"
Sơn Hà Rực Lửa PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sơn Hà Rực Lửa PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Phía sau cửa ải Lộc Châu của nước Nam là hẻm núi Khâu Cấp Lĩnh, nơi có con đường độc đạo chạy qua nối biên giới với lãnh thổ Đại Việt. Hẻm dài chưa đầy hai dặm, uốn cong hình lưỡi liềm, hai bên là vách núi cao với những mô đá nhấp nhô tầng tầng lớp lớp và các bụi cây nhỏ mọc trên kẽ đá. Đường qua hẻm, chỗ rộng nhất không đầy một trăm thước, có nơi thắt lại chỉ còn khoảng bốn mươi lăm thước, đủ cho kị mã dóng hàng năm. Muốn leo lên núi chẳng hề dễ dàng, còn lên bằng ngựa là điều không thể. Cũng có những đường mòn vắt qua sườn núi nhưng phải đi vòng từ hướng khác tới và không dễ tìm ra những lối mòn này nếu không phải là người địa phương.
Nhiều ngày nay, lính tráng và dân binh dưới quyền quan trấn thủ Lê Đĩnh đã nỗ lực củng cố trận địa phòng thủ Khâu Cấp Lĩnh, nhưng lực lượng của họ quá mỏng, khó mà đạt được hiệu quả như ý muốn. Với chưa đầy ba mươi lính và hơn năm chục tráng đinh, nếu chia ngần ấy người ra hai sườn núi thì quá thưa thớt, chẳng khác gì nhà nông trồng lúa đi ba chục bước cấy một cọng mạ. Lê Đĩnh đành bấm bụng tập trung quân ở sau ải Lộc Châu, huy động mọi người vận chuyển đá tảng, tên nỏ, lương thực và nước uống lên núi, ngày đêm túc trực trận địa, đề phòng quân Nguyên bất ngờ đánh sang.
Chỉ huy trấn ải vô cùng phấn khởi khi Quan sát sứ Hà Trân Đốc dẫn hai trăm lộ quân Lạng Giang đến tăng viện. Nửa đêm lại có thêm ba trăm quân của tiểu tướng Lương Bình đến bổ sung lực lượng. Tờ mờ sáng hôm sau lại thấy một đoàn dân binh kéo đến, đi đầu là trại chủ Lô Viên Tả với dáng điệu khom khom nhưng giọng nói vẫn sang
sảng:
– Trận chiến này không thể bỏ qua, Viên Tả tôi cũng huy động được một trăm năm mươi tráng sĩ đến góp sức cùng các huynh đệ. Lê Đĩnh ngạc nhiên hỏi:
– Ngài đang tĩnh dưỡng trị thương, sao vội rời núi?
Trại chủ cười to cho có vẻ tự nhiên, rồi nói:
– Lành rồi. Tuy vặn lưng còn hơi đau một chút. Nhưng sử dụng đôi tay bắn nỏ là chính nên không có gì đáng ngại. Ẩn náu trên núi buồn lắm, thấy mình hèn như thỏ đế, nghĩ không ổn bên tụ tập anh em kéo nhau về đây.
Lương Bành đi quan sát trận địa, từ trên núi leo xuống, nhìn thấy Viên Tả, vội chạy lại tay bắt mặt mừng. Trại chủ hỏi ngay: – Thằng Viên Dụng nhà tôi thế nào rồi?
Bành đáp:
– Khá lắm. Mới được Hưng Đạo Vương đích thân giao nhiệm vụ quan trọng.
Viên Tả cười rạng rỡ, trong giọng nói của người cha đầy ắp niềm tự hào:
– Thế là mãn nguyện rồi. Dòng họ Lô đã có người kế tục canh giữ phên dậu nước Nam, tôi còn lo gì chuyện sống chết nữa. Nhìn đám dân binh miền núi trang bị đủ loại binh khí đứng ngồi rải rác xung quanh, Lương Bình hiểu mục đích của trại chủ, ông hỏi: – Ngài đang thương tích, sao có thể đánh trận này?
Viên Tả lặp lại những lời đã nói với Lê Đĩnh:
– Lành rồi, sử dụng đôi tay bắn nỏ là chính nên không có gì
đáng ngại.
Bành đề nghị:
– Nếu vậy thì mời ngài tham gia cùng chúng tôi họp bàn kế hoạch phòng thủ.
Trong căn nhà nhỏ vốn là nơi tá túc của viên chỉ huy quan ải Lộc Châu, bốn vị đầu lĩnh đại diện cho các lực lượng tham chiến ngồi quanh chiếc bàn mộc vạch phương án bố trận phòng thủ. Lương Bành trình bày chủ ý của Hưng Đạo Vương, rồi nói:
– Muốn cố thủ được ba ngày trước một đạo quân hàng vạn người đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận quyết tử và dùng trí để cản địch. Vậy các vị cứ cho ý kiến để mọi người cùng bàn bạc.
Theo chức vụ, Quan sát sứ Hà Trận Đốc là người cao cấp nhất, ông đề nghị:
– Chúng ta có bảy trăm năm mươi quân, nên chia làm hai cánh bày trận hai sườn núi. Cánh tả gồm quân Lạng Giang và quân của Lê Đỉnh, bổ sung thêm một trăm quân của Lương Bành. Cách hữu gồm số quân còn lại của Lương Bình và quân của trại chủ Lô Viên Tả.
Mọi người nhất trí theo phương án ấy. Lương Bành gợi ý: – Không nên rải đều quân dọc sườn núi, như vậy sức chống trả sẽ rời rạc. Cần chia thành ba hoặc bốn cụm phòng thủ, giặc vượt qua được cụm này sẽ vấp phải sự kháng cự quyết liệt của cụm khác. Nếu tổ chức tốt, chúng ta sẽ cầm chân giặc từ ba ngày trở lên.
Các vị chỉ huy hài lòng với cách bố trí quân của Bành. Lê Đĩnh yêu cầu:
– Phải dùng chướng ngại vật để cản đường chúng. Núi rừng không thiếu đá, chỉ cần vận chuyển về chất đống trên quan đạo. Đào thêm các hầm bẫy, lấy phên tre đậy lại rồi phủ đất lên, khi giặc tiến vào ắt lọt bẫy, còn kị binh muốn qua phải mất công lấp hố.
Cả ba người cùng tán thưởng cách bố trận của viên chỉ huy quan phòng. Chủ trại Lô Viên Tả bổ sung:
– Chúng tôi có chuẩn bị dăm chục vò dầu lạc. Gom củi khô và rơm cỏ rải trên đường, khi giặc đến thì quăng và dầu xuống rồi nổi lửa, cây cỏ khô bốc cháy sẽ biến con đường thành hỏa ngục.
Ai cũng hồ hởi với sáng kiến của Viên Tả. Họ phân công nhau khẩn trương vào việc. Hơn bảy trăm chiến binh được huy động đào hầm, khiêng đá lấp đường và mang vác khí cụ chiến đấu lên sườn núi. Trại chủ sai thuộc cấp đến các nơi ẩn náu của dân chúng để huy động mọi người vận chuyển củi khô và rơm cỏ.
Quân và dân làm cả đêm trong ánh đuốc hạn chế, đề phòng kẻ địch từ bên quan ải Tây Phong phát hiện được cạm bẫy phòng thủ của ta ở cửa ngõ Tổ quốc.
Chương 1
Lửa bỏng dầu sôi, vận nước ngả nghiêng hưng phế
Trời long đất lở, sức thù dữ dội cuồng ngông
Sáng sớm mồng hai tháng chạp năm Giáp Thân (1984), tiếng hò la vang dội từ bên cửa Tây Phong vọng tới, đánh thức những chiến binh Đại Việt ở tuyến phòng thủ đầu tiên vốn đang còn ngủ say sau một ngày làm việc mệt nhọc. Từ trên chòi quan sát, người lính trực chiến gióng tù và inh ỏi báo động toàn quân khi nhìn thấy quan ải giặc mở toang, rồi một đoàn kị binh phóng ra như thác lũ, hướng về phía cửa khẩu của ta. Do các cụm chiến đấu ăn ngủ tại chỗ nên mỗi nơi đều có lính trực, họ tiếp nhận thông điệp từ cụm trước rồi nổi tù và báo động cho cụm sau. Người ở trên núi bừng tỉnh dậy, cầm ngay vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Người ở bên dưới nhanh nhẹn trèo lên vị trí của mình, lăm lăm cung nỏ đón đợi giặc thù.
Hơn hai ngàn kị binh Mộng Thát dồn ứ trước cửa ải Lộc Châu, phía sau chúng là đoàn quân của A Lý Hải Nha đông như kiến kéo dài đến ba, bốn chục dặm đang bị tắc nghẽn trên đất Nguyên. Cách đấy một ngày đường, đại quân của Thoát Hoan cũng rùng rùng chuyển động. Cửa quan Đại Việt đóng im lìm, nếu không vượt qua được thì một ngày sau quân của Trấn Nam Vương cũng đành nằm chết dí sau cái đuôi dài thoòng của quân A Lý Hải Nha.
Viên tướng tiên phong của giặc là Vạn hộ Nghệ Nhuận, đứng trước quan ải Lộc Châu ngạo nghễ quát lác:
– Kẻ nào trông coi cái chòi xiêu vẹo này, mau ra đây cho ta hỏi chuyện?
Quan trấn thủ Lê Đĩnh từ trên đài cao hỏi lại:
– Ta là tướng giữ ải, các người đang ở trên đất Đại Việt, kéo sang đây có việc gì?
Nghê Nhuận ngông cuồng nói:
– Quốc vương nước người thất tín với Trấn Nam Vương, theo lý phải hỏi tội, nhưng nghĩ tình lân bang nên ngài miễn thứ cho. Nay vương muốn mượn đường đánh Chiêm Thành, vậy ngươi mau cho lính mở cổng để đại quân ta qua, nếu chậm trễ thì ta sẽ san phẳng chỗ này.
Lê Đĩnh hùng hồn đáp trả:
– Việc bội tín giữa hai nước, không đến lượt ta và người đứng đây tranh cãi. Còn việc mượn đường đánh Chiêm là không thể, đường qua đây chỉ dẫn đến vực thẳm, người đi chỗ khác mà hỏi.
Nghê Nhuận nổi đóa gào lên như một kẻ quen thói ngang ngược bị người khác chặn họng:
– Không nói lôi thôi gì nữa. Mau mở cổng kẻo ta cho lính xông vào lôi chúng bay ra chặt đầu cho chó gặm.
Lê Đĩnh thách thức:
– Có giỏi thì cứ vào đây mà chặt đầu ta?
Rồi ông nhanh nhẹn rời tháp cao, trước khi những mũi tên của giặc lao tới. Như đoán trước được kết cục đấu khẩu, bọn Nguyên đã chuẩn bị sẵn dụng cụ phá cổng. Hai mươi tên lính bộ binh hò nhau khiêng một thân gỗ to hơn cái cột nhà, được khoét lỗ tra thanh ngang
làm mấu cầm, rồi hùng hục lao tới động vào cánh cửa gỗ lim của quan ải Lộc Châu. Trên núi, ở tuyến phòng thủ đầu tiên, Lương Bành và Lê Đĩnh cùng phát lệnh xạ kích. Những mũi tên lao xéo từ hai bên sườn núi bắn xuống hạ gục tại chỗ một phần ba đám lính phá cửa, bọn còn lại tháo chạy tán loạn.
Quân Nguyên tổ chức đợt công phá khác, lần này chúng bổ sung thêm đội hình khiêng những chiếc mộc to như tấm phản che chắn đằng trước và hai bên sườn đám lính phá cổng. Những mũi tên cột bùi nhùi lửa bắn xuống tới tấp vào các mộc gỗ, chẳng mấy chốc lửa bén sang gỗ khiến bạn khiêng mộc hoảng loạn, quẳng lại tất tật mà chạy thoát thân. Lũ phá cổng không còn được che chắn, vội vàng tháo lui.
Tương kế tựu kế, giặc ào ạt bắn tên lửa vào cửa ải, thiêu rụi cái cổng gỗ cứng cáp trong chốc lát. Chờ tàn lửa tắt hẳn, bọn kị binh thúc ngựa xông tới, tốp đi đầu lao thẳng xuống cái hố được ngụy trang kín đáo, năm lính kị cùng ngựa ngã đè lên nhau, trở thành miếng mồi ngon cho cung nỏ bắn xuống. Bọn kị binh lùi lại, nhường đường cho lũ bộ binh ào ạt tiến công, chúng dùng khiên nhỏ đỡ tên và bắn trả dữ dội. Nhiều chiến sĩ ta gục chết trên sườn núi, máu loang đỏ vách đá. Những mô đá cao cản bước kị binh giặc nhưng lại trở thành chỗ ẩn nấp của bọn bộ binh, chúng tập kết quân sau các đống đá rồi bất ngờ đánh lên sườn núi. Chờ cho bọn giặc lên đến vị trí trống trải, các thủ lĩnh hạ lệnh dội đá. Như một trận lở núi, hàng trăm tảng đá ào ào lăn xuống xô ngã nhào lũ giặc đang ở thế chênh vênh giữa lưng chừng vách, thằng trước đổ cuốn theo thằng sau, đứa chết, đứa bị thương nằm lăn lóc dưới chân núi.
Giặc thù không nản chí, hết đợt này đến đợt khác tiếp tục đánh lên. Quân ta rơi vào tình thế bất lợi, khi không còn đá để ném xuống, các tướng hò hét chiến binh dùng đao kiếm đánh địch. Trận chiến một mất một còn trên cả hai sườn núi, kẻ địch ở dưới đánh lên bất lợi hơn ta, nhưng chúng quá đông nên nhanh chóng chiếm được ưu thế. Hơn hai chục tráng sĩ còn lại của Lương Bình bị giặc bao vây vẫn nỗ lực bám trụ trên mấy mỏm đá cuối cùng. Tình hình bên phía Lê Đĩnh nguy cấp hơn, mười mấy chiến sĩ còn sống bị dồn vào một hốc núi không có đường thoát ra. Song tinh thần quyết tử của chiến binh Đại Việt không hề giảm sút, những thanh mã tấu sắc bén vẫn đầy uy lực hạ gục bất cứ tên giặc nào liều lĩnh lao tới.
