"
Sứ Giá của Thần Chết - Sidney Sheldon full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sứ Giá của Thần Chết - Sidney Sheldon full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục Lục • Chương 1
• Chương 2
• Chương 3
• Chương 4
• Chương 5
• Chương 6
• Chương 7
• Chương 8
• Chương 9
• Chương 10
• Chương 11
• Chương 12
• Chương 13
• Chương 14
• Chương 15
• Chương 16
• Chương 17
• Chương 18
• Chương 19
• Chương 20
• Chương 21
• Chương 22
• Chương 23
• Chương 24
• Chương 25
• Chương 26 • Chương 27 • Chương 28 • Chương 29 • Chương 30 • Chương 31
Chương 1
WASHINGTON D.C.
Stanton Rogers dự định ứng cử Tổng thống Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia có sức thu hút được nhận thấy khá rõ với đông đảo quần chúng ủng hộ và được những bạn bè có thế lực hậu thuẫn. Không may cho Rogers, cuộc đời tình ái lại dính vào con đường sự nghiệp của ông. Hoặc, như Washington Mavens diễn đạt: "Lão già Stanton đã tự đẩy mình ra khỏi ghế Tổng thống".
Không phải Stanton Rogers tưởng tượng mình là một Casanova. Trái lại, cho đến cuộc chạy trốn khỏi phòng ngủ duy nhất tai hại ấy, ông đã là một người chồng gương mẫu. Ông đẹp trai, giàu có và đang trên đường tiến đến một trong những chức vụ quan trọng nhất của thế giới, và mặc dầu trước đây ông có nhiều cơ hội để phụ bạc vợ ông, ông chưa bao giờ nghĩ đến một người phụ nữ nào cả.
Trong lúc Barbara, người phụ nữ mà Rogers yêu và cuối cuộc đời đi đến hôn nhân sau một cuộc ly dị được đăng báo rộng rãi, lớn hơn Stanton những năm tuổi, có khuôn mặt dễ nhìn, hơi xinh đẹp một tí và hình như chẳng có điểm nào chung với ông cả. Stanton thích điền kinh, Barbara ghét tất cả các hình thức thể dục. Stanton ưa sống tập thể, Barbara chỉ thích ở một mình với chồng hoặc chơỉ với các nhóm bạn bè nhỏ. Sự kinh ngạc lớn đối với những ai biết Stanton Rogers là sự khác biệt về chính trị. Stanton thuộc Đảng Tự Do trong lúc Barbara lại trưởng thành trong một gia đình bảo thủ chính cống.
Paul Ellison, bạn thân nhất của Stanton đã nói:
- Có lẽ cậu điên rồi đấy. Cậu và Liz như được ghi vào sách "Kỷ lục Guinness" như là đôi vợ chồng hoàn hảo. Cậu không thể vứt điều ấy đi vì một vài điều vội vã!
- Cậu có cho rằng việc này sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của cậu như thế nào không?
- Hết phân nửa các cuộc hôn nhân trong đất nước này đều dẫn đến ly dị. Chẳng nhằm nhò gì cả, - Stanton trả lời.
Ông đã tỏ ra là một nhà tiên tri tồi. Tin tức về cuộc ly dị cay đắng trở thành miếng mồi ngon cho báo chí và những tờ báo nhảm nhí tận dụng việc ấy càng ác liệt càng tốt, với những bức tranh vẽ tổ ấm của Stanton Rogers và các câu chuyện về các cuộc hẹn hò bí mật lúc nửa đêm. Báo chí cố giữ cho câu chuyện càng kéo dài càng tốt và khi nào sự náo nhiệt tắt lịm, những người bạn có thế lực đã ủng hộ Stanton Rogers đi đến chiếc ghế Tổng thống biến mất. Họ tìm ra một bạch y hiệp sĩ mới để đoạt chức vô địch: Paul Ellison.
Chọn Ellison là một sự chọn lựa lôgich. Tuy ông vừa không có được vẻ đẹp trai lẫn sự thu hút của Stanton Roges, nhưng ông thông minh, dễ mến và có nền tảng đứng đắn. Ông thấp người, có những đường nét đều đặn bình thường và đôi mắt bộc trực. Ông đã kết hôn và sống hạnh phúc được mười năm với Aliee con gái một nhà đại tư bản thép và họ được tiếng là một đôi uyên ương nồng thắm.
Như Stanton Roges, Paul Ellison đã theo học tại Yale và tốt nghiệp Trường luật Harvard. Cả hai đã cùng nhau trưởng thành. Gia đình họ có những ngôi nhà nghỉ hè nằm kề cận nhau tại Southampton và các cậu bé cùng đi bơi với nhau, tổ chức các đội bóng chày và sau này, đi với nhau như một cặp bài trùng. Họ học cùng lớp tại Harvard.
Paul Ellison học giỏi, nhưng chính Stanton Roges lại là học trò xuất sắc là chủ bút của tờ tạp chí Luật Harvard, ông lo cho anh bạn Paul của ông trở thành phụ tá. Bố của Stanton Roges là một
thành viên kỳ cựu tại một hội luật gia có tiếng tăm tại Wall Street và khi Stanton đến đấy làm việc trong những dịp hè, ông cũng thu xếp cho Paul đến đấy nữa. Khi tốt nghiệp trường Luật, ngôi sao chính trị của Stanton Roges bắt đầu vụt sáng như sao băng và nếu ông là sao chổi thì Paul Ellison là cái đuôi.
Cuộc ly dị đã làm thay đổi mọi việc. Bây giờ chính Stanton Roges lại trở thành phần phụ thuộc cho Paul Ellison. Con đường mòn lên đỉnh núi mất gần mười lăm năm. Ellison thất bại trong một cuộc bầu cử Thượng viện, thắng trong cuộc bầu cử sau đấy và trong vòng vài năm kế tiếp, đã trở thành một luật gia vững vàng khá được trọng vọng. Ông đấu tranh chống lại sự lãng phí trong chính phủ và chế độ quan liêu Washington. Ông là một người theo quan niệm dân kiểm và tin vào sự hoà hoãn quốc tế ông được mời đọc diễn văn đề cử cho cuộc chạy đua tái cử Tổng thống đương nhiệm. Đó là bài diễn văn hùng hồn, xuất sắc làm cho mọi người phải ngồi thẳng dậy và đưa ra nhận xét. Bốn năm sau, Paul Ellison được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ. Việc bổ nhiệm đầu tiên của ông ta là đưa Stanton Roges vào chức Cố vấn ngoại giao của Tổng thống.
Lý thuyết của Marshall McLuhan cho rằng truyền hình sẽ biến thế giới thành một ngôi làng hình cầu đã trở thành sự thật. Lễ tuyên thệ nhậm chức Tống thống thứ 42 của Hoa Kỳ được vệ tinh truyền đi đến trên 190 nước.
Tại Black Rooster, một nơi vãng lai dành cho báo chí tại Washington D.C., Ben Cohn, một phóng viên chính trị lão thành của tờ Washington Post ngồi tại một chiếc bàn với bốn đồng nghiệp xem lễ tuyên thệ nhậm chức qua một chiếc tivi lớn đặt trên quầy rượu.
- Thằng chó đẻ làm tôi tốn mất 50 đô- la đấy, - một phóng viên lên tiếng phàn nàn.
- Tôi cảnh cáo cậu không nên đánh cá với Ellison đấy, - Ben Cohn lên tiếng. - Lão có ma thuật, em bé ạ. Tốt hơn cậu nên tin đi.
Máy quay phim thành công với việc trình bày cả đám đông khổng lồ tụ tập trên đại lộ Pennsylvania, co ro trong những chiếc áo khoác để chống chọi với các cơn gió tê cóng của tháng giêng, lắng nghe buổi lễ bằng loa phóng thanh đặt chung quanh vòng đai. Jason Merlin, Chánh án Toà án tối cao Hoa Kỳ chấm dứt lời tuyên thệ với vị tân Tổng thống bắt tay ông và bước đến micro.
- Hãy nhìn những tên ngốc nghếch đang đứng đấy kìa và đang tê cóng đít, - Ben Cohn lên tiếng phê bình. - Các cậu có biết tại sao họ không được thoải mái như những người bình thường xem truyền hình không?
- Tại sao vậy?
- Bởi vì có một người đang làm lịch sử các cậu ạ. Một ngày nào đấy, tất cả những người ấy sẽ kể với con cháu của họ rằng họ đã ở đấy vào ngày mà Paul Ellison đã tuyên thệ. Và tất cả bọn họ sẽ khoác lác rằng: "Tôi đứng gần người đến nỗi tôi có thể sờ vào người đấy".
- Ông cay độc thế, ông Cohn.
- Và tự hào nữa. Mọi chính trị gia trên thế giới đều xuất thân từ cùng một con dao cắt bánh quy cả. Họ đều ở cả trong ấy để tìm điều gì họ có thể lấy ra được. Hãy đối diện với nó, các cậu ạ, vì tân Tổng thống của chúng ta là một người theo chủ thuyết tự do và là một người lý tưởng. Điều ấy đã đủ cho bất kỳ người thông minh nào những cơn ác mộng rồi đấy. Định nghĩa của tôi về một người theo chủ thuyết tự do là một người mà đít dính chặt vào những đám mây len bông.
Sự thật thì Ben Cohn chẳng cay độc như giọng nói của ông. Ông đã bảo vệ cho sự nghiệp của Paul Ellison ngay từ đầu và mặc dầu sự thực thì lúc đầu Cohn đã chẳng có cảm giác gì cả, trong lúc Ellison bước lên chiếc thang chính trị, Ben Cohn bắt đầu thay đổi ý kiến. Con người chính trị này chẳng phải là con người "vâng ạ" với bất kỳ một ai. Ông ấy là một cây sồi trong một khu rừng liễu.
Bên ngoài, bầu trời giăng một bức màn mưa giá lạnh. Ben Cohn hy vọng rằng thời tiết không phải là điềm báo trước bốn năm đang trước mặt.
Ông lại chăm chú nhìn vào tivi.
"Chiếc ghế Tổng thống Hoa Kỳ là một ngọn được được người dân Mỹ thắp lên và được chuyền tay cứ bốn năm một lần. Ngọn được đã được tín nhiệm vào sự chăm sóc của tôi là vũ khí mạnh nhất trên thế giới. Nó khá mạnh để đốt trụi nền văn minh như chúng ta biết đấy hoặc là ngọn được soi đường, thắp sáng tương lai cho chúng ta và thế giới còn lại. Chúng ta có quyền chọn lựa. Tôi lên tiếng ngày hôm nay không những cho các đồng minh của chúng ta mà còn cả cho các quốc gia thuộc cánh Xô viết nữa. Bây giờ, tôi nói với họ, trong lúc chúng ta chuẩn bị tiến vào thế kỷ 21, rằng chẳng còn chỗ nào cho sự đối nghịch nữa, rằng chúng ta phải học để làm cho câu "một thế giới" trở thành một hiện thực. Bất kỳ con đường nào khác chỉ có thể tạo ra một sự tàn phá kinh khủng mà chẳng bao giờ có quốc gia nào bình phục được. Tôi biết rõ những sự khác biệt rộng lớn giữa chúng ta và các quốc gia XHCN, nhưng ưu tiên nhất của chính quyền này sẽ là xây dựng những cây cầu không lay chuyển được bắc qua những sự cách biệt đó.
Những lời của ông vang ra bằng một tấm chân tình sâu sắc.
- Ông ấy muốn nói lên điều đó" - Ben Cohn suy nghĩ. - Mình hy vọng rằng chẳng ai ám sát đứa con hoang cả.
Tại thị xã Junction, Kansa, vào một loại ngày mà thị xã như ở trong một phòng kính phình ra, lạnh giá và ẩm ướt và tuyết rơi dày đến nỗi tầm nhìn trên Đại lộ số 6 hầu như zéro. Mary Ashley cẩn thận lái xe camionette cũ kỹ của cô hướng về trung tâm đại lộ nơi có những chiếc xe cày tuyết đã làm việc. Cơn giông đã làm cô đến lớp dạy muộn. Cô lái chậm chậm, cẩn thận để chiếc xe khỏi gặp tai nạn.
Từ chiếc đài trên xe vang lên giọng nói của vị Tổng thống.
"Có nhiều người trong chính phủ và nhân dân cho rằng Mỹ nên xây dựng thêm nhiều chiến luỹ thay vì xây cầu. Câu trả lời của tôi cho vấn đề ấy là chúng ta không còn có thể chấp nhận việc đẩy chính chúng ta và con cái chúng ta vào một tương lai mà những kình địch trên toàn thế giới và chiến tranh hạt nhân sẽ đe doạ".
Mary Ashley suy nghĩ: Mình sung sướng vì đã bỏ phiếu cho ông. Paul Elhson sẽ là một vị Tổng thống vĩ đại.
Tay cô ghì chặt tay lái vì tuyết đã biến thành một cơn lốc trắng toát.
Tại St. Croix, mặt trời nhiệt đới chiếu sáng trên một bầu trời trong xanh, không một gợn mây, nhưng Harry Lantz chẳng có ý định nào đi ra ngoài cả. Hắn đang có quá nhiều trò vui trong nhà. Hắn đang nằm trên giường, trần truồng, ép chặt giữa chị em Dolly, Lantz có bằng chứng theo kinh nghiệm rằng họ thực sự không phải là chị em. Annette là một cô gái nước da bánh mật tự nhiên, cao lớn và Sally là một cô gái tóc hoe tự nhiên, cao lớn. Ở đầu xa của phòng khách sạn, hình ảnh của vị Tổng thống rung rinh trên máy truyền hình.
"… Vì tôi tin rằng chẳng có vấn đề nào không giải quyết được bằng thiện chí thuần tuý của cả hai phe, bức tường bê- tông chung quanh Đông Berlin phải được hạ xuống.
Sally dừng các động tác của nàng khá lâu để hỏi.
- Anh yêu, anh muốn em tắt cái máy trời đánh ấy không?
- Để mặc nó. Anh muốn nghe điều ông ấy phải nói.
Annette ngẩng đầu lên.
- Anh có bỏ phiếu cho ông ấy không?
Harry Lant la lên:
- Nè, hai người! Tiếp tục đi…!
"Như các bạn biết đấy, ba năm trước đây, Rumani cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Tôi muốn báo cho các bạn biết rằng hiện nay chúng ta đã xích lại gần chính phủ Rumani và chủ tịch của họ, Alexandros Ionescu, đã đồng ý tái lập quan hệ ngoại giao với nước ra đấy".
Có tiếng hoan hô từ đám đông trên Đại lộ Pennsylvania, Harry Lantz ngồi bật dậy thật đột ngột.
- Anh cử động làm gì thế, anh yêu!
Lantz không nghe nàng. Đôi mắt hắn dán vào máy truyền hình.
"Một trong những hành động chính thức của chúng ta, - vị Tổng thống nói - là sẽ đưa một đại sứ đến Rumani. Và đấy chỉ là bước đầu".
Tại Bucarest, trời đã về chiều, thời tiết mùa đông đột ngột dịu lại và những con đường của các khu chợ chiều đầy nghẹt những công nhân đang sắp hàng để mua sắm trong thời tiết ấm áp trái mùa.
Chủ tịch của Rumani, Alexandros Ionescu đang ngồi trong văn phòng của ông tại Peles, dinh thự xưa, trên đường Calea Victoriei, với năm sáu người phụ tá vây quanh, và lắng nghe tin tức trên một chiếc đài sóng ngắn.
"Tôi không có ý định dừng lại đấy, - vị Tổng thống Mỹ nói, - Anbani đã cắt đứt tất cả liên hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1946. Tôi định nối lại những sợi dây ấy. Thêm vào đấy, tôi định củng cố những mối liên hệ ngoại giao chúng ta với Bungari, Tiệp Khắc và Đông Đức".
Trên chiếc đài vang lên những tiếng hoan hô và vỗ tay.
"Việc chúng ta gửi đại sứ đến Rumani là khởi đầu của một phong trào giữa các dân tộc rộng khắp thế giới. Chúng ta đừng quên rằng tất cả nhân loại đều có chung một nguồn gốc, những vấn đề chung và chung một số phận cuối cùng. Chúng ta hãy nhớ rằng những vấn đề chúng ta cùng nhau chia sẻ lớn hơn những vấn đề ngăn cách chúng ta và điều ngăn cách chúng ta chính là tác phẩm của chúng ta".
Tại một biệt thự được canh gác nghiêm ngặt ở Neuilly, một vùng ở ngoại ô Paris, nhà lãnh tụ cách mạng Rumani, Marin Groza, đang nhìn vị Tổng thống trên băng tần 2 vô tuyến truyền hình.
"Giờ đây tôi hứa với các bạn rằng tôi sẽ cố gắng hết sức mình và tôi sẽ tìm cho ra những người
tốt nhất giữa những người khác…"
Tiếng vỗ tay kéo dài tròn 5 phút.
Marin Groza lên tiếng đầy suy tư:
- Tôi nghĩ rằng giờ của chúng ta đã điểm, Lev ạ. Ông ta thật sự muốn điều ấy. Lev Pasternak, viên bí thư chính của ông, đáp lại:
- Việc này sẽ không giúp gì cho Ionescu chứ?
Marin Groza lắc đầu.
- Ionescu là một tên độc tài nên rốt cuộc chẳng có gì giúp được hắn cả. Nhưng tôi phải rất cẩn thận trong việc tính toán thời gian. Tôi không được quyền thất bại nữa.
Peter Connors không say - không say như ông ta dự định. Ông hầu như đã uống cạn ly Scotch thứ năm khi cô Nancy, cô thư ký riêng sống chung với ông ta, lên tiếng:
- Anh không nghĩ rằng anh đã uống đủ rồi ư, Peter?
Ông mỉm cười và vỗ lên người nàng.
- Tổng thống của chúng ta đang nói chuyện. Em phải tỏ ra tôn trọng một tí chứ. - Ông ta quay sang nhìn bức ảnh trên máy truyền hình. - Đồ chó đẻ Cộng sản - ông ta thét vào màn ảnh. - Đây là đất nước của tao và CIA sẽ không để mày phản bội đâu. Chúng tao sẽ chặn mày lại, Cộng sản ạ 1.
Mày có thể lấy mạng mày đánh cuộc đi.
Chương 2
Paul Ellison nói.
- Tôi sẽ cần nhiều đến sự giúp đỡ của cậu, anh bạn già ạ.
- Cậu sẽ có, - Stanton Roges điềm tĩnh đáp.
Họ đang ngồi ở văn phòng Bầu dục, vị Tổng thống ngồi tại bàn giấy với một lá cờ Mỹ sau lưng. Đây là cuộc họp đầu tiên của họ trong văn phòng này, và Tổng thống Ellison cảm thấy khó ở.
Nếu Stanton lỗi lầm duy nhất ấy, Paul Ellison nghĩ, cậu ấy sẽ ngồi vào chiếc bàn giấy này thay vì mình.
Dường như đọc được tâm trạng của ông, Stanton Roges lên tiếng:
- Tôi có một lời tự thú. Ngày cậu được bổ nhiệm chức vụ Tổng thống, tôi thật ganh tị, Paul ạ. Đấy là giấc mơ của tôi và cậu lại thay vào đấy. Nhưng cậu có biết việc gì không? Cuối cùng tôi nhận ra rằng nếu tôi không thể ngồi vào chiếc ghế ấy thì chẳng còn ai khác trên đời mà tôi muốn đặt vào đấy ngoài cậu ra. Chiếc ghế ấy thích hợp với cậu đấy.
Paul Ellison mỉm cười với bạn và nói:
- Thực sự mà nói, Stan, căn phòng này làm tôi sợ kinh khủng. Tôi có cảm giác thấy được những hồn ma Washington, Lincoln và Jefferson.
- Chúng ta cũng đã có những vị Tổng thống…
- Tôi biết. Nhưng chính họ là những vĩ nhân mà chúng ta phải cố gắng sống theo.
Ông ấn nút trên bàn giấy và vài giây sau, một người phục vụ mặc áo khoác trắng bước vào phòng.
- Vâng, thưa Tổng thống?
Paul Ellison quay sang Rogers:
- Cà phê chứ?
- Nghe hay đấy!
- Thích gì nữa không?
- Không, cám ơn. Barbara muốn tôi để ý đến vòng bụng.
Vị Tổng thống gật đầu với Henry, người phục vụ và anh ta lặng lẽ rời căn phòng.
Barbara. Nàng đã làm mọi người kinh ngạc. Ở Washington, người ta bàn tán rằng cuộc hôn nhân sẽ dài không quá một năm. Nhưng giờ đây hầu như đã mười lăm năm rồi và đấy là một thành công. Stanton Roges đã xây dựng được một cuộc thực tập về luật cho uy tín của mình tại Washington và Barbara đã được tiếng là một bà chủ duyên dáng.
Paul Ellison đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại.
- Bài diễn văn giữa các dân tộc của tôi hình như đã gây náo động thực sự. Tôi cho rằng cậu đã đọc tất cả báo chí rồi.
Stanton Roges nhún vai:
- Cậu biết họ như thế nào đấy. Họ thích dựng lên anh hùng để họ có thể hạ bệ đấy. Nói thẳng ra, tôi chẳng nguyền rủa điều gì báo chí nói đâu. Tôi quan tâm đến điều người dân nói. Khách quan mà nói, cậu đang đặt lòng sợ hãi Thiên chúa vào nhiều người, Paul ạ. Các lực lượng võ trang đang chống lại kế hoạch của cậu và những kẻ sách động có thế lực muốn thấy việc của cậu thất bại.
- Nó sẽ không thất bại đâu, - ông dựa lưng vào thành ghế. - Cậu có biết những vấn đề lớn đối với thế giới ngày nay là gì không? Không còn chính khách nào nữa cả. Các quốc gia đang bị các chính trị gia cai trị. Đã có một thời, không lâu mấy, khi quả đất có những người khổng lồ. Một số tốt và một số xấu, nhưng nhờ trời, họ là những người khổng lồ. Roosevelt và Churchill, Hitler và Mussolini, Charles de Gaulle và Joseph Stalin. Tại sao tất cả bọn họ lại đều sống vào thời kỳ đặc biệt có một không hai ấy? Tại sao bây giờ không có chính khách nào cả?
- Kể cũng khó là một người lừng danh thế giới trên một màn ảnh 21 inch đấy.
Cánh cửa mở ra và người phục vụ xuất hiện mang một chiếc khay bạc với một bình cà phê và hai chiếc tách, mỗi món đều in con dấu Tổng thống. Anh ta rót cà phê một cách thành thạo.
- Tôi có thể lấy thêm gì khác không thưa Tổng thống?
- Không. Được rồi, Henry. Cám ơn anh.
Vị Tổng thống đợi đến lúc người phục vụ đi khỏi.
- Tôi muốn nói chuyện với cậu về việc tìm ra một đại sứ đúng đắn để đi Rumani. - Đúng rồi!
- Tôi không cần phải nói với cậu việc này quan trọng như thế nào. Tôi muốn cậu xúc tiến vấn đề ấy càng nhanh càng tốt!
Stanton Roges hớp một ngụm cà phê rồi đứng dậy.
- Tôi sẽ đặt quốc gia lên đấy ngay.
Trong một vùng ngoại ô nhỏ của Neuilly, lúc ấy là hai giờ sáng. Biệt thự của Marin Groza đang nằm trong bóng tối như mực, mặt trăng lẩn trong một đám mây giông tố dày đặc. Đường phố vào giờ này im bặt, chỉ có âm thanh của một khách qua đường bất chợt làm chao động sự im lặng. Một bóng người mặc đồ đen đi không tiếng động xuyên qua đám cây về hướng bức tường gạch bao bọc biệt thự. Trên vai hắn mang một cuộn dây thừng và một chiếc mền và trong tay hắn là một khẩu Uzi có ống giảm thanh và một ống phóng phi tiêu. Khi đến bức tường, hắn dừng lại và lắng tai nghe. Hắn chờ đợi, bất động, trong năm phút. Cuối cùng, vẻ hài lòng, hắn mở cuộn dây nylon và ném cái móc leo buộc vào đầu dây cho đến khi nó móc được vào bờ xa của bức tường. Gã đàn ông bắt đầu leo lên một cách nhanh nhẹn. Khi hắn lên đến đầu bức tường, hắn vung chiếc mền lên đấy để bảo vệ hắn khỏi những chiếc cọc kim loại có bôi thuốc độc ở đầu cọc gắn đầy trên đầu bức tường. Hắn lại dừng lại để lắng nghe. Hắn lật ngược cái móc, thòng dây vào bên trong bức tường và chuồi xuống đất. Hắn kiểm soát lại chiếc balisong ở thắt lưng, chiếc dao xếp Phillipinnes chết người có thể được bật ra và đóng lại bằng một tay.
Bầy chó tấn công sẽ là việc kế tiếp. Kẻ đột nhập nằm phục đấy đợi chúng bắt mùi. Có ba con
Doberman, được huấn luyện để giết người. Nhưng chúng chỉ là chướng ngại vật đầu tiên. Mặt đất và biệt thự đầy dẫy những máy móc điện tử và liên tục được thu vào các ống kính truyền hình. Tất cả thư từ và kiện hàng đều được nhận tại cổng và được những người gác cổng khui ra ở đấy. Các cửa biệt thự có khả năng chống bom. Biệt thự có nguồn cung cấp nước riêng và Marin Groza có riêng một người nếm thức ăn. Biệt thự bất khả xâm phạm. Giả sử như thế đi.
Bóng người mặc đồ đen đang đến đây đêm nay để chứng minh rằng không phải là như thế.
Hắn nghe tiếng động của bầy chó lao vào cắn hắn trước khi hắn thấy chúng. Từ trong bóng tối, chúng phóng lên tấn công vào cổ họng hắn. Có hai con. Hắn đưa ống phóng phi tiêu lên, ngắm và bắn con gần nhất bên trái trước rồi đến con bên phải, vừa tránh né kiểu lao người tấn công của chúng. Hắn xoay một vòng cảnh giác con chó thứ ba và khi nó đến, hắn lại bắn và rồi chỉ còn lại sự yên lặng.
Gã xâm nhập biết các bẫy âm thanh được chôn ở đâu và hắn đi vòng qua chúng. Hắn im lặng trườn qua các vùng đất mà các ống kính truyền hình không kiểm soát và trong vòng không đầy hai phút sau, khi hắn đã vượt qua tường, hắn đã đến cửa sau của biệt thự.
Khi hắn vừa chạm vào tay nắm của cánh cửa, hắn đột nhiên bị chụp kiểm trong vùng sáng đột ngột của nửa tá đèn pha. Một giọng nói vang ra.
- Đứng im! Bỏ súng xuống và đưa tay lên.
Bóng người mặc đồ đen cẩn thận bỏ súng xuống và nhìn lên. Có nửa tá người dàn ra trên mái nhà với đủ loại vũ khí chĩa vào hắn.
Người mặc đồ đen gầm lên.
- Tụi bay làm gì lâu thế? Lẽ ra tao đã không đi xa như thế này.
- Cậu không đi xa đâu! - người trưởng toán gác bảo hắn - Chúng tớ đã bắt đầu theo dõi cậu trước khi cậu vượt qua đường.
