"
Sống Thác Với Tình - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sống Thác Với Tình - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Hồ Biểu Chánh
Sống Thác Với Tình vietmessenger.com
1. CON THƠ LÌA MẸ
Gần hết nửa canh năm, hướng đông sao mai đã ló mọc. Bầu trời rực sáng, nên chỗ đen đen, chỗ đỏ đỏ; mặt cỏ gội sương nên khoảnh ướt ướt, khoảnh khô khô.
Có một người đàn ông, tuổi trên bốn mươi, ở phía dưới trường đua ngựa cũ Sài Gòn, theo đường quản hạt lầm lũi đi riết lên xóm Chí Hoà, hai tay có ôm một đứa con nít chừng năm, sáu tuổi.
Mấy nhà ở dọc theo hai bên lộ còn ngủ, nên cảnh vật im lìm, duy có một cỗ xe bò chở rau, cải, khoai, đậu ở trên miệt Bà Quẹo thủng thẳng đi xuống, cặp bò na nần, lồng đèn leo heo, bánh xe kêu lét két. Khi người với xe bò gần gặp nhau thì đứa con nít vùng khóc lên. Người bồng nó, nạt nhỏ nhỏ rằng: "Nín đi nà, khốc giống gì" rồi bét vô lề đường mà đi; người đánh xe mắc ngủ gục nên không nghe thấy chi hết.
Người bồng đứa nhỏ đi đến xóm Chí Hoà rồi quẹo vô một cái bờ nhỏ bên phía tay trái. Bờ quanh co mà lại tối mò, dưới chơn ngọn cỏ đưa ngọn lúp xúp, trên đầu cây giao nhành bít chịt, cảnh coi hiểm lắm, nếu ai không quen thuộc thì trong lúc ban đêm như vầy ắt nhát bước chơn vào. Người nầy tuông ngọn cỏ mà đi xăng xái cũng như ngoài đường trống, chẳng có chút chi bợ ngợ. Đi được chừng vài trăm bước thì tới một cái nhà tranh nhỏ và thấy cửa vách xịch xạc, người ấy giở cửa chun vào kêu rằng: "Mầy a, mầy a, dậy đốt đèn coi nào".
Bước vô nhà rồi, người ấy mò lại bộ ván, để đứa nhỏ ngồi xuống và kêu nữa rằng: "Mầy a , dậy đốt đèn lên".
Ở phía trong có một người đàn bà lục tục mò hộp quẹt đốt đèn rồi bưng ra. Chị ta dòm thấy có một đứa con nít ngồi khóc trên ván thì chưng hửng, nên ngó người đàn ông mà hỏi rằng:
- Con của ai ở đâu vậy?
- Của họ mới cho tao.
- Họ cho mà mình lãnh về làm gì?
- Lãnh về nuôi, chớ lãnh làm gì.
- Úy! Mẹ ơi, ai mà nuôi con nít cho đặng?
Đứa nhỏ ngó người đàn bà và ngó dớn dác trong nhà rồi khóc mà kêu má nữa. Người đàn ông chúm chím cười rồi nói với người đàn bà rằng: "Bồng đi từ dưới Sài Gòn về trên nầy mỏi tay quá. Mầy bồng nó một chút coi; bồng dỗ nó rồi tao nói chuyện cho mà nghe".
Người đàn bà để chong đèn trên ván rồi xớt bồng đứa nhỏ. Đứa nhỏ càng khóc lớn và kêu má nhặt hơn nữa. Người đàn bà nhìn nó và nói rằng: "Con trai mà. Nín đi, khóc giống gì". Người đàn bà lại day qua hỏi người đàn ông rằng:
- Đêm nay đi làm miệt nào đâu mà không có chi hết, lại ẵm con nít về như vầy nè?
- Ậy! Con nầy nóng quá! Sao mầy biết tao không có chi hết? No lắm chớ.
Người đàn ông thò tay và dây nịt móc ra ba tấm giấy xăng rồi bước lại gần đèn phành ra mà đếm. Người đàn bà chụp lấy mà coi và hỏi rằng:
- Giấy bạc mấy đồng đây?
- Con nầy ngu quá! Giấy trăm mà nó không biết chớ.
- Giấy trăm hay sao. Mẹ ơi, té ra ba tấm đấy là ba trăm. Mình làm nhà ở đâu vậy?
- Không phải tao làm, họ cho tao mà.
- Ai dại gì mà cho mình nhiều như vậy? Đâu mình nói thiệt cho tôi nghe một chút mà.
Người đàn ông mới leo lên ván mà ngồi, thò tay bưng chong đèn để xích tới. Người đàn bà muốn nghe câu chuyện mà bị đứa nhỏ bồng trên tay nó khóc hoài, làm cực lòng quá, chị ta giận mới đem nó để nằm trên cái võng rồi trở lại hỏi người đàn ông nữa rằng:
- Chuyện sao đâu mình nói cho tôi nghe một chút. Còn thằng nhỏ đó ở đâu vậy?
- Chuyện kỳ lắm. Đêm nay tao đi, tao tưởng bị rồi, té ra khỏi hại mà lại may quá. Hồi 12 giờ khuya, tao ghé rình cái nhà lầu ở đường Thuận Kiều. Tao biết nhà ấy là người Việt nên tao không sợ. Tao đứng ngoài cửa sổ mà rình hơn một giờ đồng hồ, trong nhà tối mò mà lại vắng teo. Tao chắc họ ngủ mê tao mới cạy cửa sổ. "Đ.m.", không dè cửa sổ đó ngay bộ ván, lại có một người nằm đó nữa chớ! Tao nhát nhát, sợ chung vô động ván họ hay. Tao muốn bỏ mà đi làm chỗ khác, ngặt cửa đã phá rồi, bỏ thì uổng lắm, mà trời lại gần sáng, đi làm chỗ nào nữa cho được. Tao đứng rình hoài, đến gần ba giờ tao mới lén chun vô. Tao bò trên ván nhẹ nhẹ, không dè người nằm đó họ hay nên họ cũng rình tao. Tao vừa muốn bước chân xuống đất thì người ấy vùng ngồi dậy, nhảy đạp tao một cái té nằm sấp ngay chừ, rồi nó chận cổ đè trên lưng tao mà bắt tao.
- Úy mẹ ôi! sao mình không đánh mà giải vây?
- Giải khỉ họ! Tao bị đạp một cái té sấp tức quá, cựa quậy không nổi, còn con dao tao cầm trong tay thì nó văng xa lắc, còn giống gì đâu mà cự. Hồi đó tao tưởng cái mạng tao đã hết rồi, tao chắc phải vô khám, nên tao nằm chịu phép. Thằng bắt tao đó nắm cổ kéo tao dậy rồi dắt tao đi lại chỗ đèn khí mà vặn đèn lên. Tao thấy con dao của tao văng nằm dựa trên ghế, tao muốn nhảy lại giựt chém giải vây, ngặt vì cái ngực tao tức quá, tao liệu thế chống cự không nổi, tao mới ngồi dựa vách tường mà năn nỉ.
Thằng thầy bắt tao đó nó còn trai má nó mạnh thiệt. Nó để tao ngồi đó, nó bước lui, lượm con dao rồi nó cầm trong tay mà hăm tao. Tao cùng thế, tao mới năn nỉ xin nó tha; tao nói mầy đẻ, mà lại đau nặng, không có tiền chạy thuốc, nên tao mới làm bậy, chớ không phải tao quen cái nghề ăn trộm. Thằng thầy đó nó tính giống gì không biết, mà nó nín thinh, một hồi nó biểu tao phải lãnh mà nuôi một đứa con nít thì nó mới chịu thả tao. Tao than nghèo, không có đủ cơm mà ăn, có dư đâu mà dám lãnh nuôi con nuôi. Tao mại hơi với nó vậy mà, biết hôn, miễn nó thả tao rồi thì thôi, thứ con nít mình muốn nuôi thì nuôi, nếu không muốn nuôi thì mình bán cho người khác nuôi chớ
có khó gì. Tao mại hơi với nó như vậy mà nó ngu quá, nó lại nói như tao chịu lãnh đứa nhỏ thì nó cho tao tiền bạc mà nuôi. Sướng quá! Tao chịu liền. Nó mới đi bồng thằng nhỏ nó đưa cho tao với mấy trăm đồng bạc.
- Sao mình không làm dày làm mỏng đặng xin tiền thêm?
- Thôi chớ! Ăn trộm người ta bắt được rồi người ta thả, người ta cho một đứa con trai với ba trăm đồng bạc nữa, còn kèo nài cái gì?
- Mà thằng nhỏ nầy là con của người đó hay là con của ai?
- Tao có biết đâu. Tao được bạc tao mừng quýnh, nên bồng thằng nhỏ dông mịch, không kịp hỏi chi hết.
- Chắc là con người đó, vì nó xấu háy nên họ cho mình chớ gì.
- Mầy nói bậy. Con xấu háy, người ta có cho thì cho hồi mới đẻ, chớ nuôi đã bây lớn đó còn cho nỗi gì. Mà người ta có cho thì người ta làm bộ viết tờ cho người nào bà con quen biết đặng chừng lớn người ta bắt về, chớ sao lại cho tao, mà còn dặn phải đem đi mất đừng héo lánh tới xóm đó nữa.
- Hay là thằng cha đó nó oán người nào ở trong nhà, nên muốn hại con người ta chơi cho bỏ ghét.
- Mầy nói cái đó có lẽ phải. Chắc là tại vậy đó. À, tao quên nữa chớ. Thằng thầy đó nó dặn tao nuôi thằng nhỏ nầy phải dạy nó ăn trộm, ăn cướp, phải tập nó làm du côn. Tại sao nó dặn kỳ cục như vậy không biết.
- Dạy cái đó không khó gì mà.
- Rượu tao uống hồi chiều còn chút nào hay không mậy?
- Cái ve để trên bàn thờ kia kìa, lại đó mà coi còn chút nào hay là hết, chớ ai uống đâu mà biết.
Người đàn ông mon men đi lại bàn thờ lấy chai rượu đưa lên coi rồi rót ra chén chung mà uống. Người đàn bà xếp ba tấm giấy bạc kỹ lưỡng rồi bỏ vô túi áo nhỏ. Thằng nhỏ nằm trên võng cứ khóc hoài. Người đàn bà bước lại bồng nó đem để trên ván, rồi nhìn coi thì thấy
nó mặc quần áo luôn một cái may bằng lụa trắng có sọc xanh, cổ có viền ren. Mặt mày tay chơn nó trắng nõn, tóc nó hớt bôm bê nên trước trán vắn mà hai bên vớt sau ót lại dài.
Người đàn ông uống hai ba chung rượu rồi trở lại ván vỗ đầu thằng nhỏ mà nói rằng: "Đừng có khóc nữa. Nín đi, rồi sáng tao mua bánh bao cho ăn". Thằng nhỏ sợ nên mắt ngó dớn dác ngoài cửa rồi khóc thút thít mà kêu rằng: "Má ơi, má!".
Người đàn bà cười mà nói rằng: "Má đâu có mà kêu. Mầy ở đây với tao, không được về má mầy nữa đâu. Má mầy là tao đây, còn người nầy là tía mầy biết hôn. Từ hồi đó đến giờ tao mượn người ta nuôi mầy, bây giờ tao bắt về. Rày sắp lên ở với tía má đây".
Thằng nhỏ khóc ré lên. Người đàn bà dỗ nó hết sức mà nó không chịu nín. Người đàn ông trợn mắt nộ nó, nó sợ nên thôi khóc, mà nó còn thút thít hoài. Người đàn bà dỗ hỏi nó tên gì, thì nó nói tên Hội, mà vì nó nói nhỏ quá, lại và khóc và nói, hai người nghe không rõ, nên tưởng nó tên Hồi.
Người đàn bà bồng nó lại võng nằm mà dỗ nó ngủ. Gà trong xóm gáy vang rân; thầy chùa ở đằng chùa Phật thức dậy công phu, dộng chuông boong boong. Người đàn ông nằm ngay trên ván một lát rồi ngủ khò, mà đứa nhỏ đưa trên võng một hồi cũng ngủ.
Thằng nhỏ nầy tên nó là Chánh Hội, cha nó là Lý Chánh Tâm, còn mẹ nó là Thái Cẩm Vân. khi mẹ nó sanh nó ra được ít tháng thì cha nó đi Tây mà học, để mẹ con nó ở nhà với bà nội nó.
Cha đi học năm năm, lấy được bằng cấp tú tài rồi trở về xứ, vừa bước vô thì gặp cô nó là Lý Tố Nga, vì việc chồng con bối rối nên tự vận mà chết. Cha nó chôn cất cô nó rồi, kế gặp nhiều cái bằng cớ đủ tin cho mẹ nó lấy trai, lấy một người ở tỉnh Cần Thơ, mà lại tưởng mẹ nó lấy người ấy mà sanh ra nó đó nữa.
Trong lúc tức giận sầu não, cha nó đánh mẹ nó, rồi muốn trả thù sâu hiểm, nên thừa dịp bắt gặp đặng ăn trộm trong nhà, mới bồng nó mà giao cho ăn trộm, cho ăn trộm tiền bạc, mướn ăn trộm đem giấu nó cho biệt tích và tập luyện tánh nết nó thế nào đặng chừng khôn lớn
nó trở nên một đứa du côn trộm cướp, làm như vậy là có ý muốn phạt mẹ nó sầu não lìa con, và phạt nó là cái dấu tích dâm bôn, là cái duyên cớ làm cho cha nó đớn đau, xấu hổ. Tại như vậy đó, nên nó lọt vào chốn nầy đây.
Còn người đàn ông với người đàn bà nầy là hai vợ chồng: chồng tên là Tư Cu, vợ tên là Tư Tiền. Vợ chồng thuở nay không có con, có hai chục sào đất với một cái nhà tranh ở cuối xóm Chí Hòa. Tư Cu không làm ruộng, không làm rẫy, thường nói với người trong xóm rằng để đi làm mướn ăn khoẻ hơn, nhưng mà ít thấy làm việc gì cho ai trong làng, duy ban ngày thì be be đi xuống miệt Sài Gòn dọ đường rồi ban đêm rình mò coi nhà nào ngủ mê thì đào hầm, khoét vách mà ăn trộm đồ.
Còn Tư Tiền hồi trước thì hay đi rảo trong xóm góp mua những rau, hành, bầu, mướp, rồi gánh xuống chợ Bến Thành mà bán, có bữa lời năm, bảy cắc hoặc một đồng thì mua cá, mua thịt, gạo đem về mà ăn. Mà gần một năm nay chị ta than với chồng rằng đi mua bán đường xa gánh gồng mệt nhọc nên chị ta không muốn làm nghề ấy nữa, bữa nào siêng thì chị ta đi, còn bữa nào làm biếng thì ở nhà.
Mấy bữa rày trong nhà gần hết tiền, mà nhằm lúc vợ không siêng, nên chồng mới thả xuống Sài Gòn mà ăn trộm đó.
Trời đã sáng thiệt mặt rồi. Tư Tiền mới lén thằng Hồi mà leo xuống võng, rồi đi chống cửa quét nhà. Chị ta thấy chồng còn ngủ mê, nên bước vô trong bếp móc túi lấy ba tấm giấy bạc ra mà coi. Chị ta cầm coi từ tấm, coi bên nầy rồi coi bên kia, coi đã thèm rồi mới xếp tử tế mà bỏ vô túi lại và miệng chúm chím cười.
Mặt trời mọc chói ngay vô bộ ván chỗ Tư Cu nằm mà anh ta bị thức sáng đêm nên ngủ mê không hay chi hết. Thằng Hồi thức dậy, dòm thấy trong nhà lạ hoắt, nên nó khóc. Tư Tiền bước ra đỡ nó xuống võng rồi nắm tay dắt nó vô trong. Nó trì lại và giậm chơn nói rằng: "Má tao đâu. Dắt tao về má tao". Tư Tiền kéo xểnh nó đi và nói rằng: "Nín đi, chớ mầy khóc tao đánh chết. Tao nói má mầy là tao đây, còn đòi má nào nữa".
Mấy người ở gần nghe tiếng con nít khóc trong nhà Tư Cu thì thấy làm lạ, nên bước lại hỏi thăm. Tư Tiền nói rằng: "Thằng nhỏ nầy là con của chị hai ở dưới cầu Ông Lãnh. Chỉ mất rồi ảnh mắc đi làm không ai giữ nó, nên hồi khuya ảnh đem lên ảnh gởi cho vợ chồng tôi nuôi dùm". Người lối xóm ai nghe như vậy cũng tưởng sự thiệt, nên khen thằng nhỏ ngộ nghĩnh rồi về, không nghi việc chi hết.
Tư Tiền để thằng Hồi đứng dựa cửa sau rồi đi lấy gạo nấu cơm. Chừng cơm nấu chín rồi, Tư Cu mới thức dậy.
Tư Cu ngồi sật sừ, chưa kịp rửa mặt mà đã kêu vợ biểu xách xe lại quán mua vài cắc rượu về uống chơi. Tư Tiền đi mua rượu mà lại dắt thằng Hồi đi theo, trong ý muốn làm cho thiên hạ ngó thấy thằng nhỏ, rồi cắt nghĩa phứt cho họ hiểu đặng họ khỏi dị nghị.
Rượu mua về rồi, cơm dọn lên ván, vợ chồng Tư Cu đỡ thằng Hồi lên ngồi một bên. Trong mâm chỉ có hai món đồ ăn, một là dĩa khô cá lép với một dĩa cá sặt kho, con nào cũng không lớn hơn ngón tay cái. Tư Cu ăn khô mà uống rượu. Tư Tiền gắp một con cá sặt nhỏ bỏ trong chén của thằng Hồi mà biểu nó ăn. Thằng Hồi tuy không khóc nữa, song nó buồn lắm, không chịu cầm đũa, mà hễ thúc nó ăn thì nó lắc đầu nhăn mặt.
Tư Tiền ép nó ăn không được thì nổi giận, trở đũa giá trên đầu muốn đánh nó. Tư Cu bưng chung rượu uống nghe một cái ót, rồi nói rằng: "Thây kệ nó, để nó có sức nó nhịn đói. Trưa chiều đói thét rồi phải ăn. Đánh khảo làm gì".
Tư Cu uống ít chung rượu, mặt coi phừng phừng, bèn nói với vợ rằng:
- Tao nhớ cái chuyện đêm hồi hôm tao tức cười hoài. Tao làm hơn mười năm nay, không biết mấy đám mà kể cho hết, mà tao chưa gặp đám nào kỳ cục như vậy. Bị bắt mà khỏi ở tù, lại được thưởng nữa chớ. Mầy coi tao giỏi hôn?.
- Giỏi giống gì! Cái đó là may chớ.
- Bữa nay nhằm ngày mấy há?
- Mùng năm.
- Nếu vậy thì hồi hôm tao đi nhằm mùng bốn. Phải mà, mùng bốn tốt ngày; nên tao mới gặp may như vậy. Nè mầy, không biết mấy bữa tối trời tao đi làm ăn, mầy ở nhà có lo không vậy mậy?
- Sao lại không lo.
- Lo giống gì? Mầy sợ tao bị bắt hay sao?
- Bị bắt ở tù năm mười tháng cũng còn khá, tôi sợ rủi ro khác nữa mới là khổ.
- Có sao đâu mà sợ.
Tư Cu rót một chung rượu nữa mà uống. Anh ta ngồi chống tay trên bắp vế, ngó ra ngoài sân một hồi rồi day vô nói với vợ rằng:
- Mầy sợ cũng phải. Tuy hồi đó đến giờ tao làm ăn chưa gặp rủi ro lần nào, mà bây giờ trộng tuổi rồi, tao nghĩ lại thiệt tao cũng ghê quá. Bây giờ có vốn liếng chút đỉnh, tao muốn bỏ nghề cũ, để đi kiếm nghề khác làm ăn.
- Kiếm nghề gì?
- Thiếu gì. Xuống Sài Gòn làm Ba Son, sở mộ, hay là qua hãng Nhà Rồng làm cu li cũng được. Tao thấy tụi nó làm lãnh tiền tuần cũng được bốn năm trăm đồng.
- Ở trên nầy xa quá, mình xin làm sở, hơi nào mà đi. - Ta xuống Sài Gòn kiếm phố mướn ở chớ.
- Rồi nhà đây làm sao?
- Ối! Thứ đồ bỏ, đạp mà đi chớ cần gì.
- Nhà như vầy mà kêu là đồ bỏ! Hồi cất không tốn hao đôi ba chục hay sao?
- Thôi, để kêu thằng Lành về cho nó ở đậu, nó coi nhà đất cho mình.
- Tính như vậy cũng được. Nếu dọn đồ xuống ở dưới Bến Thành mình xin sở mình làm ăn thì tôi bán cá, hoặc bán rau, bán hành với họ chơi.
- Ờ, phải đa. Hai vợ chồng đi làm hết có lẽ nào không đủ ăn.
- Mình để mấy trăm đồng bạc đây cho tôi làm vốn, tôi buôn bán ít năm thành ra bạc ngàn cho mình coi.
- Mầy làm lộn xộn đây tiêu hết chớ.
- Cái gì mà tiêu? Mình sợ tôi làm tiêu, thôi mình để tôi sắm vài đôi vàng đặng để dành nghe hôn?
- Thứ đàn bà hễ có tiền thì lo mua vàng! Mầy thương thợ bạc lắm hay sao, mà mầy nuôi nó?
- Khéo nói bậy hôn! Sắm vàng như tiền mình để dành, mất đi đâu mà sợ.
- Mầy làm sao đó thì làm, hễ tiêu mấy trăm đồng bạc đó tao giết mầy đa.
- Để tôi làm cho mà coi.
Trưa bữa đó, Tư Cu đi rảo dưới Sài Gòn kiếm mướn một căn phố cũ trong đường hẻm ở gần đình Tân An, miệt trên Đất Hộ, rồi trở về cho vợ hay. Anh ta kêu thằng Lành là đứa làm mướn thuở nay không có nhà cửa , bạ đâu ở đó, mà cho nó về ở đậu coi nhà, để cho nó mượn một cái chõng, còn đồ đạc bao nhiêu thì mướn xe bò chở xuống Đất Hộ dọn vô phố mà ở.
Dọn nhà cửa xong, Tư Cu xin làm trong sở Ba Son còn vợ thì tính buôn bán lăng xăng, mà chưa thấy mua vật chi bán vật chi, chỉ đặt làm hai đôi vàng chạm đeo đỏ tay đó mà thôi.
Thằng Hồi không khóc, không nhịn đói nữa, nhưng mà từ ngày Tư Cu dọn phố về ở miệt Đất Hộ, thì thường thấy nó ngồi chồm hổm dựa xó cửa, mặt mày buồn xo, tay chơn tèm lem, không nói tới ai ở trong nhà, mà cũng không chơi với sắp con nít trong đường hẽm, bộ tịch như cây chuối con thuở nay sởn sơ đứng dựa bên mình mẹ, bây giờ đem trồng riêng một mình nên tàu xụ, đọt còi, bẹ tả tơi, gốc khô héo.
2. KẾT NGHĨA CHỊ EM
Hòn Phú Quốc có dân cư kể đã mấy thế kỷ rồi, nhưng dân ở rải rác trong mấy cái vịnh, núp sóng gió cho êm ấm mà sống với cái nghề chài lưới, chớ chưa nghĩ tới cuộc khai thác rừng núi mà xây dựng nghiệp nông thương.
Cách chừng 40 năm trước đây, người ta cũng chưa thấy có tổ chức cuộc khai thác nào đáng kể. Dân cư tuy tăng số nhiều hơn, song họ chòm nhom mà ở với nhau thành xóm thành làng, bên phía Đông là phía ngó vô Hà Tiên thì ở tại Hàm Ninh, đầu dưới thuộc phía Nam thì ở tại Cây Dừa, còn phía bên Đông ngó ra hải đại thì ở tại Duơng Đông. Trong mỗi chỗ, dân đốn cây phá rừng, trồng đồ chút đỉnh mà ăn, chớ chưa làm ruộng hay lập vườn. Ghe biển chở nước mắm, đồi mồi, thuyền đem vô Hà Tiên hoặc Rạch giá mà bán rồi mua gạo, muối, vải, cùng các vật dụng cần yếu khác chở về bán lại cho người trong hòn.
Có làng có xóm, mà chưa có đường bộ để giao thông cho mau và cho dễ. Cũng chưa có đường xuyên ngang qua hòn để nối liền Dương Đông với Hàm Ninh là hai làng lớn có đông dân cư nên thành chợ. Thiệt có một số người sống rải rác trong giữa hòn, hoặc ở theo mấy trảng nhỏ trồng dừa, hoặc cất am, cất chùa ở trên triền núi mà tu; nhưng mấy người ấy giao thông với làng xóm ngoài mé biển thì họ vẹt cây, xô đá, đạp đường mòn để vô ra cho dễ vậy thôi.
Lúc ấy ở phía sau chợ Dương Đông có một con đường mòn đi vô Giếng Tiên rồi đi thẳng lên vùng Suối Đá. Qua khỏi Giếng Tiên một đỗi, nếu người ta băng rừng đi qua phía tay trái, đi một khoảng xa thì người ta sẽ gặp một cái trảng nhỏ được hơn một mẫu đất vậy thôi. Phía sau có một cái đồi nằm dốc dốc từ trảng vô tới chơn núi, lại có một cái suối đưa nước trên núi xuống, chảy ngang qua trảng, rồi đi luôn ra ngoài một đỗi gặp ngọn rạch nhỏ rút nước đi thẳng ra biển. Dưới chân đồi, dựa bên suối, có một cái chòi tranh xệch xạc nhưng sạch sẽ.
