"Sóng Ở Đáy Sông PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sóng Ở Đáy Sông PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tác phẩm: Sóng ở đáy sông Tác giả: Lê Lựu Thể loại: Tiểu thuyết Nhà xuất bản: Hải Phòng Năm xuất bản: 1995 Chụp sách: Bùi Thị Thảo Nguyên Đánh máy: bemap96, Ngọc Phúc, Trần Minh Xuân, Phương Mai, Tornad Soát lỗi: Nguyễn Huyền Chế bản: Tornad Ngày hoàn thành: 4/3/2017 Chương 1 Bây giờ thì hắn đã là một ông chủ. Ông chủ nghề mộc của ba mươi ba người hoặc đang ở tù, hoặc sắp hết hạn, hoặc là con cháu của bạn tù. Ông chủ đã được tự do nhưng vẫn mặc áo tù. Các kiểu áo, khi thì kẻ sọc từa tựa sắc áo của đội tuyển bóng đá Áchentina, khi thì màu cỏ úa, khi thì đen và cuối cùng là màu tím thâm giống màu hoa của các cô cậu mới lớn ép vào sổ lưu niệm hẹn hò sự chung thủy. Tất cả vẫn còn nguyên, chỉ khác: Vải tốt hơn và do hắn tự may chứ không phải nhà tù phát. Hắn “nghiện” áo tù như “nghiện” những con người suốt cả đời không lúc nào rời khỏi tâm trí hắn: một người cha và những đứa con. Vào thời sinh nở có kế hoạch, gia đình hắn nhất định là đối tượng phải đấu tranh, góp ý. Nhưng thời bấy giờ có nhiều người thèm khát cảnh giàu có, lắm vợ đông con như cha hắn. Bà cả: năm con sống, ba con chết. Bà hai: bốn sống, ba chết. Một người vợ ba không giá thú mà sau này người ta gọi cái tên hết sức nhố nhăng là “bồ” cũng có một con sống, hai chết. Hắn là thứ ba nhưng kể người sống thì hắn là con cả của bà hai. Mẹ hắn nguyên là người ở nên sống với bà cả vừa là em, vừa như con hầu. Ấy là nghe mẹ hắn kể thế. Khi hắn ra đời bà cả đã mất. Các anh con bà cả coi hắn vừa như em vừa như con. Duy có anh út, anh Ý như một sự thêm thắt của cha dành cho bà cả. Anh Ý cách xa các anh lớn hàng chục tuổi và hơn hắn có hai tuổi. Cha hắn là người cao to, hồng hào không có râu nên rất khó đoán tuổi và không biết lúc nào đang vui hay buồn, vì rất ít khi ông nói, cười với vợ con. Còn với bạn bè và người cùng phố, cùng sở làm việc thì người ta bảo ông là người rất nghiêm chỉnh và họ gọi ông là ông “biết trước”. Hắn không biết cha mình làm gì, chỉ thấy nói ông làm bàn giấy ở trong Cảng từ thời Pháp và khi ta tiếp quản ông vẫn là cán bộ bàn giấy ở đấy. Cho đến mấy chục năm sau này ăn bờ, ở bụi, ra vào nhà tù như ra vào chợ Sắt hắn không thể hiểu nổi cuộc đời hắn bắt đầu từ đâu? Vào lúc nào? Có phải từ cái gia đình giàu có đã phá sản và từ người cha nghiêm ngặt đã thất thế? Một ngôi nhà hai tầng cửa chớp xanh, khung cửa kính, màu vàng, gạch nghiêng màu đỏ viền quanh, không hề bám bụi bẩn và xây sát. Cha và các anh con mẹ cả ở trên tầng hai, mỗi người riêng một phòng. Người chơi ghi ta, người tập pianô, người vẽ tranh, người đánh tenít… Anh nào cùng nói tiếng tây xì xèo như rán mỡ và nhanh như gió. Mấy mẹ con hắn ở tầng dưới nhưng vẫn có một nửa phía ngoài là nơi tiếp khách. Ở cùng một nhà nhưng tầng trên, tầng dưới như hai nước khác nhau. Người tầng trên đi về lặng lẽ như ma, lại chỉ thấy xì xèo như người ở bên tây mới sang. Còn tầng dưới, tầng của nước “ta” thì cười đùa, khóc mếu, cãi cọ, cấu véo nhau, chí choé suốt ngày. Thỉnh thoảng lại giật thốt người nghe tầng trên quát xuống: “Có để cho ai yên không?” hoặc: “Cả lũ mất dạy”. “Không còn biết thế nào là tự trọng” hoặc “Có định phá cái nhà này ra thì bảo?”. “Đúng là dân nhà quê”. Những lúc ấy mẹ lại nghiến răng xỉa ngón tay vào trán tên “thủ phạm” nói rin rít mà rất nhỏ, đe dọa một cách vụng trộm: — Tôi lạy các bố. Giết tôi đi, đừng làm tôi nhục nhã ê chề với người ta. Cả hai thằng nín thở đứng gục mặt nhận tội và thương mẹ. Nhưng tất cả đều quên nỗi sợ hãi rất nhanh, chỉ vài ngày sau lại không nhớ lúc nào tầng trên có người. Cũng may, mỗi buổi tối vào lúc ăn cơm lại có thể phần nào làm nhẹ vơi nỗi tức giận của tầng trên. Cả nhà chỉ ăn chung một bữa tối. Giúp mẹ dọn cơm xong, thằng nhớn, tức là hắn lên đứng ngoài cửa từng phòng khoanh hai tay trước ngực: “Con mời cậu đi xơi cơm ạ”, “Con mời anh đi xơi cơm ạ.” (Trừ anh út còn khi vắng bố hắn phải xưng con với tất cả các anh). Cậu và các anh ngồi vào mâm, hai đứa trẻ nhà dưới lại đồng loạt khoanh tay mời: “Con mời cậu xơi cơm. Em mời các anh xơi cơm ạ”. Chữ “anh” là dùng cho những anh ở tầng trên, còn mẹ và thằng anh ở tầng dưới đều biết rằng không ai đáng được mời và cũng chẳng ai phải mời ai. Mẹ tuy đẻ ra con nhưng mẹ lại là con ở. Chúng tuy là con nhưng là con của ông chủ. Cả khi lên gác, cả lúc quanh mâm cơm, cả khi trông thấy người tầng trên đi về, mẹ và các con tầng dưới đều phải kính cẩn mời chào. Nhưng không bao giờ được nghe một tiếng nói, một cái phẩy tay hoặc một cái nhìn đáp lại. Vậy mà không chào, mời, lập tức được “đáp” lại ngay. Đấy là khi tất cả đã ngồi vào mâm, mẹ và lũ trẻ mời xong còn chưa dám cầm đũa thì cậu vừa và cơm vừa nói mà không cần nhìn vào kẻ phạm tội. Chẳng hạn: — Núi – tên hắn, hoặc Sông – thằng em kế hắn – đứng dậy. Cậu lại tiếp tục ăn và giọng hạ xuống như không hề có chuyện gì xảy ra: “Vào tường khoanh tay lại”. Rất nhẹ nhàng, nhưng “phạm” – theo cách gọi của hắn những năm sau này – biết tội lỗi của mình bỏ đũa xuống mâm đi vào tường, ngoảnh mặt ra bàn ăn, cúi gằm xuống cho đến khi nào cậu cảm thấy cần tha thì tha. Có khi ăn được một bát, có khi là nửa bữa, có khi đã ăn xong cậu lại quên đi, lững thững lên gác không biết rằng đã có kẻ bị phạt. “Phạm” cứ phải đứng đấy đợi mẹ lựa khi nào thuận mới dám xin cậu. Mỗi lần có kẻ phạm tội, mẹ nhai cơm trông như nhai rác trong miệng. Không chan canh, không gắp thức ăn, miếng cơm khô và vào miệng, mẹ nuốt nó bằng nước mắt của mình. Cũng có lúc nước mắt lại chảy ra ngoài, miếng cơm mắc ở cổ mẹ như nghẹn, lấy vạt áo lau nước mắt. Một tiếng “rầm” xuống bàn cùng với tiếng quát: “Còn muốn bênh hả?” Bát đũa trong mâm nẩy lên. Cả mấy mẹ con cũng nẩy lên, run bần bật. Các anh tầng trên cau mày, lặng lẽ ăn, lặng lẽ đứng dậy, lặng lẽ ném vào mẹ con hắn những cái nhìn khinh bỉ rồi lên gác. Chương 2 Sự lục đục của tầng trên bắt đầu từ hạnh phúc của anh hai, anh Nam. Tên các anh ở tầng trên thứ tự như sau: An–Nam–Bình–Yên–Ý. Anh Quốc trên anh Bình, anh Vạn, chị Sự, chị Như sau anh Yên đều chết. Nếu còn sống cả thì tên của các anh các chị tầng trên gọi liên tục là: An–Nam–Quốc–Bình–Yên, Vạn–Sự–Như–Ý. Ở tầng dưới, kể cả những đứa đẻ sau này, thành một dãy: Núi–Sông–Biển–Cả–Phồn (chết) và đứa gái cuối cùng thì chưa kịp đặt tên. Nó đã cùng mẹ chết trên bàn mổ. Vợ Nam là người phụ nữ đẹp đến nỗi cả tầng dưới, tầng trên ai nhìn thấy cũng nao núng, buồn. Vì ngoài anh Nam ra, chị ấy không phải là của ai. Cười cho mọi người, nhìn âu yếm cho mọi người. Làm xôn xao cho mỗi bữa ăn tối. Chị so đũa hộ các em, mời trước mọi người, mời tất cả. Vào bữa ăn, người lớn thì dịu dàng, tươi tỉnh, dù vẫn lặng lẽ. Lúc ấy trẻ con cũng ngoan hẳn lên, tranh nhau khoanh tay chào mời lễ phép không cần ai nhắc nhở và cũng không “quên” để thành kẻ phạm tội. Mỗi lần chị đi đâu về hoặc từ trên gác xuống đều khoác vai anh. Trẻ con tầng dưới thích thú, ngó nghiêng thầm thì. Người lớn tầng trên thấy chướng mắt quay đi, khó chịu. Còn mẹ hắn, mỗi lần bất chợt nhìn thấy anh chị ôm nhau vội vàng ngoảnh mặt hoặc lẩn vào chỗ khuất như không hề biết gì, không thấy gì. Mẹ sợ. Nhưng vào bữa ăn, mẹ vẫn nhìn chị, vừa như biết ơn, vừa chân thành khuyến khích: “Chị tốt lắm. Đừng ngại gì”. “Tiếng súng” bùng nổ ở tầng trên vào một buổi chiều. Anh Nam đang cởi trần, mặc quần đùi. Chị đi đâu về, chưa kịp bỏ nón và cởi áo dài, anh đã ôm lấy chị. Hai người nằm ra giường. Các cánh cửa sổ vẫn mở. Anh An đi qua nhìn thấy. Chỉ kịp nhổ một bãi nước bọt rồi quay lại xô vào phòng cậu dập cửa thình thình. Các anh khác xô ra. Anh An nói với bố nhưng cho cả tầng trên, tầng dưới nghe: — Cậu sang chỗ thằng Nam mà xem trò mèo. Nó coi đây là cái bãi tha ma toàn những xác chết hay sao? Thời buổi loạn lạc. Bẩn thỉu. Anh Nam đẩy các cửa sổ lại và từ từ đóng cửa chính. Trước khi nó kín hẳn anh còn thò đầu và cánh tay trần ra ngoài nói: — Ông ghen hả? Mẹ kiếp, có thèm, sang đây tôi ủng hộ một cái. Chiều đó, An bỏ nhà đi đâu! Chị vợ Nam không xuống ăn cơm. Còn mọi người, không ai nhìn vào mặt ai, cứ như có ai bôi nhọ nồi lên mặt mình. Hai đứa trẻ, đứa lên bốn, đứa lên ba không cần mẹ dặn, chúng cũng biết cảnh lục đục ở tầng trên. Chúng khép nép thì thào với nhau: — Không đùa nữa, bố giết chết đấy. Thằng em gật đầu nói lại: — Đứa nào bép xép bố xé đôi cho chó nhai, không đùa đâu. Một tuần sau An về và ngồi vào bàn ăn tối với mọi người. Chưa ai biết rõ sự xuất hiện đột ngột thì anh đã nói lạnh tanh: — Chủ nhật sau tôi lấy vợ. Cưới ở khách sạn Lục Hải Thông. Tôi đặt năm mươi xuất quan khách. Tôi lo mọi việc. Khoản ngân khố cậu đảm đương cho tôi. Ông bố cũng lạnh người, giọng nhỏ, nhạt: — Cậu chưa nghĩ đến việc đó. Chỉ có loại mạt hạng nó mới cưới vợ ở khách sạn. Mà cái khách sạn Tầu ăn chơi đàng điếm ấy thì lại không thể đem nhau đến đấy mà cưới. — Tôi đã đặt rồi. — Cho nên mọi việc cậu không có bổn phận phải lo gì cho con. — Tôi cũng đã dự liệu cậu sẽ nói thế. — Tính toán kỹ lưỡng vậy là rất tốt. — Tôi đã tính không bằng 2/3 phí tổn cho thằng Nam. — Nhưng tiền không phải là nước biển! Chưa đầy một tháng, phải đổ vào đấy hai khoản lớn như thế. — Cậu còn nhiều séc ở nhà băng. — Không phải để làm việc đó. g p — Cậu phải làm! — Cậu không làm. — Cậu phải làm đấy! — Cậu nhất quyết không làm. — Cậu biết tính tôi. Từ bé, tôi không thích nói nhiều. — Cậu cũng như anh. Không bao giờ dài dòng. — Cậu quên những tài khoản của mợ chuyển sang tên cho tôi ở nhà Banque Française de L’indochina. — Cậu biết anh đứng tên. Nhưng cậu cũng biết anh không có quyền. — Không ngờ một viên chức như cậu mà không thạo luật. — Luật nào cũng phải có trên dưới, có tôn ti trật tự, anh hiểu không? — Trên dưới, tôn ti trật tự? Cậu hỏi mấy đứa trẻ nhà quê này xem chúng nó sinh ra có phải từ cái tôn ti trật tự nhà này không? Thôi tôi đi. Thứ tư tôi quay về để lấy tiền cachet cho chủ khách sạn. Anh đi ra cửa. Đến lúc này người cha không thể nhạt nhẽo được nữa. Mặt ông nóng lên bừng bừng trước sự xúc phạm của con trai. Ông đứng phắt dậy ném sự bực tức theo nó: — Mày đừng hòng tiêu của tao một xu. Rồi để chứng tỏ sức mạnh của mình, trước mặt đám con trai, cô con dâu nhõng nhẽo và mấy mẹ con con nhà quê, ông xăm xăm lên gác, chân nện thình thình xuống sàn gỗ lim. Thế nhưng, mọi việc cũng cứ diễn ra. Đám cưới vẫn ăn uống linh đình. Vẫn là tiền của ông bố. Vợ chồng An vẫn về sống ở căn phòng cũ của anh. Chỉ khác trước ở chỗ, bây giờ gia đình không ăn cùng buổi tối. Hai đôi vợ chồng mới ở tầng trên nấu ăn riêng hoặc đi ăn khách sạn. Hai anh con trai tiếp theo đòi chia tài sản rồi người đi mua chỗ khác, người xung vào lính tổng động viên chống đỡ chiến dịch Đông xuân của Việt Minh. Căn phòng của ông bố và cậu út bị g p g g hai bên lấn mất lối đi. Vào mỗi buổi, họ nấu ăn ở nhà thì khói ùa vào sặc sụa không thể chịu nổi. Sau nhiêu lần xô xát cãi chửi nhau, ông từ mặt cả hai và kéo thằng con út xuống ở tầng dưới. Ba mẹ con hắn dồn lại ở trong phòng chứa đồ. Ở chật, nhưng chúng được có bố, và mẹ chúng cũng như là có chồng. Lại thành một gia đình, ăn uống, tiêu pha, ngủ nghê cả ngày, cả đêm chứ không phải chỉ được ban phát từng lúc, từng bữa. Ba mẹ con hắn lấy làm mãn nguyện lắm. Ấy là vì cha hắn cũng như tất cả mọi người. Khi thù hằn với người này thì phải làm lành với người kia. Nó giống như nơi này có chiến tranh, thì nơi kia được yên hàn. Không hiểu ai đã dạy cho hắn, hoặc tự hắn nghiệm ra, mà hắn quyết rằng, ngày ấy khi tầng trên vỡ ra, thì tầng dưới được lành lại. Hai anh em hắn được cùng anh Ý đi dạo trên bờ sông Lấp dưới hàng cây phượng đỏ như máu. Được đi với bố là sướng, chứ sông Lấp ngày ấy thối ơi là thối. Lúc nước thủy triều dâng, sóng rào lên những rác rưởi và xác chuột, xác mèo, xác chó trắng phếu, trôi nổi lênh phênh ràn rạt kín hai bờ. Khi nước triều rút, cứt đái rác rưới đọng xuống như cô lại, bốc lên mùi thối làm tắc cả mũi người đi trên bờ. Còn ở giữa lòng sông, bao nhiêu là thuyền bè chết dí dưới bùn như những đứa trẻ dằn đít xuống đất ăn vạ. Từ đấy, khói tỏa ra cay xè và mùi húng lìu, madi rất “tàu” của các chú ba tàu, cộng với mùi cá tanh òm nhơm nhớp mặn, thành thử “mùi Hải Phòng” không thể nào quên được. Đấy là những ngày cuối cùng của tháng tám năm 1954. Quân Pháp từ các nơi kéo về khu tập kết ba trăm ngày. Đồng bào di cư từ Hà Nội, Hải Dương xuống, Bùi Chu, Phát Diệm kéo sang, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng ùn ùn đổ lên nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái la liệt giữa nắng mưa ở các vườn hoa Nhà Kèn, Cây Cọ, bãi Bonnan, Sân Máy Đèn đến cửa Nhà hát lớn, các trường học cạnh ngõ Thối… Lính lê dương, lính Bảo hoàng lùng sục, thúc ép dọa nạt, dụ dỗ đồng bào giáo dân ghi tên theo “Chúa vào Nam”. Những chuyến tàu thủy ngày đêm vào cảng chở người, máy móc, súng đạn. Các đoàn biểu tình của công nhân, của các viên chức và người lao động rầm rập kéo đi đòi Pháp phải thi hành hiệp định Giơnevơ, đòi chủ phải trả lương cho thợ thuyền. Hải Phòng như cơn sốt sôi sục cho đến chiều ngày mười ba tháng năm năm 1955, khi những người lính Pháp cuối cùng cúi mặt lê bước xuống tàu. Cả thành phố bừng đỏ màu cờ và tiếng reo hò đón bộ đội về giải phóng. Khi còn ở trong tù, hắn bảo rằng đấy là những ngày đầu tiên trong đời hắn có được những náo nức, sung sướng đến thế. Ba anh em hắn, mỗi người cầm một lá cờ đỏ sao vàng bằng giấy, một tay giơ lên vẫy vẫy dù không ai trông thấy, một tay túm vào tay cha, chen chúc xô về phía Nhà hát lớn. Cha hắn là người có công tham gia đấu tranh với chủ chống phá kho, phá tàu trong cảng, được giữ nguyên chân bàn giấy làm việc cho ta. Ông dẫn ba người con nhập vào các đoàn người theo bộ đội đi mọi nơi từ sáng sớm đến tối mịt quên rằng mẹ hắn vừa ở cữ em bé thứ tư; thằng Cả chưa đầy một tháng. Hắn bảo mẹ hắn như một cái máy đẻ bằng điện. Cha hắn chỉ cần chạm đánh “tách” một cái là có thai. Chín tháng sau lại tòi ra một đứa, sòn sòn năm một. Ngày hồm ấy hắn đã “lục vấn” cha hắn – Lần đầu tiên hắn biết cha hắn vui, hắn mới dám hỏi. Đi đến đâu hắn cũng hỏi: — Cậu ơi sao Cầu Đất lại chỉ có đường nhựa? — Ờ, ừ… — Ngõ Cấm, mà người ta vẫn cho mình đi hả cậu? — Này. Thôi, túm chặt lấy tay. Tuột ra là lạc đấy. — Cậu ơi, cầu Rào này đến đêm người ta mới rào phải không ạ? — Không hỏi nữa. Sau này học sẽ biết. Sau này đi học, hắn có hiểu ra gốc gác những tên gọi rất vô lý của thành phố mình. Nhưng hắn vẫn chưa vỡ ra và cũng chưa kịp hỏi ai rằng: Tại sao sông Lấp vẫn còn nước chảy? Hắn đã vào tù. Cuộc đời nhà tù, và cuộc đời trộm cắp dài hơn cuộc đời đi học. Làm sao hắn hiểu được điều gì. Chương 3 Cha hắn vừa như một cái đồng hồ, lại vừa như không. Giống ở chỗ: Năm giờ sáng dậy, tập thể dục, đánh răng, tắm, pha một ly cà phê uống, hút một điếu Bástô, thay quần áo, xách cặp ra khỏi cửa. Bước một chân xuống đường: Đồng hồ đánh sáu tiếng chuông. Ông đi bộ. Đi rất khoan thai và đều đặn, bất kể là trời mưa hay nắng. Nắng đội mũ phớt, mưa che ô. Chiều. Ông bước vào cửa: Đồng hồ đánh một tiếng chuông báo năm giờ rưỡi. Thay quần áo. Tắm. Chải tóc xong ngồi vào salông hút một điếu Bástô. Đồng hồ đánh sáu tiếng, ông vào bàn ăn. Sáu rưỡi đọc báo. Bẩy giờ: Vào phòng anh Ý dạy tiếng tây. Tám giờ rưỡi về phòng đánh răng, đi bách bộ. Chín giờ kém mười lăm nghe rađiô. Chín giờ ba mươi buông màn, tắt đèn, ngủ. Cái chu trình sống của ông không hề sai lệch một phút. Nó đều đặn chính xác như chiếc đồng hồ quả lắc trên tường trong phòng của ông. Nhưng ông khác nó ở chỗ từng nửa giờ có đánh chuông và nghe tiếng tích tắc từng giây, còn ông, ngoài giờ dạy cho anh Ý hoặc những lúc buộc phải quát lác, gọi hỏi, có khi cả tuần ông không nói một câu gì. Không ai đoán biết trong những ngày tháng ấy tâm trí ông để vào đâu? Những thăng trầm trong chức tước, lương bổng? Tính toán chi tiêu nuôi vợ đẻ, con thơ? Những nhớ thương, buồn, trước một gia cảnh đã bị cắt chia. Thằng cả, thằng hai đi với sở Tây vào Nam, thằng tư làm thông ngôn cho lính lê dương cũng vào Nam. Thằng ba theo vợ lên tận Mộc Châu làm kỹ sư nông trường nuôi bò sữa. Bốn người con lớn thì ba người ra