Lev Pasternak vẫn chưa nguôi giận:
- Vậy thì lẽ ra các cậu phải chặn tớ lại sớm hơn. Tớ có thể đã thi hành một sứ mệnh tự sát với một số lựu đạn hoặc một quả pháo quỷ quái. Tớ muốn có một cuộc họp toàn ban tham mưu vào sáng ngày mai, đúng tám giờ sáng. Mấy con chó đã bị thuốc mê. Hãy cho người canh chừng chúng cho đến lúc chúng tỉnh dậy.
Lev Pasternak tự hào là người bảo vệ an ninh giỏi nhất thế giới. Hắn đã là một phi công trong cuộc chiến đã trở tranh sáu ngày của Do Thái và sau cuộc chiến đã trở thành nhân viên hàng đầu tại Mossad, một trong năm cơ quan mật vụ của Do Thái.
Hắn không bao giờ quên được buổi sáng hai năm trước, khi vị đại tá của hắn gọi hắn lên văn phòng.
- Lev, có người muốn cậu ít tuần lễ.
- Tôi hy vọng đấy là một cô gái tóc vàng hoe, - Lev nói hàng hai.
- Đấy là Marin Groza!
Mossad có một hồ sơ đầy đủ về người bất đồng chính kiến Rumani. Groza là lãnh tụ của một phong trào dân chúng nhằm mục đích hạ bệ ông Alexandros Ionescu và sắp sửa đảo chính thì ông ta bị một trong những người của ông ta phản bội.
Hơn hai chục chiến sĩ bí mật bị hành quyết và Groza đã vừa vặn trốn được ra khỏi nước và tánh mạng của mình. Nước Pháp đã cho phép ông ta ẩn náu. Ionescu tố cáo Mann Groza là kẻ phản quốc và treo giá cái đầu của ông ta. Cho đến nay, hàng chục nỗ lực ám sát Groza đã thất bại, nhưng ông ta đã bị thương trong đợt tấn công mới nhất.
- Ông ta muốn gì ở tôi thế? - Pasternak lên tiếng hỏi.
- Ông ta cần có người đặt một hệ thống an ninh thật an toàn. Ông ta đến với chúng tôi. Tôi giới thiệu cậu đấy.
- Tôi phải đi Pháp ư?
- Cậu sẽ chỉ mất vài tuần lễ thôi.
- Tôi không…
- Tin tức của chúng ta cho biết rằng ông ta có đủ sự ủng hộ của dân chúng tại Rumani để hạ Ionescu. Khi nào đúng thời điểm, ông ta sẽ tiến công. Trong lúc này, chúng ta phải bảo vệ mạng sống cho con người ấy!
Lev Pasternak suy nghĩ về việc ấy.
- Ngài bảo vài tuần lễ ư?
- Từng ấy thôi.
Vị đại tá đã nhầm về thời gian nhưng lại đúng về Marin Groza. Ông ta là một con người gầy gò, trông yếu ớt với một nét mặt khắc khổ và một khuôn mặt hằn nét buồn rầu. Ông ta có chiếc mũi khoằm, chiếc cằm cương nghị và một vầng trán rộng phủ lơ thơ vài sợi tóc trắng. Và khi ông ta nói, đôi mắt đen sâu rực lên với vẻ xúc động.
- Tôi cóc cần quan tâm đến chuyện sống chết của tôi, - Ông ta bảo Lev trong cuộc họp mặt đầu tiên - Tất cả chúng ta đều sẽ chết cả. Nhưng khi nào là điều tôi đang quan tâm đến. Tôi cần phải sống vài năm nữa. Đấy là tất cả thời gian tôi cần để đuổi Ionescu ra khỏi nước tôi.
Ông ta lơ đễnh đưa tay lên lướt qua một vết sẹo xám xịt trên gò má.
- Không người nào có quyền nô lệ hoá một nước cả. Chúng ta phải giải phóng Rumani và để cho người dân được tự quyết đình lấy vận mệnh của mình.
Lev Pasternak đến thực hiện hệ thống an ninh tại biệt thự ở Neuilly. Hắn dùng một số nhân viên riêng và những người ngoài được hắn thuê đều qua kiểm tra kỹ lưỡng. Mỗi một mẫu thiết bị đều là một tác phẩm nghệ thuật.
Pasternak gặp lãnh tụ phiến loạn Rumani mỗi ngày và càng ở với ông ta, hắn càng khâm phục.
Khi Marin Groza mời Pasternak ở lại làm trưởng toán an ninh của ông, Pasternak không do dự.
- Tôi sẽ phụ trách việc ấy, hắn nói, - cho đến khi ngài đã sẵn sàng để tiến công. Rồi tôi sẽ quay trở về Israel.
Họ đã thoả thuận với nhau.
Vào những thời điểm đột xuất, Pasternak tổ chức các cuộc đột kích vào biệt thự để trắc nghiệm
vấn đề an ninh. Giờ đây, hắn suy nghĩ: một số nhân viên bảo vệ trở nên bất cẩn. Mình cần phải thay họ.
Hắn bước qua các dãy hành lang, cẩn thận kiểm soát các máy dò nhiệt, các hệ thống báo động điện tử và các tia hồng ngoại tại mỗi ngưỡng cửa.
Khi vừa đến phòng ngủ của Marin Groza, hắn nghe một tiếng đổ lớn và một lúc sau đấy Groza bắt đầu hét to trong cơ hấp hối.
Lev Pasternak bước qua phòng Groza và tiếp tục bước đi.
Chương 3
Tổng hành dinh của cơ quan tình báo trung ương toạ lạc tại Langley, Virginia, cách Washington, D.C. bảy dặm về hướng Tây Nam. Trên con đường dẫn vào cơ quan có một ánh đèn tín hiệu đỏ nhấp nháy trên đỉnh một chiếc cổng. Cổng ngôi nhà được canh gác 24 trên 24 và các vị khách có thẩm quyền được cấp phát các thẻ màu chỉ cho phép họ vào những bộ phận đặc biệt mà họ có liên quan công tác. Bên ngoài toà nhà tổng hành dinh bảy tầng màu xám được gọi một cách bất thường là "Hãng đồ chơi", là một pho tượng lớn của Nathan Hale. Bên trong, ở tầng dưới cùng, một bức tường hành lang lồng kính đối diện với một sân trong vôi một khu vườn cảnh rải rác những cây mộc lan.
Trên bàn tiếp khách, một câu thơ được khảm bằng cẩm thạch.
Và bạn sẽ biết sự thật và
Sự thật sẽ giải phóng bạn.
Công chúng không bao giờ được vào bên trong toà nhà, và chẳng có phương tiện nào cho các du khách cả. Đối với những ai muốn vào khu "đen" mà không bị trông thấy - có một đường hầm chạy vào tận một phòng giải lao đối diện một chiếc cửa thang máy màu nâu đỏ được một đội lính canh mặc đồ nỉ xám canh gác 24 trên 24.
Trong phòng họp ở tầng bảy, dưới sự canh gác của các phụ tá an ninh trang bị bằng các khẩu P.38 mũi tẹt và hếch, cuộc họp sáng thứ hai của ban điều hành đang khai diễn. Ngồi chung quanh một chiếc bàn gỗ sồi rộng là Ned Tillngast, giám đốc CIA; Tướng Oliver Brooks, Tham mưu trưởng Lục quân; Bộ trưởng Ngoại giao Floyd Baker; Peter Connors, Trưởng ngành Phản gián; và Stanton Roges.
Ned Tullingast, giám đổc CIA, 60 tuổi, là một người lầm lì, lạnh lùng, gánh nặng những bí mật hiểm ác. CIA có một ngành nổi và một ngành chìm. Ngành chìm thực hiện các hoạt động bí mật và trong bảy năm qua, Tillingast đã phụ trách 4.500 nhân viên làm việc trong ngành này.
Tướng Oliver Brooks là một quân nhân tốt nghiệp West Point, sống cuộc đời cá nhân và nghề nghiệp theo sách vở. Ông ta là một con người cộng đồng và cộng đồng mà ông ta làm việc là Lục quân Hoa Kỳ.
Floyd Baker, Bộ trưởng Ngoại giao, là một con người lỗi thời, một con người lùi lại vào kỷ nguyên trước. Ông ta thuộc vùng trồng nho phía nam, là một người cao lớn, tóc vàng và có vẻ đặc biệt vì nét cao nhã cổ xưa. Ông ta là một con người có óc thích cãi nhau vặt vãnh. Ông ta có một hệ thống báo chí nhiều ảnh hưởng trên cả nước và nổi tiếng giàu sụ.
Không ai ở Washington có một ý thức chính trị kiên định hơn và những cầu ăng- ten của Baker luôn luôn điều chỉnh để bắt những dấu hiệu thay đổi ở quốc hội.
Peter Connors là người Irlend, nước da đen, một con người ngoan cố, gan lì, nát rượu và không hề hoảng sợ. Đây là năm cuối cùng của ông ta làm việc với CIA; ông ta đang đương đầu với việc hưu trí bắt buộc vào tháng sáu tới. Connors là trưởng ban phản gián, một ngành bí mật biệt lập khá cao, của CIA. Quá trình công tác của ông ta tiến triển qua các ban tình báo khác nhau, và ông ta đã có mặt trong những ngày tốt đẹp xa xưa khi các nhân viên CIA là những con người vàng. Chính Peter Connors cũng đã là một con người vàng. Ông ta từng tham gia vào cuộc đảo chính đã lấy ngai vàng Con Công tại Iran cho Hoàng tộc, và ông ta đã tham gia vào cuộc hành quân Mongoose, một nỗ lực nhằm lật đổ chính phủ Castro năm 1961.
- Sau vụ vịnh Con Heo, mọi việc đều thay đổi cả, - Peter cất tiếng than vãn. Độ dài của những lời chỉ trích kịch liệt của ông ta thường tuỳ thuộc vào số lượng rượu ông ta uống. - Những quả tim rỉ máu tấn công chúng ta trên trang nhất của mọi tờ báo khắp thế giới. Họ gọi chúng ta là một bọn nói láo những tên hề lén lút không thể thoát khỏi đường lối của chúng ta. Một số tên chống CIA đã công bố danh sách các nhân viên của chúng ta và Dick Welch, trưởng ngành của chúng ta ở Athens, đã bị giết.
Peter Connors đã trải qua ba cuộc hôn nhân khốn khổ vì áp lực và bí mật công tác nhưng theo sự quan tâm của ông ta, chẳng có sự hy sinh nào quá lớn để phục vụ đất nước cả. Bây giờ, giữa cuộc họp mặt ông ta đỏ rần vì giận dữ.
- Nếu chúng ta để Tổng thống tiến hành chương trình giữa các dân tộc quỷ quái ấy ông ta sẽ phản bội đất nước. Việc ấy phải chặn lại. Chúng ta không thể cho phép.
Floyd Baker cắt ngang.
- Tổng thống vừa làm việc chưa được một tuần. Tất cả chúng ta ở đây để thi hành các chính sách của ngài và…
- Thưa ngài, tôi không đứng đây để trao đất nước cho bọn Cộng sản trời đánh ấy. Tổng thống chẳng bao giờ đề cập đến kế hoạch của ông ta trước khi đọc diễn văn cả. Ông ta bất ngờ thảy lên người tất cả chúng ta. Chúng ta chẳng có dịp nào để đưa ra một lời từ chối cả.
- Có lẽ đấy là điều mà ngài đang nghĩ đến đấy! - Braker lên tiếng đề nghị.
Peter Connors nhìn ông ta trừng trừng.
- Trời ơi ông đồng ý à!
- Ngài là Tổng thống của tôi! - Floyd Baker quả quyết - Cũng như ngài là Tổng thống của ông vậy!
Ned Tillingast quay sang Stanton Roges:
- Connors có lập trường. Hiện nay Tổng thống đang dự định "mời" Rumani, Anbani, Bungari và các quốc tế Cộng sản khác đưa gián điệp của họ đến đây với tư cách là các tuỳ viên văn hoá, tài xế, thư ký và bồi phòng. Chúng ta đã chi tiêu hàng tỷ đô là để bảo vệ cửa sau và Tổng thống muốn mở toang cửa trước!
Tướng Brooks gật đầu đồng ý.
- Tôi cũng không được hỏi ý kiến. Theo ý kiến tôi, kế hoạch của Tổng thống rất có thể tiêu diệt quốc gia này.
Stanton Roges lên tiếng.
- Thưa các ngài, một số chúng ta có thể bất đồng ý kiến với Tổng thống, nhưng chúng ta đừng quên rằng dân chúng đã bầu Paul Ellison để điều khiển quốc gia này. - Đôi mắt ông ta chớp sang các người ngồi chung quanh - Tất cả chúng ta đều thuộc về nhóm người của Tổng thống và chúng ta phải nghe theo sự lãnh đạo của ngài và yểm trợ ngài bằng mọi cách chúng ta có thể có được.
Những lời nói của ông được nối tiếp bằng một sự im lặng nặng nề.
- Vậy thì được rồi. Tổng thống muốn có một hành động phù hợp ngay với tình hình hiện tại Rumani. Hãy báo ngay tất cả những gì các ngài biết được.
- Kể cả vấn đề bí mật của chúng tôi à? - Peter Connors chất vấn.
- Mọi việc. Hãy nói thẳng với tôi. Tình hình thế nào tại Rumani với Alexandros Ionescu?
- Ionescu đang ngồi cao trên yên, - Ned Tillngast đáp. - Từ khi ông ta cầm quyền, Ionescu đã hút cạn máu đất nước ông ta. Dân chúng ghét lòng dạ của ông ta.
- Có viễn cảnh nào về một cuộc cách mạng không?
Tillingast nói:
- À, việc ấy hơi thú vị đấy. Hãy nhớ lại vài năm trước đây khi Marin Groza hầu như lật đổ được chính quyền của Ionescu.
- Vâng, Groza suýt chết mới thoát ra khỏi nước được.
- Với sự trợ lực của chúng tôi. Tin tức của chúng tôi cho biết rằng có một luồng sóng ngầm trong dân chúng muốn đưa ông ta về lại. Groza sẽ tốt đẹp cho Rumani, và nếu ông về được, điều ấy sẽ tốt đẹp cho chúng ta. Chúng ta đang theo dõi sát tình hình.
Stanton Roges quay sang vị Bộ trưởng Ngoại giao.
- Ngài có danh sách các ứng cử viên cho chức vụ ở Runani ấy không?
Floyd Baker mở chiếc cặp tuỳ viên bằng da, rút ra mấy tờ giấy và trao cho Roges một phó bản.
- Đây là triển vọng hàng đầu của chúng tôi. Tất cả đều là những nhà ngoại giao chuyên nghiệp đấy đủ khả năng. Mỗi người đều đã được kiểm tra. Chẳng có vấn đề an ninh, tài chánh, vết nhơ rắc rối nào cả trong hồ sơ.
Trong lúc Rogers lấy danh sách, vị Bộ trưởng Ngoại giao nói thêm:
- Đương nhiên Bộ ngoại giao ưu đãi một nhà ngoại giào chuyên nghiệp hơn là một nhà chính trị được bổ nhiệm. Đặc biệt, trong tình hình này. Rumani là một vị trí cực kỳ nhạy bén. Phải được đối xử thật thận trọng!
- Tôi đồng ý. - Stanton Roges đứng bật dậy. - Tôi sẽ thảo luận về những cái tên này với Tổng thống và sẽ trả lại cho ngài. Tổng thống đang mong việc bổ nhiệm càng nhanh càng tốt.
Trong lúc những người khác đứng dậy đi, Ned Tillingast lên tiếng:
- Hãy ở lại đây Peter. Tôi có chuyện muốn nói với ông.
Khi Tillingast và Connors còn lại một mình, Tillingast nói:
- Ông tấn công khá mạnh, Peter.
- Nhưng tôi có lý, - Peter Connors ngoan cố nói. - Tổng thống định bán nước. Chúng ta sẽ phải làm gì?
- Ngậm miệng ông lại đi.
- Ned, chúng ta được huấn luyện để phát hiện và giết kẻ địch. Sẽ thế nào nếu kẻ địch ở phía sau phòng tuyến của chúng ta - ngồi ngay trong Văn phòng Bầu dục?
- Hãy cẩn thận. Hãy rất cẩn thận.
Tillingast đã có mặt lâu hơn Connors. Ông ta là một thành viên của tổ chức OSS của Wild Bill Donovan trước khi nó trở thành CIA. Ông ta cũng ghét những quả tim rỉ máu tại quộc hội đang làm đối với tổ chức mà ông ta yêu.
Trên thực tế, trong hàng ngũ CIA đang có một sự rạn nứt sâu sắc giữa những người có đường lối cứng rắn và những người tin tưởng rằng Nga có thể thuần hoá thành vô hại. Chúng ta phải chiến đấu vì từng đồng đô- la một, Tillingast suy nghĩ. Tại Matxcơva, tổ chức Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti - KGB - huấn luyện hàng ngàn nhân viên cùng một lúc.
Ned Tillingast đã tuyển mộ Peter Connors từ trường đại học và Connors đã trở nên một trong những người xuất sắc. Nhưng trong vài năm qua, Connors đã trở thành một tên cao- bồi hơi quá độc lập một tí, hơi quá nhanh một tí chỗ cò súng. Nguy hiểm.
- Peter - Ông đã nghe gì chưa về một tổ chức bí mật tự gọi mình là "Các nhà yêu nước vì tự do"? - Tillingast hỏi.
- Connors cau mày.
- Không, không thể nói rằng tôi biết được. Họ là ai vậy?
- Cho đến nay, họ chỉ là lời đồn đại. Tôi chỉ ngửi được khói thôi. Ông xem thử là có thể dò ra bọn chúng không?
- Tôi sẽ làm.
Một giờ sau, Peter gọi điện từ một phòng điện thoại công cộng tại Hain s Point. - Tôi có một bức điện cho Odin.
- Odin đây, - Tướng Oliver Brooks lên tiếng.
Trên chiếc xe hòm trở về văn phòng, Stanton Roges mở toang phong bì đựng danh sách các ứng cử viên đại sứ và nghiên cứu. Thật là một danh sách tuyệt vời. Vị Bộ trưởng Ngoại giao đã làm việc tại nhà. Tất cả các ứng cử viên đều đã phục vụ tại các quốc gia Đông và Tây Âu, và một số ít còn có thêm kinh nghiệm tại Viễn Đông hoặc Châu Phi nữa. Tổng thống sẽ hài lòng - Stanton suy nghĩ thế.
- Họ là những con khủng long, - Paul Ellison cáu kỉnh nói. Ông ta ném danh sách xuống bàn giấy - Mỗi người trong danh sách.
Stanton Roges lên tiếng phản đối.
- Những người này đều là những nhà ngoại giao chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm đấy.
- Và thủ cựu do truyền thống của Bộ Ngoại giao. Cậu có nhớ chúng ta đã bị tống cổ và chúng ta bị ở ngoài trời lạnh. Những tay được vẽ kiểu sẵn làm tôi lo lắng. Bọn họ đều giấu đuôi cả. Khi tôi nói chuyện về một chương trình về các dân tộc, tôi muốn nhấn mạnh từng từ một. Chúng ta cần gây một ấn tượng tích cực tại một quốc gia lúc này đang rất đề phòng chúng ta.
- Nhưng nếu cậu đặt vào đấy một người nghiệp dư - một người chẳng có tí nào kinh nghiệm - cậu sẽ rất mạo hiểm.
- Có lẽ chúng ta cần có ai đấy với một loại kinh nghiệm khác hẳn. Rumani sẽ là một trường hợp thí điểm, Stan ạ. Một người dẫn đường cho cả chương trình của tôi, nếu cậu muốn! - Ông lưỡng lự, - Tôi không đùa đâu. Sự tín nhiệm của tôi đang bị thử thách. Tôi biết có nhiều người có thế lực không muốn thấy công việc này. Nếu nó thất bại, tôi sẽ bị cụt giò. Tôi sẽ phải quên đi về Bungari, Anbani, Tiệp Khắc và những quốc gia Đông Âu khác. Và tôi không dự trù cho việc ấy xảy ra.
- Tôi có thể kiểm tra một số nhà chính trị được bổ nhiệm của chúng ta…!
Tổng thống Ellison lắc đầu:
- Vẫn lại vấn đề cũ.
- Tôi muốn có ai đấy với một quan điểm hoàn toàn mới mẻ. Ai đấy có thể đánh tan được nước đá. Kẻ đối lập với một người Mỹ xấu xí.
Stanton Roges nhìn đăm đăm vị Tổng thống bối rối.
- Paul, tôi có ấn tượng rằng cậu đã có ai đấy trong đầu rồi, phải không?
Paul Ellison lấy một điều xì gà trên bàn giấy và châm.
- Thực sự, - Ông nói chậm rãi. - Tôi nghĩ rằng tôi có thể có được.
- Ai vậy?
- Cô ấy. Cậu có cơ hội nào đọc được bài viết trong số phát hành vừa rồi của mục "Vấn đề Ngoại giao" gọi là "Hoà hoãn lúc này" không?
- Cậu nghĩ gì về điều ấy?
- Tôi nghĩ rằng đấy là điều thú vị. Tác giả tin rằng chúng ta đang ở vào một vị trí để cố gắng khuyến dụ các quốc gia cộng sản vào trại của chúng ta bằng cách đề nghị hỗ trợ về kinh tế. - Ông đột nhiên dừng lại. - Nó có nhiều điểm giống như bài diễn văn nhậm chức của cậu.
- Chỉ có điều nó được viết sáu tháng trước. Cô ấy đã viết những đlều nổi bật trong tờ Commentary và Public Affairs. Năm ngoái, tôi có đọc một cuốn sách của cô ấy về vấn đề chính trị của Đông Âu và tôi phải chấp nhận rằng nó đã góp phần làm sáng tỏ một số ý kiến của tôi!
- Đúng rồi. Vậy là cô ấy đồng ý với lý thuyết của cậu Chẳng có lý do nào để cất nhắc cô ấy vào một chức vụ quan….
- Stan, cô ấy còn đi xa hơn lý thuyết của tôi nữa kìa. Cô ấy phác hoạ ra một kế hoạch tỉ mỉ thật hấp dẫn. Cô ấy muốn lấy bốn khối kinh tế chủ yếu của thế giới và hoà hợp lại!
- Làm sao chúng ta có thể…
- Sẽ mất thời gian, nhưng việc ấy có thể làm được. Này, cậu biết rằng năm 1949, các quốc gia khối Đông Âu đã thành lập một Hiệp ước để hỗ trợ về kinh tế gọi là COMECON và năm 1958 các quốc gia châu Âu khác đã thành lập EEC - Thị trường chung!
- Đúng!
- Chúng ta có Tổ chức Công tác và Phát triển kinh tế gồm Hoa Kỳ, một số quốc gia khối Tây và Nam Tư. Và đừng quên rằng các quốc gia thế giới thứ ba đã thành lập một phong trào phi liên kết ngoài chúng ta. - Giọng nói của vị Tổng thống bỗng kích động. - Hãy nghĩ đến những điều có thể xảy ra. Nếu chúng ta có thể kết hợp tất cả những kế hoạch này và thành lập một thị trường lớn - Chúa ơi, điều ấy thật đáng sợ? Điều ấy có nghĩa là một cuộc mậu dịch toàn thế giới thực sự. Và điều ấy có thể mang lại hoà bình.
Stanton Roges thận trọng lên tiếng:
- Một ý kiến thú vị đấy, nhưng con đường còn xa vời.
- Cậu biết câu cổ ngữ Trung Hoa "Một cuộc hành trình thiên lý chỉ bằng một bước thôi". - Cô ấy là một người không chuyên, Paul ạ!
- Một số những vị đại sứ hay nhất của chúng ta đã là những người không chuyên đấy. Ann Amstrong, cựu đại sứ Anh, là một nhà giáo dục chẳng có kinh nghiệm chính trị nào cả. Perle Mesta được bổ nhiệm tại Đan Mạch, Clare Boothe Luce là đại sứ Ý, John Gavin, một tài tử sân khấu, là đại sứ tại Mexico. Một phần ba những vị đại sứ hiện nay của chúng ta đều là cái mà cậu gọi là không chuyên đấy.
- Nhưng cậu chẳng biết gì về người phụ nữ này cả?
- Ngoại trừ cô ấy quá nổi bật, và chúng tôi cùng ở chung một bước sóng. Tôi muốn cậu cố gắng tìm ra mọi việc về cô ấy.
Ông nhặt một bản Foreign Affairs và liếc vào bản nội dung.
- Tên cô ấy là Mary Ashley.
Hai ngày sau, Tổng thống Ellison và Stanton Roges cùng ăn sáng với nhau.
- Tôi đã được tin tức mà cậu yêu cầu. - Stanton Roges rút một mảnh giấy từ trong túi. "Mary Elizabeth Ashley, 27 đường Old Milfold, thị trấn Junction, Kansas. Tuổi gần 35, kết hôn với Tiến sĩ Edward Ashley - hai con, Beth 12 và Tim 10. Chủ tịch chi hội cử tri đoàn Phụ nữ thị trấn Junction. Giáo sư phụ tá khoa Chính trị Đông Âu, Trường đại học tiểu bang Kansas. Ông nội sinh tại Rumani! - Ông nhìn lên, - Tôi càng nghĩ đến vấn đề này, nó càng có ý nghĩa. Có lẽ cô ấy biết nhiều về Rumani hơn hầu hết các vị đại sứ về các quốc gia họ sẽ phục vụ.
- Tôi hài lòng rằng cậu cảm thấy như thế, Stan ạ. Tôi thích có được một bản điều tra an ninh đầy đủ về cô ấy!
- Tôi sẽ lo thực hiện điều đó.
Chương 4
- Tôi không đồng ý, thưa ngài giáo sư Ashley! - Barry, Dylan, sinh viên trẻ nhất và xuất sắc nhất của nhóm chuyên đề chính trị của Mary Ashley, nhìn quanh với vẻ thách thức - Alexandros Ionescu còn tệ hơn.
- Anh có thể cho chúng tôi vài yếu tố để làm yểm trợ cho câu nói ấy không? - Mary Ashley hỏi.
Có 12 sinh viên tốt nghiệp tại cuộc họp chuyên đề được tổ chức tại Giảng đường Dykstra thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas. Các sinh viên đang ngồi thành một vòng bán nguyệt đối diện với Mary.
Các danh sách chờ để vào các lớp học của cô dài hơn của bất kỳ giáo sư nào tại Trường đại học.
Cô là một giáo sư lỗi lạc có óc khôi hài dễ dãi và một sự ấm cúng bọc quanh người cô một cách thú vị. Mặt cô hình trái xoan biến chuyển từ ưa nhìn đến đẹp, tuỳ theo tâm trạng của cô. Đôi gò má cô cao, hình quả hạnh điển hình và đôi mắt màu nâu lục nhạt. Mái tóc cô đen và dày. Vóc người cô làm cho các nữ sinh viên của cô ganh tị và các nam sinh viên phải tưởng tượng, tuy nhiên cô không
biết mình đẹp như thế nào.
