở huyện Hagnus, và vì sao những người đưa tin ở đó thậm chí không được phép mở đầu tuyên bố của mình bằng cái câu thường lệ, “Nghe đây, hỡi dân chúng!” kể cả từ leos họ cũng ghê tởm, do sự phản bội của người này. 14. Theseus, con người háo hức hành động và đồng thời nóng lòng muốn giành được thiện cảm của dân chúng, bấy giờ bắt đầu chinh phục con bò đực xứ Marathon, vốn đang gây tai họa cho cư dân huyện Tetrapolis thuộc vùng Attica. Ông chế ngự và bắt sống nó đưa về thành phố cho mọi người xem, trước khi hiến tế cho Apollo tại Đền Delphi. Câu chuyện về Hecale,54 được cho là đã tiếp đón và chiêu đãi Theseus trong cuộc phiêu lưu này, dường như cũng có một chút sự thật trong đó. Cư dân các huyện ấy có thói quen tụ họp để thực hiện những nghi lễ Hecalesia nhằm tôn vinh thần Zeus Hecalus, và họ còn tôn vinh Hecale, vốn là tên gọi rút ngắn của Hecaline. Đó là vì khi tiếp đãi Theseus, bà ta đã tỏ ra âu yếm ông như người già đối với con trẻ và gọi ông bằng những cái tên rút gọn trìu mến theo cách tương tự, cho dù đấy đã là một trang thanh niên. Bà ta phát nguyện, khi người anh hùng lên đường chiến đấu với con bò, thì bà ta sẽ tế lễ Zeus nếu ông an toàn trở về, nhưng bà ta đã qua đời trước khi ông trở về, vì vậy những lễ nghi trọng thị này đã được cử hành theo lệnh Theseus như là sự tưởng nhớ lòng hiếu khách của bà ta. Đây là câu chuyện mà Philochorus55 đã ghi lại. 15. Không bao lâu sau chuyện này, những người thu cống vật từ Crete đến lần thứ ba để thu cống vật theo thông lệ. Hầu hết các tác giả đều đồng ý rằng lệ cống nạp này đã bắt đầu từ thời điểm Androgeus56 được cho là đã bị giết một cách ám muội trong lãnh thổ Athens. Vì chuyện này, người Athens không chỉ phải đương đầu với một cuộc chiến tàn khốc do Minos57 tiến hành, mà họ còn phải gánh chịu sự trả thù của thần linh: đất đai sẽ không đơm hoa kết trái, bị dịch bệnh tàn phá và mọi sông ngòi đều khô cạn. Rồi Apollo tuyên bố nếu họ xoa dịu được Minos và giải hòa với ông ta, trời xanh sẽ nguôi cơn thịnh nộ và họ sẽ được giải thoát khỏi những khổ nạn. Vì vậy họ bèn cử các sứ giả đến cầu khẩn Minos và thỏa thuận gửi cho ông ta lễ vật triều cống cứ mỗi chín năm, bao gồm bảy chàng trai và bảy cô gái. Theo phiên bản kịch tính nhất của câu chuyện, khi mấy chàng trai và cô gái ấy đến Crete, họ liền bị ném vào Mê cung và bị Quỷ đầu trâu sát hại, hoặc bị lạc lối trong mê cung và bị Quỷ đầu trâu giết tại đó, hoặc có thể loanh quanh ở đấy và cuối cùng đã chết vì không tìm được lối ra; còn Quỷ đầu trâu, như Euripides kể với chúng ta, là Một dạng trộn lẫn, kết hợp giữa hai hình thù dị hợm, Và những tính chất khác biệt, người và bò hợp lại. 16. Tuy nhiên, theo Philochorus, người Crete phủ nhận chuyện này và tuyên bố rằng Mê cung chẳng qua chỉ là một hầm ngục, nhưng không có gì bất thường với nó trừ việc tù nhân không thể trốn thoát. Họ giải thích, Minos đã tổ chức những trận đấu tang tóc để tưởng nhớ Androgeus, và phần thưởng ông ta ban cho người chiến thắng là mấy con người Athens trẻ trung ấy, lúc đó đang bị giam cầm trong Mê cung. Người chiến thắng các trận đấu đầu tiên được tổ chức, theo lời kể, là vị tướng sở hữu sức mạnh ghê gớm nhất dưới thời Minos, tên là Taurus, vốn không phải người có tính khí ôn hòa hay biết điều và đã đối xử khắc nghiệt tàn bạo với mấy người trẻ Athens. Ngay Aristotle trong chuyên luận On the Constitution of Bottiaea (Về Hiến pháp Bottiaea) của mình rõ ràng cũng không tin rằng mấy người trẻ này đã bị Minos đưa tới chỗ chết, mà cho rằng họ sống đến già như những nô lệ ở Crete. Ông ta còn cho là người Crete ở một thời điểm nào đó, nhằm thực hiện một lời thề xa xưa, đã gửi một số đứa con đầu lòng của họ như một sự hiến dâng tới Delphi, và rằng trong các nạn nhân có một vài hậu duệ của những nô lệ ở Athens thuở nào. Khi thấy không thể chịu đựng được ở Delphi nữa, trước nhất họ liền vượt biên sang Ý và định cư gần Iapygia, từ đó du hành đến Thrace và được gọi là người Bottiaea.58 Ông ta kể với chúng ta, đây là lý do vì sao các cô gái Bottiaea khi cử hành một lễ tế nào đó, thường hát lên bài thánh ca bắt đầu bằng “Nào ta hãy đến Athens!” Điều này cho thấy thật nguy hiểm khi chuốc lấy sự thù hằn của một thành phố vốn là nữ chúa của hùng biện và thơ ca, vì Minos đã liên tục bị nhiếc móc và tấn công trên sân khấu kịch Athens, và việc ông ta được Hesiod gọi là “quân vương sáng suốt nhất” hay Homer gọi là “bạn tâm tình của Zeus” cũng chẳng giúp ích được gì nhiều cho ông ta. Trong khi đó, các nhà thơ bi kịch thì làm theo cách của họ khi xối xả lăng mạ ông ta trên những diễn đàn và sân khấu, mô tả ông ta như một kẻ hung tàn và thô bạo. Vậy mà chúng ta vẫn được nghe kể rằng Minos là một quân vương và một nhà làm luật, và rằng Rhadamanthus59 là một quan tòa dưới thời ông ta và là người bảo vệ cho những nguyên tắc công bằng mà Minos đã đề ra. 17. Thế là khi đến kỳ cống nạp thứ ba, và những người cha có con trai còn chưa lập gia đình buộc phải đưa chúng ra để có thể rút thăm chọn nạn nhân, một lần nữa vang tiếng khóc than oán hận Aegeus. Những kẻ bất hạnh ca thán rằng nhà vua, căn nguyên cho mọi rắc rối của họ, lại là người duy nhất được miễn hình phạt; ông ta mãn nguyện nhìn họ bị cướp mất đứa con hợp pháp của mình và bị bỏ mặc trong cơ hàn, trong khi ông ta truyền lại vương quốc cho đứa con hoang của mình dù đó không phải là một người Athens. Theseus hết sức phiền muộn về việc này; ông nghĩ điều đúng đắn duy nhất là mình nên đồng cam cộng khổ với số phận của đồng bào và không bàng quan trước họ, nên đã đứng ra xung phong đến Crete, bất kể chuyện lá thăm có thể rơi vào ai. Người Athens bàng hoàng thán phục lòng quả cảm và hoan hỉ trước tinh thần vì mọi người của ông, và Aegeus, nhận thấy rằng những lời cầu xin và van vỉ của mình chẳng thể làm thay đổi suy nghĩ hay mục đích của con trai, đành tiến hành bắt thăm cho số còn lại. Tuy nhiên, Hellanicus60 kể rằng người Athens không gửi các nam thanh nữ tú đi bằng lá thăm, mà thường là Minos đích thân đến lựa chọn, và rằng lần này ông ta chọn Theseus đầu tiên, theo những điều kiện thông thường. Đó là, như ông ta kể, người Athens sẽ cung cấp thuyền, và các thanh niên sẽ lên thuyền ra khơi với ông, nhưng không ai được mang theo vũ khí đánh trận, và sau cùng, nếu Quỷ đầu trâu bị giết, thì hình phạt sẽ mất hiệu lực. Trong hai lần