Năm đó, trong khoảng thượng tuần tháng ba, trời đã mưa được ít đám, nước suối tuôn xuống nhiều, mà đất cũng mềm nên dễ cuốc. Buổi sớm mơi người ta thấy trong chòi tranh nầy có một nàng thiếu phụ chừng vài mươi tuổi, mặt mày sáng rỡ, nằm trên cái chõng tre cho đứa con trai mới sanh chừng vài tháng bú và dỗ ngủ rồi đi lấy nồi vo gạo nấu cơm.
Dọc theo mé suối thì một người đàn ông ở trần, mặc quần vắn, tuổi lối 45 tới 50, râu lún phún, da đen, sức mạnh, đương lui cui cuốc mương đặng tỉa bắp, dưới cả chục giồng khoai lang giâm ở phía trên, lang đã đâm ngọn, bò gần phủ giồng.
Nàng thiếu phụ nấu cơm chín rồi nàng đi ra suối mà kêu: "Chú Hai vô ăn cơm, rồi sẽ làm tiếp, trưa rồi chắc chú đói bụng". Người đàn ông cười mà nói: "Thiếu gì. Ăn không hết chớ, đất tốt quá, để rồi con coi mà. Chú trồng đồ mà bán, chắc đủ cơm gạo cho chú cháu mình ăn; mãn mùa mưa nầy chú sẽ trồng giáp mé đặt tiêu phía bên đồi kia. Có người ở phía sau chợ tử tế quá, họ đã có dạy chú cách trồng tiêu và có hứa cho chú dây tiêu đặng chú trồng. Họ nói trong hai năm mình sẽ có tiêu mà bán, họ lại chịu bán tiêu giùm cho chú nữa".
Hai người dắt nhau lên chòi dọn cơm ăn với nhau, ăn với một thèo cá khô nướng với nửa dĩa mắm biển chớ không có cá thịt chi hết, nhưng đói bụng nên ăn coi ngon lắm.
Ăn cơm vừa rồi, chưa kịp uống nước, thì em nhỏ nằm ngủ bên chõng chòi đạp và khóc, thiếu phụ lật đật lại cái khạp để tựa vách múc một chén nước mà uống rồi bồng em ngồi cho bú. Người đàn ông góp chén đũa mà dẹp, thiếu phụ nói: "Chú để đó cho con. Con cho em bú một chút rồi con sẽ dọn rửa".
Thiếu phụ nầy tên Lê, còn người đàn ông đó tên Hai Cường. Cha của Lê là anh em chú bác với Hai Cường. Cha của Lê thuộc nhà bác, nên Lê kêu Cuờng bằng chú.
Hai Cường quen tánh sạch sẽ không chịu bầy hầy, bởi vậy mặc dầu Lê cản, Hai Cường uống nước rồi anh ta cũng bưng chén dĩa dơ đem xuống suối ngồi rửa.
Trong lúc ấy có một thiếu phụ khác cũng cỡ tuổi cô Lê áo lụa quần hàng, da trắng môi son, diện mạo thanh bai, tướng đi yểu điệu, ở trong rừng phía sau chòi đi ra trảng. Nàng mang thai nghén nên bụng u lên lùm lùm. Nàng nhắm cái chòi của cô Lê mà đi tới, sau lưng có một đứa con trai chừng 12 tuổi đội một cái gói lớn mà nhẹ trên đầu với một đứa con gái, lối 15 tuổi, tay xách cái hoa ly đi theo.
Cô Lê cho con bú no, thấy nó nhả vú mà ngủ, cô mới đặt nó xuống chõng và lấy mền đắp lại. Cô day mặt ra cửa thì thấy một nàng thiếu phụ lạ với hai đứa nhỏ đương đứng dòm vô chòi cô liền bước ra hỏi:
- Thưa cô, cô muốn kiếm ai? Hay là vô đây có việc chi? Thiếu phụ bợ ngợ đáp:
- Thưa cô, em ở phương xa, ở trong đất liền chẳng may em bị tai nạn dồn dập nên em trôi nổi ra đây. Em tính kiếm chùa xin ở mà tu, em cậy thằng em đây dắt đường cho em lên chùa ở đậu trên núi phía trong nầy. Ði ngang qua giăng rừng thằng em nói năm ngoái có một cô ở đâu không biết, cũng có chửa như em, lại cất nhà ở trong nầy, em nghe như vậy, em mới cậy nó dắt em ghé vô đây coi bề ăn ở thể nào và nếu có thể được, thì em cũng sẽ lập thế ở như cô có lẽ tiện hơn là ở chùa.
- Vậy mời cô vô. Vô nhà ngồi nói chuyện.
Thiếu phụ bước vô chòi tum húm chỉ có một cái chõng tre chỗ em nhỏ nằm ngủ đó mà thôi. Cô Lê chỉ cái chõng mời khách ngồi. Khách bước lại dòm em nhỏ rồi hỏi:
- Em nhỏ là con của cô phải hôn?
- Phải, con của em.
- Con trai, bộ mạnh mẽ, ngộ quá. Cô sanh đuợc mấy tháng rồi? - Hai tháng. Sanh hôm mùng 8 tháng giêng.
- Dễ thương dữ. Cô đặt cho em tên chi?
- Chú em nói nó sanh trong chốn núi non, lại sanh nhầm mùa xuân, nên chú em đặt cho nó tên Xuân Sơn.
- Tên tốt quá.
Hai Cường rửa chén dĩa rồi ở dưới suối đi lên, thấy hai đứa nhỏ thả đi xem mấy giồng khoai, lại trước chòi có để hoa ly, với gói, không hiểu có khách nào đến, nên xăm xăm đi riết vô chòi. Bước vô thấy một thiếu phụ tướng mạo đoan trang xinh đẹp, lại mặc hàng lụa như gái sang giàu, anh ta úp chén dĩa vào cái rổ để dựa vách rồi day lại hỏi: "Cô em đến đây có việc chi vậy?"
Cô Lê giành mà đáp: "Thưa chú, cô đây ở bên đất liền, cô bị hoạn nạn nên ra hòn tính kiếm chùa xin ở mà tu. Cô đi ngang qua khoảng nầy, hay có mình ở đây, cô ghé xem coi, nếu cô có thể ở như mình được thì cô xin ở với mình có lẽ tiện hơn là ở chùa".
Hai Cường nói: "A! Té ra cô em cũng bị tai nạn như con nên cô cũng kiếm chỗ dung thân mà lánh xa đời như con. Cô em ngồi đó chơi, ngồi đặng tôi nói cho mà nghe".
Cô Lê tiếp mời người khách ngồi trên cái chõng và cô cũng ngồi một bên.
Hai Cường bước ra ngoài lăn vô một viên đá lớn để dựa cửa rồi anh ta ngồi trên viên đá ngó khách mà nói: "Núi rừng cây nước, đều là vật của trời sanh chớ không phải của ai hết. Trong hòn nầy, nhơn số thì ít, mà đất đai thì nhiều, ai muốn ở chỗ nào thì dọn dẹp cất nhà mà ở, chẳng cần phải hỏi ai, phải xin ai. Chú cháu tôi ở Sài Gòn, năm ngoái ra đây, con cháu tôi cũng tính kiếm chùa mà nương náu như cô em bây giờ vậy. Tôi hỏi thăm người ta rồi đắt nó lên cảnh chùa ở phía trên đây mà xem thử. Trong chùa có mấy bà vãi sẵn lòng cho chú cháu tôi ở mà tu. Nhưng tôi thấy có chỗ không tiện. Tu đặng làm gì? Chắc thành Phật được hay sao? Không chắc, nếu nó tu đặng cầu phước về kiếp sau, thì ở đâu cũng có chùa cho mình ở tu, cần gì phải vượt biển băng ngàn cho xa? Mà phải làm phước mới được phước. Chú cháu tôi không có bạc tiền, không có thế lực, làm sao giúp đỡ ai được mà mong phước báo? Chú cháu tôi tính lánh đời, không muốn chung chạ với thiên hạ cho khỏi đau khổ, khỏi bực tức, nên mới ra tới ngoài nầy, nếu ở chùa thì phải theo kỷ luật trong chùa, phải tuân pháp giới về đạo, mất tự do hết. Tôi không
bằng lòng nhưng tôi không nói ra. Tôi hỏi trong hòn nầy còn chùa nào nữa hay không, thì mấy bà vãi nói trong vùng núi Chóp Chài có am An Viên của một sư huynh ở tu. Tôi hỏi thăm đường rồi tôi gởi con cháu tôi ở lại chùa đặng tôi đi tìm am An Viên. Tôi gặp được sư huynh, té ra am thờ "Thái Thượng Lão Quân" chớ không phải thờ Phật như dưới nhà chùa. Tôi hỏi huynh tu có ý mong ước việc gì. Huynh nói đời gian tà, giả dối, cướp giựt, tham lam huynh muốn tìm nơi an tịnh ở một mình mà ung đức "tinh, khí, thần" đặng biết quá khứ vị lai và được trường sanh bất tử. Huynh cắt nghĩa đạo "Vô Vi" cho tôi nghe. Huynh nói con người tại ham giàu sang, mong hưởng hạnh phúc, nên phải lao tâm tiêu trí, chịu cực nhọc, chịu đau khổ, chịu tủi nhục mãn đời rồi chết, dầu giàu sang cũng không vui sướng gì. Chi bằng mình sống một cách thiên nhiên, sống với thảo mộc, giang sơn của tạo hóa, không chiều lụy ai, không bợ đỡ ai, không cần làm việc chi, khỏe thì làm, mệt thì ngủ, muốn đi đâu, muốn ở đâu tùy thích đó là cảnh đời hạnh phúc tốt đẹp không có hạnh phúc nào bằng. Tôi mới tỏ thiệt với huynh, tôi không tin cái thuật thông quá khứ vị lai với cái thuật trường sanh bất tử. Nhưng tôi phục cái đạo Vô Vi nên tôi đương kiếm một chỗ an tịnh cất chòi mà ở đặng sống với cảnh đời thiên nhiên ngoài vòng tục lụy, sống không buồn, chết không sợ, xem không là có, biết có là không, tuy không làm trái với lý tự nhiên, song cái gì cũng làm được hết. Sư huynh cười mà nói tôi thuộc về phái yểm thế phẫn tục, huynh khen tôi hiểu đạo Vô Vi. Nhưng huynh không rủ tôi ở mà tu với huynh mà huynh lại chỉ cho tôi biết cái trảng nhỏ nầy, khuyên tôi đến đây mà ở, chắc tôi sẽ được hưởng một cảnh đời êm ấm thiên nhiên theo trí ý tôi muốn. Tôi trở lại chùa rước con cháu tôi đến xem địa thế. Chú cháu tôi thấy ở đây (thiếu) mà ở từ năm ngoái đến bây giờ đây".
Cô Lê tiếp mà nói: "Khi em ra đến hòn nầy thì em có thai hơn ba tháng. Chừng lên chùa em thấy mấy bà vãi ở tu niệm thì em tủi phận em, nên em hết muốn nương náu với chùa. Cô nghĩ coi chùa là chỗ tinh khiết để cho người mộ đạo ở mà tu. Em mang bụng chửa vào đó, tới ngày sanh đẻ, em làm nhơ uế trong chùa, điều đó em không thể chịu được. Mấy bà nói trong chùa có một bà giỏi nghề làm mụ giúp sanh. Chừng em gần gới tháng, tới ngày thì che đỡ một cái
chòi phía sau chùa cho em sanh, ít bữa cứng cáp rồi sẽ trở vô chùa mà ở. Em nghỉ ở trong chùa mà có xuống coi chỗ nầy, em đành bụng liền. Chú em mới lo cất chòi cho em ở rồi hôm đầu năm mới sanh em nhỏ đó".
Cô khách nói: "Vô đến đây em thấy cảnh em đành bụng quá. Lại được nghe cô với ông chú kể chuyện nãy giờ thiệt em rất cảm tình. Em có thai đã được bảy tháng rồi, nếu ở trong chùa thì đến ngày sanh bất tiện thiệt. Em muốn xin ông chú với cô thương giùm phận em lỡ bước lạc loài, làm phước cho em che chòi đùm đậu ở đây với cô và ông chú, không biết cô với ông chú có vui lòng không".
Hai Cường nói:
- Tôi đã có nói: đất, nước, núi, rừng là vật của Tạo hóa sắm sẵn cho muôn loài sanh sống. Cô em muốn ở đâu tùy ý, chẳng cần phải hỏi chú cháu tôi. Nhưng chúng tôi là người lánh đời, cô em ở đây với chúng tôi chắc là cô em không còn biết cảnh đời vui sướng nữa. Xem tướng mạo và thấy cách ăn mặc của cô em tôi đoán cô em thuộc về hạng sang giàu. Tại sao cô em ra chỗ mặt biển chưn trời nầy ở làm chi! Cô em có chồng hay không? Chồng ở đâu mà có thai lại đi bơ vơ như vầy? Gốc gác ở đâu? Không có cha mẹ bà con mà nương dựa hay sao?
- Thưa ông chú, để cháu tỏ thiệt tâm sự của cháu cho ông chú nghe. Cháu tên Thiên Hương, năm nay được 21 tuổi. Cháu là con nhà rân rát, cha mẹ còn đủ, ở tỉnh lỵ Mỹ Tho. Anh chị cháu người ở Sài Gòn, người ở Mỹ Tho, ai cũng có địa vị rực rỡ hết. Cháu là con út. Năm kia cháu còn ở học trên Sài Gòn, có một cậu sinh viên vốn con nhà quan ở Nhật Tảo, cậu kết tình với cháu, hứa hẹn trăm năm sống thác với nhau. Hai đứa thưa cho cha mẹ hay đặng bên trai đi nói và bên gái chịu gả. Không phải tại chê giàu nghèo, hay là chê tài đức, mà buộc hai cháu phải rời rã. Hai bên không chịu cưới gả chỉ vì sự không đồng tôn giáo mà thôi. Hai cháu bực tức quá, nghĩ vì vợ chồng khác đạo thì ai thờ đạo nấy, can hệ gì đến tình yêu mà cản trở. Hai cháu năn nỉ hết sức mà không được nên năm ngoái cả hai đều ly gia đình, dắt nhau lên Nam Vang kiếm việc làm mà chung sống với nhau, ngoài quyền ưng thuận của cha mẹ Hai bên. Trót
hơn một năm vợ chồng cháu đều có việc làm hết, số lương dư dùng, nên sống cùng nhau trong một cảnh đời thân yêu, khắng khít, đầm ấm, thảnh thơi. Không biết tại hai cháu chống với gia đình, nghịch với phong hóa, nên Trời phạt hay sao mà hôm tháng trước chồng cháu bịnh sơ sài có mấy bữa rồi chết, bỏ cháu ở lại bơ vơ một mình nơi đất khách. Cháu muốn tự vận chết theo chồng cho tròn chung thủy, ngặt cháu đương mang thai, bào thai là di tích tình yêu của chồng cháu, nên cháu phải gượng gạo mà sống đặng duy trì dấu tích ấy. Cháu tính trở về xứ sở, xuống tới Châu Đốc, đạp chưn lên đất nước của tổ tiên sao lòng cháu bồi hồi hết muốn về Mỹ Tho, Sài Gòn nữa. Mẹ cha, anh chị đều từ cháu hết, nói cháu làm nhục nhã cho tông môn, không còn thương yêu gì nữa mà về. Cháu mới quay vô Hà Tiên tính kiếm chỗ kín đáo, hẻo lánh mà vùi lấp tấm thân nhơ nhuốc với cảnh đời hư hỏng. Vô Hà Tiên thấy hòn Phú Quốc, lại sẵn có ghe qua bán nước mắm sắp về hòn, cháu mới xin quá giang mà ra đây.
- Té ra cô em cũng là một nạn nhơn của ái tình như con Lê của tôi đây vậy. Người đồng bịnh đồng thuyền thì phải thương nhau, giúp nhau, kết tình chị em với nhau mà sống cho đỡ khổ. Đời là cảnh tạm, con người là kép hát của Trời. Mỗi người đều lãnh một vai tuồng mà nhảy múa một hồi rồi nghỉ, bởi vậy chẳng có chi mà phải buồn, cùng chẳng có chi đáng vui mừng. Nếu cô em muốn ở đây thì cứ việc ở. Nhưng cái chòi của chú cháu tôi thì lúm túm bẩn chật quá, không có đồ đạc chi hết, sợ cô em không quen chịu cực, cô em ở không nổi.
- Thưa, nếu ông chú cho cháu ở đây thì cháu kiếm người mướn cất thêm một cái chòi nữa đặng ở cho rộng.
- Ở ngoài chợ ai cũng chuyên nghề đánh cá nuôi sống, không có người làm mướn, làm thuê như trong xứ mình, bởi vậy cất chòi không phải dễ. Như cô em tính cất chòi mà ở riêng thì đất còn rộng minh mông, lựa chỗ mà cất, muốn ở phía bên nây hay là mé bên kia suối tùy ý.
- Thưa, không. Cháu muốn cất sát một bên đây đặng ở chung, ăn chung với nhau cho tiện.
- Cũng được. mà cất chòi thêm thì phải đốn cây, cắt tranh, công phu cả tháng mới rồi. Trong lúc chờ đợi, cô em với hai đứa tùy tùng kia phải ở đỡ trong chòi nầy.
- Thưa, đứa con trai ở ngoài chợ cháu mướn nó dắt đường cho cháu đi, chớ không phải nó ở với cháu. Cháu có đứa con gái đó mà thôi. Nó mồ côi cha mẹ, nó ở với cháu từ hồi 11 tuổi tới giờ, nó mến cháu nên cháu đi đâu nó cũng theo giúp tay chưn cho cháu.
- Ở với nhau ban ngày mấy người ở cũng được, trưa nắng thì vô rừng phía sau đây nằm chơi mát lắm. Còn ăn cơm thì dọn dưới đất hoặc dưới bóng cây mà ăn với nhau cũng xong. Ngặt mùa mưa tới rồi, lại ban đêm phải có chỗ mà ngủ, tôi chỉ có một cái chõng đó, để cho mẹ con con Lê ngủ. Cô em chen ngủ với mẹ con nó được. Phận tôi thì tôi có cái nóp, nằm ngoài sân hay trên đá, chỗ nào cũng xong. Có con cháu nhỏ kia, nó phải ngủ dưới đất, mà phải có manh đệm hay chiếc chiếu cho nó nằm, vậy để tôi đi liền ra chợ mua chiếu, đệm và mua thêm chén bát ít cái cho đủ đồ mà ăn ngủ.
- Ông chú đã cho cháu ở lại còn lo bề ăn ngủ cho cháu, thiệt cháu cảm xúc vô cùng. Ông chú đã dạy Hai cháu kết nghĩa chị em đặng nâng đỡ nhau. Vậy cháu xin ông chú coi cháu cũng như ruột trong nhà và cho phép cháu kêu bằng chú như chị Lê vậy.
- Được. Mà sớm mơi nầy cháu có ăn cơm rồi hay chưa! Như cháu chưa ăn thì con Lê nấu cho mà ăn.
- Thưa, hồi sáng ở dưới ghe cháu nấu cơm ăn no rồi cháu mới đi đây.
- Vậy để tôi đi chợ một chút rồi về đặng chiều tưới bắp.
Hai Cường bước lại đầu cái chõng mở giỏ lấy bạc lận vào lưng quần và lấy một cái áo vắt lên vai sửa sọan đi. Cô Thiên Hương xin ông chú chờ Hai đứa nhỏ đi với ông. Cô kêu Hai đứa biểu xách đồ đem vô để dưới cái chõng. Cô móc túi lấy bạc ra mà đưa một đồng cho thằng nhỏ dắt đường. Cô cám ơn nó và biểu nó theo ông Hai Cường mà về. Cô lại kêu con nhỏ tùy tùng đã được 15 tuổi tên con Diệp mà đưa cho nó 30 đồng bạc biểu nó đi theo ông Hai ra chợ rồi
cậy ông dắt chỉ cho nó biết chỗ nào bán thứ gì, đặng sau có sai nó đi mua đồ thì nó khỏi thất công tìm kiếm. Còn bữa nay thì mua liền vài chiếc chiếu đặng trải mà ngủ, mua tộ, chén, đũa, muỗng, mỗi thứ ít cái để ăn cơm, mua một cái thúng mà đựng, mua khô, mắm, mỗi thứ một mớ, và mua luôn mười lít gạo để dành mà ăn.
Cô Lê nói ở nhà còn gạo nhiều. Cô Thiên Hương biểu cứ mua thêm để dành cho khỏi lo thiếu hụt. Cô Thiên Hương dặn dò xong rồi, Hai Cường mới đi với Hai đứa nhỏ.
Em nhỏ Xuân Sơn thức dậy đòi bú, cô Lê bồng con lại ngồi trên viên đá dựa cửa chòi mà cho bú.
Cô Thiên Hương ngồi ngó hai mẹ con, thấy cô Lê tuy mặc vải lam lũ, song nước da trắng nõn, gương mặt tươi cười, cặp mắt sáng ngời, hai môi ửng đỏ, bàn tay dịu nhỉu, bàn chưn no tròn. Cô có một vẻ đẹp thiên nhiên, đẹp đẽ mà hiền lành, chớ không phải đẹp theo vẻ lả lơi khêu gợi. Còn em nhỏ mới được Hai tháng mà bậm trợn, cứng quành, tay chưn no tròn, biết cười, biết liếc, cô bước lại ngồi chồm hổm dựa bên cô Lê, tay nắm tay em nhỏ, miệng hỏi thăm gốc gác cô Lê ở đâu, chồng cô bây giờ làm việc chi, tại sao cô ra hòn mà ẩn trú.
Cô Lê nghĩ chị em thiệt tình, hồi nãy bạn đã kể hết tâm sự cho mình nghe, vậy mình không phép giấu giếm. Cô mới nói cô vốn con nhà bình dân ở Sài Gòn, cha đi giấy tờ cho một hãng buôn, mẹ bán rau cải tại chợ Bến Thành, anh làm tài xế cho xe đò chạy đường Tây Ninh, hai đứa em còn đi học. Cô làm thợ phụ trong một tiệm may ở phía sau chợ. Một cậu thanh niện, con nhà giàu sang ở Cầu Kho, cậu mới thi đậu vào làm việc trong một sở lớn của nhà nước. Một đêm cô đi coi hát ngồi nhằm cái ghế khít bên cậu. Hai người nói chuyện làm quen với nhau rồi chừng vãn hát, cậu mời cô đi ăn mì, lời qua tiếng lại gây tình với nhau. Hẹn hò gặp nhau được vài lần, cậu biếu cho cô một đôi bông tai với một chiêc cà rá, tình nghĩa đã gắn chặt, không còn sụt sè, ái ngại gì nữa. Cách một tháng, cậu lại đưa một trăm đồng bạc, biểu mua hàng may quần áo mà bận cho tử tế. Gần gũi với nhau được nửa năm, cô biết cô đã đậu thai. Cô thỏ thẻ nói thiệt cho cậu hay. Không mừng mà hỏi thăm thì người ta nói cậu sắp cuới vơ, cưới một cô gái con nhà phú thương trong Chơ
Lớn. Cô hỡi ôi, biết người ta dụ dỗ mình cho thỏa mãn dục vọng rồi hất bỏ chớ không có tình nghĩa gì! Cô tủi nhục phát đau. Bụng mỗi ngày một thêm lớn. Cha mẹ trách con làm nhục nhã nên đánh đuổi không chứa ở trong nhà nữa. Bà con than tộc chỉ có chú Hai Cường, lúc đó chú làm công bên bến tàu, không có vợ con, chú ở trong một chòi lá bên Xóm Chiếu. Cô qua kiếm chú, khóc nói cha mẹ đuổi nên xin phép chú cho đùm đậu ít ngày.
Chú dắt về nhà, chú nói cha mẹ không thương thì cứ ở với chú, coi nhà nấu cơm cho chú ăn để chú đi làm chú nuôi. Đến tối chú mới gạn hỏi tại sao mà cha mẹ đuổi. Cô thuật tâm sự cho chú nghe. Chú nổi giận. chú trách anh chú mù quáng, người ta dụ dỗ làm hư hỏng đời xuân xanh của con gái mình, đã không dám trừng phạt trai bất nghĩa mà lại trở khó khắc với con mình khờ dại. Chú hỏi tên họ, nhà cửa và sở làm của cậu thanh niên đó, rồi cách Hai bữa sau chú bỏ sở đi kiếm cậu mà tính sổ. Bộ chú hầm hừ lắm. Chú đi luôn trót ba bốn bữa, ngày nào cũng đi. Rồi chú kêu người ta mà bán cái chòi, chú nói có người rủ ra hòn Phú Quốc ở phá rừng, lập vườn mà làm ăn. Chú biểu cô đi theo cho chú làm chú nuôi. Cô hỏi không có bạc tiền, chú đưa cô một ngàn biểu cô giữ cho chú rồi chú cháu thâu xếp áo quần dắt nhau xuống Rạch Giá kiếm ghe bán nước mắm quá giang mà ra hòn.
Cô Lê nói ở chỗ hẻo lánh, lại không có bà con với ai, bởi vậy chú cháu phải tiện tặn không dám mua sắm đồ đạc trong nhà, chớ cô cũng còn được tám chín trăm để dành hộ thân. Cô Thiên Hương tỏ thiệt cô có trong mình hơn Hai ngàn, lại còn nữ trang cũng đáng bạc ngàn nữa. vậy để cất chòi xong rồi kiếm mua vài bộ ván để nằm ngồi, mua đồ cần thiết cho có mà dùng, vì tiền bạc của Hai chị em nhập lại thành số nhiều, không nên hà tiện quá mà phải chịu cực khổ.
Hai cô bàn tính đã kết nghĩa chị em thì không nên kêu nhau bằng cô nữa nghe lạt lẽo lắm, phải một người làm chị, một người làm em. Hai cô cứ nhượng nhau, không ai chịu lãnh vai chị, mới định ai lớn tuổi hơn phải làm chị. Cô Thiên Hương 21 tuổi, còn cô Lê tuy có con
trước, song cô mới 20 tuổi, nên Thiên Hương phải làm chị, không từ chối nữa được.