Khi trên núi đánh nhau kịch liệt, bọn giặc bên dưới nhanh chóng dọn đá và khuân ván bắc cầu trên miệng hố cho quân băng qua. Lần này chúng cẩn thận hơn, đám kị binh không phi như bay mà dóng hàng năm đi nước kiệu, còn lũ bộ binh lăm lăm giáo dài gươm bén phạt sạch bụi cây bờ cỏ ven đường. Thấy dưới chân toàn rơm cỏ và que củi, Nghê Nhuận sinh nghi, ra lệnh dừng binh. Song tất cả đã muộn, hai bên sườn núi vang dậy tiếng hô “Sát Thát” cùng với những chiếc và sành từ trên cao dội xuống, vỡ tung tóe trên đầu thù và dưới mặt đường một thứ chất lỏng nhầy nhụa, rồi các mũi tên quấn bùi nhùi lửa đồng loạt bắn tới, tạo thành một dòng sông lừa dài dặc. Trong cơn hoảng loạn và tuyệt vọng, tiếng kêu la thảm thiết của người và ngựa bị hỏa thiêu vang nhức nhối cả một góc trời. Những kẻ nhanh chân khiến ngựa quay đầu chạy lại bị quân của Hà Trận Đốc và Lô Viên Tả dùng cung nỏ hạ gục vô số. Vạn hộ Nghê Nhuận thoát chết, hoảng hốt tháo lui khỏi hẻm Khâu Cấp Lĩnh, để lại hàng
trăm xác chết, trong đó có hơn năm chục tử thi cháy đen.�� Thấy đồng đội bị thất trận dưới đường, lại nghe tiếng hò reo của quân ta vọng tới, bọn ở trên núi nhụt ý chí, sợ bị tập hậu, đành chấp nhận bỏ cuộc, rút lui xuống núi. Lương Bành và Lê Đĩnh cũng nhanh chóng rút quân về tuyến sau, tăng cường cho trận địa của Hà Trận Đốc và Lô Viên Tả.
Hoàng hôn đã buông xuống núi rừng, giữa một vùng khói lửa mù mịt, bầu trời tối sớm hơn mọi ngày.
Được Nghê Nhuận thông báo tình hình chiến sự, A Lý Hải Nha vô cùng tức tối, từ bản doanh còn đang ở trên đất Nguyên, y xăm xăm lên ngựa, dẫn theo vài chục viên tướng đi thị sát chiến trường. Trong bóng chiều tà, nhìn địa thế hẻm Khâu Cấp Lĩnh, viên Bình chương hỏi thuộc cấp:
– Có tìm ra lối nào khác để tập kích bọn An Nam từ phía sau? Nghê Nhuận đáp:
– Đã cho quân đi thám sát, xung quanh toàn núi dựng đứng, không thấy có đường mòn vắt sang sườn núi bên này. A Lý Hải Nha trừng mắt quát:
– Ngươi làm tướng nhưng chỉ biết dùng sức mà không biết dùng mưu. Đi lùng bắt bọn dân trong vùng, dùng ngân lượng mua chuộc, sẽ có đứa bày đường cho ta.
Nghê Nhuận vội vã lui ra, khẩn cấp thực thi mệnh lệnh của chủ
tướng. Sát Tháp Nhi Đài hiến kế:
– Ta có cự thạch pháo, nên đem vài khẩu tới công phá hai sườn núi, địch quân ắt thiệt hại đáng kể, bấy giờ cho bộ binh xông lên diệt nốt.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Cự thạch pháo hiện đang ở đâu?
Lý Hằng đáp:
– Ở hậu quân, cách bốn chục dặm.
A Lý Hải Nha truyền lệnh:
– Điều ngay hai khẩu lên tuyến đầu. Nhường đường cho pháo qua, bằng mọi giá sáng mai phải có mặt tại đây.
Kịp lúc quân hiệu cấp báo lệnh của Trấn Nam Vương “Hạn trong ngày mai phải thông đường. Dùng binh mạnh tiêu diệt bằng hết bọn An Nam cố thủ, bắt giết không tha mạng”.
Đến giờ dần ngày mồng ba, vẫn không thấy giặc tiến vào Khâu Cấp Lĩnh, các thủ lĩnh phán đoán chúng đang mưu tính một cách đánh khác, có thể trận chiến sắp tới sẽ vô cùng dữ dội. Tuyến phòng thủ thứ hai đã đánh trận hỏa công xuất sắc mà không bị thiệt quân, ngoài số quân từ tuyến một kéo về, các vị chỉ huy quyết định điều động một trăm quân từ tuyến sau lên. Bằng mọi giá phải giữ được trận địa đến tối, bấy giờ nếu ai còn sống sẽ rút về tuyến ba, bổ sung lực lượng cho trận chiến cuối cùng.
Bất chợt có tiếng ù ù ở trên đầu, mọi người chưa kịp nhận biết là gì thì những tảng đá to cỡ một người ôm tới tấp rót xuống trận địa của họ. Vách núi rung chuyển như động đất, thanh chấn ầm vang liên hồi tựa sấm rền, đất đá đổ vỡ rào rào chẳng khác gì cảnh tượng lở núi. Tiếng rên la yếu ớt của các chiến binh hấp hối bị chìm lim trong chuỗi âm vực hỗn mang, đinh tai nhức óc. Vốn biết được thông tin về vũ khí của giặc, Lương Bành hò hét khản giọng:
– Địch dùng cự thạch pháo bắn đá, mọi người tìm các hốc núi mà ẩn nấp.
Gần trăm chiến sĩ Đại Việt tử nạn trong trận công phá bằng phương tiện chiến tranh lợi hại của Nguyên Mông. Lực lượng bên ta suy yếu hẳn, nhưng người còn sống vẫn bám trụ đến cùng, nhất quyết không rời trận địa. Giặc ngưng bắn, biết chúng sắp tràn vào, các chiến binh và dân binh nhanh chóng thu lượm vũ khí của người chết, trở về vị trí của mình, sẵn sàng nghênh đón kẻ thù.
Bọn kị binh xuất hiện đầu tiên, chúng phóng qua bãi chiến trường đen ngòm xác cháy, vừa phi nước đại vừa giương cung xạ kích. Lũ bộ binh ở phía sau ồ ạt công núi, bị quân ta đánh chặn bằng cung nỏ, song thế địch quá mạnh, những mũi tên sắc nhọn của chiến binh Đại Việt không cản nổi bầy giặc dữ đông hơn gấp bội. Bọn vong nô Ô Tư Biệt Khắc và Nữ Chân thiện chiến sơn cước, miệng ngậm đoản kiếm, lưng cài mã đao, thoăn thoắt bám vào các mỏm đá leo lên giáp chiến với quân ta.
Ở cuối tuyến phòng thủ thứ hai, chỗ đoạn đường thắt lại, đợi bọn kị binh đến đúng tầm, Hà Trận Đốc cho quân lăn đá xuống, người ngựa giặc ngã nhào, quằn quại trên mặt đất. Đá ngổn ngang
khúc đường hẹp, lũ ngựa không thể vượt qua, bọn kị binh rời ngựa, nấp vào vách núi tìm chỗ trèo lên phản công. Quân ta dùng nỏ bắn xuống, Hà Trận Đốc hét to “Ba mũi tên hạ một đứa. Phải bắn cho chết hẳn để thằng chết cản đường thẳng sống”. Binh sĩ theo lệnh chủ tướng, nhắm bắn đứa nào là đi đời đứa ấy. Chúng ỷ đông quân, vẫn tiếp tục xông lên đánh giáp mặt, hai bên giành giật nhau từng mỏm đá, đao kiếm hỗn loạn, thịt xương tung tóe. Quân ta tử thương quá nhiều, khó bề giữ được trận địa. Kịp lúc toán tăng viện theo đường mòn từ tuyến sau ập đến, trong ngoài hò nhau đánh bật bọn kị binh xuống chân núi. Quan sát sứ Hà Trận Đốc bị thương nặng, một nhát đao của giặc chặt đứt cánh tay phải rồi cứa ngang lườn người chiến tướng sơn cước can trường, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, ông còn kịp dặn dò binh sĩ “Gắng giữ nốt ngày mai”.
Ở đầu tuyến, quân của Lô Viên Tả rơi vào tình thế bất lợi, tên đã hết, cung nỏ thành vô dụng, một mã tấu của tráng sĩ nước Nam khó địch nổi ba, bốn đao kiếm của Mông Thát. Giặc chiếm từng mỏm đá, chém nát cả các chiến binh ta, đề phòng họ giả chết bật dậy kháng cự. Trong tình thế nguy cấp, trại chủ họ Lộ vụt đúng dậy, miệng hét vang “Tụi bay xuống âm phủ với ta”, hai tay nâng vò dầu lạc, lao vào tên gần nhất, đập và lên đầu nó để dầu văng tung tóe khắp nơi, rồi ôm cứng thằng giặc cùng ngã nhào xuống núi, kéo năm đứa ngã theo. Các chiến binh noi gương hành động trí dũng của trại chủ, đập vỡ các vò dầu, để dầu chảy lênh láng làm vách đá trơn trượt. Lũ giặc bị tuột tay, thằng trước thằng sau ngã nhào cả xuống núi. Người anh hùng của núi rừng Lạng Giang bị mấy xác giặc đè lên, trước lúc lìa đời, tâm trí ông còn hiện về hình ảnh cậu con trai Lô Viên Dụng cưỡi
ngựa hiên ngang trong đoàn quân ra trận...
Lương Bành và toàn quân của ông chém giặc rã tay, họ thiện chiến hơn dân binh nhưng một chọi bốn nên sức lực cạn dần, quân số bị thương vong quá nửa. Hành động tưới dầu làm trơn vách đá đã cứu nguy trận địa phòng thủ. Khi thấy các chiến sĩ định đập nốt hai vò dầu cuối cùng, Lương Bành ngăn lại và nói “Không cần thiết nữa, mấy thằng kia sắp tuột rồi”. Trong đầu ông vừa lóe lên ý nghĩ dùng số dầu còn lại vào một kế hoạch mạo hiểm.
Bên phía Lê Đĩnh, do vách đá dựng đứng nên đạn của giặc ít hiệu quả, bọn Nguyên cũng không có chỗ bấu víu để trèo lên. Chúng dồn lực đánh lên lối mòn duy nhất từ mặt đường chạy chênh chếch ngang sườn núi. Đoán được ý đồ của giặc, ông đã cắt cử nhiều toán quân chốt chặn con đường mòn hiểm yếu. Khi giặc xông tới, các chiến binh nấp sau mỏm đá, bụi cây, dùng cung nỏ cản bước lũ Mông Thát. Quân ở trên cao xạ kích vào sườn đội hình địch, khiến chúng thương tổn không ít. Song kẻ thù đông như kiến, các chốt lần lượt bị chúng chiếm lĩnh, quân ta rơi vào hoàn cảnh nguy khốn. Bất chợt ở sườn núi bên kia, lũ giặc thi nhau ngã nhào từ trên cao xuống, tiếng la hét thê thảm dội sang làm bạn bên này hoang mang chùn bước. Lợi dụng thời cơ, Lê Đĩnh xốc lại đội ngũ, dẫn bảy mươi chiến sĩ theo đường mòn đánh thắc xuống. Tráng chí Việt lăn xả vào kẻ thù cướp nước mà chém giết tơi bời, khiến bọn Mông Thát phải tháo chạy xuống núi.
Trên toàn tuyến phòng thủ, quân Nguyên buộc phải rời trận địa, rút về một khoảng cách an toàn. Quá trưa, không thấy giặc rục rịch tiến vào, lại thấy chúng đốt đuốc giữa ban ngày, Lương Bình hiểu
ngay mục đích của bọn Thát. Ông hạ lệnh cho binh sĩ rời xa các vách đá, bụi cây ướt dầu. Quả nhiên, một toán giặc phóng ngựa tới, quăng đuốc lên vách, lửa lan rộng thiêu cháy cây cỏ, đất đá và xác người nằm rải rác. Khói lửa mù mịt vách núi, các chiến sĩ đổ nước vào áo rồi quấn lên mặt để không bị ngạt. Tuy một số bị lửa táp vào người làm bỏng rộp da thịt, nhưng tất cả đều toàn mạng. Chúng đốt trận địa của ta, dầu cháy hết không còn trơn trượt, song làm đá nóng bỏng. Bành đoán, địch đã ngừng tiến công.
Xế chiều, giặc hò nhau kéo cự thạch pháo vào tuyến phòng thủ thứ nhất mà quân ta đã rút đi. Ngày mai chúng sẽ dùng hai con quái vật khổng lồ này để bắn phá trận địa của ta một lần nữa, Lương Bành quyết chặn đứng mưu đồ của giặc. Chờ tối hẳn, ông dùng lửa báo hiệu cho đồng đội ở sườn núi bên kia. Lê Đĩnh được tin, bèn dẫn theo hai người âm thầm xuống núi, vọt qua đường sang gặp Lương Bành.
Họ thông báo cho nhau tình hình tổn thất, cùng ngậm ngùi trước cái chết của hàng trăm tráng sĩ và hai vị thủ lĩnh trung liệt. Lương Bành bàn với Lê Đĩnh:
– Giặc kéo cự thạch pháo vào sâu trong hẻm núi, phải diệt nó thì mới giữ được trận địa thêm một ngày. Đêm nay chúng tôi sẽ đột nhập đốt phá, xin ngài thu gom tên nỏ rồi dẫn theo vài chục thiện xạ bí mật tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách một tầm bắn. Khi pháo của giặc bị đốt, tất chúng sẽ xúm vào dập lửa, bấy giờ các ngài phải hạ gục bọn chữa cháy, đừng lo bắn nhầm người của ta. Xong việc ngài cho rút quân về tuyến ba, cách bố trí phòng thủ do ngài tự quyết.
Họ lặng lẽ chia tay nhau mà không một lời cảm thán. Xã tắc
nguy biến, hai phần ba huynh đệ đã nằm lại trên rẻo núi biên cương, nói gì cũng bằng thừa, chỉ cần ý chí xả thân để giữ vững trận địa thêm một ngày nữa, bấy giờ dù có ngã gục bên xác đồng đội, họ sẽ thanh thản bước vào cõi thiên thu.