Barry tự hỏi liệu cô có hạnh phúc với chồng không. Anh miễn cưỡng tập trung vào vấn đề đang tranh luận.
- Vâng, khi Ionescu lên cầm quyền ở Rumani, ông ta thẳng tay đàn áp tất cả những thành phần thân Groza và tái lập lại một địa vị thân Xô viết theo đường lối cứng rắn.
Một sinh viên khác lên tiếng.
- Vậy thì tại sao Tổng thống Ellison lại quan tâm thiết lập liên hệ ngoại giao với ông ta? - Bởi vì chúng ta muốn nài nỉ ông ta vào quỹ đạo Tây Âu.
- Ta nói thế nào về sự liên hệ hiện nay của Rumani với các quốc gia khác trong Hiệp ước Warsawa và đặc biệt là Nga? - Mary hỏi.
- Tôi nói rằng bây giờ nó mạnh hơn.
Một giọng nói khác.
- Tôi không đồng ý. Rumani đã chỉ trích cuộc xâm lăng của Nga vào Afganixtan và họ đã chỉ trích thoả hiệp của người Nga với EEC. Cũng vậy, thưa giáo sư Ashley…
Chuông rung. Hết giờ.
Mary lên tiếng:
- Thứ hai, chúng ta sẽ bàn về những yếu tố cơ bản đã ảnh hưởng đến thái độ của Liên Xô đối với Đông Âu và chúng ta sẽ thảo luận đến những có thể xảy ra của kế hoạch xâm nhập vào khối Đông của Tổng thống Ellison. Chúc ngày cuối tuần tốt đẹp.
Mary nhìn các sinh viên đứng lên và đi ra cửa.
- Cô cũng thế, thưa giáo sư.
Mary Ashley yêu thích các cuộc trao đổi tại các cuộc hội nghị chuyên đề. Môn Sử Địa trở nên sinh động trong các cuộc thảo luận sôi nổi giữa các sinh viên tốt nghiệp trẻ và xuất sắc. Các tên người và tên đất ngoại quốc trở thành thực tế và các biến cố lịch sử trở thành sinh động. Đây là năm thứ năm của cô tại một phân khoa thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas, và việc giảng dạy vẫn còn kích thích cô. Cô dạy năm lớp khoa chính trị học mỗi năm, cộng thêm các cuộc hội nghị chuyên đề và mỗi cuộc hội nghị đều đề cập đến Liên Xô và các quốc gia anh em của họ. Đôi khi cô cảm thấy như một sự gian lận. - Mình chưa hề đến bất cứ quốc gia nào mình dậy cả, - cô nghĩ thế. - Mình chưa bao giờ ra ngoài Hoa Kỳ cả!
Mary Ashley sinh ra tại thị xã Junction, như cha mẹ cô. Phần tử duy nhất đã biết châu Âu là ông của cô, xuất thân từ một ngôi làng nhỏ Voronet thuộc Rumani. Mary đã định xuất ngoại một chuyến khi cô nhận bằng cử nhân, nhưng cô đã gặp Edward Ashley mùa hè năm ấy và chuyến đi châu Âu đã biến thành tuần trăng mật ba ngày tại Waterville, cách thị xã Junction 55 dặm, nơi mà Edward đang chăm sóc một bệnh nhân đau tim nguy kịch.
- Năm sau, chúng ta phải đi thật, - Mary nói với Edward ngay sau khi họ kết hôn với nhau. - Em muốn thăm Rome, Paris và Rumani, muốn chết đi được.
- Anh cũng vậy. Đây là một cuộc hẹn. Mùa hè sang năm.
Nhưng mùa hè sau, Beth sinh ra và Edward bận bịu công việc tại bệnh viện Cộng đồng Geary.
Hai năm sau, Tim được sinh ra. Mary đã lãnh bằng Tiến sĩ Triết học và trở về dạy tại Trường đại học Tiểu bang Kansas, và năm tháng trôi qua bằng một cách nào đấy. Ngoại trừ các chuyến đi Chicago. Atlanta và Denver ngắn ngủi, Mary chưa bao giờ rời khỏi Tiểu bang Kansas cả.
- Một ngày, - cô tự hứa với mình. - Một ngày…
Mary thu lại sổ sách của mình và liếc ra cửa sổ.
Sương giá đã phủ lên cửa sổ một màu xám mùa đông và tuyết lại bắt đầu rơi. Mary mặc chiếc áo khoác da và quàng chiếc khăn len đỏ rồi đi về lối phố Vather, nơi cô đậu xe.
Sân bãi rộng, 325 héc ta, rải rác với các toà nhà gồm các phòng thí nghiệm, hý viện, nhà nguyện giữa những hàng cây thôn dã. Từ xa, những toà nhà đá vôi nâu của Trường đại học giống như những lâu đài cổ có những tháp nhỏ trên đỉnh, sẵn sàng đánh đuổi quân thù.
Khi Mary đi ngang qua Giảng đường Denison, một gã lạ hoắc mang một chiếc máy ảnh Nikon đang đi về phía nàng. Hắn đưa máy ảnh lên định ngắm toà nhà và bấm. Mary ở vào cận cảnh của bức ảnh "Đáng lẽ mình nên tránh lối cho ông ta, - cô nghĩ thế. Mình đã làm hỏng bức ảnh của ông ta".
Một giờ sau, âm bản của bức ảnh đang trên đường đi Washington, D.C.
Mỗi thành phố đều có nhịp điệu riêng biệt của mình, một sức sống toát ra từ người dân và đất đai. Thị trấn Junction, tại lãnh địa Geary, là một cộng đồng nông trại, cách thành phố Kansas 130 dặm về phía Tây, tự hào là trung tâm địa dư của Hoa Kỳ đại lục. Nó có một tờ báo "Daily Union" - một đài phát thanh và một đài truyền hình. Khu vực kinh doanh ở phố gồm một loạt các cửa hiệu và các trạm xăng mọc rải rác dọc đường số 6 và tại Washington. Có một Penney, Ngân hàng quốc gia đầu tiên, một Domino Pizza, tiệm nữ trang và một cửa hàng len. Có những cửa hàng bán "món ăn nhanh", một trạm xe bus, một tiệm bán quần áo đàn ông và một tiệm rượu - loại cơ bản trong
hàng trăm thành phố nhỏ khắp Hoa Kỳ. Nhưng người dân thị trấn Junction yêu nó vì vẻ thanh bình và yên tĩnh đồng quê của nó. Ít ra là trong những ngày làm việc trong tuần. Vào các dịp nghỉ cuối tuần, thị trấn Junction trở thành trung tâm nghỉ ngơi và giải trí cho các quân nhân ở Fork Riley gần đấy.
Mary Ashley dừng lại để mua thức ăn chiều tại chợ Dillon trên đường về nhà và rồi đi về hướng Bắc đến đường Old Milford, một khu vực nhà ở đáng yêu trông ra một cái hồ. Những cây sồi và cây du thẳng hàng dọc theo lề trái của con đường trong lúc bên phải là những ngôi nhà đẹp làm bằng đá, gạch hoặc gỗ.
Nhà Eshley là một ngôi nhà lầu hai tầng bằng đá toạ lạc giữa những ngọn đồi thoai thoải. Ngôi nhà đã được bác sĩ Edward Ashley và cô dâu của chàng mua 13 năm trước đây. Nó gồm một phòng khách rộng, một phòng ăn, thư viện, phòng ăn sáng và nhà bếp ở tầng dưới và một dãy phòng của chủ nhà và thêm hai phòng ngủ trên lầu.
- Nó rộng kinh khủng đối với chúng ta, chỉ có hai người, - Mary Ashley đã phản đối. Edward đã ghì chặt nàng vào lòng:
- Ai bảo rằng nó chỉ cho hai người thôi?
Khi Mary từ Trường đại học trở về nhà, Tim và Beth đang đợi để đón nàng. - Mẹ hãy đoán gì nào? - Tim lên tiếng. - Chúng ta sẽ được đăng ảnh lên báo? - Hãy giúp mẹ cất những thứ linh tinh này, - Mary nói. - Báo nào thế?
- Người đó không nói, nhưng ông ấy chụp ảnh chúng con và bảo chúng ta sẽ được tin của ông ấy!
Mary dừng lại và quay sang nhìn con trai.
- Người đó có nói tại sao không?
- Không, - Tim nói, - nhưng điều chắc chắn là ông ấy có một cái máy Nikon rất sộp.
Ngày chủ nhật, Mary kỷ niệm - mặc dầu đấy không phải là từ đã nẩy ra trong đầu - ngày sinh nhật thứ 35 của nàng. Edward đã thu xếp một bữa tiệc bất ngờ tại câu lạc bộ của vùng quê. Những người láng giềng của họ, Florence và Douglas Schiffer và bốn đôi khách đang đợi nàng. Edward hài lòng như một đứa bé với vẻ ngạc nhiên trên mặt Mary khi nàng bước vào câu lạc bộ trông thấy bàn tiệc và hàng biểu ngữ mừng ngày sinh nhật hạnh phúc. Nàng chẳng có lòng dạ nào để bảo với chàng rằng nàng đã biết về bữa tiệc từ hai tuần trước. Nàng tôn thờ Edward. "Và tại sao không nhỉ? Ai không chịu nhỉ?". Chàng hấp dẫn, thông minh và chu đáo. Ông nội và bố chàng đã làm bác sĩ và Edward không bao giờ thoáng nghĩ rằng chàng sẽ làm khác đi. Chàng là một phẫu thuật gia giỏi nhất tại thị trấn Junction, một người cha tốt và một ông chồng tuyệt vời.
Trong lúc Mary thổi tắt những cây nến trên chiếc bánh sinh nhật của nàng, nàng nhìn qua Edward và nghĩ: Một cô gái có thể may mắn như thế nào nhỉ?
Sáng thứ hai, Mary thức giấc với một tâm trạng buồn nản. Đêm trước có nhiều ly Champagne chúc mừng và nàng uống rượu không quen. Nàng phải cố gắng để ra khỏi giường.
- Champegne đã làm mình kiệt sức. Mình sẽ không bao giờ uống nữa!
Nàng bước nhẹ xuống cầu thang và rón rén khởi sự chuẩn bị bữa ăn sáng cho con, cố gắng lờ đi tiếng đập trong đầu.
- Champagne, - Mary rên rỉ, - Là cuộc trả thù của Pháp đối với chúng ta.
Beth đi vào phòng mang theo một chồng sách dầy.
- Mẹ đang nói chuyện với ai thế?
- Với mẹ đấy.
- Lạ thật!
- Khi nào con đúng là con đúng. - Mary đặt lên bàn một hộp ngũ cốc. - Mẹ mua cho con một hộp ngũ cốc mới. Con sẽ thích nó!
Beth ngồi xuống bàn nhà bếp và chăm chú nhìn vào cái nhãn trên hộp ngũ cốc: - Con không thể ăn cái này. Mẹ đang định giết con đấy.
- Đừng đặt ý kiến nào vào đầu mẹ, - mẹ nó gắt. - Làm ơn ăn sáng đi.
Tim, đứa con trai mười tuổi của nàng, chạy vào nhà bếp. Nó nhủi vào một chiếc ghế cạnh bàn và nói:
- Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
- Chuyện gì đã xảy ra cho cái chào buổi sáng rồi? - Mary hỏi.
- Chào mẹ. Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
- Nào xin mời.
- Nào nhanh lên, mẹ. Con trễ học mất.
- Mẹ hài lòng vì con đã nói điều ấy. Cô Reynolds đã gọi điện cho mẹ. Con kém toán. Con nói điều gì về điều ấy?
- Tưởng tượng thôi.
- Tim, việc ấy con cho là đùa à?
- Cá nhân con không nghĩ rằng nó buồn cười, - Beth khịt mũi.
Nó cau có với chị.
- Nếu chị muốn buồn cười, hãy soi gương đi!
- Đủ rồi - Mary nói. - Hãy cư xử cho phải phép!
Cơn nhức đầu của nàng trở nên tệ hơn.
Tim hỏi.
- Con có thể đi trượt băng sau khi con học xong được không mẹ?
- Con đã trượt trên lớp băng mỏng rồi đấy. Con phải về nhà ngay và học. Con nghĩ một giáo sư đại học trông như thế nào khi có một đứa con trai yếu môn toán!
- Họ nói về hai tên kinh khủng! - Mary suy nghĩ một cách buồn bã. - Và còn chuyện gì nữa nếu có đến chín, mười, mười một, mười hai tên khủng bố?
Beth nói:
- Tim có nói với mẹ rằng nó được một điểm "D" trong bài phát âm không?
Hắn trợn mắt nhìn chị hắn.
- Mẹ có bao giờ nghe về Mark Twain không?
- Mark Twain có liên quan gì với việc này? - Mary hỏi.
- Mark Twain nói rằng ông ta không phục một người đàn ông nào chỉ biết phát âm đơn điệu một từ.
- Mình thắng không được, - Mary nghĩ, - Chúng nó ranh hơn mình.
Nàng đã gói thức ăn trưa cho mỗi đứa, nhưng nàng lo cho Beth vì nó đang dùng chế độ ăn mới ngốc nghếch.
- Beth, làm ơn ăn hết cho mẹ bữa trưa của con ngày hôm nay nhé.
- Nếu nó không có thuộc phòng bệnh nhân tạo. Con sẽ không để cho tính tham lam của kỹ nghệ chế biến thức ăn làm hại sức khoẻ của con.
- Việc gì đã xảy ra cho những ngày xưa tốt đẹp với thức ăn ướp muối? - Mary tự hỏi. Tim giật một mảnh giấy long ra từ một trong những quyển vở của Beth.
- Nhìn này, - hắn hét lên.
- Beth thân yêu, hãy cùng nhau ngồi chung trong suốt kỳ học. Anh đã nghĩ đến em suốt cả ngày hôm qua và…
- Trả lại tao! - Beth hét lên. - Của tao mà! - Nó chụp lấy Tim nhưng hắn đã nhảy khỏi tầm với của nó.
Hắn đọc chữ ký ở cuối bức thư.
- Này. Ký tên là Virgil. Em nghĩ rằng chị yêu Arnold chứ.
Beth giật lại bức thư trong tay hắn.
- Mày biết gì về tình yêu mà nói. - Đứa con gái 12 tuổi của Mary lên tiếng chất vấn. - Mày là thằng con nít.
Tiếng đập trong đầu Mary trở nên không chịu đựng nổi.
- Các con ơi, cho mẹ nghỉ một tí.
Nàng nghe tiếng còi xe bus của nhà trường bên ngoài. Tim và Beth đi ra cửa. - Đợi đã! Các con chưa ăn sáng! - Mary nói.
Nàng theo chúng ra ngoài hành lang.
- Không có thì giờ, mẹ. Phải đi thôi.
- Tạm biệt. Mẹ!
- Trời rét bên ngoài đấy. Hãy mặc áo khoác và quàng khăn vào.
Và thế là chúng nó đi. Mary cảm thấy kiệt sửc.
- Tình mẹ đang ở trong mắt bão.
Nàng đưa mắt nhìn lên lúc Edward xuống cầu thang và nàng cảm thấy dễ chịu.
- Ngay cả sau tất cả những năm này, - Mary nghĩ, - Chàng vẫn còn là người đàn ông hấp dẫn nhất mà mình đã từng biết.
Chính sự dịu dàng của chàng làm Mary thích thú trước tiên. Đôi mắt chàng xám dịu phảng phất một trí thông minh ấm áp, nhưng chúng cũng có thể biến thành đỏ rực, khi chàng say sưa một điều gì đấy.
- Chào em, - chàng đặt lên trán nàng một nụ hôn. Họ cùng đi vào nhà bếp. - Anh ơi - cho em một đặc ân nhé?
- Chắc chắn rồi, người đẹp. Bất cứ điều gì.
- Em muốn bán con đi!
- Cả hai à?
- Khi nào?
- Hôm nay.
- Ai mua chúng nó!
- Những người lạ mặt. Chúng nó đã đến tuổi mà em chẳng có thể làm điều gì đúng cả. Beth đã trở thành một đứa ăn uống quái đản và con trai của anh trở nên một tên đần độn tầm cỡ thế giới!
Edward nói một cách thận trọng:
- Có lẽ chúng không phải là con của chúng ta.
- Em hy vọng là không. Em đang nấu cháo yến mạch cho anh đây.
- Chàng nhìn đồng hồ đeo tay.
- Xin lỗi, em. Không có thì giờ. Anh phải đi giải phẫu trong nửa giờ nữa. Hank Cates bị vướng vào một cái máy nào đấy. Ông ấy có thể bị mất vài ngón tay đấy.
- Ông ấy già quá mà vẫn làm nghề nông à?
- Đừng để ông ấy nghe em nói điều ấy nhé.
Mary biết rằng Hank Cates đã ba năm rồi chưa thanh toán những phiếu tiền của chồng nàng. Như hầu hết các nông gia trong cộng đồng. Hank Cates phải chịu đựng giá thấp về hàng nông nghiệp và thái độ lãnh đạm của ban quản trị tín dụng nông nghiệp đối với các nông gia. Nhiều người đã mất các nông trại mà họ đã làm việc trên đó suốt cả đời. Edward không bao giờ ép bệnh nhân nào của chàng thanh toán tiền cả, và nhiều người trả chàng bằng hoa màu. Gia đình Eshley có một căn hầm chứa đầy bắp, khoai tây và lúa mì. Một nông gia đã đề nghị trả cho Edward một con bò cái, nhưng khi Edward kể điều ấy với Mary, nàng nói:
- Trời ơi, hãy bảo ông ta rằng việc trị liệu ở trong nhà cơ mà.
Bây giờ Mary nhìn chồng và lại nghĩ: Mình may mắn thật.
- Được rồi1 - nàng nói - Em có thể quyết định giữ con lại. Em yêu bố chúng nó nhiều.
- Nói thật với em nhé, anh hơi mê mệt mẹ chúng nó đấy! - Chàng đưa tay ôm nàng và ghì chặt vào lòng. - Sinh nhật hạnh phúc, thêm một lần nữa!
- Anh vẫn còn yêu em lúc em đã là một phụ nữ lớn tuổi hơn chứ?
- Anh thích những phụ nữ lớn hơn.
- Cám ơn! - Mary bỗng nhiên nhớ lại điều gì. - Hôm nay em phải về nhà sớm và sửa soạn bữa ăn chiều. Đến lượt chúng ta phải đi thăm gia đình Schiffer.
Cây cầu nối liền với những người láng giềng của họ là nghi thức đêm thứ hai. Việc Douglas Schiffer là một bác sĩ và cùng làm việc với Edward tại bệnh viện làm họ càng gần gũi hơn.
Mary và Edward cùng rời khỏi ngôi nhà, đầu cúi xuống vì cơn gió tàn nhẫn. Edward phóng mình vào trong chiếc Ford Cranada của chàng và đưa mắt nhìn Mary leo lên sau tay lái của chiếc xe Camionnette.
- Xa lộ có lẽ nhiều băng đấy, - Ellison gọi. - Hãy lái cẩn thận!
- Anh cũng thế nhé!
- Nàng gửi cho chồng một nụ hôn gió và hai chiếc xe chạy ra khỏi ngôi nhà. Edward hướng về bệnh viện và Mary về phố Manhattan nơi Trường đại học toạ lạc, cách đấy 16 dặm.
Hai người đàn ông trong một chiếc xe đậu cách nhà Ashley độ phân nửa khu nhà nhìn hai chiếc xe chạy đi. Họ đợi cho đến khi những chiếc xe khuất dạng.
- Đi thôi.
Họ lái đến ngôi nhà kế nhà Ashley. Rex Olds, người tài xế, ngồi trong xe trong lúc người bạn đồng hành bước đến cửa trước và bấm chuông.
Cánh cửa được một người phụ nữ nước da bánh mật khoảng 35 tuổi mở ra. - Thưa ông. Tôi có thể giúp gì cho ông?
- Bà Douglas Schiffer?
- Vâng…
Người đàn ông đưa tay vì túi áo khoác và lấy ra một thẻ chứng minh.
- Tên tôi là Donald Zamlock. Tôi đang làm việc trong cơ quan an ninh Bộ Ngoại giao. - Chúa ơi! Đừng bảo tôi rằng Doug đã cướp nhà băng!
Người nhân viên mỉm cười lịch sự.
- Không, thưa bà. Không phải chúng tôi muốn biết điều ấy. Tôi muốn hỏi bà một ít câu hỏi về người láng giềng của bà, bà Ashley ấy.
Bà ta bỗng nhìn ông lo ngại.
- Mary à? Bà ấy thể nào?
- Tôi có thể vào nhà không?
- Vâng. Dĩ nhiên! - Florence Schiffer đưa ông ta vào phòng khách.
- Mời ông ngồi. Ông thích dùng cà phê không?
- Không, cám ơn. Tôi chỉ làm tốn vài phút của bà thôi.
- Tại sao ông lại hỏi về Mary?
Ông ta mỉm cười trấn an.
- Đây chỉ là một cuộc điều tra thường lệ. Bà ấy không bị nghi ngờ làm điều gì sai quấy đâu.
- Tôi hy vọng là không! - Florence Schiffer phẫn nộ. - Mary Ashley là một trong những người tốt nhất mà ông đã từng gặp đấy. - Bà nói thêm. - Ông đã gặp bà ấy chưa?
- Không, thưa bà. Cuộc viếng thăm này có tính cách mật, và tôi sẽ cảm kích nếu bà giữ nó như thế. Bà đã biết bà Ashley được bao lâu rồi?
- Khoảng 13 năm. Kể từ ngày bà ấy dọn đến ở bên cạnh.
- Bà nói rằng bà biết rõ bà Ashley chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Mary là bạn thân nhất của tôi.
- Bà ấy và chồng có hoà thuận với nhau không?
- Ngoài Douglas và tôi ra, họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp. - Bà ta suy nghĩ một lúc. - Tôi nói lại. Họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp.
- Tôi biết rằng bà Ashley có hai đứa con. Một đứa con gái 12 tuổi và một đứa con trai 10 tuổi phải không?
- Đúng đấy, Beth và Tim!
- Bà có cho rằng bà ấy là một người mẹ tốt không?
- Bà ấy là một bà mẹ vĩ đại. Cái gì…
- Bà Schiffer, theo ý kiến bà, bà Ashley có phải là một con người vững vàng về tình cảm không?
- Dĩ nhiên rồi!
- Bà ấy không có những vấn đề tình cảm mà bà biết được chứ?
- Chắc chắn là không!
- Bà ấy có uống rượu không?
- Không. Bà ấy không thích rượu.
- Còn về ma tuý thì sao?
- Thưa ông, ông đã đến nhầm thành phố rồi. Không có vấn đề ma tuý tại thị trấn Junction chúng tôi.
- Bà Ashley kết hôn với một bác sĩ à?
- Vâng!
- Nếu bà ấy muốn có ma tuý…
- Ông mất trí rồi. Bà ấy không dùng ma tuý. Bà ấy không khịt mũi và cũng chẳng lên cơn. Ông ta dò xét bà một lúc.
- Hình như bà biết tất cả những từ chuyên môn.
- Tôi có xem Miami Vice, như mọi người khác. - Florence giận dữ - Ông còn câu hỏi nào khác nữa không.
- Ông của Mary Ashley sinh ra ở Rumani. Có bao giờ bà nghe bà ấy thảo luận về Rumani không?
- Ồ, có một lần bà ấy kể những câu chuyện mà ông của bà ấy kể cho bà ấy nghe về đất nước cũ. Ông của bà ấy sinh ra tại Rumani nhưng cụ đã đến đây lúc còn thanh xuân.
- Bà có bao giờ nghe bà Ashley bày tỏ một ý kiến tiêu cực về chính quyền Rumani hiện tại không?
- Không. Tôi không nhớ được.
- Một câu hỏi cuối cùng. Bà có bao giờ nghe bà Ashley hoặc bác sĩ Ashley nói điều gì chống lại chính phủ Hoa Kỳ không?
- Tuyệt đối là không?
- Vậy theo ước tính của bà, cả hai đều là những người Mỹ trung thành chứ? - Ông muốn đánh cuộc không. Xin vui lòng cho tôi biết…
Người đàn ông đứng dậy.
- Tôi muốn cám ơn vì thời giờ của bà, bà Schiffer. Và tôi muốn khẳng định với bà rằng vấn đề này có độ mật khá cao. Tôi sẽ cảm kích nếu bà không thảo luận điều ấy với bất kỳ một ai - ngay cả chồng bà cũng thế!
Một lát sau, ông đi ra cửa. Florence Schiffer đứng dậy chăm chú nhìn theo ông ta. - Tôi không tin rằng cả chuyện này cũng đã xảy ra. - Bà ta nói lớn.
Hai nhân viên lái xe xuống đường Washington và chạy về hướng Bắc. Họ đi ngang qua một bảng dán thông cáo có ghi "Hãy vui lên trên phần đất Ah!"
- Sắc sảo đấy - Rex Old lẩm bẩm.
Họ đi ngang qua phòng thương nghiệp và kiến trúc hoàng gia của toà nhà Elks, nhà nuôi các con vật cưng Irina và một quầy rượu mang tên "Fat chance". Các toà nhà kinh doanh chấm dứt đột ngột.
- Chúa ơi, con phố chính chỉ dài có hai khu nhà ở. Đây không phải là một thành phố. Đây là một cái bẫy! - Zamlock nói
- Đối với cậu nó là một cái bẫy, và đối với tớ nó cũng là một cái bẫy, nhưng đối với những người này nó là cả một thành phố. - Rex Old nói.
- Có lẽ đấy là một địa điểm tốt để sống, nhưng chắc chắn là tớ không muốn đến thăm nơi đây. - Zamlock lắc đầu.
Chiếc xe mui kín dừng lại trước mặt ngân hàng của tiểu bang và Rex Old bước vào bên trong. Chàng trở lại hai mươi phút sau.
- Sạch sẽ, - chàng vừa nói, vừa bước vào trong xe. - Gia đình Ashley có 7.000 đô- la ở nhà băng, một văn tự cầm cố về ngôi nhà của họ và họ thanh toán những phiếu nợ của họ đúng kỳ hạn. Giám đốc ngân hàng cho rằng vị bác sĩ quá từ tâm để trở thành một thương gia giỏi, nhưng theo ông ta để ý, ông ấy có nguy cơ thiếu nợ cao nhất!
Zamlock nhìn vào cặp giấy tờ bên cạnh.
- Chúng ta hãy kiểm tra một vài người nữa và trở lại đất văn minh trước khi tôi bắt đầu chịu hết nổi.
Douglas Schiffer bình thường là một con người vui tính, dễ dãi, nhưng lúc này mặt chàng có vẻ dữ tợn. Gia đình Schiffer và Ashley đang chơi ván bài bridge hàng tuần của họ và gia đình Schiffer bị gác 10.000 điểm. Lần thứ tư buổi chiều hôm ấy, Florence Schiffer đã đánh con bài sai lầm.
Douglas Schiffer dằn mạnh tay bài của chàng xuống.
- Florence - Chàng la lớn, - Em đang chơi cho bên nào thế? Em không biết chúng ta bị gác thế nào à?