đi không một lời từ biệt, không biết tung tích sống chết, sướng khổ ra sao! Nghe đâu ông phải làm tờ khai và nhờ người xác nhận. Thế là một gia đình tan nát một nửa. Cái tầng trên, một thời êm đềm sang trọng đã tự giải tán, một phần xuồng tầng dưới, hai phần đi biệt tăm. Ông hiến toàn bộ tầng trên và phòng lớn ở tầng dưới cho Nhà nước. Phòng ấy đã được thưng cót làm đôi để chia cho hai gia đình cán bộ mới vào tiếp quản. Có thể ông lo nghĩ buồn rầu về tất cả những cái đó. Cũng có thể ông chả nghĩ đến ai, lo loan việc gì. Được mấy tháng yên sóng, lặng gió đến bây giờ ông lại lặng ngắt như một người hàng xóm ngặt nghèo. Mục đích của ông là phía trước. Phía trước của ông là anh Ý. Phía trước của anh Ý là học, học giỏi, học cao. Dường như ông có hai loại con, trước mắt là thế. Một loại là kết quả của sự tương hỗ cân bằng của cha và mẹ được tính đếm cân đo kể cả khi tình yêu đã thành lửa. Một loại, do đòi hỏi nhất thời, hoàn cảnh nhất thời, tình huống và điều kiện nhất thời mà sau đó buộc phải trở thành vợ chồng. Trường hợp mẹ hắn là một ví dụ. Trong khi bà cả đẻ cậu út đang phải kiêng cữ thì sự dư thừa trong cơ thể ông không thể kìm hãm trước con ở mười chín tuổi có đôi mắt như đốt cháy người khác. Cả bộ ngực như vút lên. Cả đôi môi đang thời bừng dậy rừng rực đốt hết sự lạnh lùng của ông. Rồi… đến khi “nguy hiểm” đang đầy lên trong cơ thể của cô, ông cho cô hai mươi đồng để về quê. Bà cả sợ bẽ mặt, mất hết danh giá và nghĩ tội nghiệp cô. Bà nhất quyết cưới cô làm vợ hai cho ông. Ăn ở với nhau đến lúc nhàm chán ông mới thấy nó cách biệt quá. Húp nước canh thì thùm thùm như lội nước. Chân rửa chưa khô đã xéo lên chăn đệm. Tay nấu bếp chưa rửa đã vạch áo cho con bú… Tình cảm trong người ông bỗng chết lặng đi. Thành ra, cái “danh giá” của người có học thức cao sang ông phải giữ, để riêng ra, ông để nó ở trên tầng trên, còn cái hạ đẳng tầm thường, lúc “cần đến” vào giữa đêm tối vắng vẻ không ai nhìn thấy ông mới ban xuống. Khốn khổ cho đám đàn bà, càng ngu càng nhạy bén làm ra kết quả mà ông ban phát. Mụ đẻ ra, không bỏ đi được. Không thêm được gì cho cái gia đình bề thế của ông, ông đành phải chấp nhận. Ông coi chúng là những đứa con loại hai. Cho nó cái để tồn tại chứ không hy vọng gì nó. Nó có tương lai gì mà vọng. Nhiều năm sau này hắn nói với ban quản giáo rằng: — Thưa ban, con biết bố con không quý anh em con bằng các anh con mẹ cả. Nhưng công bằng mà nói, chúng con cũng được chút ảnh hưởng. — Và cũng nhiều lúc ông ấy lo toan cho các cậu, đối xử tuy nghiêm khắc nhưng cũng có trách nhiệm với các cậu? — Dạ, thưa ban, năm 1958 mẹ con được vào làm phụ động của Công ty phục vụ ăn uống. Một năm sau được vào biên chế và cuối năm thành chiến sĩ thi đua. Anh Ý là học sinh giỏi. Con cũng giỏi. Thế là bố con mát mặt. Gia đình con được êm ấm. Có thể cuộc đời của hắn bắt đầu từ đấy chăng? Chương 4 Cùng là khuya khoắt như mọi khi. Lúc ba đứa trẻ ở chiếc giường to đã ngủ say. Thằng Núi chốc chốc lại nhai miệng không chóp chép. Thằng Sông nằm xoay ngang dưới chân, ngáy khịt khịt như ngạt mũi. Cái Biển ôm gối quanh năm quay mặt vào tường đặt mình là ngủ. Vừa nói: “Mẹ ơi con ngủ đây” nó đã không thể nghe mẹ nó nói lại: “Ừ, nhớ gài màn vào”. Thằng Cả nằm trong lòng mẹ, cái tay sờ “ti” đã lơi lỏng dần rồi rơi thõng xuống thì đúng lúc ấy, ông đi đến vỗ nhẹ hai cái vào chân người vợ rồi lặng lẽ quay ra, đi về phòng mình. Thế là người vợ hiểu ý. Rất khẽ khàng, chị nâng người lách dần khỏi con, lấy gối chèn vào bên cạnh để nó khỏi giật mình rồi vén màn chui ra, rón rén như một tên ăn trộm sang phòng ông. Ông đã làm xong mọi “công tác chuẩn bị”, nằm ngửa mặt chờ. Bấy giờ chị cũng mạnh dạn lấy tay cầm vào cái “khí thế” của ông đang vùng lên quyết liệt như là động tác “kiểm tra”, như là niềm vinh hạnh lớn nhất của chị được bình đẳng âu yếm mà không sợ ông quở mắng. Xong rồi, chị mới cởi quần áo. Bao giờ ông cũng ngấu nghiến, băm bổ khác hẳn với tính điềm tĩnh khoan thai rất từ tốn của ông. Khi chị vừa mới chớm nở sự hứng thú thì ông đã nằm vật ra giường thở. Chị biết phận sự phải nhanh chóng ra khỏi màn để ông được yên tĩnh. Ngần ấy thời gian, từ khi báo hiệu cho đến lúc kết thúc, hầu như ông không nói một lời nào. Không có một cử chỉ vuốt ve mơn trớn nào. Sự im lặng của họ như hai con vật hành lạc. Một được giải phóng, một bị đánh lừa. Khốn nỗi do quá nhiều khả năng sinh đẻ nên năm nào chị cũng mang thai. Nếu cứ để đẻ và còn sống cả thì ăn ở với ông được bao nhiêu năm, chị có ngần ấy đứa con. Như mọi lần, “xong việc” chị nhanh chóng chui ra khỏi màn. Tự nhiên, ông đặt tay lên bờ vai rồi vuốt xuống dịu dàng trên làn da tay của chị như một ám hiệu níu kéo. Ôi, thật lạ lùng quá. Chị muốn ôm chầm lấy ông, mà không dám. Chị khẽ hỏi: — Cậu muốn nữa à? — Không. Biết gì thằng Núi chưa? — Sao hở cậu? Có chuyện gì? Cậu có thể cho em biết được không? Tự nhiên em lại thấy lo quá cậu ơi. — Không. Chuyện lành thôi. Tốt lắm. Ông dừng lại ở đấy, thong thả vào buồng tắm. Rồi lại thong thả mặc lại quần áo, chải tóc và hút điếu bông lúa. Mấy năm nay ông hút bông lúa cũng có mùi khét như Bástô ngày trước. Ông cứ nhẩn nha mặc cho chị muốn vồ giật ngay lấy những lời tiếp theo của ông. Nhưng cái quí giá lớn nhất của chị là sự chịu đựng nhẫn nhục chờ đợi. — Hôm qua – ông nói – Giám đốc cảng chuyến lời cảm ơn của một thuyền trưởng tới gia đình và thằng Núi. Nó nhặt được một cái đồng hồ trị giá hàng trăm đồng đã nộp cho công an Cảng trả lại cho ông ta. Biết nó là con nhà mình, ông Giám đốc Cảng đã gặp tôi biểu dương cả nó và bố mẹ. — Thế là con nhà mình cũng ngoan đấy. Cậu bảo cho con biết chưa? — Bảo làm gì để nó lại phổng mũi lên. Cứ kệ nó. Bổn phận của nó là phải học hành cho giỏi. Không được lêu lổng trộm cắp. – Ông châm một điếu thuốc khác. Rất ít khi ông hút hai điếu trong một khoảng thời gian ngắn như thế này. Cũng chưa một lần nào ông cho chị được ngồi tiếp chuyện lâu như thế này. Ông nhả khói thuốc thong thả, rồi ra một mệnh lệnh như ban phát một ân huệ lớn: — Ngày mai chủ nhật, dọn dẹp chuyển ba đứa trẻ sang bên này. Người vợ ngỡ ngàng đến mức không dám tin vào tai mình. Chị rụt rè hỏi lại: — Sợ cả bốn cha con ở đây, cậu không làm việc được. — Moa sang bên ấy. Ba đứa trẻ ở đây phải kê bàn ba góc học hành cẩn thận. Mua cho con Biển cái bảng con, bắt đầu tập viết A, B, C. — Em nghĩ hãy kệ nó. Ba bốn tuổi đầu đã học hành gì. Ông ngồi lặng. Một sự im lặng như là khinh bỉ, như là không thể nào bắt gặp được nhau, kể cả những việc nhỏ nhặt nhất không cần đến trí óc. Chị biết đã chạm phải cái điều mà ông rất nghiêm ngặt. Thực lòng chị “cãi” cũng chỉ là cái cớ để được nói chuyện với ông lâu hơn, kể cả ông có mắng mỏ cũng còn hơn lạnh lùng bỏ đi. Chị rất thèm được chồng đánh. Được chồng đánh, mắng như vợ chồng gã xích lô đầu đường và tay thợ khóa nhà bên cạnh. Chị lại thấy thèm. Dù đau, dù bị hắt hủi, lại có tiếng là được chồng đánh, được ầm ã cho cả phố biết là mình cũng được như mọi người: Có chồng. Đã là vợ chồng thì có lúc đánh chửi nhau, có lúc lại hôn hít ỡm ờ với nhau, kể gì. Hàng chục năm trời ăn ở với nhau chỉ có một lần ông đập bàn ăn quát, còn chưa bao giờ chị được chồng ầm ã để xung quanh biết ông là chồng của chị. Khổ ở chỗ, phần mong thế, phần chị lại rất sợ chồng nổi giận. Cái mâu thuẫn “nội tại” ấy biến chị thành kẻ đơn điệu tẻ nhạt. Trời cho chị cái cơ thể tuyệt vời hấp dẫn đối với ông thì sự đơn điệu một chiều chịu đựng lại như cái tội trời hành để ông cảm thấy nhanh chóng rời khỏi chị, nhanh chóng nhàm chán. Lần nào cũng vậy, hết phần thỏa mãn xác thịt là ông “hết” ngay tức khắc. Lúc ấy ông chỉ muốn không trông thấy, không biết đến, không hề có liên quan gì đến chị. Rồi chị lại phải đợi đến thật khuya khoắt của một đêm nào đó, để lại lặng lẽ, rón rén như một tên ăn trộm bước sang giường ông. — Em không biết, em xin lỗi. Cậu bảo gì, em nghe. Sự dịu dàng yếm thế vào lúc này lại như một khả năng tâm lý tuyệt vời biết làm xoa dịu nỗi ức nghẹn do chị gây nên khiến ông cảm động. Vậy là cô ta cũng biết nghĩ, cũng phần nào hiểu được ông. Ông cầm tay chị ra hiệu trở lại giường để rồi ngày hôm sau bốn mẹ con chị quét dọn, khiêng vác trong niềm sung sướng như một ngày hội. Hắn bảo rằng sáng hôm sau mẹ bò vào giường rất sớm lay từng đứa dậy. Đầu tiên mẹ gọi hắn: — Con đã thức chưa Núi? — Từ lúc mẹ sang bên ấy con có ngủ được nữa đâu? — Ừ ừ, mẹ sang bàn với cậu một việc. — Lại cái việc để cuối năm tòi ra một đứa, con còn lạ. — Chết chết, sao con lại nói thế. Cậu bàn chuyện ngày hôm nay cho các con. — Giặt quần áo, chăn màn cho ông Ý để ông ấy đi xem bóng đá ở bãi sông Lấp chứ gì? — Không phải thế. Mà có phải làm những việc ấy cũng là phận sự của mẹ con mình. — Con nói mẹ nghe nhé. Ông ấy hơn con hai tuổi. Được dạy từ bé, lại đi học trước tuổi một năm. Con không được ai dạy. Lại đi học muộn một năm. Bây giờ ông ấy mới lớp năm, con cũng lớp ba, kém gì. Mà đã lần nào một năm ông ấy được hai giấy khen như con chưa? Thế mà việc gì cũng bắt con hầu hạ. — Mẹ cũng biết là như thế. Thôi, mình cứ chịu khổ, có phúc có phận con ạ. Mà con ngoan, học giỏi, cậu cũng quý con lắm đấy. Cậu bảo hôm nay các con dọn sang phòng cậu cho nó rộng để con có chỗ học riêng. — Thật không? Con được một chỗ học riêng? — Cậu bảo sẽ đóng cho mỗi đứa một cái bàn. Không phải chung đụng chen chúc nhau nữa. — Được thế, con sẽ tập viết thật đẹp để cô giáo không phê bình nữa. Mẹ ơi, mẹ được làm cán bộ nhà nước rồi phải không? — Ừ, mẹ được vào biên chế nhưng chỉ là công nhân viên, không phải là cán bộ. — Đã là người của nhà nước là cán bộ đấy. Mẹ không biết thì thôi. Mẹ làm nhà nước có lương rồi, nếu cậu không cho chúng con học, mẹ cứ cho chúng con học mẹ nhé. — Cậu rất muốn các con học lên mãi. — Cậu chỉ thích anh Ý học đến hết đại học thôi. — Cậu vừa nói với mẹ là tất cả đều đi học. Kể cả con Biển từ nay cũng phải sắm bảng để tập viết. — Mẹ ơi, tại sao tự nhiên cậu lại tốt thế? — Thời buổi mỗi lúc một khác. Mà trước đây không phải cậu không tốt đâu. Nề nếp từ xưa của cậu là thế. Mẹ ở nhà này mẹ biết. Bây giờ các con ngoan, học chăm, học giỏi, cậu thấy ai cũng khen thì cậu quý hơn trước. Con có hiểu không? — Thế thì con cũng phải học đến đại học như anh Ý. — Cứ cố cho bằng bạn bè. Mẹ không khi nào để con phải bỏ giữa chừng. Sáng hôm ấy cả nhà được ăn xôi chấm đường. Gần một năm nay cậu không được lĩnh lương “lưu dung” chỉ được lĩnh như lương chuyên viên. “Của chìm, của nổi” trong nhà cũng không còn gì. Sáng ra, hoặc ăn cơm rang, hoặc một bát ngô bung từ tối hôm trước. Hắn không hiểu vì sao hôm nay cậu lại “mạnh tay” cho cả nhà ăn xôi sáng và đến chiều thì ăn bún chả lại có cả chuối tiêu tráng miệng. Riêng hắn lại được tặng một cái bút chì xanh đỏ và một quyển vở ba hào. Chìa hai tay run run cầm quyển vở, hắn nói lí nhí: — Con xin cậu ạ. — Con hứa gì với cậu đi. — Con xin chăm học, chăm làm, còn ngoan nữa ạ. — Tốt lắm. Cậu tin con cũng như anh Ý học giỏi, cậu yêu. Cậu cũng nói ngay hôm nay là, đứa nào lười biếng lêu lổng thì không bao giờ cậu tha. Từ buổi hôm ấy kéo dài đến năm năm sau cuộc sống gia đình hắn có thể là yên ổn. Hai người lớn đi làm chia nhau mang bao tải, mang can đi xếp hàng mua gạo, mua dầu, xoong nồi, giường chậu, chăn màn… Những đứa trẻ con được dạy dỗ sử dụng các ô tem phiếu và phân công nhau đi “phụ trách” từng cửa hàng đậu, cá, xà phòng, muối mắm… Cho đến một buổi sáng đầu năm 66, hắn không nhớ rõ là ngày tháng nào, chỉ nhớ lúc ấy những tán cây phượng vỹ đọng đầy sương đêm rung lên đồng loạt trong liếng loa vang truyền khắp thành phố lệnh sơ tán khẩn cấp. Gia đình hắn được sẻ làm ba. Anh Ý về ở với cậu em út của mẹ cả bên Thủy Nguyên. Hắn “chỉ huy” ba đúa em về nhà cậu mợ ở huyện Kinh Môn. Bố mẹ hắn ở lại vừa bám sát cơ quan, nhà máy vừa gấp rút chuẩn bị phương án chiến đấu, một cuộc chiến đấu mất còn với máy bay giặc Mỹ. Rồi bố mẹ còn phải lo hàng tuần, hàng tháng tiếp tế cho các con ở cả hai nơi. Hắn và các em hắn ra đi trong một tư thế nghiêm trang, phải nói rõ rằng bốn anh em hắn vô cùng thích thú. Cuộc chiến tranh mà người lớn đang ngày đêm lường tính mất còn, căng thẳng, quên cả ăn, cả ngủ và lúc nào cũng căng ra trong sự chờ đợi thì trẻ con lại háo hức chờ đón nó như đứng bên các tay kiếm chờ phút giao đấu. Khi ở thành phố anh em hắn bị bố và các anh gọi là đám nhà quê. Về đến nhà quê lại được gọi là người thành phố. Đám trẻ con nhà quê nhìn hắn vừa xa lạ vừa đầy vẻ thèm muốn. Ở thành phố hắn là học sinh giỏi của cấp I. Lên cấp II hắn chỉ còn là trung bình khá. Về quê, hắn thi tốt nghiệp vào lớp tám dễ dàng rồi trở thành học sinh giỏi nhất toán của trường cấp III huyện. Ở thành phố hắn là đầu sai của cả bố mẹ và anh Ý. Về quê, hắn là ông chủ của một gia đình. Nếu trước đây hắn phải nằn nèo xin mẹ từ năm xu, thì bây giờ hắn lại tính chi li từng hai xu với các em. Mười sáu tuổi đầu hắn đã có đầy đủ phẩm chất của một ngưới lớn biết lo toan học hành, nuôi dậy các em. Những tháng đầu, cậu đi cùng mẹ lai gạo mì lên cho anh em hắn. Hàng chục người, kể cả cậu mợ, chú dì, các bá các anh gặp bố hắn dường như chỉ có một việc để nói về hắn: “Thằng Núi đi học vất vả quá. Phải đi bộ sáu, bảy cây số mà nó vẫn thức khuya dậy sớm còn hơn cả nhà nông”. “Vừa tắm rửa giặt giũ, vừa lo liệu cho các em học, mà ăn đứt cả đám học sinh vùng này”. “Ai cũng chỉ sợ sau này yên hàn ông bà mang nó về thành phố mất thì cả làng, cả xã nhớ nó”. “Nói gì thì nói, đám trẻ con xóm này hôm nào không gặp được anh Núi là cứ đần mặt ra”. “Có các cháu nó về đây trẻ con của làng cũng được ảnh hưởng: Ít chửi bậy, không nghịch đất cát”. Lần nào cậu cũng chỉ nói đúng một câu: — Chúng tôi ở xa. Các cháu về đây phải nhờ cậy các bá, các dì trông nom dậy dỗ. Lần nào sau câu nói ấy, lập tức năm sáu ông bà cô dì, cũng tranh nhau nói: Đại loại là: Ông bà không phải lo, chúng tôi cũng là trách nhiệm lắm. Có sự gì là chúng tôi có ý kiến ngay tức thì, các cháu về đây, tuy là cơm của các cháu, các cháu ăn, áo các cháu, các cháu mặc, nhưng chúng tôi vẫn cứ phải để mắt đến. Những lời trầm trồ khen ngợi, những cử chỉ vồ vập âu yếm của xóm làng, họ mạc ở quê ngoại dành cho hắn lúc này là rất mộc mạc và thành thật. Những bãi nước bọt nhổ ngay trước mặt và những khuôn mặt quen thuộc vội vã quay đi của những năm sau này của quê ngoại cũng rất chất phác và thành thật. Còn bố mẹ hắn, những lúc “một chốn ba nơi” vật vã ngược xuôi ở thành phố đã mệt mỏi, đã khô héo, đi thăm con về lại được nở nang rạng rỡ ra, lại thấy bõ công sớm hôm gian nan cực nhọc đánh giặc nuôi con. Sự hãnh diện của mẹ hắn được biểu hiện gần như cả một đêm không ngủ. Lần nào cha hắn cơm nước xong, đợi hết giờ “phòng không” đạp xe trở về thành phố, mẹ hắn cũng ở lại với các con thêm một đêm. Đầu tiên là thằng Cả ra cái buồng quây lá chuối, gọi là nhà tắm cạnh giếng khơi, cởi quần, cởi áo gội đầu và tắm bằng xà bông thơm. Bà vừa kỳ cọ cho con, vừa “ném” ra ngoài một tràng “ca dao” na ná như mọi lần khác: “Giời ơi! Sao lại để đầu tóc người ngợm em bẩn thế này. Nào ngồi im mẹ kỳ cho. Anh Núi trông nom các em thế này ư? Mẹ yên tâm làm sao được. Ừ, thì anh đàn ông đàn ang, lại bận bịu, sao Biển không tắm rửa cho em? Vẫn tắm hở con? Trơi ơi, tắm mà ghét vẫn kịt vào mang tai thế này! Tắm rửa cho em nhớ phải kỳ cả hai vành tai. Nhưng cẩn thận, không nước vào tai là thối tai đấy. Thế những lúc chị Biển nấu cơm thì anh Sông đi đâu? Thằng Sông mày đoảng lắm con ạ. Lớn rồi thì cũng phải lo cho các em đỡ đần bố mẹ, đỡ đần anh chứ. Nào thôi, khô rồi mặc quần áo vào, nhanh lên. Không được đứng ra ngoài gió. Thằng Sông đâu, ra đây nhanh lên. Lại chưa thay quần áo ư? Thế mà bảo anh nói cái gì là em làm ngay cái ấy. Thôi quàng lên. Hãy lấy một cái áo và quần đùi cũng được. Cái đũng quần dài để lát nữa mẹ khâu cho. Thôi vào đây. Biển chuẩn bị con nhé. Bắc nồi bồ kết trên bếp xuống. Mẹ đun y p g sôi rồi đấy. Sao con không gội cây cứt lợn như các mợ bảo. Hồi xưa mẹ toàn gội đầu cây cứt lợn dày tóc lắm con ạ. Thôi nhá, từ nay không được gội xà phòng nữa, nó rụng hết tóc đấy. Ừ thì không gội cây cứt lợn, mẹ mua bồ kết để sẵn đấy, từ nay phải gội bằng bồ kết. Không có khó gì cả. Lát nữa mẹ vừa gội vừa