Chờ tới canh năm, khi sương mù phủ dày hẻm núi, cũng là lúc bọn lính canh gác và tuần tiễu thường chểnh mảng nhiệm vụ, Lương Bành cùng ba chiến sĩ cảm tử mang hai vò dầu trườn vào bóng đêm, men theo vách núi mà bò về phía hai cỗ máy giết người khổng lồ. Lê Đĩnh dẫn hai mươi tráng sĩ theo đường núi đến mai phục ở vách đá đối diện với cự thạch pháo.
Máy bắn đá của quân Nguyên được làm bằng gỗ, có bánh xe đẩy và giá đỡ cao lênh khênh, cần dài tới sáu trường và xảo đựng đá to bằng cái sàng thóc. Mỗi máy phải sử dụng hàng trăm người kéo dây, nên bọn pháo thủ thường ăn ngủ tại chỗ để trông coi và bảo quản vũ khí. Giặc bố trí hai vòng bảo vệ; vòng ngoài là một trăm lính bộ binh án ngữ ở khoảng cách hai trăm thước luân phiên canh gác, mỗi canh đổi ca một lần; vòng trong là nhiệm vụ của bạn pháo thủ, mỗi khẩu pháo có bốn lính canh ở hai đầu, trên tay đứa nào cũng cầm đuốc lửa.
Trên đường núi xác chết nằm ngổn ngang, người sống trà trộn với người chết khiến bọn tuần canh khó phát hiện. Họ quyết định không triệt bọn lính canh vòng ngoài để tránh kinh động giặc, mà cố vượt qua chúng bằng thủ pháp hướng dị cấp động, hướng tâm bất
độngnhìn đi thì động, nhìn thẳng thì im. Càng gần sáng sương càng dày đặc, cách dăm trượng không nhìn rõ hình thù, gió bắc lùa qua khe núi lạnh thấu da thấu thịt, toán lính canh đúng co ro không hề hay biết có mấy “xác chết” đang chuyển động.
Vượt qua đám lính canh vòng ngoài, Lương Bình làm hiệu cho huynh đệ khẩn trương động thủ một chọi hai, các tráng sĩ như quỷ thần từ dưới đất chui ra, vọt đến sát bọn lính canh rồi lia mã tấu ngọt xớt, hạ gục tại chỗ mấy thằng giặc chưa kịp nắm chuôi đao. Các vò dầu được rưới khắp hai khẩu pháo, đuốc của giặc thành mồi lửa thiêu cháy vũ khí giặc. Pháo của giặc được làm bằng thiết mộc, không dễ bén lửa, buộc họ phải đốt nhiều chỗ và chấp nhận ở lại bảo vệ chiến quả của mình.
Rồi ngọn lửa cũng bám vào gỗ và bắt đầu lan ra, bốn cảm tử quân quyết không rời vị trí, tay lăm lăm binh khí chờ bọn chữa cháy kéo đến. Quả nhiên, bọn giặc từ các ngả ào tới dập lửa nhưng vấp phải sự quyết tử của các chiến binh can trường. Lương Bình và đồng đội biết mình sẽ chết, song họ cố cản địch để lửa cháy sâu hơn vào thớ gỗ. Cảnh tượng hỗn loạn trong ánh lửa sáng rõ, vũ khí sắc lạnh xả vào da thịt nhau, máu tuôn thành vũng quanh mấy chiến cụ đang cháy rực. Mấy tên kị binh liều lĩnh lao vào dùng giáo dài đâm cảm tử quân, Lương Bình túm được một ngọn giáo, dồn sức bình sinh kéo ngã nhào tên giặc, đoạt ngựa vung giáo đâm trả bọn Thát. ��
Ở trên cao, Lê Đĩnh ra lệnh xạ kích. Không thể phân biệt địch ta, các chiến sĩ cứ nhằm vào đám đông bên dưới mà nhả dây cung, bật lẫy nỏ. Viên chỉ huy quan ải nhắm nghiền đôi mắt ướt lệ mà bắn tên
xuống, ông biết cảm tử quân khó bề sống sót, nhưng vẫn ước ao mũi tên của mình không cắm vào thân xác đồng đội. Lương Bành, người tiểu tướng trung dũng của Hưng Đạo Vương cùng với ba huynh đệ quả cảm đã bước vào cõi bất tử trong một trận đánh hiển hách trên tuyến đấu chống giặc phương Bắc.
Bị tổn thất nặng nề, giặc Mông Thát lồng lộn tức tối, chúng nhất quyết diệt sạch đối phương cố thủ trên núi để thông đường cho đại quân thiên triều tiến vào lãnh thổ của bọn người An Nam tầm thường nhỏ bé, không biết phân biệt cao thấp. A Lý Hải Nha điều chiến tướng Sát Tháp Nhi Đài đến trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Lê Đĩnh dồn quân về tuyến phòng thủ thứ ba án ngữ tại khúc cong của dải núi. Quân số chỉ còn hai trăm ba mươi tư người, được chia làm hai cánh tả hữu; cánh hữu án ngữ địa thế hiểm trở, ông cắt cử một trăm quân dưới quyền chỉ huy của một chiến sĩ Vạn Kiếp dày dạn trận mạc; cánh tả gồm quân còn lại do ông đứng đầu cố thủ sườn núi thoai thoải, nơi giặc dễ đánh chiếm hơn. Trước lúc vào trận, vị tướng giữ ải của giang sơn Đại Việt tỏ bày lần cuối với anh em binh sĩ:
– Tất cả chúng ta, những người có mặt ở đây, dù là chiến binh hay dân binh đều đã xác định trước kết cục của mình. Tuy thuộc bốn lực lượng nhưng anh em đã đồng lòng chung sức chiến đấu và đổ máu mấy ngày qua, hôm nay lại sát cánh bên nhau trong trận chiến cuối cùng. Một số người đã bị thương và kiệt sức nhưng vẫn bám trụ
không rời. Nhiều người chưa phải đánh giặc nên còn sung sức. Người khỏe hãy hỗ trợ người yếu, quyết không cho lũ Mông Thát vượt qua Khâu Cấp Lĩnh trước sáng ngày mai.
Hơn hai trăm tráng sĩ trừng trừng nhìn về phía giặc thù mà cùng thề giữ vững trận địa, dẫu thịt nát xương tan, bỏ thân xác giữa đá núi hoang lạnh. Họ chia sớt cho nhau vũ khí và lương thực rồi tản ra chiếm lĩnh các vị trí cố thủ.
Không còn cự thạch pháo để bắn phá dọn đường, Sát Tháp Nhi Đài tung bộ binh đánh sườn núi hiểm trở bên phải, dùng kị binh đánh lên dốc núi thoai thoải bên trái, đồng loạt tiến công bằng sức mạnh áp đảo với số quân đông hơn đối phương gấp mười lần.
Bọn bộ binh sử dụng tám trăm quân vừa cung vừa mộc, kẻ bắn người che, trút mưa tên lên trận địa của ta nhằm yểm trợ cho ba trăm thằng quăng dây có móc sắt vào các mỏm đá để leo lên giáp trận. Ngay từ loạt tên đầu, nhiều chiến sĩ bị thương vong, những người kịp ẩn náu không thể nhổm dậy bắn trả. Quân ta tương kế tựu kế, chờ cho bọn tiên phong leo đến lưng chừng núi, họ đồng loạt quăng dây ra, mỗi dây một cảm tử quân tuột nhanh xuống, tới ngang tầm đầu dây của giặc là vung mã tấu chặt sợi dây có vài ba thằng đang bám vào; giặc rụng như sung, thân đập vào đá, không tắt thở liền cũng ngắc ngoải chết. Mấy tráng sĩ của ta bị trúng tên vẫn dồn hết sức lực cuối cùng chặt đứt dây của địch rồi mới chịu buông tay, gửi thân xác về đất mẹ. Ta và địch thi nhau đáp xuống chân núi, khiến bọn giặc đứng dưới bị ngã đè lên, không ít thằng què tay gãy chân, coi như loại khỏi cuộc chiến. Về phía ta, hai mươi mốt tráng sĩ quyết tử đã bỏ mình trong trận chiến bằng dây trên vách đá Khâu Cấp
Lĩnh. Bộ binh Thát tạm thời lui quân.
Trên sườn núi bên phải, hàng trăm chiến mã Mông Cổ lao vút như tên bắn lên triền dốc, mười mấy thằng đi đầu ngã bổ nhào xuống những rãnh sâu được quân ta mai phục dưới chân núi. Sát Tháp Nhi Đài hò hét bắc ván để vượt qua. Hơn năm chục kị binh giặc vọt tới lưng chừng núi, vừa đến tầm tên bắn, Lê Đĩnh phát lệnh xạ kích, người ngựa trúng tên, phía trước ngã kéo phía sau ngã theo, chúng đành chấp nhận lui quân, bỏ lại hơn hai chục xác chết nằm vương vãi trên triền dốc. Giặc tổ chức đợt tấn công mới, lần này bọn kị binh dùng mộc che chắn, quân ta bắn ngựa, chiến mã địch ngã nhào, hất chủ của nó lăn xuống đất, đội hình rối loạn, khiến chúng phải rút xuống núi.
Sau giờ ngọ, Sát Tháp Nhi Đài tổng lực tấn công. Bên vách đá dựng đứng, giặc Thát dùng thang để trèo lên, quân ta tung móc sắt giật đổ thang. Nhiều chiến binh bị tử nạn vì trúng tên khi phơi mình ra khỏi chỗ ẩn nấp để điều khiển dây móc trúng thang giặc. Bên dốc núi, địch đánh lên lần thứ ba, sức bắn chặn của ta yếu hơn hẳn, chúng biết đối phương đã cạn tên, bèn liều lĩnh xông tới. Nếu bọn kị binh áp sát, ta khó giữ nổi trận địa, nhưng trí dũng của dân Nam khiến chúng phải trả giá nặng nề. Khi toán đi đầu vào đến tầm động thổ, Lê Đĩnh hô to “Dùng sào nhọn đâm ngựa”, hàng loạt chiếc sào tre vót nhọn chĩa ra tua tủa đâm thẳng vào bụng ngựa khiến chúng đổ gục tại chỗ, bọn cưỡi ngựa ngã lăn lóc vào vách đá lởm chởm, chiếc mộc trở thành vô dụng, thân hình đồ sộ của chúng lĩnh đủ loạt tên cuối cùng của chiến binh Đại Việt. Người ngựa phía sau hoảng loạn, giặc nháo nhào quay về vị trí xuất phát. Trong đêm hôm trước, Lê Đĩnh
đã sai người vượt núi vào rừng chặt tre già, vót nhọn làm vũ khí chống cận chiến.
Thừa cơ hai bên đánh nhau hỗn loạn trên núi, tướng giặc sai vài trăm kị mã phi qua chiến địa, tiên phong mở đường. Đoàn kị binh Mông Thát phóng như bay rồi bất ngờ chững lại khi đến khúc đường quanh, ở phía trước có một lũy đá đồ sộ chắn ngang độc đạo. Lúc chúng còn loay hoay tìm cách vượt qua thì từ trên núi những tảng đá to như cối giã gạo thi nhau rớt xuống. Bọn đi đầu không có chỗ tháo lui, người ngựa tan tành, máu nhuộm lênh láng mặt đường. Trước đây, mười lăm chiến binh được lệnh âm thầm mai phục, chỉ ra tay lúc thời cơ đến. Một viên tưởng nhỏ nước Nam cũng có thừa mưu trí đánh giặc, quả là thời đại hiển hách.
Xế chiều, giặc tổ chức một đợt phản công khác, nhưng lần này chúng đánh đấm không nhiệt tình, nặng phần khiêu khích hơn là chiếm lĩnh cứ điểm. Ở bên dốc núi, một toán giặc phi ngựa lên, giương cung bắn rồi quay xuống nhường đường cho toán khác. Cứ thế, chúng ra sức quấy nhiễu trận địa của ta với một mục đích khó đoán định. Ở bên vách núi dựng đứng, giặc chỉ bắn tên rào rào mà không sử dụng bất cứ phương tiện nào khác để công phá.
Rồi tiếng hò la từ trời cao dội xuống, ngước nhìn lên đã thấy giặc ở ngay trên đầu, Lê Đĩnh và các chiến hữu biết giặc tập kích phía sau, vội quay lưng đánh trả. Bọn kị binh ở dưới chớp thời cơ ạt nóng lên. Trên đe dưới búa, hơn sáu mươi tráng sĩ còn sức chiến đấu không thể đánh bại cả ngàn tên giặc Thát, vòng vây càng lúc càng xiết chặt, từng chiến binh bị giặc thù đâm nát bởi hàng chục mũi gươm giáo.
Biết nhiệm vụ đã hoàn thành, hy sinh thêm cũng vô ích. Lê Đĩnh xé mảnh áo trước ngực, lấy máu viết hai chữ "Hồi binhRút quân", quấn vào mũi tên bắn sang vách núi bên kia, rồi vung đao bổ vào hai tên giặc xáp tới, trước khi bị bọn Thát chém xả tơi bời. Người anh hùng giữ ải họ Lê gục chết bên đồng đội của ông tại ngọn Khâu Cấp linh thiêng trên địa đầu Tổ quốc.
Một chiến binh phát hiện được mũi tên có quấn vải từ bên kia bắn tới, lúc tháo vải ra thì biết ngay là của Lê Đĩnh, bèn truyền tin cho đồng đội. Chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy, ba mươi hai tráng sĩ sống sót âm thầm rời vị trí. Họ nuốt lệ vào trong mà vĩnh biệt hơn bảy trăm huynh đệ đã mãi mãi nằm lại giữa núi đồi biên cương hoang sơ, rồi lầm lũi cất bước trong bóng chiều hấp hối.
Nguyên do giặc Thát có thể tập hậu quân ta bắt nguồn từ xảo kế của A Lý Hải Nha. Theo lệnh chủ tướng, hòng đoái công chuộc tội thất trận, Vạn hộ Nghê Nhuận cho quân lùng sục quanh vùng tìm người chỉ điểm. Có kẻ hám lợi chấp nhận bán rẻ đồng bào, dẫn đường cho ba trăm quân của Nghê Nhuận vượt qua hai dãy núi, bất ngờ đánh úp phía sau trận địa phòng thủ của Lê Đĩnh.