- Xin lỗi, - nàng khẩn trương nói. - Chỉ vì em không thể tập trung được thôi. - Ra là thế, chồng nàng khịt mũi.
- Có gì quấy rầy chị không? - Edward Ashley hỏi Florence.
- Tôi không thể cho anh biết đâu.
Tất cả đều nhìn nàng ngạc nhiên.
- Thế nghĩa là gì? - Chồng nàng hỏi.
Florence Schiffer hít một hơi dài.
- Mary! Chuyện của chị đấy.
- Chuyện gì của tôi?
- Chị đang gặp một loại rắc rối nào đó chứ?
Mary nhìn nàng đăm đăm.
- Rắc rối à? Không. Sao chị lại nghĩ như thế?
- Người ta bảo tôi không được nói. Tôi đã hứa.
- Chị hứa với ai thế? - Edward hỏi.
- Một nhân viên Liên bang từ Washington. Ông ta đến nhà sáng nay hỏi tôi đủ thứ câu hỏi về Mary. Ông ta làm như chị là một loại gián điệp quốc tế ấy!
- Loại câu hỏi nào vậy - Edward chất vấn.
- Ồ anh biết đấy. Chị ấy có phải là một người Mỹ trung thành không? Chị ấy có phải là một người vợ và một người mẹ tốt không? Chị ấy có dùng ma tuý không?
- Tại sao họ lại hỏi bà những câu hỏi quỷ quái như thế nhỉ?
- Đợi một phút đã, - Mary lên tiếng một cách khích động. - Tôi nghĩ rằng tôi biết. Đấy là về nhiệm kỳ của tôi!
- Gì thế? - Florence hỏi.
- Tôi đang có nhiệm kỳ tại Trường đại học. Trường đại học làm một số công việc nghiên cứu bén nhạy của chính phủ trên khu đại học, do đó, tôi cho rằng họ phải kiểm tra mọi người thật kỹ.
- À Cám ơn Chúa vì chỉ có từng ấy! - Florence Schiffer thở một hơi nhẹ nhõm. - Tôi nghĩ rằng họ sẽ bắt giam chị đấy chứ!
- Tôi hy vọng họ làm thế, - Mary mỉm cười. - Tại tiểu bang Kansas.
- Nào, giờ thì việc ấy đã xong! - Douglas Schiffer lên tiếng, - ta có thể tiếp tục chơi nữa không? - Chàng quay sang vợ. - Nếu em còn nhầm thêm một con bài, anh sẽ đặt em lên đầu gối của anh đấy!
- Xin hứa. Xin hứa.
Chương 5
ABBEGOOD, ANH.
- Chúng ta họp theo những luật lệ thông thường, - vị chủ toạ loan báo. Chẳng có hồ sơ nào được giữ lại, cuộc họp này sẽ không bao giờ được mang ra thảo luận và chúng ta gọi nhau bằng những mật danh mà chúng ta đã đặt!
Có tám người đan ông trong thư viện của lâu đài Claymore thuộc thế kỷ 15. Hai người võ trang mặc thường phục, khoác lên người nước chiếc áo khoác dày, cảnh giới bên ngoài; trong lúc một người thứ ba canh tại cửa ra vào thư viện. Tám người bên trong căn phòng đã đến điểm họp riêng rẽ, sớm hơn một cuộc đảo chính chống lại Alexandros Ionescu. Một nhóm sĩ quan quân đội kỳ cựu tại Rumani đã quyết định ủng hộ Groza.
Lần này rất có thể ông ta sẽ thành công.
Odin lên tiếng.
- Việc ấy sẽ ảnh hưởng gì đến kế hoạch của chúng ta?
- Nó sẽ huỷ diệt kế hoạch của chúng ta. Nó sẽ mở ra quá nhiều chiếc cầu sang phương Tây. Freyr nói:
- Vậy thì chúng ta phải ngăn chặn việc ấy xảy ra.
- Cách nào? - Balder hỏi.
- Chúng ta ám sát Groza, - chủ toạ đáp.
- Không thể được. Người của Ionescu đã nỗ lực nhiều!ần như chúng ta đã biết và họ đều thất bại. Biệt thự của ông ta hình như là bất khả xâm phạm. Dù sao thì chẳng có ai trong phòng này có thể chịu dính líu vào một nỗ lực ám sát cả.
- Chúng ta sẽ không trực tiếp can dự vào, - vị chủ toạ lên tiếng.
- Vậy làm cách nào?
- Ngài chủ sự phát hiện được một hồ sơ mật đề cập đến một kẻ khủng bố quốc tế để thuê. - Abul Abbas, người đã tổ chức cướp chiếc Achille Lauro?
- Không. Thưa các ngài có một tay súng mới. Một tay súng hay hơn. Tên hắn là Agel. - Chưa bao giờ nghe đến hắn, - Sigmund nói.
- Đúng. Uỷ nhiệm thư của hắn gợi cảm nhất. Theo hồ sơ của ngài chủ sự, Agel đã dính líu vào cuộc ám sát Sikh Khalistan Ấn Độ. Hắn đã giúp bọn khủng bố Macheteros tại Puerto Rico, và bọn Khmer đỏ tại Campuchia. Hắn đã đạo diễn cuộc ám sát nửa tá sĩ quan quân đội tại Isarel và người Isarel đã trao giải thưởng một triệu đô- la cho mạng hắn, chết hoặc bắt sống.
- Hắn có vẻ hứa hẹn đấy, - Thor nói. - Chúng ta có thể thuê được hắn không?
- Hắn đắt giá. Nếu hắn đồng ý hợp đồng, chúng ta sẽ phải tốn mất hai triệu đô- la. Freyr huýt gió, rồi nhún vai.
- Việc ấy có thể thu xếp được. Chúng ta sẽ lấy số tiền ấy ở tổng quỹ mà chúng ta đã thiết lập. - Làm sao chúng ta có thể tiếp xúc tay Angel này? - Sigmund lên tiếng hỏi.
- Mọi liên lạc với hắn đều được thực hiện qua trung gian bà chủ của hắn, một người phụ nữ tên là Neusa Munez.
- Chúng ta tìm mụ ấy ở đâu?
- Mụ sống tại Arhentina. Angel đã bố trí cho mụ ở một căn phòng tại Buenos Aires. Thor lên tiếng:
- Bước kế tiếp sẽ là gì? Ai sẽ tiếp xúc mụ cho chúng ta?
Vị chủ toạ đáp:
- Ngài chủ sự đề nghị một người đàn ông tên là Harry Lantz.
- Tên ấy nghe quen đấy!
Vị chủ toạ lạnh lùng nói:
- Vâng, hắn có tên trên báo. Harry Lantz là một người hoạt động độc lập. Hắn đã bị loại khỏi CIA vì đã thiết lập việc buôn bán ma tuý riêng tại Việt Nam. Hắn là một kẻ móc nối tuyệt vời … - Ông dừng lại. - Tôi đề nghị chúng ta biểu quyết. Ai tán thành việc mướn Angel xin vui lòng giơ tay.
Tám cánh tay được chăm sóc kỹ lưỡng giơ lên không.
- Vậy là xong. - Vị chủ toạ đứng dậy. - Cuộc họp đình lại. Xin vui lòng thận trọng như thường lệ!
Vào một ngày thứ hai, cảnh sát Leslie Hanson đi cắm trại trong nhà kính trên khu đất của lâu đài nơi anh ta không có quyền có mặt. Anh ta không đi một mình, sau này, anh ta phải giải thích với thượng cấp. Thời tiết ấm áp trong nhà kính và bạn gái của anh ta, Annie, một cô gái quê tròn trĩnh, đã thuyết phục được tay cảnh sát tốt bụng mang theo hòm mây đựng đồ cắm trại.
- Anh mang thức ăn, - Annie cười rúc rích, - Và em sẽ mang đồ tráng miệng.
Đồ tráng miệng cao 1m70 với bộ ngực và đôi mông nẩy nở đẹp tuyệt mà một đàn ông có thể cắn vào. Không may, giữa khi dùng món tráng miệng, sự tập trung của cảnh sát Hanson bị xao lãng vì một chiếc xe hòm đang chạy ra cổng toà lâu đài.
- Địa điểm đẫm máu này lẽ ra phải đóng cửa vào những ngày thứ hai, - anh ta lẩm bẩm. - Đừng rời vị trí của anh nhé, - Annie tán tỉnh.
- Không đâu, cưng.
Hai mươi phút sau, viên cảnh sát nghe một chiếc xe thứ hai ra đi. Lần này anh ta khá tò mò lên đứng dậy và lén nhìn ra cửa sổ tối để che giấu các hành khách bên trong.
- Nào, tỉnh lại chưa Leslie?
- Rồi. Có điều anh không thể đoán ra ai có thể ở trong lâu đài. Trừ những ngày tham quan, nó đóng cửa liên tục.
- Y như điều sẽ xảy ra cho em đây, cưng ơi, nếu anh không cỡi lên nó.
Hai mươi phút sau, khi viên cảnh sát nghe chiếc xe thứ ba ra đi, dục tình của anh ta đã nhường chỗ cho bản năng cảnh sát. Còn năm chiếc nữa, đều là xe hòm, tất cả đều cách nhau hai mươi phút. Vì một trong những chiếc xe dừng lại một lúc đủ cho một con nai băng qua nên cảnh sát Hanson có đủ thời gian để ghi số đăng ký xe.
- Lẽ ra ngày đẫm máu của anh, anh phải nghỉ chứ, - Annie than vãn.
- Việc này có thể quan trọng đấy, - viên cảnh sát nói. Và ngay cả lúc lão nói, lão băn khoăn có nên báo cáo không.
- Anh đang làm gì ở lâu đài Claymore? - Trung sĩ Twill lên tiếng hạch hỏi.
- Ngắm cảnh, thưa ngài!
- Lâu đài đóng cửa mà.
- Vâng, thưa ngài. Nhà kính mở cửa!
- Vậy là anh quyết định ngắm cảnh trong nhà kính à?
- Vâng, thưa ngài.
- Một mình, dĩ nhiên chứ?
- À, thực ra…!
- Hãy bỏ giùm tôi những chi tiết lố bịch đi, ông cảnh sát. Điều gì làm anh nghi ngờ những chiếc xe nào?
- Tư cách của họ, thưa ngài.
- Các chiếc xe không có tư cách, Hanson. Tài xế đấy!
- Dĩ nhiên, thưa ngài. Các tài xế có vẻ rất thận trọng. Các xe bỏ đi từng hai mươi phút một.
- Anh biết rằng, dĩ nhiên, có thể có cả nghìn lời giải thích ngây thơ. Thực ra, người duy nhất hình như không có một lời giải thích ngây thơ chính là anh đấy.
- Vâng thưa ngài. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi nên báo cáo việc này.
- Đúng. Đây có phải là số đăng ký mà anh có được không?
- Vâng, thưa ngài.
- Rất tốt. Cút đi. - Ông ta nghĩ đến một câu nhận xét tế nhị để thêm vào. - Hãy nhớ ném đá vào người ta là điều nguy hiểm nếu anh đang ở nhà kính đấy. - Ông ta cười khúc khích với trò chơi chữ của ông ta suốt buổi sáng.
Khi báo cáo về số đăng ký trở về, Trung sĩ Twill quyết định rằng Hanson đã phạm sai lầm. Ông ta đưa bản tin lên lầu cho Thanh tra Pakula và giải thích về hậu trường.
- Lẽ ra tôi không nên làm ngài bận tâm đến việc này, thưa ngài thanh tra, nhưng số đăng ký xe…
- Vâng, tôi biết. Tôi sẽ lo việc ấy?
- Cám ơn ngài.
Tại tổng hành dinh, thanh tra Pakula có một cuộc họp ngắn ngủi với một trong những xếp kỳ cựu của Cơ quan tình báo mật Anh, một con người có khuôn mặt hồng hào, rắn chắc. Ngài Alex Hyde- White.
- Ông hoàn toàn có lý khi đưa việc này vào sự chú ý của tôi, - Ngài Alex mỉm cười, - Nhưng tôi e rằng chẳng có gì e ngại hơn bằng tìm cách thu xếp một chuyến nghỉ hè cho Hoàng gia mà không cho báo chí biết.
- Tôi tiếc là đã làm phiền ngài về chuyện này, thưa ngài. - Thanh tra Pakula đứng dậy.
- Chẳng phiền tí nào cả, thanh tra. Việc ấy tỏ ra là ngành của ông nhanh nhẹn đấy. Ông nói tên của tay cảnh sát trẻ ấy là gì?
- Hanson, thưa ngài. Leslie Hanson.
Khi cánh cửa đóng lại sau lưng thanh tra Pakula, ngài Alex Hyde- White nhấc điện thoại đỏ trên bàn giấy lên.
- Tôi có một công điện cho Balder. Chúng ta có một vấn đề nhỏ. Tôi sẽ giải thích vào cuộc họp kế tiếp. Đồng thời, tôi muốn ngài thu xếp ba cuộc thuyên chuyển. Trung sĩ Leslie Hanson. Hãy rải họ ra ít ngày. Tôi muốn đưa họ ra vị trí riêng rẽ, càng xa London càng tốt. Tôi sẽ báo cho ngài chủ sự và xem thử nếu ngài muốn hành động gì thêm không.
Trong phòng khách sạn của mình tại New York, Harry Lantz thức giấc nửa đêm vì chuông điện thoại reo.
- Ai mà biết được mình ở đây kìa? - hắn tự hỏi.
Hắn nhìn vào chiếc đồng hồ lờ mờ trên giường rồi chộp lấy điện thoại. - Mới bốn giờ sáng mà? Ai…?
Một giọng nói nhẹ nhàng ở đầu dây kia bắt đầu nói và Lantz ngồi đơ trên giường, tim hắn bắt đầu đập mạnh.
- Vâng thưa ngài, - hắn nói. - Vâng, thưa ngài… Không, thưa ngài, nhưng tôi có thể thu xếp để được rảnh. - Hắn lắng nghe một lúc lâu. Cuối cùng hắn nói, - Vâng, thưa ngài, tôi hiểu. Tôi sẽ đáp
chuyến phi cơ thứ nhất đi Buenos Aires. Cám ơn ngài.
Hắn gác ống nghe, với tay đến chiếc bàn bên giường và đốt một điếu thuốc. Tay hắn run rẩy.
Người mà hắn vừa nói chuyện là một trong những người có thế lực nhất thế giới và điều ông ta đề nghị Harry làm…
- Việc quái quỷ gì đây? - Harry Lantz tự hỏi. - Một việc gì to lớn đây. Người đàn ông sẽ trả hắn một số tiền 50.000 đô- la để chuyển giao một bức điện. Trở lại Arhentina là một điều vui đây Harry Lantz thích phụ nữ Nam Mỹ.
Lúc 9 giờ sáng, Lantz nhấc điện thoại và quay số Hàng không Arhentina.
- Chuyến bay đầu tiên của các ông đến Buenos Aires mấy giờ?
Chiếc 747 đến sân bay Ezeiza, Buenos Aires lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Chuyến bay dài giờ nhưng Harry Lantz không quan tâm.
- 50.000 đô- la để chuyển một bức điện. - Hắn cảm thấy một sự hưng phấn nổi lên khi bánh máy bay nhẹ nhàng chạm đất. Hắn không đến Arhentina đã gần năm năm rồi. Gặp lại những người quen cũ thật là thú vị.
Trong lúc Lantz bước ra khỏi phi cơ, một luồng không khí nóng làm hắn giật mình mất một lúc. Dĩ nhiên ở đây là mùa hè.
Trên taxi vào thành phố, Lantz thích thú vì những hàng chữ graffito nguệch ngoạc trên tường các toà nhà và các vỉa hè đã không có gì thay đối.
Vâng, trở lại đây thật là hay.
Sau giấc ngủ trưa đường phố nhộn nhịp với những người uể oải bước đi tới lui các điểm hẹn.
Khi chiếc taxi đến khách sạn El Conquistador tại trung tâm khu vực Barrio Norte hợp thời trang, Lantz trả tài xế bằng một tờ bạc một triệu peso.
- Hãy giữ lại tiền thối, - hắn nói. Tiền của họ là một trò đùa.
Hắn đăng ký tại một bàn giấy trong một hành lang hiện đại, rộng lớn, nhặt một tờ Buenos Aires Herald và Lantz Prensa và để người phụ tá giám đốc chỉ cho hắn dãy phòng của mình. 60 đô la một ngày cho một phòng ngủ, buồng tắm, phòng khách và nhà bếp có gắn điều hoà không khí và
truyền hình. Tại Washington, cơ sở này phải tốn mất một cánh tay và một cái giò, Harry nghĩ thế. Cả ngày mai mình sẽ lo công chuyện Neusa này và ở lại ít ngày hưởng lạc.
Phải mất hơn hai tuần lễ, Harry Lantz mới có thể theo dõi tung tích của Neusa Munez.
Cuộc tìm kiếm của hắn bắt đầu với các sổ niên giám điện thoại của thành phố. Lantz bắt đầu với các địa điểm tại trung tâm thành phố: Khu vực Constitucion, Plaza San Martin, Barri Norte, Catalinas Norte. Chẳng nơi nào có tên Neusa Munez cả. Cũng chẳng có tên này tại những khu vực ven Bahia Blanca hoặc Mar del Plaza.
- Mụ ta ở đâu kìa? - Lantz tự hỏi. Hắn xuống phố, tìm những nơi liên lạc cũ. Hắn đi vào Lantz Biela và người chủ quán rượu kêu to:
- Seno Lantz! Por dios. Tôi nghe ông đã chết rồi mà.
Lantz cười toe toét.
- Đúng đấy, nhưng tôi nhớ ông quá, Antonio, nên tôi trở lại.
- Ông định làm gì ở Buenos Aires thế?
Giọng của Lantz ra vẻ suy tư.
- Tôi đến đây tìm một người bạn gái cũ. Chúng tôi định lấy nhau, nhưng gia đình nàng đã chuyển đi và tôi mất dấu nàng. Tên nàng là Neusa Munez.
Người chủ quán rượu lắc đầu. - Chưa bao giờ nghe đến tên nàng ta. Lo siento. Lần dừng chân của Lantz là chỗ một người bạn tại Bộ tư lệnh cảnh sát.
- Lantz! Harry Lantz! Dios! Qué pasa?
- Chào Jorge. Thật là hay được gặp lại cậu.
- Lần cuối cùng tôi nhận được tin cậu, CIA đã đuổi cậu đi!
Harry Lantz cười.
- Không phải thế, bạn tôi ơi. Họ năn nỉ tôi ở lại. Tôi bỏ đi để theo đuổi công việc cho riêng tôi đấy? - Tôi đã mở rộng văn phòng thám từ tư. Do vậy, việc ấy đã đưa tôi đến Buenos Aires. Một thân chủ của tôi chết ít tuần trước. Ông ta để lại cho con gái một số tiền và tôi đang tìm cách tìm ra chỗ ở của nàng. Tất cả tin tức tôi có được về nàng là nàng đang sống tại một căn phòng đâu đấy tại Buenos Aires.
- Tên nàng là gì?
- Neusa Munez.
Một lúc kéo dài đến nửa tiếng.
- Rất tiếc, anh bạn. Tôi chẳng giúp cậu được. Nàng không có tên trong máy điện toán của chúng tôi hoặc bất cứ hồ sơ nào của chúng tôi cả.
- Ồ, thôi. Nếu cậu có tin tức nào về nàng ta, báo cho tôi đang ở El Conquistador đấy. - Được!
Kế tiếp là các quán rượu, các nơi lui tới quen thuộc cũ. Pepe gonzalez và Almeida, Café Tabac.
- Buenas tardes, amigo. Soy de los Estados Unidos. Estoy buscando una mujier. El nombre es neu Munez. Es una emergencia!.
- Lo siento, senor. No Lantz conozco.
Khắp nơi, câu trả lời cũng vậy thôi. Chẳng một ai từng nghe đến mụ khỉ gió ấy.
Harry Lantz lang thang quanh Lantz Boca, khu vực bến cảng màu sắc rực rỡ, nơi mà người ta có thể trông thấy những chiếc tàu cũ kỹ bỏ neo rỉ sét trên sông. Chẳng một ai quanh đấy biết về Neusa Munez. Lần đầu tiên, Harry Lantz bắt đầu cảm thấy mình có thể đang đi săn ngỗng hoang.
Chính tại Pilar, một quán rượu nhỏ trong những quán rượu vùng Flores, mà dịp may đột nhiên đến với hắn. Đấy là một đêm thứ sáu và quán rượu đông nghịt thợ thuyền. Lantz phải mất mười phút để gây sự chú ý cho chủ quán. Lantz vừa nói được một lúc bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn thì người chủ quán lên tiếng
- Neusa Munez à? Có. Tôi biết mụ ta. Nếu mụ ta muốn nói chuyện với ông, mụ sẽ đến đây ngày mai, vào khoảng nửa đêm.
Chiều hôm sau, Harry Lantz quay trở lại Pilar lúc 11 giờ, thấy quán rượu dần dần đông nghịt người. Càng về nửa đêm, hắn càng cảm thấy bồn chồn. Nếu mụ không đến thì sao nhỉ?
Lantz quan sát lúc một nhóm phụ nữ trẻ cười rúc rích bước vào quán. Họ nhập bọn với một số đàn ông tại một chiếc bàn.
- Mụ phải lộ mặt ra, - Lantz nghĩ thế! - Nếu nàng ta không đến, mình có thể hôn từ giã món 50.000 ấy là vừa.
Hắn tự hỏi liệu mụ ta trông thấy như thế nào. Mụ phải là một con người kỳ quặc. Hắn được quyền đề nghị với bạn trai của mụ, Angel, một số tiền là hai triệu đô- la chẵn để ám sát một người nào đấy vậy là có lẽ Angel sẽ ngồi trên đống bạc triệu.
Hắn rất có thể sẽ kiếm được một bà chủ trẻ đẹp. Quả thật, có lẽ hắn có thể kiếm được cả tá. Mụ Neusa này phải là một cô đào hoặc một người mẫu.
- Ai biết được, có thể mình có thể đùa với nàng một tí trước khi mình rời thành phố. Chẳng có gì khoái bằng vừa làm việc vừa hưởng lạc, - Harry Lantz suy nghĩ khoái trá.
Cánh cửa mở ra và Lantz nhìn lên chờ đợi. Một người phụ nữ đang bước đi một mình. Nàng là một người trung niên và không hấp dẫn gì với một tấm thân phì nộn và bộ ngực to đùng lúc lắc theo mỗi bước đi. Mụ có cái mặt rỗ, mái tóc nhuộm hoe nhưng nước da đen của mụ chứng tỏ dòng máu lai thừa hưởng được của một tổ tiên người Indien đã ăn nằm với một người Tây Ban Nha. Mụ mặc một chiếc váy không thích hợp và một chiếc áo thun chỉ hợp với một phụ nữ trẻ hơn nhiều.
- Một kẻ móc câu vào sự may mắn của mụ! - Lantz quả quyết như thế.
Nhưng tên quái nào muốn "đi" với mụ thế?
Người phụ nữ nhìn quanh quán rượu bằng đôi mắt lờ đờ hoang vắng. Mụ gật đầu bơ thờ với nhiều người rồi chen qua đám đông. Mụ bước đến quầy rượu.
- Hắn mua cho tôi một cốc rượu chứ? - Mụ nói giọng Tây Ban Nha nặng và càng tới gần, mụ càng thiếu hấp dẫn hơn.
Mụ ta trông như một con bò cái mập ú, không được vắt sữa - Lantz nghĩ thế - và mụ đã xỉn. - Chị nhầm rồi chị ơi.
- Esteban nói rằng ông đang tìm tôi, không phải à?
Hắn nhìn mụ chăm chú.
- Ai thế?
- Esteban. Chủ quán.
Harry Lantz vẫn không thể chấp nhận.
- Có lẽ ông ta đã lầm. Tôi đang tìm Neusa Munez.
- Đúng rồi. Tôi là Neusa Munez.
- Nhưng không đúng người này, - Harry Lantz nghĩ thế. Thây kệ - Bà là bạn của Angel à? Mụ cười chếnh choáng.
- Đúng rồi.
Harry Lantz bình tĩnh lại nhanh chóng.
- Được rồi. - Hắn gượng gạo mỉm cười. - Chúng ta có thể tìm một chiếc bàn trong góc nói chuyện không?
Mụ gật đầu lãnh đạm.
- Được.
Họ rẽ lối qua quán rượu nồng nặc khói thuốc và khi họ ngồi xuống, Harry Lantz lên tiếng. - Tôi thích nói chuyện về…
- Ông mua cho tôi một cốc rum chứ?
Lantz gật đầu.
- Hẳn rồi.
Một người hầu bàn xuất hiện, mặc một chiếc tạp dề bẩn thỉu. Lantz nói. - Một cốc rum, một cốc Scotch pha soda.
Mubez nói:
- Làm cho tôi một cốc đúp, hả?
Khi người hầu bàn bỏ đi, Lantz quay sang người phụ nữ ngồi bên cạnh: - Tôi muốn gặp Angel.
Mụ nhìn chăm chú bằng đôi mắt buồn ướt át.
- Để làm gì?
Lantz hạ thấp giọng.
- Tôi muốn có một món quà nhỏ cho ông ấy!
- Vậy à? Loại quà gì thế?
- Hai triệu đô- la!
Rượu được mang đến. Harry nâng ly nói:
- Khoái chứ?
- Vâng. - Mụ nốc cạn ly một hơi. - Ông muốn cho Angel hai triệu đô- la để làm gì? - Đây là điều tôi thảo luận ngay với chính ông ấy.
- Không thể được. Angel, ông ấy không nói chuyện với ai cả.
- Bà ơi, vì hai triệu đô- la!
- Tôi muốn uống một ly rum nữa. Một ly đúp chứ?
Chúa ơi, mụ ta có vẻ như sắp ngất đi.
- Hẳn rồi! - Lantz gọi hầu bàn và gọi ly rượu. - Bà đã biết Angel lâu rồi chứ? - Giọng hắn ra vẻ vô tình.
Mụ nhún vai.
- Vâng!
- Hẳn ông ấy là một người thú vị.
Đôi mắt trống vắng của mụ chăm chú vào một điểm trên bàn đối diện.
- Chúa ơi! - Harry Lantz nghĩ - Coi bộ muốn nói chuyện với một bức tường quái quỷ đây. Ly rượu của mụ đến và mụ uống cạn bằng một hơi dài.
Mụ có thân hình của một con bò cái và tư cách của một con heo.
- Làm thế nào tôi có thể nói chuyện sớm với Angel?
Neusa Munez cố gắng đứng dậy.
- Tôi đã bảo ông rồi, ông ta không nói chuyện với ai cả. Vĩnh biệt.
Harry Lantz đột nhiên tràn đầy kinh hãi:
- Này. Chờ một phút! Đừng đi.
Mụ dừng lại và nhìn xuống hắn bằng đôi mắt lờ đờ:
- Ông muốn gì?
- Ngồi xuống đi, - Lantz chậm rãi nói, - và tôi sẽ nói cho bà biết tôi muốn gì? Mụ nặng nhọc ngồi xuống.