dạy cho con. Con gái phải học nhiều thứ lắm con ạ. Không đểnh đoảng như các anh được đâu. Khổ các con tôi, lúc cần có mẹ ở bên cạnh thì lại phải đi sơ tán. Sông ngồi im nào, ướt hết mẹ bây giờ…” Hầu như cả đời mẹ chỉ được nói ở chỗ quây lá chuối, chỗ “buồng tắm” ấy. Từ lúc lôi thằng cu Cả vào, cho đến khi tắm gội cho ba “vị” xong và cũng “lấp” xong cái cống bằng ghét của chúng thì mới kết thúc “bản ca dao nhạc cổ” để rồi lại tiếp tục thu thập tất cả quần áo để xem cái nào hơi có mùi mồ hôi, cái nào cổ vò chưa kỹ. Tất cả vất vào chậu cùng với quần áo vừa thay để mẹ vò xà phòng, kín nước giũ. Một mình mẹ làm thôi, không khiến đứa nào. Các cô, các cậu ăn xong đi học bài. Hôm nay ngủ sớm. Không ai khiến dính vào đây. Phần thì thương các con vất vả, phần không tin vào sự cẩn thận của chúng, nên mẹ tranh làm tất. Thật lạ lùng về mẹ. Hàng tháng giời, có khi phải hai tháng hoặc hơn, mới lên được với các con, một năm độ mươi lần giặt giũ hộ chúng nó, còn hàng trăm lần khác chúng phải tự làm lấy mà lần nào mẹ cũng sợ chúng không biết làm, không thể giặt sạch một cái áo. Dù chúng có đến hai mươi tuổi, mẹ cũng vẫn không tin chúng có thể giặt sạch bộ quần áo như ý mẹ. Phơi phóng xong, trời đã tối mịt. Lúc ấy, đáng nhẽ mẹ phải ngồi thở và “ca dao” tiếp thì mẹ lại lục túi xách đem cam hoặc nhãn, chuối hoặc bánh mì thừa hấp phơi khô, bày ra đĩa. Nhất định phải có một vài món gì đấy để mời các cậu, các mợ và anh chị “liên hoan”. Rồi cả đêm mẹ lần mò khâu vá. Có khi “tu sửa” xong mọi thứ thì trời đã tang tảng sáng. Những đêm mẹ mất ngủ như thế hắn cũng không ngủ được. Mẹ gấp quần áo, rồi đi gài màn, đắp lại chăn, sửa lại tư thế nằm cho từng đứa. Xong, lại đi sàng sẩy nhặt sạn gạo, xếp lại chỗ để mì, để ngô. Hắn biết hết sự mò mẫm lần mần của mẹ. Đấy là những ấn tượng càng xoáy thêm vào nỗi đau đến khôn cùng khi hắn và lũ em hắn không còn mẹ nữa. Đến khi đạp xe về thành phố trước giờ “cao điểm”, nhất định mẹ cũng lại phải dặn chúng không được uống nước lã, nghe tiếng máy bay dù xa, dù gần cũng phải xuống hầm. Bao giờ dắt xe ra đến đống rơm mẹ cũng phải quay lại gật gật đầu và chớp chớp mắt. Hắn cau mặt bảo: “Thôi mẹ đi đi. Cứ lẩn quẩn đến bao giờ”. Hắn nói thế nhưng khi mẹ hắn lên xe đạp ra khỏi ngõ, đạp như có người đuổi thì chính hắn lại ứa nước mắt trước tiên. Tay lau nước mắt, mồm lại quát các em: Để yên cho mẹ đi. Những đứa khác nghe lời hắn gạt nước mắt quay vào, còn thằng Cả cứ choài người lên trong tay hắn để theo mẹ. Hắn phải hít mũi thùn thụt nhưng mặt lại đanh lại để giữ nghiêm cho các em không được khóc nữa. Đêm qua, lúc mẹ sàng sẩy lại gạo, hắn giả vờ dậy lấy sách học nhưng lặng lẽ ngồi nhìn mẹ, nhìn cái bóng in vào tường lúc nhô lên, lúc gục xuống như đang lễ lạy cầu xin việc gì. Cả đời mẹ, lúc nào cũng tất tả, nhục nhã, phải lạy lục cầu xin vẫn không được sung sướng. Lúc không bị khinh rẻ miệt thị nữa thì lại phải cáng đáng chạy vạy nuôi các em. Lương bố tuy nhiều hơn, nhưng mỗi ngày hai cốc bia hơi, hai tách cà phê, một bao thuốc mua ngoài. Còn đồng nào phải đưa cho anh Ý. Hắn cứ nhìn mẹ chăm chăm, bỗng mẹ hắn quay lại. Không biết con dậy học từ lúc nào, mẹ hỏi: — Tối nào cũng học khuya thế hả con? — … — Làm sao hở con? Con phải giữ sức khoẻ để lo cho các em đỡ mẹ. Hai mắt hắn vẫn trân trân nhìn vào tường chỗ cái bóng lầm lũi như dán vào đấy một mảnh tối của đời mẹ. — Con làm sao thế? Hay là đói? Đột nhiên hắn quay mặt lại úp xuống bàn tay để ở bàn khóc nức nở. Mẹt gạo trong tay mẹ rơi xuống nền nhà. Mẹ chạy lại ôm lấy hai vai con lay: — Núi ơi, con ơi làm sao thế? — … — Lam sao hở con? Núi ơi, con làm sao nói đi, đừng để mẹ sợ. — Con thương mẹ. Con nhớ mẹ lắm. Nói được ra, nước mắt hắn vợi đi. Nhưng hai tay mẹ đặt trên vai hắn bỗng như hẫng hụt, run run. Đến khi hắn ngẩng lên thì nước mắt đã giàn giụa thành hai hàng chảy xuống hai má mẹ. — Mẹ ơi. Hay mẹ nói với cậu cho chúng con về thành phố. Một buổi đi học, một buổi con đi bán lạc rang hoặc chịu khó đi xếp hàng thuê, kiếm mỗi thứ cũng được vài hào. — Mẹ biết ở trên này các con vừa nhớ mẹ, vừa ăn đói. Mỗi tháng mẹ có gửi thêm cho các con dăm cân mì nữa. — Tiêu chuẩn cả nhà có sáu mươi lăm cân. Gửi cho anh Ý mười lăm cân, bốn chúng con bốn mươi cân. Cậu với mẹ chỉ có mười cân, lại còn định gửi nữa. — Tuần nào mẹ cũng rửa bát thêm được ba bốn giờ lấy tiền đong gạo (mẹ không dám nói rằng có những ngày mẹ đi dồn các bát mì “không người lái” còn thừa thành suất ăn của mình. Nhưng hắn cũng có thể đoán được). Vậy mà cả hai mẹ con đều không dám nói ra điều ấy. — Con muốn cả nhà mình ăn tập trung vào một chỗ nó đỡ tốn. Con cũng không muốn mẹ ăn ở cửa hàng. — Ừ, mẹ đã cố kiếm thêm tiền đong gạo về nhà ăn cùng với cậu. Chỉ tội, cậu thì thích ăn bánh mì quệt bơ như kiểu ăn của tây mà mẹ lại không thể ăn khô được. Có ăn ở nhà, cũng mỗi người một món. Nhưng thôi mẹ nghe con, về ăn ở nhà. Còn các con không về được đâu. Những người lục đục kéo về, mấy hôm nay lại phải đi hết. Nghe đâu nó đang mở chiến dịch sấm rền hay chớp liền gì đấy san bằng cả thành phố mình. Bao nhiêu là bao cát đem lên đắp ụ súng cao xạ trên nóc nhà ngân hàng, nhà ga, nhà thành đội. Không biết cơ man nào là bộ đội, tự vệ, mang súng máy, súng trường lên các nhà cao quyết chí bắn rơi máy bay Mỹ. Các đội cứu thương, đội cứu nhà sập, hầm sập luyện cả ngày cả đêm. Cơ quan mẹ cũng thành lập các đội xung kích phục vụ cơm nước cho bộ đội tự vệ chiến đấu. Mẹ nói mà như bao nhiêu cái sôi sục của thành phố quyết chí sống chết với kẻ thù ùa cả vào hắn, khiến hai mẹ con không ai nhớ đến gạo mì thiếu hay đủ, bữa ăn của anh em hắn no hay đói mà mấy phút trước hai mẹ con đã gục vào nhau khóc lóc than thở cho cảnh chia ly, thiếu đói. Hắn xăm xắn lấy chổi quét gạo đổ bốc vào mẹt cho mẹ sàng sẩy. Bê vại gạo vại mì để vào góc nhà rồi ra giếng múc nước đổ vào bể. Hắn làm như là để bù đắp cho sự thiếu hụt của một thằng bé chưa thể vào tự vệ hay đi bộ đội, vác súng chạy lên nóc nhà bắn cháy máy bay giặc. Cho đến lúc rửa cà chua và thái hành để mẹ xào nấu mì cho anh em hắn thì hắn quả quyết rằng tự hắn sẽ lo được tất cả mọi việc cho ba đứa em để mẹ hắn không phải lo nghĩ gì cả, cứ yên tâm mà phục vụ chiến đấu. — Nhưng mà mẹ không được chủ quan đấy. Mẹ mà làm sao, con không sống được nữa đâu. — Nói đổ xuống sông, xuống ao dại dột. –Mẹ biết hắn xúc động nên nói cứng: – Thanh niên gì mà yếu đuối thế. Mai kia đi bộ đội ra trận cũng mang mẹ theo à? Nhưng rồi mẹ hắn cũng hứa sẽ nghe lời hắn không được coi thường chỗ bom rơi, đạn nổ. Chương 5 Ở cái tuổi nửa là người lớn, nửa là trẻ con như hắn không bao giờ cái nửa người lớn và nửa trẻ con được cân bằng với nhau. Nếu nó không nghiêng về phía này cũng phải lệch về phía kia. Chẳng hạn, với hắn, hắn chỉ là thằng trẻ con trước những lo toan cực nhọc và sự chầm vập âu yếm của mẹ. Ngoài ra, hắn luôn luôn muốn làm người lớn, mà thực chất hắn đã chứng tỏ tư cách người lớn của mình trong cư xử và quản lý một gia đình những bốn con người đâu phải là ít. Còn anh Ý, đứa con út của mẹ cả thì lại rất người “lớn” trong mọi cử chỉ khinh khỉnh với dì ghẻ và lũ em. Ngoài ra, cậu ta có thể là đứa trẻ rất chăm chỉ, ngoan trong sự sai phái chỉ bảo của người khác, không bao giờ tự cậu làm được việc gì kể cả nấu một nồi cơm. Lúc nào cậu cũng chỉ muốn làm trẻ con để được nuông chiều và đuợc quyền đòi hỏi. Đấy là một trong ba lý do chính để những tháng sau này cha hắn “không có điều kiện” đến thăm anh em hắn ở Kinh Môn trừ một lần đi theo xác mẹ hắn về chôn ở quê ngoại. Về lý do thứ nhất, dù đã gửi con cho người em ruột của vợ, một người rất cẩn thận và nghiêm ngặt, ông vẫn phải “bám sát” nó từ việc ghi nhật ký, việc ăn ngủ chơi bời, học hành. Những bài nào, môn nào còn “hổng” của từng tuần từng tháng. Ngay đến chiếc dép cao su tuột mất một bên quai hậu nó không rút nổi lên cắt nốt bên còn lại vứt vào một xó, để biến thành dép lê. Ông cũng phải về rút cho nó cái quai hậu của chiếc dép. Lý do thứ hai: cơ quan ông sơ tán nhiều nơi cách nhau mỗi bộ phận hàng chục cây số, điều kiện liên hệ công tác đã quá vất vả, làm xong việc cơ quan đến được chỗ thằng Ý đã hết hơi, sức đâu ông lên tận Kinh Môn để thăm chúng nó. “Cô lên đấy, tôi sang Thủy Nguyên. Mỗi người chịu trách nhiệm một nơi”. Ông nói thế. Âu cũng là sự công bằng không để cho ai hờn, cũng không bắt ai chịu thiệt. Lý do thứ ba: Bà con họ hàng bên Kinh Môn người ta tốt cả, để chúng nó ở đấy là hoàn toàn yên tâm. Bốn đứa con cùng ở một chỗ vừa vui, vừa có điều kiện bảo ban nhau, nhắc nhở lẫn nhau, đâu có một thân một mình như thằng Ý. Vứt bốn thằng ở Kinh Môn cả năm cũng đã làm sao? Đấy là những lý giải hết sức thành thật. Nó đúng với hoàn cảnh và tính nết của ông. Từ một viên chức lưu dung, gia đình khá giả, đầm mình giữa cuộc chiến đấu và lao động gian nan thiếu hụt rất nhiều thứ vào lúc này, khi tuổi đã ngoài năm mươi, sức vóc đã giảm sút, thế là ông đã cố gắng lớn lao lắm rồi. Thế mà trước đây, mỗi lần ông về thăm vẫn để lại cho anh em hắn những chuyện hậm hực. Lần nào cũng vậy, từ khi bước chân vào nhà đến khi đi, ông chỉ nói với anh em hắn vài câu. Đấy là lúc tất cả bốn đứa đứng thành hàng ngang chào cha mà như người lính đứng nghiêm nghe đọc nhật lệnh: — Anh em phải bảo ban nhau học hành cho cẩn thận. Cấm không được làm việc gì ảnh hưởng đến bố mẹ. Đứa nào không ăn lời thì đừng có trách. Chính vì thế sự thiên vị tình cảm trong lũ trẻ ngày càng tăng lên, nhất là ở hắn. Trong khi chúng sợ đến run rẩy cái phút mẹ hắn phải ra đi thì chúng lại muốn cha nhanh chóng trở về thành phố. Và, hiếm hơn, chúng không thấy thiếu hụt khi phải xa cách người cha. Chi tiết này rất cần lưu ý vì nó tác động không nhỏ trong việc cấu thành tội trạng của hắn sau này. Chương 6 Bước sang năm 1967. Vào một ngày đầu tháng ba, nắng bừng lên loa lóa ở những dãy ao rộn ràng tiếng đập chiếu và trên các bờ rào chăng kín chăn màn, quần áo còn rỏ nước tong tỏng. Một con cóc nhảy từ bụi tre ra, làm đám trẻ con, những đứa em hắn kêu ré lên thất thanh, lao người đi như tránh một quả bom sắp nổ. Chúng đã trải qua những đêm thở không ra hơi, trống ngực đánh thùm thùm, cả hai đứa ngồi ôm nhau run bần bật khi nghe tiếng mèo đi hoang, tiếng chó sủa xồ lên ở một góc nào đó. Đến bây giờ xéo phải con giun, trông thấy con thằn lằn từ trong tay gai vươn cổ ra giương mắt nhìn mình không có đứa nào tái xanh tái xám. Đêm đêm nghe tiếng ễnh ương uôm uôm, tiếng chão chàng “chẳng chuộc, chẳng chuộc” và cóc cạo miệng ken két báo hiệu cơn mưa, chúng lại tự nhiên biến mình thành học trò nhại lại tiếng cóc nhái. Khi lũ em dạn dĩ với cảnh nhà quê nơi sơ tán thì hắn cũng có một tình yêu. Một tình yêu đến và đi như một chuyện hoang đường! Đấy là nơi bắt đầu tội lỗi của hắn? Hắn là kẻ phá hoại đời người con gái? Đấy là một tình yêu đầu tiên trong sáng vô cùng? Vâng! Hắn không bao giờ quên được mối tình ấy, một mối tình như một phát súng khai hóa cuộc đời tội lỗi của hắn và theo hắn suốt hai mươi lăm năm qua trong một thói quen trộm cắp tù đầy để cuối cùng trở thành một ông chủ của nghề mộc! Hôm ấy một ngày nắng đầu xuân sáng rực lên những khuôn mặt tê tái, ẩm ướt sau hàng tháng mưa dầm. Vào khoảng mười hai giờ rưỡi trưa hoặc hơn gì đấy, nghĩa là lúc nửa cái bánh mì đen rắn như cục gạch, suất ăn sáng nhưng bao giờ hắn cũng nhét trong cặp sách để đến mười một giờ rưỡi trưa, hết tiết thứ năm hắn mới ngồi lại lớp, ngoảnh vào tường thưng bằng đất “nạp” nguyên liệu lấy sức cuốc bộ trở về. Khi cái “năng lượng” ấy đã hết hoàn toàn tác dụng, hai chân hắn thấy liêu xiêu, mắt đã thấy những tia xanh đỏ nhảy nhót thì một cô gái đứng quay mặt về phía hắn, gần như án ngữ giữa đường ở ngay bụi tre đầu làng. Hai tay cô thong thả như tay diễn viên múa cầm lấy đuôi màn vừa như gỡ khỏi cành rào vừa như căng nó ra, để chiếm lấy lối đi. Cái nón “phòng không” vừa bôi nước lá, vừa quét mực xanh loang lổ lật về phía sau như cốt để làm nền cho khuôn mặt đẹp, khiến hắn phải sững lại một giây. Cả hai mắt và miệng cô như cười cười nhìn thẳng vào hắn. Hắn né sang mé đường vượt qua cái “trở ngại” mà thật lòng hắn lại chỉ muốn “mắc mớ” ở đấy. Hắn đi được dăm sáu bước, đột ngột nghe tiếng cô: — Anh Núi ơi, làm ơn giúp em một tay được không? — Gì cơ? — Cái màn của em bị mắc vào cành gai. Nếu anh không vội… Thật lòng, lúc bấy giờ hắn không thể nghĩ có lần nào mình lại nằm mê được như thế. Về sau này bọn bụi đời của hắn bảo: Mỡ đến miệng mèo tội đ. gì không vồ lấy. — Vội thì vội nhưng gỡ hộ chục cái màn cho em anh cũng gỡ. — Thế thì em cảm ơn anh lắm. — Làm sao lại biết tên anh. — Anh về đây hàng năm giời rồi, ai còn lạ. Học giỏi, làm nghề nông cũng giỏi, cả tổng đều biết. Chỉ có anh là không thèm biết gì đến dân nhà quê cục mịch chúng em. — Anh cũng xin làm nhà quê cục mịch có được không? — Gớm. Đời nào. Trai thành phố ai về quê. — Thế anh đang ở quê đấy thôi. — Chẳng qua là vì chiến tranh phải sơ tán. — Thì mẹ anh cũng quê ở đây, em không biết à? — Nhưng cụ ra thành phố lâu rồi. — Em có thích ra thành phố không? — Hải Phòng có chỗ làm xiếc không đã? — Có. Người ta vẫn biểu diễn ở nhà hát Nhân dân chỗ đường Lạch Tray đấy. Khi nào yên hàn, em ra đấy, anh mời đi xem xiếc. — Em là người biểu diễn cơ. — Em là diễn viên xiếc à? — Vâng. — Em thường biểu diễn tiết mục gì? — Anh đã xem khỉ leo dây bao giờ chưa? — Có. — Đấy, em đấy. Thế anh không nhận ra em à? — Ôi giời ơi, anh ngu quá. Ồ, sao anh lại ngu thế nhỉ? Anh lại không biết em xỏ anh. — Em đùa cho vui, anh đừng giận nhé. — Tên em là gì? — Tên em xấu lắm. — Xấu đẹp cũng là tên. Phải cho nhau biết còn gọi chứ. — Thôi, anh gọi làm gì. — Tùy em, không cho anh biết tên cũng được thôi — Nhưng anh không được cười em cơ. — Ừ. — Tên em là Gai. — Thật không? — Thật. — Em thề đi. — Ai lại thề sớm thế. — Sớm muộn mà anh biết tên em không là Gai thì em làm sao? — Thì em không là Gai nữa. Sau câu nói đó, mọi chuyện gần như kết thúc, hắn không thể nghĩ được ra chuyện gì để nói trước. Chả lẽ lại nói dỗi: “Không nói thì thôi” hoặc nổi nóng: “Em không nói tên thật anh cũng không cần thiết nữa”. Sự im lặng càng làm cho cô hiểu rõ tâm trạng hắn hơn. Còn hắn? Rất may là có những chỗ màn quấn vào cành gai mà từ lúc cầm lấy nó đến giờ hầu như cả hai không ai gỡ nó ra, lúc này hắn mới chăm chỉ gỡ hết. Xong rồi, hắn mới lại nghĩ ra được một câu khác: — Nhà em ở đâu. — Xa lắm. — Thế bố mẹ em tên là gì? — Bố em tên là Tre, mẹ em tên là Chuối. — Chắc em cho anh là trẻ em ngu si, đần độn mới cố tình giễu cợt anh. Phần thì dỗi, phần cảm thấy cô ta có vẻ coi thường mình, đùa giỡn mình như một đứa trẻ, khắp người hắn nóng ran lên. Cô bé cũng đã nhìn rõ khuôn mặt hắn đỏ dừ. Cái miệng và cả hai mắt cô lại cười cười: — Anh giận em đấy à? — Anh có quyền gì mà giận em. — Em bảo nhé. Anh đã đi xem phim ở quê bao giờ chưa? — Lại phim xiếc à? — Thôi, bây giờ thì không đùa nữa. Để rồi, mặt lại đỏ bừng lên. Tối nay có phim thật đấy, anh có thích đi xem không? — Ở đâu? — Xóm Đồi. Ờ hay nhỉ. Núi mà đi xem phim ở xóm Đồi thì đúng quá rồi còn gì. — Không đùa anh đấy chứ? — Em lấy danh dự thề không đùa nữa. — Mấy giờ. — Phải tám giờ nhưng hơn bẩy giờ thì đi. — Đi với ai? — Đi với bạn em. — Bạn trai hay bạn gái. — Bạn trai. Hắn cảm thấy như mình bị xúc phạm. Nhưng hắn lại tự hỏi: Đi với bạn trai sao lại còn rủ mình. Chắc là bọn con gái hay “tuých” thế để nắn gân mình. Nghĩ vậy hắn nói: — Tốt lắm. Anh đã học được mấy miếng võ hiểm. — Cẩn thận, dễ bị đo ván đấy. — Đấy là điều anh rất mong. Hắn cảm nhận được sự hóm hỉnh của cô nên cô rất thích. Cô chủ động dặn hắn: — Nhớ nhá. Em đợi ở đây. Về đến nhà, hắn quên không hỏi xem “Bẩy giờ hơn”, nghĩa là hơn bao nhiêu phút. Để ăn chắc, tối hôm ấy hắn đi ngay từ lúc bẩy giờ kém hai mươi phút. Đến đấy bẩy giờ là vừa. Thực ra thì hắn đã đi ngay từ lúc ăn cơm trưa xong. Giở bài ra học đầu óc hắn cứ nóng bừng bừng, phải gắng lắm mới vượt qua được “đám tay gai” để giải xong mấy bài lượng giác rồi lại thần mặt ra nghĩ đến những câu gì sẽ hỏi, những câu gì sẽ phải trả lời trong đêm nay. Nhỡ khi đã đứng sát vào nhau, cầm lấy tay nhau rồi thì sẽ phải nói gì, phải làm gì. Nhưng nhỡ cô ta đi với một thằng bạn trai thật thì