trước, dường như chẳng có hy vọng được cứu nguy, vì vậy người Athens đã cho dựng trên thuyền một cánh buồm đen, tin rằng nó đang đưa các thanh niên của mình đi đến cái chết không tránh khỏi. Nhưng lần này Theseus đã cố thuyết phục cha mình hãy vững tâm và lấy làm kiêu hãnh là mình sẽ đánh bại Quỷ đầu trâu, và thế là Aegeus trao cho hoa tiêu một cánh buồm thứ hai màu trắng, rồi lệnh cho anh ta giương buồm trắng trong chuyến trở về nếu Theseus bình an, nhưng ngược lại thì sẽ giương buồm đen báo hiệu để tang. Tuy nhiên, theo Simonides, cánh buồm mà Aegeus trao cho hoa tiêu không phải màu trắng, mà là “một cánh buồm đỏ thắm được nhuộm bằng hoa tươi của cây sồi xanh um tùm,” và ông ta muốn coi nó như vật báo hiệu họ đã thoát nạn. Vẫn theo phiên bản của Simonides thì hoa tiêu là Phereclus con trai của Amarsyas, nhưng theo Philochorus thì Scirus xứ Salamis đã cử Nausithous làm hoa tiêu và Phaeax làm người cảnh giới cho Theseus. Philochorus nói, lý do là bấy giờ người Athens vẫn chưa để tâm nhiều đến biển cả và Scirus đã ban cho ông ân huệ này, vì một trong những chàng trai được chọn, Menesthes, là cháu ngoại của ông ta. Câu chuyện này được củng cố bởi bằng chứng là các đền tưởng niệm Nausithous và Phaeax đã được Theseus cho xây tại Phalerum, gần đền thờ Scirus, và nghe nói là lễ hội Cybernesia, hay lễ hội Hoa tiêu, diễn ra nhằm tôn vinh họ. 18. Sau khi đã rút thăm, Theseus đưa tất cả những người trúng thăm từ Prytaneum61 đến Đền Delphi, tại đây, thay mặt họ, ông dâng lên Apollo biểu tượng của người cầu xin: đó là một nhành ô liu linh thánh, với mấy dải len màu trắng quấn quanh. Thế rồi, sau khi đã cầu nguyện, ông ra khơi. Đó là ngày thứ sáu của tháng Munychion,62 và vào ngày này, mãi cho đến nay, người Athens vẫn gửi các cô gái đến Đền Delphi để cầu xin Apollo nguôi giận. Cũng có chuyện khác kể rằng ông đã nghe theo một lời tiên tri từ thần linh tại Đền Delphi để chọn Aphrodite63 làm người hướng dẫn và cầu xin nữ thần hộ tống mình trong cuộc hải hành, và rằng khi ông hiến tế con dê cái cho nữ thần trên bờ biển theo phong tục, nó đột nhiên biến thành một con dê đực, và vì thế nữ thần có thêm cho mình tên họ là Epitragia (Cưỡi dê). 19. Khi ông đến Crete, như hầu hết các sử gia và nhà thơ kể với chúng ta, Ariadne64 đã phải lòng ông; chính nàng đã trao cho ông cuộn chỉ nổi tiếng và bày cho ông cách tìm đường xuyên qua những địa đạo rối rắm của Mê cung, và ở đó ông đã hạ sát Quỷ đầu trâu rồi dong thuyền đi cùng với Ariadne và các thanh niên Athens. Pherecydes65 kể rằng Theseus còn đục thủng đáy các con thuyền của Crete để ngăn chúng đuổi theo mình. Và Demon bổ sung là vị tướng Taurus của Minos đã bị giết trong một trận hải chiến ở bến cảng khi Theseus dong thuyền ra đi. Tuy nhiên, theo phiên bản của Philochorus, Minos đang tổ chức những trận đấu tang tóc và một lần nữa Taurus được chờ đợi sẽ đánh bại mọi đối thủ, nhưng công chúng thì không hề mong có chiến thắng này. Tính khí của Taurus khiến giới có quyền lực căm ghét, và có một tin đồn gây phẫn nộ rằng hắn quá thân mật với Hoàng hậu Pasiphae. Bởi vậy khi Theseus yêu cầu được đấu với hắn, Minos liền chấp thuận. Phong tục Crete thời đó cho phép cả phụ nữ lẫn đàn ông đều được theo dõi các trận đấu, Ariadne cũng có mặt, và chẳng những bị quyến rũ bởi vẻ ngoài của Theseus mà còn đầy lòng khâm phục sức mạnh của ông khi ông đánh bại mọi đối thủ. Đặc biệt, Minos càng hài lòng vì ông đã thắng Taurus trong trận đấu vật và làm bẽ mặt hắn, bởi vậy ông đã trao trả các thanh niên Athens cho Theseus và miễn cho Athens khỏi lệ cống nạp. Mặt khác, Cleidemus66 đưa ra một lối kể lạ lùng và đặc sắc hơn về những biến cố này, khởi nguồn trước đó đã lâu. Ông nói, có một sắc lệnh hiệu lực trên toàn Hy Lạp rằng không một chiến thuyền ở bất kỳ hải cảng nào được mang một thủy thủ đoàn vượt quá năm người. Ngoại lệ duy nhất là dành cho Jason, chỉ huy thuyền Argo, người đã rong ruổi khắp các đại dương để quét sạch bọn cướp biển. Nhưng khi Daedalus67 thoát khỏi đảo Crete trên một thương thuyền và trốn đến Athens, thì Minos, bất chấp sắc lệnh trên, đã dùng chiến thuyền truy đuổi và bị một cơn bão thổi dạt tới Sicily rồi bỏ mạng ở đó. Không hề ngán một cuộc chiến với người Athens, con trai ông ta là Deucalion đã gửi đến họ một thông điệp yêu cầu giao nộp Daedalus, và đe dọa nếu họ cự tuyệt sẽ hành quyết những thanh niên Athens mà Minos đang giữ làm con tin. Theseus đáp lại bằng lời lẽ ôn hòa, nhưng từ chối giao Daedalus, vốn là anh họ và có quan hệ ruột rà với mình, vì mẹ ông là Merope, con gái của Erechtheus. Trong khi đó, Theseus đang tự xây dựng một thủy đội, một phần nằm ở vùng Attica thuộc huyện Thymoetadae cách xa mọi con lộ chính, và một phần tại Troezen dưới sự chỉ huy của Pittheus, vì ông muốn giữ bí mật các kế hoạch của mình. Khi các thuyền đã sẵn sàng, ông sửa soạn ra khơi, cho Daedalus và một số người Crete lưu vong làm người dẫn đường. Người Crete không hay biết gì về các động thái của ông và ngỡ rằng thủy đội đang đến là thân thiện, nên Theseus có thể chiếm được bến cảng, đổ bộ người của mình, và đến được Cnossos68 trước khi sự có mặt của ông bị phát hiện. Nơi đây, ông đã đánh một trận tại cổng Mê cung và giết chết Deucalion cùng các lính gác của hắn. Khi mà giờ đây Ariadne lên kế vị ngai vàng, ông bèn lập một thỏa ước đình chiến với nàng, cứu thoát những thanh niên Athens, và ký một giao ước hữu nghị giữa người Athens với người Crete, họ thề là mình sẽ không bao giờ gây chiến với Athens lần nào nữa. 20. Có nhiều giai thoại khác nhau về những biến cố này và về câu chuyện của Ariadne nhưng không cái nào trong số đó khớp nhau về chi tiết. Theo một số phiên bản thì nàng đã tự treo cổ khi Theseus bỏ rơi nàng, trong khi những phiên bản khác kể rằng nàng được các thủy thủ đưa đến Naxos,69 rằng nàng sống ở đó với Oenarus, tư tế của Dionysus,70 và rằng Theseus đã bỏ nàng vì phải lòng một phụ nữ khác, Một mối tình tha thiết dành cho Aigle đã thiêu đốt lồng ngực ông, Con gái của Panopeus. Hereas xứ Megara71 nhận định rằng dòng trên đã bị Pisistratus72 xóa khỏi các bài thơ của Hesiod. Pisistratus cũng là người đã chèn vào phần mô tả cõi địa phủ của Homer câu thơ Theseus và Pirithous,73 những đứa con lẫy lừng của các thần linh74 đơn giản để làm vui lòng người Athens. Ngoài ra còn có những tác giả khác nói là