Em nhỏ bú no, ngủ mê rồi, cô Lê đem để em trên chõng, đắp mền tử tế rồi dắt cô Thiên Hương ra ngoài xem địa thế chơi.
Cô Thiên Hương chỉ chỗ cô tỏ ý muốn cất thêm một cái chòi nữa khít một bên chòi cũ có cửa thông qua làm như một cái nhà Hai căn cho rộng mà ở với nhau. Phía sau che một cái trại để nấu ăn, cô sẽ nói với chú Hai kiếm người ướn phụ đốn cây, cắt tranh, mà cất cho mau rồi, vì mùa nầy mà ở chật, rủi có mưa đêm thì cực lắm. Theo ý cô thì ban đầu phải rán chịu tốn tiền đặng gây cuộc ăn ở khoảng khoát sạch sẽ hợp vệ sinh, được tiện nghi một chút ở mới lâu dài khỏi bịnh họan.
Cô Lê nói ở đây có nhiều phương tiện: tránh khỏi đường người ta qua lại nên an tịnh ấm êm, trảng đủ đất mà trồng trọt những đồ cần dùng nuôi sống, giữa trảng có suối chảy ngang, mùa nắng cũng có nước mà dùng, mùa mưa nhờ nước suối tuôn ra rạch lẹ nên khỏi ngập; không xa chợ lắm, nên mua gạo muối rất dễ, cũng không xa mé biển, nên rảnh đi câu cá đủ ăn; trên chưn núi phía trên kia đồi có chùa lại có một bà vãi biết giúp sanh, bà có giúp cho Lê rồi, chừng tới phiên Thiên Hương thì cũng sẽ cậy bà giúp nữa; lại thêm có sư huynh Anh Viên thích chú Hai, hễ có dịp xuống phía nầy huynh Anh Viên ghé mà giảng dạy cách ở đời thanh cao, an ủi đặng phá tan phiền não mà vui sống với cảnh đời thiên nhiên tiêu diêu tự tọai, tự túc.
Dắt nhau đi xem mấy giồng khoai rồi tới đám bắp mới bỏ hột hồi sớm mơi, cô Thiên Hương thấy suối nước trong cô lấy làm vui lòng.
Cô Lê cắt nghĩa năm ngoái đến đây chú cháu cô mắc lo cất chòi mà ở, chừng xong rồi đã gần hết mùa mưa, nên chưa trồng tỉa thứ gì kịp. Trong mùa nắng, chú cô đi câu kiếm cá ăn và kiếm nài bắp giống, dây khoai cho sẵn, nên hôm sau mưa mới có mà trồng đó. Chú tính lần lần chú kiếm dừa ương mà trồng dài theo Hai bên mé suối. Phía bên nầy sẽ trồng một vạt đu đủ và một vạt chuối. Còn phía bên kia suối, chú sẽ gây cho thành một rẫy khóm và thơm, có
xoài, mít, chen lộn. Trên đồi phía trong, chú sẽ lập một vườn tiêu nho nhỏ. Chú lạc quan lắm, chú chắc trong năm năm nữa vườn chú sẽ có huê lời giúp cho mình sống một cách trưởng giả, hết sợ đói rách, khỏi cần đầu lụy ai. Cô Thiên Hương nghe bạn tả cảnh tương lai an nhàn hứa hẹn như vậy thì cô mê, nên quên buồn rầu, chắc tai họa đã qua và hạnh phúc sắp tới.
Hai cô đương đứng trò chuyện kế thấy chú Hai Cường với con Diệp đi chợ về, con nhỏ bưng thúng kè kè, còn vai vác chiếu với đệm, tay xách cá. Hai cô đi riết vô chòi. Chú Hai vui vẻ nói: „chú dắt con Diệp giáp chợ hết, chỉ chỗ nào thứ nào cho nó biết. Đồ của cháu Thiên Hương dặn thì mua đủ hết, có mua một đôi chiếu để ngủ với một chiếc đệm để trải ngồi ăn cơm. Con nhỏ bất nhơn quá, mua thứ gì nó cũng giành trả tiền, làm phận chú mua được có một cái lon để uống nước, một ve nước mắm với vài con cá để chiều kho cho cháu Thiên Hương ăn, sợ không quen ăn khô, ăn mắm, ăn cơm không no. Thiên Hương nói ở đây được với chú Hai và em Lê thì dầu ăn cơm với muối, cô ăn cũng ngon. Lê đem cá đi cạo rửa kho liền, sợ để lâu cá ươn.
Thiên Hương với con Diệp sắp đồ trong thúng ra cất. Hai Cường dẹp đệm chiếu mới mua rồi cởi áo, xách thùng đi xuống suối múc nước tưới bắp. Thiên Hương đi theo chú thuật chuyện cô tính cất nhà với cô Lê hồi trưa cho chú nghe và khuyên chú mướn người phụ làm cho mau đừng sợ tốn tiền. Hai Cường nói: "Cháu đừng lo gì hết, để đó cho chú. Sang mai sẽ làm liền".
3. CHUNG NUÔI HAI TRẺ
Thiên Hương sanh trong nhà có cơm tiền. Từ khi mới lọt lòng, cô luôn luôn sống trong cảnh đời trưởng giả, ăn ngon, ngủ ấm, chưn giày, chưn dép, áo lụa, quần hàng. Lớn lên thì cô đi học, hoặc đi chơi, y phục có thợ vá may, cơm nước có bếp nấu nướng. Hễ ra khỏi cửa thì có sẵn xe cho cô đi, muốn ăn xài thì có sẵn bạc tiền của cha mẹ, bởi vậy cô chẳng hề phải lo lắng về việc chi tiết.
Từ năm ngoái, Thiên Hương nghe tiếng gọi của trái tim, cô bỏ mẹ cha, quên sung sướng, theo người yêu đến xứ lạ rồi tự do lập gia đình để chung sống với nhau trong hạnh phúc ái tình, không màng lợi danh, không kể gia giáo, có khi cô phải cực xác chút đỉnh, có lúc cô phải bận lòng về bạc tiền nhưng vẫn có người chồng yêu trong nhà hăng hái đởm đương với khó khăn, nhỏ to an ủi không muốn để cho cô phải hồi tâm mà hối hận, bởi vậy cô chưa từng thấy nỗi khổ của đời cho lắm.
Hôm nay lượn sóng trần ai xô đẩy cô Thiên Hương đến đây, dầu muốn dầu không cô cũng phải ép lòng ma sống với cảnh đời bần hàn, bẩn thỉu, cũng như chú cháu cô Lê. Cô nghĩ trên đường đời có khúc khó. Gặp khó thì phải chịu khó, chớ không lẽ ngồi đó mà khóc. Huống chi cô Lê cũng lỡ bước, nên gặp khó như cô mà cô Lê vẫn vui vẻ mà nuôi con, không buồn, không than, thế thì cô nên bắt chước làm như cô Lê, chẳng cần phải buồn rầu than khóc. Giữa cơn sóng gió chơi vơi, may chiếc thuyền của cô nhờ Trời được vào ụ êm ấm, lại gặp đồng bịnh nên thương yêu. Vậy không được sống với tình yêu vợ chồng, thì sống với tình yêu chị em có lẽ không khổ lắm.
Nghĩ như vậy rồi Thiên Hương dẹp giày, bỏ guốc đi chưn không như Lê. Ngặt áo quần cô không có đồ vải, nên cô phải mặc đồ mát bằng hàng lụa, song cô đã tính bữa nào con Diệp có đi chợ, cô sẽ dặn nó mua vải rồi cậy Lê cắt may giùm cho cô bận.
Lê biết Thiên Hương là con nhà giàu, lại có học thức, thuở nay chưa từng cực khổ như hạng bình dân, nên Lê lo hết mọi việc trong nhà, không để cho Thiên Hương chịu cực. Nhưng Thiên Hương quyết
chia sớt đắng cay với bạn, nên cô không chịu ngồi không. Lê bận việc thì cô bồng em giùm, đến bữa ăn, nếu em ngủ thì cô cũng vô bếp phụ với Diệp mà chụm lửa.
Chú Hai Cường quen tánh cần kiệm, nên sáng bữa sau ăn cơm rồi chú vác búa vô rừng đốn cây đặng cất nhà thêm. Thiên Hương cứ nài nỉ chú kiếm mướn vài người phụ mà làm cho mau rồi. Cô nói cô đủ tiền mà chịu tốn, không hết đâu mà sợ. Lại mùa mưa đã tới rồi, nên cần phải có chỗ rộng rãi gấp đặng ăn ngủ cho khỏi bị giọt mưa ướt át. Thiên Hương cứ thôi thúc mướn người làm, cô Lê cũng đồng ý, nên Hai Cường mới chịu kiếm mướn một người phụ với chú mà làm. Thiên Hương rảnh rang lại muốn ra vô cho xốc xáo, cứ đeo theo công cuộc cất chòi, tỏ ý muốn cất tiếp phía nầy, muốn trổ cửa mé nọ, muốn cất riêng bếp để nấu ăn. Cô yêu cầu chớ không phải ép buộc, nhưng cô nói với giọng thanh nhã, cô tỏ ý nào cũng hợp lý, bởi vậy Hai Cường không cãi, chăm nom làm cho cô vui lòng.
Cây lớn, cây nhỏ trong rừng chung quanh không thiếu gì, rẫy tranh ở cách đó không xa lắm, lại có tới hai người làm, mà người nào cũng sốt sắng bởi vậy trong nửa tháng thì cái nhà đã lợp hoàn thành, phía sau có mái nấu ăn riêng theo như ý Thiên Hương muốn.
Hai Cường cho người làm phụ hổm nay đó lãnh tiền công rồi nghỉ, để vách một mình chú dừng được. Chú phá tấm vách giáp chòi mới mà dừng qua phía bên kia, làm vách phía sau chừa cửa ra bếp, rồi dừng vách và làm cửa phía trước nữa. Chưa tới một tháng thì công việc đã xong xuôi hết. Hai cái chòi tiếp nhau bây giờ biến thành một cái nhà chung cho bốn người ở rộng rãi khoảng khoát. Hai cô đứng ngoài mà nhắm, thảy đều vui lòng, mà Hai Cường thấy Hai cháu được vui, chú cũng đắc chí.
Thiên Hương đưa tiền bạc cho Hai Cường cậy ra chợ kiếm mua ba bộ ván nho nhỏ để lót ban ngày ăn cơm và ngồi chơi, ban đêm nằm ngủ, dầu có mưa dầm cũng khỏi lo ướt.
Hai Cường cản:
- Con xài lớn quá như vậy không được. Có tiền phải để dành phòng hờ chớ. Phong vân mạc trắc, lại ở đây tứ cố vô thân, chú mạnh giỏi
chẳng nói làm chi, rủi chú ương yếu, hoặc chú chết rồi, còn ai mà cậy nhờ. Hai con phải đi xin ăn hoặc phải chịu chết đói hay sao?
- Con chắc chú không chết đâu. Chú cũng như cây của Trời trồng sẵn để che tàn cho hai con núp bong mát mà sống. Hai con đồng bị họan nạn, trời thương nên em Lê trước, rồi con sau, Trời mới khiến gặp chú đặng nhờ chú che chở. Trời có ghét Hai con đâu mà xô cây đa trốc gốc cho hai con phải chịu nắng chịu mưa, chú cứ đi kiếm mua ba bộ ván đi, một bộ cho mẹ con em Lê ngủ, một bộ con ngủ với con Diệp, còn một bộ chú ngủ. Con còn tiền mà, xin chú đừng lo. Bề nào cũng để dành một số đặng hộ thân, con không dám làm tiêu hết đâu. Tổ chức một cuộc ăn ở mãn đời, phải sắm đồ đạc cần thếit đặng có tiện nghi chút đỉnh.
Cô Lê tiếp đốc vô nữa, Hai Cường mới chịu lấy tiền đó mà đi mua ván.
May lúc đó có tàu Hải Nam của khách trú chở ván thông dưới Hạ Châu đem qua bán. Ván thông dài gần Hai thước, nhưng bề ngang có một gang mà thôi. Một bộ tám tấm có cặp chưn chắc chắn mà hồi đó họ bán giá có 8 đồng. Cây thông tuy dày mà nhẹ. Nhà nghèo thường mua dùng cho đỡ tốn. Họ lại có bán chiếu gọi là chiếu tàu, dày dặn chắc chắn, mỗi chiếc giá gần cắc bạc. Hai Cường gặp dịp như vậy mà vì chú sợ hao tiền nên chú mua có Hai bộ ván thông với Hai chiếc chiếu mà thôi. Chú đem ván để dựng dựa gốc cây trên mé biển rồi vác từ mớ đem về.
Lê và Thiên Hương nói ván với chiếu ngộ quá mà giá lại rẻ, nên ép buộc chú phải mua thêm một bộ nữa, và sai con Diệp đi theo phụ vác. Chú nói Hai bộ đủ cho Hai cô ngủ mà thôi, phận chú thì chú chặt cây đóng nống làm vạt mà ngủ cũng được, không cần phải có ván.
Thiên Hương đưa tiền biểu con Diệp cứ đi mua với chú thêm một bộ ván nữa mà vác về. Bây giờ nhà rộng rãi, sạch sẽ, lại có được ba bộ ván thông nên coi được quá.
Cách vài bữa sau, sư huynh trên am An Viên có dịp đi xuống phía chợ. Năm ngoái, sư chỉ giùm chỗ nầy cho Hai Cường biết và khuyên
chú vô đó ở đặng sống với thú rừng núi thiên nhiên mà dưỡng tinh, khí, thần khỏi bị trần tục làm trái tai chướng mắt. Cách ít tháng, sư ghé thấy chú cháu Hai Cường cất chòi ở rồi, coi bộ lạc thiên an mạng thì sư lấy làm hài lòng. Hôm nay sư ghé nữa, gặp lại Hai Cường đương lui cui ban đất cho bằng thẳng dưới gốc một cây lớn, nhánh lá sum sê, sư hỏi muốn làm việc gì đây. Cường nói dọn chỗ để đêm trăng nằm đón gió chào mây, vui với thú an nhàn thanh tịnh, sư gặc đầu nói: "Trúng điệu", rồi sư ngó quanh thấy chòi đã nở ra lớn hơn, lại trước chòi có cả chục giồng khoai bò mạnh mẽ và gần mé suối có đám bắp tươi tốt lên cao khỏi đầu gối rồi.
Hai Cường mời sư vô nhà. Lê đương cho em nhỏ bú, còn Thiên Hương nằm chơi một bên, Hai cô đồng đứng dậy chào khách. Sư chỉ cô Lê mà hỏi phải cô nầy sư đã thấy hồi năm ngoái và đứa nhỏ cô mới sanh đó hay không. Cường nói phải và mời sư ngồi trên bộ ván thông mới. Sư nhìn em một chút rồi nói: „Tốt lắm, nếu lớn lên em biết ham hạnh phúc thiên nhiên thì hạnh phúc sẽ lan rộng cho mọi người đều được vui hưởng".
Sư chỉ Thiên Hương mà hỏi còn cô nầy sao lần trước sư ghé sao không thấy, mà bây giờ lại có cô ở đây. Hai Cường nói: cô Thiên Hương đây gốc cũng ở trong đất liền. Vì chồng chết cô không có nơi nương dựa, nên cô tìm nơi hẻo lánh, thanh tịnh mà ẩn dật để thủ tiết dưỡng tánh. Đến đây cô thích cảnh nên xin kết nghĩa chị em với cháu tôi và chung sống cùng nhau cho có bạn. Tôi vui long mà cho cô ở đây đã hơn một tháng rồi. Tôi xem cô cũng như con cháu của tôi vậy".
Sư huynh nói: „Tốt lắm. Ở đời có hạng người ham lợi danh đặng lòe loẹt nên bay nhảy tranh đua, có hạng người lo cho đời tương lai không kể đời hiện tại, nên chăm chú tu nhơn, tích đức, mà cũng có hạng người thể theo tri ý của Tạo Hóa tìm sống với cảnh đời thiên nhiên như cây trong rừng, như đá trên núi, không ham tranh giành, không cần phước đức, cứ vui thuận thiên an mạng cho nhẹ lòng khỏe trí mà sống dai. Cả ba quan niệm đó đều có tín đồ đông đảo cho cả ba. Sở dĩ có ba đường lối khác nhau là tại con người không đồng ý mà quan niệm về hạnh phúc. Và hạnh phúc có Hai thứ: một
thứ hạnh phúc thiên nhiên của Trời sắp đặt sẵn cho mình hưởng và một thứ hạnh phúc nhơn tạo của con người tự gây lấy mà hưởng. Hạnh phúc thiên nhiên khỏi bị giành giựt mà lại được bền vững đời đời, còn hạnh phúc nhơn tạo thì phải cạnh tranh chen lấn, có khi phải nát thân xủ tiết mà gây ra cũng không được, mà dầu có được, cũng không hưởng được mấy ngày rồi tan rã. Vậy mấy chú cháu biết chọn hạnh phúc thiên nhiên mà hưởng, thiệt đáng khen".
Sư huynh nói mấy lời rồi cáo từ đứng dậy chống gậy mà về núi.
Cô Thiên Hương có học thức, cô hiểu ý của sư huynh ít nhiều nên cô chúm chím cười. Nhưng cô là người đi ra ngoài vòng luân lý gia đình nên cô bị tai họa rồi cô phải kiếm chỗ hẻo lánh mà ẩn thân cho an ổn mà nuôi con cô sắp sanh; chớ cô không ham danh lợi, không mong phước đức, mà cũng không dám nghĩ tới hạnh phúc nữa, bởi vậy cô không quan tâm đến lời giảng dạy của sư huynh An Viên cho lắm.
Nhưng sư đi rồi, Thiên Hương bèn than với chú rằng khách tử tế đến thăm, mà nhà mình không có chỗ tử tế mời khách ngồi cho xứng đáng. Vậy ý cô muốn chú kiếm mua một cái bàn với bốn cái ghế bằng cây dầu để giữa nhà cho bà con mình ăn cơm, rồi có khách mình mời người ta ngồi đó coi mới được. Nếu họ có bán tủ xấu xấu cũng nên mua về cất quần áo với vài vật cho kín đáo.
Hai Cường nói mình sống cho mình không phải mình sống cho thiên hạ. Mình cất nhà mình ở cho khỏi nắng mưa, chớ không phải cất nhà cho thiên hạ xem. Mình đã quyết sống với tình nghĩa thân yêu ở trong, không thèm kể hình thức bề ngoài. Nếu có khách nào ghé mình tiếp dưới tàn cây hoặc trên mé suối cũng được, cần gì phải có nhà cửa đàng hoàng, có đồ đạc tử tế.
Hai Cường không chịu mua thứ gì hết. Cách ít bữa chú đi chợ mua cá mà ăn, chú vác về một cái lu bể. Cô Lê hỏi chú mua làm chi. Chú nói chú thấy họ bỏ cái lu bể ngoài sân chú hỏi mua. Họ bỏ chớ không bán. Họ nói chú có dùng được thì họ cho. Tại vậy nên chú vác về đặng để trong suối, chỗ dưới dốc, đầu dưới thọc vô lu cho
nước chảy vô đó mà chứa. Làm như vậy qua mùa nắng dầu suối cạn mình cũng có nước mà tắm rửa và tưới đồ luôn luôn.
Hai cô lắc đầu nhìn nhau mà cười, không dám nhắc chuyện mua bàn, mua tủ nữa.
Từ đó trong nhà bốn người sống với nhau trong bầu không khí thân yêu, tận tụy, vui vẻ, thảnh thơi. Hai Cường đi kiếm chuối con xin về mà trồng, kiếm dừa mà ương, kiếm hột đu đủ mà gieo, kiếm đầu thơm mà giâm. Bữa nào không có đồ mà trồng thì chú đào trùn rồi vác cần câu đặng kiếm cá ăn trở bữa. Con Diệp trưa rảnh nó cũng theo chú mà tập câu. Thấy cá nhiều nó ham quá, nên bữa nào chú Cường mắc trồng không đi được thì nó đi một mình, thành thử khỏi mua cá nữa, lâu lâu mua gạo, muối, mỡ, dầu lửa, nước mắm mà thôi.
Hai cô thấy Diệp tận tâm thì thương như em ruột, còn Hai Cường đãi nó như con cháu, bởi vậy đến bữa cơm dọn rồi nó cũng ngồi ăn chung một lượt. Cường nói hễ sống chung đã chia cực thì phải chung sướng không nên phân giai cấp.
Qua nửa tháng năm, Thiên Hương âm ỷ chuyển bụng, chắc tới ngày sanh. Hai Cường tuốt lên chùa rước bà vãi thạo việc đẻ chửa xuống giúp giùm. Thiên Hương sanh được một đứa con gái, cô mừng, nhưng nhìn con rồi cô nhớ chồng, tủi cho phận con ra đời không thấy mặt cha nên cô khóc.
Cô Lê chăm nom em nhỏ và cô xẩn bẩn theo an ủi bạn, cô nói rằng Xuân Sơn của cô cũng không có cha, nhưng Hai đứa nhỏ có hai mẹ, thế thì về sự thương yêu hai đứa nó sẽ được bù trừ chớ không thiếu. Hai cô bàn tính với nhau rồi định đặt cho em nhỏ tên Thu Thủy, mặc dầu em sanh còn mùa hè chớ chưa qua mùa thu.
Cô Lê tận tâm săn sóc ít ngày, mẹ con Thiên Hương cứng cát, mẹ hết buồn, con đủ sữa, nên đầy một tháng rồi Thiên Hương khỏe mạnh ra vô như thường, còn Thu Thủy hễ bú no thì nằm ngủ phê phê, một lát mụ bà dạy nên nhếch miệng cười, rất có duyên, làm cho hai cô vui hết sức.
Hai cô chuyền nhau mà bồng em, vạch tai, vạch mặt, nắm tay, nắm chưn mà xem, đồng mừng em tay chưn dịu dàng, gương mặt tươi tốt, chắc chừng lớn em sẽ có sắc đẹp diễm kiều không thua gái nào hết.
Cô Lê nói: „Em sanh con trai, mà em có Thu Thủy thì cũng như có đủ con gái, con trai". Thiên Hương nói: „Chị không sanh được con trai mà chị có Xuân Sơn thì sau chị cũng được nhờ vậy".
Với trí ý như vậy, tự nhiên hai cô yêu hai trẻ đồng nhau, xem Hai trẻ là con chung, tuy hai mẹ song cũng như một, không phân biệt con chị hay con em gì hết.
Có khi Thiên Hương ngủ quên mà Thu Thủy khát sữa đòi bú thì cô Lê bồng cho bú thế, để chị ngủ luôn.
Có khi cô Lê mắc nấu cơm hay đi ra ngoài Xuân Sơn đòi bú thì Thiên Hương bồng mà cho bú như con của mình. Hai trẻ ngủ hết thì thường để nằm khít một bên nhau. Xuân Sơn lớn hơn Thu Thủy tới bốn năm tháng, nó biết giỡn, biết cười, chịu bồng ngồi. Hễ nó thấy Thu Thủy thì nó vui cười, chờn vờn muốn níu, và lăng líu như muốn nói chuyện.
Xuân Sơn với Thu Thủy giúp gây cảnh vui thêm trong nhà bởi vậy Hai Cường với con Diệp càng thêm sốt sắng, tận tụy, để tạo hạnh phúc thiên nhiên mà chung hưởng với nhau. Thiên Hương với cô Lê cũng hết buồn tình, tủi phận, vì thấy đời sống của mình đã có mục đích, sống đặng nuôi dạy con, và thấy tương lai đã có nhiều hứa hẹn, chắc ngày già có con gái săn sóc, có con trai đi làm mà nuôi, không đến nỗi quạnh hiu, cực khổ.
4. TÌNH YẾU THƠ NGÂY
Cảnh thú cũng như nhơn vật trong cái trảng nầy đã biến đổi bộn bộn.
Cái suối cũng vẫn tuôn nước trên nguồn xuống trong veo. Rừng bao chung quanh cũng vẫn im lìm tịch mịch. Mấy đảnh núi xa xa cũng vẫn lố nhố xanh rì. Mé biển cũng vẫn còn nhiều cá để giúp cho con người sống.
Nhưng mà nhờ sức của chú Hai Cường còn đầy đủ, lại thêm sức con Diệp nay nó đã lớn rồi, bởi vậy mé suối bên nầy đã trồng tỉa giáp hết. Gần nhà thì rau cải, xa xa một chút khoai, bắp, đậu, cà, rồi tới đu đủ và mít. Gần sát mé rừng thì chuối trồng nhiều giống, mỗi năm cứ bứng con mà trồng thêm ra hoài. Dọc theo mé suối mỗi bên đã có vài ba cây dừa, đã lên cao khỏi đầu, cây nào cũng mạnh mẽ.
Vạt đất phía bên kia suối đã có được ít cây xoài mới lên được chừng một thước, nhưng có một đám thơm nho nhỏ đã bắt đầu ra trái rồi.
Còn ở trên đồi thì đã gây ra được bốn nọc tiêu. Hai Cường tính thủng thẳng gây thêm cho giáp hết cái đồi, thì huê lợi lớn lắm, cung cấp cơm gạo, áo quần cho gia đình dư dã.
Hiện giờ, năm ba bữa một lần, con Diệp đã có gánh chuối, đu đủ, bắp, khoai, bầu, mướp, xuống chợ mà bán rồi lấy tiền mua gạo, nước mắm, đem về ăn đã đỡ được nhiều rồi.
Trong nhà bây giờ đã có bàn, có ghế, có tủ cũng như ai. Hai Cường năm trước chống cự, chú muốn sống trong cảnh thiên nhiên, sống với màn trời, chiếu đất, mà vì thương con cháu, thấy con cháu ao ước hoài, chú động lòng nên lần lần chú phải mua sắm cho con cháu vui mà quên hết chuyện xưa đặng sống với đời mới.