- Tôi cần một ly rum, hả?
Harry Lantz hoang mang:
- Tên Angel này là loại người quỷ gì thế? Bà chủ của hắn chẳng những là con đĩ xấu xí nhất cả Nam Mỹ mà còn là một con mẹ nát rượu nữa?
Lantz không thích giao dịch với những người say. Họ thật không dám tin tưởng. Mặt khác, hắn ghét ý nghĩ tuột mất sự mệnh giá 50.000 đô- la. Hắn nhìn Munez uống rượu. Hắn tự hỏi mụ đã uống bao nhiêu rồi trước khi đến gặp hắn.
Lantz mỉm cười, và nói lý lẽ:
- Neusa, nếu tôi không thể nói chuyện với Angel, làm sao tôi có thể giao dịch với ông ấy được?
- Đơn giản thôi. Ông bảo tôi ông cần gì. Tôi bảo lại Angel. Nếu ông ta bảo được, tôi bảo ông được. Nếu ông ta bảo không, tôi bảo ông không?
Harry Lantz không tin tưởng dùng mụ làm trung gian, nhưng hắn không còn cách lựa chọn nào khác.
- Bà có nghe về Marin Groza không?
- Không!
Dĩ nhiên là mụ không biết. Vì đấy không phải là tên một chai rượu rum. Con chó cái ngu xuẩn này sẽ nhận sai hoàn toàn bức điện và làm hại cả công việc cho hắn.
- Tôi cần một ly rượu, hả?
Hắn đập vào bàn tay mập của nàng.
- Hẳn rồi.
Hắn gọi một ly đúp nữa.
- Angel sẽ biết Groza là ai. Bà chỉ việc nói với Marin Groza. Ông ấy sẽ biết.
- Vâng. Rồi gì nữa?
Mụ còn ngốc nghếch hơn cả vẻ mặt của mụ. Mụ nghĩ rằng Angel sẽ phải làm cái quỷ quái gì vì hai triệu đô- la hả? Hôn người ấy à? Harry thận trọng lên tiếng.
- Những người đưa tôi đến đây muốn nhổ lão đi!
Mụ chớp mắt.
- Nhổ đi là gì?
- Chúa ơi! Giết!
- Ồ! Mụ gật đầu một cách lãnh đạm. - Tôi sẽ hỏi Angel - Giọng mụ bắt đầu còn líu lo hơn nữa. Ông nói tên người đàn ông là gì?
Hắn muốn lay người mụ.
- Groza. Marin Groza.
- Vâng. Chàng của tôi đã ra khỏi phố. Tối nay tôi sẽ gọi anh ấy và sẽ gặp ông ở đây ngày mai.
Tôi có thể uống một ly rum nữa chứ?
Neusa Munez đã trở thành một cơn ác mộng.
Chiều hôm sau, Harry Lantz vẫn ngồi chiếc bàn ấy trong quán rượu từ nửa đêm đến bốn giờ sáng khi quán rượu đóng cửa. Munez không xuất hiện.
- Ông có biết bà ấy sống ở đâu không? Lantz hỏi chủ quán.
Người chủ quán nhìn hắn bằng đôi mắt ngây thơ.
- Quien sabe?
Con chó cái đã làm rối tung mọi việc. Làm sao một người đàn ông được coi là tinh ranh như Angel có thể mắc câu vì một con ngốc nghếch uống rượu rum như thế nhỉ? Harry Lantz tự hào là một đấu thủ nhà nghề. Hắn đã quá khéo léo để bước vào một công việc như thế này mà không chịu kiểm tra trước. Hắn đã cẩn thận dò hoi và tin tức đã gây xúc động cho hắn nhất là người Isarel đã treo đầu của Angel với giá một triệu đô- la. Một triệu đô- la sẽ mua được một cuộc đời trị giá bằng những cuộc say sưa và những cô nàng cắn câu trẻ tuổi. Mà thôi, hắn có thể quên đi việc ấy và hắn có thể quên đi 50.000 đô- la của hắn. Sợi dây liên lạc duy nhất của hắn với Angel đã bị đứt. Có lẽ hắn phải gọi cho người ấy và bảo ngài rằng hắn đã thất bại.
Mình sẽ không gọi ông ấy vội, Harry Lantz quyết định. Có thể mụ sẽ trở lại đây. Có lẽ những quán rượu khác sẽ hết rượu rum. Có lẽ mình sẽ bị đá đít vì đã đồng ý với công tác quái quỷ này.
Chương 6
Lúc 11 giờ đêm hôm sau, Harry Lantz ngồi, cũng bàn ấy tại quán rượu Pilar, cứ chốc chốc lại nhai đậu phộng và cắn móng tay. Lúc hai giờ sáng, hắn trông thấy Neusa Munez, trượt chân ở cửa và tim Harry nhấp nhỏm. Hắn nhìn mụ bước lại bàn hắn.
- Chào, - mụ lẩm bẩm và ngồi thụp xuống một cái ghế.
- Bà sao thế? - Harry hỏi. Hắn chỉ có thể nói thế để dằn cơn giận.
Mụ nheo mắt.
- Hả.
- Lẽ ra bà đã gặp tôi tại đây tối hôm qua. Chúng ta đã hẹn, Neusa.
- Ồ, tôi đã đi xinê với một cô bạn gái. Một phim mới mà, ông thấy không? Chuyện về một người đàn ông yêu một nữ tu sĩ và…
Lantz thật ngao ngán đến nỗi phát khóc lên được Lẽ nào Angel có thể trông thấy gì trong con chó cái say sưa ngốc nghếch này? Có lẽ mụ có một "con mèo" vàng, nhất định như thế.
- Neusa, bà có nhớ nói chuyện với Angel không?
Mụ nhìn hắn ngây dại, cố gắng tìm hiểu câu hỏi.
- Angel à? Có. Tôi có thể uống một tí không?
Hắn gọi cho nàng một ly đúp rượu rum và một ly đúp Scotch cho mình. Hắn cần rượu ghê gớm.
- Angel nói gì không? Neusa?
- Angel à? Ồ, anh ấy đồng ý, Được rồi.
Harry cảm thấy nhẹ nhõm.
- Tuyệt vời!
Hắn không còn xem thường sứ mệnh của người liên lạc của hắn nữa. Hắn đã nghĩ đến một ý tốt hơn. Con chó cái sau này sẽ đưa đến với Angel. Số tiền thưởng một triệu đô- la.
Hắn nhìn mụ nốc ly rượu, trào một ít xuống chiếc áo cánh đã vấy bẩn mụ.
- Angel, còn nói gì khác không?
Mụ nhíu mày tập trung:
- Angel, anh ấy nói rằng anh ấy muốn biết người của các ông là ai?
Lantz cho mụ một nụ cười đắc thắng.
- Bà bảo ông ấy rằng đấy là việc bí mật, Neusa ạ. Tôi không thể cho ông ta biết tin ấy được. Mụ gật đầu lãnh đạm.
- Vậy thì Angel bảo nói với ông hãy cút đi. Tôi có thể uống một ly rum trước khi đi không?
Đầu óc Harry Lantz bắt đầu làm việc với tốc độ tối đa. Nếu mụ bỏ đi, hắn chắc chắn sẽ không bao giờ gặp mụ lại lần nữa.
- Tôi sẽ nói với bà, tôi sẽ làm gì, Neusa ạ. Tôi sẽ điện thoại cho những người tôi đang làm việc và nếu họ cho phép tôi, tôi sẽ cho bà một cái tên, đồng ý không?
Mụ nhún vai.
- Tôi chẳng quan tâm.
- Không, - Lantz kiên nhẫn giải thích, - Nhưng Angel quan tâm đấy. Vậy hãy bảo ông ấy rằng tôi sẽ có câu trả lời cho ông ấy ngày mai. Có địa điểm nào để tôi tiếp xúc với bà không?
- Tôi đoán có!
Hắn hỏi dồn tới.
- Ở đâu?
- Ở đây!
Rượu của mụ đến và hắn nhìn mụ nốc cạn như một con thú. Lantz muốn giết mụ.
Lantz gọi điện tổng hợp để khỏi bị theo dõi từ một phòng điện thoại công cộng trên đường Calvo.
Hắn mất một giờ mới gọi xong.
- Không, - ngài chủ sự nói. - Tôi bảo với ông rằng không được đề cập đến cái tên nào cả.
- Vâng, thưa ngài. Nhưng có một vấn đề. Neusa Munez, bà chủ của Angel, nói rằng hắn đồng ý tiến hành cuộc đổi chác, nhưng hắn sẽ không tiến hành nếu hắn không biết ai là người hắn giao dịch. Đương nhiên, tôi đã bảo mụ ta rằng tôi phải làm việc lại với ngài trước đã.
- Người phụ nữ này trông thế nào?
Ngài chủ sự không phải là người để cùng chơi bài.
- Mụ ta mập, xấu xí và ngu xuẩn, thưa ngài.
- Dùng tên tôi sẽ nguy hiểm vô cùng.
Harry Lantz có thể cảm thấy ngay việc giao dịch đang tuội khỏi tay hắn.
- Vâng, thưa ngài, - hắn nói nghiêm chỉnh. Tôi hiểu. Điều duy nhất là, thưa ngài, tiếng tăm của Angel được căn cứ vào việc hắn có thể kín miệng. Nếu bao giờ hắn bắt đầu nói, hắn sẽ không kéo dài được năm phút trong công việc của hắn.
Im lặng một lúc lâu.
- Ông xuất sắc đấy. - Một sự im lặng khác, còn lâu hơn nữa. - Tốt lắm, ông có thể cho Angel tên tôi. Nhưng hắn không bao giờ được tiết lộ và không bao giờ tiếp xúc trực tiếp với tôi. Hắn chỉ làm việc qua trung gian của ông thôi!
Harry Lantz đã có thể khiêu vũ được.
- Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ bảo hắn. Cám ơn, thưa ngài.
Hắn gác máy, một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Hắn sẽ nhận 50.000 đô- la. Và rồi phần thưởng một triệu đô- la nữa.
Khi Harry Lantz gặp Neusa Munez khuya hôm ấy hắn gọi ngay mụ một ly đúp rum và vui vẻ nói:
- Mọi việc đã xong. Tôi đã được phép.
Mụ nhìn hắn lạnh nhạt.
- Thế ạ?
Hắn cho mụ biết tên ông chủ của hắn. Đấy là một cái tên dùng trong gia đình và hắn mong mụ nhớ kỹ tên ấy.
Mụ nhún vai.
- Chưa bao giờ nghe đến ông ấy.
- Neusa, những người tôi phục vụ muốn việc này tiến hành càng nhanh càng tốt. Marin Groza đang trốn tại một biệt thự tại Neuilly, và…
- Ở đâu?
Chúa quyền năng! Hắn đang cố giao dịch với một đứa con nít đang say. Hắn kiên nhẫn nói: - Đấy là một thành phố nhỏ ở ngoại thành Paris. Angel sẽ biết.
- Tôi cần một ly nữa.
Một giờ sau, Neusa vẫn còn uống mãi. Và lần này, Harry Lantz khuyến khích mụ.
Chẳng phải là mụ ta cần nhiều sự khuyến khích! - Lantz nghĩ thế. - Khi mụ khá say, mụ sẽ đưa mình đến với tên bạn trai của mụ. Phần còn lại sẽ dễ dàng thôi.
Hắn nhìn phớt qua Neusa Munez đang đưa đôi mắt lờ đờ nhìn chăm chú vào ly rượu của mụ. Sẽ không khéo thộp được Angel. Hắn có thể dai sức nhưng hắn không thông minh lắm đâu. - Khi nào Angel về lại thành phố?
Mụ tập trung đôi mắt ướt của mụ lên người hắn.
- Tuần sau.
Harry Lantz cầm tay của mụ đập đập.
- Tại sao bà và tôi không về chỗ bà? - Harry hỏi giọng dịu dàng.
- Được!
Hắn đang nhập cuộc.
Neusa Munez sống trong một gian nhà hai buồng tồi tàn tại khu Belgrano thuộc Buenos Aires. Gian nhà bẩn thỉu và bừa bãi, như chủ của nó. Khi họ đi qua cửa, Neusa đi thẳng vào tủ rượu nhỏ trong góc nhà. Mụ đứng không vững:
- Nào uống chứ?
- Tôi không uống! - Lantz lên tiếng. - Bà cứ việc uống đi. - Hắn nhìn mụ rót rượu và uống cạn.
Mụ là con chó xấu xí ghê tởm nhất mà mình chưa hề gặp, - hắn nghĩ thế, - Nhưng một triệu đô- la sẽ đẹp đấy.
Hắn nhìn quanh gian phòng. Có một số sách chồng trên bàn cà phê. Hắn nhặt lên từng quyển, hy vọng nhìn thấy được đầu óc Angel. Các đề tựa làm hắn kinh ngạc: Gabriela của Jorge Amado; Lửa trên đỉnh núi của Omar Cabezas; Trăm năm cô đơn của Garcia Marquez; Những con mèo ban đêm của Antonio Cisneros. Vậy Angel là một nhà trí thức. Những quyển sách này không hợp với căn phòng hoặc không hợp với con mụ đàn bà.
Lantz bước đến bên mụ và vòng tay quanh cái co rộng và mềm nhũn của mụ.
- Em thật đáng yêu, em biết chứ? - Hắn lần lên và bóp vú mụ, chúng to như hai quả dưa hấu. Lantz ghét những phụ nữ vú to - Em có một thân hình lớn thật.
- Hở? - Đôi mắt mụ rực lên.
Đôi cánh tay của Lantz xuống thấp và chạm vào cặp đùi của mụ và luồn tay qua chiếc áo bông mỏng của mụ.
- Cái này cảm thấy thế nào? - Hắn thì thầm.
- Gì vậy?
Hắn không đi đến đâu cả. Hắn phải nghĩ đến việc gạ gẫm được con mụ amazon này vào giường.
Nhưng hắn biết hắn phải tiến thận trọng. Nếu hắn làm mụ giận, có thể mụ sẽ trở mặt và báo cáo hắn với Angel, và việc ấy sẽ chấm dứt việc giao dịch.
Hắn có thể tìm cách ăn nói ngọt ngào với mụ, nhưng mụ ta đã quá say để biết hắn nói gì. Trong lúc Lantz đang tuyệt vọng tìm cách để nghĩ ra một bước đầu khéo léo, Neusa lẩm bẩm: - Muốn chơi không?
Hắn cười lên nhẹ nhõm.
- Ý kiến vĩ đại đấy, bé.
- Nào, vào phòng ngủ đi!
Mụ lảo đảo trong lúc Lantz bước theo mụ vào căn phòng ngủ nhỏ. Trong ấy có một chiếc tủ với một cánh cửa mở hé, một chiếc giường lớn bề bộn, hai chiếc ghế và một bàn giấy trên ấy có một chiếc gương vỡ. Chính chiếc tủ ấy đã gây sự chú ý của Harry Lantz. Hắn liếc mắt thấy một hàng y phục đàn ông treo trên một cái giá.
Neusa đứng bên cạnh giường mò mẫm những chiếc cúc trên chiếc áo cánh của mụ. Theo những trường hợp bình thường, có lẽ Harry Lantz đã đến bên cạnh mụ, cởi quần áo cho mụ, vuốt ve thân thể mụ và lầm thầm vào tai mụ những lời tục tĩu kích thích. Nhưng cảnh Munez làm hắn muốn bệnh.
Hắn đứng dậy nhìn chiếc váy của mụ rơi xuống đất. Trần truồng, mụ còn xấu hơn cả khi mặc quần áo. Bộ ngực đồ sộ của mụ xệ xuống và cái bụng phệ của mụ rung rinh như thịt đông lúc mụ cử động. Cặp đùi mập của mụ là một khối thịt u.
Mụ là con người phì nộn nhất mà mình chưa từng thấy, - Lantz nghĩ thế. - Hãy nghĩ tích cực đi, - Lantz tự nhủ. - Việc này sẽ thực hiện trong ít phút thôi. Một triệu đô- la sẽ còn mãi mãi.
Từ từ, hắn cố gắng cởi quần áo. Mụ ngã người lên giường, như một con thuỷ quái, đợi hắn, và hắn bò lên giường bên cạnh mụ.
- Em thích gì nào? - hắn hỏi.
- Hở? Sôcôla. Tôi thích sôcôla.
Mụ còn say hơn hắn nghĩ. Tốt thôi. Công việc sẽ dễ dàng hơn. Hắn bắt đầu vuốt ve thân thể trắng toát mềm nhũn của mụ.
- Em là một người đàn bà rất xinh, cưng ơi. Em biết không?
- Thế à?
- Làm bạn gái của Angel phải thật là thú vị. Nào bé, hãy cho anh biết Angel như thế nào? - Giàu. Angel, anh ấy rất giàu.
Tay của Lantz tiếp tục công việc.
- Ông ấy tốt với em không?
- Vâng. Angel tốt với tôi.
- Anh cũng sẽ tốt với em, bé ạ!
Giọng hắn dịu dàng. Vấn đề của hắn là mọi việc phải thực hiện dịu dàng. Điều hắn cần là xây dựng một triệu đô- la.
Hắn bắt đầu nghĩ đến chị em Dolly và những việc họ đã phục vụ hắn. Hắn hình dung họ đang làm việc trên thân thể trần truồng của hắn với cái lưỡi ngón tay và núm vú của họ.
Hắn bắt đầu cử động hông lên xuống.
- Hãy nói với anh về Angel đi. Ai là của ông ấy!
Giọng mụ ngái ngủ.
- Angel không có bạn, tôi là bạn ông ấy?
- Dĩ nhiên là em rồi, bé. Angel có sống đây với em không, hay ông ấy có chỗ riêng? Neusa nhắm mắt lại.
- Này, tôi buồn ngủ rồi, chừng nào ông xong?
Không bao giờ, hắn nghĩ thế.
- Với con bò cái này! - Anh đã xong rồi, - Lantz nói dối.
- Vậy ta ngủ đi.
Hắn lăn ra khỏi mụ và nằm cạnh mụ cáu kỉnh.
- Tại sao Angel không thể nào kiếm được một tình nhân bình thường nhỉ? Một ả nào đấy đẹp và có máu nóng? Rồi hắn sẽ không gặp rắc rối nào để có được tin tức mà hắn cần. Nhưng con chó cái ngu xuẩn này… Vẫn… còn những cách khác.
Lantz nằm đấy lặng lẽ một lúc lâu cho đến lúc hắn chắc chắn Neusa đã ngủ. Rồi hắn cẩn thận nhỏm dậy và bước lại chiếc tủ. Hắn bật đèn trong tủ lên và đóng cánh cửa lại để ánh sáng không đánh thức con vật kếch xù đang ngáy.
Có một tá áo quần và đồ trang bị thể thao treo trên giá và sáu đôi giày đàn ông trên sàn nhà.
Lantz mở những chiếc áo vest ra và xem nhãn hiệu. Các bộ quần áo đều được may đo tại Herrera, đại lộ Lantz Plata. Những đôi giày được làm tại Vill.
Mình vớ được món bở đây! Lantz nhìn thoả thích. - Chúng ghi địa chỉ của Angel. Sáng mai trước tiên mình sẽ đến tiệm và hỏi vài câu hỏi.
Một lời cảnh cáo vang lên trong trí hắn. "Không, không hỏi gì cả". Hắn phải khéo léo hơn thế. Xét cho cùng, hắn đang đương đầu với một tên sát nhân tầm cỡ thế giới. Để Neusa đưa hắn đến với Angel sẽ an toàn hơn. Vậy thì tất cả những gì mình phải làm là báo tin trước cho chiến hữu của mình tại Mossad và nhặt lấy phần thưởng. Mình sẽ tỏ cho Ned Tillingast và bọn quỷ CIA ấy rằng thằng Harry già đã không mất ngón nghề. Tất cả những thằng xuất sắc của CIA đã quắn đít để tìm Angel và mình là người duy nhất khá tinh ranh để thành công trong vấn đề ấy!
Hắn nghĩ là hắn nghe một tiếng động trên giường. Hắn cẩn thận hé nhìn ra từ cửa tủ, nhưng Neusa vẫn còn đang ngủ.
Lantz tắt đèn ở tủ và đi về giường. Mắt Munez nhắm lại. Lantz nhón gót đi về bàn giấy và bắt đầu lục lọi ngăn kéo, hy vọng tìm ra một tấm ảnh của Angel, chẳng có cơ may nào cả. Hắn bò lại về giường. Neusa đang ngáy vang.
Cuối cùng Harry buồn ngủ híp mắt, những giấc mơ của hắn đầy những ảo ảnh của một chiếc du thuyền của một chiếc du thuyền trắng đầy những cô gái khoả thân đẹp đẽ có bộ ngực nhỏ nhắn chắc nịch.
Buổi sáng khi Harry Lantz thức giấc, Neusa đã đi mất. Lantz kinh hoàng một lúc. Có phải mụ
đi gặp Angel? Hắn nghe những tiếng động ở nhà bếp.
Hắn vội ra khỏi giường và mặc quần áo lại. Neusa đang đứng tại bếp.
- Beunos dias! 1 - Lantz lên tiếng.
- Uống cà phê không? - Neusa lẩm bẩm. - Tôi không thể nấu bữa ăn sáng được. Tôi có hẹn. "Với Angel"- Harry Lantz cố giấu sự xúc động của mình.
- Tốt thôi. Anh không đói. Tại sao em không đi đến chỗ hẹn đi và chúng ta sẽ gặp lại nhau để đi ăn tối nay.
Hắn vòng tay quanh người mụ và mơn trớn cặp vú lòng thòng của mụ.
- Em thích ăn tối ở đâu? Chẳng có gì đâu, anh chỉ muốn phục vụ tốt cho một cô gái của anh thôi.
Lẽ ra mình phải đóng kịch, - Lantz nghĩ thế.
- Tôi không quan tâm.
- Em biết Chiquin ở Đại lộ Cangallo không?
- Không.
- Em sẽ thích. Tại sao anh không đón em ở đây lúc tám giờ nhỉ? Hôm nay anh có nhiều việc phải làm! - Hắn chẳng có việc gì phải làm cả.
- Được!
Hắn dồn tất cả ý chí để chồm qua hôn từ biệt Neusa. Môi mềm nhũn, ướt át và ghê tởm. - Tám giờ.
Lantz bước ra khỏi căn phòng và gọi một chiếc taxi. Hắn hy vọng rằng Neusa đang nhìn từ cửa sổ.
- Rẽ phải - ở góc đường kế tiếp! - hắn bảo tài xế.
Khi họ đã rẽ sang góc đường, Harry Lantz bảo:
- Tôi sẽ xuống đây!
Người tài xế nhìn hắn kinh ngạc.
- Ông chỉ muốn đi một khu nhà à, thưa ông?
- Đúng Tôi hư một chân. Vết thương chiến tranh!
Harry Lantz trả tiền rồi vội vã trở lại một tiệm thuốc lá đối diện với toà nhà của Neusa. Hắn châm một điếu thuốc và đợi.
Hai mươi phút sau, Neusa ra khỏi toà nhà.
Harry quan sát trong lúc mụ núng nính đi xuống phố và hắn theo dõi mụ với một khoảng cách thận trọng. Chẳng có cơ hội nào để mất mụ cả. Việc ấy giống như theo dõi Lusitania.
Neusa Munez hình như chẳng vội vã gì cả. Mụ đi xuống đường Avenida Belgrano, ngang qua thư viện Tây Ban Nha và lê bước dọc theo Đại lộ Cordoba. Lantz quan sát trong lúc mụ bước vào Berenes, một cửa hàng da thuộc trên đường San Martin. Hắn đứng bên kia đường và nhìn mụ tán gẫu với một nam thư ký. Lantz tự hỏi liệu cửa hiệu này có thể là một điểm tiếp xúc với Angel không.
Hắn ghi vào đầu.
Ít phút sau, Neusa đi ra mang theo một gói nhỏ. Mụ ghé vào một quán kem trên đường Corrientes, để mua một cái kem lạnh. Mụ từ từ đi xuống đường San Martin. Hình như mụ bước đi chẳng có mục đích nào cả, và chẳng có điểm đến đặc biệt nào cả trong đầu mụ.
- Việc quỷ gì đã xảy ra cho cuộc hẹn của mụ thế? Lantz tự hỏi. - Angel ở đâu nhỉ? - Hắn không tin câu nói của Neusa rằng Angel đã đi khỏi thành phố. Bản năng của hắn bảo rằng Angel đang ở đâu đấy gần đây.
Lantz bỗng phát hiện không còn trông thấy Neusa Munez nữa. Mụ đã quay sang một góc đường trước mắt và biến mất. Hắn bước nhanh.
Khi Lantz vòng qua góc đường, không còn thấy mụ.
Ở đâu nữa. Có những cửa hiệu nhỏ ở hai bên thành phố và Lantz thận trọng bước đi, đôi mắt sục sạo khắp nơi, sợ rằng Neusa có thể trông thấy hắn trước khi hắn trông thấy mụ.
Cuối cùng hắn dò ra mụ tại một Fiambreria một cửa hiệu bán cao lương, đang mua đồ tạp hoá. Mụ mua cho mình hay mụ đợi ai ở phòng mụ để ăn trưa? Một người nào đấy tên là Angel.
Từ một khoảng xa Lantz trông thấy Neusa bước vào một cửa hiệu rau quả mua trái cây và rau. Hắn theo đuôi mụ về lại toà nhà của mụ.
Harry Lantz quan sát toà nhà của Neusa từ bên kia đường trong bốn giờ kế tiếp, bằng cách đi quanh quẩn để cố gắng khỏi bị lộ. Cuối cùng, hắn khẳng định rằng Angel sẽ không lộ mặt ra.
- Có lẽ tối nay mình có thể moi ở mụ thêm một số tin tức, - Lantz nghĩ thế, - mà không phải ân ái với mụ.
Ý nghĩ về việc phải làm tình với Neusa làm hắn muốn bệnh trở lại.
Tại Văn phòng Bầu dục của Toà Bạch ốc, trời đã về chiều, thực ra đó là một ngày dài cho Paul Ellison. Cả thế giới hình như chỉ gồm những Uỷ ban, những hội đồng, các bức điện khẩn, các cuộc họp kín và các khoá họp, và ông đã không có một lúc nào riêng cho mình cả cho đến lúc này. À, hầu như cho mình.
Stanton Roges đang ngồi đối diện với. Ông lần đầu tiên trong ngày ấy, ngài Tổng thống cảm thấy dễ chịu.
- Tôi làm cậu phải xa gia đình, Stan ạ.
- Được thôi, Paul.
- Tôi muốn nói chuyện với cậu về cuộc điều tra Mary Ashley. Việc ấy thế nào rồi?
- Hầu như đã hoàn thành. Chúng ta sẽ kiểm tra bà ấy lần cuối ngày mai hoặc ngày mốt. Cho đến nay, việc ấy có vẻ rất tốt. Tôi xúc động khi nghĩ đến đó. Tôi nghĩ rằng sẽ có kết quả đấy.
- Chúng ta sẽ làm mọi chuyện thành đạt. Cậu muốn uống một ly nữa không?