thực tế Ariadne đã sinh cho Theseus hai con trai, Oenopion và Staphylus, và trong số họ [những tác giả này] có Ion xứ Chios,75 người đã kể về thành phố quê hương mình mà từ rất lâu Oenopion, con trai của Theseus, đã sáng lập. Bấy giờ những truyền thuyết dễ chịu hơn này được biết đến rộng rãi, người ta có thể nói vậy, nhưng một phiên bản rất lạ của câu chuyện đã được Paeon, một người bản địa Amathus ở thị trấn Cyprus, đưa đến cho chúng ta. Ông ta kể rằng Theseus bị một cơn bão thổi dạt khỏi hành trình tới Cyprus, rằng Ariadne, đang bụng mang dạ chửa và thống khổ khôn cùng bởi con thuyền lắc lư, đã bị bỏ lại trên bờ một mình, và rằng Theseus, trong nỗ lực cứu lấy con thuyền, lại bị quật rơi xuống biển. Những phụ nữ trên đảo đã chăm sóc Ariadne và cố làm nguôi ngoai nỗi buồn vì bị bỏ rơi của nàng bằng cách đưa cho nàng mấy bức thư giả mạo, nói rằng của Theseus viết. Họ trông nom và chăm sóc nàng giữa lúc đau đẻ, và khi nàng qua đời trước khi đứa trẻ kịp chào đời, họ đã chôn cất nàng. Paeon kể thêm rằng Theseus đã trở lại sau đó và đau đớn khôn cùng: ông để tiền lại cho người dân đảo, dặn dò họ cúng tế Ariadne, và đồng thời dựng hai bức tượng để tôn vinh nàng, một bằng bạc và một bằng đồng. Paeon kể tiếp rằng tại buổi lễ tưởng niệm nàng, diễn ra vào ngày thứ hai của tháng Gorpiaeus,76 một thanh niên trong đám người trai trẻ nằm trên mặt đất và bắt chước những tiếng kêu la và cử động của một phụ nữ đau đẻ, và rằng người dân Amathus gọi đám cây cối nơi có nấm mộ của nàng là Ariadne Aphrodite. Một vài tác giả ở Naxos lại có phiên bản riêng của mình, với nội dung rằng thật ra có hai Minos và hai Ariadne. Họ nói, một trong hai nàng, kết hôn với Dionysus ở Naxos và sinh ra Staphylus và một em trai, trong khi nàng kia sau này bị Theseus bắt đi rồi bỏ rơi và đã đến Naxos cùng với một bảo mẫu tên là Corcyne, ngôi mộ của người này đã được họ tìm thấy. Họ nói, Ariadne này cũng đã chết ở đây, nhưng nàng được vinh danh theo cách hoàn toàn khác với người trước: lễ tưởng niệm Ariadne thứ nhất đầy tươi vui và hoan lạc, còn trong những cuộc cúng tế người thứ hai một bầu không khí buồn bã thê lương bao trùm. 21. Trên đường từ Crete trở về, Theseus đã ghé lại Delos, ở đó, khi ông tế lễ Apollo và cung hiến bức tượng Aphrodite mà ông đã nhận từ Ariadne cho đền thờ, ông và những thanh niên Athens đã cùng nhảy, điệu nhảy nghe đâu vẫn được người dân Delos trình diễn, bao gồm một loạt những động tác uốn éo theo nhịp đều đặn và thể hiện các lối đi quanh co của Mê cung. Theo Dicaearchus,77 người Delos gọi đây là lối nhảy Crane, và Theseus đã nhảy theo lối đó xung quanh bàn thờ gọi là Keraton, toàn bộ được làm từ những chiếc sừng bên trái đầu con vật. Người ta cũng nói rằng Theseus đã tổ chức những trận đấu tại Delos và rằng ở đó ông là người đã khởi nguồn cho tục lệ trao cành cọ cho người chiến thắng. 22. Chuyện kể rằng khi họ cập bờ biển Attica, Theseus đã ngất ngây vui sướng đến nỗi ông cũng như hoa tiêu của mình quên giương buồm báo hiệu sự trở về an toàn cho Aegeus biết, và nhà vua trong cơn tuyệt vọng đã lao mình xuống vách đá mà chết. Trong khi đó, Theseus đang ở bờ biển và đích thân cúng tế tại Phalerum như đã phát nguyện trước thần linh khi ông ra đi, và cử một sứ giả đến loan tin ông trở về. Vị sứ giả thấy nhiều người đang than khóc trước cái chết của nhà vua, còn những người khác hãy còn đủ hoan hỉ tiếp đón và đội lên đầu anh ta những vòng hoa chào mừng họ trở về. Anh ta nhận những vòng hoa và treo chúng quanh cây gậy sứ giả của mình, nhưng lúc quay lại bờ biển, anh ta thấy Theseus vẫn chưa rót rượu cúng thần linh, và vì không muốn làm gián đoạn buổi lễ, anh ta đứng đợi bên ngoài khu vực ấy. Thế rồi sau khi nghi lễ rót rượu đã xong, anh ta liền báo tin về cái chết của Aegeus, khiến ngay sau đó Theseus và các bạn đường của mình vừa khóc than vừa chạy vào thành. Chính vì sự tích ấy mà vào ngày này tại lễ hội Oschophoria, người Athens không đeo vòng hoa cho sứ giả mà cho cây gậy của anh ta, và trong nghi lễ rót rượu, những người đứng xung quanh gào to “Chao ôi! Chao ôi!” trong đó tiếng thứ nhất là tiếng hò reo hăm hở hoặc chiến thắng, tiếng thứ hai là nỗi đau buồn hoặc bối rối. Sau lễ tang cha, Theseus thực hiện lời hứa với Apollo vào ngày thứ bảy của tháng Panepsion,78 vì đây là ngày mà họ trở về thành phố an toàn. Tục luộc sôi nhiều loại hạt đậu mà người ta nhìn thấy vào ngày đó, được cho là bắt nguồn từ sự kiện những thanh niên được Theseus giải cứu đã trộn lẫn tất cả lương thực dự trữ còn lại, đun lên trong một chiếc nồi duy nhất và tất cả cùng ăn với nhau. Tại lễ hội này, người Athens cũng mang theo cái gọi là Eiresione, một nhành ô liu được quấn len - giống thứ mà Theseus đã mang theo người như một người cầu khẩn - và treo đầy lễ vật là hoa trái đầu mùa, biểu thị rằng thời kỳ thiếu thốn đã qua. Họ vừa đi vừa hát, Eiresione mang đến những quả vả cho ta và để lại thứ bột mì tốt nhất, Mang đến cho ta mật ong trong bình, và dầu thơm để xoa lên cơ thể, Và một cốc rượu nồng ru ta vào giấc mộng say. Một vài tác giả quả quyết rằng những nghi lễ này được cử hành để tưởng nhớ các con trai của Heracles, từng được người Athens tiếp đón và đối đãi như những người cầu khẩn theo lối này, nhưng hầu hết đều thuật lại truyền thống mà tôi đã kể. 23. Thuyền ga-lê 30 mái chèo mà Theseus dùng để ra khơi cùng các thanh niên và an toàn trở về đã được người Athens giữ gìn cho tới thời của Demetrius xứ Phalerum.79 Trong thời gian đó, họ đã dỡ những cây gỗ cũ và thay bằng những cây gỗ mới, vì vậy con thuyền đã trở thành một minh họa kinh điển cho sự tranh cãi giữa các triết gia về sự phát triển và biến đổi, một số thì lập luận rằng nó vẫn thế, còn số khác lại cho rằng nó đã biến thành một con thuyền mới. Theseus cũng chính là người đã sáng lập lễ hội Oschophoria hay lễ hội mang cành nho của người Athens.80 Chuyện kể rằng ông không đem theo mình tất cả các thiếu nữ trẻ được lựa chọn bằng lá thăm trong lần đó. Thay vào đó, ông chọn trong số bạn bè của mình hai thanh niên rất mực gan dạ và nhiệt tình, đồng thời lại có làn da tươi tắn như con gái. Ông cho họ tắm nước nóng và giữ họ ở trong bóng râm, làm tóc cho họ, làm làn da họ mượt mà và cải thiện màu da họ bằng các loại thuốc bôi, và bằng cách này đã biến đổi hoàn toàn dung mạo của họ. Ông còn dạy họ cách bắt chước