Xuân Sơn cũng như Thu Thủy, năm nay cả Hai đều được 4 tuổi, sanh cách nhau có mấy tháng mà thôi, bởi vậy biết nói đủ, biết chạy
chơi khỏi ẵm bồng, lại chung quanh là rừng, không sợ ngựa xe, còn nước suối thì cạn chớ không phải sông rạch, nên cũng khỏi gìn giữ.
Xuân Sơn là trai nên mạnh mẽ, bậm trợn, còn Thu Thủy là gái nên yểu điệu, mỹ miều. Hai trẻ mặc bô vải, đi chưn không, theo nhau chơi tối ngày, hễ thấy Sơn thì có Thủy, mà thấy Thủy thì cũng tự nhiên có Sơn một bên; Sơn với Thủy không bao giờ rời nhau. Hai đứa trẻ được cả nhà tập nói từ khi mới biết nói tiếng một, nên bây giờ đồng kêu Hai Cường là ông ngọai, kêu Thiên Hương là má Hai, kêu Lê là má ba, kêu Diệp là dì Diệp.
Mối tình thơ ngây kêt chặt, lòng Hai trẻ dan díu nhau biểu lộ rõ ràng ai cũng thấy. Ví như Sơn mê moi cát chơi, chừng day lại mất Thủy thì bỏ chạy đi kiếm kêu gọi om sòm, cũng như Thủy đương chơi phía sau nhà mà Sơn bỏ đi ra phía trước thì Thủy lật đật chạy theo, không chịu rời nhau giây lát. Ăn cơm Hai trẻ ngồi khít một bên nhau chớ không chịu cách xa. Nằm ngủ hai trẻ cũng nằm chung nhau một ván, nằm đụng nhau, có khi thấy ôm nhau mà ngủ.
Sớm mơi với chiều trời mát, hai trẻ thường rủ nhau ra ngoài chơi, khi nắm tay nhau đứng coi ông ngọai cuốc đất trồng khoai, khi ngồi trên mé suối choàng tay cặp kè nhau mà ngó giọt nước chảy không ngừng, khi kề vai nhau đứng dòm trái đu đủ chín, khi Sơn ngồi dựa gốc cây lớn, duỗi chưn ra cho Thủy gối đầu nằm chơi.
Hễ trời mưa thì hai trẻ cởi quần áo ra sân tắm, giỡn với nhau. Bữa nào không có mưa thì con Diệp hoặc một bà mẹ phải dắt hai trẻ ra suối rồi cũng tuột hết quần áo cho trẻ và múc nước xối mà kỳ cho sạch.
Một bữa, ăn cơm sớm mơi rồi Hai Cường với Diệp đi câu. Xuân Sơn với Thu Thủy ngồi chơi với nhau trong bóng mát dựa bên hè. Lê nằm trong nhà nói chuyện với Thiên Hương.
Hai cô nhớ lời của sư An Viên nói cách mấy năm trước về hạnh phúc ở thế gian. Hai cô đều công nhận lời của sư luận thiệt là hạp lý. Con người phải sống với cảnh đời thiên nhiên, mới được thong thả, hạnh phúc, mới được hưởng hạnh phúc chơn chánh, hạnh
phúc của Tạo Hoá sắp đặt, nên khỏi ai giựt giành, khỏi ai giận ghét, mà lại được hưởng êm ấm mà lâu dài nữa.
Thiên Hương tuy cho lời của sư An Viên luận đúng, song cô lại nói: „Phận chị em mình là vậy đã đành, còn con của mình? Hai đứa nó có tâm hồn yểm thế, phẩn thời như chị em mình sao? Sợ e chúng mang đầu óc say mê danh lợi, mong muốn vui chơi, chúng nó có chịu hưởng cái hạnh phúc ấm êm mà buồn tẻ như mình vầy đâu em".
Nghe nhắc tới sắp nhỏ, cô Lê sực nhớ nãy giờ không nghe tiếng Hai đứa nhỏ chơi sau hè nữa, cô cất tiếng lên kêu. Không nghe trả lời.
Cô Thiên Hương lo sợ nên cô lật đật bước ra, để cho Lê kiếm chung quanh nhà, cô đi ngay xuống suối. Cô dòm hết không thấy.Ngó phía hàng đu đủ, cũng không có. Cô trở về nhà. Cô Lê nói đã kiếm khắp từ ngoài vô trong không gặp.
Hai cô điều tái mặt, mới dắt nhau lại đường mòn kiếm khắp từ ngoài vô trong không gặp. Hai cô điều tái mặt, mới dắt nhau lại đương mòn mà đi vô rừng. Cô Lê hăm hở đi trước, Thiên Hương đi sau. Ði được chừng 50 bước, hai cô chợt thấy dưới gốc một cây dầu lớn, tàn che mát rượi, lá khô rụng nằm lấp hết mặt đất, Xuân Sơn nằm ngửa sải tay. Thu Thủy gối đầu trên cánh tay Sơn, day mặt qua phía Sơn, gác một tay qua bụng Sơn, cả Hai điều ngủ hết.
Hai cô chưng hửng, nhìn nhau mà cười, rồi nhè nhẹ bước lại một chỗ mát khác cùng nhau ngồi coi chừng cho hai con ngủ thẳng giấc.
Thiên Hương nói: „Hai trẻ dan díu với nhau quá. Chừng chúng nó khôn lớn mình khó cưới vợ nào khác cho Sơn được, mà ép gả Thủy cho trai nào khác cũng không phải dể".
Cô Lê nói: „Em có ý tính chừng Hai đứa nó khôn lớn mình cho chúng nó làm vợ chồng với nhau cho xong, chớ gả cưới cho ai làm chi. Tuy chị em mình kết nghĩa với nhau, mình chung nuôi hai đứa, đứa nào chị cũng cho bú, đút cơm tắm rửa, em cũng vậy, cả hai đều là con chung của chị và của em, song chúng nó có phải là anh em một máu một thịt mà ra đâu nên sợ loạn luân phạm nghĩa. Chúng nó
dan díu với nhau từ lúc còn thơ ngây thì sau làm vợ chồng chúng nó đồng tình, đồng chí, đồng yêu nhau sẵn, chúng nó mới hòa thuận mà ăn ở với nhau trọn đời, đến chết cũng không chịu chia lìa. Em nghĩ ý của em đó tốt lắm chớ có hại chi mà ngại".
Thiên Hương nói: „Tốt lắm chớ, đâu có hại. Từ ngày chị sanh con Thu Thủy chị thấy nó là gái, thì chị đã có ý để sau nó làm vợ Xuân Sơn rồi. Nhưng Hai đứa nó là con nít, đường còn dài nói trước không nên, chị chưa dám hở môi chớ. Chị khuyên em có tính như vậy nên để bụng, phải cử đừng có nói trước cho ai biết, đợi hai đứa nó khôn lớn rồi sẽ hay, để mình dạy dỗ đã, chị dạy cho hai đứa biết chữ, biết khôn, em dạy riêng cho con Thu Thủy về việc nữ công, biết nấu cơm mà ăn, biết may áo mà bận".
Hai cô nói chuyện tới đó rồi thấy Thu Thủy cựa mình ngồi dậy. Nó kéo Xuân Sơn cũng ngồi dậy nữa. Hai cô mới đi lại đó. Hai đứa nhỏ thấy đủ hai mẹ bèn chạy ào lại mà ôm. Sơn ôm Thiên Hương, còn Thủy ôm cô Lê.
Cô Lê vui vẻ trách: „Hai con dại quá, sao dám vô trong rừng mà không cho hai má hay? Hai má thấy mất, hết hồn hết vía, chạy đi kiếm dữ quá".
Thu Thủy thỏ thẻ nói: "con thấy con chim tốt lắm, con biểu anh Sơn bắt cho con nuôi. Chim nó bay. Hai con đi theo vô đến đây nó đậu trên cao nó kêu hoài, làm sao mà bắt được. Hai con nằm ngó nó chơi rồi ngủ".
Thiên Hương nói: „Hai con đừng có dại đi bậy như vậy nữa. Muốn đi chơi phải cho Hai má hay chớ đi bậy lạc trong rừng rồi biết đường đâu mà về. Đi phải có người lớn đi theo. Hai con đi lang thang đố khỏi có bữa bị chúng bắt mất, rồi hai má biết đâu mà kiếm".
Thu Thủy nói: „Có anh Sơn, con không sợ".
Cô Lê cười và nói: " anh Sơn của con giỏi dữa há! Thôi về". Xuân Sơn nói: "Về rồi tắm nghe hôn má".
Thiên Hương nói: „Ừ, về tắm cho mát".
Hai trẻ nắm tay nhau, vẹt mấy nhánh cây gie ngang đường mà đi trước. Hai mẹ chẫm rãi đi theo sau.
Trên nhành con chim kêu cheo chét. Gió nam thổi lá cây phất phơ. Xa xa có tiếng ve kêu rồi lại có tiếng cu gáy cũng như đờn có nhịp.
Thú rừng tiêu diêu, thơ thới. Cô Lê với Thiên Hương nếm mấy năm đã say mùi, dầu có cảnh thú nào quí hơn cũng không màng, không chuộng.
5. LỬA TÌNH LẦN NGÚN
Trong khoảng mấy năm tiếp sau đó, cuộc vườn của chú Hai Cường lập ra đã biến đổi khác hơn hồi trước nhiều. Chung quanh nhà thì bắp, khoai hay là bầu, mướp, tùy theo mùa cũng vẫn còn trồng hoài. Nhưng vườn chuối thì rộng lớn thêm nhiều. Mấy cây dừa trồng theo mé suối đã lên cao, cây nào cũng có buồng oằn oại trên ngọn. Xoài, mít, trồng mé bên kia cũng đã có trái đều hết. Rẫy thơm đã mở rộng tới mé rừng. Còn trên đồi đã có tới vài chục nọc tieu, nọc nào cũng có trái sai hết. Huê lợi vườn bây giờ nuôi sống cả nhà phủ phê, quần áo lành lẽ, cơm gạo no đủ, tuy mặc vải bô chớ không cần sô tố, ăn cá thịt chớ không thèm cao lương, nhưng đời sống của mẹ con của Lê cũng như của Thiên Hương nhờ chú Cường cần cù, lại thêm nhờ em Diệp tận tụy, nên dầu hẩm hút trong lều tranh ở giữa chốn rừng núi song được khỏe khoắn, an vui hơn nhiều chị em ở gác tía, lầu son, tưng bừng, rực rỡ.
Xuân Sơn và Thu Thủy cũng vẫn khắng khít chơi với nhau hoài, chỗ nào có Thủy thì có Sơn. Sơn, Thủy tranh tươi, mà tình cảnh hiệp hòa, cảnh mặn mòi, tình chan chứa.
Nhưng từ năm trẻ lên 7 tuổi, thì Hai mẹ dỗ mà sửa bề ăn ở lần lần, đi tắm không cho tuột hết quần áo, đêm ngủ không cho chung mền, chung chiếu.
Thiên Hương bắt đầu dạy hai con học chữ. Mỗi buổi trưa phải ngồi tập viết, tập đọc, đến xế mát mới cho nghỉ chơi trong vườn. Chiều ăn cơm rồi, trải chiếu dưới gốc cây rồi gom hai trẻ lại ngồi nghe nói chuyện đời xưa, dạy việc đời nay. Hai mẹ thay phiên với nhau chăm chú lo mở rộng trí thức cho hai con và lo rèn tập cho hai con hiểu lễ giáo. Dầu nói chuyện xưa hay chuyện nay, cũng lựa chuyện mà nói để ung đúc cho hai trẻ có tâm hồn thanh cao trinh khiết, chơn chánh, công bình ở hiền lành, làm nhơn nghĩa. Dạy về luân lý thì chăm nom đào tạo trí ý cho trẻ biết tin mạng trời, yêu cha mẹ, kính trưởng thượng, tuân luật pháp, lo đền ơn đáp nghĩa, cứu kẻ khổ, giúp người nghèo.
Lần lần Hai trẻ khôn lớn, sự hiểu biết được nhiều, mới giảng dạy cao xa hơn, nói tới cuộc tấn hóa của loài người, cách phân phối chưởng tộc, cách tổ chức quốc gia, cách sắp đặt xã hội, lịch đại sử của nước mình, bề sanh hoạt của dân tộc, chỉ non sông từng chỗ, giảng nghề nghiệp từng ngành, diễn giải điều nên hư, cắt nghĩ tục tốt xấu.
Cách gia huấn vừa chơi, vừa dạy, vừa vui, vừa học, không làm rộn trí cực lòng cho hai trẻ mà lại giúp cho Hai trẻ hiểu biết các việc đời gần xa, xưa nay, bởi vậy khi được 13 tuổi rồi Xuân Sơn mạnh mẽ, cứng cỏi, phải tướng con trai, còn Thu Thuỷ yểu điệu, diễm kiều ra mã con gái, thì cả hai đều khôn ngoan, sáng suốt đọc chữ mau, viết chữ tốt, biết phân phải quấy, hiểu cách thấp cao ưa nghèo hèn mà thẳng ngay, chê giàu sang mà gian dối.
Tuy cuộc gia giáo để mở trí thức và luyện tánh tình cũng vẫn tiếp tục iến hành hoài, song từ đây hai mẹ mới phân mà dạy cho Hai con biết cách làm ăn mà nuôi sống.
Cô Lê dạy Thu Thủy cho biết nữ công, để sau lãnh vai nội trợ biết đạo làm vơ, làm mẹ. Cô dạy vá may, tập nấu cơm, kho cá, khuyên xuống suối xách nước đổ vô lu, biểu chặt nhánh khô làm củi để chụm lửa.
Cô Thiên Hường dạy thêm cho Xuân Sơn biết cao xa hơn nữa rồi cậy Hai Cường tập giùm cho Sơn biết dọn đất mà gieo trồng, biết đốn cây trong rừng rồi cùng dì Diệp kéo về phơi cho khô để làm củi, biết đốn chuối chín, đào khoai lang, hái tiêu, hái mít cho dì Diệp với Thu Thủy đem ra chợ mà bán. Học vui mà làm cũng vui, bởi vậy hai trẻ ham học tập mà cũng ham làm việc.
Tuy cần lo dạy học và tập làm, song hai bà mẹ cũng để cho con có giờ nghỉ ngơi đặng vui chơi, phải có vui giải trí thì học và làm mới siêng năng được.
Bây giờ đã lớn rồi, đã biết cháo chan đường ra chợ, đường ra mé biển, lại thường dắt nhau đi khắp cả vùng chung quanh, bởi vậy Sơn với Thủy thông thạo đường mòn nẻo lên chùa, ngã nào vô Giếng Tiên, ngã nào qua Hàm Ninh, ngã nào đi Cửa Cạn, ngã nào lên
Chóp Chài. Hễ có giờ nghỉ ngơi thì hai trẻ thường rủ nhau ra mé biển ngồi câu, rồi ngó nước mà nói chuyện, đến gần tối mới chịu về. Sơn tay xách giỏ, vai vác cần câu đi xung xăng, Thủy tay vịn vai bạn mà đi theo, tay đụng tay, mình khít mình, Thủy hát, Sơn cười, cả Hai đều hân hoan, tự toại. Có khi Thủy vấp đá đau chưn đứng lại nhăn mặt nhíu mà thì Sơn vội vã bỏ giỏ, quăng cần câu, quì xuống nắm chưn Thủy mà coi. Như có rướm máu thì Sơn biểu Thủy ngồi xuống, lấy vạt áo chậm máu, rồi hái lá cây bức dây cóc bao bó vết trầy lại và thủng thẳng dìu dắt Thủy về.
Có bữa Hai trẻ dắt nhau vô rừng kiếm trái gùi, trái bứa, hái ăn chơi. Gặp mấy trái thấp thấp dễ leo thì Sơn leo lên cây hái quăng xuống cho Thủy lượm rồi kề vai nhau ngồi dựa gốc cây mà ăn, ngó rừng hoang âm u, nghe cu kêu văng vẳng.
Có bữa đi gặp ổ chim, Sơn muốn leo lên bứt lấy cho Thủy chơi, Thủy lật đật níu lại không cho Sơn leo, nói rằng chim có ổ như mình có nhà. người ta phá sập nhà mình thì mình biết buồn, biết giận, vậy không nên động tới ổ chim vì nó dày công tha cỏ rác mới kết thành cái ổ mà ngủ; nếu mình phá tan thì tội nghiệp cho nó.
Có bữa đi gặp suối nước trong thì dắt nhau xuống đó rửa mặt, rửa tay, rửa chưn, rồi ngồi coi nước chảy, khi nắm tay nhau mà nói, khi nhìn mặt nhau mà cuời, say sưa tình cảnh trót giờ rồi mới chịu vẹt đường mà về.
Gia đình của Hai Cường là trụ cột đứng lập ra đây, sống vui vẻ luôn luôn như vậy với một chuỗi ngày được thêm ba năm nữa, ngày nào cũng là ngày thân yêu, ngày nào cũng là ngày hạnh phúc. Mỗi người đều không biết ghen ghét, cũng không biết tham lam. Mình đã no ấm rồi, đã gặp cảnh hẻo lánh mà tránh thị phi với danh lợi, đã được sống với cảnh thiên nhiên nên an nhàn vui vẻ, thì còn mong điều chi nữa mà tham lam. Mình đã không tính hơn ai mà làm chi, thì có cớ gì đâu mà ghen ghét.
Cô Lê với cô Thiên Hương bị người đời, bị cổ tục, mà chịu tai hại, nhưng ở đây trót 16 năm trời, Hai cô chẳng hề có mở miệng mà phiền người, hay trách đời. Hai cô đều nghĩ nếu mình phiền trách,
tức thị hoặc mình nói oan cho thiên hạ, hoặc mình thù oán thiên hạ. Mình có chắc mình làm phải đâu mà không sợ nói oan cho người ta. Mình có chắc người ta ở quấy đâu mà dám thù oán. Chi bằng, gạt ngang mà chấm dứt khoảng đời dĩ vãng, để vui sống với cảnh đời thiên nhiên mà Tạo Hóa cũng cho mình được ấm no, thong thả, mạnh khỏe, tươi cười, vui sướng với cảnh vui trong sạch, không hổ, không lo, vui luôn luôn không dứt, vậy thì mình mang ơn Tạo Hóa đã nhiều lắm rồi, chẳng nên kêu đòi thêm nữa.
Trót mười sáu năm mưa nắng đã đưa chú Hai Cường đến già rồi, dầu chú giỏi chịu phong sương như cây sao, cây dầu đứng lố xố chung quanh chú, mà tuổi đã ngoài sáu mươi rồi làm sao da chú khỏi dùn, răng chú khỏi rụng hết năm bảy cái. Diệp tận tụy quên kể ngày tháng mà hiện nay cũng đã đến tuổi Nhan Hồi rồi.
Cô Lê với cô Thiên Hương mắc vui với cảnh thiên nhiên, vui với hai con sởn sơ mau lớn, hai cô không nhớ tới khoảng đời dĩ vãng mà tuế nguyệt không chịu quên hai cô nên đã đưa hai cô kỏi mức nửa đời người.
Còn Xuân Sơn với Thu Thủy đã được 16 tuổi xuân, còn vài tháng nữa bước qua 17. Sơn đã có vóc trai thanh niên vạm vỡ, chẩm hẩm, nhưng ưa lên dốc xuống gành, hay đốn cây cuốc đất, nên nở vai vế, nở tay chưn, tướng mạo coi không kém trai mười chín đôi mươi, mơi chiều thả rều theo mé đường đông hoặc trong chợ nhóm mà ngó gái chơi cho vui.
Thu Thủy tuy làm việc nhẹ nhàng, đi chơi gặp điều chi nặng nề, khó khắn thì Sơn giành mà gánh vác hết, song Thủy cũng đã trổ mã con gái hoàn toàn, bắt đầu đã biết sượng sùng biết e lệ.
Một bữa đương ngồi ăn cơm sớm mơi, ông Hai Cường nhớ lại sư huynh An Viên đã gần Hai năm rồi sao không thấy sư ghé thăm chơi. Ông nghi sư có bịnh nên rủ Xuân Sơn ăn cơm rồi đi với ông lên núi Chóp Chài mà thăm sư. Xuân Sơn chịu đi. Thu Thủy đòi đi theo cho biết vùng đó. Ông Hai Cường không cho, ông nói đường xa xuôi, lại gay go, phải lên đèo, xuống hố, mệt nhọc, con gái đi không tiện.
Ăn uống no rồi, ông Hai Cường cầm một cái cây làm gậy, còn Xuân Sơn đem hờ theo một cái mác, hai nguời ra đi. Thu Thủy không được đi nên đứng ngó theo, mặt mày buồn hiu.
Cả nhà đều không biết Chóp Chài ở bao xa, tưởng Hai ông cháu đi đến trưa thì về tới. Té ra trưa không thấy về. Diệp thấy Thu Thuỷ buồn nên rủ đi câu. Thu Thủy lắc đầu, không chịu đi, rồi một mình ra vuờn tiêu, thơ thẩn, có ý ngó coi có dạng ông ngoại với Xuân Sơn về hay không.
Thu Thuỷ cứ vởn vơ, lúc đứng nhón chưn mà ngó, lúc ngồi dưới cột mà trông đến xế không thấy về, rồi đến nửa chiều mà cũng chưa có tăm dạng gì hết. Thu Thủy mòn trí, đành trở vô nhà, nằm day mặt vô vách buồn hiu, muốn ứa nước mắt.
Mặt trời đã ngả xuống đầu non, muốn chen lặn. Cô Lê hỏi Thu Thủy như đói bụng thì vô bếp phụ với Diệp dọn cơm ăn trước. Thu Thủy nói chưa đói, để đợi ông ngoại về rồi ăn chung với nhau cho vui.
Cách một lát, Xuân Sơn bước vô nhà vai vác một nhánh bông bùm sùm. Thu Thủy lồm cồm ngồi dậy vui cười hớn hở.
Sơn đi ngay lại đưa nhánh bông cho Thủy vừa cười vừa nói: „Hồi bận đi, qua thấy dưới chưn núi có một cây trổ bông đầy hết mấy nhánh coi đẹp quá, lên tới am hỏi sư cụ cây gì vậy. Sư cụ nói tháng nầy cây bằng lăng trổ bông. Bận về qua xin ngoại đứng chờ, qua vô đốn một nhánh đem về cho em xem."
Sơn vạch lưng móc ra hai trái gùi cũng đưa cho Thủy mà nói: „Gặp Hai trái gùi chín, qua cũng hái đem về cho em đây".
Thủy cầm gùi kề vô mũi mà hửi, không nói cám ơn, duy ngó Sơn mà cười, cặp mắt chứa chan tình, miệng cười dẫy đầy nghĩa, biểu lộ tình nghĩa như vậy còn hơn một trăm lời cám ơn.
Ông Hai Cường dựng cây gậy ngoài hè rồi mới vô sau, tay có xách một ổ ong. Cô Lê với Thiên Hương chưa từng thấy ổ ong nên hỏi chú xách cái gì vậy. ông Hai Cường nói: „Hồi xế ở trên am về, chú thấy ổ ong đóng trên cây chú chỉ cho Sơn coi. Nó hỏi trong đó có vật gì. Chú nói ong đóng ổ mà ở, mỗi ngày bay đi kiếm bông hút mật
đem về đó mà chứa, người ta nói mật ong ngon lắm nên nó quyết lấy ổ đem về nặn mật ra cho hai má nó với Thu Thủy ăn cho biết. Chú phải trở lên am xin lửa xuống rồi bó lá cây khô làm đuốc quơ cho ong bay đi hết mới lấy ổ của nó được. Sơn nóng lấy quá, leo lên gấp, bị ong đút một vít ở cánh tay".
Thu Thủy nghe nói Sơn bị ong đút thì vội vã để nhánh bông với hai trái gùi trên ván, nắm tay Sơn mà hỏi bị ong đút chỗ nào. Sơn quăng cái mác dưới sân, vén tay áo đưa vít ong đút còn đỏ lòm cho Thủy coi.
Thủy cầm cánh tay Sơn mà coi rồi hỏi nhức hay không. Sơn nói hồi nó đút thì đau, nhưng một lát rồi bớt lần lần, bây giờ còn tăn tăn vậy thôi. Thủy hỏi Hai má, coi phải lấy thuốc gì mà thoa. Thiên Hương nói nhà không ăn trầu nên không có vôi, để sáng Diệp có đi chợ sẽ biểu nó mua một chút vôi đem về thoa đỡ. Bây giờ gần tối rồi nếu đi thì về không kịp.
Cô Lê nói lấy dầu lửa thoa đỡ được. Thu Thủy lật đật lấy chong đèn đem lại rồi thò tay vô họng đèn chấm dầu mà thoa cho Sơn.
Ông Hai Cường đem ổ ong treo trong bếp, nói để sáng bữa sau ông sẽ nặn mà lấy mật, lấy sáp.
Diệp dọn cơm, Xuân Sơn lấy nhánh bông bằng lăng đem cắm trong vách chỗ Thu Thủy ngủ rồi cả nhà ráp lại ăn cơm.
Cô Lê hỏi chú chớ thăm sư huynh mạnh giỏi thế nào, nói chuyện gì mà ở chiều tối mới về, làm Thu Thủy lo sợ, nằm ngồi không yên.