Phải mất nhiều canh giờ dọn dẹp chướng ngại vật, tới sáng hôm sau, đại quân Mông Thát mới qua được phâu Cấp Lĩnh, rầm rộ kéo đến ải Khả Ly. Nghe báo thiệt hơn một ngàn quân tại cái hẻm núi con con, Thoát Hoan giận dữ mắng nhiếc thuộc cấp rồi quyết định điều các chiến tướng giỏi nhất chỉ huy quân tiên phong cánh đông, tránh tình trạng chưa vào tới nhà đã bị đánh bầm dập từ ngoài cổng. Lại biết tin hai khẩu cự thạch pháo bị đốt cháy tan tành, y càng điên tiết, nhưng cũng đủ tỉnh táo để ra lệnh “An Nam nhiều núi mà đường thì
hẹp, bọn Nam man dễ lập trận đốt phá. Mười khẩu cự thạch pháo còn lại chỉ chuyển đến sát biên giới, khi cần thiết sẽ kéo sang sau”.
Nhận lệnh của Hưng Đạo Vương, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái khẩn cấp dẫn quân từ Sơn Động lên Khả Ly và Động Bản. Đội hình hành quân ngày đêm, sáng mồng bốn tháng chạp đến vị trí tập kết rồi chia quân đóng giữ hai ải liên thông với nhau trên một đoạn đường dài không đầy bảy chục dặm. Phạm Ngũ Lão trấn Khả Ly, Nguyễn Khoái thủ Động Bản, sau trước cả thảy vạn mốt quân.
Khả Ly cách Khâu Cấp Lĩnh khoảng một ngày bộ hành, qua khỏi Khả Ly đi thêm nửa ngày là tới Động Bản, tuy chúng có địa thế không hiểm trở nhưng giữ vai trò cực kỳ quan trọng trên con đường huyết mạch nối biên cương với Nội Bàng, nơi Hưng Đạo Vương đóng bản doanh trong kế hoạch phòng thủ đông bắc.
Bố trí xong trận địa, Phạm Ngũ Lão dẫn theo vài chục quân đi ngược lên phía bắc để quan sát địa bàn. Bắt gặp trên đường nhiều người dắt díu nhau chạy giặc, Phạm Ngũ Lão kêu lại hỏi han tình hình. Một ông cụ kể lể:
– Chúng tôi là người một bản ở dưới đỉnh Khâu Cấp. Mấy bữa nay trong núi đánh nhau dữ dội, lửa khói nghi ngút, tiếng động long trời lở đất. Càng ngày âm thanh càng rõ hơn, biết giặc sắp tràn qua hẻm núi, nên cả bản kéo nhau đi lánh nạn.
Phạm Ngũ Lão có lời khuyên:
– Bà con cứ chạy lên các ngọn núi cao mà lẩn tránh, càng xa
đường càng tốt. Mọi người đi bộ một ngày, bọn Thát cưỡi ngựa chỉ vài canh giờ, để chúng bắt gặp thì nguy lắm.
Những người dân sơn cước hiền lành chất phác lần đầu tiên lâm vào cảnh ngộ ly hương, bỏ lại nhà cửa, ruộng nương mà phiêu dạt nhưng chẳng biết nên đi đâu, về đâu? Trong tâm trạng hoang mang lo sợ, nhiều người nghe theo lời khuyên bỏ đường mà chạy lên núi. Một số ít tin rằng đã có quân ta cản giặc, nên vẫn muốn theo đường đi tiếp để đến tá túc nhà họ hàng ở cách đây hai ngày cuốc bộ. Ngũ Lão chẳng thể giúp được gì hơn, cũng không thể nói rõ với bà con về chủ trương không cố thủ lâu dài, đành thầm cầu mong cho mọi người vô sự, nhanh chân thoát khỏi vòng nguy hiểm, sớm đến được nơi an toàn. Theo lệnh của Tiết chế, quân của ông và Nguyễn Khoái chỉ cần giữ ải một ngày, hạn chế tổn thất lực lượng.
Tham tri Lý Hằng và bọn Sát Tháp Nhi Đài, Lý Bang Hiến thống lĩnh hai vạn quân vượt qua Khâu Cấp Lĩnh, ào ạt kéo đến Khả Ly. Hằng điều ba ngàn kị mã tiên phong của Bang Hiến xông thẳng tới chiến ải nằm giữa hai ngọn đồi bát úp. Đợi cho giặc hùng hổ tiến sâu vào trận địa, tướng quân Ngũ Lão phất cờ lệnh tấn công, hàng trăm cung thủ từ trên đồi đồng loạt xạ kích, hạ gục tại chỗ nhiều tên. Hiến chia đội hình đánh thốc lên hai quả đồi, tạo thế cánh cung ép quân ta vào giữa. Lính câu liêm xung trận, dùng móc sắt giật vó ngựa giặc, khiến nhiều đứa ngã lăn xuống chân đồi. Ngũ Lão cho kị binh xuất kích, hai đoàn chiến mã Đại Việt từ đầu ải như hai cơn lốc ngược chiều nhau cắt ngang đội hình giặc. Họ vung đao chém như thể tiện tay mà không nhất thiết kìm ngựa đánh cố, khiến giặc hoàn toàn bất ngờ, chưa kịp đối phó thì kị binh của ta đã rút hết.
Sát Tháp Nhi Đài cùng năm ngàn quân ập đến, Ngũ Lão cho quân rút lui vào rừng, bọn kị mã thừa cơ truy kích, đến bìa rừng thì lọt vào ổ mai phục của ta, tên nỏ Đại Việt tiễn hơn trăm người ngựa Mông Thát về địa ngục. Thấy tình thế bất lợi, Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến thu binh, đem quân tiến về Động Bản.
Giặc vừa đi khỏi, quân ta quay lại Khả Ly lập trận địa mới. Bọn Lý Hằng ỷ thế có đội hình của Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến đi trước dọn đường nên có phần chủ quan, cứ nghênh ngang qua ải như vào chỗ không người. Khi hàng trăm mũi tên từ trên đồi lao vun vút xuống khiến lũ giặc hỗn loạn, Lý Hằng giật mình kinh sợ vội chỉnh đốn đội hình, dàn quân đánh thốc lên hai quả đồi. Quân ta rút vào rừng, giặc không dám đuổi theo.
Vừa qua khỏi ải đã thấy kị binh An Nam ngáng đường phía trước, Lý Hằng cậy đông quân, sấn sổ phi ngựa tới. Chiến mã hai bên đối diện nhau ở khoảng vài chục trượng.��
Hằng cao giọng nhiếc móc:
– Ta là Vinh lộc đại phu Tham tri chính sự, Tả thừa Lý Hằng, phụng mệnh hoàng đế Đại Nguyên dẫn vài vạn quân tiên phong mở đường sang Chiêm Thành, các ngươi là bọn giặc cỏ phương nào, dám ra đây cản đường quấy nhiễu?
Phạm Ngũ Lão trợn mắt mắng trả:
– Ta là Phạm Ngũ Lão tướng Đông A chỉ huy hữu vệ Thánh Dực, chẳng cần biết các ngươi là ma quỷ xứ nào, nay đang ở trên đất ta thì sớm mà xéo về, Đại Việt không có đường sang Chiêm Thành, muốn kiếm đường thì xuống âm phủ mà kiếm.
Lý Hằng điên tiết quát lớn:
– Thằng nhãi ranh hỗn xược, có giỏi thì đánh với ta mấy hiệp. Ngũ Lão đáp:
– Ta há sợ ngươi sao.
Hai chiến tướng hùng hổ lao vào nhau, Hằng giương xà mâu đâm thẳng, Lão vung mã đao phạt ngang, kẻ thọc người né, bên chém bên đỡ, công thủ xứng tầm, khiến ngựa đồng hạng, xem ra ngang tài ngang sức. Đánh nhau chừng năm hiệp, Ngũ Lão lựa thế vọt ngựa ra xa, rồi nói:
– Đánh thế đủ rồi, chờ dịp khác ta và ngươi đánh tiếp. Ông vẫy tay làm hiệu, hơn ngàn chiến mã theo chủ tướng phi như bay vào rừng.
Sợ bị lọt bẫy mai phục, Lý Hằng không xua quân truy đuổi. Trận thử sức vừa rồi đủ cho hắn thấy tương đối phương không phải hạng tầm thường. Bài học ở Tà Pạc Nấm luôn nhắc nhở Hằng chớ có xem nhẹ sự trí dũng của người An Nam.
Viên Giám mã Dương Tự Quán nằm trong số hai vạn binh dưới quyền Lý Hằng hành quân ra trận. Thuộc bộ phận hậu cần, y thường ở chót đội hình và chẳng phải lo đánh đấm, nên tâm trạng lúc đầu cũng khá ổn định. Nhưng khi qua Khâu Cấp Lĩnh, nhìn cảnh tượng chiến địa ngập máu và xác chết, hồn vía của y tiêu tán cả, người ngợm run bần bật, bụng dạ thì tê cóng còn da thịt lại sốt sình sịch.
Rồi nghe tin Trấn Nam Vương cắt cử Lý Hằng làm đầu lĩnh tiên phong của cánh quân ba mươi vạn, có Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến làm phó tướng tả hữu trợ thủ đánh dẹp mở đường, bấy giờ Tự Quán ốm càng nặng. Mới đi qua bãi chiến trường đã rụng rời tim óc, nay phải rong ruổi tiên phong trên đất thù thì có khác nào đến hạn tận
số. Y rủa trời, rủa người, rủa mình, rủa luôn cả triều đình lẫn bầy đàn tướng sĩ giả giới đánh chiếm lân bang. Rủa thầm cho bõ tức thế thôi, cái chức Chánh quản giám mã bé cỏn con của y chẳng thể làm gì cho hả giận. Riêng có một đứa, chẳng những Quán rủa xả tối ngày mà còn mặc sức đày ải.
Nông Trí Nãi là kẻ hốn khổ nhất trong đám lính nuôi ngựa dưới quyền Dương Tự Quán, việc gì nặng nhất, bẩn nhất và nhiều rủi ro nhất thì lúc nào hắn cũng được Chánh quản “ưu tiên” hàng đầu. Trên đường hành quân, cả đội quản lý năm chục xe cỏ và bầy ngựa dự bị, bọn áp tải cứ thong dong cưỡi ngựa hoặc ngồi xe, riêng hắn được giao quẩy cặp bồ đầy ắp đồ nghề chăm sóc đàn ngựa chiến. Đã gánh oằn vai, lâu lâu còn bị tạt tai đá đít, Nãi bấm bụng cam chịu, nhưng cái cảnh máu me chết chóc làm hắn hoảng loạn thật sự, đêm nào cùng nằm mê bị người chết níu tay lôi xuống một cái lỗ sâu hoắm. “Đi với ma mặc áo giấy”, Nãi đã vỡ lẽ ra nguyên do mình bị đày vào bể khổ. Huyện quan thành gã chăn ngựa, còn y thành đứa hót phân, muôn sự đều từ “chiến công” tố giác thám báo mà ra cả.
Lại nói về Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến. Sau khi bỏ lại cái ải Khả Ly ôn dịch cho bầy đoàn phía sau giải quyết, hai viên chiến tướng Mông Cổ dẫn quân tiến về Động Bản. Đi được nửa đường thì trời tối mịt, chúng buộc phải dừng lại nghỉ qua đêm. Cách đấy vài chục dặm, tướng Nguyễn Khoái trấn giữ Động Bản đã cho bài binh bố trận đón lõng giặc thù.
Có địa hình tương tự Khả Ly, đây là ải lũy tự nhiên cuối cùng trên con đường dẫn về Nội Bàng, nơi Trần Hưng Đạo tập kết năm vạn quân sẵn sàng nghênh chiến với giặc.
Sáng hôm sau, khi toán quân Mông Thát nhập ải quá nửa thì bất thần từ trên sườn đồi có hàng trăm quả cầu lửa bay vùn vụt như mưa sao, chạm vật cản liền vỡ bung ra, lửa văng tứ phía vào người ngựa, khiến bọn kị binh và chiến mã của chúng hoảng sợ, quẫy đạp loạn xạ để thoát thân.
Mượn ý tưởng từ trò chơi ném còn của đồng bào vùng cao, Nguyễn Khoái cho làm những quả cầu rơm tẩm dầu bó bằng lạt, được nối với một sợi dây dài để tạo lực đẩy, khi cầu bén lửa, người lính cầm đầu dây quay một vòng rồi định hướng mà vung tay nhả cầu bay về phía quân địch.
Cảnh tượng bấy giờ vô cùng hỗn loạn, giặc muốn tháo lui nhưng ở đầu ải tắc nghẽn, buộc chúng phải bỏ ngựa mà chạy dạt ra như ong vỡ tổ. Nhiều đứa bị lửa bám vào áo quần, kêu la giãy giụa váng động trời đất. Lý Bang Hiến gào thét chấn chỉnh đội ngũ rồi xua quân liều lĩnh xông lên, liền bị quân ta bắn cung nỏ chặn lại. Sát Tháp Nhi Đài còn ở ngoài ải, bèn chia quân đánh tạt sườn. Thấy tình thế bất lợi, Nguyễn Khoái phất cờ hiệu lui quân, lập đội hình chặn địch ở đầu ải.
Cho rằng quân An Nam hèn kém phải bỏ trận địa tháo chạy, Sát Tháp Nhi Đài vênh vang tự đắc, khiến quân vượt Động Bản. Chưa qua khỏi ải, đã thấy đối phương dàn quân bên ngoài, Sát Tháp Nhi Đài thúc quân giao chiến. Toán đi đầu vướng dây chằng ngang, người ngựa ngã bò lê bò càng, tức thời cung thủ của ta thẳng tay
buông tiễn.
Trước đấy Nguyễn Khoái đã cho một toán cảm tử ém sẵn lối ra và chăng dây thừng sát mặt đất, khi giặc đến ngang tầm thì hai đầu dây đồng loạt nhấc lên cao, với lực giữ của ba tráng sĩ ở mỗi đầu dây đủ gạt phăng hàng chục kị mã Mông Cổ đang phi tới. Sáu chiến binh cảm tử bị giặc giết; đổi lại, họ đã góp phần hóa kiếp vài chục tên Mông Thát.