giọng nói, y phục, và dáng đi của các cô gái, cho đến khi họ có thể đi giữa mọi người mà không bị phát hiện, rồi cuối cùng ông trà trộn họ với các cô gái được đưa đến Crete mà không một ai hay phát hiện ra bí mật ấy. Trong chuyến trở về, ông và những thanh niên dẫn đầu một đám rước, ăn mặc giống như mấy người bấy giờ đang mang các cành nho tại lễ hội Oschophoria. Họ mang chúng để tôn vinh Dionysus và Ariadne, vì vai trò của hai người này trong lịch sử, hay đúng hơn vì Theseus và các bạn đường của ông đã trở lại Athens vào đúng thời kỳ hái nho. Những phụ nữ mệnh danh là Deipnophoroi - người-tiếp-tế - hòa vào đám rước và tham gia cuộc tế lễ đại diện cho các bà mẹ của những nam thanh nữ tú được lựa chọn bằng rút thăm, vì họ thường đến thăm con cái, mang bánh mì và thịt đến cho chúng. Tại lễ hội này, người ta cũng kể những chuyện ngụ ngôn, vì các bà mẹ này thường kể chuyện cho con cái nghe để an ủi và giúp chúng vững tâm. Đây là những chi tiết mà Demon đã ghi lại cho chúng ta. Một khu vực thiêng cũng được dành riêng cho Theseus, và ông đặt ra quy định các gia đình bị buộc phải cống nạp con mình cho Quỷ đầu trâu cần phải trả tiền cho lễ cúng thần thay ông. Lễ cúng này do nhà Phytalidae chủ trì, là cách mà Theseus dùng để tưởng thưởng cho lòng hiếu khách của họ đối với mình.81 24. Sau khi Aegeus qua đời, Theseus ấp ủ một kế hoạch lớn lao phi thường mà không gì khác hơn là tập trung cư dân vùng Attica vào một kinh đô. Bằng cách này ông biến họ thành một dân tộc thuộc về một thành phố, trong khi cho đến lúc ấy họ vẫn sống trong những cộng đồng tản mát khắp nơi, do đó thật khó tụ họp họ lại vì lợi ích chung, và quả thực có những lúc giữa họ thậm chí đã xảy ra chuyện cãi vã và đánh nhau. Cho nên ông đã chu du khắp vùng Attica và cố gắng thuyết phục từng ngôi làng và từng thị tộc. Người bình dân và người nghèo lập tức hưởng ứng lời kêu gọi của ông, trong khi với những tầng lớp có ảnh hưởng hơn thì ông đề xuất một thứ hiến pháp không có vua: đó là một nền dân chủ, trong đó vai trò của ông sẽ không hơn gì một tư lệnh của quân đội và là người bảo vệ luật pháp, còn mọi người đều có quan hệ bình đẳng với nhau trên những phương diện khác. Một số đã bị thuyết phục trước những lý lẽ của ông không mấy khó khăn, còn số khác, vì sợ cái uy thế to lớn và khí thế táo tợn của ông, đã phải nghe theo còn hơn là bị cưỡng ép tuân phục. Rồi ông tiến hành bãi bỏ các tòa thị chính, các phòng hội đồng, và các chức quan tòa ở nhiều khu vực khác nhau. Để thay thế chúng, ông xây dựng một tòa thị chính và tòa nhà Viện Nguyên lão duy nhất cho toàn thể cộng đồng ở nơi hiện là Acropolis.82 Ông đặt tên thành phố là Athens và lập ra một đại lễ hội toàn Athens làm nghi lễ cho toàn vùng Attica. Ông cũng lập ra Metoecia, hay lễ hội của kiều dân, vào ngày thứ 16 của tháng Hecatombaeon,83 và vẫn còn diễn ra đến nay. Tiếp đến, ông từ bỏ vương quyền như đã cam kết, bắt tay soạn thảo hiến pháp, và viện đến uy quyền của thần linh cho mục đích này. Ông đã cử người đến Delphi để thỉnh thị lời tiên tri về tương lai của thành phố, và đây là câu trả lời ông nhận được: Hỡi đứa con hoàng tộc của Aegeus với con gái của Pittheus, Nhiều thành phố với biên giới và số phận của chúng sẽ được bao bọc Bên trong những tường thành của ngươi, vì cha ta đã quyết định như thế. Đừng hoang mang lo sợ, mà hãy nghe theo sự mách bảo của quyết tâm can trường, Quả bóng sẽ dập dềnh cưỡi lên những con sóng dâng trào của biển khơi. Và sau này, Sibyl84 đã tiên tri về Athens với cùng giọng điệu, khi cô ta thét lên, Quả bóng sẽ bị chìm, nhưng không đắm: điều này đã được định sẵn. 25. Khi tham vọng mở rộng quy mô thành phố của ông cứ lớn dần, Theseus bèn mời gọi dân chúng từ khắp mọi miền đến an cư nơi đây theo những điều kiện bình đẳng với người Athens. Thật ra, lời kêu gọi bấy giờ, “Đến đây, hỡi muôn dân!” được cho là bắt nguồn từ một lời tuyên cáo của Theseus, khi ông thiết lập một nền thịnh vượng chung cho mọi hạng người và mọi cảnh ngộ. Nhưng ông đã không để cho nền dân chủ của mình rơi vào sự hỗn loạn và rối rắm do một dòng người đổ vào bừa bãi có thể gây ra. Ông là người đầu tiên chia thành phố làm ba đẳng cấp rạch ròi, bao gồm quý tộc, nông dân, và thợ thủ công. Với giai cấp quý tộc, ông chỉ định chăm lo các nghi lễ tôn giáo, bổ khuyết chức vị quan tòa, giáo huấn và thi hành luật pháp, diễn giải mọi vấn đề thiêng liêng, còn với những người dân còn lại, ông xác lập, như vốn có, một sự cân bằng về đặc quyền, dựa trên giả định rằng giới quý tộc có sự ưu việt về phẩm cách, nông dân về tính thiết thực, và thợ thủ công về sức mạnh số đông. Aristotle nói rằng ông là nhà cai trị đầu tiên có xu hướng dân chủ và từ bỏ vương quyền, và nhận định này dường như cũng được Homer xác nhận, vì trong mục Catalogue of Ships (Danh mục Thuyền bè) của trường ca The Illiad, chỉ mỗi người Athens là được Homer gọi là “một dân tộc có chủ quyền.” Theseus cũng cho đúc tiền xu và khắc lên đó hình ảnh một con bò: ở đây có lẽ ông đang tưởng nhớ đến con bò đực xứ Marathon, hay có lẽ là Taurus, vị tướng của Minos, hoặc giả ông có thể đã mong muốn khuyến khích nghề nông trong dân chúng chăng. Dù sao đi nữa, thành ngữ trị giá mười bò hoặc trị giá một trăm bò cũng đã bắt nguồn từ đồng tiền này. Ông đã đưa vùng lãnh thổ Megara yên lành về với Athens, và về sau, ông cho dựng cây cột nổi tiếng trên eo Corinth, và khắc lên đó những dòng đánh dấu biên giới giữa hai nước. Nó bao gồm hai câu thơ ba âm tiết, một câu khắc trên mặt phía đông ghi: Đây không phải Peloponnese, mà là Ionia, và câu phía tây: Đây là Peloponnese, không phải Ionia. Ông cũng đã lập ra đại hội thể thao ở đây để cạnh tranh với đại hội của Heracles; tham vọng của ông cũng như của người Hy Lạp là noi gương Heracles tổ chức đại hội thể thao Olympic nhằm tôn vinh thần Zeus, do đó, theo sáng kiến của ông, họ cũng nên tổ chức đại hội thể thao tại Isthmus85 để tôn vinh người cha danh nghĩa của ông, Poseidon. Những đại hội thể thao từng diễn ra trước đây tại Isthmus nhằm tôn vinh Melicertes được tổ chức vào đêm và dưới dạng một nghi lễ tôn giáo hơn là một cuộc trình diễn hay một cuộc tụ họp công chúng đông đảo. Tuy nhiên, một số tác giả giải thích rằng đại hội thể thao Isthmus được lập ra để tưởng niệm Sciron, và rằng, bằng cách này, Theseus mong muốn chuộc lại tội giết