sao? Nếu vậy để thử mình hay để khoe là cô có ối bạn trai kể cả bạn là người ở thành phố về. Lúc ấy liệu mình có còn bình tĩnh để nói chuyện thản nhiên, chứng tỏ mình không thèm để tâm cô ta! Được rồi, lúc ấy hắn sẽ chứng tỏ rằng hắn là con trai thành phố đi xem phim với con gái là chuyện hết sức bình thường chả có việc quái gì mà phải tỏ ra giận hờn. Hắn cứ ngồi trân trân vào tường cho đến khi đứa em gái cầm bơ đứng ngoài cửa hỏi chõ vào: — Chiều nay vẫn nấu mì riêng hay hấp với cơm? — Riêng. — Hết mỡ rồi mà cũng chưa mua được rau. — Ừ. — Hay em cứ hấp chung với cơm nhé. — Ừ. — Thôi để em xin mợ lá su hào, nấu canh với mì cũng được. — Cũng được. Lúc này em hắn mới đoán chắc anh mình đang gặp bài toán nào hắc búa lắm, không giải ra được. Nó không dám phá rối anh, lặng lẽ xách giá đi lấy gạo nấu cơm. Còn hắn, hắn thiêu đốt thời gian chờ đợi bằng cách múc nước vào bể lọc và giặt hết đống quần áo của các em. Xong xuôi mọi thứ, vẫn còn sớm quá, lại quét cái sân, quét ra tận đầu ngõ và cho lợn ăn hộ mợ mà mặt trời vẫn chưa lặn hết. Ăn cơm xong hắn bảo các em là tối nay hắn đi học tổ ở xã khác, sẽ về khuya lắm. Mỗi đứa xong việc và học hết bài, cứ đi ngủ. Hắn ra ngõ đi được một đoạn mới thấy đài báo hiệu sáu giờ. Lần đầu tiên trong đời hắn thấm thía thế nào là độ dài của thời gian chờ đợi. Nhưng mà, chỉ hơn bẩy giờ một chút cô và hai người bạn gái đang đi đến. Cô chủ động hồn nhiên như người đã yêu nhau từ lâu lắm. — Em giới thiệu với anh đây là Hồng và Thúy bạn em. Còn giới thiệu với hai bạn đây là anh Núi bạn mình. Hồng: — Sao mà khôn thế. Chỉ bạn của mình thôi, còn hai người ta không được gì à? Thúy: — Thôi, anh Núi vui lòng để chúng em xẻ ra làm ba nhé. “Ấy” có đồng ý không? — Xẻ ra thì anh ấy chết mất. Lúc nào các bạn cần, tôi cho mượn đấy. Hồng: — Cho mượn rồi người ta không giả, “ấy” làm gì nào? — Tôi sẽ đánh dây thép vào chiến trường bảo người của đằng ấy khi nào đánh giặc xong thì về nhà với tôi. Thúy: — Anh Núi thông cảm. Bọn con gái nhà quê chúng em bây giờ táo tợn lắm. Hồng: — Đùa cho vui. Chúng em nghiêm như cột điện cả đấy, anh yên tâm. — Hồng với Thúy đều có người yêu đi chiến đấu cả đấy anh ạ. Các cô gái từng nếm mùi yêu đương hoặc ít ra cũng háo hức, khắc khoải nghĩ đến nó cho nên các cô càng bạo dạn bao nhiêu thì hắn càng thấy mình non nớt ngu dại bấy nhiêu. Hắn chỉ đáng mặt làm “em” trong chuyện này. Hắn gật đầu “à, ừ” tán thưởng. Màu đen của đêm che lấp được những nét gượng gạo của hắn. Làn da mặt hắn chắc chắn đỏ rực lên nhưng các cô gái không hề biết đến. Cho nên, các cô lại càng kinh nể và khâm phục. Sụ đồn đại tâng bốc hắn là một học sinh giỏi nhất lớp chín, tài ba không ai địch nổi cộng với cái “mác” trai thành phố, khiến sự im lặng của hắn lúc này như biểu hiện của sự chín chắn sâu xa. Đặc biệt, từ buổi chiều nay hắn đã nghĩ và học thuộc được một câu mà đến lúc này nói ra cũng rất hợp: — Tôi không ngờ quê ngoại của tôi lại có những cô gái đẹp một cách bình dị, thông minh một cách tự nhiên như trời chỉ phú cho riêng họ. Khi vào đại học, nhất định tôi sẽ xin về đây để làm một luận án về tính cách của người phụ nữ Việt Nam anh hùng đảm đang của vùng quê này. Nghe xong bài “diễn văn” học thuộc của hắn theo cách nói bây giờ thì các cô “nể đấy”. Cả hai cô cùng nắm lấy bàn tay bạn mình thầm ghen, thầm chúc mừng sự may mắn đến không ngờ bạn mình lại có một người yêu mãn nguyện như thế. Cô bé “ban trưa” của hắn sung sướng cảm nhận hết ý nghĩa tốt đẹp của các bạn, cô hồi hộp mong đợi cái giây phút anh ấy thực sự trở thành người yêu của mình. Đi đến đoạn rẽ, một trong hai cô “sáng kiến” đề nghị: — Bây giờ hai bạn đi xem, bọn này mới nhớ một việc rất quan trọng không thể hoãn được, nên phải… g g p Tất nhiên một đằng cố nài kéo đi cùng, một đằng cố khăng khăng trở về, nhưng cả hai bên đều biết cái lý do “dối trá” ấy là rất hợp lý. Một sự “dối trá” đáng yêu hết sức cần thiết vào lúc này. Hắn thầm cảm ơn cô bé nói dối. Lúc hai người đi rồi hắn lại không biết phải làm gì, phải nói gì. Hắn thấy run. Nhưng nhất thiết thằng đàn ông phải chủ động. Ào đi. Được thì được, không thì thôi. Đã quyết chí liều rồi, vẫn không biết mở đầu thế nào. Chẳng lẽ cứ nói toẹt ra: “Anh yêu em lắm. Em có yêu anh không?”. Cô đang ngần ngừ như là nuối tiếc các bạn, như là ngại phải đi xem chỉ có hai người. Hắn chủ động: — Đến xóm Đồi có còn xa không em? — Gần. Đấy, tiếng loa đang nói đấy. — Từ đây đến đấy có cái cầu hoặc con mương nào không? — Không. — Ồ tiếc quá nhỉ! — Để làm gì hở anh? — Để anh dắt em qua cầu hoặc cõng qua mương như… Cô đấm vào lưng hắn thùm thụp: — Thế mà em tưởng có chuyện gì. Không hiểu bằng sự mách bảo nào hắn đã nhanh chóng ôm chầm lấy cô. Cô hơi cúi đầu trốn tránh và hai tay đẩy mặt hắn lên nhưng rồi hai làn môi vẫn cứ tìm gặp được nhau. Đến lúc ấy thì hai tay cô chỉ còn đập hờ hững trên lưng hắn như vừa phản đối, vừa như làm nhịp cho những chiếc hôn nóng bỏng, càng về sau càng nồng nhiệt đến nỗi sự lấn chiếm của hắn tràn xuống bộ ngực đầy lên rừng rực của cô từ lúc nào cô không biết hoặc có biết, có chống đỡ, nhưng là sự chống đỡ không quyết liệt, không triệt để, để đến khi sự áp sát hai cơ thể làm cô đến ngạt thở, cô chỉ còn biết gọi đến tiếng “anh, anh ơi” đứt quãng và chính cô chủ động hỏi anh: — Có yêu em thật không hở anh? — Em vẫn sợ anh đánh lừa em? — Không. Nhưng em sợ mai kia anh về thành phố. — Em về thành phố với anh. — Về đấy em biết làm gì. — Anh sẽ xin cho em học nghề ở nhà máy nào đấy. Bố anh quen rất nhiều giám đốc. — Em đang dạy mẫu giáo. Em rất thích việc làm ấy. — Thế thì càng dễ. Dạy mẫu giáo ở thành phố có rất nhiều thuận lợi, không khó khăn như ở nông thôn. — Em thích các cháu ở nhà quê lắm. Nếu em cứ dạy ở đây anh có đồng ý không? — Trước mắt em cứ ở đây. Anh cũng còn gần hai năm nữa mới đi học đại học cơ mà. Khi nào học xong đại học chúng mình sẽ bàn sau. — Ứ. Anh đi đại học, có nhiều cô xinh đẹp tài hoa, anh lại chán em. — Kẻ giả dối thì ở đâu cũng giả dối được. Người thủy chung thì có sang tận Liên Xô người ta cũng không ăn ở hai lòng. Người đẹp như em thế này… Thôi chiều anh một lần đi. — Không… ông…ôn… — Anh hứa chỉ một lần này thôi. — Rồi từ ngày mai anh bỏ em à. — Không phải thế. — Thôi… ôi… ô… — Anh muốn em kỷ niệm anh để nhớ đêm đầu tiên chúng mình gặp nhau. Rồi thì… Chờ… đến lúc chúng mình cưới nhau. — Em sẽ dành trọn vẹn cho anh đến ngày ấy. — Ngộ đến ngày đó bom nó bỏ chết anh rồi thì sao. — Giời ơi, sao anh lại nói dại thế. — Thật đấy. Nhỡ mai kia anh đi bộ đội hoặc đi đâu đó… nhỡ ra… — Dại mồm nào, em sợ lắm. — Thì cứ giả thiết như thế. Em nói đi. Cứ thí dụ như thế thì sao. — Thí dụ như thế thì em không đi lấy ai nữa. — Suốt đời em là của anh? — Vâng… âng… ân… Lại một trận hôn ào ạt quyết liệt. Hai người ghì siết lấy nhau, đưa nhau đến tận cùng say đắm, cũng là giới hạn tận cùng của ức chế. Nhưng cô kiên quyết chối từ đòi hỏi cấp thiết của hắn. — Anh có cảm tưởng em chỉ coi anh như tình bạn, có ưu tiên được một ít chút. — Anh đã có nhiều tình bạn thế này chưa? — Gặp em là lần đầu tiên trong đời. Còn em? — Chưa bao giờ. Cũng chưa bao giờ em nghĩ lại có kiểu tình bạn thế này. — Tại sao em lại tiếc anh. — Anh thông cảm… Chúng mình mới gặp nhau lần đầu. Em sợ… Nếu có chuyện gì thì bạn bè, bố mẹ, làng xóm… Rồi các cháu mẫu giáo mà biết, em chết mất. — Anh hứa sẽ giữ cho em. — Thôi, em xin anh đừng bắt em. Chịu khó anh nhé. Rồi em sẽ bù cho anh. Ối ối, bóp nhẹ thôi, đau em. Sự kiên quyết gìn giữ của cô nó sẽ hiệu nghiệm nếu như họ chia tay nhau vào lúc này, lúc không biết buổi chiếu phim còn hay hết, nhưng không còn thấy tiếng loa nữa. Hoặc là, sự hôn hít, vần vò không kéo dài đến tận bốn giờ ba năm phút sáng, và khi dắt nhau đến chỗ hàng thông trên con đường vào nhà dì ruột mà cô bảo đêm nay sẽ đến ngủ ở đấy, hắn bẻ những cành lá trải xuống đất, cô đừng ngoan ngoãn ngồi xuống. Nếu như đã trót ngồi xuống rồi, vẫn muốn chống cự thì hắn vẫn không thể lấn tới. Và cứ gọi cho là bất lực di, thì sau khi đã “thất bại” lần thứ nhất, việc gì cô lại lặng lẽ lau nước mắt nằm chờ lần thứ hai. Rồi khi hắn đưa cô đến chót vót của sự sung sướng việc gì cô phải vội vã cong người vòng hai tay ghì xiết lấy lưng hắn. Tóm lại, chuyện xảy ra với cô chỉ có thể giải thích rằng đấy là một nỗi đau êm ái và sự mất mát trong tâm trạng khát khao thèm muốn. Rất sợ mất. Nhưng “không mất” không chịu nổi. Nói cách khác, đấy là sự thỏa thuận hiến dâng trong ngỡ ngàng chứa chan hy vọng. Hắn và cô chỉ khác nhau ở chỗ: Sau một ngày nghỉ học nằm ngủ như chết hắn lại đến lớp và chiều ngày thứ ba như một thói quen hắn lại đi như kiểu đi dạo ra chỗ bụi tre đầu làng. Lúc ấy hắn mới ớ ra là chưa biết tên cô để dò hỏi. Nhà cô cũng không phải ở xóm này. Hôm trước, cô gánh chăn màn ra bờ sông máng giặt và phơi ở đấy cho tiện nên cô phải đứng trông. Ba chiều liền sau đấy hắn tìm đến lớp mẫu giáo đều không nhìn thấy cô. Hắn bắt đầu hoang mang. Cô có dạy mẫu giáo thật không? Người ở làng này hay từ đâu đến? Còn Hồng và Thúy? Làng này có bao nhiêu Hồng? Bao nhiêu Thúy? Bằng cách nào tìm đến để xem có thật là Hồng và Thúy mà hắn đã gặp? Còn cô? Cô phải nghỉ bẩy ngày vì “cảm”. Sự bỡ ngỡ, xấu hổ và thân thể đau đớn một phần, phần khác cô nghi ngờ và hoảng sợ sự “chớp nhoáng” giữa cô và hắn. Chỉ có nửa ngày giời đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời cô. Cô oán trách mình, oán trách hắn. Sẽ ra sao, nếu cô “làm sao? “ Sẽ ra sao nếu hắn chỉ muốn dùng cô như một thứ để chơi bời cho qua những ngày sơ tán buồn bã! Sẽ ra sao, nếu bố mẹ hắn lại không bằng lòng? Gần một tuần cô đóng cửa khóc, khóc cho nỗi đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Khi nó vợi dần đi, cô lại thấy nhớ và mong được gặp hắn. Ngày thứ tám cô đến lớp mẫu giáo trong một tâm trạng thấp thỏm, chưa nguôi. Đến chiều, cô nhìn thấy hắn đi đi, lại lại như có ý tìm kiếm, chờ đợi cô. Sao anh ấy lại biết hôm nay mình mới đến lớp? Mấy ngày trước anh đi đâu? Có tìm hỏi gì em? Anh có nhớ và có hiểu những ngày này em đau đớn và hạnh phúc như thế nào? Cô nghĩ và để xem những hôm trước hắn có đến đây không, cô vờ hỏi mấy cháu bé cùng nhìn ra ngoài: — Có chú nào trông là lạ đi lại quanh trường mình nhỉ? Lập tức cháu nào cũng muốn mình biết hơn, nhao nhao mách cô. Chúng bảo rằng chú này tên là Núi sơ tán ở nhà bà Uyên, học giỏi ghê lắm đã một tuần nay đi lại như đánh rơi cái gì đấy. Chú ấy tìm mãi mà không thấy. g y Cô cảm nhận nỗi đau đớn của mình được bù đắp. Bao nhiêu lo âu được chia sẻ. Cô lấy bút viết vào mảnh giấy nhỏ gấp lại giao cho một cháu gái: — Cháu ra đưa cho chú ấy bảo: Chú đi đi không được đến gần trường làm chúng cháu không tập trung học tập. Có nhớ không? Ừ. Tốt. Ngoan lắm. Trong khi cháu gái nói hết được những lời cô dặn thì hắn cũng đọc xong hàng chữ cô viết: “Anh. Về nghỉ kẻo mệt. Anh không giữ sức khỏe em lo lắm. Tối nay, bẩy giờ, ở chỗ “gỡ màn”. Có nhớ không? Em.” Có thể nói màn đêm là một thủ phạm nguy hiểm mà không bao giờ có tên trong hồ sơ và có mặt trong vành móng ngựa. Vào những đêm cuối tháng ba ta, đêm đen như cố tình lắm mới đen được như thế. Đã hơn mười ngày nay không thấy những luồng đạn phòng không vòn vọt rạch lên trời hàng trăm nghìn tia sáng ở mạn Hải Phòng, Kiến An. Mạn Lai Vu, Phú Lương cũng yên ắng. Sự vắng vẻ lạnh lẽo cùng với đêm tối đã che dấu và thúc đẩy hai cơ thể mới lớn ngấu nghiến vô hạn độ. Họ bắt đầu từ bẩy giờ tối, kéo dài trong bẩy, tám giờ liền mỗi đêm, bằng cả thời gian của người đi làm trong cơ quan, nhà máy một ngày. Nếu để ý một chút, có lẽ kẻ ngu ngốc nhất cũng nhận thấy sự thiếu ngủ phờ phạc và làn da mặt đã khô đi ở cả hắn và cô. Nhưng họ lại cười nói nhiều hơn, người học hành, người làm việc đều giỏi giang hơn. Kể từ đêm gặp nhau thứ hai cho đến đêm thứ mười bẩy hay mười chín gì đấy cô lo sợ, cầm tay hắn luồn vào bụng mình bảo: — Em “bị rồi”. Cũng tâm trạng như cô, hắn hỏi: — Sao đã biết được hả em? — Quá hai mươi ngày rồi. Em chưa thế bao giờ. Thấy hắn im lặng cô đâm hoảng: — Thế nào hả anh? — Em định thế nào? — Nhưng em muốn hỏi anh cơ. — Thì ý em thế nào cứ nói đi, anh mới biết đường chứ. — Đầu tháng chúng mình đi đăng ký. — Nhưng… – Hắn không dám nói rằng mình mới bước sang tuổi mười bẩy chưa thể đăng ký kết hôn được. Hắn hỏi cô: — Nhưng… em đã đủ tuổi chưa? — Rồi ạ. Cuối tháng này em vừa tròn mười tám tuổi đấy. — Còn anh… hắn phải nói dối đến sang năm hắn mới đủ tuổi hai mươi. Rồi im lặng. Rồi cô nín thở chờ đợi quyết định của hắn. Bỗng hắn lại hỏi: — Em có định “giải quyết” không? — Ứ. Không. — Anh cũng nghĩ thế. Mẹ anh đi “giải quyết” mấy lần nguy hiểm lắm. — Anh ơi. Con chúng mình nhất định sẽ xinh và thông minh lắm đấy nhỉ? — Nó cũng biết “ăn vụng” như bố mẹ nó. — Anh! Sao lại bảo ăn vụng. Chúng mình yêu nhau và lấy nhau cơ mà. Hắn lại lặng lẽ lấy thuốc lá hút. Từ khi bắt đầu yêu cô, nghĩa là mới mấy chục ngày nay hắn lại sinh ra nghiện thuốc lá. Một lát sau, như tìm được một phương kế, ném mẩu thuốc lá đã cháy đến tay, hắn hỏi: — Liệu em có thuyết phục được bố mẹ không? — Chuyện gì anh? — Không đăng ký nhưng chúng mình cứ cưới nhau. — Em chưa biết thế nào. — Nếu mọi người không đồng ý, em có dám bỏ đi với anh không? — Đi đâu hả anh? — Đi bất kể đâu. Em có dám không? Cô ôm xiết vào người hắn: — Sao anh phải hỏi thế. Chúng mình đã là hoàn toàn của nhau. Anh đi đâu, là em ở đấy rồi còn gì. Chỉ cốt anh tính toán như thế nào để con chúng mình đỡ khổ. Nói những câu này, cô hoàn toàn không hiểu gì hắn. Với một học sinh mới mười bảy tuổi đầu như hắn mà rời gia đình, phố phường, trường học thì chỉ là một thằng “liều” chứ biết tính toán lo toan nỗi gì. Nhưng hắn cũng tỏ ra là một người lớn có vẻ suy nghĩ, tính trước tính sau. — Trước mắt em cứ vận động các cụ xem thế nào đã. Cần thì nói thẳng với các cụ: Con “phễnh” ra rồi đấy, tùy các cụ xử lý. Cô đấm thùm thụp vào người hắn nhưng lại kéo hắn ấp vào bầu vú của mình đang rần rật căng: — Em nghĩ rồi cũng thuyết phục được bố mẹ em thôi. Chỉ sợ các cụ bên anh. Rồi ảnh hưởng đến học tập tiến bộ của anh nữa. — Cái đó anh lo. Thôi hãy thế. Lần nữa nhé. Cô ghì xiết lấy hắn hôn túi hụi khắp người rồi gọi: — Anh ơi, của anh đấy. Anh thích bao nhiêu mà chả được. Sau này, anh cán bộ quản giáo của nhà tù đã hỏi hắn sau rất nhiều lần lập hồ sơ: — Có phải cháu bé vẫn bế đi ăn cắp là con của cô này không? — Dạ không. Thưa cán bộ, không còn gì. Con với cô ấy không còn gì nữa ạ. Chương 7 Tiếng sấm như tiếng bom nổ ngang trời giữa trận mưa rào vào sẩm tối là trận mưa ra cơm ra gạo. Lúa đang hạn, gặp được mưa lại có sấm vào lúc cả làng đã ăn cơm tối, tức là “sấm no”. Ai cũng mẩm bụng về vụ chiêm sẽ không bị gió bấc làm nghẹn đòng như năm trước. Lạy trời, lạy phật, cứ điềm này năm nay làng không bị đói. Nhưng bản chất người dân vùng này chỉ kêu toáng lên khi bị mất, còn lúc được, họ lại thầm thì như kẻ ăn vụng. Vì thế mà xóm làng vẫn im lặng trong cái được lớn sẽ đến nay mai. Còn hắn thì lại mất trong sự xôn xao về một đám cưới sẽ tiến hành trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tất cả đã mất rồi. Đã mất ngay từ đêm chia tay nhau. Vậy mà hắn vẫn chưa hề biết gì. Suốt ba ngày không gặp cô, hắn như điên giữa im lặng của mọi người. Không thể tìm kiếm một dấu tích gì. Một lý do nào, một manh mối nào để dò hỏi ra cô. Duy chỉ có trường mẫu giáo thì, gặp ai dù người lớn hay trẻ con hỏi về cô Hiền – hắn đã biết tên cô – đều được trả lời một tiếng gọn lỏn “không”. Hoặc câu trả lời dài hơn cũng chỉ là: “Tự nhiên ba ngày nay không thấy”. Vào đêm thứ ba, khuya lắm. Hắn thất thiểu đi về đến nhà đã thấy hai người cậu ngồi giữa sân chờ hắn. Hai cậu vốn hiền lành, coi hắn như một người lớn. Hôm nay bỗng nghiêm trang trịnh trọng. Cả hai đều nhìn quay ngang hoặc nhìn xuống, cố tránh bắt gặp cái nhìn của hắn. Môi cậu nào cũng cố mím lại như sợ cái điều kinh khủng gì đó không cẩn thận sẽ buột ra mất. Thành thử, hắn suýt bật cười về sự nghiêm trang gượng gạo ấy. — Có nước vối ủ nóng đấy anh uống đi. – Cậu nhớn tên là Uyên chủ ngôi nhà anh em hắn ở nhờ nói phá tan sự im lặng nặng nề. Nhưng nói xong câu ấy ông lại chỉ biết rót thêm nước vào các chén rồi đứng lên đi lấy siêu rót