- Không, cám ơn. Trừ phi cậu cần tôi làm việc gì khác, tôi sẽ đưa Barbara đến một buổi khai mạc tại trung tâm Kennedy.
- Cậu cứ việc, - Paul Ellison lên tiéng. - Alice và tôi phải chiêu đãi một số thân nhân của bà:ấy. - Cho tôi gửi lời ưu ái đến Alice, - Stanton Roges nói, và đứng dậy.
- Và cho tôi gởi lời thăm đến Barbara. - Ông nhìn Stanton Roges ra đi. Tư tưởng của Tổng thống quay trở lại với Mary Ashley.
Khi Harry Lantz đến căn phòng của Neusa chiều hôm ấy, để đưa mụ đi ăn, chẳng có ai trả lời tiếng gõ cửa của hắn cả. Hắn cảm thấy sững sờ một lúc. Có phải mụ đã cho hắn leo cây không?
Hắn thử mở cửa. Cửa không khoá. Angel có mặt đây để gặp hắn chăng? Có lẽ hắn đã quyết định thảo luận hợp đồng mặt đối mặt. Harry làm ra vẻ như đang giao dịch, nhanh nhảu bước vào căn phòng vắng lặng.
- Ê.
Chỉ có âm thanh dội lại. Hắn đi ngang vào phòng ngủ. Neusa đang nằm vắt ngang giường, say tuý luý.
- Đồ ngu… - hắn tự chế. Hắn không nên quên rằng con đĩ đần độn, say sưa này là mỏ vàng của hắn. Hắn đặt tay lên vai mụ và tìm cách lay mụ dậy.
Mụ mở mắt.
- Việc gì đấy?
- Anh đang lo cho em, - Lantz nói. Giọng hắn hồi hộp một cách chân thật. - Anh không thích thấy em bất hạnh, và anh nghĩ rằng em uống rượu vì có ai đấy làm cho em bất hạnh. Anh là bạn của em.
- Em có thể nói với anh tất cả việc ấy. Angel phải không?
- Angel - mụ lẩm bẩm.
- Anh chắc rằng ông ấy là người tốt, - Harry Lantz đấu dịu. - Có lẽ cả hai có một sự hiểu lầm nho nhỏ, đúng không nào?
Hắn cố gắng đưa mụ nằm thẳng ra trên giường. Giống như đưa một con cá voi lên cạn, - Lantz
nghĩ thế.
Lantz ngồi xuống bên cạnh mụ. - Hãy nói với anh về Angel đi, - Lantz nói, - Ông ấy đã làm gì em nào?
Neusa nhìn hắn đăm đăm, đôi mắt mờ mờ tìm cách tập trung vào hắn. - Làm tình đi!
- Ồ, chúa ơi! Việc ấy sẽ là một đêm dài. Đúng rồi, ý kiến vĩ đại đấy. - Lantz miễn cưỡng bắt đầu cởi quần áo.
Khi Harry Lantz thức giấc vào buổi sáng một mình trên giường, những việc đã tràn ngập đầu óc hắn và hắn cảm thấy đau bụng.
Neusa đã đánh thức hắn vào lúc nữa đêm.
- Ông biết tôi muốn ông làm gì cho tôi không?! - mụ lẩm bẩm. Mụ bảo với hắn điều ấy. Hắn lắng nghe một cách hoài nghi, nhưng hắn đã làm những điều mụ bảo hắn làm. Hắn không thể nào phản kháng lại mụ. Mụ là một con vật dã man, bệnh hoạn và Lantz tự hỏi liệu Angel có bao giờ làm những việc ấy cho mụ không. Ý nghĩ về điều hắn đã hoàn thành làm Lantz lợm giọng. Hắn nghe Neusa lạc điệu trong phòng tắm. Hắn không chắc có thể đương đầu nổi với mụ.
Mình đã quá đủ! - Lantz nghĩ thế. - Nếu sáng nay mụ không bảo cho mình biết Angel ở đâu, mình sẽ đi đến chỗ thợ may và thợ giày của hắn.
Hắn vứt những tấm trải giường lại và đi vào với Neusa. Mụ đang đứng trước gương soi ở phòng tắm. Tóc mụ đang cuốn trong những ống cuốn to và mụ trông có vẻ, có lẽ thế, còn không hấp dẫn hơn cả lúc trước.
- Em và anh sẽ nói chuyện với nhau nhé, - Lantz quả quyết
- Hẳn rồi. - Neusa chỉ một bồn tắm đầy nước. - Tôi chuẩn bị nước tắm cho ông. Khi nào xong, tôi sẽ sửa soạn bữa ăn sáng.
Lantz sốt ruột, nhưng hắn biết hắn không nên ép quá mạnh.
- Ông thích trứng tráng không?
Hắn chẳng thích ăn tí nào cả.
- Vâng, hay đấy.
- Tôi thích làm trứng tráng ngon. Angel dạy tôi đấy!
Lantz nhìn trong lúc mụ đang bắt đầu lấy những ống cuốn to bự ra khỏi mái tóc. Hắn bước vào bồn tắm.
Neusa nhặt một chiếc máy sấy tóc lớn, cắm điện và bắt đầu hong tóc.
Lantz nằm trong bồn tắm ấm suy nghĩ: Có lẽ mình sẽ lấy súng và tự mình bắt lấy Angel. Nếu mình để bọn Isarel làm việc ấy, có lẽ sẽ có một cuộc điều tra lôi thôi về người lãnh thưởng. Cách này sẽ chẳng có vấn đề gì cả. Mình sẽ chỉ cho họ biết nơi để nhặt xác hắn.
Neusa nói điều gì đấy nhưng Harry Lantz chỉ có thể nghe loáng thoáng qua tiếng máy sấy tóc. - Em bảo gì thế? - hắn gọi lớn.
Neusa đến bên cạnh bồn tắm.
- Tôi mang cho ông món quà của Angel.
Mụ thả chiếc máy sấy điện vào trong nước và đứng đấy nhìn thân thể của Lantz quằn quại trong một điệu khiêu vũ của tử thần.
Chương 7
Tổng thống Paul Ellison đặt bản báo cáo an ninh cuối cùng về Mary Ashley xuống và nói: - Chẳng có một vết nhơ nào cả, Stan ạ.
- Tôi biết. Tôi nghĩ bà ấy là một ứng cử viên hoàn hảo. Dĩ nhiên, Bộ Ngoại giao sẽ không thích thứ.
- Chúng ta sẽ cho họ một vố nên thân. Bây giờ chúng ta hãy hy vọng Thượng viện sẽ ủng hộ chúng ta.
Văn phòng của Mary Ashley tại giảng đường Kedzie là một phòng nhỏ dễ chịu với những giá sách nhét đầy những quyển sách tham khảo về các quốc gia Trung Âu. Đồ dùng khiêm tốn gồm một chiếc bàn giấy gãy nát và một chiếc ghế quay, một bàn nhỏ ở cửa sổ chất đầy những giấy tờ thi cử, một chiếc ghế dựa hình nấc thang và một chiếc đèn đọc sách. Trên bức tường sau bàn giấy là một bản đồ Balkan. Một bức tranh xưa của ông nội Mary treo trên tường. Nó đã được chụp khoảng đầu thế kỷ và người trong bức ảnh đang đứng trong tư thế cứng nhắc không tự nhiên, trong bộ đồ của thời kỳ ấy. Bức ảnh là một trong những bảo vật của Mary. Chính ông nội của nàng đã truyền lại cho nàng sự tò mò sâu sắc về Rumani. Ông đã kể cho nàng những câu chuyện lãng mạn về Nữ hoàng Marie, các nữ nam tước và công chúa, những chuyện cổ tích về Ambert, ông hoàng Consort của Anh quốc và Alexander II, Nga hoàng và hàng chục nhân vật ly kỳ.
- Ở đâu đấy trong căn bản của chúng ta có một giòng máu hoàng gia. Nếu không có cách mạng, có lẽ con sẽ là một công chúa đấy.
Nàng hay mơ về điều ấy.
Mary đang ở giữa những đống giấy tờ thi lên lớp khi cánh cửa mở ra và khoa trưởng Hunter bước vào.
- Chào bà Ashley. Bà có rảnh một chút không?
Đây là lần thứ nhất mà khoa trưởng viếng thăm văn phòng nàng.
Mary đột nhiên cảm thấy phấn khởi. Chỉ có thế có một lý do duy nhất cho việc khoa trưởng đích thân đến đây: ông sẽ bảo nàng rằng Trường đại học sẽ cho nàng một chân giảng dạy.
- Dĩ nhiên! - nàng lên tiếng - Xin mời ông ngồi.
Ông ngồi xuống chiếc ghế nấc thang.
- Các lớp học của bà như thế nào?
- Tôi nghĩ rằng rất tốt. - Nàng không thể chờ đợi việc báo tin cho Edward. Chàng sẽ thật hãnh diện.
Ít có ai vào tuổi nàng, lại nhận được một chân giảng dạy tại một Trường đại học. Khoa trưởng Hunter hình như không được thoải mái.
- Bà có gặp một loại rắc rối nào đó không, bà Ashley?
Câu hỏi đột kích nàng bất thình lình.
- Rắc rối à? - Tôi… không. Tại sao?
- Một số người từ Washington đã đến gặp tôi và đặt câu hỏi về bà.
Mary Ashley lại nghe âm vang của những lời Lorence Schiffer "Một nhân viên Liên bang ở Washington… ông ta đặt ra đủ câu hỏi về Mary. Ông ta làm như nàng là một loại gián điệp quốc tế Nàng có là một người Mỹ trung thành không? Nàng có phải là một người vợ và là một người mẹ tốt không?"
Vậy, rốt cuộc chẳng phải là chân giảng dạy của nàng. Nàng bỗng đâm ra khó nói. - Họ muốn biết điều gì, thưa khoa trưởng Hunter?
- Họ hỏi thăm về danh tiếng làm giáo sư của bà và họ đặt ra các câu hỏi về đời tư của bà.
- Tôi không thể giải thích được. Thực sự tôi không biết việc gì đang diễn ra. Tôi chẳng bị loại rắc rối nào cả. Theo tôi được biết! - nàng nói thêm một cách thoả đáng.
Ông nhìn nàng bằng vẻ hoài nghi rõ ràng.
- Họ có bảo với ông tại sao họ đặt các câu hỏi về tôi không?
- Không. Thực ra, tôi được yêu cầu giữ câu chuyện hoàn toàn bí mật. Nhưng tôi trung thành với bạn của tôi và tôi chỉ cảm thấy công bằng với bà nếu bà được báo tin về việc này. Nếu tôi biết được điều gì, tôi chỉ thích biết được từ bà thì hơn. Bất kỳ một điều xấu xa nào liên quan đến một trong những giáo sư của chúng tôi sẽ phản ánh xấu cho Trường đại học.
Nàng lắc đầu tuyệt vọng.
- Tôi thật sự chẳng thể nghĩ ra điều gì cả!
Ông ta nhìn nàng một lúc, dường như sắp nói một điều gì khác, rồi gật đầu. - Như vậy đấy, bà Ashley ạ!
Nàng nhìn ông bước ra khỏi văn phòng và tự hỏi:
- Trời ơi, không biết mình đã làm gì nào?
Mary rất điềm tĩnh suốt bữa ăn chiều. Nàng muốn đợi Edward ăn xong mới tiết lộ tin tức của diễn biến vừa qua. Họ sẽ cùng cố gắng hình dung ra vấn đề. Hai đứa bé trở nên bất trị. Beth đã từ chối đụng vào bữa ăn chiều của nó.
- Chẳng còn ai ăn thịt nữa cả. Đấy là một phong tục dã man đã được một người thượng cổ mang lại. Người văn minh không ăn thú vật sống.
- Không phải ăn sống, - Tim biện luận. - Nó chết rồi. Vậy chị cũng có thể ăn được.
- Các con! - Thần kinh của Mary chịu hết nổi. - Không được thêm lời nào nữa. Beth, hãy tự ăn xà lách lấy.
- Chị ấy có thể gặm cỏ ngoài đồng, - Tim đề nghị.
- Tim ăn cho xong đi. - Đầu nàng bắt đầu đập mạnh. - Edward! Chuông điện thoại reo.
-/ Của con đấy, - Beth nói. Nó nhảy ra khỏi ghế và chạy nhanh lại điện thoại. Nó nhấc lên và lên tiếng một cách quyến rũ:
- Virgil đấy à? - Nó nghe một lúc và vẻ mặt nó thay đổi. - Ồ, đúng rồi, - nó nói một cách chán nản. Nó dằn mạnh ống nghe xuống và trở về bàn.
- Việc gì thế, - Edward hỏi.
- Một kẻ đùa thực sự. Ông ta nói rằng Toà Bạch Ốc gọi mẹ.
- Toà Bạch Ốc à? - Edward hỏi.
Điện thoại lại reo.
- Em sẽ đến, - Mary lên tiếng. Nàng đứng lên và đi đến chỗ điện thoại. - Vâng.
Trong lúc lắng nghe, khuôn mặt nàng trở nên giận dữ. - Chúng tôi đang ăn chiều và tôi không chợt nghĩ rằng việc này buồn cười ông chỉ có thể… gì thế? Ai? Tổng thống à?
Căn phòng bỗng im lặng.
- Hãy đợi… tôi… Ô, chào ngài Tổng thống.
Khuôn mặt nàng hiện lên vẻ kinh ngạc. Gia đình nàng trố mắt nhìn nàng.
- Vâng, thưa ngài. Tôi nhận ra giọng nói của ngài. Tôi… Tôi xin lỗi về việc gác máy một lúc hồi nãy. Beth nghĩ rằng đó là Virgil và… vâng, thưa ngài, cám ơn ngài.
Nàng đứng đấy lắng tai nghe.
- Tôi có muốn phục vụ gì cơ ạ? - Mặt nàng chợt ửng đỏ.
Edward đã đứng dậy, đi về phía điện thoại, hai đứa trẻ theo sát sau lưng chàng.
- Có lẽ có sự nhầm lẫn nào đấy, thưa ngài Tổng thống. Tôi tên là Mary Ashley. Tôi là một giáo sư tại Trường đại học Kansas của tiểu bang và… ngài có đọc à? Cám ơn ngài… Ngài tốt quá… Vâng. Tôi tin rằng… - Nàng lắng nghe một lúc lâu. - Vâng, thưa ngài, tôi đồng ý. Nhưng không có nghĩa rằng tôi... Vâng, thưa ngài. Tôi rõ, chắc chắn rằng tôi hãnh diện. Tôi chắc rằng đấy là một cơ hội tuyệt vời, nhưng tôi… Dĩ nhiên là tôi muốn. Tôi sẽ bàn lại với chồng tôi và trả lời lại với ngài. - Nàng nhặt một cây bút và viết số. - Vâng, thưa ngài. Tôi đã viết xong. Cám ơn ngài Tổng thống. Chào ngài.
Nàng chậm rãi gác ống nghe và đứng dậy đầy kinh ngạc.
- Có việc gì đấy, em? - Edward lên tiếng chất vấn.
- Tổng thống thật à? - Tim hỏi.
Mary buông mình xuống một chiếc ghế:
- Phải, đúng thật.
Edward nắm lấy tay của Mary trong tay chàng.
- Mary, ông ấy nói gì thế, ông ấy muốn gì thế?
Mary ngồi lặng ở đấy, suy nghĩ: Vậy ra tất cả những câu hỏi là thế.
Nàng nhìn lên Edward và những đứa con rồi chậm rãi nói:
- Tổng thống có đọc cuốn sách của em và bài viết của em trong tạp chí Foreign Affairs và ngài cho là xuất sắc. Ngài nói rằng đấy là loại suy nghĩ mà ngài muốn cho chương trình giữa các dân tộc của ngài. Ngài muốn bổ nhiệm em làm Đại sứ tại Rumani.
Khuôn mặt Edward lộ vẻ hoài nghi hoàn toàn.
- Em à? Tại sao là em?
Đấy đúng là điều Mary đã tự hỏi mình, nhưng nàng thấy Edward có thể đã khéo xử hơn. Lẽ ra chàng nên nói "Tuyệt thật! Em sẽ làm một đại sứ vĩ đại", nhưng chàng lại thực tế.
- Quả thực, tại sao lại là mình nhỉ?
- Em không có kinh nghiệm chính trị nào cả?
- Em nhận thức rõ điều ấy - Mary chua chát trả lời - Em đồng ý rằng cả sự việc này buồn cười thật.
- Mẹ sẽ đi làm đại sứ à? - Tim hỏi.- Mình sẽ đi Rome à?
- Rumani đấy.
- Rumani ở đâu?
Edward quay sang lũ con.
- Cả hai con ăn cho xong đi. Mẹ và bố muốn trò chuyện một chút.
- Chúng con không được tham gia bỏ phiếu à? - Tim hỏi.
- Bằng lá phiếu khiếm diện.
Edward cầm tay Mary và đưa nàng vào thư viện. Chàng quay sang nàng nói: - Anh xin lỗi nếu giọng anh như một con lừa vênh váo trong đấy. Anh chỉ là một… - Không. Anh đúng hoàn toàn, Edward ạ. Tại sao họ lại phải chọn em nhỉ? Khi Mary gọi chàng là Edward, chàng biết chàng đang gặp rắc rối.
- Em à, có lẽ em sẽ là một vị đại sứ hoặc một nữ đại sứ vĩ đại hoặc bất kỳ thứ gì họ gọi lúc nãy. Nhưng em phải chấp nhận ràng đến hơi kinh ngạc đấy!
Mary dịu lại.
- Hãy thử tin vào cái tin sét đánh ấy - Giọng nàng như một cô gái nhỏ. - Em vẫn chưa tin được điều ấy. - Nàng bật cười. - Hãy đợi đến lúc em báo cho Florence. Chị ấy sẽ chết đấy.
Edward nhìn kỹ nàng.
- Em thực sự kích động về chuyện này phải không?
Nàng nhìn chàng ngạc nhiên:
- Dĩ nhiên rồi.
- Anh không bị kích động à?
Edward cẩn thận lựa lời.
- Đấy là một vinh hạnh lớn, em à, và anh chắc đấy không phải là một việc họ đề nghị hời hợt đâu. Họ phải có lý do tốt để chọn em. - Chàng lưỡng lự, - Chúng ta phải suy nghĩ điều này thật cẩn thận. Điều này sẽ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta.
Nàng biết chàng định nói gì và nàng nghĩ:
Edward nói đúng. Dĩ nhiên là chàng nói đúng.
- Anh không thể nào bỏ việc thực tập của anh và bỏ rơi những bệnh nhân của anh. Anh phải ở lại đây. Anh không biết em phải đi xa bao lâu, nhưng nếu nó thực sự có ý nghĩa lớn lao với em, thì thôi vậy, có lẽ chúng ta có thể nghĩ ra cách nào đấy mà em có thể đến đấy với con và anh có thể đến với em mỗi khi…
Mary dịu dàng nói:
- Anh điên rồi. Anh nghĩ rằng em có thể sống xa anh à?
- Vậy thôi, đấy là một điều vinh dự lớn lao kinh khủng và…
- Làm vợ anh cũng thế. Chẳng có gì có ý nghĩa với em nhiều bằng anh và mấy đứa con. Em sẽ không bao giờ rời xa anh. Thành phố này không thể tìm được một bác sĩ khác như anh, nhưng tất cả những gì chính phủ phải làm để tìm ra một vị đại sứ khá hơn em là nhìn vào những trang giấy vàng.
Chàng ôm nàng vào lòng.
- Em chắc chắn vậy à?
- Vâng, em rất thích anh nói thế, thế đủ cho…
Cánh cửa tung ra và Beth và Tim chạy vội vào.
Beth lên tiếng.
- Con vừa gọi Virgil và bảo anh ấy rằng mẹ sẽ đi làm đại sứ.
- Vậy tốt hơn hết con nên gọi lại cho nó và bảo rằng mẹ không đi.
- Tại sao không, hở mẹ? - Beth hỏi.
- Mẹ con đã quyết định sẽ ở lại đây.
- Tại sao? - Beth rên rỉ. - Con chưa bao giờ đi Rumani cả. Con chưa bao giờ đi đâu cả. - Con cũng thế, Tim nói. Hắn quay sang Beth.
- Em bảo chị rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát được chỗ này mà.
- Đề tài đã kết thúc! - Mary báo cho chúng.
Sáng hôm sau, Mary quay số điện thoại mà Tổng thống đã cho nàng. Khi một nhân viên tổng đài trả lời, Mary nói:
- Đây là bà Mary Ashley. Tôi nghĩ rằng vị phụ tá Tổng thống - một ông Greene nào đấy - đang đợi tôi gọi.
- Xin vui lòng chờ một lúc.
Một giọng đàn ông ở đầu dây bên kia nói:
- Chào bà Ashley!
- Vâng, - Mary nói, - Xin ông vui lòng chuyển lời của tôi cho Tổng thống.
- Hẳn rồi.
- Xin ông vui lòng thưa với ngài rằng tôi rất hãnh diện về lời đề nghị của ngài, nhưng nghề nghiệp của chồng tôi cột chân anh ấy lại đây, do đó tôi e rằng tôi không thể nào chấp nhận được. Tôi hy vọng rằng ngài sẽ hiểu.
- Tôi sẽ chuyển lời của bà, - giọng ấy nói một cách vô thưởng vô phạt. - Cám ơn Ashley. - Đường dây cúp ngay.
Mary chậm rãi cúp ống nghe. Xong rồi trong một lúc ngắn ngủi, một giấc mơ nhỏ đã được đề nghị với. Nhưng chỉ có vậy. Tốt hơn hết là mình nên dọn sẵn cho lớp sử kỳ bốn của mình.
MANAMA BAHRAIN
Ngôi nhà đá quét vôi trắng là ngôi nhà vô danh khuất giữa hàng chục ngôi nhà tương tự, cách Souks, khu chợ trời to lớn đầy màu sắc một đoạn ngắn. Chủ nhân là một thương gia có cảm tình với mục đích của tổ chức có tên là "Các nhà yêu nước vì tự do".
- Chúng tôi cần đến nó chỉ trong một ngày thôi, - một giọng nói trên điện thoại bảo ông ta như thế.
Sự việc đã được thu xếp. Bây giờ vị chủ toạ đang nói với những người nhóm họp trong phòng khách.
- Một vấn đề đã nổi lên, - vị chủ toạ lên tiếng.
- Đề nghị vừa được thông qua đã gặp phải khó khăn.
- Loại khó khăn nào thế? - Balder hỏi.
- Người trung gian chúng ta đã chọn - Harry Lantz - đã chết.
- Chết à - Chết cách nào?
- Hắn bị sát hại. Xác hắn được tìm thấy nổi lên tại hải cảng ở Buenos Aires.
- Cảnh sát có ý kiến gì về người đã làm việc ấy không? Tôi muốn nói - họ có thể liên hệ việc này với chúng ta bằng một cách nào đấy không?
- Không. Chúng ta hoàn toàn an toàn.
Thor lên tiếng hỏi:
- Chương trình của chúng ta thế nào? Chúng ta có thể tiếp tục được không?
- Lúc này thì không. Chúng ta chưa nghĩ ra cách tiếp xúc với Angel. Tuy nhiên, ngài chủ sự đã cho phép Harry Lantz được tiết lộ danh tánh của ngài với hắn. Nếu Angel quan tâm đến đề nghị của chúng ta, hắn sẽ tìm ra cách để tiếp xúc. Tất cả những gì chúng ta làm được lúc này là chờ đợi.
Đầu đề lớn trên tờ Daily Umon của thị xã Junetion ghi: Mary Ashley ở thị trấn Junction từ chối làm Đại sứ.
Có một đoạn tiểu sử hai cột về Mary và một tấm ảnh của nàng. Trên KJCK, các buổi phát thanh buổi xế, và buổi chiều loan đi những câu chuyện về đặc điểm của nhân vật nổi danh mới của thành phố. Sự việc Mary Ashley đã từ chối lời mời của Tổng thống làm cho câu chuyện càng lớn hơn là nàng đã chấp nhận. Dưới cặp mắt của những người dân tự hào, thị trấn Junction, Kansas, còn quan trọng hơn nhiều so với Bucarest, Rumani.
Khi Mary Ashley lái xe xuống phố để mua thức ăn chiều, nàng tiếp tục nghe tên nàng trên chiếc radio trên xe.
"Trước đây, Tổng thống Ellison đã loan báo rằng chức đại sứ tại Rumani sẽ là khởi đầu cho chương trình giữa các dân tộc của ngài, viên đá tảng của chính sách ngoại giao của ngài. Sự từ chối nhận chức vụ của Mary Ashley sẽ làm mất uy tín như thế nào đến…"
Nàng chuyển sang một đài khác.
"... kết hôn với Bác sĩ Edward Ashley và người ta tin rằng…"
Mary tắt radio. Nàng đã nhận được ít nhất ba chục cú điện thoại của bạn bè, những người láng giềng, các sinh viên và những người tò mò. Các phóng viên đã gọi từ những vùng thật xa tận London và Tokyo.
- Họ đã xây dựng tất cả một cách không tương xứng, - Mary nghĩ thế. - Không phải lỗi của
mình về việc Tổng thống đã quyết định đặt nền tảng cho thành công của chính sách ngoại giao của ngài đối với Rumani. Mình không biết sự hỗn loạn này sẽ kéo dài bao lâu, có lẽ trong một hai ngày sẽ chấm dứt.
Nàng lái chiếc camionnette vào trạm xăng Derby và dừng lại trước một máy bơm tự phục vụ. Trong lúc Mary đang ra khỏi xe, ông Blount, chủ trạm xăng, vội vã chạy đến với nàng.
- Chào bà Ashley. Một bà đại sứ không nên không gọi bơm xăng cho xe mình. Để tôi giúp bà một tay nhé.
Mary mỉm cười:
- Cám ơn. Tôi đã quen làm.
- Không. Không. Tôi xin bà.
Khi bình xăng đầy, Mary lái xuống đường Washington và đậu trước một tiệm giày. - Chào bà Ashley - nhân viên bán hàng chào nàng. - Sáng nay bà đại sứ thế nào?
- Việc này khó chịu đấy, - Mary nghĩ thế. Nàng nói to, - tôi không phải là đại sứ, nhưng tôi khoẻ thôi, cám ơn ông. - Nàng trao cho ông một đôi giày.
- Tôi muốn thay đế cho đôi giày của Tim.
Nhân viên bán hàng xem xét.
- Không phải những chiếc mà chúng tôi làm tuần trước ư?
Mary thở dài. - Tuần trước nữa kìa.
Kế đến, ghé vào cửa hàng tổng hợp. Bà Hacker, chủ quầy hàng quần áo, bảo nàng:
- Tôi vừa nghe tên bà trên đài. Bà đã đưa thị trấn Junction lên bản đồ. Vâng, thưa bà. Tôi đoán rằng bà, Eisenhower và Alf Landon là những chính trị gia nổi tiếng nhất của Kansas, bà Đại sứ ạ.
- Tôi không làm đại sứ, - Mary kiên nhẫn nói. - Tôi đã từ chối rồi.