người của mình, do mối quan hệ họ hàng giữa họ, bởi Sciron là con trai của Canethus và Henioche, còn Henioche lại là con gái của Pittheus. Số khác lại cho rằng con trai của họ không phải Sciron mà là Sinis, và rằng để tôn vinh người này mà Theseus đã lập ra đại hội thể thao. Dù sao đi nữa, Theseus là người đã thiết lập lễ hội và xác lập một thỏa thuận với người xứ Corinth rằng người Athens đến dự đại hội thể thao sẽ được cung cấp một vị trí danh dự to bằng cánh buồm của chiếc quốc thuyền ga-lê đã đưa họ đến đó, khi nó được trải ra trên mặt đất. Đấy là những gì chúng ta được nghe từ Hellanicus và Andron xứ Halicarnassus.86 26. Theo Philochorus và nhiều tác giả khác, Theseus cũng đã đi thuyền đến Biển Đen và tham gia vào một chiến dịch cùng với Heracles để chống lại người Amazon87 và ở đây ông đã giành được Antiope88 như một phần thưởng cho lòng dũng cảm. Nhưng hầu hết các tác giả, trong đó có Pherecydes, Hellanicus, và Herodorus,89 kể rằng Theseus đã một mình phiêu lưu đến đó sau Heracles và bắt một người Amazon làm tù binh, và đây là một câu chuyện thuyết phục hơn. Bởi lẽ không có ghi chép về việc bạn đồng hành nào đó của ông bắt giữ một người Amazon, trong khi Bion90 kể rằng nếu người này có bị bắt thì cũng chẳng qua vì trúng gian kế. Theo ông ta, các nữ chiến binh Amazon vốn thích đàn ông và không tìm cách lẩn tránh Theseus khi ông đặt chân lên bờ biển của họ. Trái lại, họ thậm chí đã gửi tặng ông quà và ông đã mời người chuyển quà này lên thuyền mình; sau đó, ngay khi nàng vừa bước lên, ông liền giương buồm ra khơi. Một tác giả tên là Menecrates,91 từng viết một tác phẩm lịch sử về thành phố Bithynia xứ Nicaea, kể rằng Theseus cùng với Antiope lưu lại trên thuyền của ông một thời gian, và rằng tình cờ mà trong cuộc thám hiểm này, ông được ba thanh niên Athens là anh em với nhau, tên là Euneos, Thoas, và Soloïs, phục vụ. Menecrates kể, Soloïs phải lòng Antiope mà không ai hay, và đã tâm sự bí mật ấy với một người bạn thân của mình. Người này thay mặt Soloïs đến nói với Antiope, nhưng nàng nhất quyết cự tuyệt, mặc dù nàng cư xử nhẹ nhàng và kín đáo, không kể tội Soloïs trước mặt Theseus. Soloïs tuyệt vọng gieo mình xuống sông và chết đuối, còn Theseus, cuối cùng khi hay biết số phận của chàng thanh niên và lý do dẫn tới điều đó, đã vô cùng đau khổ, và trong cơn âu sầu, đầu ông bỗng văng vẳng những lời tiên tri mình từng được nghe tại Delphi. Nữ tư tế Pythia ở đó đã yêu cầu rằng khi rắc rối ập đến và ông bị nhận chìm trong sầu khổ ở một vùng đất ngoại quốc, ông nên lập một thành phố tại đó và để nó cho những người tùy tùng cai quản. Cho nên ông bèn lập một thành phố ở vị trí này và đặt tên là Pythopolis theo tên của Pythia, và dòng sông kế bên đặt là Soloïs để tưởng nhớ chàng trai đã trầm mình. Ông cử hai người anh em của Soloïs làm thị trưởng và nhà lập pháp chính của thành phố, cùng với Hermus, một quý tộc Athens. Sau thời ông, người dân Pythopolis đã gọi một nơi nào đó trong thành phố là nhà của Hermes, nhầm lẫn khi kéo dài âm tiết thứ hai và chuyển sự tôn vinh dành cho một vị anh hùng sang thần Hermes. 27. Bấy giờ cuộc phiêu lưu này là nguồn gốc của cuộc chiến tranh với người Amazon, nó dường như không hề là chuyện vặt vãnh hay vì chuyện đàn bà, bởi người Amazon không bao giờ có thể dựng trại trong các bức tường thành hay đánh nhau giáp lá cà gần nơi giờ đây là Pnyx92 và Bảo tàng, trừ phi trước tiên họ đã tràn qua vùng nông thôn xung quanh và nhờ vậy có thể an toàn tiếp cận thành phố. Khó mà tin được vào lời kể của Hellanicus rằng họ đã đi vòng qua ngả Cimmerian Bosphorus,93 vượt qua miền băng giá, nhưng thực tế là họ đã đóng trại gần như giữa trung tâm thành phố đã được xác nhận bởi các địa danh có thật ở đó cũng như bởi những ngôi mộ của người ngã xuống trong chiến trận. Hai bên giữ khoảng cách trong một thời gian dài và đều do dự không muốn khai chiến, nhưng cuối cùng, tuân theo một lời tiên tri, sau khi cúng tế Nỗi Sợ, Theseus đã tấn công nữ tộc này. Cuộc giao tranh diễn ra vào tháng Boedromion94 nhằm ngày người Athens vẫn đang mừng lễ hội Boedromia.95 Cleidemus, người đã cố công đưa ra những chi tiết xác thực, cho rằng cánh trái của người Amazon trải rộng đến chỗ giờ đây được gọi là Amazoneum,96 trong khi cánh phải của họ dựa lưng vào Pnyx, tại nơi giờ đây bức tượng thần Chiến Thắng mạ vàng đang đứng. Ông ta kể rằng quân Athens đã giao tranh với cánh trái, tấn công nó từ Bảo tàng, và rằng những ngôi mộ của người ngã xuống nằm hai bên con phố dẫn đến cánh cổng gần đền thờ người anh hùng Chalcodon, mà giờ đây được biết đến là cổng Piraeus.97 Ông kể, ở sườn này, các nữ chiến binh đã đánh bại quân Athens và buộc họ phải lùi đến tận đền Eumenides.98 Nhưng ở sườn còn lại, quân Athens tấn công người Amazon từ Palladium99 và Ardettus100 và Lyceum,101 đẩy lùi cánh phải này trở về doanh trại và tiêu diệt một nhân số lớn. Cleidemus kể thêm rằng sau ba tháng một hòa ước đã được dàn xếp thông qua Hippolyta102 (ông cho rằng đây mới chính là người phụ nữ Amazon mà Theseus đã kết hôn, chứ không phải Antiope). Có một câu chuyện khác kể rằng Hippolyta đã chết vì một ngọn lao do Molpadia103 phóng đi khi nàng chiến đấu bên phe Theseus, và rằng cây cột đứng gần thánh điện Olympian Earth đã được dựng lên để tôn vinh nàng. Nhưng chẳng có gì đáng ngạc nhiên trước sự sai lệch về lịch sử khi phải bàn về những sự kiện như vậy trong quá khứ xa xôi. Chẳng hạn, có một điển tích khác kể rằng Antiope đã bí mật đưa những nữ chiến binh Amazon bị thương đến Chalcis104 và săn sóc họ ở đó, và rằng một số đã được chôn cất trong vùng lân cận gần chỗ giờ đây gọi là Amazoneum. Tuy nhiên, chúng ta có ít nhất vài bằng chứng về việc cuộc chiến đã khép lại bằng một hiệp ước. Chứng cứ nằm ở tên gọi của địa điểm liền kề Theseum,105 được gọi là Horcomosium, vì những lời thề đã được đưa ra ở đó, cùng với lễ cúng tế người Amazon trong thời cổ đại trước lễ hội của Theseus. Người dân Megara cũng chỉ ra một địa danh trong xứ họ nơi chôn cất người Amazon: nó nằm trên đường từ quảng trường chợ đến một nơi tên là Rhus, tại đó cái gọi là Rhomboid (hình thoi) tọa lạc. Những người Amazon khác được cho là đã chết gần Chaeronea106 và được chôn bên hai bờ suối nhỏ mà ở thời cổ đại hình như được gọi là Thermodon, nhưng nay có tên là Haemon. Tôi đã bàn về xuất xứ của những