Ông Hai Cường vui vẻ nói: „Sư huynh An Viên mạnh chớ không đâu ốm gì. Tại không có việc đặng xuống phía nầy nên sư không có ghé. Sư thấy ông cháu lên, sư mừng dữ. Sư nói Sơn mau lớn quá. Sư cứ cầm ở nói chuyện chơi. Sư giảng việc đời cho Sơn nghe, nói hạnh phúc thiên nhiên của Tạo Hóa sắp đặt thì quí hơn các hạnh phúc khác hết bởi vì hưởng thứ hạnh phúc đó khỏi cúi lòn, khỏi lo sợ, khỏi giựt giành, nên khỏi bị ganh ghét, thù oán. Sư nói hoài đến xế mới rức mà về được, rồi Sơn muốn đốn lấy ổ ong và còn đốn nhánh bông nữa nên mới về tối".
Ăn cơm tối rồi, trăng mọc lên khỏi ngọn cây, nên giọi xuống sân nhà sáng lòa. Cô Thiên Hường ôm chiếu ra trải dưới gốc cây, chỗ ông Hai Cường dọn sẵn để ban đêm ngồi thưởng thức cảnh trời trong gió mát, rồi cùng với cô Lê và ông chú ra ngồi đó đặng nghe ông chú thuật lại cho rõ ràng những lời sư An Viên giảng dạy ngày xưa.
Xuân Sơn với Thu Thủy cũng ra đó chơi, nhưng Hai trẻ ngồi trên viên đá cách xa một chút.
Trăng tỏ rạng, gió hây hây, quang cảnh im lìm, tiếng chim giéo giắt.
Ông Hai Cường đương ngồi thuật chuyện thì Thu Thủy nắm cánh tay Xuân Sơn hỏi thoa dầu rồi vít ong đút có bớt đau hay không.
Xuân Sơn nói:
- Bớt. Ong đút chết chóc gì mà lo!
- Anh đi lâu về, ở nhà em sợ quá.
- Qua đi với ngoại, lại qua có cầm theo cái mác mà sợ gì?
- Đi đường rừng núi, biết chừng đâu. Hồi xế em lên đồi đứng ngó chừng hoài, em tiếc em không đi với anh; đến nửa chiều mà cũng không thấy về, em buồn quá nên em vô nhà em nằm khóc ngay.
- Em nhớ qua dữ vậy hay sao?
- Từ nhỏ đến giờ anh đi đâu cũng có đủ anh em. Nay anh bỏ em mà đi một mình, không nhớ sao được. Từ rày sắp lên, anh đừng có đi đâu mà bỏ em ở nhà như vậy nữa nghe hôn. Em buồn em chết được chớ không phải chơi đâu, lại anh đừng có lấy ổ ong, cũng đừng có leo lên cây mà hái trái hoặc bẻ bông cho em như vậy nữa, rủi ong túa ra vây đút anh, hoặc rủi anh té cây mà chết, rồi em làm sao, em sống mà không có anh thì sống sao được.
- Thiệt qua đi mà qua cũng cứ nhớ em ở nhà hoài. Tướng em đi, mắt em ngó, lời em nói tiếng em cười, cứ vởn vơ trong trí, văng vẳng bên tai qua hoài. Tại qua nhớ nên mới hái trái gùi, gỡ ổ ong, chặt nhành bông đem về cho em. Về gần tới nhà, qua khoăn khoái chịu không được, nên qua bỏ ngoại, qua chạy riết về trước đặng thấy mặt em cho mau.
Thu Thủy vội nắm bàn tay Xuân Sơn kéo để trên bắp vế rồi ngó trăng mà khóc, chớ không nói gì nữa hết. Xuân Sơn lấy vạt áo lau nước mắt cho em, cũng không nói nữa. Thu Thủy vùng buông tay anh mà đứng dậy đi lại ngồi vịn vai mẹ mà nghe ông ngoại nói chuyện. Xuân Sơn không đi theo, cứ ngồi trên viên đá, nhìn mặt trăng tỏ rạng, nhìn ngọn cây lung lay, lòng bàng hoàng, trí lơ lửng.
Sống giữa cảnh thiên nhiên, hai bà mẹ cũng để cho hai trẻ từ nhỏ phát sanh tình tứ thiên nhiên cho cảnh tình thích hạp. Nghĩ vì hai mẹ chung cho hai con bú như nhau, chung đút cơm, chung tập đi, chung dạy nói, đã chung nuôi dạy cho thành anh em, dầu sao lớn khôn có thành chồng vợ cũng không hại, thế thì có chi àm phải dè dặt, phải ngó chừng.
Mà hai trẻ, từ khi lọt lòng cho tới chừng nầy, cũng sống với thú thiên nhiên, không biết lo lắng, không biết giận hờn, không biết kiêu đời, không biết làm quấy, chỉ biết yêu nhau, yêu hai mẹ, yêu ông ngoại, yêu dì Diệp. Tình thương yêu với lòng thanh bạch vô tội lỗi, vô tư lự đó, mỗi ngày gây thêm cho hai trẻ một tâm hồn tươi tốt, hiền lành. Tâm hồn ấy phát hiện rõ ràng trên nét mặt ôn hòa, trong thái độ chơn chánh, trong cử động thành thiệt. Cảnh đời của hai trẻ lúc nầy mới mở ra thì tươi cười xán lạn nhưng cũng đẹp. Mới xa cách nhau không tới một ngày mà hai trẻ thương nhớ nhau nên to nhỏ phân trần tình tứ với nhau như vậy, thì đủ biết không thể nào chia lìa nhau cho đành. Vì tâm hồn còn thơ ngây thanh bạch, bởi vậy hai trẻ không dè, không hiểu lửa thân yêu tha thếit lâu nay nó ấm áp ngấm ngầm trong lòng, nó ngún hoài mỗi năm nóng thâm một chút. Bây giờ nó muốn phừng dậy mà cháy lên đặng thành ngọn lửa ái tình nhục dục, biến chuyển tình anh em ra tình vợ chồng. Có lẽ cả hai đều giựt mình, không biết có tội lỗi gì hay không, nên vội vã dang ra rồi lơ lửng, thẹn thùa, thẹn với lương tâm, thẹn với nhau, thẹn với mẹ, thẹn với suối, với rừng, với núi, với biển.
Kể từ đêm đó, Xuân Sơn cũng như Thu Thủy cả Hai đều giựt mình nên đổi thái độ khác hơn xưa. Thuở nay Hai trẻ thường dính một bên nhau, cười nói tối ngày, chỗ nào có Sơn thì có Thủy, bây giờ cả Hai đều bình tĩnh, ít nói biếng cười. Ở trong nhà có hai mẹ thì còn
ngó nhau, còn nói chuệyn với nhau chút đỉnh. Mà ý hai trẻ dường như tránh nhau, không muốn gặp nhau ở chỗ thanh vắng.
Tối ngày Sơn cứ xẩn bẩn ngoài vườn, kiếm công việc mà làm, khi cuốc đất gieo trồng, khi đi kiếm trái cây mà hái. Bữa nào không có công việc làm thì Sơn vác cần câu ra mé biển ngồi câu, đi không rủ Thu Thủy, mà Thủy cũng không đòi đi theo như hồi trước. Sơn câu tới gần tối mới chịu về.
Còn Thu Thủy tối ngày, hoặc ngồi tại cửa mà ngó mông, mặt buồn hiu, hoặc nằm trên ván day mặt vô vách im lìm, như ngủ. Vẻ hân hoan đâu mất, không còn lộ trên gương mặt hiền từ nữa. Nụ cười duyên cũng tiêu tan, không còn thấy trên môi đỏ hữu tình nữa. Có bữa Thủy dã dượi như có bịnh, nên bể nghể. Có khi thấy Sơn ngồi khoanh tay ngơ ngẩn dưới gốc ngập ngừng, xây lưng trở lại, dường như có cái gì ngăn cản không cho lại gần Sơn, hay là Sơn giận, nên không dám bước tới nữa.
Cô Lê với Thiên Hương là nạn nhơn của ái tình, hai cô đều có kinh nghiệm về tâm bịnh. Một bữa ông Hai Cường với Xuân Sơn đi qua mé bên kia suối mà săn sóc rẫy thơm, còn cô Lê đi đốn chuối với Diệp; cô Thiên Hương thấy Thu Thủy nằm lim dim trên ván, cô kéo gối nằm một bên con, rồi êm ái nói: „Nầy con, hổm nay má thấy con buồn, má hiểu con buồn về việc gì. Má nói cho con nghe, con gnười ở đời phải chịu cực mới có mà ăn, tự nhiên phải có buồn rồi sau mới có vui được. Con còn nhỏ quá, chưa tới thời kỳ được vui. Con bỏ dẹp nỗi lòng trạo trực mà chờ ít năm nữa khôn lớn rồi con sẽ vui không muộn gì đâu. Cái vui vẫn còn chờ con đó, nó có mất đâu mà con vội".
Thu Thủy xúc động, nên day lại ôm mẹ, úp mặt vào ngực mẹ, nước mắt tuôn dầm dề.
Cô Thiên Hương nói tiếp: „Ừ, khóc đi, khóc đặng nước mắt rửa hết cái buồn của con. Con muốn được vui, con đừng thèm buồn. Con cứ vái Trời cho con mạnh khỏe và khôn lớn cho mau. Chừng đó Trời sẽ cho con vui. Chắc như vậy. Ý Trời muốn thử bụng con, nên hổm
nay khiến con buồn đặng coi thể nào rồi sau sẽ cho con vui, chớ không có gì đâu mà sợ".
Thu Thủy nghe tiếng cô Lê nói chuyện ngoài sân thì buông mẹ ngồi dậy đi rửa mặt rồi ra coi mấy quày chuối Diệp đốn xách vô đặng sáng bữa sau đem ra ngoài chợ bán.
Bữa sau Thu Thủy phụ Diệp đem chuối, mít, thơm, tiêu ra chợ bán lấy tiền để mua gạo, thịt và mắm khô đem về dùng. Xuân Sơn theo ông ngoại vô rừng chặt củi.
Cô Lê mới phân trần với cô Thiên Hương:
- Sắp nhỏ đã trộng rồi, Trời khiến hai đứa nó muốn sanh sự hay sao, nên hổm nay em thấy tánh ý đổi khác chớ không phải như hồi trước.
- Chị đã thấy rồi.
- Vậy phải tính làm sao, chớ thiên ý xúi giục, lửa tình cháy phừng, chị em mình khó mà ngăn đón được. Mình phải lo liệu trước.
- Hai đứa còn nhỏ quá, chưa tới 17 tuổi. Nên để cho 19, 20 tuổi rồi sẽ cho phối hiệp, chớ cho sớm quá sợ sanh con non rất khó nuôi.
- Thằng Sơn thì tề chỉnh nên ít lo, ngặt con thủy sao nó dàu dàu, bộ nó buồn bực quá, em sợ nó sanh bịnh.
- Chị em mình phải chăm nom an ủi cả hai đứa. Mình không phải cấm cản không chịu cho chúng nó phối hiệp vợ chồng, mình chỉ khuyên chúng nó chậm chạp đợi một vài năm nữa khôn lớn rồi sẽ hay. Còn đó, lại ở chung trong nhà, mất mát gì mà sợ. Hôm qua chị có nói xa gần mà dỗ Thu Thủy, coi bộ nó đã bớt buồn rồi. Em dọ ý Xuân Sơn thử coi, nếu nó đồng tình với Thu Thủy muốn nhập cục gấp thì em khuyên dỗ nó phải chậm chậm chờ Thu Thuỷ lớn đã. Em cắt nghĩa cho nó hiểu, mười mấy năm nay chị em mình sống được và nuôi hai đứa nó no ấm, là nhờ sức ông chú với em Diệp. Nay ông chú tuổi đã quá lục tuần rồi, sức khỏe ông giảm, lại phong vân mạt trắc, không biết chú còn bảo bọc gia đình được bao lâu nữa. Còn em Diệp đã trên ba mươi tuổi, nếu chỗ nào xứng đáng muốn cưới nó thì mình phải để nó thong thả lấy chồng làm ăn với người ta, chớ không lẽ mình ép nó phải làm tôi mọi cho mình tới già, tới chết. Tiền
bạc của chị em mình để dành hộ thân, mỗi năm mòn một chút, mười mấy năm nay tiêu đã gần hết rồi. Vậy hy vọng về đời sống tương lai của chị em với hai đứa nhỏ mình chỉ đặt hết vào sức Xuân Sơn thay thế cho ông chú mà nuôi cả nhà, chớ chị em mình với Thu Thủy yếu đuối quá có làm việc gì được. Nếu cho Hai đứa phối hiệp sớm, Xuân Sơn chưa đủ sức làm công việc cực khổ nặng nề, mà Thu Thủy sanh con rồi chất thêm gánh nặng trên vai Xuân Sơn nữa, nó gánh làm sao cho nổi, vợ chồng nó khổ cực, chị em mình vui sao được. Em rán cắt nghĩa cho Xuân Sơn hiểu. Chị cũng tiếp với em mà khuyên dỗ nó nữa.
- Chị nói phải lắm. để em nói cho nó hiểu. Dầu sống trong cảnh thiên nhiên cũng phải nhớ việc thực tế, phải có gạo mà ăn mỗi bữa, chớ uống nước suối, ăn lá cây mà sống được hay sao?
Chị em bàn luận tới đó kế Xuân Sơn với ông Hai vác củi về nên phải chấm dứt câu chuyện. Hai mẹ khéo khuyên con, mà cũng nhờ hai con thương mẹ, biết nghe lời phải nên trong vài bữa thì Xuân Sơn với Thu Thủy hết buồn, nói chuyện với nhau lại như thường, nhưng có ý sụt sè, dè dặt không dám to nhỏ âu yếm theo hồi trước nữa.
6. DÔNG GIÓ THÌNH LÌNH
An vui trở lại được ít ngày, thì một buổi sớm mơi cả nhà đang ngồi ăn cơm với nhau, bỗng có một người đàn ông, tay chống cây gậy, đứng ngoài sân mà ngó vô.
Thuở nay, duy có sư huynh trên am An Viên với mấy bà vãi ở trên chùa Phật lâu lâu có ghé đây một lần, chớ người thường ít ai tới, mặc dầu mấy năm đầu ông Hai Cường hay ra mấy nhà ở dựa mé biển mà nài dừa giống, hoặc mua dây lang, dây tiêu, hoặc xin hột bầu, hột mướp về trồng. Cô Lê ngó thấy người lạ cô tưởng người có quen với ông Hai nên đến kiếm ông, cô mới kêu ông mà chỉ.
Ông Hai Cường buông đũa bước ra hỏi khách lạ muốn kiếm ai hay là vô đây có việc chi. người ấy bợ ngợ, ngó ông và nói:
- Tôi muốn kiếm người tên Hai Cường, hồi trước ở trong Sài Gòn cách 15, 16 năm nay ra ở ngoài nầy, mà không biết ở xóm nào, làng nào. Tôi lên chùa hỏi thăm thì mấy bà vãi nói lâu rồi có người ở đâu không biết, cất nhà ở trong trảng nầy. Vì vậy nên tôi vô kiếm hỏi có ai biết tên Hai Cường ở đâu hay không?
- Chú kiếm tên Hai Cường chi vậy. Chú có biết người đó hay không?
- Không. Tôi chưa biết. Vì có lịnh quan Quận dạy làng kiếm tên Hai Cường, làng mới sai tôi đi kiếm, chớ tôi không quen biết với người đó.
- Kiếm chi vậy?
- Làng nói như kiếm được thì đòi ra hầu quan Quận.
- Hai Cường là tôi đây. Mời chú vô chờ tôi ăn cơm một chút rồi nói chuyện.
- Té ra ông đây sao… may quá! Vậy thì tôi khỏi đi đâu xa nữa… ông ăn cơm cho rồi đi. Tôi ngồi chơi tôi chờ.
Người đó mừng rỡ, dựng cây gậy dựa vách, bước vô cửa rồi ngồi chồm hổm tại đó ngó ra vườn.
Mấy người trong nhà nãy giờ tuy lóng tai nghe nói chuyện ngoài sân, song ăn cơm riết cho rồi đặng coi người ta kiếm ông Hai có chuyện chi. Chừng ông Hai trở vô thì mấy người đều ăn rồi hết. Cô Lê dời mấy dĩa đồ ăn lại chỗ ông Hai ngồi đặng ông ăn tiếp, còn Diệp với Thu Thủy thì gộp bưng chén đũa dơ đem vô bếp đặng rửa.
Người khách ngồi ngó ra vườn mà nói:
- Ông ở đây lâu rồi ông lập ra cuộc vuờn có cây trái đủ thứ, dừa với xoài đã cao nghệu, vậy mà tôi không hay chớ.
- Tôi ở đây được 16 năm rồi lận mà.
- Ở trong nầy tréo quá, không nhằm đường đi nên không ai biết. - Ngoài chợ với mấy nhà ở theo mé biển có nhiều người biết tôi chớ.
- Vậy mà Hai bữa rồi tôi đi tới mỗi nhà tôi hỏi tên Hai Cường thì ai cũng lắc đầu, nói không biết.
- Chắc tại họ biết mặt tôi, mà họ không biết tên. Tôi ở đây mười mấy năm, tôi có làm việc gì quấy, tôi trốn đâu nên họ sợ bị tội, họ giấu giùm cho tôi. Chú nói quan Quận dạy làng kiếm đòi tôi tới hầu quan, vậy mà hầu về việc chi! Chú hiểu hôn?
- Cái đó thiệt tôi không hiểu. Mà tôi sợ làng cũng không biết. Nhưng có việc gì gắt lắm hay sao nên quan Quận dạy làng rán kiếm cho được. Làng dặn tôi phải đi từ nhà mà hỏi. Vậy ăn cơm rồi ông đi với tôi ra hầu quan, tự nhiên sẽ biết.
Ông Hai Cường ăn cơm rồi, ông rửa miệng, uống nước, thay quần áo sạch sẽ, sửa soạn đi. Cô Lê với cô Thiên Hương nghe lịnh quan đòi, hai cô lo nên hỏi phải đi liền bây giờ sao. Ông Hai nói sẵn có chú đây thì đi theo chú, ra coi có việc chi cho biết. Xuân Sơn đòi đi theo ông ngoại. Ông Hai cuời mà nói: „Con ở nhà với hai má, chớ đi theo ông ngoại làm chi. Có gì đâu mà sợ."
Ông Hai Cường sửa soạn xong rồi liền đi theo người của làng sai đi kiếm. Xuân Sơn với Thu Thủy thủng thẳng đi theo sau, ra tới mé rừng đứng ngó theo, hai trẻ đều có sắc buồn.
Chừng trở vô nhà hai trẻ thấy mẹ đương ngồi bàn với nhau về sự quan đòi ông chú, không hiểu có việc lành hay dữ.
Cô Thiên Hương lo ngại, nhưng cô bình tĩnh mà nói: „Theo ý chị thì không có việc gì dữ mà phải sợ. Chú mình ở đây lâu rồi, không gây gổ với ai, không trộm cắp của ai, cũng không có làm điều chi sái phép nên có tội. Đất của Tạo Hóa không ai thèm bước chân tới, chú ra công rán sức gieo trồng mà ăn, có hại ai đâu mà họ thưa kiện. Nước trong suối mình múc mà uống, cá ngoài biển mình câu mà ăn, nước với cá không phải của ai mà họ tranh cản".
cô Lê nói:
- Ở đời, thiên hạ không phải như mình hết đâu chị. Có nhiều người xấu lắm, họ ganh ghét rồi kiếm chuyện nói xấu cho người tử tế, hoặc làm hại người thẳng ngay.
- Chú mình nghèo khổ, cặm cụi lo làm ăn, kiếm chỗ hẻo lánh mà sống, có hơn ai đâu mà họ ganh. Chú cũng chẳng hề nói động tới ai, không bao giờ mích lòng ai, có cớ gì đâu mà họ ghét.
- Nhiều khi mình thủ phận cho an thân, để ai làm gì mặc ai, không thèm nói tới, mà họ cũng ghét, ghét tại không làm quấy như họ.
- Ối! Mình cứ làm phải, có Trời chứng chiếu, ai thương không vui, ai ghét không buồn, vậy thì đủ. Còn việc quan đòi chú hầu đây, hồi nãy chị nghe chú đi kiếm đó chú có nói ra một điều làm chị phải suy nghĩ.
- Chú nói điều chi?
- Chú nói quan dạy đi kiếm tên Hai Cường hồi trước ở trong Sài Gòn, ra ngoài nầy đã 15- 16 năm rồi. Tại sao mà biết rõ gốc tích dữ vậy!
- Hay là hồi trước ở trong Sài Gòn chú có làm quấy việc chi đó, bây giờ mới bể ra, nên họ kiếm mà bắt!
- Không có lý vậy được. Chị nhớ hồi trước cha con Thu Thuỷ có nói người phạm tội tiểu hình thì ngoài năm năm, còn tội đại hình thì ngoài mười năm, tội đó tiêu, luật pháp không còn trừng phạt nữa.
Chú đi khỏi Sài Gòn 16 năm, dầu hồi đó có phạm tội gì, bây giờ cũng khỏi bị truy tố.
- Để em nói co chị nghe. Năm đó em có thai, cha mẹ em đánh đuổi em. Em qua kiếm chú, em xin cho em ở. Chú hỏi tại sao cha mẹ em đuổi. Em kể hết mọi việc cho chú nghe. Chú giận chú trách ba em sao không trừng trị đứa bội nghĩa bạc tình lại đánh đuổi con mình.
Chú đầm đầm luôn mấy bữa, bộ hầm hừ lắm. Chú hỏi tên họ, chỗ ở, sở làm của người hại em rồi chú bỏ sở mỗi ngày mỗi đi, không nói đi đâu. Đi luôn ba bữa, rồi về đưa cho em một ngàn đồng bạc và lật đật bán nhà cửa, đồ đạc, dắt em vô Rạch Giá quá giang ghe nước mắm mà ra đây. Bây giờ em nghe quan sai đi kiếm, em sợ năm đó chú nóng giận, chú giết chết người ta, bây giờ vụ đó mới phát giác nên quan cho tìm bắt chú đó chớ.
- Lâu quá rồi. nếu có án mạng thì hồi đó không phát liền, chớ sao đợi tới bây giờ. Mà hồi ra đi, chú không có nói với em tại sao phải ra tới Phú Quốc hay sao?
- Chú nói ra đây làm ăn vậy thôi. Em than đi xa quá mà không có tiền bạc đi làm sao cho được. Chú mới đưa số bạc đó cho em biểu em giữ. Chú không có nói tới chuyện người đó. Mà em phiền nên em cũng không thèm hỏi.
Hai cô không yên trong lòng nên cứ bàn qua luận lại hoài, làm cho hai trẻ ngồi nghe chúng nó càng thêm lo nữa.
Đến trưa, mặt trời đứng bóng rồi mà ông Hai Cường chưa về. Cả nhà bắt đầu trông. Trông không thấy về càng lo hơn nữa. Xuân Sơn với Thu Thủy nóng nảy trong lòng nên thay phiên đi ra sân ngó chừng hoài. Đến nửa chiều, Xuân Sơn chịu không được nữa, nên thưa cho hai mẹ hay đặng ra chợ hỏi thăm Quận rồi đến đó kiếm rước ông ngoại về. Thu Thủy đòi đi theo.
Hai trẻ đi chừng tàn điếu thuốc thì Xuân Sơn hào hển chạy riết về trước báo tin ông ngoại về, nói đi chưa được nửa đường thì gặp ông nên trở lại, ông đi sau với Thu Thủy. Cả nhà đều mừng nên túa ra sân mà đón.
Ông Hai Cường vô tới với Thu Thủy. Ông thấy Hai cô thì ông hỏi: „Nghe sắp nhỏ nó nói ở nhà hai con lo sợ lắm phải hôn? Sợ cái gì? Chú có cướp giựt hay là chém giết ai đâu mà sợ?"
Thiên Hương nói: „Khi không mà quan, làng tìm kiếm bắt đi liền, chị em con mới lo chớ, không biết có chuyện gì quan hệ lắm hay sao?"
Ông Hai nói: „Có chuyện cũng quan hệ thiệt, mà nhứt là khó tính cho xuôi"
Cô Lê nóng nghe nên hỏi: „Chuyện chi vậy chú. Chú nói sơ nghe thử coi".
Ông Hai nói: „Khoan đã mà. Chuyện của con. Nhưng không gấp gì. để ăn cơm rồi chú nói có đầu có đuôi đủ hết cho mà nghe rồi bà con mình sẽ bàn tính".
Ông vừa đi vô nhà vừa cởi áo, cô Thiên Hương kéo Diệp biểu lo nấu cơm ăn".
Ông Hai thay đồ rồi, ông đi múc nước uống cho đã khát. Ông kéo một cái ghế mà ngồi. Cô Thiên Hương, cô Lệ với Hai con đều chờ nghe ông thuật đi hầu quan Quận nên ngồi bao chung quanh.
Ông mới nói: „Chờ cơm cũng còn lâu. vậy để chú thuật chuyện đi hầu cho hai con nghe trước mà suy nghĩ rồi sẽ bàn tính mà liệu định. Việc nầy khó liệu chớ không phải chơi đâu. Chú ra tới nhà làng, ông xã liền bận áo dài dắt chú vô hầu quan Quận. Ông xã biểu chú ngồi ngoài mà chờ, để ông vô bẩm trước. Quan Quận vui vẻ biểu cho chú vô liền. Ông kéo học tủ lấy ra một bức thơ mà xem, xem thiệt kỹ, rồi hỏi chú tên gì. Chú nói Nguyễn Văn Cường, thường kêu là Hai Cường, 63 tuổi.