Ỷ thế đông hơn, Sát Tháp Nhi Đài đóng quân hàng mười xông thẳng vào đội hình của Nguyễn Khoái. Quân ta dạt sang hai bên rồi thắt khúc giữa, chặt hàng ngũ của quân Nguyên ra làm đôi. Do bị thua thiệt nặng, Lý Bang Hiến chuyển sang đoạn hậu, thấy đồng bọn rơi vào thế bí, bèn dẫn quân ào đến giải cứu. Quân ta khó lòng đối định, Nguyễn Khoái muốn lui binh, chợt bọn Nguyên phía sau hỗn loạn, nhìn ra thì biết Phạm Ngũ Lão dẫn quân tập hậu. Giặc đang thắng thế lại thành thất thế, phải chống đỡ trong tình trạng đầu cuối cùng thọ địch. Kịp lúc Lý Hằng dẫn hơn một vạn quân kéo đến giải vây.
Hai tướng chỉ huy Thánh Dực biết không thể kìm chân giặc thêm nữa, bèn quyết định rút quân. Kiểm đếm đội hình, ngoài số binh sĩ bị thương, quân ta có hơn năm trăm người tử trận. Trong đêm đông giá lạnh, đoàn chiến binh băng rừng vượt núi tìm đường trở về Nội Bàng, hy vọng có mặt kịp thời bên cạnh Tiết chế Đại Vương trong trận chiến sắp tới.
Bị thua thiệt đáng kể tại Khả Ly và Động Bản, bọn Lý Hằng, Sát Tháp Nhi Đài lồng lộn tức tối mà càng trở nên hung bạo. Dọc đường tiến quân, hễ gặp dân chạy loạn hay bản làng nào trong tầm mắt là lũ
giặc thẳng tay áp chế. Đốt phá nhà cửa, chặt cây trồng, cướp vật nuôi, trói già đánh trẻ vô cớ, lùng bắt đàn bà con gái làm thú tiêu khiển, không việc gì chúng không làm, hễ ai phản ứng liền bị bọn ác nhân giết tại chỗ.��
Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ và phó tướng là Chiêu thảo A Thâm chỉ huy cánh tay với một vạn rưỡi quân tiến đánh Khâu Ôn. Là một phần trong kế sách gọng kìm của Trấn Nam Vương, chúng có nhiệm vụ càn quét từ biên giới đến Lục Đầu Giang để nhổ sạch các cứ điểm của ta và phá thế ỷ giốc trên bàn cờ của Trần Hưng Đạo, sau đó tạo thành một mũi đột kích từ hướng tây bắc tham gia công phá địa bàn trọng yếu hàng đầu của lực lượng quân sự nhà Trần ở Vạn Kiếp.
Kế hoạch là thế, song mọi sự chẳng như ý muốn. Tại Khâu Ôn, bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ đã vấp phải sức kháng cự ra trò của quân dân Đại Việt. Quan trấn thủ Lạng Giang là Lương Uất, một vị hào trưởng người Tày rất được triều đình tín nhiệm, trực tiếp chỉ huy hai ngàn rưỡi lộ quân bày trận giữ ải. Ban đầu Uất dự định tử thủ Khâu Ôn, sau được lệnh của Hưng Đạo do Tuấn Thọ chuyển lời, ông thay đổi chủ ý, bàn với tiểu tướng của vương mưu kế quấy nhiễu địch.
Ải Khâu Ôn nằm sát biên giới, núi thì thấp, đường thì rộng, khó lập trận địa mai phục. Tuấn Thọ đề nghị:
– Ngài có hai ngàn rưỡi bộ binh, tôi có năm trăm chiến mã. Khi giặc đến, ngài ém quân ở sau ải, tôi sẽ dẫn quân ra khiêu chiến rồi vờ tháo chạy, chúng tất sẽ cho kị binh truy kích, đợi bọn lính bộ qua ải, bấy giờ ngài cho quân đùng cung nỏ mà diệt địch.
Lương Uất nhất trí với kế hoạch của Thọ. Vừa kịp bài binh bố
trận thì quân Thát rầm rộ ập đến. Thọ dẫn năm trăm quân chặn trước ải, dõng dạc hỏi lũ phạm cõi:
– Đây không phải là đất vô chủ, các người đi đâu mà hùng hùng hổ hổ kéo qua?
Bột La Hợp Đáp Nhĩ cười nhạo:
– Tụi bay là cỏ rác mà dám ngáng đường căn vặn ta sao? Chuyến này bọn ta đến Long thành xích cổ chúa của ngươi đem về Đại Nguyên cho làm đứa hầu rượu.
Tuấn Thọ quát lớn:
– Cẩu tặc Thát Đát chớ có hỗn xược, ta mà bắt được người thì xẻo lưỡi cho chó ăn.
Bột La Hợp Đáp Nhĩ gầm ghè tức tối, sai A Thâm dẫn quân kị tiếp chiến. Viên Chiếu thảo hò kị mã ào ạt xông tới. Tuấn Thọ cho quân quay đầu tháo lui. Hơn một ngàn kị binh Mông Cổ rầm rập đuổi theo năm trăm kị sĩ Đại Việt, giặc vừa phi ngựa vừa giương cung xạ tiễn, quân ta ngồi trên mình ngựa vẫn ngoái lại dùng nó bắn trả, mỗi bên tổn thất vài chục nhân mạng. Cuộc rượt đuổi bằng ngựa vượt qua ải Khâu Ôn, Lương Uất vẫn án binh bất động.
Chủ tướng giặc thấy quân kị qua ải mà không bị phục kích, bèn giục quân tiếp bước. Chờ cho quá nửa bộ binh giặc vượt ải, bấy giờ Lương Uất mới phát lệnh tấn công. Từ các mô đất, bụi cây trên sườn đồi bật ra vô vàn tráng sĩ kiêu hùng giương cung, nỏ nhắm vào đội hình địch mà xạ kích. Bị công kích bất ngờ, Bột La Hợp Đáp Nhĩ thúc bộ binh ào lên đánh chiếm trận địa của đối phương. Quân Nguyên đông gấp mấy lần, nhưng ta ở trên cao, giặc ở dưới thấp, phần thua thiệt chúng lĩnh đủ. Sườn đồi không quá dốc, có thể khiến ngựa tấn
công lên, song kị binh Nguyên còn mải mê đuổi theo kị binh Đại Việt, trong tay viên chủ tướng chỉ còn dăm chục người ngựa, nên y không dám liều lĩnh đánh bừa, cứ đứng dưới chân đồi mà ngoạc mồm hò hét.
Bọn A Thâm đuổi theo quân của Tuấn Thọ đến cánh rừng rậm rạp, chúng đang lưỡng lự nên tiến vào hay bỏ cuộc, thì nghe tiếng kêu la từ Khâu Ôn vọng tới. Sợ đồng bọn bị rơi vào ổ phục kích, A Thâm vội dẫn quân về tiếp cứu. Chớp thời cơ, Tuấn Thọ cho quân quay đầu đuổi đánh, nhiều tên giặc chậm chân bị đao mác và tên nỏ của binh sĩ nước Nam hóa kiếp.
Vị hào kiệt trấn thủ Lạng Châu thấy kị binh giặc đang kéo tới bèn cho rút quân sang sườn núi khác. Tuấn Thọ cũng dừng cuộc rượt đuổi, thu quân về chờ dịp mới. Trong trận chiến Khâu Ôn, ta chỉ mất một trăm bảy mươi binh sĩ, còn quân Nguyên thiệt hại gấp ba lần.
Lương Uất và Tuấn Thọ không để giặc được một ngày yên ổn, họ liên tục quấy rối kẻ thù, có khi tập hậu, có khi tạt sườn, đánh chớp nhoáng rồi rút nhanh chóng, khiến bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ thất điên bát đảo, đuổi theo không được mà đi tiếp cũng chẳng xong, cho nên khoảng cách từ Khâu Ôn đến Chi Lăng chỉ mất hơn một ngày đường mà chúng phải đi tới bốn ngày.
Lại nói về Phạm Thái và Lô Viên Dụng.
Nhận lệnh của Hưng Đạo Vương, hai chàng trai trẻ rong ruổi trên yên ngựa vừa đi vừa hỏi đường đến ngã ba Hạc thuộc trấn
Tuyên Quang. Họ đi ba ngày mới tới nơi, tìm đến bản doanh của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật thì ngài lại đang lập phòng tuyến trên sông Thao gần biên giới. Huynh đệ Phạm Thái men theo bờ sông phi ngược lên vùng cao thêm hai ngày rưỡi mới gặp được vị đầu lĩnh trấn thủ Đà Giang của miền tây bắc nước Nam. Xem xong thư của Tiết chế, Chiêu Văn hứng khởi nói với các tùy tướng:
– Hưng Đạo quả là người nhìn xa trông rộng, không cần lên thực địa cũng đoán được mưu đồ của giặc. Ý của vương cũng trùng với ý của ta, bọn Thát sẽ hành binh dọc bờ sông để tiến về xuôi, việc bày trận nơi đây quả là hợp lý.
Rồi ngài quay ra nói với hai gã trai giao thư:
– Chủ của các ngươi có dặn, nếu tình hình khẩn cấp thì cho các người ở lại tham gia chinh chiến, khi nào thuận lợi sẽ trở về sau. Ý của các ngươi thế nào?
Phạm Thái đáp:
– Bẩm Đại vương, chúng tôi gắn bó một đời với các huynh đệ Vạn Kiếp, trong hoàn cảnh giặc giã sinh tử khôn lường lại không ở bên họ thì day dứt lắm.
Nhật Duật nói:
– Khá khen cho lòng trung nghĩa của các ngươi. Bây giờ trời đã tối, các ngươi hãy nghỉ lại trong trại rồi mai lên đường sớm. Lúc quay về đến Nội Bàng có lẽ cuộc chiến đã bùng nổ, việc tìm được đội ngũ hay không còn tùy thuộc vào tình hình chiến sự và duyên may của các ngươi.
Nhưng ý định trở về đội ngũ của Phạm Thái và Lô Viên Dũng đã không thực hiện được trong những ngày khói lửa nhiễu nhương của
tháng chạp năm ấy. Tờ mờ sáng hôm sau, toàn quân được lệnh báo động, trinh thám cấp tập đưa tin về “Chiều hôm qua, Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn gần hai vạn quân đã vượt qua biên giới tại Bảo Thắng quan”. Phòng tuyến của Chiêu Văn Vương cách Bảo Thắng một ngày đường, nếu giặc hành quân cả đêm thì chỉ vài canh giờ nữa chúng sẽ ở ngay trước mặt.
Thái bàn với Dụng:
– Giặc đến mà anh em ta lại bỏ đi thì hèn quá. Theo huynh, ta nên ở lại đầu quân Chiêu Văn Vương, đệ thấy sao?
Dụng đáp:
– Ở đâu cũng đánh giặc cả, chúng đã đến rồi thì phải đánh thôi. Ý của Đại Vương cũng muốn vậy mà.
Phạm Thái và Lô Viên Dụng quyết định gia nhập đội kị binh của Trần Nhật Duật. Kể từ đấy, cuộc trường chinh vệ quốc đã đưa đẩy hai chiến binh của Trần Hưng Đạo tụ nghĩa dưới cờ của Chiêu Văn Vương mà miệt mài đánh giặc khắp các chiến trường từ bắc chí ở trên ngực Thái, chiếc bùa hộ mệnh có vết đao chém chỉ còn là một dấu tích đã hóa sẹo từ bao giờ về những tháng ngày khắc khoải dấu yêu và tột cùng uất hận. nam.
Bình chương chính sự Nạp Tốc Lạt Đinh là một chiến tướng Mông Cổ lão luyện từng tham gia chiến trận ở Vân Nam và Miến Điện, tuy cấp bậc tương đương với A Lý Hải Nha nhưng không được lòng Thoát Hoan nên quyền lực bị hạn chế.
Mọi chuyện bắt nguồn từ kế sách Nam chinh của các đầu lĩnh quân sự dưới trướng Trấn Nam Vương. Một năm trước, khi họp bàn với thuộc cấp về phương án động binh, Thoát Hoan chủ trương:
– Tập trung binh lực ở các châu Tấn, Khâm, Hoành, Ung tiến đánh đông bắc An Nam, đây là hướng tấn công chính giúp giải quyết chiến cuộc trong vài tháng. Để tạo áp lực lên đối phương, cử một đạo quân nhỏ đánh vào vùng tây bắc của địch, điều quân Toa Đô, Đường Ngột Đãi từ Chiêm Thành đánh ngược lên lãnh thổ phía nam của chúng.
Các tướng đều nhất chí với kế hoạch của chủ soái, riêng Nạp Tốc Lạt Đinh có ý kiến khác, y biện giải:
– Nên dồn binh lực đến Vân Nam để xâm nhập tây bắc địch quốc. Lực lượng phòng thủ của chúng ở vùng này rất yếu, chỉ cần vượt qua vài quả núi lớn rồi men theo sông Thao tiến thẳng một lèo xuống thâu tóm khu vực hợp lưu của các con sông mà chúng gọi là ngã ba Hạc thì coi như Long thành đã ở trong tầm tay. Năm xưa, Ngột Lượng Hợp Thai đại nhân cũng tiến quân theo hướng này, chỉ mấy ngày sau đã chiếm kinh đô An Nam.
A Lý Hải Nha lên tiếng phản bác:
– Vân Nam hiểm trở, điều động mấy chục vạn quân và lương thảo lên đấy là việc rất tốn kém, có thể kéo dài nhiều năm. Trước kia tướng quân Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh vài vạn quân nên dễ cơ động, nay quân ta đông gấp mười lăm lần, chỉ riêng số lượng nuôi quân trong vài tháng liệu Vân Nam có lo nổi không?
Nạp Tốc Lạt Đinh bẻ lại:
– Muốn đánh nhanh thì theo đường Vân Nam là thượng sách,
bấy giờ đâu cần nhiều lương. Khi ta đã sớm làm chủ man quốc thì bọn man dân phải cung phụng cái ăn cho ta. Còn đánh vào vùng đông bắc của chúng, nếu dềnh dang không xong thì có đem theo bao nhiêu lương cũng thiếu.