cái tên này trong cuốn tiểu sử về Demosthenes của mình.107 Và có vẻ là ở Thessaly, người Amazon cũng không được bình yên đi qua mà không gặp kháng cự, vì những nấm mộ của họ hãy còn được nhìn thấy đến hôm nay trong vùng lân cận Scotussa và Cynoscephalae.108 28. Đó là bấy nhiêu những sự kiện quan trọng nhất trong câu chuyện về người Amazon. Thật ra, có tồn tại cái gọi là Rising of the Amazons (Cuộc nổi dậy của người Amazon), do tác giả cuốn Theseid biên soạn, kể về việc sau khi Theseus cưới Phaedra,109 Antiope và các nữ chiến binh Amazon tấn công Theseus để rửa hận cho nàng và bị Heracles hạ sát, nhưng điều này rõ ràng mang những dấu hiệu của một câu chuyện hư cấu. Theseus đúng là đã cưới Phaedra, nhưng chỉ sau khi Antiope qua đời. Antiope trước đó hạ sinh cho ông một đứa con trai là Hippolytus, hay Demophoon, theo cách gọi của Pindar.110 Về số phận kinh khủng của Phaedra và Hippolytus, không hề có sự mâu thuẫn giữa những phiên bản của các sử gia và nhà thơ bi kịch, và vì vậy chúng ta phải tin rằng nó đã xảy ra như tất cả các tác giả bi kịch đã mô tả. 29. Tuy nhiên, có những truyền thuyết khác về các cuộc hôn nhân của Theseus vốn không có khởi đầu danh giá lẫn kết cục tốt đẹp, nhưng chúng chưa bao giờ được đưa lên sân khấu. Chẳng hạn Theseus được kể là đã bắt cóc Anaxo, một cô gái đến từ Troezen, và sau khi giết Sinis và Cercyon, đã cưỡng đoạt các con gái của họ, rồi ngoài ra lại lấy thêm Periboea, mẹ của Ajax,111 và tiếp đến là Phereboea và Iope, con gái của Iphicles. Rồi một lần nữa vì say mê Aigle, con gái của Panopeus, mà ông đã bị kết tội ruồng bỏ Ariadne, như tôi từng kể ở trên, và đây không phải là một hành động vinh dự hay tử tế gì cho cam. Sau cùng, việc ông bắt cóc Helen112 được cho là đã đẩy vùng Attica lâm vào chiến tranh và khiến ông phải trả giá bằng sự lưu đày và cái chết của mình. Chúng ta sẽ trở lại với tình tiết này sau. Mặc dù có nhiều kỳ công vĩ đại được các vị anh hùng thời đó thực hiện, nhưng Herodorus không tin rằng Theseus có vai trò trong bất cứ chiến tích nào trong số đó, trừ việc đã đứng về phía người Lapith113 chiến đấu chống lại các Nhân Mã.114 Nhưng có những tác giả khác khẳng định rằng ông chẳng những đã cùng Jason đi đến Colchis mà còn giúp Meleager giết chết con lợn lòi vùng Calydon, và rằng câu cách ngôn “Thiếu Theseus thì không xong” bắt nguồn từ lòng can đảm của ông. Họ kể tiếp rằng ông đã lập được nhiều kỳ công chói lọi khác mà không có sự giúp đỡ của bất kỳ người đồng hành nào, và rằng ông đã truyền cảm hứng cho thành ngữ “Đây là một Heracles thứ hai.” Ông cũng đã giúp Adrastus115 nhặt thi thể những người đã bị giết trước tường thành Cadmeia tại Thebes, và ông đã không làm điều đó bằng cách đánh bại người Thebes trong chiến trận, như Euripides giải thích trong The Suppliants (Những kẻ cầu xin)116 mà tìm cách thuyết phục họ ký một thỏa ước đình chiến. Chí ít, đây là điều mà hầu hết các tác giả kể, và Philochorus bổ sung rằng đây là thỏa ước đầu tiên từng được ký vì mục đích thu gom thi thể người tử trận, mặc dù các câu chuyện viết về Heracles đề cập rằng Heracles mới là người đầu tiên trả lại xác tử sĩ cho kẻ thù của mình. Mồ mả của các binh sĩ ngã xuống trước thành Thebes có thể được nhìn thấy tại Eleutherae,117 và của các sĩ quan chỉ huy thì gần Eleusis; người được Theseus dành cho đặc ân an táng là Adrastus. Những gì Euripides kể về chuyện này trong The Suppliants118 lại trái ngược với Aeschylus trong Eleusinians,119 theo đó Theseus kể câu chuyện này như tôi đã kể. 30. Tình bạn giữa ông và Pirithous được cho là đã đến theo cách thế này. Theseus có được danh tiếng lừng lẫy với sức mạnh và lòng can đảm, và Pirithous muốn kiểm chứng điều đó. Vậy là ông ta bèn lùa đàn gia súc của Theseus ra khỏi bình nguyên Marathon, và khi thấy người anh hùng lăm lăm vũ khí bắt đầu đuổi theo, ông ta không trốn chạy mà quay lại đối diện. Khi họ giáp mặt nhau, người này thán phục dáng dấp và lòng quả cảm của người kia đến nỗi đã kìm lại việc giao chiến. Pirithous là người đầu tiên chìa tay ra, đoạn yêu cầu Theseus toàn quyền phán xét hành vi trộm cắp của mình và tuyên bố sẵn lòng nhận mọi hình phạt mà đối phương có thể đưa ra. Lúc này Theseus chẳng những trả tự do cho ông ta, mà còn đề nghị kết thành bằng hữu và đồng minh, và họ xác thực mối hữu hảo này bằng một lời thề. Về sau, khi Pirithous kết hôn với Deidamia,120 ông đã mời Theseus đến dự tiệc cưới để thăm thú miền quê và dần làm quen với người Lapith. Ông ta cũng đã mời các Nhân Mã tới dự tiệc cưới, nhưng khi đã chếnh choáng hơi men, họ trở nên xấc xược và bắt đầu sàm sỡ phụ nữ, khiến sau đó người Lapith lập tức báo thù. Họ giết chết nhiều Nhân Mã ngay tại chỗ, đánh đuổi số còn lại ra khỏi xứ sở của mình, và Theseus đã đứng về phía họ tại tiệc cưới và trong chiến trận sau này. Tuy nhiên, Herodorus đưa ra một sự giải thích khác về chuyện này. Ông nói rằng cuộc chiến vốn dĩ đã bắt đầu khi Theseus đến giúp người Lapith, và rằng trên đường đi lần đầu tiên ông đã gặp Heracles. Ông đã chủ ý tìm gặp Heracles tại Trachis, nơi người anh hùng nghỉ ngơi sau những cuộc phiêu lưu dài ngày gian khổ, và theo Herodorus, cuộc gặp gỡ diễn ra với những biểu hiện của lòng tôn trọng, thiện ý, và lời xưng tụng hào phóng đôi bên dành cho nhau. Mặc dù như vậy, người ta có thể có xu hướng nghe theo các sử gia cho rằng hai người hùng thường xuyên gặp nhau, và rằng chính là thể theo nguyện vọng của Theseus mà Heracles đã thụ nhận Nghi lễ bí truyền Eleusis121 và cũng đã được thanh tẩy trước khi thụ giáo theo thỉnh cầu của chính bản thân, bởi nhiều hành vi liều lĩnh mà người anh hùng đã làm trước kia. 31. Hellanicus kể với chúng ta, Theseus đã 50 tuổi khi ông tham gia bắt cóc Helen lúc bấy giờ vẫn chưa đến tuổi kết hôn. Có một vài tác giả coi đây là tội nặng nhất trong tất cả những cáo buộc nhắm vào ông, do độ tuổi của ông lúc này. Thế rồi trong nỗ lực gỡ tội cho ông, họ giải thích rằng ông không phải người đã bắt cóc Helen, mà chính là Idas và Lynceus đã trao nàng cho Theseus bảo hộ và chăm sóc, và rằng sau đó ông đã từ chối trao trả nàng cho các anh trai Castor và Pollux khi họ đòi nàng về; những tác giả khác, nếu bạn có thể tin được, nói rằng cha nàng Tyndareus đã giao phó nàng cho Theseus vì e sợ Enarsphorus, con trai của Hippocoon, kẻ cố chiếm đoạt nàng bằng vũ lực khi