Quan hỏi gốc gác ở đâu, ra ở ngoài hòn nầy đuợc bao lâu rồi. Chú nói hồi trước chú ở trong Sài Gòn, chú ra ở đây đã 16 năm rồi. Quan hỏi phải chú có một người cháu gái tên là Lệ hay không. Chú nói phải, quan gặc đầu. Kế trống đánh tan hầu quan Quận mới nói rằng chuyện quan muốn nói với chú dài lắm. Bây giờ hết làm việc rồi, quan biểu chú đi lại đằng nhà làng hay ra chợ chơi tùy ý chú, rồi nghe trống hầu chiều thì trở lại cho quan hỏi nữa. Quan lại cho ông
xã biết quan cần dùng gặp chú đặng hỏi thăm việc xưa giùm cho kẻ bề trên chớ chú không có tội gì. vậy phải để cho chú thong thả đi chơi, đúng 2 giờ rưỡi chú trở lại, ông xã khỏi giữ chú, chiều cũng khỏi đi theo chú nữa. Ông xã thấy quan tử tế với chú coi bộ ổng kiêng nên xá quan mà ra rồi ông mời chú trở lại nhà làng mua bánh đãi chú và hỏi thăm công việc trong Sài Gòn, vì thuở nay ổng chưa có đi tới đó lần nào, ổng chỉ biết có Hà Tiên, Rạch Giá mà thôi".
Cô Lê chận hỏi:
- Tại sao quan Quận biết chú có một người cháu gái tên Lê nên quan hỏi?
- Khoan! để thủng thẳng rồi chú sẽ nói tới chớ. Có kẻ bề trên viết thơ biểu quan hỏi, chớ quan có biết chú cháu mình đâu.
- Kẻ bề trên là ai?
- Chú cũng không biết. Chừng buổi hầu chiều chú trở lại quan Quận nói chú mới ngả ngửa.
- Nói sao mà chú ngả ngửa?
- Đừng có nóng, con. Chú nói lại cho con nghe đây con cũng sẽ ngả ngửa như chú nữa cho mà coi, bởi vậy đừng có chộn rộn. Nghe trống hầu chiều đánh, ông Xã hối chú đi. Chú đi một mình lại tới tới đó. Quan Quận kêu chú vô liền, chỉ cái ghế biểu chú ngồi. Quan lấy bức thơ hồi sớm đem lại nữa, lấy một miếng giấy trắng để dựa bên, rồi nói rằng hồi nhỏ đi học quan có một người bạn thân, con nhà giàu ở Cầu Kho, tên Lê Khải Quang…
Cô Lê mới nghe có mấy tiếng, cô vụt la lớn: „Trời đất ơi! Té ra người đó hay sao?"
Ông Hai gặc đầu, chúm chím cười và đáp:
- Người đó đa. Con nghe con cũng ngả ngửa thấy chưa? - Thôi, chú nói tiếp đi coi họ muốn cái gì.
- Quan Quận nói Lê Khải Quang bây giờ là đầu thầy của ổng. Khải Quang biết ổng ngồi quận Phú Quốc mới viết thơ cậy ổng tìm giùm
một cựu tình nhơn, vì hoàn cảnh ép buộc nên phải rời rã, xa nhau mười mấy năm nay, không có tin tức chi hết. Khải Quang nói khi mới ra trường đi làm việc người kết tình với cô Lê, thợ may ở Sài Gòn. Hai người yêu nhau tha thiết, gần gũi nhau hơn nửa năm, kế cha mẹ người hay người có tư tình mới rầy rà, cấm không cho người đi coi hát đêm nữa, rồi ép buộc người phải cưới con gái của một phú thương trong Chợ Lớn. Nngười có nghe cô Lê nói cô đã có nghén được ít tháng, người đương kiếm thế sắp đặt bề ăn ở cho cô an thân mà nuôi con. Ngặt bị cha mẹ kềm chế gắt quá, có một chú ngoài 40 tuổi, bộ tướng hầm hừ, đón người tại cửa sở mà xưng tên là Hai Cường, chú ruột của cô Lê, và hỏi người dùng tiền, dùng thế, dụ dỗ con nhà người ta, lấy người ta có thai nghén rồi đạp đít mà bỏ hay sao? Nếu Khải Quang không tính cho xuôi, thì chú quyết lấy máu mà rửa nhục cho con cháu của chú.
- Quan Quận hỏi chú, thơ nói như vậy trúng hay không. Chú nói Khải Quang kết tình với cháu của chú có thai rồi bỏ, chú giận chú đón mà buộc phải tính sổ cho xong, mấy việc ấy thì trúng hết. Còn người có tính bề trên ăn ở cho cháu của chú thì người khóc mà thuật cho chú nghe, chú mới hay, lại chú không hiểu cha mẹ người tính cưới vợ cho người ở đâu. Quan Quận coi lại khúc thơ đó rồi ông nói tiếp rằng Khải Quang tình cờ bị chú đón vấn nạn và hăm he, phần thì sợ chú dùng miếng võ phu mà tẩy hận, phần thì sợ rầy rà giữa đường xấu hổ, phần thì xúc động về sự hay tin chắc tình nhơn đã có thai nghén, nên người phải hạ mình mà năn nỉ với chú, thề thốt không bao giờ người có tính bội ước bạc tình. Ngặt vì một bên là hiếu, một bên là tình, phận làm trai người không được phép trọng tình mà khinh hiếu, tại vậy nên người phải mang tiếng bội bạc. Người tha thiết cậy chú làm nghĩa giấu giếm mà nuôi giùm luôn. Người sẽ châu cấp tiền bạc cho, đừng lo đói rách. Vì việc tình cờ người không có sẵn tiền trong mình. Người biểu chú ngày mai trở lại người sẽ giao cho chú một số tiền để đem cháu đi kiếm nơi xa xuôi hẻo lánh ở mà làm ăn. Chú nghe lời thành thật chú động lòng nên đi về, không nỡ làm dữ. Bữa sau chú đón nữa thì Khải Quang trao cho chú 1000 đồng bạc, khuyên chú đem cháu ra Phú Quốc ở lập vườn mà làm ăn, hễ có thiếu hụt thì gởi thơ cho người hay và cho biết ở
chỗ nào đặng người gởi tiền châu cấp luôn luôn để nuôi cháu và nuôi đứa nhỏ cháu đương mang trong bụng.
Cô Lê xúc động chận mà hỏi:
- Té ra một ngàn đồng bạc chú giao cho con giữ năm đó là tiền của Khải Quang! Lại cũng tại Khải Quang nên chú mới bỏ xứ đem con ra ở ngoài hòn đây hay sao!
- Chớ sao.
- Sao hồi đó chú giấu, chú không nói thiệt cho con biết. - Nói làm chi! Nói ra thì con buồn thêm chớ có ích gì.
- Nếu hồi đó chú nói cho con biết thì con xin chú trả tiền lại cho người ta. Người không phải thì thôi, thọ tiền bạc của người làm chi.
- Bây giờ con ăn năn hay sao?
- Không, không. Con nhờ chú mà sống an vui mười mấy năm nay, khỏi đói, khỏi tủi nhục. Xuân Sơn cũng nhờ chú nên vai nên vóc. Con có ăn năn là ăn năn sự dại khờ, lầm lỗi làm xấu hổ cha mẹ, mất cả tiết trinh, chớ đâu phải ăn năn về sự theo chú ra đây.
Xuân Sơn tiếp hỏi: „té ra cha của con còn sống, tên là Lê Khải Quang hay sao?"
Ông Hai Cường nói: „Phải. Cha con còn sống, giàu có sang trọng lắm, ở trong Sài Gòn. bữa nay nhân dịp ngoại nói hết cho mấy con, mấy cháu nghe, không nên giấu giếm nữa. Hồi nãy con Lê trách chú sao năm trước chú thọ tiền của người ta mà không nói thiệt cho con biết. Cha chả, con tức giận hơn chú hay sao? Con nên nhớ từ hồi nhỏ chú sống chung với đám bần hàn lao động, vui thì ít, còn buồn thì nhiều, bởi vậy chú quen tánh oán thù hờn giận, gây gổ, không kiêng nể, hay bợ đỡ ai hết. Mà chú lại có tật thiên nhiên ưa ngay thẳng, lại hay xúc cảm, thấy ai gian dối ngang tàn chú bất bình dầu phải chết chú cũng chống cự. Mà gặp ai đau khổ than van thì chú động lòng thương, dầu phải chịu cực khổ hay hiểm nguy chú cũng tận tâm cứu giúp. Tại như vậy, nên thấy Khải Quang thành thiệt yêu con, chớ không phải gian dối bội bạc, lại thấy cậu ta bị chữ hiếu mà
không nỡ nói nặng nề nữa mà lại hứa lãnh nuôi con trọn đời để cho cậu ta an ổn mà giữ tròn hiếu đạo với cha mẹ.
Tuy người ta có dặn hễ ra đây có việc chi khó khăn trắc trở, hay là làm ăn không khá, có thiếu hụt cơ hàn thì viết thơ cho cậu hay, cậu ta sẽ tìm cách mà giúp đỡ cho, nhứt là châu cấp cho chú với mẹ con của con luôn luôn no ấm. Ra đến đây chú không thấy có đều chi khó khăn trắc trở, chú lại nghĩ, người ta thành thiệt lấy lòng quân tử mà đãi mình, không lẽ chú dùng thân con làm miếng mồi để câu tiền bạc của người ta, cứ viết thơ than khó làm ăn, nên thiếu tiền bạc, đặng rút rỉa người ta; tuy chú thuộc hạng lao động song chú cũng biết liêm sĩ, chú không thể làm theo lối tiểu nhơn như vậy được. Đã vậy mà mười mấy năm nay cả nhà mình không đói khát bữa nào, không cực khổ chi hết, trái lại chú với con Diệp cũng như mấy mẹ con các con từ lớn chí nhỏ thảy đều an vui, ai cũng say mê cảnh thú thiên nhiên, ai cũng cho hạnh phúc của sư huynh An Viên bày cho bà con mình chung hưởng đây, quí báu hơn tất cả hạnh phúc nào khác, thế thì chú nhắc chuyện Khải Quang làm chi và gởi thơ cho người mà yêu cầu vật gì, để cho người yên lòng mà hưởng hạnh phúc giàu sang của đời, mình hưởng hạnh phúc thiên nhiên của trời cho thoả thích, cần gì phải bươi móc đống tro tàn cho nó bay bụi dơ dáy. Hai con, hai cháu hiểu hay chưa! Thuyền được đậu êm trong ụ rồi thì lột chèo nằm nghỉ ngơi, trương buồm đi đâu làm chi mà bị dông gió!".
Diệp dọn cơm rồi ra mời đi ăn. Ông Hai Cường nói đi từ sớm mơi tới giờ ông đói bụng nên để ăn cơm rồi ông sẽ nói tiếp.
Mấy bà con ráp lại ăn.
Ông Hai Cường đương đói bụng hay là được nghe quan Quận nói chuyện Khải Quang mà ông vui, hai lẽ đó không biết vì lẽ nào, cô Thiên Hương chỉ thấy ông ăn ngon lại hớn hở hơn ngày thường.
Mẹ con Xuân Sơn nghe nhắc chuyện xưa nên lơ lửng ăn không được sốt sắng. Còn mẹ con Thu Thủy thì có sắc lo ngại vì không hiểu ý cô Lê được tin cựu tình nhơn và Xuân Sơn còn cha, mà cha lại giàu sang, không biết cảnh tình êm ấm hạnh phúc thiên nhiên mình được thưởng thức thuở nay nó có biến đổi hay không, biến đổi
cách nào, vẫn còn được sum vầy mà an vui hoài hay là phải rã rời mà sầu não.
Ăn cơm xong, mặt trời gần chen lặn. Thiên Hương biểu Thu Thủy ôm chiếu ra trải dưới gốc cây đặng bà con ra ngoài ngồi nghe ông Hai nói chuyện tiếp.
Thiên Hương thấy ông chú bỏ đi ra ngoài suối dường như muốn tránh, không chịu nói tiếp câu chuyện hồi nãy, cô mới kêu mà nói hồi chiều Diệp đã tưới đám ớt ông gieo đó rồi. Ông làm thinh đi luôn. Cô Lê mới rủ Thiên Hương ra gốc cây mà chờ. Thu Thủy với Xuân Sơn cũng đi theo.
Thiên Hương thấy ông chú ngồi chồm hổm trên mé suối mà ngó mông chớ không có làm việc chi hết, cô mới biểu Xuân Sơn ra mời ông ngoại vô nói chuyện đi hầu quan Quận nghe chơi.
Ông Hai Cường đứng dậy, dụ dự, ngó quanh quất tứ phía một hồi rồi chậm rãi theo Xuân Sơn trở vô, đi mà ngập ngừng như cực chẳng đã phải rán mà bước. Vô gần tới chiếc chiếu trải. Cô Thu Thủy với hai mẹ đã ngồi sẵn rồi, ông đứng ngó từng người. Cô Lê nói: „Chú ngồi đây, ngồi tiếp nói hết chuyện đi hầu quan Quận nghe chơi".
Thiên Hương nói: „Con nóng nghe coi ông Khải Quang cậy quang Quận kiếm chú có ý gì, chớ không lẽ kiếm mà nhắc cho chú nhớ chuyện ổng giao chú một ngàn đồng bạc hồi trước đó rồi hỏi coi còn được bao nhiêu đặng ổng biên vô sổ".
Ông Hai thở một hơi dài, day ngó Xuân Sơn đứng một bên ông rồi ông nắm cánh tay chàng kéo ngồi xuống, ngồi khít mình ông mà nói: „Trời trong gió lặng, cảnh vui vẻ vô cùng. Thình lình cụm mây ở đâu bay tới vần vũ tối đen. Chú sợ rồi đây trận dông mưa sẽ ào tới làm cho sập nhà ngã cây tan hoang vườn rẫy, uổng công lao của chú mười mấy năm nay quá. Mà hạn của Trời gây ra, còn hay mất cũng do ý Trời định. Dầu muốn dầu không, mình cũng không cãi được. Vậy phải nói phứt cho mấy con, mấy cháu nghe rồi bàn tính với nhau chớ giấu làm chi. Khải Quang vì có tình anh em bạn học với quan Quận nên mới viết thơ thuật rõ tâm sự của người cho quan
Quận biết đặng cậy kiếm chú cho dễ. Người nói mưới mấy năm nay chú đắt Lê đi rồi biệt tích luôn. Người có căn dặn chú viết thơ mà người không được tin tức gì hết. Người có cậy hai quan Quận trước kiếm giùm hai lần rồi, mà chắc là họ hỏi sơ sài mấy người ở tại chợ bởi vậy lần nào họ cũng trả lời nói không có. Lần nầy người cậy quan Quận dạy các làng chịu khó đi hỏi từng nhà đi vô mấy chỗ hẻo lánh xa xuôi, tận trong rừng trong núi mà kiếm đừng bỏ sót một nhà nào hết.
Như tìm được chú thì hỏi coi: Lê còn mạnh khỏe hay không, khi ra đi Lê có chửa rồi sinh con trai hay con gái. Khải Quang dặn hỏi rồi rán khuyên chú dắt giùm mẹ con con Lê trở về Sài Gòn liền, về ngay nhà của Khải Quang ở Cầu Kho, nhà cũ đó Lê biết. Nếu chú cần dùng bao nhiêu tiền bạc đặng đi đường thì quan Quận cứ đưa đủ cho chú đi rồi Khải Quang sẽ tới trả lại cho. Dầu chú chịu về hay là có việc chi trắc trở về không được thì quan Quận cũng làm ơn viết thơ liền cho người hay. Quan Quận nói đủ hết rồi ông mới biểu chú trả lời về mấy khoảng của Khải Quang muốn biết đó cho ông biết đặng ông viết thơ liền cho bạn ông hay. Chú mới nói cho ông biết rằng khi ra tới đây chú cất chòi ở trong cái trảng nhỏ ngang Giếng Tiên, gần chùa Phật mà nuôi Lê.
Ở ít tháng Lê sanh được một đứa con trai đặt tên là Xuân Sơn, năm nay nó đã được 16 tuổi. Cách vài tháng, Thiên Hương chồng chết đương có thai nghén đi kiếm chổ nương dựa. Chú nuôi luôn Thiên Hương làm con đặng ở với Lê cho vui. Thiên Hương sanh con gái đặt tên Thu Thủy. Từ ấy đến nay, chú sống giữa rừng với hai con gái và hai cháu ngoại, tuy hẩm hút song cũng đủ cơm ăn qua ngày. Chú không muốn làm rộn cho Khải Quang nên không viết thơ cho người hay làm chi. Quan Quận hỏi chú mấy năm nay Lê có lấy chồng khác hay không. Chú cười mà nói: ở trong rừng trong núi có ai đâu. Mà Lê cũng như Thiên Hương, cả hai đều thất chí vì tình, nên quyết sống mà nuôi con, chớ không màng điều chi khác. Quan Quận hỏi chú liệu coi chừng nào chú đưa mẹ con về Sài Gòn theo như ý Khải Quang muốn. Chú nói về hay không thì tại Lê với con của Lê nhứt định, bởi vậy chú không thể trả lời được. Quan Quận mới dạy chú về bàn tính với con và cháu. Định chừng nào đi và cần dùng tiền bạc
bao nhiêu thì ra cho ông biết, ông sẽ kiếm ghe và giúp tiền cho. Bây giờ ông viết thơ cho Khải Quang hay trước ông đã tìm được rồi. Tính chừng nào đi hay là có việc chi không đi được thì cũng phải ra cho ông biết đặng ông viết thơ nữa. Theo ý ông nên đi cho gấp bởi vì Khải Quang ân cần lắm chớ không phải lơ là. Huống chi Khải Quang giàu có mà lại sang trọng, mười mấy năm nay ở ngoài hòn cực khổ, nên về Sài Gòn nhờ Khải Quang bảo bọc đặng hưởng sung sướng với người ta. Chú nghe khuyên như vậy thì chú cười. Chú xin phép về hỏi con cháu ít bữa rồi chú sẽ trở ra trả lời với quan Quận. Đó, quan Quận kiếm chú là tại có chuyện như vậy đó, chớ chú có tội gì đâu nên kiếm mà bắt. Bây giờ chịu về Sài Gòn hay không là tự ý mẹ con con Lê liệu định. Chú không cản mà cũng không ép. Muốn thảnh thơi khỏe khoắn thì ở đây, còn muốn rộn ràng rực rỡ thì về Sài Gòn. Muốn sống với cảnh đời nào thì lựa lấy".
Cô Lê vội vã nói liền: „Phận con thì con muốn ở luôn tại đây chớ không đi đâu hết. Xin chú ra trả lời với quan Quận".
Xuân Sơn nói: „Con cũng muốn ở đây với má. Con đi rồi con bỏ ngoại, bỏ hai má, bỏ Thu Thủy, bỏ dì Diệp hay sao? Như đi hết thì con chịu đi".
Thiên Hương cười mà nói: „Cha con muốn tìm con vơi má con đặng rước về mà nuôi, thì con đi với má con và ông ngoại, chớ má đây với con Thu Thuỷ có dính líu vào đâu mà đi".
Xuân Sơn nói: „Nếu Thu Thủy không đi thì thôi. Con cũng ở luôn đây chớ đi làm chi".
Thiên Hương nói: „Chuyện nầy đối với người ta thì dễ, mà đối với mình coi bộ rắc rối lắm chớ không phải dễ đâu. Vậy xin chú trả lời với quan Quận để chậm chậm đặng mình suy nghĩ cho kỹ rồi sẽ trả lời".
Ông Hai Cường nói: „Hồi xế chiều chú nghe quan Quận nói rồi thì chú biết chuyện không phải dễ, bởi vậy chú xin hưỡn ít bữa đặng bà con mình bàn tính. Vậy việc không gấp gì. Mười mấy năm nay Khải Quang bặt tin mình rồi dầu người phải chờ một hai tháng nữa mới biết ý mình chịu cho người gặp hay không nghĩ không hại gì. Thôi, đi
nghỉ cho khỏe đặng sáng mai chú lo đám ớt của chú. Mấy con mấy cháu suy nghĩ rồi bữa khác sẽ nói chuyện lại".
7. ĐI Ở PHÂN VÂN
Sáng hôm sau, ông Hai Cường lui cui ở ngoài rẫy lo chăm sóc đồ của ông trồng. Diệp nói bữa nay không có việc chi ở nhà và biểu Xuân Sơn với Thu Thủy đi đào trùn đặng lát nữa ba dì cháu đi câu kiếm cá ăn.
Ăn cớm sớm mơi rồi ông Hai muốn tìm chỗ thanh vắng đặng vừa làm việc, vừa suy nghĩ coi nên ở lại đây hay là nên trở về Sài Gòn. Ông cầm cái mác đi vô vườn chuối đặng đốn chuối cây ăn buồng rồi mà bỏ và bứng chuối con trồng rải ra thêm.
Diệp với hai trẻ vác cần câu và xách giỏ đi ra mé biển.
Hai chị em Thiên Hương với Lê ở nhà mới bàn với nhau về chuyện ông chú nói hồi hôm.
Thiên Hương nói:
- Theo lời ông chú thuật rõ công chuyện em từ lúc ban đầu thì chị nhận thấy ông Khải Quang hồi trước đã giàu có, rồi bây giờ lại được địa vị cao, tuy vậy mà ông là người biết điều chớ không là bợm bạc tình bội nghĩa như mình tưởng. Vì muốn được hiếu nên ông phải mất tình thì mười mấy năm nay, chị chắc về phần trí ông không được vui sướng như em đâu. Vì cha mẹ nên ông phải xa em, nhưng ông gặp ông chú ông khóc và giao bạc tiền cậy ông chú đem em đi xa mà nuôi, ông hứa sẽ chu cấp luôn luôn, ông lo cho đời sống của em và cũng lo cho đứa con của ông cấu tạo nên, chớ ông không có ý gạt đem đi cho xa đặng ông bỏ, không tin tức ông viết thơ đến mấy lần mà cậy tìm kiếm, đó là bằng cớ ông không quên mẹ con em. Hôm nay tình cảnh biến đổi sao đó, ông liệu hòa hiệp với em được, nên ông muốn ông chú đem mẹ con em trở về. Xét cho kỹ, chị nhận thấy ông không có lỗi gì với em mà em phiền trách nên em không chịu đem Xuân Sơn về đặng chồng gặp vợ, cha nhìn con, chồng vợ cha con sum hiệp.
- Em tỏ thiệt với chị, em không phiền trách chi hết. Hồi hôm nghe chú nói em liền nói em ở luôn đây chớ em không muốn đi đâu hết là
vì mười mấy năm nay hễ nhớ tới cuộc tình duyên hồi trước thì em ăn năn lắm. Tại hồi đó em còn nhỏ dại, nên em mới lầm lạc mà hư thân. Em là con nhà nghèo, dốt nát, quê hèn, còn anh Khải Quang là con nhà giàu, khôn ngoan, học giỏi, hai bực cách nhau xa quá, làm sao mà hòa hiệp với nhau cho được. Dầu anh Khải Quang không kể giai cấp, tình yêu làm cho anh mù quáng, anh bước xuống thấp nắm tay kéo em lên cao, còn cha mẹ anh, còn anh chị của anh, còn bà con cô bác của anh, họ có mù quáng như anh, họ có thương yêu quí trọng em đâu. Em đem thân hèn hạ chen vào nhà giàu sang, cả nhà sẽ ngó em có nửa con mắt, em ở làm sao được. Tại hồi đó em chưa lịch duyệt nhơn tình nên em đem lòng yêu ảnh, mà cũng tại ảnh làm bướng, không kể thế thái nhơn tình, nên mới bị cha mẹ cấm cản làm cho em nhục nhã hư thân, còn ảnh phải ăn năn hối hận. Thôi, mười mấy năm mưa nắng đã rửa sạch và phơi khô tình yêu khờ dại đó rồi, vậy nên để cho nó nằm êm trong mé rừng góc núi, cho nó sạch sẽ khô khan luôn tốt hơn là bày đem nó ra lại đặng hai đàng còn phải chia khổ một lần nữa.
- Ổng liệu hòa hiệp được ổng mới tìm chớ. Nếu tìm mà em phải khổ thì ổng tìm làm chi.
- Ví như bây giờ cha mẹ ảnh có xuôi thuận đi nữa thì ảnh còn chị vợ của cha mẹ cưới hồi đó. Em về em ở nhà lầu đi xe hơi mà em phải uật hạ kiêng nể người ta, thà là em ở đây em uống nước suối, ăn mắm, ăn khô, mà em thong thả vậy không tốt hơn hay sao? Ví như bây giờ cha mẹ ảnh đã trăm tuổi già rồi, còn vợ ảnh hoặc cũng mãn phần, hoặc đã ly dị, nghe nói ảnh làm lớn, ngồi trên trước quan Quận mình nữa, ảnh rước em về đặng làm vợ ảnh ở trong nhà, cha chả khó lắm chị ơi, phận em hèn hạ, em không xứng đáng với địa vị cao sang đó, em làm cho xấu con mắt người ta và cực lòng cho ảnh chớ không ích gì.
- Nãy giờ em nói phận em, còn em không nhớ tới Xuân Sơn. Em nên nghĩ tới đời tương lai của nó nữa chớ. Bây giờ mình biết cha nó đã chiếu cố đến nó rồi chớ không phải bỏ. Mình cũng biết cha nó giàu sang. Vậy mình phải đè nén lòng thương yêu của mình mà để cho nó gần cha nó đặng bây giờ thân nó được sung sướng, rồi
chừng lớn khôn nó nhờ của phụ ấm mà khỏi cực khổ tấm thân. Cha đã muốn nhìn con, mà mình cản trở không cho cha con gần nhau, chị sợ ngày sau nó khôn lớn, nó cực khổ, rồi nó phiền trách chị em mình. Việc đó em phải suy nghĩ.
Cô Lê ngồi lặng thinh một hồi rồi cô thở một hơi dài mà nói:
- Chị nghĩ như vậy thì phải lắm. Ngặt từ nhỏ tới giờ nó xẩn bẩn trong vùng nầy chớ chưa đi đâu hết. Đi một mình nó có biết đường sá, có biết Sài Gòn ở chỗ nào đâu mà đi.