thêm vào tích. Rồi lại cầm dao với nan rổ. Cậu Chót vừa là em út vừa lành hơn, lại hơi nghễnh ngãng “không biết gì”. Trong tất cả mọi việc cậu chỉ ngồi cho đủ lệ bộ trên, dưới chứ cậu không bao giờ “biết gì”. Hôm nay cũng nghiêm nghi theo anh nên trông cậu càng buồn cười hơn. Biết các cậu khó nói. Hắn phải chủ động – lại chủ động! — Chắc có chuyện gì về cháu phải không ạ? — Anh đã nói, thì tôi nói luôn, không úp mở gì nữa. Có phải anh định cưới cái Hiền? — Vâng ạ. — Thế là rõ rồi. – Ông cố nén lại sự uất hận để hỏi cho ra nhẽ: — Bố mẹ anh biết việc này chưa? — Chưa ạ. — Chưa mà đã định cưới nhau. — Chúng cháu tự quyết định lấy. Chỉ cần dăm bao Trường Sơn, mấy gói kẹo, thùng nước chè xanh là được. Có quan trọng gì lắm đâu hả cậu. — Thôi được, chuyện ấy để sau. Tôi hỏi anh, anh có biết anh với nó là thế nào không? — Cháu biết là chúng cháu yêu nhau. Không thể nào khác được. — Vậy mà nó định đâm đầu xuống ao tự vẫn. — Cậu bảo sao? — Vì nó thấy nhục nhã quá không còn mặt mũi nào nhìn thấy ai được nữa. Hắn như nhổm người nhào về phía ông: — Cậu ơi, cậu nói chuyện gì lạ thế cậu? — Cậu nói chuyện sự thật đấy. Nó chưa chết, nhưng nhà bên ấy như có người chết. — Tự bố mẹ cô ấy hay có kẻ nào định phá hoại chúng cháu? Cậu nói đầu đuôi cho cháu nghe đi. — Cậu đang nói đầu đuôi đây. Không có ai phá cháu cả. Tự cái Hiền nó thấy nhục quá. — Tự Hiền? — Khi nó biết nó là cô của anh… — Hiền là cô của cháu hở cậu. — Cô mà lấy cháu thì có khác gì họ nhà tôm. — Cháu với Hiền mà có họ? Bao nhiêu năm nay có ai nói gì? — Mẹ anh đi lâu, có thể không biết. Các cậu cũng có khuyết điểm khi anh em cháu về đây không đưa các cháu đi nhận họ. Còn các cháu, nhẽ ra khi tìm hiểu ai làng này phải hỏi các cậu, các mợ. Làng này đụng vào đâu cũng có họ cả. Nhưng cậu hỏi thật nhá: Cháu với cô đã có “va chạm” gì chưa? — Có ạ. — Có sâu sắc lắm không? — Có ạ. — Thế thì hỏng thật rồi – Ông lại quay mặt đi nén hơi thở dài, cố kìm sự bẽ bàng. Còn hắn lại muốn nhanh chóng biết mối liên quan họ hàng đến mức nào để còn liệu. — Cậu ơi, cháu với cô ấy là họ như thế nào? Mấy đời rồi ạ? — Được. Cậu sẽ nói. Nhưng cậu hỏi, cháu phải nói cụ thể ra, nó sâu sắc là sâu sắc như thế nào? Đến lúc này thì hắn biết là không thể nói thật được nữa: — Chúng cháu có cầm tay nhau và hôn… — Hôn nhau rồi? – Ông sửng sốt hỏi. — Vâng. Cháu có hôn vào má cô ấy một cái. — Ờ, vào má thì còn được. Nhưng… Thế có còn sàm sỡ gì nữa không? — Không ạ. Cháu với cô cũng mới làm quen nhau. Mà cô cũng rút rát lắm. Ông thở phào: — Ở nông thôn đâu có được tân tiến như trên thành phố. Mới gặp nhau, lại rút rát sao đã đòi cưới? — Cháu muốn có người trông nom các em cháu để cháu tập trung học hành. — Thế cũng còn là may. Bây giờ cậu nói cho cháu nghe để biết vì sao không lấy được nhau. Ông cụ tổ nhà này tên là Phải. Cụ Phải đẻ được bẩy người con: Ba trai, bốn gái. Đến bây giờ thành bẩy chi. Cậu chỉ nói hai chi bên nhà mình về chi bên nhà cô Hiền. Nhà mình thuộc chi cụ Hiến, còn cô Hiền thuộc chi cụ Hòa. Hãy tính chi nhà mình đã. Cụ Hiến đẻ được ra cụ Tý. Còn bốn cụ nữa nhưng cậu chỉ tính các cụ dọc xuống đến nhà mình. Cụ Tý đẻ ra cụ Nhạn. Cụ Nhạn đẻ ra cụ Lịnh. Cụ Lịnh đẻ ra cụ Mục tức là bố của mẹ anh với cậu. Thế là mấy đời? Để cậu tính lại từ đầu. Cụ Phải là một đời. Cụ Hiến là hai, đến cụ Tý là ba, cụ Nhạn là bốn, cụ Lịnh là năm, cụ Lịnh đẻ ra cụ Mục nhà mình là sáu. Đến cậu với mẹ anh là bẩy. Đến các anh là tám. Thế còn bên kia nhé. – Ông bấm đốt ngón tay nhẩm đi nhẩm lại rồi quát lên hỏi cậu Chót. Cậu Chót cũng lại bấm đốt ngón tay rồi khẳng định chính xác với cậu Uyên và cậu Uyên nói cho hắn nghe như sau: — Chi bên kia đến đời cô Hiền là thứ bẩy, tức cô Hiền là ngang vai với mẹ anh có đúng không? — Nhưng luật của Nhà nước cho phép năm đời đã được lấy nhau mà cậu. — Luật Nhà nước là cho nơi khác, để chỗ tỉnh thành người ta theo, còn làng này chín mười đời mà bằng vai phải lứa đã không lấy được nhau huống hồ cháu lại lấy cô. Hắn vùng dậy định đi: — Cháu phải đến nhà cô Hiền. Cần thì chúng cháu đem nhau ra chính quyền. — Anh cứ bình tĩnh ngồi lại cậu nói đã. Bên nhà ấy không có ai đâu, đi làm gì cho mất công. Hắn lại thấy người mình như rời ra. — Vâng thôi cậu nói cho cháu nghe đi. Mà sao cậu lại biết tất cả mọi chuyện? — Thì anh phải tĩnh tâm lại đã. Vẫn giọng rề rà ông kể cho hắn nghe chuyện xảy ra ở nhà Hiền vào lúc rạng sáng ngày hôm kia. Ông kể rất đậm đà, rất khó chịu song hắn lại không thể bỏ qua những chi tiết mà chỉ hắn và Hiền biết chính xác: Cô về nhà lúc hơn mười hai giờ đêm. Cô nói gì đấy với mẹ. Bố có nằm cách hai gian nhà, chỉ nghe thấy tiếng vợ khóc nức lên. Khóc khá lâu, khiến ông định dậy châm đèn, hỏi có chuyện gì. Khi ông đang tìm diêm thì im lặng rồi hai mẹ con thì thầm điều gì đó. Ông trở lại giường và ngủ lúc nào không biết. Đến gần sáng thấy cả nhà chạy rầm rầm ra phía bờ ao. Lúc đến gần, đã thấy hai con giai ông dìu con Hiền ướt lướt thướt đi vào. Ông rất bình tĩnh gọi vợ vào nhà, chỗ giường của ông hỏi. Bà nói với ông rằng con Hiền đã chót yêu thằng Núi và chúng nó định cưới nhau. Nhưng bà bảo nó là thằng Núi phải gọi con bằng cô. Hai đứa lấy nhau thì cả nhà này đeo mo vào mặt. Thế là nó nghĩ đến chuyện cô yêu cháu thì xấu hổ hay là quẫn trí gì đấy mà nhẩy xuống ao định liều. Từ lúc ấy trở đi Hiền chỉ khóc không ăn uống gì. Ông bảo con: “– Nếu đã chót hứa rồi thì bảo thằng Núi nó sang đây để nói nhỏ cho nó biết là cô họ không thể lấy được.” Bỗng cô khóc òa lên: “– Con lạy bố, con không thể nào nhìn thấy Núi được nữa. Con là cô của Núi? Trời ơi, con là cô của Núi! Sao không ai nói cho con biết? Sao đến hôm nay con mới biết con là cô của Núi! Con lạy bố mẹ cho con chết đi. Để con sống con nhục lắm. Con nhục nhã lắm bố mẹ ơi.” Cả nhà phải thay nhau gác. Đến sáng ngày hôm qua thì người anh thứ hai và mẹ cô phải đưa cô lên Hà Nội để đêm đi chuyến tàu vào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Thanh Hoá hay Nghệ An gì đấy. Hắn nghe, nước mắt chảy xuống má từ lúc nào không để ý. Đến khi nói cô đã ra đi, hắn chồm lên: — Đi thanh niên xung phong? — Bảo vào chỗ người cậu ruột công tác gì tận trên miền tây, cho cô ấy ở đấy. — Cậu có thể hỏi hộ cháu xem vùng nào không? — Không đời nào. Chính trưa nay ông ấy bảo cậu đến để nói sự tình đầu đuôi và dặn cậu mấy điều. Thứ nhất, chuyện này ở phía nhà ta chỉ có cậu với cháu biết (ông điếc thì không kể làm gì, ông ấy cứ cười đấy nhưng không nghe thấy gì đâu). Ngoài cậu cháu mình ra, bố mẹ cháu cũng không được biết để nó loang chuyện ra. Thứ hai là, nói với cháu chuyện vừa rồi là do cháu không biết mà nhầm, còn bây giờ đã biết, cô cháu vẫn quan hệ lằng nhằng thì đừng có trách. Ông ấy bảo nó phải biết luật lệ làng này. Và nó cũng phải biết rằng bây giờ chỉ cần trông thấy nó thì con Hiền cũng có thể cắn lưỡi mà chết. — Cậu ơi, cháu hỏi cậu, liệu có đúng cô Hiền sẽ cắn lưỡi chết khi gặp cháu không? Cậu nói thật đi. — Đúng. — Sao cậu biết? — Cậu ở ngần này tuổi đầu làm sao cậu lại không biết. Đã có tý hơi hướng họ hàng, không ai dám lả lơi đầu mày cuối mắt, nói cười giăng hoa. Huống hồ cháu lại… Cậu dặn nhé. Cấm được hở ra với ai là đã hôn vào má cô. Dù chỉ là ở má thì cũng đã láo quá rồi. Người ngoài mà biết cháu bờm xơm cô, cô tí tởn với cháu thì đến ba đời không rửa hết nhục. Suốt mấy chục năm hắn vẫn khăng khăng bảo đấy là tình yêu chân chính. Nhưng thói quen như một luật lệ nghiêm ngặt của làng vẫn không thể chấp nhận cho bất cứ ai vượt qua cái ranh giới hết sức tùy tiện và mơ hồ, mà vô cũng chặt chẽ, chặt chẽ đến độc ác. Nếu mỗi con người đều có khả năng tự khám phá, và kẻ độc ác đến đâu cũng có lúc thành thật với chính mình thì hắn cũng có chút khả năng ấy. Không phải tất cả, nhưng cũng có một vài lần nằm trong trại giam hắn đã “tổng kết” về hắn. Hắn nhận ra sự buông thả quá sớm dẫn đến vấp ngã đau đớn đầu tiên cho đời hắn. Hắn phải chịu. Nhưng còn Hiền. Hiền điêu đứng, cay cực ra sao? Cô và con hắn còn hay mất? Nếu còn, trôi dạt ở đâu? Cuộc đời tan nát của cô dù sao hắn vẫn là kẻ gây ra, làm sao hắn lại là kẻ vô tội? Những buổi chiều khi bóng tối nhập nhoạng phủ xuống bờ mương hắn thẫn thờ như kẻ mất hồn ra ngồi ở phía bụi tre đầu làng, nhìn những tay gai mắc mớ vào chiếc màn hôm nào hắn đã từng gỡ… Không còn nữa. Mùi thơm ngào ngạt của cánh đồng lúa đang trổ bông trộn với mùi khói bếp lan ra từ những mái nhà lợp rạ luồn vào hơi thở của hắn, hắn như thấy mình hụt hơi, rã rời giữa mờ mịt màu đêm. Không còn gì ở những hàng rào nữa! Không còn gì ở những đám cỏ ngã diệp xuống nền đất bờ mương… Càng nhìn, càng mất. Càng mong, càng tuyệt vọng. Muốn lao đầu xuống lòng mương! Còn ba đứa em và mẹ đang “nặng nề” để lại cho ai? Bỏ đi tìm cô, đi không cần chỗ đến, tìm không cần thấy, cứ đi thật xa chỗ này! Nhưng còn sự im lặng thương xót và những cái nhìn cảm thông tha thứ của người cha và ngưòi anh ruột của cô, hắn có thể bỏ qua được không? Cậu Uyên ngày nào cũng lo cho hắn, cũng như chính cậu có lỗi, cậu muốn làm bất cứ việc gì để xoa dịu nỗi đau buông thả của hắn! Có thể bỏ qua được không? Rồi bỏ học ư? Gần một tuần qua các bạn chia nhau chép tất cả các môn. Các thầy cũng đến thăm và giảng những bài tập toán, lý khó và dặn: “Em cố giữ gìn, khi nào khỏi ốm đến lớp, các thầy phụ đạo thêm”. Tất cả những hình ảnh, những tình cảm của bao nhiêu người vẫn cứ quấn quýt quanh người hắn, cứ ở ngay trước mặt hắn. Có thể bỏ lại tất cả, lạnh lùng với tất cả để “ra đi” được không? Hắn không thể dứt bỏ những dằn vặt ấy, cũng không thể lý giải được cái gì rõ ràng, một cái gì cụ thể khiến hắn còn đến trường và lo toan cho các em. Hắn cũng có thể trở thành con người tự xóa đi tất cả những lỗi lầm đầu tiên bằng sức học hành và sự lao động cần mẫn của mình nếu như không có một buổi chiều tháng tư năm ấy. Cái buổi chiều cuối tháng tư nóng rực lên mà tê tái khi hắn nhìn thấy bốn người đi xe đạp thay nhau lai cáng và bảy chiếc xe đạp khác lai nhau, tất cả mười lăm người đưa xác mẹ hắn về chôn cất ở quê ngoại. Chương 8 Phiên tòa đầu tiên mở vào ngày mồng tám tháng bẩy năm 1971 tuyên phạt hắn tám tháng tù giam về tội trộm cắp và cố tình tái phạm nhiều lần. Hồ sơ của vụ án được tập hợp rất nhiều chứng lý, điều tra xác minh công phu và thận trọng. Nhưng không có chi tiết– mà cũng chẳng có một phiên tòa nào trên trái đất này lại dở hơi đưa cái chi tiết ấy vào hồ sơ một vụ án– Chi tiết ấy xảy ra vào ngày thứ năm kể từ khi chôn lấp mẹ hắn xong. Suốt bốn ngày trời anh em hắn chết đi sống lại trong tiếng gào khóc với những bàn tay chới với cào vào không gian đòi mẹ về, rồi lại thét lên nhất quyết đòi đi theo mẹ làm cho tất cả học sinh lớp 9A của hắn, tất cả các bạn học của các em hắn cũng đồng loạt khóc theo, khiến không có một người lớn nào trong đám tang chiều ấy cầm được nước mắt. Rồi, chúng thiếp đi trong vòng tay quây quần của hàng trăm bạn học,của bà con làng xóm, của các thầy, các cô. Mấy ngày ấy người cha của chúng cũng ở lại quê ngoại. Ông vẫn lặng lẽ với những cái bắt tay đều đều, giọng nói đều đều, với những lời lẽ cũng đều đều trên một khuôn mặt không ai biết là buồn hay vui. Ông không thắm thiết với ai , cũng chẳng ghẻ lạnh với ai. Những ngày ở lại đấy ông kể về nỗi vất vả và khốn khổ một mình ông phục dịch vợ ốm trong lúc bụng mang dạ chửa giữa bom đạn như thế nào? Ông đưa bà vào bệnh viện để mổ ra sao? Khi cả bà và đứa trẻ tắt thở trên bàn mổ ông lại phải chạy vạy sao để đưa được xác bà về quê theo lời nói “gở” của bà trên đường đi đến bệnh viện, những người “ngược xuôi”, ông phải tốn kém bia bọt thuốc nước ra sao. Những người nghe ông gật gù đều đều, cũng chớp mắt đều đều nhưng họ lại nghĩ đến thân phận người đàn bà xấu số chứ không ai tán thưởng sự vất vả và sòng phẳng của ông, sự sòng phẳng như kiểu tính công điểm của hợp tác xã. Bởi vì, nếu không nghĩ đến ruột rà máu mủ, tình làng nghĩa xóm với vợ con ông, làm sao chấp nhận được ông chồng chỉ nhờ được chín người lai xe đạp đưa mười sáu người cả sống lẫn chết về quê coi như xong việc. Còn xăng ván, thuốc nước, kèn trống, người đào huyệt, người khiêng đòn, người bắc rạp… bà con chòm xóm, cơ quan đoàn thể và nhà trường xúm vào lo. Không ai bắt ông đóng góp một xu, không ai bắt ông phải tính công xá cho hàng mấy trăm con người. Như thế, làm sao ông lại cám ơn mọi người bằng cách kể công mình. Nhưng ông thì ông tự thấy là mĩ mãn lắm rồi. Ông đã hoàn tất việc đứng ra ma chay chôn cất cho vợ mồ yên, mả đẹp. Một đám ma đông, cảm động chưa từng thấy ở vùng này. Những cái “gật đầu”, “chớp mắt” là chứng tỏ ai cũng thông cảm với ông, ai cũng thấy ông là người có trách nhiệm đến nơi đến chốn với vợ, với con. Đến ngày thứ năm thì ông phải ra về. Vì rằng, đám trẻ ở đây đã nguôi nguôi và đã có họ hàng đông đúc, chả ai phải để cho chúng cô đơn thiếu thốn. Cũng vì rằng, thằng Ý đang phải ôn thi vào đại học. Ông không báo cho nó về đưa ma vợ ông vì nó không thể nghỉ được một buổi học để làm một việc không nhất thiết phải tỏ ra hình thức như thế. Bây giờ ông phải trở về chính là sự thiết thực lo cho nó học hành, không cần thiết phải ở lại mếu máo sụt sùi. Đấy là thứ hình thức vô nghĩa lý. Để làm gì? Thế rồi, cái chi tiết dù không đưa vào hồ sơ vụ án của hắn vào những năm sau, nhưng nếu những người thụ án biết đến chuyện này chắc cũng làm phong phú thêm cho một hệ thống ngôn ngữ cứng lạnh như còng sắt, được mệnh danh là tiếng nói đặc trưng của các phiên tòa. Chi tiết ấy xảy ra vào lúc hai giờ chiều, lúc ông chờ bơm xong xe đạp, dựa nó vào gốc cây cau, quay lại để dặn dò các con: Từ hôm đưa mẹ nó về chôn cất, hôm nay ông mới gặp đông đủ chúng nó. Bốn đứa trẻ lại phải nghiêm chỉnh nghe cha như mọi lần vẫn nghe. Chỉ khác, mọi lần chúng phải xếp hàng ngang ở cửa. Lần này, chúng ngồi trong nhà. Đứa lả người, dựa vào tường quay mặt ra. Đứa ngồi xổm trên ghế, gục mặt xuống hai cánh tay khoanh ở đầu gối. Đứa đứng dựa cột. Đứa ngồi bệt ở chân liếp, quay mặt vào. Ông biết như thế là không nghiêm, nhưng trong tình cảnh này không thể làm khác. Ông phải nén lại những gì không vừa lòng. Giọng ông đều đều, lạnh như vốn dĩ nó là thế: — Thôi. Mọi việc thế là xong xuôi tốt đẹp cả. Từ mai các con phải tiếp tục đi học. Nhớ bảo ban nhau học hành cho tử tế, phân minh. Cấm được làm điều gì ảnh hưởng đến gia đình, đến cậu. Còn lương thực: Trước đây định tách sổ chuyển về quê, bây giờ mẹ mất rồi, nên vẫn tập trung ở dưới phố. Hàng tháng thay nhau về mà đong. Ngoài tiêu chuẩn, mẹ đong thêm cho các con mỗi tháng hai mươi ki lô gam. Bây giờ mẹ mất rồi cậu chỉ còn khả năng đong thêm cho các con bốn ki lô gam một tháng. Như vậy mỗi tháng rút đi mười sáu ki lô gam liệu mà san sẻ, chia cho đều, kẻo cuối tháng lại hụt. Bốn đứa con đang sức ăn như tằm ăn rỗi. Trước đây mẹ chạy vạy cho mỗi đứa mười ba cân một tháng, nhưng thịt thà không có, bữa nào ăn xong đứng dậy cũng như chưa ăn gì phải đi mót khoai, mót sắn mà vẫn không no. Bây giờ mỗi đứa chỉ còn chín cân, lại không đi mót được, làm sao chịu nổi. Nhưng chúng không hề nói gì trước một người cha “sắt đá” như thế. Có nói, cũng không thể thay đổi gì. Cho nên khi cha chúng hỏi: – Có đứa nào nói gì nữa không? Tất cả chúng đều im lặng. Giá như mọi lần thì ông không để yên cho cử chỉ vô lễ ấy. Lần này, ông lại phải nén lại, quay ra gốc cây cau dắt xe ra ngõ. Không biết ông có nghe thấy tiếng con Biển khóc không? Tiếng khóc lúc đầu chỉ là những tiếng nấc “ậc, ậc”, sau rồi nó òa ra kêu: — Ối ối mẹ ơi! Mẹ nỡ để chúng con đói khát khốn khổ, khốn nạn thế này mẹ ơi. Ôi giời đất ơi, sao lại bắt mẹ tôi đi? Mấy anh em tôi biết làm gì nuôi nhau! Ối giời đất ơi! Ối mẹ ơi. Thằng Cả cũng theo chị kêu dóng một: — Ối mẹ ôi, mẹ ôi. Ôi mẹ ôi, mẹ ôi. Con Biển nhoài người ra ôm lấy chân hắn kêu: — Ôi anh ơi, anh Núi ơi ; Em không sống nữa đâu. Thằng Cả nó đói lắm, nó không chịu được đâu, anh ơi, anh ơi. Các cậu mợ đang ở ngoài vườn hoặc từ đầu ngõ đều nghe thấy cả, đều biết cả mà chưa ai nỡ chặn lại những tiếng khóc cứ thảm thiết mãi lên của chúng. Từ lúc cha nói, cho đến khi các em khóc, hai mắt hắn ráo hoảnh, nhìn trân trân xuống chân cột. Đến lúc con Biển ôm lấy chân hắn đòi chết, đòi bỏ đi thì nước mắt hắn chảy ràn xuống hai má. Vẫn