nàng hãy còn là đứa trẻ. Tuy nhiên, lời giải thích có vẻ phù hợp nhất, và được hầu hết các tác giả đồng ý, là như sau. Theseus và Pirithous đã cùng nhau du hành đến Sparta, bắt lấy thiếu nữ khi nàng đang nhảy trong đền Artemis Orthia,122 và chạy trốn cùng với nàng. Đám người chỉ đuổi theo họ tới Tegea,123 và thế là hai người bạn, sau khi băng qua Peloponnese và ở ngoài tầm nguy hiểm, đã thỏa thuận với nhau rằng: ai trong họ rút thăm trúng Helen sẽ cưới nàng, nhưng cũng phải giúp người kia tìm một người vợ khác. Thương lượng xong, họ tiến hành rút thăm và Theseus thắng, nhưng vì thiếu nữ hãy còn quá trẻ để kết hôn, nên ông bèn đưa nàng đến Aphidnae.124 Tại đây, ông để nàng ở lại với mẹ ông và gửi gắm cả hai cho người bạn là Aphidnus chăm sóc, dặn ông ta bảo vệ họ trong bí mật tuyệt đối. Rồi thì, để đền đáp sự giúp đỡ của Pirithous, ông đã cùng bạn đến Epirus125 để cầu hôn con gái của Aidoneus, vua của người Molossian,126 có vợ là Phersephone, con gái Kore, và con chó Cerberus.127 Những ai cầu hôn đều phải chiến đấu với con chó và người chiến thắng sẽ được hứa hôn với con gái ông ta. Tuy nhiên, khi Aidoneus phát hiện ra là Pirithous cùng người bạn đến đó không phải để cầu hôn con gái mình mà để bắt cóc nàng, ông ta đã bắt giữ cả hai. Ông ta trừ khử Pirithous bằng cách thả chó ra để cắn chết, còn với Theseus thì ông ta cho biệt giam. 32. Trong khi đó tại Athens, Menestheus, con trai của Peteos, cháu của Orneus và chắt của Erechtheus, đã nhúng tay vào chính sự. Người ta kể, hắn là kẻ đầu tiên chú trọng nghệ thuật mị dân và lấy lòng dân chúng. Hắn bắt đầu bằng cách tập hợp các quý tộc lại và khơi dậy nỗi oán hận nơi họ. Họ đã ấp ủ từ lâu mối ác cảm với Theseus, vì họ cảm thấy ông đã tước đoạt vị thế và uy quyền của những người trâm anh thế phiệt ở xứ sở mình rồi lùa tất cả họ vào một thành phố duy nhất, nơi ông đối xử với họ như những thần dân và nô lệ. Đồng thời, Menestheus cũng kích động dân chúng qua những lời buộc tội nhằm vào Theseus. Hắn nói với họ rằng họ có thể đã tự dối gạt mình với giấc mơ về tự do, trong khi sự thật là họ đã bị cướp mất thành phố quê hương và những nghi lễ thiêng liêng của mình, tất cả là để khiến họ phải tôn thờ một chủ nhân duy nhất vốn là một kẻ nhập cư và là kẻ ngoại bang, thay thế cho nhiều nhà cai trị ưu tú cùng chung dòng máu với họ. Trong khi Menestheus ra sức gieo rắc sự bất mãn, các con trai của Tyndareus đã đưa quân vào thành phố, và cuộc chiến đã giúp ích rất nhiều cho những mưu đồ cách mạng của hắn; trên thực tế một số tác giả đã đi xa đến mức nói rằng chính hắn đã xúi giục bè lũ xâm lược kéo đến. Thoạt đầu họ không động binh, mà chỉ đòi lại em gái mình. Nhưng khi người Athens đáp rằng họ không giữ nàng, thậm chí họ cũng chẳng biết nàng ở nơi nào, thì chiến tranh bắt đầu bùng nổ mãnh liệt. Tuy nhiên, Academus,128 người bằng cách nào đó phát hiện ra Helen bị giấu tại Aphidnae,129 đã cho họ biết sự thật. Vì lý do này, ông ta đã được các con trai của Tyndareus kính trọng suốt đời mình, và trong nhiều lần sau này khi người Sparta xâm lược vùng Attica và tàn phá khắp miền quê xung quanh, vì sự kính trọng với ông, họ đã tha cho mảnh đất vốn được biết đến với tên gọi Academy130. Mặt khác, Dicaearchus kể rằng có hai người Arcadia là Echedemus và Marathus, phục vụ trong đội quân của anh em nhà Tyndareus vào lúc ấy, và rằng Academy hiện nay ban đầu được đặt là Echedemia theo tên của người thứ nhất, còn tên người thứ hai được đặt cho thị trấn Marathon; đó là vì tuân theo một lời tiên tri nào đó, anh ta đã chấp nhận bị hiến tế trước toàn quân. Các con trai của Tyndareus sau đó đã đến Aphidnae, đánh thắng một trận và đoạt lấy thị trấn này. Nghe đâu con trai của Sciron là Alycus, lúc bấy giờ đang chiến đấu trong đội quân của Dioscuri,131 đã bị sát hại ở đó, và rằng có một địa danh ở Megara, nơi chôn cất anh ta, được đặt theo tên anh ta là Alycus. Tuy nhiên, Hereas thì viết rằng Alycus đã bị chính Theseus giết ở Aphidnae, Người mà Theseus hạ sát trên bình nguyên Aphidnae bao la, Đang chiến đấu vì nàng Helen khả ái. Mặt khác, dường như khó có khả năng là Theseus có mặt ở đó khi mẹ ông bị bắt và thị trấn Aphidnae thất thủ. 33. Dù sao đi nữa thì Aphidnae đã bị xâm chiếm và sự hoảng loạn bao trùm Athens. Tuy nhiên, Menestheus thuyết phục dân chúng tiếp đón các con trai của Tyndareus vào thành phố và thết đãi họ nồng hậu. Hắn chỉ ra rằng họ chỉ đánh nhau với Theseus, kẻ gây sự trước, còn với những người còn lại họ đã cư xử như những vị cứu tinh và ân nhân. Và quả nhiên, hành động của họ đã chứng thực điều hắn nói, vì mặc dù họ giờ đây đã là chủ nhân của toàn bộ thành phố, nhưng yêu cầu duy nhất họ đưa ra là được thụ nhận Nghi lễ bí truyền Eleusis, lấy lý do là họ có mối quan hệ gần gũi với thành phố như Heracles. Đặc ân này đã được ban cho họ sau khi họ được Aphidnus nhận làm con nuôi, cũng như Heracles được Pylius nhận nuôi. Họ cũng được sùng kính như các thần linh, và được gọi là Anakes.132 Danh hiệu này có thể bắt nguồn từ việc họ đã dừng cuộc chiến lại, hoặc từ việc họ đã rất cẩn trọng để không ai bị thương, kể cả với một đội quân lớn ở trong tường thành. Những người bảo hộ hoặc chăm nom cái gì đó thì được gọi là anakos, và đó có thể là lý do vì sao các vị vua được gọi là Anaktes. Một lối giải thích khác là các con trai của Tyndareus được gọi là Anakes vì hình dạng chòm sao song tử trên bầu trời, vì người Athens dùng từ anekas và anekathen để chỉ ano và anothen nghĩa là ở trên hoặc trên cao. 34. Cũng nghe đâu là Aethra, mẹ của Theseus, từng bị bắt giữ tại Aphidnae, đã được đưa đến Sparta và sau này đến Troy,133 và Homer đã xác nhận điều này khi ông ta kể rằng đi cùng Helen là Aethra, con gái của Pittheus, và Clymene mắt to.134 Tuy nhiên, những người khác thì cho rằng câu thơ này là giả mạo, cũng như câu chuyện về Munychus. Nghe đâu Munychus là đứa con ngoài giá thú của Laodice và Demophoon, và đã được Aethra giúp nuôi dưỡng tại Troy. Mặt khác, Ister, trong History of Attica (Lịch sử Attica) quyển thứ 13, kể một câu chuyện rất lạ lùng và hoàn toàn khác về Aethra. Ông nói, có một thuyết cho rằng Paris đã bị Achilles135 và Patroclus136 đánh bại trong trận chiến bên sông Spercheius ở Thessaly, nhưng Hector137 đã chiếm đoạt và cướp phá thành phố Troezen rồi bắt cóc Aethra, vốn đã bị bỏ lại đó. Nhưng đây