- Chị có dạy nó học địa dư trong xứ mình. Tuy chưa đi đâu song nó đã hiểu tỉnh nào nằm chỗ nào, vô Hà Tiên nó hỏi thăm người ta đặng lên xe đò mà qua Châu Đốc hay xuống Rạch Giá rồi sang xe mà lên Sài Gòn, có khó gì. Hay là cậy ông chú đưa nó đi.
- Nhỏ lớn nó không rời mình. Để cho nó đi em nhớ, em chịu sao được. Mà hồi hôm Xuân Sơn có nói nó cũng không chịu đi. Chắc nó không chịu rứt con Thu Thủy ra mà đi chớ gì. Nó nói phải đi hết cả nhà nó mới đi. Đi hết sao được. Em đố chị nói làm sao cho Xuân Sơn chịu đi một mình thì chị giỏi lắm. Hai đứa nó yêu nhau, thuở nay, một bước không rời. Thủy đâu thì Sơn đó, không thể nào nó chịu bỏ Thu Thủy ở nhà mà đi một mình đâu. Đi ăn vàng nó cũng không thèm.
Thiên Hương lơ lửng, trầm ngâm, rồi nói:
- Nếu Xuân Sơn chịu đi vô Sài Gòn ở với cha nó một hai năm cho nó khôn lớn, cha con nhìn nhau, nó biết đó, biết đây, thông thạo việc đời, rồi nó trở về đặng mình cho nó phối hiệp với Thu Thủy thì tiện quá, em hả?
- Em sợ con Thu Thủy cũng không chịu cho thằng nọ đi nữa chớ.
- Chuyện nầy theo người ta thì dễ ợt. Tại mình biết phải biết quấy, biết xét phận mình, biết vị lòng người, nên nó thành khó. Ông chú bối rối, than khó liệu, thiệt phải lắm.
- Chú than trời đương thanh tịnh, thình lình nổi dông thiệt nổi dông, nổi gió mà.
- Thôi, để tối nay coi ông chú tính lẽ nào. Mình cũng phải hỏi gắt Xuân Sơn coi nó bằng lòng đi cho biết cha hay không, hỏi mà dọ ý nó, mà cũng dọ luôn tình ý của Thu Thủy nữa rồi sẽ liệu định.
Hai chị em, kẻ tính tới, người tính lui hoài, không quyết định được việc gì hết.
Ngoài vườn chuối, ông Hai Cường bứng trồng một hồi rồi ông ngồi trong bóng mát khoanh tay ngó mông và suy nghĩ tính coi có nên dắt hết trở về Sài Gòn cho con cháu thưởng thức cảnh rực rỡ chốn phiền ba, hay là nên ẩn núp luôn trong chỗ rừng núi nầy mà hưởng cảnh thú thiên nhiên, tuy im lìm, hẩm hút, nhưng khỏe trí an thân, khỏi cạnh tranh, khỏi ganh ghét, khỏi nghe tiếng thị phi, khỏi mắc vòng tục lụy. Đi hay là ở, vấn đề chỉ bao nhiêu đó mà thôi, mà ông suy nghĩ hoài, không giải quyết được.
Còn Xuân Sơn với Thu Thủy ngày nay ra mé biển ngồi cũng vì vấn đề đó mà hai trẻ cứ bàng hoàng trong trí. Sơn cứ hỏi thầm trong trí vậy chớ có nên đi lên Sài Gòn cho biết cha rồi ở với cha hay không, còn Thủy cứ lo ngại sợ Sơn bỏ mình mà đi thì mình bơ vơ rồi buồn rầu chịu không nổi.
Gần nửa chiều, Diệp biểu về đặng lo cơm nước. Diệp xách giỏ cá đi truớc, Hai trẻ vác cần câu đi theo sau.
Thu Thủy nói với Xuân Sơn:
- Thuở nay em tưởng Hai đứa mình đều không có cha. Té ra bây giờ anh có cha, thiệt anh có phước hơn em quá.
- Có phước hay không, làm sao mà biết được. Em chưa thấy ông cha đó, em chưa hiểu ông muốn cái gì, sao em dám gọi là có phước?
- Dầu ông muốn cái gì, ông cũng là cha. Ông tìm kiếm ngoại, ông hỏi thăm má với anh, ông cậy quan Quận đưa hết về Sài Gòn cho ông. Mấy điều ấy đủ chỉ ông yêu anh, chớ nếu không yêu thì ông nói tới làm chi?
- Có khi người ta tìm kiếm là tại cần dùng chớ không phải tại thương yêu. vậy chớ thuở nay không có cha, hai đứa mình vô phước lắm
hay sao? Mình cũng vui sướng, cũng có phước vậy, cần gì phải có cha?
- Nói vậy thiệt anh không chịu đi hay sao?
- Đi hết cả nhà thì qua mới chịu đi.
- Anh yêu em như vậy thì em mừng lắm, đừng bỏ em mà đi nghe hôn. Hôm trước anh bỏ anh đi với ngoại lên Chóp Chài có một ngày mà em buồn, em muốn chết. nếu anh bỏ em mà về Sài Gòn chắc em sống không được.
- Qua bỏ em sao được, không có em thì đời sống của qua có ý nghĩa gì đâu.
Thu Thủy nghe như vậy thì liền nắm tay Xuân Sơn mà nói nho nhỏ: „Cám ơn! Em mừng lắm".
Về tới nhà, Diệp lo cạo rửa cá mà kho. Thu Thủy phụ nấu cơm, Xuân Sơn đi kiếm ông ngoại rồi ông cháu đi vô nhà.
Ăn cơm rồi cả nhà cũng ra ngồi dưới gốc cây nói chuyện với nhau như bữa trước. Mà câu chuyện cũng chẳng có chi khác hơn là bàn tính coi phải trả lời với quan Quận cách nào. Nên chịu đi về Sài Gòn hay từ chối? Ông Hai Cường hỏi thử từng người dọ ý. Mỗi người đều có một ý kiến riêng. Mến tiếc hạnh phúc thiên nhiên của Tạo Hóa sắp đặt cho mình quen hưởng 16 năm rồi, sống giữa cảnh đầm ấm, thân yêu, an vui, thong thả, nên không ham thứ hạnh phúc rực rỡ mà phải rần rộ tranh đua, liệu lo giành giựt bởi vậy không ai hăng hái muốn bỏ Phú Quốc mà về Sài Gòn, điều đó thì mỗi người đồng ý. Nhưng không muốn đi thì mỗi người viện một lý riêng không giống nhau.
Cô Lê nói cô đã chán nản về cuộc tình duyên, tình đã cạn, chí đã mòn, bởi vậy cô muốn thủ phận an nhàn chớ không muốn vượt bực rồi không có đủ tài đức với khả năng cho xứng với địa vị. Vì vậy nên cô không muốn đi đâu nữa hết, quyết sống luôn ngoài hòn Phú Quốc đặng vui với trời biển, bạn với núi rừng, tuy hẩm hút song thảnh thơi, khỏi nghe những tiếng thị phi, khỏi sa vào vòng ganh ghét. Về phận Xuân Son nó là máu thịt của Khải Quang, cô là mẹ cô
không phép vị kỷ mà đoạn tình nghĩa cha con của nó. Vậy cô phải để nó thong thả mà liệu định về sự đi ở, nó định lẽ nào tự ý nó, cô không xúi mà cũng không cản. Nhưng nó bỏ cô mà theo cha, tự nhiên cô buồn, vì nó cũng là máu thịt của cô, lại công cô mang nặng đẻ đau, rồi còn dưỡng nuôi dạy dỗ, hôm nay lìa con, cô còn gì mà vui nữa.
Cô Thiên Hương, thì nói lúc cô bị hoạn nạn thấy tứ bề tối tăm mù mịt, không biết đường mà đi; may gặp ông Hai nhận cô làm con, cô Lê nhận cô làm chị, từ ấy đến nay, mặc dầu không phải là bà con dòng họ, mà chung sống với nhau rồi, cô yêu ông Hai như cha, yêu cô Lê như em, yêu như ruột thịt. Nếu ngày mai phải phân rẽ thì tự nhiên cô buồn.
Nhưng buồn cô cũng rán mà chịu, chứ cô không nỡ bịn rịn mà cản trở bước tấn thủ của mẹ con cô Lê, mẹ được sum họp với chồng, con được thả thắm với cha, mẹ con vui hưởng thú hạnh phúc gia đình đặng bù trừ 16 năm biệt ly đau khổ. Nếu ông Hai dắt hết mẹ con Lê trở về Sài Gòn thì cô Thiên Hương xin để cho mẹ con cô ở luôn ngoài hòn; dầu buồn phân rẽ mà cô được tiếp tục an hưởng cảnh thú thiên nhiên âm thầm, vắng vẻ, chớ cô đã lỗi lầm ngang ngược, đã bị cha mẹ từ bỏ, bị anh chị không nhìn nữa, cô còn gia đình đâu mà trở về quê quán. Nhơn dịp nầy cô Thiên Hương nói ngay cho ông Hai hay, nói trước mặt Xuân Sơn, Thu Thủy, rằng từ ngày cô sanh côn gái thì cô LÊ với cô đã có thầm ước với nhau mà chung nuôi dạy Hai trẻ đặng chừng chúng nó không lớn thì cho chúng nó phối hiệp vợ chồng. Hôm nọ thấy tình Hai trẻ dan díu với nhau quá nên muốn thực thiện lời nguyện ước. nhưng nghĩ vì Hai trẻ còn nhỏ tuổi, chưa đủ trí khôn mà làm cha làm mẹ, nên chị em đều thoả thuận chờ một vài năm nữa cho Hai trẻ khôn lớn rồi sẽ cho phối hiệp vợ chồng. Hôm nay tình cờ Xuân Sơn có cha, mà cha lại giàu sang. Nếu Xuân Sơn nhìn cha, thì cha sẽ có quyền quyết định đôi bạn, chớ mẹ không được tự chuyện. Vì thấy từ chiều hôm qua, Hai trẻ có sắc buồn lo, Xuân Sơn dụ dự là tại không muốn rời Thu Thủy, còn Thu Thủy lơ lửng là sợ Xuân Sơn bỏ đi. Vậy cô phải nói ngay ra giữa đây rằng theo ý cô thì Xuân Sơn nên về Sài Gòn mà nhìn cha vài năm cho khôn lớn rồi nếu không quên tình xưa, nghĩa
cũ thì sẽ thưa cho cha biết cuộc tình duyên đã hưa hẹn, chừng đó sẽ tính việc tơ tóc trăm năm. Tuy phân cách nhau, song mẹ con cô cũng vẫn ở đây mà chờ, chớ không mất đâu mà ngại.
Ông Hai Cường hỏi ý Xuân Sơn thì chàng cứ nói y như bữa trước, nếu cả nhà đều đi hết với chàng thì chàng mới chịu đi, chớ chàng không chịu đi mà bỏ một người nào ở lại.
Ông lại cắc cớ hỏi luôn ý của Thu Thủy thì nàng ngồi lặng thinh không chịu nói, song liếc mắt ngó Xuân Sơn lộ sắc buồn.
Thăm dò ý kiến đủ hết rồi, ông Hai Cường mới nói: „trót 16 năm nay, hai con với chú đồng tâm đồng chí xa lánh chốn phiền ba rộn rực, vui sống cùng nhau với thành thiệt thân yêu, hòa thuận giữa cảnh thú thiên nhiên an tịnh nầy. Tuy hẩm hút âm thầm, song chú lấy làm mừng mà nhận thấy hai con không than phiền cực khổ. Trái lại hai con đều yêu mến cảnh đời thiên nhiên, cho đó là hạnh phúc của Tạo Hóa dành để cho Hai con. Thiệt chú mỗi năm mỗi già thêm, sức khoẻ lần lần phải giảm bớt. Nhưng chú vui sướng trông thấy Xuân Sơn với Thu Thủy càng ngày càng thêm lớn, lại cũng như mình, hai đứa nó cũng vui sống cảnh thú thiên nhiên nầy, không ham lợi danh, không ưa so sánh. Vì vậy nên chú không lo ngại về tương lai. nếu chú già chú chết thì hai đứa nhỏ sẽ thay thế cho chú mà duy trì hạnh phúc chung. Hai con không đến nỗi cực khổ mà sợ. Nào dè việc xưa tưởng như đã vùi lấp, lại cũng tưởng biển rộng giúp ngăn ngừa, tình cờ mình không nhắc nhở mà nó lần mò bò ra tới đây phá rối cảnh đời ấm êm vui vẻ của mình như vầy. Trót đêm hồi hôm rồi têm ngày nay nữa, chú suy nghĩ hết sức kỹ lưỡng. Bọn ham danh lợi hễ nghe người giàu sang kêu gọi thì họ dạ dạ co giò chạy theo liển, họ có cần gì phải suy nghĩ. Tại mình ham hạnh phúc thiên nhiên, mình cho hạnh phúc đó bền vững lâu dài, còn mình chê hạnh phúc rực rỡ, mình cho hạnh phúc dó xây dựng trên tham lam gian dối nên dễ sụp đổ, bởi vậy mình mới nhọc lòng rối trí. Vấn đề gồm có hai lẽ: phải trở về Sài Gòn hay là phải ở luôn ngoài Phú Quốc. Hai lẽ đều giành phần phải hết, mà bên nào cũng có lý vững chắc như nhau, không bên nào hơn, bên nào thua. Nhưng ở đây là mình vì mình, bởi vì
mình muốn thảnh thơi vui vẻ cho phận mình, còn trở về là mình vì người, bởi vì mình làm theo ý người muốn.
Cô Lê chận nói: „Mình kể phận mình, chớ lo cho người làm chi chú. Nếu mình vì người, thì mình sống cho người, họ đặt đâu mình phải ngồi đó, mất hết thong thả, thì có vui sướng chi đâu mà sống".
Ông Hai Cường cười mà nói: „Đã biết mình xa lánh người đời để tìm với cảnh đời thiên nhiên là cảnh đời đặc biệt ít ai muốn thì mình lo cho phận mình chẳng kể thiên hạ; nhưng hoàn cảnh của mình khác, mình không thể không kể đến người con à. Để chú nói cho con nghe. Hôm qua chú đã có tỏ thiệt chú đón gặp Khải Quang năm xưa cho con hiểu rồi. Nười đó không phải bợm giàu sang hiếu sắc, dụ dỗ con gái nhà nghèo làm cho ô danh xủ tiết rồi hất bỏ. Người ăn ở có hậu, bây giờ chú mới thấy rõ. Khi người trao cho chú một ngàn đồng bạc năn nỉ cậy chú đem ra Phú Quốc ở làm ăn mà nuôi giùm con, chừng con sanh rồi chú cũng nuôi giùm luôn đứa nhỏ nữa. chú thấy người vì hiếu mà phải khinh tình chớ không phải bội bạc nên chú bất nhẫn, không nỡ báo oán gây thù. Người có căn dặn gặp việc chi trắc trở hay là làm ăn thiếu hụt cứ viết thơ cho người hay đặng người gởi tiền bạc thêm mà châu cấp cho mẹ con của con luôn luôn được no ấm. Hồi đó chú tưởng lời căn dặn đó là lời phỉnh phờ; lỡ gần gũi cho con có thai rồi bị cha mẹ rầy rà không trọn tình với con được, phải cho một ngàn như đền bồi trinh tiết của con. Dặn gởi thơ và hứa châu cấp thêm là nói cho chú mát ruột mà xuôi thuận cho êm vậy thôi, chớ không có nghĩa gì, bởi vậy chú không thèm cần cố tới. Bây giờ mới hay mười mấy năm nay Khải Quang có viết thơ cậy tìm chú nhiều lần, lần nầy còn cậy hễ tìm được thì ra tiền cho chú đem hết mẹ con của con trở về Sài Gòn cho người. Té ra lời căn dặn là lời thành thiệt do thâm tâm mà ra, chớ không phải lời phỉnh phờ ở khóe môi chót lưỡi. Khi con sanh Xuân Sơn chú không gởi thơ cho người hay, chú đã thất ước với người. Nguời gởi con cậy chú nuôi giùm, bây giờ nguời đòi lại, chú nói làm sao mà không trả đuợc. con tính thử coi".
Cô Lê không trả lời.
Ông Hai Cường nói tiếp: „Thuở nay bà con mình cứ khoe khoang mình vui sống trong đạo thiên nhiên. Tình cha con với nghĩa vợ chồng là đạo thiên nhiên chớ gì. Nếu chú cấm cản không cho con về cho gần chồng, không cho Xuân Sơn về cho biết cha, thì chú đã lỗi hứa hẹn, mất lòng tin cậy của người, mà chú còn trái với đạo thiên nhiên, té ra xưa nay chú giả dối với đấng Tạo Hóa, không thế đuợc. Tuy gốc chú ở trong chỗ bần hàn đê tiện mà ra, song chú biết giữ trung tín, chú ham thở liêm sĩ. Theo ý chú, thì chú muốn đem con trở về Sài Gòn chú giao lại cho Khải Quang cho tròn nhiệm vụ của chú, rồi con chịu ở với người hay không thì Hai đàng tính với nhau, chú không biết tới nữa".
Cô Lê vụt nói: „ý! Không đuợc đâu chú. Con xin ở luôn đây với chị Thiên Hương, con không chịu về Sài Gòn đâu".
Ông Hai Cường cứ bình tĩnh nói tiếp: „còn Xuân Sơn cũng vậy. Theo lời ước hẹn của người mà cũng theo lý thiên nhiên của Tạo Hóa, ngoại phải đưa con vô Sài Gòn cho cha con biết nhau rồi con muốn ở với cha hay là trở về đây mà ở với ngoại thì tự ý con hoặc do cha con liệu định chớ không lẽ ngoại giành con ở luôn ngoài nầy với ngoại. Tuy kông có giấy tờ chứng minh nghĩa cha con, song ngoại biết thì đủ cần gì tờ giấy".
Xuân Sơn châu mày mà nói: „Mẹ con không đi thì con đi làm chi. Con đã nói phải đi hết con mới chịu đi".
Ông Hai Cường than: „Ai cũng cự nự không chịu đi, rồi tôi phải trả lời với quan Quận làm sao đây!"
Cô Thiên Hương mới nói: „Xin chú chậm chậm, khoan trả lời. Để ít bữa cho yên trí rồi sẽ bàn tính lại."
Ông Hai Cường cười mà nói: "Bài toán coi rẻ ợt, té ra mắc quá, cả nhà tính không ra. Hồi mới hay kiếm chú thì chú đã nghi rồi, nghi cảnh đời êm ấm an vui của nhà mình sẽ lay chuyển. Thiệt quả chú nghĩ không sai. Tuy vậy mà đừng buồn. Mình sống giữa cảnh đời thiên nhiên thì phải đặt tất cả đức tính vào lý thiên nhiên của Tạo Hoá. Nên hư, còn mất đều do ý Trời, dầu sao cũng đừng buồn,
đừng sợ chi hết. việc trả lời với quan Quận để năm mười bữa nữa cũng được, không gấp gì".
Trưa bữa sau, tình cờ sư huynh An Viên trên núi Chóp Chài ghé thăm. Ông Hai Cường mừng rỡ mời ngồi. Sư huynh hễ ghé thăm thì hay giảng dạy việc đời, bởi vậy hai cô với hai trẻ ra chào rồi xúm ngồi bên ván đặng nghe sư huynh nói chuyện.
Ông Hai Cường nói trong nhà mới xảy ra một việc rắc rối quá. May có sư xuống đây để cậy sư chỉ giùm coi phải liệu lẽ nào. Sư huynh hỏi có việc chi, ông Hai bèn kể sơ cuộc tình duyên lỡ dở hồi trước giữa Khải Quang và cô Lê lại cho sư huynh hiểu, rồi ông thuật qua chuyện quan Quận mới đòi hầu mà cho biết sự Khải Quang cậy kiếm và dạy ông đưa giùm mẹ con cô Lê trở về Sài Gòn.
Thuật xong rồi, ông Hai Cường mới than: „Có hai lẽ: nên trở về Sài Gòn hay là nên ở luôn ngoài nầy. Cả nhà đều muốn ở luôn ngoài nầy. Lê thì không nỡ dứt tình chị em với Thiên Hương mà đi, còn Xuân Sơn vì bận bịu tình của Thu Thủy nên cũng không chịu cách mặt mẹ con Thu Thủy. Mẹ con Thu Thủy không dính dấp gì với Khải Quang, lại trước đã lỗi đạo nhà nên không đi theo được. Riêng về phần tôi, thì tôi đã có lời ước với Khải Quang, nên thế nào tôi cũng phải đem mẹ con của Lê về Sài Gòn mà trả vợ cho chồng, giao con cho cha cho tròn nhiệm vụ rồi mẹ con của Lê muốn ở luôn trển hay là muốn về ngoài nầy tự ý chúng nó. Ngặt mẹ con nó không chịu đi, nên không biết phải trả lời thế nào cho xuôi. Tôi bối rối là tại chỗ đó, tại không biết liệu lẽ nào cho khỏi lỗi lời ước hẹn.
Sư huynh suy nghĩ rồi hỏi:
- Hồi trước ông có giao kết với ông Khải Quang ông dắt cô Lê đi xa, rồi chừng nào người muốn đem về thì ông phải dắt về mà trả hay sao?
- Không có giao rành như vậy. Khải Quang đưa tiền bạc cậy đem Lê ra ngoài nầy ở làm ăn mà nuôi Lê, chừng Lê sanh thì nuôi luôn giùm đứa nhỏ, coi thiếtu hụt thì gởi thơ rồi người sẽ gởi tiền bạc thêm mà châu cấp cho no ấm vậy thôi.
- Vậy thì ông có ước hẹn phải đem mẹ con cô Lê trở về đâu mà sợ thất ước. May cô Lê không chịu cải giá, chớ nếu cô có chồng khác rồi ông cũng biểu phải bỏ đặng đem trở về mà trả cho chồng trước hay sao. Mà theo lời ông nói thì Khải Quang bây giờ giàu sang tột bực. Tai sao cô Lê không muốn gần người đó nữa. Tại sao Xuân Sơn không muốn sum hiệp với cha ?
- Mẹ con nó nói 16 năm nay sống giữa cảnh thú thiên nhiên, tuy hẩm hút âm thầm song vui vẻ, thảnh thơi, an hưởng hạnh phúc của Tạo Hoá dành để, nên đã quen mùi hạnh phúc đó rồi, không còn muốn hưởng hạnh phúc nào khác.
- Mẹ con cô Lê nói như vậy là phải. Ông còn muốn đưa về Sai Gon làm chi?
- Cho chúng nó nếm thử mùi hạnh phúc khác thử coi chúng nó có thành thiệt yêu hạnh phúc thiên nhiên hay không!
- Hứ! Ông làm chi vậy? Năm nọ nói chuyện với nhau, chúng ta đã nhìn nhận ở đời có hai thứ hạnh phúc. Trước hết là hạnh phúc thiên nhiên của Tạo Hóa sắp đặt để cho con người hưởng. Thứ hạnh phúc nầy âm thầm, êm ấm, an ổn, thảnh thơi, không làm cho con người phải chộn rộn tranh đua, phải chen lấn giành giựt, phải gây thù oán, phải lo đêm ngày. Thứ hạnh phúc nầy có sẵn, mà lại bền vững đời đời, khỏi thất công xây dựng, mà cũng khỏi lo sợ sụp đổ. Thế mà ít người biết tìm mà hưởng. Còn một thứ hạnh phúc nữa là hạnh phúc nhơn tạo, vì nó do lòng ham muốn của con người tạo ra. Có người muốn lấy đạo đức, nhơn nghĩa mà gây hạnh phúc, nghĩa là muốn làm phước, làm lành cho lòng dạ nhẹ nhàng, cho lương tâm thơ thới. Số người biết gây hạnh phúc như vậy thì ít lắm, cả trăm, cả ngàn người đếm được một người đó là may. Ở đời đại đa số họ xây dựng hạnh phúc trên đống bạc tiền, trên mồ hôi, nước mắt xương máu, tóc tang của kẻ khác, mà họ say mê mết mát, rồi họ sợ chúng ganh ghét, giựt giành, nên đêm ngày phải lo giữ gìn, phải chống cự đầu nầy, bợ đỡ đầu nọ, bởi vậy hạnh phúc của họ rực rỡ tưng bừng, ồ ạt rần rộ, mà chẳng bao lâu rồi sụp đổ, tiêu tan, họ chưa được hưởng an vui chút nào hết. Ấy vậy mẹ con cô Lê muốn an hưởng hạnh phúc thiên nhiên là phải, ông còn muốn cho nếm thử hạnh
phúc nhơn tạo làm chi? Và hạnh phúc nhơn tạo có rực rỡ nên nó hay hấp dẫn làm cho lòng người dễ say mê. Mẹ con cô Lê đã đứng trên chỗ cao ráo nên sạch sẽ rồi, sao ông còn tính đem đến mé vũng sình lầy mà làm cho phải lem luốc.
- Tôi với Lê và Thiên Hương đã cố nếm mùi đời, chúng tôi chán, nên bây giờ vui hưởng hạnh phúc thiên nhiên là phải. Còn Xuân Sơn với Thu Thủy từ ngày sanh ra chưa biết mùi đời là cái gì. Vậy để cho chúng nó nếm mùi đời chút đỉnh cho chúng nó hiểu cao thấp chớ.
- Tôi sợ e ông đem chúng nó đến mé vũng rồi chúng nó té xuống sình lầy tội nghiệp chúng nó chớ. Mà mùi đời có đủ thứ, ông muốn cho Xuân Sơn nếm thứ nào?
- Trước hết nếm mùi sang trọng.