đứng ngay như tượng, hắn gọi em: — Biển! Biển ơi. Đừng khóc nữa. Anh sẽ nuôi các em. Anh sẽ tìm cách để các em không phải đói. Biển ơi, nín đi em. Anh sẽ nuôi các em. Nín đi. Anh lạy em, em nín đi để em Cả nó đừng khóc nữa, Biển ơi! Chương 9 Nhưng hắn chưa kịp làm được gì để nuôi các em. Sau một tuần các em đi học, hắn về thành phố. Hai ngày tìm bố ở Thủy Nguyên và nơi sơ tán không thấy, phải đợi thêm hai ngày nữa bố mới đi công tác về, mới lấy được sổ gạo đi xếp hàng. Cửa hàng lại đóng cửa phải chờ thêm một ngày nữa. Vừa trọn hai tuần nghỉ, khi hắn đến lớp, mỗi ngày hắn phải ở lại thêm hai giờ để thầy, cô và các bạn giỏi giang bù những ngày hắn bỏ học. Sự sa sút của một học sinh giỏi như hắn làm các thầy cô và các bạn đều ái ngại và thông cảm, nên không ai có thành kiến, coi thường, chê trách hắn. Tất cả, vẫn yêu thương, vẫn hi vọng. Hắn hiểu như thế. Đêm đêm hắn vẫn chong đèn học tới một, hai giờ sáng. Hắn lại vươn lên. Bệnh mất ngủ xuất hiện. Hàng tuần, hàng tháng hắn không ngủ được. Hắn mắc bệnh đau đầu. Lại phải nghỉ học. Ai cũng hiểu hắn lo nghĩ nhiều suy nhược thần kinh. Nhưng không ai hiểu hết mọi điều bằng cậu Uyên. Cậu thương hắn lắm. Cậu tìm người châm cứu, chạy tìm thuốc nam, cậu nuôi hắn ốm còn hơn cả con của mình. Những cậu, mợ, cô dì, ông bà thấy cảnh ngộ của anh em hắn, ai cũng thương. Người cho vài cân gạo, người dăm đấu ngô. Bạn bè cái Biển, thằng Sông cũng góp tiền góp gạo, cho anh em hắn. Các thầy cô, bạn học lớp hắn quyên góp cho hắn một trăm đồng. Bằng cả hai tháng lương của một thầy thực tập. Hắn khỏi bệnh. Lại đến trường vào những ngày cuối cùng của năm học. Thời gian nghỉ cộng lại gần ba tháng và điểm tổng kết không đủ các môn, hắn phải ở lại “lưu ban”. Hắn cảm ơn thầy cô, cám ơn nhà trường đã chiếu cố cho hắn học lại. Nếu không thương hắn, thì hắn đã bị đuổi học rồi. Hắn hứa sang năm hắn sẽ cố gắng để không phụ lòng các thầy, các cô. Nhưng cha hắn thì không cho phép. Thằng Sông về đong gạo tháng sáu. Cầm lấy sổ rồi cậu bảo ngồi xuống đã: — Học hàng thế nào? Có lên lớp không? — Dạ… con… con không ạ. — Có được thi lại không? — Dạ con.. thiếu 3 môn phải ở… lại. — Ở lại hử? – Giọng cậu vẫn đều đều nhẹ và lạnh: — Cậu không có khả năng để nuôi đứa nào ăn học hai năm một lớp, con hiểu không? Người ta vừa làm lấy mà ăn, vừa học cũng còn lên lớp. Mấy anh em con ở chỗ sơ tán làm gì hả? Làm gì mà lại không lên lớp! Anh Ý con đấy, một thân một mình không ai trông nom, thi tốt nghiệp vào loại giỏi. Thôi. Không học được, tự đi kiếm lấy công việc mà làm ăn. Còn thằng Núi thế nào? — Dạ, con không thấy anh ấy nói gì ạ. — Nó học giỏi nhất nhì trường huyện, chắc không phải học lại. Nếu có ở lại thì cũng phải bỏ, tự đi mà kiếm lấy việc làm. Từ nay quần áo, giầy dép và tất cả mọi khoản chi ngoài tiêu chuẩn gạo và thực phẩm, các con phải tự lo lấy. Đừng bao giờ mở miệng cầu xin cậu, con có hiểu không hả. Thằng Sông về chỗ sơ tán, đến giữa tháng bẩy may mắn cậu Uyên nhờ người chạy vạy cho đi học lái tàu hút bùn. Còn hắn? không thể học lại? Cũng không thể bỏ mặc hai đứa em bơ vơ đói rách. Lúc đau đớn mất mẹ hắn đã dỗ dành các em: “Nín đi, nín đi em ơi, anh nuôi các em”. Suốt mấy ngày đêm tha thẩn trong nỗi buồn và lo, cuối cùng hắn quyết định: Khi về nhà với cậu thì “cứ lên lớp mười” rồi sang năm sẽ “trượt” đại học cũng không sao. Cốt làm thế nào để kiếm được miếng ăn cho các em tiếp tục theo học. Tháng chín hắn về đong gạo. Người cha hỏi: — Năm nay con học thế nào? — Lên lớp mười, con vẫn sợ môn hình học không gian. — Cố mà đỗ vào đại học như anh Ý năm nay đỗ gần đủ điểm đi nước ngoài của ngành hàng hải đấy. Đỗ được như thế đâu phải chuyện dễ dàng. Con đừng làm gì ảnh hưởng đến cậu như thằng Sông. Nó làm cho cậu xấu hổ mỗi khi có ai hỏi chuyện học hành của các con. Con có hiểu không? — Con có hiểu ạ. Hắn hiểu từ nay hắn phải tìm cách để nói dối mọi người. Nói dối cha hắn để cha không cắt khoản năm đồng một tháng và cắt tiêu chuẩn gạo cho một đứa như đã cắt của thằng Sông. Nói dối các em để chúng không vì anh mà bỏ học. Và nói dối các cậu, các mợ, các thầy, các cô. Hắn xin nhà trường cho hắn làm thủ tục chuyển về trường cấp III Kim Thành hoặc An Dương gì đấy. Biển mà nó dò hỏi biết thì không thể được. Nhưng làm gì bây giờ? Đi mót và ăn xin thì không thể được rồi. Đi làm thuê? Ở đâu? Việc gì? Tất cả các công việc bây giờ là của hợp tác xã, làm tập thể, chi công điểm, có gia đình nào lại đi mướn người làm thuê cho riêng mình. Cái hình ảnh những bà gồng gồng, gánh gánh bao bọc lồng cồng trên những chuyến tàu đêm hắn gặp ở ga Phú Thái, ga Dụ Nghĩa, ga Hỗ, lấp lóe trong đầu hắn. Hắn quyết định xin “chuyển về trường An Dương” vì sự lóe sáng ấy. Sau bao nhiêu khả năng khác không thể thực hiện, hắn nghĩ cách ấy là tốt nhất. Từ nơi sơ tán về ga Hỗ, hơn hai chục cây số, không thể đi bộ. Hắn “trọ học” để dành được xuất gạo cho hai em là hoàn toàn yên tâm. Hai bẩy cân gạo và mười lăm đồng mỗi tháng là chúng nó sống được rồi. Hắn bàn với cậu mợ và các em vào trưa ngày thứ bảy như sau: — Thầy giáo của cháu năm ngoái chuyển về bộ, năm nay về làm hiệu trưởng ở trường cấp III ở An Dương. Cháu về đấy được học bổng. Thầy bảo, mỗi tháng được hai hai đồng, với tiêu chuẩn gạo là mươi năm cân, thế là cháu sống dư dật. Cậu mợ xuýt xoa kêu là may mắn phúc đức quá. Phải giỏi giang lắm mới được thế. Các cậu mợ thở phào như bớt được một gánh nặng. Dẫu rằng chẳng bao giờ tụi hắn quấy rày, ăn đẽo vào cậu mợ, nhưng các cháu mà nheo nhóc, cậu mợ sao đành lòng được. “Thôi thế là may quá. Phúc đức quá!” Con Biển thì thào nghi ngờ: — Phải là cán bộ, bộ đội, thương binh chuyển ngành học ở đại học và trường chuyên nghiệp mới được như thế. — Đấy là chính sách chung. Còn đây là ở riêng thành phố này. Người ta trợ cấp cho một vài trường hợp thật đặc biệt, khó khăn quá. Nếu không, những học sinh ấy sẽ bỏ học. Nhưng cũng chỉ có vài ba suất rất đặc biệt, không ai người ta phổ biến rộng. Thằng Cả thì lo lắng: — Thế anh không ngủ ở nhà à? Hàng tháng ai sẽ về phố đong gạo? Con Biển mắng em hỏi những chuyện lặt vặt. Cậu mợ thì mắng nó không biết mừng cho anh, lại lo những chuyện không đâu. Cậu bảo hai chị em ở nhà thế là sướng quá. Mỗi tháng hai bẩy cân gạo, gần hai mươi đồng bạc tiêu pha, hơn hẳn tiêu chuẩn của ông chủ tịch xã rồi còn gì. Tối hôm ấy cậu làm con gà, mua nửa cút rượu, gọi là “liên hoan” mừng cho cháu được học hành tấn tới hơn người. Chương 10 Vài chục năm sau, khi hàng ngàn, hàng vạn người è cổ vác hàng Tàu bò qua núi trông như những đàn kiến cánh thì mới xuất hiện danh từ “cửu vạn”. Thực chất nội dung của nó đã được hắn “triển khai” từ ngày ấy. Đêm đêm những đoàn tàu từ Hà Nội về, ở mỗi toa hàng, lăn ra những bao tải bằng đay căng lên nứt nở những sắn miếng, khoai lang miếng phơi khô, ngô và mì sợi… Những người trong toa ì ạch đẩy nó lăn khỏi thành tàu thì như giáng xuống vai, xuống đầu hắn. Hắn hơi chúi người đi rồi liêu xiêu lấy lại thế cân bằng, người hắn như gập làm đôi, “cõng” những chiếc bao tải “bố” chạy ra vứt xuống diềm cỏ phía ngoài hàng rào. Chuyển xong hàng từ trên tàu xuống lại vẹo người cắp chúng vào nách ra khỏi khu ga. Vứt lên xích lô, đặt vào quang hoặc để lên gác đèo hàng của xe đạp. “Giải quyết” xong tàu xuống, hắn ra ngồi quán nước “phòng không” vốn chỉ là chiếc mẹt để trên miệng thúng vẫn lồng trong quang, bên cạch những bao tải căng đầy khoai tây, xu hào, chuối xanh, bắp cải, và những sọt cà chua, hành hoa chờ tàu lên. Hắn “bồi dưỡng” một cái bánh mì cứng đen và chua như cứt mèo, chiêu với nước chè tươi hoặc sang hơn, có thêm thanh kẹo lạc năm xu. Vừa ăn, vừa trò chuyện với những bà chủ của đống bao bì quang sọt, là chỗ quen thuộc. Tất cả đều dỏng tai nghe. Khi tiếng còi như từ xa xưa vẳng lại, tất cả kêu lên sung sướng và hoảng hốt “tàu lên, tàu lên đấy”. Họ sai bảo, hò hét hắn, cùng chạy huỳnh huỵch với hắn chuyển hàng lên tàu. Đấy là sự “lưu thông phân phối” ngoài quốc doanh hoặc “tự điều chỉnh xã hội” như các nhà nghiên cứu bên những chiếc cặp lồng cơm trộn mì có mấy miếng xu hào luộc hoặc nửa quả trứng rán để ở ngăn trên, miệt mài tìm ra những danh từ sang trọng để gọi các công việc như kiểu các việc hắn đang làm. Hắn kết thúc vào khoảng năm giờ sáng mỗi ngày. Động tác đầu tiên là hắn thục tay vào bốn túi quần và áo móc ra những đồng tiền xoắn xít cong queo, vuốt thẳng rồi đém để riêng loại một hào, hai hào, năm hào, một đồng rồi lại chia về bốn túi. Mẩm bụng chắc ăn về những đồng tiền đã kiếm được trong đêm, hắn đi bộ ba ki lô mét về chỗ cửa hàng mậu dịch sơ tán là quán ăn cả ba bữa của hắn trong ngày. Cầm chiếc vé năm hào, cô mậu dịch viên trẻ trung quen thuộc ánh lên đôi mắt trìu mến nhìn hắn thông cảm với công việc ca kíp nặng nhọc. Bao giờ cô cũng ưu tiên cho hắn gần nửa muôi nước dùng trong bát mì “có người lái”, nghĩa là có những lát thịt lợn nửa nạc nửa mỡ, nửa mỡ trắng hếu còn nửa nạc như được bôi phẩm đỏ mỏng như lá lúa rải trên mặt. Ăn xong, hắn gật đầu như để cảm ơn cô nhân viên về nửa muôi nước dùng, rồi nhanh chóng đi chừng hai trăm mét về ngôi nhà của một bà buôn sắn khô nhận hắn là cháu, cho hắn ở nhờ riêng một cái nhà bỏ không. Hắn ngủ từ sáu giờ rưỡi đến mười một giờ rưỡi. Dậy rửa mặt rồi ra cửa hàng ăn cơm. Trở về, hắn lại ngủ đến sáu giờ. Lại ra cửa hàng. Ăn xong, ra ga chờ tàu xuống. Trong khi cha hắn vẫn yên trí con ông học vào loại nhất nhì của lớp thì hắn đều đặn tối đi làm, sáng về ngủ, đầu tháng bỏ hai ngày về thành phố đong gạo đem về cho các em và trả lời cha: — Sao dạo này con đen đi? — Đi bộ nắng mà lại lao động giúp đan, đắp ụ pháo cho bộ đội. — Dạo này mắt con thâm quầng thế chắc học nhiều. — Nhiều đêm con không ngủ vì vừa học vừa đối phó điểm tổng kết, vừa phải luyện thi. — Thế là tốt lắm. Cố gắng làm gương cho các em noi theo. Bảo ban các em không được đứa nào làm gì ảnh hưởng đến danh dự của gia đình mình, đến cậu. Hầu như mối quan tâm của cha và việc làm của hắn không hề ăn nhập gì với nhau, mặc dù cha hắn hỏi đều đặn và hắn vẫn đều đặn trả lời. Hắn hoàn toàn không nhớ gì đến những cuộc “đối thoại” ấy. Hắn chỉ nhớ mỗi tiền hắn kiếm được để đong gạo và gửi về cho các em. Rồi hắn lại mua xà phòng, díp đánh răng, khăn mặt và đường, nói là bạn bè của hắn gửi cho chúng. Hắn đi làm nuôi em được hơn ba tháng thì bị bắt. Nguyên nhân là hắn gặp hai người thanh niên, một cao đen, da sắt tận mặt, một người béo lùn ục ịch. Nói đúng ra là hai người ấy đến gặp hắn lúc hắn cõng bao tải su hào bị thụt xuống một cái hố nhỏ. Hắn ngã khuỵu xuống, úp mặt xuống đất, tải su hào đè xuống tưởng đãy xương sống. Chưa thể cất tiếng kêu được đã thấy nhẹ bẫng, bao tải g g g y g su hào được hất xuống bên cạnh. Cả hai người đều cúi xuống đỡ hắn dậy. Người cao hỏi: — Có việc gì không? Người thấp đặt tay lên hai vai hắn sờ sờ rồi bất thần cầm vai hắn vặn đánh “rắc” một cái cùng với câu: — Gãy xương như chơi. Tất cả những chỗ đau nhức ở lưng hắn như tan biến tức khắc. Hắn cảm ơn. Người cao hỏi: — Chuyển xong chưa? — Còn cà chua và tỏi, hành đằng kia. — Đi. Bọn này giúp cho. Hai người thoăn thoắt khiêng vác tải, sọt, bì nâng lên đầu đưa qua cửa sổ rất thành thục. Khi tàu chuyển bánh hắn cầm nắm tiền đếm đếm chia ra làm ba. Người lùn gạt đi. — Trả công à? Kỷ niệm đồng hương đấy. “Chỉ huy sở” của đồng hương ở đâu? — Chỉ huy gì ạ? — Chỗ trú chân, ăn nghỉ ý. — À à em ở nhờ cách đây hơn ba cây. — Đồng hương ra đây uống nước rồi tạm biệt nhau. — Các anh có đói không? — Kiếm được chỗ nào làm vài xị cho ấm ruột. — Gần chỗ em có quán phở. — Thì đi. Ba người chuyện trò với nhau như đã quen thân từ lâu lắm. Họ hỏi hắn về quê quán, về anh em, bố mẹ, vì sao lại làm ở đây, có định đi đâu khác hay cứ ở đây… vân… vân… Còn hắn thì biết họ quê ở Quảng Ninh. Bộ đội ở B ra, đang chờ xin công tác. Tranh thủ đi xem chỗ nào có việc thì kiếm một ít làm lưng vốn . Khi uống hết nửa chai rượu, một đĩa cổ cánh gà và mỗi người một bát phở thì cả ba ngoắc tay nhau kết nghĩa anh em đồng hương thắm thiết. Hắn trả tiền. Người cao gầy gạt tay hắn ra: — Tiền của chú cứ để đấy gửi về cho các em. Họ đưa nhau về chỗ cái nhà của hắn lăn ra ngủ như chết. Lần đầu tiên hắn uống nhiều rượu, còn hai người kia chắc những đêm trước mất ngủ, cả ba người kéo một giấc mãi đến tận chiều. Những người đánh thức họ dậy là những người đến bắt họ. Sau này hắn mới biết bà chủ nhà buôn sắn khô đã “gặp” họ hai lần ở ga Gia Lâm. Hôm nay về nhà, nhìn vào chỗ hắn, bà nhận ra “khách quen” lặng lẽ đi báo công an. Họ được đưa lên xã lấy lời khai ban đầu trong vòng hai giờ đồng hồ rồi giải lên huyện. Hai tên kia là những tên đảo ngũ, chuyên ăn cắp ở các ga từ Bắc Giang đến Hà Nội. Bị truy lùng riết, chúng dạt về đây. Đêm qua vừa xuống tàu, chưa định hướng hành nghề thì gặp hắn. Ngay đêm hôm ấy chúng được giải về thành phố. Còn hắn, chưa có hiện tượng gì ăn cắp nhưng vì liên quan đến bọn kia và không có bất cứ một thứ giấy tờ nào nên tạm giữ để báo cho cha hắn đến xác nhận. Cha hắn lên ngay chiều hôm sau. Ông ngồi với anh các bộ công an ở phòng ngoài. Hắn ở bên trong, cách nhau một tấm cót. Không trông thấy mặt, nhưng hắn nghe giọng ông vẫn đều đều không tỏ ra bực bội cũng không lấy gì làm sốt sắng. — Bác có con trai tên là Núi? — Báo cáo đồng chí đúng ạ. — Bác có biết hiện nay cậu ta làm gì, ở đâu? — Dạ, báo cáo đồng chí, cháu nó là học sinh lớp mười trường cấp III Kinh Môn. Cháu học giỏi, măm nay chuẩn bị thi vào đại học. — Lần bác gặp cậu ta gần nhất cách đây bao lâu? — Báo cáo đồng chí, mới đầu tháng, cháu về đong gạo. — Bác có hỏi gì chuyện học hành của cậu ta? — Báo cáo đồng chí, tôi vẫn kiểm tra thường xuyên và biết cháu vẫn học hành tốt. Các thầy cô biểu dương liên tục. Năm nào cháu cũng là học sinh giỏi. — Cậu ta đã từng giỏi toán nhất trường? — Báo cáo đồng chí, cũng là sự rèn luyện nghiêm khắc của gia đình, cụ thể là của tôi, phần nào cháu cũng có cái gien của bố cháu nữa. — Bác có biết hôm nay chúng tôi mời bác đến đây về việc gì không? — Báo cáo đồng chí. Khu phố cũng cho biết và giấy mời của các đồng chí cũng có ghi rõ là đến để trao đổi việc có liên quan đến cháu Núi. Thực ra tôi cũng có chút phân vân. Cháu Núi sơ tán bên Kinh Môn, tại sao lại được giấy mời của quý cơ quan bên này, nên tôi cũng tranh thủ lên để biết cho cụ thể. — Cậu ấy đã bỏ học ba tháng rưỡi rồi. — Cháu Núi bỏ học ba tháng rưỡi? — Từ khi mới bắt đầu khai giảng năm học mới. — Báo cáo đồng chí. Ngay từ khi bắt đầu năm học mới cháu đã bỏ học? — Vì bác không cho phép cậu ấy học lại lớp chín. — Vâng, tôi không cho phép “đúp lê” lớp chín. Nhưng vì sao cháu phải học lại? — Chắc bác biết rõ nguyên nhân hơn chúng tôi. — À vâng. Báo cáo đồng chí, nhất định tôi phải biết rõ về cháu hơn các đồng chí. Nhưng không có trường hợp ấy đâu ạ. — Chúng tôi nói là có người thực, việc thực. Nhưng chuyện gia đình cái chính vẫn là ở các bác. Chúng tôi chỉ mời bác đến đây nhận con mình và trao đổi cách quản lý giáo dục các em như thế nào cho tốt. — Báo cáo đồng chí, cháu Núi hiện giờ ở đây. — Vâng, có. g Hắn được gọi ra. Người cha hơi sững lại một giây rồi lại vẻ mặt đều đều không ai biết ông đang vui hay buồn. — Đây chính là con bác. — Báo cáo đồng chí, vâng. Những để xin phép tôi hỏi cháu: “Con đã bỏ học thật hở Núi?” — Vâng ạ. — Từ khi mới khai giảng? — Vâng ạ. — Con có nhớ hôm đầu tháng con về nhà và nói những gì với cậu? — Dạ con nhớ con nói với cậu là con vẫn đi học. — Thôi thế là được rồi. — Xin cậu cho con nói. — Cậu nghĩ không cần thiết. Báo cáo đồng chí công an, đây là một trường hợp lừa bịp xảo quyệt. — Nhưng bác xác nhận đúng là con đẻ của bác. Xin bác cho xem hộ khẩu. — Báo cáo đồng chí đúng là con đẻ của tôi. Nhưng không cần thiết phải xem hộ khẩu. — Có nghĩa là… — Báo cáo đồng chí, có nghĩa là từ giờ phút này trở đi tôi không công nhận nó là con tôi nữa. — Xin bác bình tĩnh nghĩ lại. — Báo cáo đồng chí, làm việc gì tôi cũng nghĩ kỹ lưỡng. Tôi đã khuyến cáo các cháu nhiều lần, chứ không phải đến lúc này tôi mới quyết định như vậy. — Nếu đúng như cậu ấy trình bày, trước tình cảnh mẹ mất, phải quản lý trông nom các em nhỏ, lại thiếu thốn, đi học xa. — Báo cáo, đúng là mẹ cháu mới mất đầu năm. Nhưng đây không phải