có vẻ là chuyện rất khó tin. 35. Bấy giờ khi Heracles đang được Aidoneus xứ Molossia tiếp đãi, nhà vua tình cờ nhắc đến chuyện của Theseus và Pirithous, giải thích với Heracles những gì họ định làm khi đến đó và họ đã bị trừng phạt ra sao khi bị tìm thấy. Heracles bị choáng khi hay tin một người đã chết nhục nhã, trong khi người kia thì chỉ đang chờ chết. Heracles cảm thấy chẳng ích gì khi kết tội nhà vua về số phận của Pirithous, nhưng đã xin ông ta phóng thích Theseus và coi đây là một ân huệ dành cho mình. Aidoneus chấp thuận lời cầu khẩn ấy và Theseus đã được trả tự do rồi quay về Athens, nơi bạn bè ông vẫn chưa hoàn toàn mất hết quyền lực. Tất cả những nơi linh thiêng mà thành phố trước đây để dành cho ông thì giờ đây ông dành tặng Heracles, và ông đổi tên chúng từ Theseia thành Heracleia, chỉ trừ bốn địa danh, như Philochorus kể với chúng ta. Nhưng khi ông cố gắng giành lại vị thế đứng đầu quốc gia như trước, ông thấy mình bị nhấn chìm trong đủ kiểu hỗn loạn và chia bè rẽ phái. Ông nhận ra rằng lòng căm ghét của những người từng là kẻ thù khi ông ra đi giờ đây được gia tăng bởi sự khinh miệt, và hơn nữa, một bộ phận lớn dân chúng đã hư hỏng và giờ đây mong đợi được phỉnh nịnh để tuân theo những mệnh lệnh của ông, thay vì chấp nhận chúng mà không thắc mắc. Khi ông cố đạt được ý đồ bằng vũ lực, ông thấy mình bị thất thế trước những kẻ mị dân cũng như các phe cánh, và cuối cùng, tuyệt vọng với viễn cảnh của mình, ông bí mật gửi các con đến Euboea cho Elephenor,138 con trai của Chalcodon. Rồi sau khi long trọng buông những lời nguyền rủa lên dân Athens tại Gargettus (địa danh ngày nay được gọi là Araterion, hay nơi nguyền rủa) ông dong buồm đến Scyros.139 Ông chờ đợi được tiếp đón ân cần ở đó, và ông cũng sở hữu một vài điền sản do tổ tiên để lại trên đảo này. Lúc bấy giờ, Lycomedes là vua của Scyros, và Theseus đã xin ông ta hoàn trả lại đất đai cho mình, vì ông có ý định sống ở đó, mặc dù theo một dị bản khác thì ông đã khẩn cầu nhà vua giúp ông chống lại người Athens. Nhưng Lycomedes, hoặc vì e ngại một người có danh tiếng như Theseus, hoặc vì muốn ban cho Menestheus một ân huệ, nên đã đưa Theseus lên nơi cao nhất của hòn đảo với cái cớ là để chỉ cho ông xem điền sản của mình từ nơi đó, để rồi đẩy ông xuống vách đá và bỏ mạng tại đó. Tuy nhiên, có một điển tích khác, rằng Theseus đã tự trượt ngã khi đang tản bộ theo thói quen sau bữa tối. Vào lúc ấy, chẳng mấy ai chú ý đến cái chết của ông. Menestheus bấy giờ đang là vua tại Athens, trong khi các con trai của Theseus phụng sự Elephenor như những thần dân của vua trong cuộc viễn chinh đến Troy, nhưng sau khi Menestheus chết trong cuộc chiến thành Troy, họ đã trở về và giành lại quyền sở hữu vương quốc. Tuy nhiên, trong những thời kỳ sau này, có nhiều lý do khiến người Athens tôn thờ Theseus như một vị bán thần; lý thú nhất là việc nhiều trong số những người chiến đấu với người Medes140 tại Marathon tin rằng họ đã nhìn thấy Theseus hiện hình, toàn thân giáp phục và lao lên trước họ tấn công đám rợ141. 36. Sau các cuộc chiến tranh Ba Tư, khi Phaedo là quan chấp chính,142 người Athens tham vấn lời tiên tri tại Delphi và được nữ tư tế Pythia chỉ thị đưa hài cốt của Theseus về quê nhà, tổ chức an táng trọng thể tại Athens và gìn giữ như thánh tích. Để tìm ra mộ phần và mang di hài về nhà là một nhiệm vụ khó khăn bởi tâm tính hung tợn và không hiếu khách của người Dolopia, lúc bấy giờ là những cư dân Scyros. Tuy nhiên, Cimon đã chiếm được hòn đảo, như tôi đã mô tả trong cuốn Life (Cuộc đời) của ông,143 và coi việc tìm ra nơi an nghỉ của Theseus là vấn đề danh dự. Ông tình cờ thấy một con đại bàng, tại nơi có hình dạng một mô đất, đang dùng mỏ mổ xuống đất và dùng móng vuốt cào xới đất, và bằng một linh cảm nào đó ông kết luận rằng họ nên đào bới ở nơi này. Rồi họ tìm thấy áo quan của một người đàn ông dáng vóc to cao, bên cạnh là một ngọn giáo và thanh kiếm bằng đồng. Khi Cimon đưa những di vật này về nhà trên chiến thuyền ba tầng chèo của mình, người Athens xiết đỗi hân hoan và nghênh đón chúng với những cuộc diễu hành và lễ tế tráng lệ, như thể chính vị anh hùng đang trở về với thành phố của mình. Ông được an táng tại trung tâm Athens gần nơi tọa lạc của Gymnasium144 ngày nay, và lăng mộ của ông là thánh điện của đám nô lệ bỏ trốn và tất cả những người cùng khổ, bị áp bức và sợ hãi cường quyền, vì cả đời Theseus luôn là người bênh vực và cứu giúp kẻ khốn cùng, và luôn ân cần lắng nghe những lời thỉnh cầu của người nghèo. Lễ tế trang trọng nhất mà dân Athens cử hành để tôn vinh ông rơi vào ngày thứ tám của tháng Pyanepsion,145 ngày ông từ Crete trở về cùng những thanh niên Athens. Ngoài ngày này, họ còn tôn vinh ông vào ngày thứ tám của các tháng khác, vì bắt nguồn từ việc ông từ Troezen đến Athens vào ngày thứ tám của tháng Hecatombaeon,146 như nhà địa hình học Diodorus147 đã ghi lại, hoặc vì họ coi đây là con số đặc biệt thuộc về ông, với tư cách người con trai danh nghĩa của Poseidon. Lý do cho việc này là họ tỏ lòng tôn kính với Poseidon vào ngày thứ tám hằng tháng. Con số tám là lũy thừa ba của số chẵn đầu tiên và cũng là gấp đôi số bình phương đầu tiên. Do đó nó là một biểu tượng đặc biệt phù hợp cho quyền năng vĩnh cửu và bất di bất dịch của vị thần này, mà chúng ta gọi là người nâng đỡ và bảo hộ trần gian. 17. Một trong những người bạn La Mã có ảnh hưởng nhất của Plutarch, bốn lần giữ chức chấp chính quan thời kỳ năm 98-107, là học giả và thông tín viên của Pliny. Plutarch cũng nhắc đến ông trong phần mở đầu về Cuộc đời của Demosthenes và Dion. (I.S.-K) 18. (Khoảng 525/524-456 TCN), nhà thơ, kịch tác gia Hy Lạp cổ đại, được coi là cha đẻ của bi kịch. 19. Seven Against Thebes, 435. (I.S.-K) 20. Iliad, vii, 281, nhắc đến Telamonian Ajax và Hector. (I.S.-K) 21. (1397-1347 TCN), theo huyền thoại, đây là tổ tiên của người Athens. 22. Một thị trấn nhỏ, cổ xưa trên bờ vịnh Saronic đối diện Athens. (I.S.-K) 23. (Khoảng 750-650 TCN), nhà thơ Hy Lạp cổ đại. 24. Works and Days, câu 370. (I.S.-K) 25. (384-322 TCN), triết gia Hy Lạp cổ đại. 26. (Khoảng 480-406 TCN), một trong ba kịch tác gia vĩ đại của Athens. 27. (Khoảng 170-235), nhà thần học Ki-tô giáo ở Rome. 28. Hippolytus, câu 11. (I.S.-K) 29. Người đóng vai trò trung gian cho lời tiên tri của Apollo tại Delphi. """