- Tôi muốn nói việc ấy đấy.
- Có ích lợi gì? - Mary nói, - Tôi cần mấy cái quần Jeans cho Beth. Tốt nhất là thứ thiệt chắc. - Bây giờ Beth bao nhiêu tuổi rồi? Độ 10 tuổi à?
- Nó 12.
- Trời ơi, lúc này chúng nó lớn nhanh thật, phải không? Nó sẽ đến tuổi cập kê mà bà không hay đấy!
- Beth sinh ra đã là một đứa đến tuổi cập kê rồi, bà Hacker ạ.
- Tim thế nào?
- Nó giống Beth lắm.
Việc mua sắm làm Mary mất gấp đôi thời gian hơn thường lệ. Mọi người đều đưa ra một lời phê bình nào đấy về tin tức lớn ấy. Nàng vào một cửa hiệu Dillon, để mua một số tạp hoá và khi đang xem xét những giá hàng thì bà Dillon đến gần.
- Chào bà Ashley.
- Chào bà Dillon. Bà có một loại thức ăn sáng mà trong đấy chẳng có gì cả không? - Gì thế?
Mary xem lại một bảng kê trong tay nàng.
- Không có đường nhân tạo không có chất natri, mỡ, hydrat carbon, cafein, đường caramen màu, axít phôlích hoặc bột thơm.
Bà Dillon nghiên cứu tờ giấy:
- Có phải đây là một loại thí nghiệm y khoa không?
- Theo một nghĩa nào đấy cho Beth đấy. Nó sẽ chỉ ăn thức ăn tự nhiên.
- Tại sao bà không đưa nó ra đồng cỏ và để nó gặm cỏ?
Mary bật cười.
- Con trai tôi đã đề nghị như thế đấy - Mary cầm lên một gói hàng và xem nhãn - Đây là lỗi của tôi. Đáng lẽ tôi không nên dạy Beth đọc chữ.
Mary cẩn thận lái xe về nhà trong lúc leo lên ngọn đồi ngoằn ngoèo về hướng hồ Milford. Nhiệt độ ở trên độ không vài độ, nhưng yếu tố giá lạnh của gió đã đưa nhiệt độ xuống dưới không độ vì chăng có gì để ngăn gió khỏi trận càn quét cắt da xuyên qua những đồng cỏ vô tận. Các bãi có phủ tuyết và Mary nhớ lại mùa đông vừa qua khi cơn bão băng đã càn quét qua lãnh địa và nước đá đã làm đứt các đường dây điện. Họ đã không có điện một tuần lễ. Nàng và Edward đã làm tình mỗi đêm. Có lẽ mình sẽ gặp may mùa đông này, - nàng cười một mình.
Khi Mary về đến nhà, Edward vẫn còn ở bệnh viện. Tim đang trong phòng nghiên cứu xem một chương trình khoa học giả tưởng. Mary cất hàng tạp hoá và bước vào nhà để trao đổi với con trai nàng.
- Con không phải làm bài ở nhà à?
- Con không làm được!
- Sao lại không?
- Vì con không hiểu.
- Con sẽ không hiểu khá hơn tí nào cả bằng cách xem Star Trek. Cho mẹ xem bài học của con! Tim chìa ra cho nàng xem quyển sách toán lớp năm.
- Đây là những bài toán ngốc nghếch, - Tim nói.
- Chẳng có những bài toán nào ngốc nghếch cả. Chỉ có những học sinh ngốc nghếch thôi. Bây giờ hãy nhìn vào cái này!
Mary đọc lớn bài toán.
- Một chiếc xe hoả rời Minneapolis có một trăm bốn mươi chín người trên tàu. Tại Atlanta thêm nhiều người lên tàu. Như thế có hai trăm hai mươi ba người trên tàu. Có bao nhiêu người lên tàu tại Atlanta? - Nàng nhìn lên.
- Đơn giản mà Tim. Con chỉ việc lấy 223 trừ đi cho 149 thôi.
- Không, mẹ, không làm thế, - Tim nói một cách rầu rĩ. - Nó phải là một phương trình. 149 cộng n bằng 223. Vậy n bằng 223 trừ đi l19. Vậy n bằng 74.
- Thật ngốc nghếch, - Mary nói.
Trong lúc Mary đi ngang qua phòng Beth, nàng nghe tiếng động. Mary bước vào. Beth đang ngồi xếp bằng trên sàn nhà xem truyền hình, nghe một đĩa rock và làm bài tập ở nhà.
- Làm sao con tập trung được với tất cả sự ồn ào này? - Mary hét lên.
Nàng đi đến máy truyền hình vặn tắt rồi tắt mày hát đĩa.
Beth nhìn lên kinh ngạc.
- Mẹ làm gì thế? Đấy là Goerge Michael mà.
Phòng của Beth dán đầy những bức hình quảng cáo của các nhạc sĩ. Kiss, Van Halen, Motley Crue, Aldo Nova và David Lee Roth. Chiếc giường phủ đầy tạp chí: Seventeen và Teen Idol và nửa tá những quyển khác. Quần áo của Beth vất lung tung trên sàn nhà.
Mary nhìn quanh phòng hỗn độn tuyệt vọng.
- Beth - Làm sao con có thể sống được như thế này nhỉ?
Beth nhìn lên mẹ bối rối.
- Sống như gì cơ ạ?
Mary nghiến răng.
- Chẳng có gì cả.
Nàng nhìn vào một phong bì trên bàn giấy của con gái.
- Con viết thư cho Rick Springfield à?
- Con yêu anh ấy.
- Mẹ nghĩ con yêu George Michael đấy.
- Con mê George Michael. Con yêu Rick Springfield. Mẹ, vào thời của mẹ, mẹ không bao giờ mê ai à?
- Vào thời của mẹ, mẹ quá bận để tìm cách đẩy các cỗ xe qua đất nước.
Beth thở dài.
- Mẹ có biết rằng Rick Springfield có một thời kỳ thơ ấu sa đoạ không?
- Nói thật đứng đắn. Beth, mẹ không biết chuyện ấy.
- Thật kinh khủng. Bố anh ấy đã ở trong quân đội và họ đã đi nhiều nơi. Anh ấy cũng là một người ăn kiêng. Như con đấy. Anh ấy thật đáng sợ.
Vậy ra đấy là điều đằng sau chế độ ăn uống điên rồ của Beth.
- Mẹ ơi, con được phép đi xem phim tối thứ bảy với Virgil chứ?
- Virgil à? Việc gì đã xảy ra với Arnold rồi?
Im lặng một lúc.
- Arnold thích làm chuyện vớ vẩn. Anh ấy kỳ thật.
Mary cố giữ giọng điềm tĩnh:
- Làm chuyện vớ vẩn, con muốn nói…
- Chỉ vì con bắt đầu có ngực mà bọn con trai nghĩ rằng con dễ dãi. Mẹ ơi, mẹ có bao giờ cảm thấy khó chịu về thân thể của mẹ không?
Mary đi ra sau lưng Beth và vòng tay quanh người nó.
- Có, con yêu. Khi mẹ ở tuổi con, mẹ cảm thấy rất khó chịu.
- Con ghét thời kỳ hành kinh của con, rồi có ngực và mọc lô lô khắp cả. Tại sao thế? - Việc ấy xảy ra với mọi đứa con gái và con sẽ quen đi!
- Không, con sẽ không quen đâu. - Nó giãy nảy và nói mạnh, - Con không quan tâm đến việc yêu đương, nhưng con sẽ không bao giờ ngủ với ai cả. Arnold, Virgil, hoặc Kevin Bacon cũng vậy.
Mary trịnh trọng nói:
- Thôi, nếu đấy là quyết định của con…
- Nhất định đấy. Mẹ ơi, Tổng thống Ellison đã nói gì khi mẹ bảo ông ấy rằng sẽ không làm đại
sứ cho ông ấy?
- Ông ấy rất dũng cảm về việc ấy, - Mary quả quyết vội nói, - Mẹ nghĩ rằng tốt hơn là mẹ khởi sự chuẩn bị bữa ăn chiều.
Nấu nướng là một việc khó chịu bí mật của Mary Ashley. Nàng ghét nấu nướng và kết quả là nàng chẳng khéo tay mấy, và bởi vì nàng muốn giỏi trong mọi công việc của nàng, nàng càng ghét việc ấy hơn nữa. Đây là một vòng luẩn quẩn được giải quyết một phần nào bằng cách nhờ Lucinda đến ba lần mỗi tuần để nấu nướng và dọn dẹp ngôi nhà. Đấy là một trong những ngày nghỉ của Lucinda.
Khi Edward từ bệnh viện về, Mary đang ở trong bếp làm khê một ít đậu. Nàng tắt bếp và tặng Edward một nụ hôn:
- Chào anh, hôm nay thế nào? Có gì quái dị không?
- Em nên tìm hiểu con gái chúng ta! - Edward lên tiếng. - Quả vậy, thực là quái dị. Xế nay anh đã chữa một cô gái 13 tuổi bị loét ở bộ phận sinh dục.
- Ồ, anh! - Nàng ném đậu đi và mở một hộp cà chua.
- Em biết đấy, việc ấy làm anh lo cho Beth.
- Anh không phải lo, - Mary quả quyết với chàng.
- Nó định ở vậy cho đến chết.
Lúc ăn chiều, Tim lên tiếng hỏi:
- Bố ơi, con có thể đi thuyền lướt sóng vào ngày chủ nhật của con không?
- Tim! Bố không bực mình vì chuyện phô trương của con, nhưng con đang sống tại Kansas mà.
- Con biết vậy, Johnny mời con đến Hawaii với hắn mùa hè tới. Người nhà của hắn có một ngôi nhà ở bờ biển tại Maui.
- Thôi vậy, - Edward nói một cách hợp lý, - Nếu Johnny có một ngôi nhà tại bờ biển, có lẽ hắn có một chiếc thuyền lướt sóng.
Tim quay sang mẹ hắn:
- Con đi được không?
- Xem đã nào. Này đừng ăn nhanh quá, Tim. Beth, con không ăn gì cả đấy nhé.
- Ở đây chẳng có gì hợp với sự hấp thụ của con người cả. - Beth nhìn cha mẹ nói. - Con xin loan báo. Con sẽ đổi tên con.
Edward thận trọng hỏi:
- Có lý do nào đặc biệt không?
- Con đã quyết định đi trình diễn.
Mary và Edward cùng nhau trao đổi một cái nhìn lâu, đau đớn. Edward nói:
- Được rồi. Để xem con có thể thành công như thế nào.
Chương 8
Một vụ tai tiếng đã làm rung chuyển các tổ chức mật vụ quốc tế, Medhi Ben Barka, một đối thủ của vua Hassan II Marốc, đã bị bắt cóc trong khi bị lưu đày tại Paris và bị sát hại với sự trợ lực của mật vụ Pháp. Tiếp theo sự kiện ấy là việc Tổng thống Charles de Gaulle đã đưa ngành mật vụ ra khỏi sự kiểm soát của Văn phòng Thủ tướng và đặt nó dưới sự bảo trợ của Bộ quốc phòng đương nhiên chịu trách nhiệm về sự an toàn của Marin Groza, người được chính phủ Pháp cho tị nạn. Lực lượng cảnh sát đóng trước mặt biệt thự tại Neuilly gác bảo vệ 24/24, nhưng chính nguồn tin về việc Lev Pasternak phụ trách an ninh nội bộ của biệt thự đã làm cho Passy tin tưởng. Chàng đã tự để mắt đến việc thu xếp vấn đề an ninh và tin chắc rằng ngôi nhà không thể nào xâm nhập được.
Trong những tuần lễ vừa qua, tin đồn đã loan ra trong giới ngoại giao rằng một cuộc đảo chính sắp xảy ra, rằng Marin Groza dự định trở về Rumani, và riêng Alexandros Ionescu sẽ bị những sĩ quan quân đội kỳ cựu của ông lật đổ.
Lev Pasternak gõ cửa và bước vào thư viện nhét đầy sách được dùng làm văn phòng của Marin Groza. Groza đang ngồi làm việc sau bàn giấy. Ông ngước lên khi Pasternak bước vào.
- Mọi người đều muốn biết khi nào cuộc cách mạng sẽ xảy ra, - Pasternak lên tiếng. - Đây là một thế giới bí mật tệ nhất đấy.
- Bảo họ hãy kiên nhẫn. Anh sẽ đến Bucarest với tôi không, Lev?
Hơn bất kì thứ gì khác, Lev Pasternak khao khát được trở về Israel.
- Tôi sẽ chỉ tạm thời đảm nhận công việc này, - chàng đã bảo Marin Groza thế. - Cho đến khi nào ông đã sẵn sàng để tiến công.
"Tạm thời!" đã biến thành hàng tuần lễ và hàng tháng rồi cuối cùng thành ba năm. Và bây giờ đã đến lúc họ phải có một quyết định khác.
Trong một thế giới người lùn - Pasternak nghĩ thế, - Mình đã được đặc ân phục vụ một người khổng lồ. - Marin Groza là một con người vị tha và lý tưởng nhất mà Lev Pasternak đã từng biết.
Khi Pasternak đã đến làm việc cho Groza, chàng không hề biết gì về gia đình của ông. Groza không bao giờ đề cập đến họ, nhưng vị sĩ quan đã dàn xếp cho Pasternak đến gặp Groza đã kể cho chàng nghe Groza bị phản bội. Bọn bắt và hành hạ ông năm ngày. Họ hứa trả lại tự do cho ông nếu ông chịu khai tên các cộng sự viên bí mạt của ông. Ông không chịu nói. Họ bắt vợ và đứa con trai 14 tuổi của ông và đưa họ vào phòng thẩm vấn. Groza đã được phép chọn lựa khai hoặc nhìn họ chết. Đấy là quyết định khó khăn nhất của bất kỳ người đàn ông nào trong trường hợp như vậy. Đấy là sự lựa chọn giữa sinh mạng của vợ con yêu quý và sinh mạng của hàng trăm người tin tưởng ông. Tôi nghĩ rằng điều cuối cùng đã khiến cho Groza quyết định chọn cách ông ấy đã làm là ông ấy tin rằng dù sao thì ông và gia đình ông ấy cũng sẽ bị giết. Ông ấy từ chối khai tên. Các người gác cột ông vào một chiếc ghế và buộc ổng phải nhìn vợ và con gái ông bị hiếp dâm tập thể cho đến chết. Nhưng họ chưa chịu ngừng tay với Groza, khi việc ấy xong và thân xác máu me của họ nằm dưới chân ông, họ còn thiến ông nữa!
- Ồ Chúa ơi.
Viên sĩ quan nhìn vào mắt của Lev Pasternak và nói:
- Điều quan trọng cho ông hiểu là Marin Groza không muốn trở về Rumani để trả thù. Ông muốn chắc chắn rằng những sự việc tương tự sẽ không bao giờ tái diễn nữa.
Lev Pasternak đã ở với Groza từ ngày ấy và càng ở với nhà cách mạng, chàng càng yêu ông hơn. Giờ đây, chàng sẽ phải quyết định có nên bỏ chuyện trở về Israel của chàng và đi Rumani với Groza không.
Pasternak đang đi xuống hành lang chiều hôm ấy và trong lúc chàng đi ngang qua cửa phòng ngủ của Marin Groza, chàng nghe những tiếng Lantz kêu đau đớn quen thuộc vọng ra. "Vậy là thứ sáu rồi"- Pasternak nghĩ thế. Ngày bọn gái điếm đến. Họ được chọn từ Anh, Bắc Mỹ, Brasil, Nhật Bản, Thái Lan và nửa tá các quốc gia khác, được chọn lọc ngẫu nhiên. Họ chăng biết họ sẽ đến đâu và sẽ gặp ai. Họ được đón tại phi cảng lên chuyến bay trở về.
Mỗi đêm thứ sáu, các căn phòng vang dội những tiếng la thét của Groza. Ban tham mưu cho rằng một sự hành dục kỳ dị đang diễn ra. Người duy nhất biết được điều gì đang thực sự xảy ra sau cửa phòng ngủ lại là Lev Pasternak. Bởi vì những việc tiếp bọn gái điếm chẳng liên quan gì đến tình dục cả Đó chỉ là một cuộc hành xác. Mỗi tuần một lần.
Groza cởi trần truồng và bảo một người phụ nữ cột ông vào một chiếc ghế và quất ông tàn nhẫn cho đến khi máu ông đổ ra và mỗi lần ông bị quất như thế ông sẽ trông thấy vợ con ông bị hãm hiếp đến chết, Lantz thét kêu cứu. Và ông ta lại la lớn:
- Tôi hối hận? Tôi sẽ khai. Ồ, Chúa ơi, hãy để tôi khai!
Cú điện thoại đến mười ngày sau khi thân thể của Harry Lantz được tìm thấy. Ngài chủ sự đang ở giữa một cuộc họp tham mưu trong một phòng họp khi tín hiệu hệ thống liên lạc mắc song song vang lên.
- Tôi biết rằng ngài yêu cầu không nên quấy rầy, thưa ngài, nhưng đây là cú điện thoại gọi từ hải ngoại. Khẩn cấp đấy. Một cô Neusa Munez gọi từ Buenos Aires. Tôi đã bảo cô ta…
- Được rồi. - Ông nén thật kỹ cảm xúc của mình.
- Tôi sẽ nhận điện thoại tại văn phòng riêng của tôi - ông xin lỗi, đi vào văn phòng và khoá cửa lại.
- Ông nhấc máy lên, - Alô, đấy có phải là cô Munez không?
- Vâng ạ. - Một giọng nói có âm điệu Nam Mỹ, thô lỗ và không có học thức. - Tôi có lời của Angel cho ngài đây. Anh ấy không thích người sứ giả tọc mạch mà ngài đã gửi đến!
- Ông phải chọn từ cẩn thận. - Tôi rất tiếc. Nhưng chúng tôi vẫn muốn Angel tiến hành với việc dàn xếp của chúng tôi. Việc ấy có thể được không?
- Vâng. Anh ấy bảo anh ấy muốn làm việc ấy.
Người đàn ông cố giữ lại một tiếng thở dài nhẹ nhõm. - Tuyệt. Làm cách nào tôi có thể dàn xếp được việc ứng trước cho ông ấy!
Người phụ nữ bật cười.
- Anh Angel không cần món tiền ứng trước nào cả. Không ai lừa Angel được - Giọng nói bỗng trở nên lạnh lùng. - Khi xong việc, anh ấy bảo ngài đặt tiền tại - chờ một phút - tôi có ghi đây - đây này - Ngân hàng quốc gia tại Zurich. Đấy là một nơi ở Thuỵ Sĩ. - Giọng nàng như một đứa con nít.
- Tôi cần số tài khoản.
- Ồ, vâng. Số là - Giêsu. Tôi quên rồi. Hãy giữ máy đấy. Tôi có đâu đấy ở đây thôi. - Ông nghe tiếng giấy sột soạt và cuối cùng nàng lại cầm điện thoại lên. - Đây này. J 349077.
- Ông lặp lại con số. - Ông ấy có cách nào sớm tiến hành vấn đề này không?
- Khi nào anh ấy chuẩn bị xong, thưa ngài. Angel nói ngài sẽ biết khi nào anh ấy làm xong. Ngài sẽ đọc được trên báo.
- Rất tốt. Tôi sẽ cho cô số điện thoại riêng của tôi trong trường hợp Angel cần liên lạc với tôi. Ông chậm rãi cho nàng số ấy.
TBILISI, LIÊN XÔ
Cuộc họp được tổ chức tại một ngôi nhà biệt lập bên bờ sông Kura.
Vị chủ toạ lên tiếng:
- Hai vấn đề khẩn cấp đã nói lên. Vấn đề thứ nhất là tin tức tốt. Ngài chủ sự đã được Angel nhắn. Hợp đồng đang tiến hành.
- Đấy là tin rất tốt! - Freyr thốt lên. - Còn tin xấu thế nào?
- Tôi e rằng nó liên quan đến ứng cử viên đại sứ tại Rumani, nhưng tình hình có thể thu xếp…
Thật là khó cho Mary Ashley chú tâm vào lớp học. Có điều gì đấy đã thay đổi. Dưới mắt của sinh viên, nàng đã trở thành một nhân vật nổi danh.
Đấy là một cảm giác nặng nề. Nàng có cảm giác rằng lớp học đang chú ý tới từng lời nói của nàng.
- Như chúng ta biết, năm 1956 là một năm đại hồng thuỷ xảy ra ở nhiều quốc gia Đông Âu. Với việc Gomulka trở lại chính quyền, cộng sản quốc gia đã nổi lên tại Ba Lan. Tại Tiệp Khắc, Antonin Malloryny lãnh đạo Đảng cộng sản. Năm ấy tại Rumani chẳng có thay đổi chính quyền nào quan trọng cả…
Rumani… Bucarest… Từ những bức ảnh mà Mary đã xem, nó phải là một trong những thành phố đẹp nhất tại châu Âu. Nàng chưa quên bất cứ câu chuyện nào mà ông nàng đã kể cho nàng về Rumani cả. Nàng nhớ lại nàng đã kinh hãi như thế nào lúc còn là một cô gái nhỏ vì những chuyện cổ tích của ông về ông Hoàng Vlad kinh khủng thuộc Transylvania.
- Lão là một con quỷ hút máu, Mary ạ, sống trong lâu đài to lớn của lão trên núi cao thuộc rừng Brasow và hút máu những nạn nhân vô tội của lão.
Mary bỗng nhận ra một sự im lặng hoàn toàn trong căn phòng. Lớp học đang nhìn chăm chú. - Mình đã đứng đây và lo ra bao lâu rồi nhỉ? - Nàng tự hỏi và vội vã tiếp tục bài thuyết trình. - Tại Rumani, Gheorgin- Dej đã củng cố quyền lực trong Đảng công nhân… Giờ học hình như tiếp tục mãi mãi, nhưng may quá, nó gần xong rồi.
- Bài làm ở nhà của các anh chị sẽ là viết một bài tiểu luận về việc đặt kế hoạch và điều hành
kinh tế của Liên Xô, mô tả tổ chức cơ ban của các cơ quan chính phủ và sự kiểm soát của Đảng cộng sản Xô viết. Tôi muốn các anh chị phân tích các vấn đề đối nội và đối ngoại của chính sách Xô viết với sự nhấn mạnh vào địa vị của họ tại Ba Lan, Tiệp Khắc và Rumani.
"Rumani… Xin mời đến Rumani, bà Đại sứ. Chiếc xe hòm của bà đây để đưa bà về Toà đại sứ của bà. Toà đại sứ của nàng. - Nàng đã được mời đến sống tại một trong những thủ đô thú vị nhất của thế giới, để báo cáo với Tổng thống và là điểm trung tâm trong quan điểm giữa các dân tộc của ngài. - Đáng lẽ mình có thể là một phần của lịch sử đấy".
Nàng tỉnh mộng vì tiếng chuông reo. Giờ học đã xong. Đã đến giờ trở về nhà và thay áo. Edward có thể từ bệnh viện về sớm, chàng sẽ đưa nàng ra một câu lạc bộ thôn quê để ăn chiều.
Việc ấy phù hợp với một vị Đại sứ hụt.
- Luật xanh! Luật xanh!
Giọng nói oang oang qua chiếc loa vọng khắp hành lang của bệnh viện.
Ngay cả khi toán cấp cứu bắt đầu tụ ở cửa vào xe cứu thương, âm thanh của chiếc còi báo động vẫn còn vang dội. Bệnh viện cộng đồng, Geary là một toà nhà màu nâu ba tầng có vẻ khắc khổ nằm trên ngọn đồi trên đường St. Mary tại khu vực Tây Nam của thị trấn Junction. Bệnh viện có 92 giường với hai phòng giải phẫu hiện đại và một dãy phòng khám bệnh và văn phòng quản trị.
Đấy là một ngày thứ sáu bận rộn và khu trên tầng lầu trên cùng đã đầy nghẹt các bệnh binh đến thành phố từ pháo đài Riley kế cận, khu vực đồn trú của Sư đoàn I bộ binh còn là Sư đoàn Big Red, để nghỉ cuối tuần.
Bác sĩ Edward Ashley đang may lại da đầu cho một người lính đã thua trận tại một quầy rượu.
Edward Ashley làm bác sĩ tại bệnh viện Cộng đồng Geary được 13 năm và trước khi đi vào viện thực tập riêng, chàng là một phẫu thuật viên phi hành của không quân với cấp bậc đại uý. Nhiều bệnh viện nổi tiếng tại các thành phố lớn đã tìm cách quyến rũ chàng đi xa, nhưng chàng lại thích ở lại chỗ cũ hơn.
Chàng hoàn tất công việc với bệnh nhân và nhìn quanh. Có ít nhất một tá binh sĩ đang chờ đợi chàng may vá. Chàng nghe tiếng còi hú của một chiếc cứu thương đang đến gần. "Họ đang chơi bản nhạc của chúng ta đấy ":
Bác sĩ Douglas Schiffer, người đang chăm sóc cho một bệnh nhân bị thương vì đạn, gật đầu. - Ở đây hỗn độn thật. Cậu nên nghĩ rằng chúng ta đang ở một loại chiến tranh nào đấy. Edward Ashley nói:
- Đấy là cuộc chiến tranh duy nhất của họ. Đấy là lý do họ vào thành phố mỗi dịp cuối tuần với trạng thái hơi mất trí. Họ bị thương đấy. - Chàng chấm dứt mũi khâu cuối cùng. - Xong rồi đấy, anh lính ạ. Anh trông như mới!
Chàng quay sang Douglas Schiffer.
- Chúng ta nên xuống phòng cấp cứu.
Bệnh nhân mặc quân phục binh sĩ và trông chưa được 18 tuổi. Hắn đổ mồ hôi như tắm và thở nặng nhọc. Bác sĩ Asley thăm mạch. Mạch yếu ớt và nhỏ. Một vết máu vấy lên phần trước chiếc áo nhà binh của hắn. Edward Ashley quay sang một trong những người cứu thương chiến trường đã mang bệnh nhân đến.
- Việc gì thế?
- Một vết thương dao vào ngực, bác sĩ ạ.
- Chúng ta hãy xem thử phổi có bị xẹp không?
Chàng quay sang một y tá.
- Tôi muốn có ảnh X quang thẳng đứng. Cô có ba phút.
Bác sĩ Douglas Schiffer nhìn máy đo tĩnh mạch. Mạch tăng. Chàng nhìn qua Edward.
- Mạch trương lên. Màng ngoài tim có thể bị xuyên thấu. Có nghĩa rằng màng bảo vệ tim đã chứa đầy máu và đang ép vào quả tim nên nó không thể đập bình thường.
Người y tá lấy huyết áp của bệnh nhân lên tiếng:
- Huyết áp xuống nhanh.
Máy đo điện tâm đồ bắt đầu chậm lại, bệnh nhân sắp tiêu.
Một y tá khác vội chạy đến với phim X quang lồng ngực.
Edward xem qua.
Vùng ngoại tâm bị ứ. Quả tim bị thủng một lỗ. Lá phổi xẹp xuống.