Là tướng lĩnh ngang cấp trong lực lượng chinh phạt, hai gã Bình chương không tránh khỏi kèn cựa đấu đá nhau, cách lý giải của chúng đều ẩn chứa chủ ý sâu xa. Nạp Tốc Lạt Đinh thông thuộc Vân Nam, nếu Thoát Hoan dùng địa bàn này làm hướng tấn công chủ yếu thì tất phải trọng dụng y, bấy giờ A Lý Hải Nha sẽ bị gạt ra rìa, chỉ còn là kẻ ngồi làm cảnh trong soái phủ. A Lý Hải Nha cũng có tâm lý tương tự nhưng ở hướng ngược lại, y từng đánh Tống khắp mấy chục châu quận miền đông nam Trung Hoa nên hiểu địa bàn như chỉ lòng tay, việc tập trung quân tại vùng này ắt phải trông cậy vào hắn, khi ấy Nạp Tốc Lạt Đinh chỉ còn là đứa rỗi việc được đi theo cho vui.
Thoát Hoan cũng chủ trương giống A Lý Hải Nha, lúc nghe Nạp Tốc Lạt Định nói xa gần về sự bất thành khi đánh vào vùng đồng bắc An Nam khiến y không hài lòng, cho đây là điềm gở miệng, nên bực dọc nói:
– Không bàn cãi nữa, ý ta đã quyết, cứ thế mà làm. Nạp Tốc Lạt Đinh muốn theo đường Vân Nam thì ta giao cho ngươi ba ngàn quân, lên đấy nếu có điều kiện thì tuyển thêm binh rồi tự mà xoay xở lấy việc của mình.
Với ba ngàn kị binh Mông Cổ làm vốn, mất gần một năm thu nhặt và tuyển dụng được vạn rưỡi lính thuộc đủ các sắc tộc ở Vân Nam, thành thử cái đạo quân gần hai vạn của Nạp Tốc Lạt Đinh tương đối ô hợp nên không phát huy được kế sách tiến nhanh đánh
gon như y mong muốn. Do chẳng lập được công tích gì, lại bị thua thiệt đáng kể trong cuộc chinh phạt Đại Việt, sử sách nước Nguyên ít nhắc đến tên Nạp Tốc Lạt Đinh, còn cố tình hạ bớt vai trò của y cho đỡ ô nhục.
Theo tin tức của thám báo, Nạp Tốc Lạt Đinh tiến quân bên bờ tả ngạn sông Thao, Trần Nhật Duật đã đoán được ý đồ của chúng nên cho lập hai phòng tuyến cách nhau năm mươi dặm tại các cánh rừng và bãi đá ven sông. Lực lượng của vương có một vạn hai gồm vệ quân, lộ quân và dân binh các loại. Phòng tuyến thứ nhất với bảy ngàn quân do Chiêu Văn Vương trực tiếp chỉ huy, có các tướng trợ thủ là anh em Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền, hai vị đầu lĩnh lộ quân vùng tây bắc. Phòng tuyến thứ hai gồm năm ngàn quân Củng Thần do Tiền điện chỉ huy sứ Trần Thông Bảo chỉ huy, có Hữu bộc Trần Thế Di giám quản.
Sáng mồng năm tháng chạp, ba ngàn quân tiên phong của Nạp Tốc Lạt Đinh do Vạn hộ Tôn Hựu chỉ huy hùng hổ kéo vào trận địa của ta. Chiêu Văn Vương phát lệnh khai chiến, từ các mỏm đá gốc cây, đội cung thủ đồng loạt xạ kích hạ gục tại chỗ nhiều tên địch. Bị đánh bất ngờ, giặc co cụm lại ở bãi đất ven sông để chỉnh đón đội ngũ. Tôn Hựu sai tiểu tướng Kỷ Bàn cầm đầu một ngàn bộ binh dùng khiên chắn tên dàn hàng ngang xông vào cận chiến, lại sai tiểu tướng Tào Vĩnh Sơn dẫn một ngàn quân bị đánh bọc sườn quân ta. Nguyễn Khả Lạp cho quân dùng câu liêm móc vó ngựa, khi giặc ngã
thì lăn xả vào mà đánh. Bọn kị binh Mông Cổ khiển ngựa điêu luyện nên câu liêm của ta ít hiệu quả, các chiến binh còn bị chúng từ trên mình ngựa phạt đao tơi bời. Nguyễn Truyền đốc quân giáp trận với bộ binh giặc, quần thảo nhau dữ dội, máu thịt lênh láng cả triền sông.
Quan sát trận địa từ trên đồi cao, Trần Nhật Duật quyết định tung kị binh cứu viện. Hơn bảy trăm quân kị do Hứa Tông Đạo dẫn đầu ào đến như một cơn lốc cắt ngang đội hình địch giải vây cho Nguyễn Khả Lạp. Bọn Nguyên nhìn thấy trong đoàn kị binh An Nam nhiều người mặc y phục Tống nên có phần kinh hãi mà rơi vào thế bị động buộc chúng phải quay đầu tháo lui, Hứa Tông Đạo hò quân truy kích. Đuổi theo Tào Vĩnh Sơn tới bãi sông, Tông Đạo quát mắng:
– Thằng Hán gian theo giặc, chớ có chạy.
Nghe thấy giọng đồng hương, Vĩnh Sơn kìm ngựa, quay đầu hỏi:
– Ngươi là đứa nào mà dám lên mặt nói cuồng.
Tông Đạo cũng kìm ngựa, chỉ giáo về phía đối phương mà lớn tiếng:
– Ta là thần dân Đại Tống, vì hận mất nước mà về với người Nam để chờ ngày báo quốc. Nay quyết diệt cho sạch bọn Hán tặc làm tôi đòi nợ Bắc.
Vĩnh Sơn bỉ giọng mà rằng:
– Thì ra ngươi cũng như ta. Ai phò chủ nấy, vậy hãy quyết đấu trận này.
Cả hai giục ngựa sấn tới, đạo sĩ Hán theo Việt quyết đấu với chiến tướng Hán đầu Nguyên, kẻ long đao người trường giáo, trận
thư hùng bảo vệ chân lý của mình xem ra ngang tài ngang sức. Đang quần thảo tơi bời thì con ngựa của Tông Đạo vướng chân vào bãi lầy ven sông khiến người ngựa lao đao suýt ngã. Chớp thời cơ Vĩnh Sơn giương đao bổ xuống, Tông Đạo né đòn trong tình thế bất lợi. Bấy giờ Phạm Thái và Viện Dụng cùng các kị binh của ta đang đánh nhau hỗn loạn với kị binh giặc, thấy chỉ huy rơi vào thế hiểm, Thái vọt ngựa lao đến trợ chiến. Tào Vĩnh Sơn đành buông Tông Đạo để đỡ đòn mã đao của Phạm Thái, Tông Đạo thoát hiểm xáp lại đánh tướng giặc. Bị hai chiến binh Đại Việt quần thảo, Vĩnh Sơn chống đỡ không nổi, mấy lần định tháo chạy nhưng đều bị chặn đầu.��
Nhìn bộ tướng của mình lâm nguy, Vạn hộ Tôn Hựu dẫn một ngàn quân phóng ngựa đến giải cứu. Trước khi chúng ập tới thì Vĩnh Sơn đã lĩnh trọn một nhát mã đao của Phạm Thái bổ xuống vai. Bọn Nguyên cứu được Vĩnh Sơn trong tình trạng bị thương nặng.
Thấy giặc tung thêm quân vào trận địa, Chiêu Văn Vương cũng dốc toàn quân tham chiến. Ông khoác chiến bào đỏ, cầm trường kiếm có chuôi bằng ngà, dẫn đầu đoàn chiến binh tả xung hữu đột xé nhỏ đội hình địch. Anh em Nguyễn Khả Lạp thừa cơ bật dậy dẫn quân xông xáo diệt giặc. Quân ta đông gấp đôi lũ Mông Thát nên hoàn toàn áp đảo đối phương. Đang trong thế thắng thì chợt nhìn thấy bụi cuốn mù phía trước, biết đại quân giặc kéo đến, Trần Nhật Duật quyết định lui binh để tránh tổn thất. Tôn Hựu bị đánh bầm dập, không dám thúc quân truy kích.
Chiều tối hôm ấy, Phạm Thái được vương gọi tới khen ngợi và tặng thưởng một chiếc khăn choàng do thành tích chém tướng giặc và giải nguy đồng đội, còn được ngài giao trọng trách chỉ huy thám
mã, làm nhiệm vụ trinh sát truyền tin và giải cứu khẩn cấp. Hứa Tông Đạo cả mừng, chàng trai trẻ trí dũng quả cảm vừa giúp ông thoát hiểm đã trở thành trợ thủ của mình.
Trong quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật không ai không biết vị tướng đầu cạo trọc xuất thân từ đạo sĩ nổi tiếng can trường và bộc trực. Ông chính là Hứa Tông Đạo, vốn người Hán chạy sang ta năm năm trước, sau khi nhà Nam Tống diệt vong. Được Chiêu Văn Vương đối đãi thân tình, Tông Đạo cảm kích lắm, thề nguyện sát cánh cùng dân Nam chống lại kẻ thù chung.
Ngày mồng tám tháng chạp, Nạp Tốc Lạt Định dẫn đại quân tiến về phòng tuyến thứ hai của quân ta. Động tĩnh của giặc không lọt khỏi tầm bao quát của đội thám báo do Phạm Thái chỉ huy. Tin tức được cấp báo cho chủ tướng Nhật Duật quyết định phương án tác chiến chặn đầu khóa đuôi. Ngài sai người khẩn cấp truyền tin tới Tiền điện chỉ huy sứ Trần Thông Bảo và Hữu bộc Trần Thế Di, hẹn kết hợp công kích địch quân.
Rút kinh nghiệm trận trước, Nạp Tốc Lạt Đinh cho đại quân giữ khoảng cách với bọn tiên phong chỉ trong mười dặm, đề phòng gặp bất trắc còn kịp thời ứng cứu. Khi kị binh của Vạn hộ Tôn Hựu tiến vào dải cát hẹp nơi núi non cập sát bờ sông, buộc ngựa của chúng phải vượt qua chỗ đất lấp xấp nước, chớp thời cơ, Trần Thông Bảo phất cờ khởi chiến. Từ các bãi lau sậy ven bờ hơn ba mươi mảng tre vun vút lao ra, mỗi mảng có bốn tay chống sào và mười cung thủ do
Trần Thế Di đảm trách. Bị đánh bất ngờ, kị binh giặc xoay trở không kịp khiến nhiều đứa trúng tên ngã nhào. Giặc chưa hết kinh hoàng thì từ trên núi những tảng đá to dội xuống ầm ầm làm người ngựa bị thương vong vô số, buộc chúng phải tháo lui.
Tôn Hựu sai Kỷ Bàn dẫn bộ binh đột kích lên núi diệt toán Củng Thần đang quảng đá trên cao xuống chặn đường tiến quân của chúng. Các tráng sĩ Đại Việt quyết liệt cận chiến với lũ Mông Thát, hai bên giành giật nhau tùng hốc cây, mỏm đá, máu chảy lênh láng xuống tận chân núi. Không còn bị đá dội xuống đầu, Tôn Hựu trực tiếp chỉ huy đội kị binh vừa cưỡi ngựa vừa bắn tên triệt cung thủ của Trần Thế Di trên các bề mảng, quân ta cũng bắn trả nhưng ở dưới nước không thể cơ động như giặc nên bị thiệt hại đáng kể. Vừa lúc Trần Thông Bảo dẫn quân tập hậu, kị mã giặc thoát hiểm bằng cách băng qua dải cát hẹp nhưng lại bị dồn ứ mà không thể tiến tới. Ở phía trước, Thế Di nhanh trí cho quân cắm sào sát bờ, dùng đao kiếm và cung tên hạ thủ bất cứ tên giặc nào liều lĩnh xông lên.��
Nạp Tốc Lạt Đinh kịp thời đến tăng viện cho bọn Tôn Hựu, hai ngàn quân kị Thát xông vào đội hình của Trần Thông Bảo bằng sự hung hăng tột độ. Chiến binh Củng Thần đều là người dày dạn trận mạc, nhưng thế giặc quá mạnh, buộc viên Chỉ huy sứ phải cho quân co cụm lại thành từng khối vuông để tránh đòn xé lẻ của địch. Trong tình thế nguy cấp, chợt có tiếng hò la “Sát Thát” váng trời, biết Trần Nhật Duật đang đánh vào hậu quân địch, các chiến sĩ được tiếp thêm tinh thần, phấn chấn hẳn lên mà giữ vững trận địa.
Chiêu Văn Vương dốc quân xông vào công kích cái đuôi lờ đờ của đạo quân Mông Thát vốn đa phần là lính Vân Nam yếu kém và
bạc nhược. Các chiến binh lăn xả vào đội hình giặc mà tung hoành chém giết. Nạp Tốc Lạt Đinh vội dẫn một ngàn kị mã quay đầu giải nguy cho bọn hậu quân.
Chiêu Văn Vương dàn kị binh đối địch, chủ tướng hai bên gầm ghè với nhau trên bãi đất rộng ven sông. Nhật Duật lớn tiếng trách: – Dân Nam ta đang sống bình yên, sao các người kéo quân sang đánh chiếm?
Nạp Tốc Lạt Đinh đáp:
– Do An Nam bội tín, muốn trách người hãy trách mình trước. Nhật Duật nói:
– Không chấp nhận quỳ gối khom lung là bội tín sao? Nạp Tốc Lạt Định nói:
– Trấn Nam Vương bảo các người bội tín thì ta biết vậy. Là tướng đánh trận, ta chỉ biết phục tùng mệnh lệnh.
Thấy viên Bình chương có phần mềm mỏng, Nhật Duật cũng dịu giọng, lựa lời chích vào yếu điểm của hắn:
– Tướng quân là bậc tài trí ngang hàng với A Lý Hải Nha, nhưng y nắm hai mươi vạn quân tinh nhuệ, còn ngài chỉ có vài vạn quân kém cỏi, vậy làm sao qua được ải của ta, hay là rút quân về cho yên lành?
Bị cọ sát vào vết bầm trong tim, Nạp Tốc Lạt Đinh nhức nhối lắm nhưng vẫn cố tỏ ra bình thản:
– Rút là không thể rồi. Nhưng nay cả hai bên đều mệt mỏi, nếu ông muốn lui binh thì ta cũng lui binh.