- À!… Tôi nhớ có một nhà nho đời xưa nói muốn ăn cho ngon cứ để quá bữa cho bụng đói rồi ăn cơm với rau cải cũng ngon như ăn với thịt cá. Đi bộ mà trong trí thảnh thơi thì suớng hơn đi xe mà trong trí lo sợ. Người vô tội là người sang trọng. Xuân Sơn chưa hề phạm tội lỗi gì hết tức thì cháu là người sang trọng chánh hiệu. Ông còn muốn cháu sang trọng thế nào nữa! Các cách sang trọng khác là sang trọng giả, sang trọng bề ngoài, nếu lấy kiếng mà rọi vào lương tâm thì thấy tội lỗi dẫy đầy, thứ sang trọng đó có quí báu gì mà ông muốn cho cháu tập.
- Thôi thì cho nó nếm mùi giàu có, cho nó có tiền bạc nhiều, muốn thứ gì có thứ nấy, vui sướng ngỏa nguê không thiếu vật chi hết.
- Nếu ông muốn cho cháu vui sướng ngỏa nguê, muốn thứ gì cũng có sẵn, khỏi cực nhọc hay ham muốn chi hết, thì cháu sẽ hóa ra người vô dụng. Vậy chớ ông không cảm thấy phải có mệt thì nghỉ mới biết vui, biết thỏa mãn, phải có đói thì ăn mới biết vui biết ngon, phải có khát thì mới vui biết đã khát hay sao! Về tình yêu cũng vậy; mình muốn vui mà được thương người hay là được người thương, thì trước hết mình phải rán đè nén tình yêu, rán chịu đau khổ ngóng trông chờ đợi, chừng được thỏa mãn mình mới biết vui. Những người giàu có, họ muốn thứ gì cũng có sẵn, thì họ có được thưởng thức mấy cách vui sướng trông mong đó đâu. Có sẵn mà ăn hoài sẽ
chán, có sẵn mà vui hoài rồi sẽ buồn. Dầu có cuộc vui lớn cho mấy đi nữa họ cũng không ham, rồi họ chê bai hân hủi mà sanh tật khinh ngạo. Nhà giàu họ sống giữa cảnh vui sướng luôn luôn, hễ gặp một chút gì buồn hay cực thì chịu không nổi. Còn nhà nghèo họ quen sống giữa cảnh buồn bực, nếu được một chút nào vui sướng htì họ khoái lạc vô cùng. Tạo hóa cân phân công bình lắm. Nhà giàu cái gì cũng có đủ hết nên hết biết ham muốn, mà cái gì họ cũng sợ hết, nên phải lo đêm lo ngày. Còn nhà nghèo không có cái gì mà họ biết sợ, nhưng cái gì cũng mong muốn. Hai cảnh đời đều khó chịu hết cả Hai, giàu hay nghèo cũng vậy. Thế thì sống với cảnh thú thiên nhiên của tạo hóa, không sợ mà cũng không muốn gì hết, há chẳng vui sướng hay sao mà nghĩ tới cảnh giàu sang!"
Ai nấy đều ngó nhau, không nói gì được hết.
Sư huynh An Viên đứng dậy nói về sớm, sợ tối, đường khó đi, rồi sư lấy cây gậy cáo từ mà đi. Ông Hai Cường đưa khách tới mé rừng rồi ông trở vô nhà mà nói: „Vậy thì sáng mai chú ra trả lời với quan Quận cho rồi. Chú nói đi không được, vì không ai chịu về Sài Gòn hết".
Cô Thiên Hương khuyên ông kiếm lý mà nói cho êm vì Khải Quang có hảo ý, không nên làm cho người buồn.
Ông Hai Cường gật đầu rồi ông đi ra ngoài vườn xách nước tuới cây.
8. KẺ Ở NGƯỜi ĐI
Sau mấy ngày bàng hoàng lo ngại, cảnh đời sống trong cái trảng nhỏ ở ngang Giếng Tiên đã trở lại ấm êm vui vẻ như xưa.
Ông Hai Cường hôm nọ ra bẩm cho quan Quận hay rằng khi ra đây được ít ngày cô Lê gặp Thiên Hương cũng gốc gác ở trong Sài Gòn và cũng đồng bị nạn ái tình mà xiêu lạc ra hòn, hai cô kết nghĩa chị em mà chung sống với nhau 16 năm trời, cô Lê không nỡ bỏ bạn bơ vơ ngoài nầy mà đi về được. Lại thêm Xuân Sơn, con trai của Lê, với Thu Thủy, con gái của cô Thiên Hương từ khi mới lọt lòng thì Hai trẻ được săn sóc chung, bởi vậy hai đứa yêu nhau như ruột rà. Xuân Sơn cũng không đành rời em mà đi đâu hết. Ông Hai cậy quan Quận làm ơn viết thơ trả lời cho ông Khải Quang hiểu rõ tình cảnh khó khăn như vậy chớ không phải ông có ý không chịu làm vui lòng Khải Quang. Quan Quận lấy giấy biên mấy lời của ông Hai nói rồi biểu ông về hứa quan sẽ viết thơ mà chuyển đạt lời ấy cho bạn hiểu.
Trót gần một tháng biển lặng trời trong, cây trái xanh tươi, lòng người vui vẻ. Trong nhà ai cũng khỏe khoắn, duy có cô Lê nhức đầu nóng lạnh luôn mấy bữa, ăn ngủ không được, nên cô ốm rồi sắc mặt nhàu nhè.
Một buổi sớm mơi, chú nhơn viên của làng vô kiếm Hai Cường hôm tháng trước, chú trở về mà lần nầy còn dắt theo một ông mặc âu phục đàng hoàng, tuổi lối 45- 50. Chú để ông ấy đứng ngoài sân, chú vô nhà cho ông Hai hay quan Quận dạy đưa ông khách ở Sài Gòn vô thăm ông.
Ông Hai lật đật lấy áo bận mà tiếp khách. Cô Lê đương đắp mền nằm trên ván có cô Thiên Hương ngồi một bên. Hai cô nghe nói có khách Sài Gòn vô thăm, Hai cô đều biến sắc, tưởng Khải Quang ra kiếm. Cô Lê liền tốc mền ngồi dậy. Xuân Sơn với Thu Thủy ở phía sau nhà, thấy có khách lạ nên dắt vô nghe coi có việc chi.
Ông Hai ra chào khách và mời khách vô. Ông khách dạy chú nhơn viên của làng ở ngoài kiếm chỗ ngồi chơi, chờ ông nói chuyện rồi sẽ
rước ông về.
Khách bước vô giở nón chào Hai cô. Hai cô đáp lễ. Cô Lê nhìn không phải Khải Quang thì cô nhẹ bụng. Ông nầy lớn tuổi hơn, trán cao, đầu sói, bộ tướng vui vẻ đàng hoàng. Chủ khách ngồi rồi ông mới nói: „Tôi ở trong Sài Gòn, vì bận làm việc lâu năm mệt mỏi nên tôi được giấy phép cho nghỉ 29 ngày ra đây hóng gió biển. Tôi giúp việc cho ông Lê Khải Quang, nên nhơn dịp ông cậy tôi kiếm thăm ông Hai Cường với cháu ông tên cô Lê. Xin lỗi phải ông là ông Hai cuờng không?
Ông Hai nói phải. Hỏi cháu ông là ai thì ông chỉ cô Lê và chỉ luôn Xuân Sơn là con của cô cho khách biết. Khách ngó mẹ con cô Lê rồi nói: „Ông Lê Khải Quang có vết thơ gởi gắm tôi cho quan Quận và xin cho tôi ở nhờ trong quận mà hứng gió ít ngày. Ông cũng có gởi một cái thơ cho cô, cậy tôi đem giao giùm rồi chừng tôi trở về tôi rước giùm ông Hai với mấy cô mấy cháu về Sài Gòn cho tiện. Tôi ra tới hồi xế hôm qua. Tối ở tại quận và ở chừng mươi bữa hoặc nửa tháng rồi tôi mới về. Vậy ông Hai với cô có đủ thì giờ sắp đặt đặng về. Như muốn đi sớm hơn, hoặc có việc chi phải đi trễ hơn cũng được, đi sớm thì tôi về sớm, đi trễ thì tôi chờ".
Ông khách móc trong túi lấy ra một phong thơ lớn đem lại đưa tới tay cô Lê mà nói: „Tôi ở tại quận, ông Hai với cô có cần dùng nói với tôi việc chi thì ra đó có tôi. Lại năm ba bữa tôi sẽ vô đây chơi một lần, đợi tôi vô rồi sẽ nói cũng được".
Ông khách trở lại ngồi với ông Hai, hỏi ông ra ngoài nầy được bao lâu rồi, khen chỗ ở thanh tịnh, lại khen vườn lập tốt quá. Ông nói chuyện một hồi rồi để cho cô Lê thong thả đọc thơ nên ông cáo từ đặng trở về quận mà nghỉ, hẹn trong vài bữa ông sẽ vô chơi nữa.
Ông Hai Cường ra kêu chú nhơn viên của làng đưa khách đi rồi ông muốn biết liền coi Khải Quang gởi thơ nói chuyện gì, nên ông trở vô biểu cô Lê xé bao thơ mà đọc cho ông nghe.
Cô Lê nói thơ viết dài lắm hay sao mà bao lớn lại nặng quá. Cô đưa cho Xuân Sơn biểu ngồi một bên cô mà đọc đặng bà con nghe
chung. Thu Thủy theo ngồi sau lưng Xuân Sơn. Ông Hai cũng qua bên bộ ván mà ngồi gần đặng nghe cho rõ.
Xuân Sơn ngồi giữa, cả nhà ngồi bao chung quanh. Chàng mở ra thì có một bức thơ với một ghim giấy bạc. Chàng trao ghim giấy bạc cho mẹ rồi đọc thơ như vầy:
Cùng bạn chung tình,
Em ôi! tưởng là đời của qua hư hỏng, qua không dè qua còn được hưởng phước như vầy!
Tiếp được thơ thứ nhứt của quan Quận cho hay đã tìm đuợc chú Hai với em rồi, cả Hai người dều an vui khỏe mạnh, mà em lại sanh được con trai năm nay đã 16 tuổi. Qua vui mừng hết sức. qua liền viết thơ cậy quan Quận lập thế đưa giùm chú Hai với mẹ con em về Sài Gòn mau mau, không có chi mà phải suy nghĩ hay bàn tính.
Có lẽ thơ của qua chưa ra tới Phú Quốc thì qua lại tiếp được thơ thứ nhì của quan Quận nói rằng em với Xuân Sơn đều không nỡ bỏ mẹ con cô Thiên Hương mà đi về.
Qua bối rối lại nóng nảy quá chịu không đuợc. Đường sá xa xôi, giao thông bất tiện. Thơ từ đi lâu, lại nói không cạn lời. Qua mới xin cho ông Phán Cao là người tâm phúc của qua, nghỉ phép 29 ngày, và cậy ông đem thơ nầy ra Phú Quốc, thuật hết việc nhà của qua cho em với chú Hai nghe, rồi xin ruớc hết về Sài Gòn, rước luôn mẹ con cô Thiên Hương nữa.
Lòng dạ của qua trước sau cũng vậy. Còn bạn của em tức thị bạn của qua. Vậy xin em đừng ái ngại chi hết, cứ thâu xếp đặng đem nhau về cho mau. Qua trông đợi em lắm, trông đợi đặng thưởng thức cái thú vợ chồng, cha con sum hiệp một nhà, để bù trừ nỗi khổ 16 năm ly biệt của đôi ta.
Truớc kia vì nặng hiếu nên qua phải nhẹ tình. Bây giờ chữ hiếu đã vẹn toàn, thì chữ tình hết trở ngại.
Qua có giao riêng cho ông Phán Cao một số tiền đủ làm lộ phí mà rước em. Qua gởi một ngàn đồng bạc cho em theo thơ nầy để em
có thiếu đủ ai thì trả cho người ta. Nếu em lỡ có nhà cửa thì em kêu họ mà cho hoặc bỏ hoang, đừng thèm tiếc.
Ông Phán Cao đi thì qua trông đợi em đêm ngày, vậy xin em về cho mau.
người bạn chung tình không bao giờ quên em,
LÊ KHẢi QUANG
Ông Hai Cường nghe đọc dứt rồi ông vùng đứng dậy mà nói: „Rõ ràng có phải là bợm bội bạc xỏ lá đâu. Người ta biết giữ tròn chung thủy. Nếu mình sống vì mình chớ không chịu vì người thì mình hóa ra là người bội bạc, không biết tình nghĩa hay sao? Khổ dữ a! Tính làm sao bây giờ!"
Thu Thủy lấy bức thơ cầm ra cửa đứng mà coi lại, Xuân Sơn đi theo đứng kề vai mà xem chung nữa.
Cô Thiên Hương nói: „Viết thơ không dùng lời âu yếm, không theo điệu thơ tình, chỉ lấy sự thiệt mà nói, vậy mới thấy rõ tình trung thành chơn chính. Mẹ con Xuân Sơn thế nào cũng phải về, chớ thối thoát sao phải".
Cô Lê nói: „Em đương bịnh đi xa sao được. Mà em đi thì chị cũng phải đi với em".
Cô Thiên Hương nói: „Tuy ông Khải Quang biểu mẹ con chị cũng phải đi, song phận chị khác, nên chị cần phải suy nghĩ lại. Còn chú Hai, chú cũng phải đi theo mẹ con Xuân Sơn về trỏng mà ở chớ".
Ông Hai Cường tư lự rồi đáp: „Chú nghĩ lại chú về trỏng mà làm giống gì, chú đã già rồi, lại không có vợ con. Mẹ con Xuân Sơn đã được Khải Quang lãnh mà bảo bọc, thì chú rảnh tay hết lo nữa. Chú tưởng chú nên ở luôn ngoài nầy sống giữa cảnh thiên nhiên, an hưởng thú nhàn lạc, ngoài vòng trần tục, bạn với nước non, thì khỏe hơn nhiều. Hơn nữa lập cái vườn nầy công lao của chú nhiều quá, chú không nỡ bỏ mà đi. Mẹ con Xuân Sơn có chịu về thì đi theo ông Phán Cao đó được. Nếu muốn có đi nữa thì chú đưa vô giáp mặt Khải Quang, chú ở chơi ít bữa rồi chú trở ra ngoài nầy đặng chú săn
sóc vườn tược của chú. Sau chú già, chú nằm giữa cảnh thiên nhiên nầy, mồ mả cũng được thanh cao".
Cô Thiên Hương mừng và nói: „nếu chú ở đây thì con ở với chú, con lo cơm nước cho chú, chú cháu hủ hỉ với nhau, con vui lòng lắm".
Cô Lê hỏi: „Còn Thu Thủy, chị tính làm sao?"
Cô Thiên Hương ngó Hai trẻ còn đứng coi thơ với nhau, cô mới nói: „Việc đó để tối hay mai chị sẽ bàn riêng với em và chú, không gấp gì."
Ông Hai nói: „Trong thơ Khải Quang có nói ông Phán Cao sẽ thuật việc nhà của người cho mình nghe. Hồi nãy ông Phán hứa vài bữa sẽ trở vô đây chơi. Vậy đợi ông vô rồi chú hỏi coi người vợ giàu cha mẹ cưới cho người hồi truớc đó bây giờ ở đâu và cha mẹ rầy rà buộc phải xa con Lê, mà sao người nói đã tròn chữ hiếu nên bây giờ đem mẹ con Xuân Sơn về cho vẹn chữ tình. Để hỏi lại cho rõ tình cảnh rồi mình mới nhứt định được".
Nên đi hay nên ở, việc đó tuy chưa quyết định, song được thơ của Khải Quang thì cô Lê với cô Thiên Hương không buồn, mà ông Hai cũng không bối rối như hôm trước nữa. Còn Hai trẻ thấy trong thơ Khải Quang xin rước đi hết, tuy chúng nó không mừng song cũng hết lo nữa, vì chúng nó nghĩ dầu ở dầu đi nữa chúng nó cũng khỏi rẽ phân, miễn được sống chung với nhau một nhà thì vui, dầu ở đâu cũng được.
Cách một bữa, ông Phán Cao trở vô nữa. Đã biết đường rồi nên lần nầy ông không cần cậy người của làng dắt đi nữa. Ăn cơm trưa với quan Quận rồi ông bận áo sơ mi, quần sọt cho mát và gọn, tay lấy một cây gậy chống mà đi, tính đi đến chiều sẽ về.
Ông Hai Cường thuộc hạng bình dân. Nhờ ông đã dày dạn phong trần, nên ông lịch lãm nhơn tình thế thái. Nghe đọc thơ của Khải Quang rồi lại đuợc nghe ông Phán nói chuyện hễ chừng nào mẹ con Xuân Sơn đi được thì ông về, sớm hay muộn cũng được, thì ông không nói ra nhưng ông dư biết ông Phán nầy muợn cớ nghỉ hứng gió, chớ kỳ thiệt ông là người tâm phúc lanh lợi của Khải Quang nên
Khải Quang cậy đi thuyết khách mà dụ mẹ con Xuân Sơn về cho mau. Hôm qua ông Phán không vô là cố ý để cho chú cháu đọc thơ rồi bàn tính, thế nào bữa nay cũng vô lại mà khuyên dỗ, bởi vậy ăn cơm sớm mơi rồi ông ra vô mà chờ.
Thiệt quả cách chẳng bao lâu, ông Phán Cao vô tới. Đã quen rồi nên ông đi ngay vô nhà, vui vẻ chào từng người. Ông lột nón bỏ trên bàn, dựng cây gậy dựa vách, rồi kéo ghế mà ngồi, không đợi chủ nhà mời. Ông bắt đầu nói hôm kia ông vô thấy cô Lê trùm mền, vóc ốm, nước da mét, ông chắc cô bị rét, vì ở giữa rừng hay có bịnh đó, ông về hỏi quan Quận mà xin một chục ký ninh trao cho cô Lê uống. Ông móc túi lấy gói ký ninh trao cho cô và dặn mỗi ngày cô uống hai viên, sớm mơi một viên, chiều một viên, ăn cơm rồi thì uống liền; uống vài bữa cho hết làm cữ rồi cô giảm bớt, mỗi bữa uống một viên, uống hêt một chục viên đó thì rét dứt. Cô Lê cám ơn.
Rồi ông kiếm chuyện dông dài mà nói, ông khen ngoài nầy phong cảnh đẹp, khí hậu tốt, có núi cao biển rọng nên đêm ngày mát mẻ lôun luôn, lại có cá biển đủ thứ ăn ngon mà giá rẻ, còn có nước mắm nhỉ, có mắm nêm cá cơm ăn mê quá. Ra đến đây thấy phong thổ điều hòa, bề ăn uống sung sướng, hết muốn trở vô Sài Gòn. Hèn chi hồi trước ông chú ra chơi rồi ở luôn ngoài nầy nghĩ cũng phải lắm.
Ai nấy tưởng ông Phán muốn nhập đề, té ra ông vừa xáp vô rồi lại dang ra mà nói qua thổ sản, nói việc trồng tiêu, nói việc lấy huyền, nói nghề chài lưới. Ông Hai Cường nóng nghe việc nhà Khải Quang, tính kéo ông Phán xáp vô lại nên ông nói:
- Thiệt hồi trước chú cháu tôi không biết phong thổ Phú Quốc là thế nào. Vì cậu Khải Quang hồi đó là hạng thanh niên tân tiến, cậu quyết thực hành cái thuyết tự do kết hôn, cậu thỏa thuận với con cháu tôi đây rồi Hai đàng làm vợ chồng với nhau. Chừng con cháu tôi có nghén, cha mẹ cậu Khải Quang sanh giặc bắt nhốt cậu ở nhà, rồi đi cưới vợ cho cậu đâu trong Chợ Lớn. Anh chị tôi cũng không chịu cái thuyết tự do kết hôn đó nên đánh đuổi con cháu tôi. Tôi không theo cái thuyết nào hết, tôi có tật hay thương người lỡ bước chơi vơi, tôi không nỡ buộc cậu Khải Quang xung đột với mẹ cha
mà mang chữ bất hiếu, tôi cũng không đành để cho con cháu tôi hổ thẹn ăn năn mà tự tử tầm bậy như nhiều cô gái khác. Tôi mới an ủi rồi đem cháu tôi ra đây mà xa lánh trần tục rộn ràng đặng an hưởng cảnh thú thiên nhiên trời biển. Mười mấy năm nay chú cháu an thân khỏe trí không muốn biết tới việc đời nữa. Cậu Khải Quang tính rước chú cháu tôi về làm chi? Cậu đã có vợ khác, vợ của cha mẹ cưới. Cha mẹ cậu lại không ưa con cháu tôi. Nếu chú cháu tôi về Sài Gòn thì gia đạo của cậu xào xáo, mà chú cháu tôi lại mất cái thú an vui với núi rừng trời biển nầy, về mà không đàng nào có lợi hết thì về làm chi?
- Tôi làm việc với ông Khải Quang mười bảy năm nay tôi biết rõ gia đạo của ổng hết. Bây giờ đổi khác, chớ không phải như hồi trước. Cha mẹ ông thuộc bực phú hào có con học giỏi, xuất thân làm việc được ngồi địa vị có tương lai rực rỡ. Hai ông bà, nhứt là bà muốn kiếm chỗ giàu sang mà làm sui đặng đương môn đối hộ. Ý mấy người thủ cựu thì vậy đó nên ép buộc ông phải bỏ cô đây rồi đứng cưới con gái của một nhà phú thương trong Chợ Lớn cho ông. Vì trái tim của ông Khải Quang đã có người làm chủ rồi, bởi vậy cưới vợ về thì ông lãng lơ, lãnh đạm. Tuy vợ của cha mẹ cưới ông không dám hân hủi, song đối với vợ, ông không tình chi hết. Bà vợ tưởng mình giàu sang về nhà chồng sẽ được chồng yêu thương, chiều chuộng. Té ra ban đêm chồng cứ lo đọc sách, không dắt vợ đi chơi mà có đi thì đi ăn tiệc hoặc đi chơi với anh em, không chịu đem vợ theo. Ở trong tình cảnh ấy, bà vợ tự nhiên cũng không dan díu với chồng được. Bà thất vọng, nhưng cũng nán ở với chồng được ba năm. Sau bà chán nản quá, nên mượn cớ bịnh hoạn xin về ở với cha mẹ ít ngày đặng uống thuốc, rồi lần lần dang ra. Được một năm vợ chồng không khác. Sui gái sợ mang tiếng, mới ra xin với sui trai mà ly dị, chớ vợ chồng không có tình với nhau ấy là tại không phải căn duyên, thôi thì rời rã phứt cho xong. Bà sui trai cự nự lắm, chớ Khải Quang với ông già thì sẵn lòng phân ly. Đàng gái muớn trạng sư vô đơn xin để. Tòa lập thế hòa giải, cả năm mà không được lên án cho phá hôn thú. Ấy vậy cuộc vợ chồng đương môn đối hộ của ông Khải Quang kéo dài trước sau có năm năm rồi rời rã mà may không có con lòng thòng. Bà già ông còn kiếm chỗ khác đặng làm
sui nữa. Ông già không cho. Ông nói năm trước Khải Quang có kết tình với cô nào đó nghe nói đã có thai. Vậy thì nên đem cô ấy về đặng vợ chồng đầm ấm mà mình lại có sẵn cháu nội. Bà già nhứt định không chịu. Ông Khải Quang cũng nhứt định không cưới vợ khác. Ông thấy cha một bụng với ông nên viết thơ ra Phú Quốc cậy kiếm giùm. Ông tính rước về, ông muốn để ở riêng. Té ra kiếm không được. Ông Khải Quang cũng không chịu cưới vợ, quyết ở vậy mà chờ. Cách năm sáu năm sau, bà già mất, ông già nhắc Khải Quang rán tìm người cũ, nếu không có chồng thì rước về đặng coi sóc việc nhà. Khải Quang viết thơ cậy kiếm giùm nữa, mà kiếm cũng không ra. Năm nay may có người bạn học hồi trước đổi ra đây. Khải Quang mới viết thơ nói rẽ ròi và cậy mướn người chịu khó đi hỏi từ nhà, đi khắp trong rừng, trong núi mà hỏi, nên tìm được đây. Ông cụ hay tin tìm được, cụ mừng quá. Nghe nói mười mấy năm cô không lấy chồng, cứ ở vậy mà nuôi con, lại được con trai năm nay đã 16 tuổi, thì quí lắm, bởi vậy ông cụ thôi thúc Khải Quang phải làm sao rước hết về cho mau. Tại vậy nên ông Khải Quang vì phận sự ràng buộc ông đi không được, ông mới cậy tôi đi thế, căn dặn tôi phải làm sao rước cho được, ở bao lâu thì ở, phải rước cho được thì mới về".
Ông Hai Cường vui vẻ nói: „Tình của cậu Khải Quang dẻo dai bền bỉ quá! Mà có việc như vầy mấy ổng mấy bả ở theo xưa họ mới thấy vợ chồng yêu nhau gia đình mới đầm ấm, chớ không phải như đương môn đối hộ. Làm cha mẹ, dầu có con trai hay con gái cũng vậy, hễ biết con nó dành chỗ nào, mình dọ hỏi nếu không phải là nhà trộm cướp hay hung dữ, hay ngang ngược thì mình cho cưới gả, không cần cao thấp hoặc nghèo giàu. Con mình nó có phước đức riêng của nó. Mà rủi ro nó yêu lầm, nó chọn sai thì nó chịu, mình khỏi bị nó phiền trách".
Ông Phán Cao cũng cười mà nói: „Ông chú già mà trí ý theo thế hệ mới, thiệt đáng khen. Tôi kính phục ông chú rồi. Ông cụ ở trển cũng vậy. Cụ dễ dãi muốn chiều theo ý con. Duy có bà cụ hồi trước gắt gao, ăn ở theo xưa quá, làm cho đời của ông Khải Quang phải lạt lẽo buồn hiu hết mười mấy năm nay. Mà bây giờ tìm được đây, vậy cũng là may. Có lẽ Trời Phật thấy tình ông nặng nề bền vững nên động lòng phải cho ông sum hiệp với vợ con đặng ông vui thú gia
"""