là lý do chính để cháu trở thành kẻ lừa dối bịp bợm. Tôi g p ý p mới nghe phong phanh, đâu như cháu còn bờm xơm với cả bà cô ngang vai mẹ cháu. Như thế còn đáng gì làm một con người nữa. — Trước đây bác đã từng công nhận cậu ấy là một đứa học giỏi, có giáo dục, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó xô đẩy cậu ta vào một chỗ nhầm lẫn. Mà cậu ấy chưa phải là kẻ đã có tiền án, tiền sự gì. Gia đình, nhà trường, địa phương có thể kết hợp cùng nhau giúp cậu ấy sửa chữa sai lạc của mình. — Vâng, báo cáo đồng chí, các đồng chí có ý kiến như thế là rất tốt. Xin các đồng chí giáo dục cháu. Còn gia đình chúng tôi từ nay coi như không có cháu. — Nghĩa là bác kiên quyết không nhận cậu ấy. — Báo cáo đồng chí, đúng thế. — Ai cũng như bác, đẩy những đứa con hư cho xã hội thì xã hội này sẽ ra sao? Còn trách nhiệm, tình cảm của những người làm cha mẹ? — Báo cáo đồng chí. Xã hội có đủ mọi điều kiện, đôi khi cũng còn chịu, huống hồ gia đình. Mà pháp luật cũng đã quy định cha mẹ không chịu trách nhiệm hành vi của con cái đã đến tuổi vị thành niên. — Tôi hỏi thật bác nhé. Có lúc nào bác thấy đau đớn, xót xa về đứa con của mình đẻ ra phải lang thang ăn bờ ở bụi không? — Báo cáo đồng chí công an, tôi không có trách nhiệm phải trả lời câu hỏi đó. Tôi cũng không phải báo cáo tình cảm riêng của mình với đồng chí. — Xin lỗi bác, tôi hỏi như một lời tâm sự về hoàn cảnh của Núi. Anh công an dừng lại rồi kể cho ông nghe cậu ta đã sông thế nào trong ba tháng nay và lý do bị bắt giữ ở đây. Kể xong anh vẫn thấy nét mặt ông không hề lay động gì, anh hỏi: — Bây giờ bác cho hỏi một lần nữa. Bác kiên quyết không chấp nhận cậu con trai của mình? — Phải nói từ phút này, cháu không còn là con của tôi nữa. — Vâng, xin bác về nhà viết cho một lá đơn. — À, vâng vâng. Xin lỗi đồng chí, cho tôi tờ giấy , tôi viết ngay tại đây cho khỏi mất thì giờ đi lại. Chương 11 Ông đâu phải là kẻ không biết đau đớn, xót thương con cái như anh công an nhận xét có ý chỉ trích ông. Buồn cười thật. Công an là người giữ kỷ cương xã hội, gặp được người nghiêm túc như ông, đáng nhẽ phải biểu dương, thì lại có vẻ không bằng lòng. Kệ. Ông đã không là không. Nhất định là không bao giờ ông nhận nó. Thế thôi. Mười mấy tuổi đầu nó đã cả gan gạt lừa ông suốt mấy tháng nay. Chưa biết chừng còn bao nhiêu việc khác nó lừa ông mà ông không biết. Chấp nhận nó để rồi cả đời ông bị nó lừa à? Nó với ông chỉ có cách: Còn người này thì không còn người kia, hoặc ngược lại. Không thể bố bố con con gì nữa. Từ phòng công an huyện An Dương đạp về đến nhà, suy đi tính lại, ngẫm nghĩ trước sau, ông thấy việc viết đơn không công nhận nó là con của mình là đúng đắn, chính xác. Nhưng, dù sao, ông cũng phải đề phòng miệng lưỡi đểu giả của những kẻ xấu bụng, không ưa ông. Sau vài ngày, ông đã nghĩ cách đề phòng, theo ông, thế là mĩ mãn, không còn kẽ hở. Nếu có ai đó cho rằng ông là con người ích kỷ, ky bo hoặc lẩm cẩm, độc ác gì gì đó thì chính người ấy sẽ phải câm họng ngay vào buổi chiều thứ bảy, lúc hai giờ kém mười lăm phút. Ông bơm xong xe đạp bằng chiếc bơm tay vẫn để trong túi vải thủng hai đầu, phía ngoài túi vải có một túi nilông cũng hai đầu thủng. Ông gài bơm vào suốt dọc của xe có hai cái ngạnh như hai cái móc trông như chui qua ruột bơm giữ lấy nó. Để ăn chắc, ông còn buộc thêm hai dây cao su non ở gần hai đầu. Nếu lúc nào có sơ ý, những kẻ ăn cắp cũng không thể rút được. Đang định uống chén nước chè mới pha rồi đúng hai giờ kém ba phút dắt xe ra đầu phố thì trời tím bầm lại và gió to, mưa đổ xuống như trút nước. Nghe đài báo thời tiết tối hôm qua, biết chắc chiều nay có gió mùa đông bắc và mưa to nên ông quyết định thay đổi ngày đi, Đáng lẽ để sang tuần sau, ông “đẩy” nó lên, ông ra đi ngày hôm nay, nhưng không ngờ mưa đến sớm. Ông mặc hai lần áo mưa, đội chiếc mũ cối cũng đã được bọc vải mưa, rồi khóa cửa dắt xe đi, không kịp uống nước. Giá rét này, mai về đun lại uống cũng còn được. Hơn ba chục cây số, ông đạp đến nơi, tối là vừa. Ngược gió, đường lội mệt đấy. Ông biết trước cả. Từ khi Giôn xơn ngừng bắn, ông đã định để bọn trẻ cứ yên trí ở đấy học, đâu chả là ăn, chả là học nhưng khi “từ” mặt thằng Núi ông mới chợt tính ra: Để con một nơi, bố một nơi là dại. Vừa mất của, vừa mang tiếng. Mà đằng nào mình cũng phải nuôi nó. Lúc cần sai bảo, cần người hầu hạ thì lại không có đứa nào. Một thân một mình, nhỡ ra có làm sao, ai biết đấy là đâu. Ông phải đưa chúng nó về. Ý là thế. Nhưng nếu không biết tính cũng vứt. Cho nên, ông phải chọn đúng ngày mưa bão để về quê. Họ hàng ở bên ngoại nhìn thấy ông mò mẫm đi trong mưa bão, lặn lộn đêm hôm về với các con ông thì có ai dám bảo ông là lạnh nhạt vô trách nhiệm với con cái nữa không? Chắc họ phải hiểu là đứa nào hư ông từ mặt, đứa nào ngoan ông yêu. Ông đuổi đứa này đi, thì lại đón những đứa khác về. Anh công an ở huyện An Dương, rồi công an và bà con ở khu phố biết việc này có dám nói ông không đau đớn, thương xót con mình nữa không? Việc tôi, từ to đến nhỏ, tôi phải tính. Ngay đến một tách cà phê ba hào uống không hết, cũng phải lấy thêm đường pha vào biến nó thành cà phê đá, không thể để cho nó thừa. Một ngày, chỉ một cốc cà phê đá, hai cốc bia, tất cả là chín hào. Chín hào ấy ở khoản nào? Đến khi bia lên năm hào, rồi một đồng, thì sẽ chi vào đâu? Nếu không đủ tiền uống bia cả hai bữa mình phải sắm cái bi–đông. Trưa nay mua một cốc, về nhà sẻ làm đôi, uống một nửa, nửa kia nút chặt vứt vào bể nước, chiều lại uống, đi đằng nào mà mất. Nếu không có khoản nào nữa hoặc bia lại lên giá nữa, mình không theo được thì phải chuẩn bị sẵn sàng mà bỏ. Không tính toán kỹ, lúc ấy đi xin, hay đi ăn cắp. Ngay quần áo, đầu tóc cũng thế. Có ai trông thấy ông mặc nhầu nhĩnh, xốc xách, rối bù? Kể cả ngồi trong hầm trú ẩn, ông vẫn giữ được đường ngôi trên đầu mượt và thẳng. Bao giờ ông xuống hầm tránh máy bay cũng đàng hoàng. Nghe dự báo: “Máy bay từ xa” là người ta đã trông thấy máy bay rồi mới bảo mình, thế thì mình xuống trước, máy bay không đến hoặc đi hướng khác thì mình lại lên, mất gì? … Sao họ lại cứ phải đợi còi ử, súng nổ, bom rơi mới hớt hớt hải hải lao xuống. Khối người chết vì sự chủ quan đấy. Hay ho, tốt đẹp gì? Ông là người sống có nguyên tắc, có tính toán đàng hoàng như thế nên ông không chấp nhận bất cứ ai sống tùy tiện, vô nguyên tắc, có vậy thôi. Những ý nghĩ ấy làm cho ông đi hơn ba mươi cây số trong lầy lội, mưa rét thấy dễ dàng. Nhưng đến chiều thứ tư tuần sau, lúc trời nắng hửng lên, đường phố khô ráo, ông chỉ đạp ba cây số trên đường nhựa từ trụ sở công an khu phố về, lại thấy nó trầy trụt, có một lần ông phải xuống dắt xe đi bộ. Ông sợ đâm vào người khác, hoặc loắng quắng ô tô lại đè lên mình. Chính quyền, công an, đoàn thể, đại diện tổ dân phố, rồi cả công đoàn của cơ quan ông góp ý mà như buộc ông phải chấp nhận thằng Núi, phải đón nó về nhà. Thôi được. Về lý, các anh các chị đúng, tôi không cãi được. Mà một người, làm sao cãi được với cả mười mấy người có thế lực, quyền binh trong tay. Tôi sẽ chấp nhận nó theo cách của tôi, tình cảm của tôi. — Thế này nhé – Vẫn giọng đều đều lạnh: – Con đi đâu, làm gì là quyền của con, cậu không can thiệp. Cậu chỉ yêu cầu con phải ra khỏi nhà khi cậu đi làm. Khi nào cậu về mở khóa mới được vào. — Con xin cậu. Cậu để con trình bày, con xin lỗi đã nói nói dối cậu. — Không cần thiết. Chỉ cần mấy việc làm vừa qua là cậu đã hiểu bản chất của con như thế nào rồi. — Con xin hứa với cậu từ nay… — Cậu không bắt con phải hứa hẹn gì nữa đâu. Con có cái sai, cậu cũng có cái sai. Từ nay ta rút kinh nghiệm. — Con xin cậu, cậu cho con ở nhà. Chưa đi làm được gì, con cũng dọn dẹp, giặt giũ, cơm nước đỡ cậu, đỡ các em. — Cám ơn con. Nào thôi, đi ra để cậu khóa cửa. Cứ đều đều, nhẹ nhàng, cứ đều đều êm thấm, không hề có chuyện gì xảy ra. Sáng, bẩy giờ cậu đi làm. Con cũng phải đi ra. Trưa, mười một giờ ba mươi cậu về. Mời con vào nhà. Chiều, một giờ cậu đi. Con lại ra cho. Chiều, năm giờ cậu lại về. Con lại vào. Lúc nào con thấy không cần về hoặc không về đúng thời gian cũng được. Con rất tự do. Chỉ có điều, lúc ấy cậu có nhà và đêm không quá chín giờ ba mươi. Thấy muộn, con cứ đi luôn đến hôm sau, hoặc mấy g y y hôm sau, hoặc cả tháng, cả năm cũng được. Đối với cậu thế nào cũng được. Thoải mái lắm. Cậu là người rất tôn trọng tự do, thoải mái của các con. Riêng chuyện ăn uống. Chắc con hiểu, mười tám tuổi không có công ăn việc làm Nhà nước không cấp gạo. — Ờ được, cậu cố hỏi xem. Trước mắt, con phải tự giải quyết lấy việc ăn uống ở ngoài. Hãy tạm thời như thế đã nhỉ. Nào thôi, ta đi ra. Hắn không ăn cơm ở nhà bắt đầu từ mồng một tháng một dương lịch tức là vào cuối tháng mười một hoặc đầu tháng chạp. Trong lúc ấy trong túi hắn chỉ còn một đồng hai. Ngày ngày hắn cứ đi lang thang , không có việc gì vẫn cứ phải đi lang thang để đến chín giờ đêm mới về đi ngủ. Mỗi bữa ăn, hắn đến một cửa hàng nào đó, mua mấy xu nước canh hoặc nước rau luộc, kể cả là nước lã. Hắn lấy một bát nước mắm pha loãng ở trong chiếc chậu trên mặt bàn trông như chậu giặt quần áo, một cái bát đựng tương ớt rồi quan sát xem bàn nào có người ăn thừa, hắn bê cả “canh” cả mắm, cả ớt đến đặt ở bên cạnh và nói: Bác (hoặc anh, hoặc chị) ăn xong cho mượn bát đựng cơm. Rồi lại quan sát tiếp và lại đi “mượn” bát mang cơm thừa về đổ vào bát mình. Cũng có khi là mẩu bánh mì, là phở, là mì sợi… thì không thể cho “mượn”, mà xem thấy không ai để ý, nhanh chóng cầm lấy mang về bàn mình. Cũng có hôm không có ai “thừa”, không gặp may hoặc nhịn đói quay về nhà đứng ngoài cửa sổ chuyện trò với các em. Số tiền anh cho trước đây, chúng nó dành dụm lại còn mười ba đồng, con Biển đưa cho anh. Nhưng hắn bảo: — Anh còn. Cứ cầm lấy đi. Nhỡ có đứa nào ốm đau, có bị bố đuổi như anh, còn có đồng mà tiêu. Hôm nào thấy anh đói, chúng cũng nấu cho anh bắt mì đổ vào ca, một đứa cầm ở trong song sắt, hắn cầm thìa, đứng noài song sắt ăn. Chúng bảo hắn cứ về nhà, nếu biết chắc cậu còn ở cơ quan, chúng sẽ nấu mì cho hắn ăn. Nhưng hắn chỉ khi nào không có cách gì kiếm được, mới đành phải quay về. Mỗi lần kiếm ăn ở nhà nhục lắm. Mình được miếng vào bụng, nhưng các em thì nước mắt vòng quanh thương anh. Rồi, vụng vụng trộm trộm, trông khổ thân chúng nó lắm. Sở dĩ hắn cứ nấn ná quanh quẩn ở nhà là chờ cậu xin việc cho. Ba lần trong gần một tháng hỏi câu, lần nào cậu cũng bảo: “Chưa có gì”. Một lần hắn liều, đến gặp ông trưởng phòng tổ chức, người mà cậu bảo cậu đã nhờ ông ấy. Gặp ông ta, hắn mới biết cậu “chưa nói gì” chứ không phải là “chưa có gì”. Hôm ấy, đã là hai hai tết. Nếu cứ quanh quẩn ở Hải Phòng thì các em hắn sẽ mất cái tết vì thương tâm. Tối ngày hai tư hắn bảo các em: — Anh có bạn học cũ ở Hà Nội rủ lên đấy đi buôn hoa đào. Anh ấy có vốn. Ra đi để các em đỡ lo và tủi chứ hắn cũng chưa biết rồi sẽ đi đâu, làm gì? Kiếm ăn bằng cách nào trong mấy ngày tết? Đêm ấy, hắn đi tầu xuống ga Tiền Trung, tay cầm bó hương đi bộ về quê ngoại. Khoảng độ mười giờ đêm hắn mối lần về đến quê và tìm được mộ mẹ ở ngay góc sát bờ mương. Châm cả bó hương cắm lên lên mộ, hắn quỳ xuống vái năm vái rồi lẩm bẩm: — Con lạy mẹ là Nguyễn thị Hiển sinh ra và mất đi ở thôn… xã… huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Hưng. Con là con cả của mẹ tên là Phạm Quang Núi, ngụ tại số nhà ba năm phố… quận… thành phố Hải Phòng. Hôm nay mới là ngày hai tư tết, con không có tiền để mua được gì, chỉ có một thẻ hương con thắp lạy mẹ, để mẹ thông cảm cho con đến tết này con không lên khấn mẹ thì mẹ ơi vì hiện nay con đang đi lang thang, con xin mẹ sống khôn chết thiêng, mẹ phù hộ cho con, con không phải là thằng con hư đốn, bạc bẽo đâu mẹ ơi, bây giờ con không biết sẽ đi đến đâu, không biết sẽ kiếm được việc gì làm để sống. Có khi con phải đi ăn cắp đấy mẹ ơi, mẹ sống khôn chết thiêng phù hộ cho con, đừng bắt con vào tù ra tội. Con lạy mẹ, mẹ ơi. Hắn gục đầu xuống đám cỏ ướt nước mưa phùn, dưới chân những nén hương đang cháy. Những chấm đỏ giữa đồng không mông quạnh vào lúc này trông như bãi tha ma của làng đêm nay đang có ma hiện về. Chương 12 Tên ăn cắp nguy hiểm ấy đã xuất hiện ở Hà Nội vào sáng ngày hai năm tết, lúc mười một giờ trưa, giữa màn mưa phùn ngắt xám và những dòng người hối hả đạp xe nườm nượp một màu quần áo xám “phòng không”, màu bộ đội. Gần như cả bà già, em bé, các cụ lão ông và những cô gái trẻ đẹp hơn hớn, đều mặc quần áo bộ đội. Hắn mặc chiếc sơ mi nhuộm lá cây phía trong cái áo len dài tay màu cứt ngựa. Quần xanh công nhân, đội mũ màu bộ đội, kiểu mũ Triều Tiên. Tay hắn xách chiếc túi nhựa hai quai kiểu túi “toàn dân” đựng sổ sách, tem phiếu, kính bút treo ở xe đạp hoặc xách tay đi họp, đi làm, đi chợ… Nó là một cái mốt lúc bấy giờ, nhưng ngày nay cả nước không còn lấy một kiểu túi “toàn dân” như thế. Hắn đi giữa những đám đông, mắt liếc vụng trộm vào các túi xách, túi áo, túi quần, gác đèo hàng sau yên xe đạp tìm kiếm sự hớ hênh, quên lãng. Nhưng hắn để mắt vào ai, lại thấy thậm thộp sợ, như họ đã biết mình đang có ý định ăn cắp của họ. Đêm trước hắn đã cầu khấn, van lạy, xin mẹ hắn phù hộ, che chở, thực chất hắn mong mỏi một sự đồng lõa giữa một linh hồn thiêng liêng của người mẹ đã chết với đứa con rắp tâm bắt đầu một cuộc đời tội lỗi. Có lẽ một tấm lòng chịu đựng bao dung, lam lũ cả một đời ngay thẳng của mẹ đã run rủi vào hai bàn tay hắn khiến mỗi khi định thò vào sự hớ hênh, sơ ý của ai đó, bàn tay hắn lại run lên, khắp người như có luồng khí lạnh tràn vào, hai mắt nhắm lại, vội vàng quay mặt đi. Sau này đám trộm cướp thường hay, đi lấy số tử vi xem tháng ngày nào vận hạn, có sao chiếu mệnh chiếu vào cung ách để chúng nghỉ việc. Nhưng chính lúc “nghỉ” ấy chúng nơm nớp đề phòng, nơm nớp thậm thộp, thấp thỏm lo sợ hơn lúc đi “làm ăn”. Hắn chưa hiểu gì cái trò tướng số, nhưng tâm trạng của hắn ngày hôm nay là tâm trạng của kẻ đang có “sao chiếu mệnh cung ách”. Chưa thò tay chạm vào ai, đã thấy hoảng sợ. Phải đến lúc chập tối ngồi vào cửa hàng ăn ở bến xe Long Biên, ăn hết năm nửa bát mì và phở còn dự trữ cho bữa sau được ba mẩu bánh mì của những người cuống quýt lên xe bỏ lại, hắn mới thực sự ấm bụng, phởn phơ đi vào phía vườn hoa Hàng Đậu. Đêm đó hắn gặp hai nhà văn, nhà thơ dưới vòm mái nhô ra của ngôi nhà ba tầng đường Lý Nam Đế. Một người mặc áo lót, khoác ba lô con cóc ngồi cặm cụi làm thơ, chốc chốc lại ngẳng lên đọc và cười, gật gật đầu, xong lại cúi xuống, khuôn mặt xồm xoàm râu nhăn nhó, như thể ở dưới đít anh ta có một vết thương đau lắm. Một người khác chừng hai tư, hai năm tuổi, nhưng trông chỉ bằng đứa trẻ mười hai, mười ba. Đôi chân của anh, một bên nhỏ như ống nứa. Chỗ đầu gối nhọn ra như một đỉnh của hình thoi. Một chân to, nhưng bàn chân vặn nghiêng, các ngón và lòng bàn chân chổng lên trời. Mỗi khi anh bước đi khập khiễng, trông rất vất vả. Anh lặc lè, vừa khoác, vừa kéo chiếc bao tải đựng ống bơ, sắt vụn từ đâu về, để vào góc tường rồi lấy quyển sổ và cái bút trong bụng ra nằm chổng mông, chùm chăn viết. Ghế đá ngoài vườn hoa lạnh, ướt đầm đìa nước mưa không thể ngồi được, hắn lần tìm vào đây, nhưng đứng ngơ ngác hồi lâu, thấy hai vị chủ cũ của vòm này khác thường, trông ai cũng hầm hầm đau khổ, không ai thèm để ý đến hắn, hắn đành quay ra đi kiếm chỗ khác. Bỗng anh “nằm” hỏi: — Không ngủ đây à? — Em rất muốn, nhưng… — Không sợ bẩn, vào đây ngủ với tớ. Anh ngồi dậy dải chiếc chiếu rộng ra và dành nửa phần chăn cho hắn. Lúc này còn sợ gì bẩn thỉu nữa. Nhưng hắn cứ rờn rợn thế nào ấy. Hắn bảo: — Thôi, em ngồi. Để các anh ngủ. — Có một mình tớ nằm thôi. Ông nhà thơ ấy ngồi cả đêm. Rồi anh nói nhỏ vào tai hắn: — Ông ấy tâm thần đấy. Ở Trâu Quỳ người ta đang lùng tìm. Bỗng anh “ngồi” cười rất to, nói cũng rất to: — Chỉ có những tài năng sáng tạo vĩ đại với những kẻ ngu si. Thượng đế không sản sinh ra loại người mà chúng ta thường gọi họ là tâm thần. Đó là một sai lầm nghiêm trọng khi chúng ta mang trong mình đầy ấn thượng của những quan niệm, của những thói quen cũ kỹ… Anh ấy cứ ngồi ra rả hàng tiếng đồng hồ. Anh “nằm” cũng ngồi dậy bảo hắn nằm xuống nghỉ, để anh hỏi hắn tỉ mẩn, cặn kẽ như kiểu nhà báo phỏng vấn. Hắn hỏi anh: — Anh cũng là nhà văn, nhà báo à? — Không! — Anh