Họ chấp nhận ngưng chiến. Nạp Tốc Lạt Đinh lui quân về mười
dặm, Chiêu Văn Vương án binh tại chỗ. Có lẽ thấm đòn tâm lý của Trần Nhật Duật khiến viên đầu lĩnh cánh quân Vân Nam rình rang không muốn đánh, nên gần một tháng sau, khi quân của Thoát Hoan đã vào tới Thăng Long thì quân của Nạp Tốc Lạt Đinh vẫn còn luẩn quẩn đâu đó cách Bạch Hạc hơn trăm dặm. Trong quãng thời gian ấy, hai bên có đánh nhau mấy trận, nhưng không có trận nào đáng kể.
Cho đến cuối tháng chạp năm Giáp Thân, toàn bộ phần phía bắc của lãnh thổ Đại Việt đã chìm trong cơn lốc binh đao. Ô Mã Nhi cũng từ phía nam kéo quân vào Hoan Ái tàn sát rồi bất thần đem hạm đội xâm nhập của Thái Bình tham gia đánh Vạn Kiếp. Cuối tháng giêng năm Ất Dậu (1285) hàng chục vạn quân của Giáo Kỳ, Toa Đô và Đường Ngột Đãi từ Chiêm Thành tràn vào Bố Chính, bấy giờ một dải non sông nước Nam đã nhuốm đỏ máu lửa chiến tranh. Con thu Đại Việt nghiêng ngả trước cơn sóng bạo cường được khuấy động từ sự tham tàn của bầy ma quỷ phương Bắc.
Chương 2
Mất Vạn Kiếp, Hưng Đạo giấu quân lên ngược
Đến Bình Than, Nhân Tông dụ giặc về xuôi
Khi nhận được tin cấp báo Chi Lăng thất thủ, Hưng Đạo Vương hỏi ngay:
– Quân ta tổn thất mấy phần?
Lính truyền tin đáp:
– Không kể số bị thương, quân ta mất ba phần, bảy phần còn lại rút chạy về Nội Bàng.
Hưng Đạo lẩm bẩm trong miệng “Như vậy là ba ngàn mạng người đấy”, rồi ngài sai truyền thuộc cấp:
– Điều quân hiệu thông báo gấp cho các ải Vĩnh Châu và Thiết Lược đừng cố giữ trận địa, nếu thế giặc hung hãn quá thì rút lui, tránh tổn thất lực lượng.
Không thấy Đại Vương hỏi han chuyện sống chết của người con trai út là tướng giữ ải Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, các tướng không ngạc nhiên vì họ hiểu phẩm chất lãnh đạo của chủ soái. Hưng Trí có bảy ngàn quân, được tăng cường thêm ba ngàn quân của Lương Uất và Tuấn Thọ, nay bị giết một phần ba, sự mất mát này khiến Vương đau xót. Đối với nhà cầm quân thao lược, ngần ấy sinh mạng binh sĩ đáng giá hơn một khúc ruột thịt.
Nguyên do, được giao trọng trách trấn giữ ải Chi Lăng, Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện đầu lĩnh bảy ngàn quân chốt chặn đầu hẻm
núi ở hướng bắc, sai binh sĩ khiêng đá đắp đất thành hai lớp chiến lũy chắn ngang con đường độc đạo. Nghe tin Lương Uất và Tuấn Thọ dẫn ba ngàn quân từ Khâu Ôn kéo đến tăng viện, Hưng Trí Vương mời các tướng đến quân doanh tham nghị. Mọi người sôi nổi bàn kế chống giặc, kịp lúc liên lạc đến trình mật thư của Hưng Đạo Vương, trong thư có chỉ dụ “Cản bước Mông Thát nhằm tiêu hao sinh lực địch. Không dốc sức đối đầu hoặc cố thủ tử chiến, khi tình thế bất lợi thì nhanh chóng rút lui để bảo toàn lực lượng”. Đọc xong thư, Quốc Hiện nói với các tướng:
– Phụ vương cẩn trọng quá. Không quyết liệt chặn giặc ở tuyến đầu thì khi chúng tiến sâu vào đất ta, bấy giờ sẽ khó bề đánh đuổi. Lương Uất nói:
– Quốc công Tiết chế đã có chỉ thị, hẳn nhiên được cân nhắc kỹ lưỡng. Tại hạ cũng nhận được một lệnh của Đại Vương nên quyết không tử thủ Khâu Ôn, chỉ tìm cơ hội quấy nhiễu giặc, ngày giết ba chục tên, đêm diệt năm chục đứa, tuy lẻ tẻ nhưng gộp lại cũng làm chúng tổn thất đáng kể. Vậy ta cứ thực hiện theo kế sách của Tiết chế, vừa bảo tồn được lực lượng lại khiến giặc mất ăn mất ngủ.
Tuấn Thọ là tì tướng của Hưng Đạo Vương, vai vế nhỏ nhoi, nên chẳng dám bàn lui mà lựa lời nhũn nhặn, tránh làm phật ý Hưng Trí Vương:
– Theo tiểu nhân, lựa sức giặc không quá mạnh thì ta sẽ đánh một trận ra trò. Nhưng cũng nên lường trước kế thoái lui, đề phòng lúc nguy cấp.
Chợt thám mã cấp báo:
– Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy một vạn năm ngàn quân, dừng
binh cách Chi Lăng năm dặm.
Quốc Hiện cả cười, bảo với Lương Uất và Tuấn Thọ: – Chúng biết không áp đảo được ta nên lưỡng lự, chưa quyết đánh. Lực lượng hai bên không quá chênh lệch, ta há sợ chúng sao? Vậy ta sẽ dàn quân cản địch ngang hẻm núi, hai người chiếm lĩnh vị trí trên cao, dùng cung nỏ khống chế đường tiến quân của giặc, khi cần thì hỗ trợ quân của ta vượt núi rút lui.
Quan Tổng trấn Lạng Giang Lương Uất và tì tướng Tuấn Thọ đành phụng mệnh thi hành tuy trong lòng mỗi người còn vương vất đôi chút băn khoăn. Theo lệnh chủ tướng, bảy ngàn binh sĩ dàn trận sau hai lớp lũy ải, chừa một khoảng cộng tám thước là của mở để đội hình kị binh xuất kích phản công. Lương Uất và Tuấn Thọ dẫn quân lên lưng chừng núi, bày trận cung nỏ đón đợi giặc thù.
Khi tiến quân đến gần Chi Lăng, A Thâm bàn với chủ tướng: – Theo kinh nghiệm trận Khâu Ôn, thể nào bọn Nam man cũng phục binh trên núi. Ta nên tung thám báo điều nghiên địa hình, bấy giờ sẽ có cách đối phó.
Bột La Hợp Đáp Nhĩ cho là phải, bèn hạ lệnh dừng binh, đồng thời cử hai tốp thám báo bí mật luồn lách vào rừng dò la địch tình và tìm đường hướng tiến quân. Hai canh giờ sau, bọn thám mã lần lượt quay về hồi đáp. Nhóm thứ nhất cung cấp thông tin:
– Quân An Nam chừng một vạn, tập trung phần lớn sau hai ải lũy chắn ngang thung lũng. Một bộ phận nhỏ chiếm lĩnh sườn núi,
mượn lợi thế trên cao nhằm bắn chặn đường tiến binh của ta. Nhóm thứ hai trình báo:
– Địa hình Chi Lăng không quá hiểm trở. Phát hiện được lối mòn vắt qua hai ngọn núi thấp có thể dẫn quân bộ bất ngờ đánh tạt sườn bọn địch.
Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ mừng lắm, cho rằng trận này dễ đánh, bèn sai A Thâm tuyển lựa ba ngàn chiến binh Nữ Chân giỏi sơn chiến âm thầm luồn rừng vượt núi bí mật áp sát trận địa đối phương, hẹn một canh giờ sau khởi sự.
Giữa giờ thân, khi bóng chiều nhạt nhòa trên vùng cao u tịch, bỗng nhức nhối tiếng hò la của đoàn chiến binh Mộng Thát. Quân Nguyên tiến như vũ bão qua ải Chi Lăng, bất chấp phía trước có tường lũy sừng sững chắn lối. Đợi cho giặc vào tầm tên bắn, Hưng Trí Vương phát lệnh xạ kích. Hàng ngàn mũi tên từ trên cao dội xuống, từ mặt đất bay ngang, xé gió phóng thẳng vào đội hình quân địch. Giặc đồng loạt giương mộc đỡ tên, tay khiến tay giáo, hùng hổ lao lên chiếm lũy. Quân của Quốc Hiện ra sức kháng cự, dùng mã tấu đối chọi với giáo dài, quyết liệt cận chiến.
Hưng Trí Vương dẫn đầu đoàn kị binh, vượt qua cửa mở, xông thẳng vào đội ngũ quân Nguyên để cản bước tiến của chúng. Thấy bọn bộ binh bị đánh dạt khỏi chiến lũy, Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy kị binh Mộng Thát ồ ạt vào trận. Hai bên kịch chiến dữ dội trong một khoảng không chật hẹp của lũng núi, xác người ngựa chồng chất lên
nhau, máu thịt đỏ lòm làm ngập ngụa mặt đất. Trong cơn say chém giết lại gặp đối thủ ngang tài ngang sức, Hưng Trí Vương lẫn Bột La Hợp Đáp Nhĩ chẳng hề có ý định lui binh.
Chợt trên sườn núi dội vang tiếng gào thét, ngước nhìn lên thấy quân của Lương Uất và Tuấn Thọ đang kịch chiến với bọn Mông Thái, biết giặc bất ngờ tập kích, khiến thế trận của ta khó bề chống đỡ, Quốc Hiện xuống lệnh rút quân về tuyến sau. Giặc chiếm lũy đầu rồi ào lên đánh lũy kế tiếp.
Lương Uất và Tuấn Thọ chỉ huy đội ngũ sơn cước từ trên cao dùng cung nỏ diệt quân Nguyên, trợ chiến cho binh lực của Quốc Hiện đang quần thảo sinh tử với giặc. Vị thủ lĩnh Lạng Giang chỉ thị binh sĩ “Nhắm thẳng từng đứa, chắc ăn mới bắn. Tránh bắn nhầm quân ta”. Những mũi tên tẩm độc của chiến binh miền núi hóa kiếp vô số kẻ địch đang hăng máu đánh chém. Khi lũ đột kích do A Thâm chỉ huy bất ngờ xuất hiện, Lương Uất và Tuấn Thọ vô cùng kinh hoàng, vội hò quân buông cung nỏ, dùng đao kiếm kháng cự. Bọn người Nữ Chân thiện chiến lại có ưu thế ở trên cao, đánh bật quân ta khỏi trận địa. Bị dồn ép xuống núi, các tướng quyết định lui binh, nhập vào đội ngũ của Quốc Hiện bấy giờ đã rút về tuyến sau.
Thấy tình thế bất ổn, biết khó bề giữ được ải lũy thứ hai, lợi dụng trời nhá nhem, Hưng Trí Vương dẫn quân tháo chạy khỏi Chi Lăng. Bột La Hợp Đáp Nhĩ thừa cơ đuổi đánh, quân ta bị tổn thất thêm nhiều sinh mạng. Trong trận chiến đẫm máu ấy, hơn ba ngàn chiến binh Đại Việt đã bỏ mình vì nước.��
Khi tiến sâu vào nội địa nước ta, vấn đề lương thực trở thành ưu tiên hàng đầu đối với bộ máy chiến tranh Mông Thát. Hàng vạn phu kết hợp với ngựa và thuyền vận chuyển ròng rã cả tháng trời cũng chỉ đưa ra mặt trận được hai phần ba trên tổng số mười lăm vạn thạch. Thông thường các đạo quân đánh tới đâu thì lập kho lương đấy, tùy theo quan nhiều ít mà làm kho lớn nhỏ. Mười ngày một lần nhà kho cấp lương cho các đơn vị, từ đơn vị lớn lại rót xuống đơn vị nhỏ. Hiểu rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo cái ăn cho hơn ba chục vạn khẩu, Thoát Hoan thường xuyên nhắc nhở thuộc hạ canh gác cẩn mật các đoàn xe và kho lương. Để bổ sung thêm lương thực dự trữ, quân Thát tăng cường vơ vét của dân chúng mà không từ bất cứ một cái gì có thể ăn được. Song chủ trương “vườn không nhà trống” của triều đình đã hạn chế tối đa tác hại cướp bóc của giặc.
Mục tiêu của Mông Thát bấy giờ là Nội Bàng. Trấn Nam Vương cùng các tướng lĩnh quyết định chia quân làm sáu mũi bao vây tiêu diệt lực lượng của Trần Hưng Đạo phòng thủ ở đấy. Nếu đánh tan đạo quân của Tiết chế nước Nam, chúng sẽ dồn Đại Việt vào tình thế bất khả kháng mà sớm buông giáo quy hàng, chậm nhất vào giữa tháng giêng năm Ất Dậu. Để chuẩn bị cho cuộc đại công kích, giặc tập kết một vạn rưỡi thạch lương áp sát chiến trường, đảm bảo cái ăn cho ba mươi mấy vạn quân trong mười ngày trước mắt. Ban đầu Thoát Hoan dự kiến mở màn trận đánh vào ngày hai mươi hai tháng chạp, song kế hoạch của y bị đảo lộn hoàn toàn chỉ vì một tai họa xảy ra bất ngờ, mà cho đến tận sau này người ta vẫn không biết đích xác nguyên do từ đâu?
Trước ngày tổng tấn công, Thoát Hoan đang họp bàn với tướng lĩnh trong bản doanh ở Biến Trú, vốn là một làng của người Việt mà dân chúng đã đi lánh nạn hết, thì nghe cấp báo kho lương bị hỏa thiêu. Y nổi cơn thịnh nộ, sai điệu bọn quản kho đến để hạch tội. Ba tên chánh, phó kho vận bị lôi xềnh xệch đến quân doanh, quỳ mọc dưới sảnh mà kể lể đầu đuôi:
– Kho thiết lập ở chỗ quang đãng nên gian tế khó đột nhập, số lương được cất trong mười lều, mỗi lều cách nhau ba trượng để tránh hỏa hoạn. Bọn tiểu nhân cho canh phòng rất nghiêm cẩn, ngày đêm đều có ba đội bảo vệ, ngoài cùng là hai trăm kị mã luân phiên tuần tiễu, lớp giữa có ba trăm quân lập rào chắn kiểm soát bốn hướng, trong cùng là một trăm lính dưới quyền luôn túc trực trước kho. Vậy mà lúc trời sẩm tối tự nhiên cả mười lều bốc cháy dữ dội.