- Đặt ống vào và làm giãn phổi ra! - Giọng chàng điềm tĩnh nhưng không vi phạm đến sự khẩn cấp trong đấy - Hãy tìm người gây mê. Chúng ta sẽ mở lồng ngực. Luồn ống vào khí quản cho hắn.
Một y tá trao cho bác sĩ Schiffer một ống nội khí quản, Edward Ashley gật đầu với chàng. - Ngay bây giờ đi.
Douglas Schiffer cẩn thận bắt đầu đẩy ống khí vào khí quản của người lính bất tỉnh. Ở đầu ống có một cái túi và Schiffer bắt đầu bóp theo một nhịp đều đặn để thông phổi. Máy kiểm tra bắt đầu chậm và vòng cong trên máy kiểm tra hoàn toàn bẹt. Mùi chết chóc đang ở trong phòng.
- Hắn đi rồi!
Chẳng có thì giờ để đẩy bệnh nhân vào phòng mổ. Bác sĩ Ashley phải quyết định ngay. - Chúng ta sẽ phải giải phẫu lồng ngực của bệnh nhân.
Hầu như không có máu vì qua tim bị bó vào mô ngoại tâm.
- Cái banh miệng vết mổ!
Dụng cụ được đưa vào tay chàng và chàng đưa nó vào lồng ngực của bệnh nhân để tách xương sườn ra.
- Kéo! Đứng lui lại!
Chàng di chuyển gần hơn để xử lý túi ngoại tâm. Chàng bấm kéo vào đó và máu được giải thoát khỏi sự tù túng của bao tim bắn ra, trúng các y tá và bác sĩ Ashley cho tay vào và bắt đầu xoa bóp quả tim. Máy kiểm tra bắt đầu nhảy và mạch trở nên rõ ràng. Đỉnh tâm thất trái có một vết rách nhỏ.
- Đưa hắn lên phòng mổ.
Ba phút sau bệnh nhân nằm trên bàn mổ.
- Truyền máu - 1000 cc.
Không có thì giờ để thử loại máu, nên "O âm" - loại máu cho chung chung - được dùng đến. - Trong một lúc cuộc truyền máu bắt đầu, bác sĩ Ashley bảo
- Một ống ngực 32.
Một y tá trao cho chàng.
Bác sĩ Schiffer lên tiếng nói:
- Tôi sẽ may lại, Ed. Tại sao cậu không đi tắm rửa đi?
Chiếc áo giải phẫu của bác sĩ Edward vấy máu.
Chàng liếc máy kiểm tra. Nhịp tim mạnh và đều:
- Cám ơn.
Edward Ashley đã tắm và thay quần áo xong và đang ở văn phòng viết báo cáo y khoa cần thiết. Đấy là một phòng trang nhã đầy những giá các sách y khoa và các thiết bị điền kinh. Phòng gồm một bàn giấy, một chiếc ghế có tay dựa và một chiếc bàn nhỏ với hai chiếc ghế thẳng. Trên tường là văn bằng của chàng được đóng khung gọn gàng.
Thân thể Edward cảm thấy cứng đờ và mệt mỏi vì trải qua cơn căng thẳng. Đồng thời, chàng cảm thấy tình dục được khơi dậy như thường sau mỗi cơn giải phẫu quan trọng. Chính việc đối diện với tử thần tăng giá trị của sức sống - một nhà phân tâm học đã có lần giải thích với Edward như thế.
Dù gì đi nữa, Edward nghĩ thế, mình cũng mong có Mary ở đây.
Chàng chọn một tẩu thuốc ở giá tẩu thuốc trên bàn giấy, đốt, rồi buông người xuống ghế và dang chân ra. Việc nghĩ đến Mary làm chàng có cảm giác tội lỗi. Chàng chịu trách nhiệm về việc nàng từ chối lời đề nghị của Tổng thống và lý lẽ của chàng có cơ sở. - Nhưng còn nhiều hơn thế nữa, - Edward thú nhận với mình, - Mình ghen. Mình phản ứng như một thằng nhóc bại hoại. Việc gì sẽ xảy ra nếu Tổng thống đề nghị với mình như thế? Có lẽ mình sẽ vồ lấy nó. Chúa ơi Tất cả những gì mình có thể nghĩ đến là mình muốn Mary ở nhà và săn sóc mình và những đứa con. Hãy nói về con heo nọc thuần tuý sô- vanh của bạn đi.
Chàng ngồi đấy hút tẩu thuốc và giận mình.
- Quá trễ - chàng nghĩ thế. - Nhưng sẽ đền bù cho nàng. Mình sẽ làm nàng ngạc nhiên trong mùa hè này với một chuyến đi Paris và London. Có lẽ mình sẽ đưa nàng đi Rumani. Chúng mình
sẽ có một tuần trăng mật thực sự.
Câu lạc bộ nông thôn của thị trấn Junction là một toà nhà đá vôi ba tầng nằm giữa những ngọn đồi sum suê. Câu lạc bộ có một sân golf 18 lỗ, hai sân tennis, một hồ bơi và một quầy rượu, có phòng ăn và một lò sưởi lớn ở một đầu, một phòng chơi bài trên lầu và một dãy phòng kho tầng dưới.
Cha của Edward là thành viên của câu lạc bộ này như cha của Mary và Edward cùng Mary đã được đưa đến đấy từ khi họ còn bé. Thành phố là một cộng đồng liên kết với nhau mật thiết và câu lạc bộ nông thôn là biểu tượng.
Khi Edward và Mary đến, trời đã khuya và chỉ còn rải rác vài người khách trong phòng ăn. Họ nhìn chăm chăm trong lúc Mary ngồi xuống và họ thì thầm với nhau. Mary đã quen với cảnh ấy.
Edward nhìn vợ:
- Tiếc không?
Dĩ nhiên là tiếc. Nhưng đấy là những sự hối tiếc mơ hồ về loại giấc mơ huy hoàng không thể thực hiện được mà mọi người đều có. "Nếu mình sinh ra là một nàng công chúa, nếu mình là một triệu phú, nếu mình nhận giải Nobel về việc điều trị bệnh ung thư, nếu… nếu… nếu…"
Mary mỉm cười.
- Không đâu, anh. Đấy là một dịp may để họ hỏi em. Dù sao, tuyệt nhiên em sẽ không bao giờ bỏ anh hoặc con đâu. - Nàng cầm lấy tay chàng. - Chẳng tiếc gì cả. Em hài lòng vì đã từ chối lời đề nghị.
Chàng chồm qua người nàng và thì thầm:
- Anh sẽ đề nghị một điều mà em không thể từ chối được.
- Mình đi thôi! - Mary mỉm cườị.
Lúc đầu, khi họ mới cưới nhau, việc làm tình của họ mãnh liệt và thôi thúc. Họ luôn luôn có nhu cầu xác thịt và không thể nào thoả mãn được cho đến khi nào cả hai đã hoàn toàn giải quyết với nhau. Sự cấp bách đã dịu lại với thời gian nhưng xúc cảm vẫn còn đấy, ray rứt, ngọt ngào và trọn vẹn.
Giờ đây khi họ trở về nhà, họ cởi quần áo không vội vã và lên giường Edward ghì chặt lấy nàng và bắt đầu vuốt ve thân thể nàng một cách nhẹ nhàng. Chàng đùa với bộ ngực của nàng, xoa xoa đôi núm vú bằng ngón tay và đưa xuống vùng tơ mềm mại.
Mary rên rỉ khoái trá.
- Thật tuyệt vời.
Nàng trèo lên người chàng… Edward ôm chặt vợ trong vòng tay.
- Mary anh yêu em thật nhiều.
- Em yêu anh gấp đôi. Chúc ngủ ngon anh yêu.
Lúc ba giờ sáng, điện thoại reo vang. Edward ngái ngủ vớ lấy chiếc máy và đưa vào tai. - A- lô.
Giọng khẩn cấp của một người phụ nữ nói:
- Bác sĩ Ashley phải không?
- Vâng!
- Peter Grimes lên cơn đau tim. Ông ta đau kinh khủng. Tôi nghĩ rằng ông ta đang hấp hối. Tôi không biết phải làm thế nào?
Edward ngồi dậy trên giường. Cố gắng chớp mắt để xua đi giấc ngủ.
- Đừng làm gì cả. Hãy để ông ta nằm. Tôi sẽ đến đấy nửa giờ sau.
Chàng gác ống nghe, trườn ra khỏi giường và bắt đầu mặc quần áo.
- Edward…
Chàng nhìn qua Mary. Đôi mắt nàng hé mở.
- Có gì đấy?
- Mọi việc đều tốt đẹp. Ngủ lại đi.
- Khi nào anh về, hãy đánh thức em dậy nhé! - Mary lẩm bẩm. - Em nghĩ rằng em sẽ lại cảm thấy kích dục.
Edward bật cười.
- Anh sẽ vội về ngay.
Năm phút sau, chàng đang trên đường đến nông trại Grimes.
Càng lái xe trên đồi xuống đường Old Milford về hướng đường J. Hill. Đó là một buổi sáng tinh sương lạnh lẽo có gió tây bắc đưa nhiệt độ xuống xa dưới độ không. Edward bật máy sưởi trên xe.
Trong lúc chàng lái xe, chàng tự hỏi liệu có nên gọi một chiếc xe cứu thương trước khi chàng rời nhà không. Hai cơn đau tim vừa qua của Peter Grimes cuối cùng đã trở thành những khối u rỉ máu.
- Không. Trước tiên chàng phải kiểm tra lại đã.
Chàng rẽ xe qua đường 18, đại lộ hai chiều đi suốt thị xã Junction. Thành phố còn ngủ với những ngôi nhà Connors dưới cơn gió lạnh cắt da.
Khi Edward đến cuối đường số 6, chàng rẽ sang đường số 57 và hướng về Grandview Plaza. Bao nhiêu lần chàng đã lái xe qua những con đường này vào những ngày nắng hè với mùi hương thơm đồng bắc và cỏ khô toả trong không khí, qua những khu rừng nhỏ với những cây bông gòn, những cây tuyết tùng và những cây ôliu và những đồng cỏ tháng 8 chất dọc theo đường rồi nhỉ? Các cánh đồng đã chứa đầy mùi của những cây tuyết tùng cháy, những cây cần phải được phá huỷ đều đặn vì chúng cứ tiếp tục phủ lên mùa màng. Và bao nhiêu mùa đông chàng đã lái xe trên con đường này xuyên qua phong cảnh sương giá với những đường dây điện bọc trong lớp băng mỏng trông xinh đẹp và một đám khói cô đơn của những ống khói xa xăm. Một cảm giác cô đơn hồ hởi được đóng khung trong màn tối của buổi sáng trong lúc nhìn những cánh đồng và cây cối lặng lẽ trôi qua. Edward lái xe thật nhanh và chú tâm đến con đường trơn trượt dưới bánh xe. Chàng nghĩ đến Mary đang nằm trên chiếc giường êm ấm của họ đợi chàng.
"Hãy đánh thức em dậy lúc anh về. Em nghĩ rằng em sẽ lại cảm thấy kích dục".
Chàng thật hạnh phúc. Mình sẽ đền bù cho nàng tất cả - Edward tự hứa với mình. Mình sẽ cho nàng tuần trăng mật ghê gớm mà chưa hề có người phụ nữ nào có được.
Phía trước, tại ngã tư các đại lộ 57 và 77 có một bảng tín hiệu dừng lại.
Edward rẽ sang đường số 77, và khi chàng bắt đầu vào ngã tư, một chiếc xe tải xuất hiện từ đâu không rõ. Chàng bỗng nghe một tiếng xe gầm và chiếc xe có hai ngọn đèn pha đang lao tới phía chàng chọc thẳng. Chàng liếc mắt thấy một chiếc quân xa năm tấn khổng lồ xông đến và âm thanh cuối cùng chàng nghe được chính là tiếng thét của chàng.
Tại Neuilly lúc ấy là chủ nhật và từng hồi chuông ngân vang qua bầu không khí yên tĩnh của buổi trưa. Những người cảnh binh canh gác biệt thự của Marin Groza chàng có lý do gì để chú ý vào chiếc Renault bám đầy bụi đang chạy ngang qua cả.
Để nắm được mọi việc, Angel lái xe chậm chạp nhưng không đủ chậm để gây sự nghi ngờ. Hai người gác đứng trước một bức tường cao, có lẽ có gài điện, và bên trong, dĩ nhiên, có những ngọn đèn pha, máy dò tiếng động và còi báo động điện tử thường lệ. Phải mất một đạo quân mới tràn ngập được biệt thự.
- Nhưng ta đâu cần một đạo quân, - Angel nghĩ thế. - Chỉ cẩn thiên tài của ta. Marin Groza là một người chết. Ước gì mẹ ta còn sống để nhìn thấy ta giàu như thế nào nhỉ. Mẹ sẽ hạnh phúc như thế nào nhỉ.
Tại Arhentina, các gia đình nghèo, quả thật rất nghèo. Mẹ của Angel cũng là một trong những người nghèo khổ bất hạnh. Chàng ai biết hoặc quan tâm đến chuyện ai là người cha. Theo thời gian, Angel đã nhìn bạn bè và những người thân ngã gục vì đói khát và bệnh tật. Angel nghĩ một cách triết lý "Bởi vì dù thế nào thl việc ấy cũng phải xảy ra, tại sao không lợi dụng nó nhỉ?". Lúc đầu, có những người nghi ngờ tài giết chóc của Angel, nhưng những ai tìm cách đặt chướng ngại vật trên đường có thói quen biến mất. Danh tiếng sát nhân của Angel gia tăng. Ta chưa hề thất bại - Angel nghĩ thế - Ta là sứ giả. Sứ giả của thần chết.
Chương 9
Xa lộ Kansas tuyết phủ rực cháy với những chiếc xe nhấp nháy đèn đỏ biến bầu không khí sương giá thành màu đỏ như máu. Một chiếc xe cứu hoảa, xe cứu thương, xe trục, bốn chiếc xe tuần tra xa lộ, một chiếc xe cảnh sát nằm ở giữa, trong ánh pha bao phủ, là chiếc xe cẩu quân đội M.871
năm tấn và bên dưới nó, một phần chiếc xe móp méo cửa Edward Ashley. Một chục sĩ quan cảnh sát và lính cứu hoả đang đi vòng quanh, vung tay và giậm chân tìm cách giữ ấm trong cơn rét trước lúc bình minh. Giữa xa lộ là một cái xác được phủ lên bằng tấm vải dầu. Một chiếc xe cảnh sát trưởng tiến đến và trong lúc dừng lại, Mary Ashley từ trong xe chạy ra. Nàng run rẩy khủng khiếp đến nỗi hầu như nàng không đứng được. Nàng trông thấy tấm vải dầu và vụt chạy về phía ấy.
Cảnh sát trưởng Munster chộp lấy tay nàng:
- Tôi sẽ không nhìn thấy ông ấy nếu tôi là bà, bà Ashley ạ.
- Buông tôi ra! - Nàng thét lên. Nàng thoát khỏi tay ông và tiến về phía tấm vải dầu.
- Xin vui lòng, bà Ashley. Bà không nên nhìn thấy ông ấy trông thấy như thế nào. - Ông chộp được tay nàng trong lúc nàng xỉu đi.
Nàng tỉnh lại trong ghế sau của chiếc xe cảnh sát trưởng. Cảnh sát trưởng Munster đang ngồi ở ghế trước qua sát nàng. Máy toả nhiệt được bật lên và chiếc xe ngột ngạt.
- Chuyện gì đã xảy ra? - Mary buồn rầu hỏi.
- Bà xỉu đấy.
Nàng bỗng nhớ lại. "Bà không nên nhìn thấy ông ấy trông như thế nào".
Mary từ cửa sổ nhìn ra tất cả những chiếc xe cấp cứu và những ánh đen đỏ nhấp nháy, nàng nghĩ: "Đây là một cảnh địa ngục". Mặc dù trong xe rất ấm, răng nàng vẫn đánh bò cạp.
- Làm thế nào… - nàng cảm thấy khó nói thành tiếng. - Việc ấy xảy ra như thế nào?
- Chồng bà chạy qua bảng tín hiệu dừng lại. Một quân xa đang tiến đến dọc theo đường 77 và định tránh ông ấy, nhưng chồng bà đã đâm thẳng trước mặt.
Nàng nhắm mắt và nhìn tai nạn diễn ra trong trí. Nàng trông thấy chiếc xe xông đến Edward và cảm giác được cơn kinh hãi trong khoảnh khắc cuối cùng của chàng…
Tất cả những gì nàng nghĩ ra được để nói là Edward là một trong những người lái xe cẩn thận… Anh ấy… không bao giờ lái xe qua một bảng tín hiệu dừng lại cả!
Viên cảnh sát trưởng tỏ vẻ thông cảm nói:
- Bà Ashley, chúng tôi có nhân chứng. Một vị linh mục và hai nữ tu sĩ đã trông thấy việc ấy xảy ra và ông đại tá Jenkins từ pháo đài Riley nữa. Họ đều nói y như nhau. Chồng bà chạy qua bảng tín hiệu dừng lại.
Mọi việc sau đấy hình như xảy ra với những cử động chậm chạp. Nàng xem xác của Edward được khiêng vào một chiếc xe cứu thương. Cảnh sát đang thẩm vấn một vị linh mục và hai nữ tu sĩ và Mary nghĩ: "Họ sẽ bị cảm lạnh vì đứng ngoài như thế".
Cảnh sát trưởng Munster nói:
- Họ sẽ chuyển cái xác đến nhà xác.
- Cái xác, Cám ơn ông, - Mary lịch sự nói.
Ông nhìn nàng một cách kỳ lạ.
- Tốt hơn, tôi đưa bà về nhà, - Ông nói. - Tên của vị bác sĩ thân nhân bà là gì? - Edward Ashley, - Mary nói. - Edward Ashley là thân nhân của tôi.
Sau này, nàng nhớ lại nàng đã đi bộ lên nhà và cảnh sát trưởng Munster đã dìu nàng vào bên trong. Florence và Douglas Schiffer đang đợi nàng trong phòng khách. Trẻ con vẫn còn ngủ.
Florence quàng tay người nàng.
- Ồ, chị yêu quý, rất tiếc, thật kinh khủng.
- Được thôi, - Mary điềm tĩnh nói. - Edward đã bị tai nạn.
Douglas nói:
- Nào, tôi sẽ đưa chị về giường.
- Tôi không buồn ngủ. Có chắc rằng anh không muốn dùng gì không?
Trong lúc Douglas đưa nàng vào phòng ngủ, Mary bảo chàng:
- Đấy là một tai nạn. Edward bị tai nạn.
Douglas nhìn xoáy vào mắt nàng. Đôi mắt nàng mở to và ngây dại. Chàng cảm thấy ớn lạnh. Chàng xuống cầu thang để lấy túi thuốc của chàng. Khi chàng trở lại Mary vẫn chưa động đậy. - Tôi sẽ cho chị uống một tí để ngủ.
Chàng cho nàng một viên thuốc an thần, dìu nàng vào giường và ngồi bên cạnh. Một giờ sau, Mary vẫn thức.
Chàng cho nàng một viên an thần khác. Rồi một viên thứ ba. Cuối cùng, nàng ngủ.
Tại thị trấn Junction đang diễn ra những thủ tục điều tra nghiêm ngặt trong bản báo cáo mẫu 1048 - tai nạn thương tích. Một chiếc xe cứu thương được phái đi từ cơ quan cứu thương tỉnh và một sĩ quan của cảnh sát trưởng được đưa đến hiện trường. Nếu nhân viên quân đội dính líu vào tai nạn cơ quan CID - Đơn vị điều tra tội phạm của lục quân - sẽ tiến hành điều tra song song với văn phòng của cảnh sát trưởng.
Shel Planchard, một sĩ quan mặc thường phục từ tổng hành dinh CID tại Pháo đài Riley, cảnh sát trưởng và một vị phụ tá đang xem báo cáo tai nạn trong văn phòng cảnh sát trưởng tại đường số 9.
- Nó lừa tôi rồi, - Cảnh sát trưởng Munster nói.
- Có vấn đề gì thế, Cảnh sát trưởng? - Planchard lên tiếng hỏi.
- Nhìn đây này. Có năm nhân chứng cho tai nạn, đúng không? Một linh mục hai nữ tu sĩ, đại tá Jenkins và tài xế xe tải, trung sĩ Walhs. Mọi người đều nói rằng xe của Bác sĩ Ashley đã rẽ vào xa lộ, chạy qua bảng tín hiệu dừng lại và bị một chiếc xe tải quân đội tung.
- Đúng rồi, - nhân viên CID nói. - Điều gì đã làm ông bận tâm nào?
Cảnh sát trưởng Munster gãi đầu.
- Thưa ông, ông có bao giờ trông thấy một bảng báo cáo tai nạn có hai nhân chứng đều nói y như nhau không? - Ông đấm mạnh nắm tay xuống đống giấy tờ. - Điều làm tôi bận tâm kinh khủng là mỗi nhân chứng đều nói y như thế.
Nhân viên CID nhún vai.
- Điều đó cho thấy rằng sự việc đã xảy ra khá rõ ràng.
Vị cảnh sát trưởng nói:
- Còn có một điều gì khác mà tôi nghĩ không ra.
- Hả?
- Một linh mục, hai nữ tu sĩ và một vị đại tá làm gì ngoài xa lộ số 77 vào lúc bốn giờ sáng thế?
- Chẳng có gì bí ẩn cả. Vị linh mục và hai nữ tu sĩ đang trên đường đến Leolardviue và ngài đại tá đang trở về Pháo đài Riley.
Vị cảnh sát trưởng nói:
- Tôi đã kiểm tra. Tấm phiếu phạt cuối cùng của Bác sĩ Ashley đã sáu năm qua thuộc về tội đậu xe bất hợp pháp. Ông ấy chẳng có hồ sơ tai nạn nào cả.
Nhân viên CID nhìn ông dò xét:
- Cảnh sát trưởng ạ, ông chỉ đề nghị có thế à?
Munster nhún vai:
- Tôi không đề nghị gì cả. Tôi chỉ có một cảm giác buồn cười về chuyện này thôi.
- Chúng ta đang đề cập đến một tai nạn được trông thấy bởi năm nhân chứng. Nếu tôi nghĩ rằng có một âm mưu nào đó có liên can đến chuyện này, giả thuyết của ông có lỗ hổng lớn đấy. Nếu…
Vị cảnh sát trưởng thở dài.
- Tôi biết nếu đấy không phải là một tai nạn, tất cả những gì chiếc xe tải quân đội phải làm là hất tung ông ta và tiếp tục đi. Sẽ chẳng có lý do nào cho tất cả những nhân chứng này và câu chuyện phi lý này cả!
- Đúng thế, - người nhân viên CID đứng dậy và vươn vai. - Mà thôi, tôi phải trở về lại căn cứ. Về phần tôi, tài xế xe tải, trung sĩ Wallis, vô tội. - Ông ta nhìn vị cảnh sát trưởng. - Chúng ta đồng ý không?
Cảnh sát trưởng Munster miễn cưỡng nói.
- Vâng. Có lẽ là một tai nạn.
Mary thức giấc vì tiếng con khóc nàng nằm yên vẫn nhắm chặt và suy nghĩ. Đây là một phần của cơn ác mộng của mình. Mình ngủ và khi mình thức dậy, Edward sẽ sống lại.
Nhưng tiếng khóc vẫn tiếp tục. Khi nàng không còn chịu đựng nổi nữa, nàng mở mắt, nằm đấy nhìn đăm đăm lên trần nhà. Cuối cùng nàng miễn cưỡng cố gắng ra khỏi giường. Nàng cảm thấy chán nản. Nàng bước vào phòng ngủ của Tim.
Florence và Beth đang ở đấy với nó. Cả ba đang khóc. Ứớc gì mình có thể khóc được nhỉ. Beth ngẩng đầu nhìn Mary.
- Có phải bố chết thật không?
Mary nghẹn ngào gật đầu. Nàng ngồi xuống mép giường.
- Tôi phải cho chúng nó biết, - Florence lên tiếng xin lỗi. - Chúng nó định đi chơi với một số bạn bè.
- Được rồi. - Mary vuốt tóc Tim. - Đừng khóc con. Mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi. Chẳng có gì còn ổn nữa.
Chẳng bao giờ!
Ban chỉ huy CID lục quân hoa kỳ tại pháo đài Riley đóng tại toà nhà số 169, một toà nhà kiến trúc đá vôi cổ có cây cối bao bọc với những bậc cấp dẫn đến cổng toà nhà, Trong một văn phòng
trên tầng nhất, Shel Planchard, sĩ quan CID, đang nói chuyện với đại tá Jenkins.
- Thưa ngài, tôi e rằng có một số tin tức không hay. Trung sĩ Wallis, tài xế chiếc xe tải đã giết ông bác sĩ dân sự!
- Có chuyện gì?
- Sáng nay, hắn chết vì chứng đau tim.
- Thật là nhục.
Nhân viên CID nói với giọng yếu đuối.
- Vâng, thưa ngài. Xác hắn được hoả táng sáng nay. Việc ấy rất đột ngột.
- Bất hạnh. - Vị đại tá đứng lên. - Tôi sắp thuyên chuyển ra nước ngoài. - Ông nhếch mép cười nụ. - Một sự thăng chức hơi quan trọng đấy.
- Chúc mừng thưa ngài. Ngài xứng đáng đấy!
Mary Ashley sau đấy quyết định rằng điều duy nhất vãn hồi được sự lành mạnh của tâm hồn nàng là ở trong một tình trạng sốc. Mọi việc đã xảy ra hình như đang xảy ra cho một người khác. Nàng như người đang ở dưới nước, di chuyển chậm chạp và nghe các giọng nói từ nơi xa vắng lọc qua một lớp nệm.
Tang lễ được tổ chức tại nhà tang lễ MASS - Hinitt Alexander trên đường Jefferson. Đấy là một toà Nhà Xanh có cổng xây trắng và một chiếc đồng hồ trắng lớn trên lối vào. Phòng tang lễ chật ních bạn bè và đồng nghiệp của Edward. Có hàng chục vòng hoa và bó hoa. Một trong những vòng hoa to nhát có một tấm thiếp ghi đơn giản: "Sự thương cảm sâu xa nhất của tôi. Paul Ellison".
Mary Beth và Tim ngồi một mình trong gian phòng dành cho gia đình bên cạnh phòng tang lễ, hai đứa bé mắt đỏ hoe và im lặng.
Quan tài đựng thi hài Edward được đậy lại. Nàng không sao không nghĩ đến lý do. Vị mục sư lên tiếng…
Nàng và Edward đang ở trên một chiếc thuyền buồm con trên hồ Milford.
- Em thích đi chơi thuyền buồm không? Chàng đã hỏi nàng đêm hò hẹn đầu tiên. - Em chưa bao giờ đi chơi thuyền buồm cả.
- Thứ bảy, - chàng nói, - Chúng ta hẹn gặp nhau nhé.
Họ cưới nhau một tuần sau đấy.
- Cô có biết tại sao tôi cưới cô không, thưa cô, - Edward chọc. - Cô đã thi đậu. Cô đã cười nhiều và cô đã không ngã trên boong.
"""