ghi nhật ký? — Cũng không hẳn thế. Làm được việc gì có nghĩa mỗi ngày, mình ghi lại. Cuối năm vào đêm ba mươi tết mình thắp hương đốt như một lá sớ dâng bố mẹ mình. — Bố mẹ anh? — Mình cũng ở Hải Phòng. Bố mẹ và anh em mình bị bom trận Cầu Tre tháng 12/66. Mình còn sống là do bố mình nằm đè lên. Che được cho mình thì khắp người bố đầy mảnh bom. — Thế họ hàng…? — Mình còn bà dì ruột và một ông bác chị. Bác và dì đều thương, muốn đưa mình về nuôi. Sau khi phẫu thuật chữa vết thương lành, thành phố cho mình xuống trại thương binh ở Vĩnh Bảo. Nhưng mình xin tự mình sống được. Mình phải lên Hà Nội vì tránh gặp người quen. Người ta mủi lòng thương mình, nhưng lại không thích thế. Con giun, con dế nó còn dũi đất sống được, huống hồ mình còn hai bàn tay, còn cái đầu. Mình cứ đi bới rác, nhặt sắt vụn, ống bơ, giấy ni lông, dép nhựa hỏng, có khi cả đồng hồ, nhẫn vàng, tiền đánh rơi đem đổ hết vào đống rác công cộng. Cứ nhặt nhạnh như thế ngày cũng được ba bữa no. Với lại, mình nhiều “bạn” lắm. Tết này mấy gia đình mời mình đến ăn ba mươi nhưng mình từ chối. Hoàn cảnh của cậu thì cũng thương thật, cứ ở đây ăn tết với mình, có hai anh em cũng vui. — Em sẽ ở lại với anh, cùng nhau đi làm hàng ngày. — Bậy. Sức vóc, người ngợm như cậu ai lại đi bới rác. Để cho qua cái tết rồi cậu phải về. Nếu không thuyết phục được bố thì tự lao động lấy mà sống. Nhưng trước hết cũng phải nghiêm khắc xem lại mình đã. Sang tháng giêng. Hắn trở về thành phố vẫn trong một ngày mưa dầm như hôm ra đi. Hơn hai mươi ngày ở với anh An, người đàn ông tàn tật mà hắn đã coi như một người anh, một người thầy dậy cho hắn những bài học luân lý ở đời. “Là thằng đàn ông, sức vóc như thế. Làm lấy mà sống, ai lại đi ăn xin. Cũng đừng bao giờ có ý định lên đây đi bới rác với tớ. Cầm lấy mười đồng, hôm nào về thì mua vé tầu. Còn lại dự trữ phòng khi nhỡ, ông cụ vẫn không cho ăn. Đừng nói với bất cứ ai là mình ở đây. Nhỡ đến tai bác và dì mình”. Xuống ga, hắn lững thững đi bộ về. Bố đi làm. Các em đi học. Nhà vắng lặng như bỏ hoang. Bà tổ trưởng tổ phục vụ nước sôi, kiêm tổ trưởng tổ dân phố ở cách nhà hắn hai nhà, cho con sang gọi hắn sang nhà bà. Hai bà nữa cùng tổ “nước sôi” cũng ở đấy. Các bà nói rằng, khi hắn đi rồi mọi người mới biết bố con vẫn chưa thông cảm cho nhau: — Thôi thì… Con cũng có khuyết điểm tự động bỏ học, lại đánh lừa bố. Bố cũng có khuyết điểm, vợ nọ con kia, yêu đứa này, ghét bỏ đứa khác. Mà tính ông ấy, từ xưa đến giờ vẫn cứ nghiền nghiệt thế nào ấy. Đã nghĩ về ai cái gì, đã thâm thù ai cái gì, thì cứ giữ suốt đời cái ấn tượng ấy. Bố con mà đã không chín bỏ làm mười với nhau, cũng khó ở gần. Ta cứ đợi cho ông ấy xuôi xuôi đi đã. Hay là bây giờ thế này… Vốn là những người của tổ hòa giải, không nặng lời với ai bao giờ, nên các bà rất khó nói, rất khó tìm ra chữ nghĩa cho nó nhẹ nhàng, dù không đúng với nội dung của nó, nhưng cứ miễn là dễ nghe: — Hiện nay thành phố đang mở một trường lao động ở ngoài Trà Long Cát Bà. — À, cải tạo lao động cho thanh niên chậm tiến –Hắn đã có những bạn bè ra đấy, nên biết rất rõ. Các bà có vẻ thất vọng vì hắn đã biết cái tên thật của nó mà các bà đang cố tìm chữ nói khác đi. g — Cháu chưa phải cải diện… Người ta cưỡng chế, nhưng các cô nghĩ, để cho bố cháu… — Cháu hiểu ý các cô. Cháu về nhà cũng là mong tìm việc gì làm. Cháu xin đi. Các cô giúp cháu. Sáu tháng sau, vào một ngày nóng như lửa đổ xuống thành phố. Những hàng cây nín lặng chờ biển tích gió cho cơn bão số ba sẽ đổ bộ vào Đồ Sơn trong hai tư giờ tới. Những hàng cây phượng vĩ cháy đỏ nhức nhối chạy dọc hai bờ sông Lấp. Thành phố đặc sền sệt mùi tanh chua, mằn mặn của cá ướp muối phơi khô kín các vỉa hè và mùi bùn hiện ra sau con nước thủy triều ở các sông Tam Bạc, sông Lấp, sông Cẩm, sông Cầu Rào. Hắn đi như chạy trong hơi thở gấp mặc cho quần áo, đầu tóc ướt đầm đìa mồ hôi. Hắn gọi bà tổ trưởng nước sôi: — Cô ơi. Cháu về rồi. Cháu được nhận vào làm ở nhà máy Cá Hộp. — Thế ư? Cô mừng cho cháu quá đấy Núi ạ. Bao giờ đi làm? — Còn phải đợi làm các thủ tục giấy tờ, nhưng ban lãnh đạo chỗ cháu cùng Sở lao động và các nhà máy đã làm việc xong cả rồi. Năm mươi trong số hai trăm người của đợt này được đi làm ở các nhà máy. — Thôi, về tắm giặt đi. Lát nữa sang đây, tổ phục vụ mời cháu bữa cơm. — Vâng ạ. Cháu cảm ơn cô. Nhưng đi vào đến cửa nhà mình, hắn khựng lại. Bố chưa về. Các em xô ra reo gọi, mừng anh. Mà không có chìa khóa. Chúng xịu mặt lầu bầu, rồi con Biển bảo anh bê chiếc nồi không hàng xóm gửi để xin nước gạo vào cửa. Nó lấy khăn mặt và múc nước vào chai đưa qua cửa sổ, anh hứng khăn để nó đổ nước cho anh rửa mặt: — Không lo, nếu rớt ra ngoài, em đưa giẻ để anh lau, anh cứ rửa thoải mái đi. Hắn rửa mặt, lau người, nhanh chóng bê nồi để vào chỗ cũ, rồi đưa cho hai em hai cái bánh mì. Hắn đi, hẹn đến tối, đúng giờ quy định hắn về. Từ nửa năm nay những đứa trẻ được giao khoán tiêu chuẩn bữa trưa ở nhà, còn người cha ở lại cơ quan ăn chung cặp lồng cơm với bà tổ phó tổ cung tiêu, một người đàn bà đẫy đà tháo vát, góa chồng nuôi hai con gái. Bữa tối, có khi ông về nhà bà ăn cơm, có khi không. Nếu có ăn, ông cũng đạp xe về báo cho cái Biển rồi mới đến đấy, kẻo nó nấu cả suất ông, lãng phí. Chuyện hai ông bà có tình ý, ai cũng biết cả, nói công khai. Nhưng không ai rập rình, góp ý. Ai cũng biết không gì hay ho, nhưng hai đều là góa bụa, mà cũng “mãn chiều xế bóng” cả rồi. Chỉ có điều, không công bằng. Ông thì bảo ban con của bà học hành và sai khiến nó âu yếm như chính nó là con của mình. Còn bà, chưa lần nào bước chân đến nhà, tất nhiên không biết mặt những đứa con của ông. Đêm nay, ông ở nhà bà đến hơn mười một giờ. Sau vài trận mưa, gió, giông bão ông dắt xe vào hiên nhà, giật mình nghe tiếng chào của thằng Núi đang nép vào cửa tránh mưa hắt. — Về lâu chưa? — Con về từ chín giờ sáng. Ông mở khóa. Không thể đứng ở ngoài nói chuyện, Ông cho nó vào nhà. — Cải tạo xong rồi à. — Vâng. Con được vào làm ở Nhà máy Cá Hộp. — Lâu chưa? — Mới tuyên bố thế, còn chờ sắp xếp. — Chờ bao nhiêu? — Nhanh thì một vài tuần, chậm thì cũng phải vài ba tháng. — Trình báo khu phố chưa? — Con báo bà tổ trưởng rồi ạ. — Bà ấy bảo sao? — Bảo trong khi chờ đợi, cứ về nhà nghỉ ngơi, giúp cậu và các em. — Cậu cám ơn. Nhưng không có việc gì để con giúp. Này, bà ấy tốt thế sao không bảo bà ấy cho con ở nhờ, lại phải về đây. — Nhà bà ấy chật chội hơn nhà mình. Mà con nghĩ về nhà mình vẫn hơn. Ông lặng lẽ đi tìm chìa khóa, mở tủ lấy quyển hộ khẩu mang ra bàn giở ra nhìn, rồi gọi hắn lại: — Đây này, hộ tịch của con chuyển rồi. Ngày đi, chính con nhờ người cắt, con nhớ không. — Dạ, con nhớ. Nhưng trong khi chờ đọi làm thủ tục giấy tờ… — Trong khi chờ thủ tục, giấy tờ con cứ đi đâu đó, sau này nhà máy người ta có trách nhiệm. — Cậu định không cho con ở nhà? — Trong nhà này chỉ có những người đăng ký trường trú mới được ở. — Cậu cho con mượn hộ khẩu con đi đăng ký tạm trú. — Trong đời cậu, chưa có một lần nào đưa hộ khẩu cho người khác mượn. — Cậu ơi, con chỉ xin cậu một lần này. — Lần nào đối với cậu cũng thế. Đời cậu chưa bao giờ nói lần thứ hai để thay đổi những ý định của mình. Cứ đều đều nhát một, kể cả mưa gió gào lên ầm ào ngoài cửa. Kể cả hắn quỳ lạy ông đừng bắt hắn ra khỏi nhà lúc mưa bão như thế này. Hắn sợ lang thang lắm rồi. — Cậu ơi, con xin cậu ít ngày, con có hộ tịch, có công ăn việc làm con sẽ có lương, con lạy cậu. Mấy đứa em hắn ngồi trong màn khóc nức nở van lạy cha, đừng đuổi hắn đi đêm nay. Ông vẫn đều đều nhát một yêu cầu hắn phải ra khỏi nhà. Nếu không ông buộc phải đi báo công an. Trước đây ông từ mặt hắn, công an và chính quyền bắt ông phải cho hắn quay về. Bây giờ hộ tịch của hắn cắt rồi, có lý do gì ông phải chứa chấp hắn trong nhà mình. Nó đi ra mưa bão tìm chỗ khác còn hơn ông già cứ phải ngồi canh nó suốt đêm. Ai dám ký cam đoan với ông là đêm nay nó không lấy gì của ông! Đêm nay khu phố có được yên ổn? Ai có thể lường trước những gì có thể xảy ra? Tốt nhất, là cứ phải tính trước mọi điều để khỏi phải ân hận. Còn hắn? Hắn đang mong mỏi được đi làm. Mong cho các em đừng khổ thân nên hắn không dám nổi khùng lên. Không vì những lý do đó, hắn có thể vác quả mìn vào đây cùng chết với ông. Sợ gì. Hắn nói những câu cuối cùng, giọng run run: — Hai đứa không việc gì phải khóc. Con hỏi cậu một câu nữa thôi. Cậu nhất quyết đuổi con đi giữa đêm mưa to gió lớn như thế này à? — Đừng đổ oan cho cậu. Cậu chỉ yêu cầu con làm đúng. Hộ tịch không ở đây. Thì người không ở đây. — Cậu ăn ở “cạn tàu ráo máng” lắm. — Đã nói thế, anh đừng bao giờ nhìn mặt tôi. – Cậu độc ác hơn cả bọn đế quốc. — Tôi biết trước sau, anh cũng nói tôi như thế, nên tôi phải từ mặt anh hàng năm nay rồi. — Con cũng không cần: “bố, con” gì nữa. — Tôi đã bảo: “có tôi thì không có anh.” — Được. Ông cứ nhớ lấy. — Mày cứ đi đi. Ông không bao giờ quên. Hắn lao đi trong mưa sầm sập lúc mười hai giờ đêm. Một đêm mà chắc chắn cả ông và hắn còn ghi nhớ suốt cả cuộc đời của mỗi người. Chương 13 Suy cho cùng ông cũng không phải là người tàn nhẫn độc ác đến thế và hắn là kẻ bị ruồng bỏ vô cớ mà bà con chung quanh không ai đến đấu tranh góp ý. Bây giờ thì người ta quá lơ là với nhau. Còn thời ấy, dường như con người sinh ra là để lo cho nhau. Không có việc gì mà tập thể không lo cho, không tham gia góp ý! Sự góp ý được thường trực cả ngày, cả đêm, hai tư trên hai tư tiếng đồng hồ. Bất cứ việc to, việc nhỏ, việc đúng, việc sai, ở đâu “ới” một tiếng là bà con sẵn sàng tham gia góp ý. Góp ý như là mục đích, như là đạo đức, như là nhu cầu và như là một trò chơi hấp dẫn, một tuần không được góp ý với ai lần nào thì buồn lắm. Nhưng góp ý mãi vẫn kông lay chuyển, vẫn trơ ra thì cũng chán lắm. Bố con nhà này đã trơ ra mất rồi. Ông bố làm việc gì cũng tỏ ra mình là người có nghĩ ngợi, có tính toán trước. Cái gì cũng biết trước một cách hâm, gàn. Cái đó khi đã trở thành ấn tượng của mọi người thì nó vừa như một đức tính xấu không mấy ai ưa. Lại như một cái “mộc” che đỡ chắc chắn cho những việc làm sai trái của ông. “Ôi, cái ông gàn dở, hâm hâm ấy chấp làm gì”. Còn hắn? Từ khi đi sơ tán, bố mẹ một nơi, con cái một nơi, bố phó mặc cho họ hàng. Họ hàng “rất quan tâm” đến các cháu nhưng lại không ai biết các cháu làm gì, nghĩ gì. Mà có biết cũng thật khó dạy bảo. Không phải con nhà mình đẻ ra. Các cháu lại là người thành phố, cậu mợ là người nhà quê. Biết bảo ban cháu như thế nào. Không cẩn thận, các bác sẽ nghĩ không muốn cho các cháu ở nhờ, mới hay sinh chuyện. Cứ người nọ trông vào người kia, người nọ sợ người kia hiểu nhầm, thành thử ai cũng quan tâm đến chúng mà thực ra chúng chả được ai quan tâm. Đó là một khoảng trống lớn. Cho dù hắn là một đứ trẻ thông minh, học giỏi, thương yêu các em, nhưng quyền hành của một ông chủ gia đình được phó mặc cho hắn, hắn có quyền quát nạt sai bảo, cấm đoán, có quyền làm gì thì làm, có quyền buông thả mình, bỏ các em hai ngày, hai đêm liền với một cân rưỡi gạo để đi “ăn ở” giữa bờ bụi, xó xỉnh với cô Hiền. Không ai để ý đến, kể cả cha hắn và người cậu ruột của hắn, nơi hắn đang ở. Tất cả những điều đó mới là chính, nhưng bà con dân phố, cậu mợ hắn, cha hắn lại nhìn nhận hắn như một kẻ tội lỗi là do hắn lừa dối cha hắn khi bỏ học đi bốc vác ở ga và chuyện dám yêu người cô bằng vai với mẹ hắn. (Chứ không phải là hắn đã để lại trong cô một đứa con). Thành ra, cái chính lại hóa phụ, cái phụ lại thành chính. Duy chỉ có chuyện này, rất nhỏ, đã lâu rồi, từ hai năm trước sơ tán. Hôm ấy, ông và mẹ hắn lai gạo lên cho anh em hắn. Mẹ hắn còn lặc lè dắt xe ngoài bờ ruộng, ông đến đầu xóm, dựng xe vào bụi tre để quay ra đón vợ. Ông thấy hắn đang nói chuyện gì với bà chủ nhà. Khi bà ấy quay đi, nhanh như chớp, hắn bứt môt quả chanh cho vào túi quần và nói: “Cháu về bà nhé” – “Ừ hôm nào rỗi cháu lại sang chơi”. Tự nhiên ông lặng người. Cái ý định gọi hắn ra đỡ cho mẹ nó, ông không thực hiện. Chuyện nhỏ nhoi của trẻ con sẽ được quên đi nếu nó là một người lớn hoàn hảo. Nhưng nó trở nên sâu cay khi ông nhận giấy báo lên công an huyện An Dương cùng với tin đồn: Thằng Núi ăn cắp bị bắt. Ông biết mà, nó là thằng có tính lưu manh gian giảo từ lâu rồi, đâu phải đến bây giờ. Chương 14 Trong hồ sơ của bản án đầu tiên hắn khai: Vào một đêm mưa rào, bố hắn đuổi hắn ra khỏi nhà trong lúc cột điện và cây cối đổ ầm ầm. Thành phố mất điện. Nước mưa đen như mực Cửu Long. Hắn chạy lao vào một nhà để xe, chui xuống gầm ô tô ngủ. Sáng ra mới biết là nhà để xe cứu hỏa. Từ sáng hôm ấy, hắn đi lang thang nhưng chưa dám móc túi. Hành động đầu tiên là ăn cắp cái bánh mì ở sọt, của cô mậu dịch viên lúc đông khách. Sau vài hôm là đôi dép nhựa Tiền phong màu trắng. Rồi áo mưa bộ đội. Rồi mũ cối. Rồi ba lô con cóc. Rồi… Rồi… Rồi đến một ngày của tháng bảy năm 1972, vào lúc giữa trưa, trên đườn Lãn Ông, hắn thấy một chị để tiền sắt miệng túi xách treo ở xe đạp. Hắn móc và đem ra chỗ bán quần áo. Đếm được sáu năm đồng. Đang mua một cái quần, cầm ở tay, chưa kịp giả tiền chị ta đã túm lấy tay hắn kêu: “Thằng ăn cắp. Nó ăn cắp của tôi…” Mọi người xô đến như vồ lấy hắn. Người túm tóc, người lôi tay đưa hắn vào đồn công an. Lúc tạm giam ở khu, hai đứa em hắn đến thăm hắn bảo: “ Anh có giấy gọi của Phòng lao động đi làm ở nhà máy Cá Hộp”. Hắn nhìn các em trân trân, hai hàng nước mắt chảy dàn xuống má. Hắn nói: “Ngày kia anh ra tòa rồi”. Bẩy tháng sau, ra tù (hắn được giảm hai tháng so với bản án) hắn gầy và xanh như tàu lá, ghẻ và hắc lào khắp người. Hắn lại có hộ tịch ở nhà nên bố hắn không đuổi được hắn. ông lấy giấy dầu và gỗ dán vốn là cái chuồng gà quây lại trước hiên nhà, cho hắn một cái giát giường và một chiếc chiếu con. Nằm ở đấy nó vừa tự do mà cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ai. Ông bảo hắn thế. Ông cũng cho hắn một cái xô hỏng quai, một cái chậu đã bong men ở miệng và đáy để ra máy nước công cộng mà tắm rửa, giặt giũ. Những cửa sổ và cửa ra ra vào đều khép lại, được đóng chốt cẩn thận để khi ông đi vắng “nội bất xuất…” không được tiếp tế hoặc cho mượn những dụng cụ ngoài những cái ông đã cho. Được gần mười ngày, chắc là không chịu nổi cảnh ở nhà mình, hắn nói với các em trong khi không nhìn thấy mặt nhau. — Anh đi nhé. Cứ cố mà chịu đựng. Đời anh thế là vứt. Anh mong các em chịu khó mà học hành. — Đừng đi anh ơi. Sắp tết rồi. Anh ở nhà với chúng em. Chúng em mua bánh chưng cho anh. Nhưng hắn đã bỏ lại cả xô chậu, giường chiếu, lặng lẽ ra đi, mặc cho hai đứa em khóc như gào lên, đập cửa thình thình gọi anh quay lại. Hắn lên Hà Nội tìm được bạn tù, rủ nhau lên Hà Bắc buôn củi và rượu lậu. Ba ngày đi buôn củi, vừa mệt vừa không kiếm được, hắn xoay ra buôn rượu lậu. Nhưng công an, dân quân đang lùng sục bắt rượu lậu rất gay gắt. Thôi, quen tay, hai thằng lại rủ nhau đi móc túi, đi trai gái và đi đánh nhau. Lại tù 1 án ba năm. Ở trại Văn Hoà Thường Tín. Tháng chín năm 1975, vừa tròn hai năm rưỡi, hắn được hết hạn. Nghĩa là, có được giảm án do cải tạo tốt. Hắn về chỗ em gái đang học đại học sư phạm năm thứ hai ở Mai Dịch Hà Nội. Bằng tiêu chuẩn của sinh viên, cô em gái nuôi anh cả tháng trời. Thế là, đã từng định đi làm để nuôi em ăn học, bây giờ em gái vừa ăn học, vừa nuôi anh mới ở trại tù ra. Nghĩ nhục. Nhưng em gái khuyên hắn tu chí làm ăn, đi trộm cắp nhục các em lắm. Hắn bảo, đây là cơ hội duy nhất hắn có thể trở thành người lương thiện nếu như hắn nghe em gái. Nếu hắn có nghị lực vượt lên nỗi chán ngán. Nếu như hắn dám vứt bỏ sự thèm thuồng tội lỗi đã ngấm ngầm trở thành thói quen, đã biến hắn thành kẻ nghiện ngập bụi rậm, háo hức đầy hứng thú. Nếu như… Nếu như… Nhưng hắn buông một câu mòn cũ, rất vô trách nhiệm: — Ngựa quen đường cũ. Biết làm thế nào. Thế là từ Hà Nội hắn lên thẳng Bắc Giang. Lại móc túi, ăn trộm, tranh gái,… Lần này thì hắn vào loại “anh chị” khuấy đảo cả vùng thị xã về nạn trộm cắp, đĩ điếm. Công an phục kích nhiều lần, hắn đều thoát. Nhưng, còn đi trộm cắp thì còn đi tù. Lần thứ ba hắn bị bắt đi cải tạo lao động ba năm. Đến tháng ba năm 1979 hắn về. Bẩy năm sau, hai lần đi tù hắn mới quay trở về Hải Phòng. Lúc đi đang là chiến tranh khi về đã là hòa bình. Hắn về chỗ cũ. Không có ai. Mãi """