Thoát Hoan hỏi:
– Có cứu được phần nào không?
Chúng thưa:
– Chỉ cứu được chừng hơn ngàn thạch.
Thoát Hoan lại hỏi:
– Có phát hiện được kẻ gian không?
Chúng đáp:
– Không bắt được kẻ nghi vấn nào. Đến con chim bay qua cũng khó lọt nên chắc không phải do người của đối phương đốt. Thoát Hoan tốc tối gầm lên:
– Vì bất cứ lý do gì mà để kho cháy sạch thì các ngươi cũng đáng tội chết. Chiếu theo quan pháp phải xử trảm. Đạo phủ đâu, đem
chúng đi chặt đầu làm gương cho kẻ khác.
Ba đứa trông kho bị lôi ra ngoài hành quyết. Thoát Hoan hỏi thuộc cấp:
– Các cánh quân còn lương ăn mấy ngày?
A Lý Hải Nha nói:
– Lương ăn chỉ còn hai ngày. Ngày mốt là tới hạn cấp phát mới. Thoát Hoan lại hỏi:
– Bọn vận lương bao giờ đến nơi?
Khoan Triệt trả lời:
– Nhanh thì bốn ngày, muộn thì phải năm ngày mới có lương bổ sung.
Thoát Hoan ngẫm nghĩ một lúc rồi ra lệnh:
– Tạm dừng tấn công, chờ xe lương đến sẽ quyết sau. Đốc thúc bọn vận lương nhanh chân lên. Số lượng còn lại ưu tiên trung quân. Bị đói ba ngày thì binh sĩ sẽ bạc nhược mà sinh biến, vậy các tướng hãy tự xoay xở cái ăn cho quân của mình, phải điều người lùng sục vào các bản làng thu gom lương thực, nơi nào có người ở là có cái ăn, nếu chúng không giao nộp thì đốt nhà và giết bỏ dăm đứa ắt sẽ lòi ra chỗ cất giấu.
Lý Hằng đề nghị:
– Nếu Quốc Tuấn biết ta thiếu lương sẽ thừa cơ tiến đánh. Chi bằng đại vương cử người đem thư cho hắn tỏ ý không muốn giết chóc mà chỉ muốn mượn đường sang Chiêm. Bấy giờ Quốc Tuấn sẽ không chút mảy may nghi ngờ tình trạng cạn lương của ta.
Thoát Hoan mừng ra mặt:
– Kế này hay đấy. Sáng mai cho tiến hành gấp.
Ai là người đốt kho lương của quân Thát? Chẳng có bất cứ thông tin nào về chuyện này, duy có lời đồn râm ran trong đám quân Hán tộc nhưng không thể kiểm chứng về một tên lính tuần kho bị trọng thương trong trận Nội Bàng vốn có cha bị quân Thát giết hại, trước khi lìa đời đã trăn trối với thằng bạn cùng quê “Thù trả rồi, chẳng tiếc nuối gì nữa. Khi gặp mẹ tao, bảo với bà rằng tao đã đốt...”. Nói đến đây thì tên lính tắt thở.
Các cánh quân đã kéo về tăng cường phòng thủ Nội Bàng, quân số của Hưng Đạo Vương từ năm vạn tăng lên tám vạn, song phía trước là hơn ba mươi vạn quân Mông Thát hung hăng và sung sức. Vương họp bàn với các tướng lĩnh, ngài cho rằng:
– Cố thủ Nội Bàng là hạ sách, nhưng chưa đánh đã rút cũng không phải thượng sách, bấy giờ sĩ khí quân ta sẽ sút kém, còn giặc lại ỷ thế mà hung tợn hơn. Song nhất quyết không đánh đến chết, phải lấy đoản binh chế trường trận, quấy rối giặc khắp mọi hướng, một cú mổ của chim cắt không thể giết chết mãnh hổ, nhiều cú mổ của bầy chim cắt cũng khiến chúa sơn lâm trầy da tróc thịt, tinh thần hao tổn, sức lực giảm sút.
Thám báo truyền tin về cho biết giặc dừng quân ở Biến Trú mà chưa có động tĩnh gì thêm. Hưng Đạo có vẻ ngạc nhiên, không biết địch đang mưu mô gì đây? Sức giặc như chẻ tre, lực lượng của ta yếu hơn hẳn nên buộc phải rời bỏ các cứ điểm phòng thủ để bảo
toàn lực lượng, thế trận liên hoàn đã vỡ, tại sao giặc không thừa thắng đánh tới mà lại dùng quân đột ngột? Ngài đang suy đoán ý đồ của đối phương thì quân hầu bẩm báo có người bên Nguyên đem thư sang. Hưng Đạo tiếp thu, đọc xong rồi sai đuổi người liên lạc của giặc về mà không thèm phúc đáp. Quốc Nghiễn hỏi:
– Thư viết gì vậy cha?
Hưng Đạo đứa thứ cho con trai, bảo đọc to cho mọi người cùng nghe. Trong thư có đoạn viết “nay quân của ta và vương đã đánh nhau nhiều ngày khiến hai bên cùng thiệt hại. Điều ấy khiến ta không cam lòng nên muốn tìm một cách giải quyết cho êm đẹp để tránh nạn đầu rơi máu chảy, sinh linh đồ thán. Nếu vương đồng ý giãn binh, ta cam kết chỉ tiến quân dọc bờ biển để tới Chiêm Thành, dứt khoát không đem quân đánh chiếm Long thành của bản quốc. Nhằm bày tỏ thiện chí, ta quyết định dùng binh ít ngày đợi phản hồi của vương”.
Các tướng đều tỏ thái độ giận dữ, cho rằng Thoát Hoan bày trò lừa phỉnh để dàn dựng mưu kế gì đó. Việc không trả lời thư là đúng, vừa khiến hắn ngầm hiểu ta không chấp nhận giãn binh, vừa buộc chúng phải đoán mò ý đồ của ta.
Nguyễn Khoái đề nghị:
– Nhân cơ hội quân Thát co cụm nằm chờ, ta nên đánh úp vào trại của giặc.
Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng can ngăn:
– Không nên. Đây chính là mưu mô của Thoát Hoan dụ ta đánh lén, tất chúng đã ém quân mai phục.
Hưng Trí Vương Quốc Hiện lên tiếng:
– Con xin một vạn quân đến Biến Trú khiêu chiến để xem phản ứng của giặc thế nào?
Hưng Đạo không chấp nhận:
– Ngươi đừng nôn nóng lập công để sửa cái lỗi thiệt quân ở Chi Lăng. Cánh quân ở Biến Trú có hơn mười vạn, người khiêu khích được sao?
Phạm Ngũ Lão nêu ý kiến:
– Thưa nhạc phụ, theo con ta cũng tạm thời án binh bất động, tranh thủ sửa sang hào lũy và chỉnh trang vũ khí.
Hưng Đạo nói:
– Đúng vậy. Không nên mắc mưu giặc mà tổ chức đánh lén. Ta cũng có thêm thời gian đợi quân của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dự từ Vân Đồn kéo về.
Thám báo của ta hoạt động chủ yếu tại tiền phương của địch nên không nắm được thông tin về trận hỏa hoạn thiêu cháy phần lớn kho lương của chúng. Hưng Đạo Vương đã bỏ lỡ một thời điểm quý giá có thể làm tiêu hao đáng kể sinh lực địch khi nhân cơ hội phản công đạo quân đang thiếu đói.
Lại nói về Trần Khánh Dư. Từ lúc chiến tranh bùng nổ, ông chưa đánh trận nào nên trong lòng bứt rứt lắm. Nhận trách nhiệm trấn thủ Vân Đồn, Khánh Dư hiểu rõ tầm quan trọng của cửa ngõ đông bắc án ngữ đường biển thông thương với thế giới bên ngoài, song đội
thuyền chiến Mông Thát đã không qua địa bàn của ngài để thâm nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
Tiếp thư của Hưng Đạo, Khánh Dư rất phấn chấn, bèn cắt cử phó tướng Lâm Tuệ chỉ huy một ngàn rưỡi quân bảo vệ Vân Đồn, còn ông dẫn hơn năm ngàn quân kéo về Nội Bàng tiếp ứng.
Tiết chế ra ngoài quân doanh đón Khánh Dư, hai vương chỉ kịp chào hỏi xã giao vài câu chiếu lệ rồi vội vã kéo vào đại sảnh họp bàn quân cơ.��
Hưng Đạo nói:
– Nhân Huệ ở xa về chưa nắm được tình hình, ta sơ lược qua để vương rõ, thám báo vừa truyền tin, quân Nguyên chia làm sáu đội hình dự kiến công phá Nội Bàng sớm mai. Binh lực của chúng gấp bốn lần ta, sức giặc rất mạnh nên không thể khinh suất, tránh dàn trận đối đầu quyết tử mà chỉ cần quấy nhiễu tiền quân, thọc sườn trung quân, chặt đuôi hậu quân của địch, nếu tình thế bất lợi là rút liền, khi cấp thiết ta chấp nhận bỏ Nội Bàng đem quân về Vạn Kiếp.
Chí khí đang hăng, Khánh Dư có ý kiến khác:
– Sức giặc mạnh thì ta chớ chia quân đội đầu cả sáu đội hình tấn công, Tiết chế Đại vương nên tập trung quân tiêu diệt vài mũi tiến quân của địch, như vậy sẽ hiệu quả hơn.
Hưng Đạo đáp:
– Ta cũng từng nghĩ đến phương án này, song dù có tập trung quân đánh vào vài đội hình của giặc thì quân của chúng vẫn đông hơn ta, chưa kể các cánh quân Mông Thát khác được rảnh tay sẽ luồn sâu tập hậu, gặp tình cảnh trên đe dưới búa, quân ta tất thảm bại.
Bấy giờ Khánh Dư mới thông suốt chủ ý của Hưng Đạo, bèn hỏi:
– Vậy Tiết chế định cắt cử Dư mỗ nghênh chiến với bọn nào? Hưng Đạo trình bày:
– Ở hướng đông bắc, Minh Hiến Vương Uất chặn bọn Sát Tháp Nhi Đài, Hưng Nhượng Vương Tảng đối phó với bọn Lý Hằng. Ở hướng bắc, Nhân Huệ hãy nhận lãnh trách nhiệm đón đầu bọn Khoan Triệt, ta cùng với Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão chặn bọn Thoát Hoan. Ở hướng tây bắc Hưng Vũ Vương Nghiễn tiếp chiến bọn A Lý Hải Nha, Hưng Trí Vương Hiện đối đầu với bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Vương chỉ có nửa ngày để điều quân áp sát trận địa, ta tăng cường thêm cho bốn ngàn quân của vệ tả Thiên Chương do Phó tướng Đặng Trứ và Tả bộc Lưu Văn Các chỉ huy, hy vọng ngài bảo trọng.
Không một chén rượu tiễn, họ nắm chặt tay nhau như truyền thêm ý chiến đấu cho người đồng đội vong niên. Trên đường trở về đội ngũ, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thật sự tin rằng oán cừu năm xưa giữa hai nhà đã hoàn toàn xóa sạch.
Rạng ngày hai mươi sáu tháng chạp, một dãy núi rừng đông bắc rung chuyển bởi gót sắt Nguyên Mông. Chiến tuyến hình móng ngựa dài hơn bảy mươi dặm vang dội tiếng hò la của đủ loại ngôn ngữ thuộc nhiều dân tộc trên thế giới. Kị binh mở đường, bộ binh tiếp bước, sáu mũi nhọn tiến công cùng hướng đến Nội Bàng hòng bóp
chết chủ lực của Đại Việt và bắt sống bộ sậu của Hưng Đạo Vương trong ngày một ngày hai.
Đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài tiến vào trận địa của Minh Hiến Vương Uất mà không gặp súc kháng cự nào. Viên chiến tướng Mông Cổ dẫn đầu đội kị binh ồ ạt dốc thẳng đến Nội Bàng. Khi bọn cưỡi ngựa quá tầm mắt, Trần Uất phát lệnh tấn công, quân ta từ các sườn đồi dùng cung nỏ xạ kích vào giữa đội hình bộ binh của chúng. Quân Nguyên tổ chức phản công lên đồi, Uất tung kị binh đánh chặn, hất lũ giặc xuống chân đồi. Thấy quân hiệu từ trên cao phất cờ báo động, biết Sát Tháp Nhi Đài đem kị binh quay về giải cứu đồng bọn, Minh Hiến cho rút quân. Kị binh ta mất hút sau cánh rừng rậm rì, còn quân ở trên cao cũng vượt đồi tránh đòn phản công của giặc. Sát Tháp Nhi Đài hận lắm, nửa ngày trời không tiến được năm dặm, y quyết định tung ba ngàn kị binh càn quét xung quanh nhằm loại trừ nguy cơ bị tập kích bất ngờ.
Cánh quân tiên phong của Lý Hằng do Lý Bang Hiến đầu lĩnh đụng độ với vài trăm quân của Trần Quốc Tảng trên khúc sông Lục Nam cách Bãi Tân chừng mười dặm. Quân bộ của Tảng tháo chạy xuống bờ sông được mấy chục chiếc thuyền đợi sẵn chở ra giữa dòng. Tảng và hơn chục kị sĩ quất ngựa phi dọc bờ sông về hướng hạ lưu. Hiến xua quân đuổi theo, hí hửng phen này tóm sống con trai của Trần Hưng Đạo.��
Đuổi đến bãi lau sậy ngút ngàn, vì hăng máu lập công nên bọn kị binh Mông Cổ lao thẳng vào ổ phục kích của quân ta. Gần hai ngàn chiến binh cung nỏ xuất kỳ bất ý trỗi lên từ cây cỏ đồng loạt triệt hạ đám kiêu binh Thát Đát. Ba trăm kị binh Đại Việt cùng ngựa bật dậy
theo chủ tướng Hưng Nhượng Vương truy sát địch. Lý Bang Hiến bị tên bắn xuyên chỏm mũ, vội dẫn quân quay đầu tháo chạy. Bấy giờ đoàn thuyền đã cập bờ nhả quân, các chiến binh dùng câu liêm giật vó ngựa giặc khiến chúng tổn thất nặng nề. Chợt nghe tiếng rầm rập từ xa vọng lại, đoán bọn Lý Hằng kéo đến tiếp ứng, Trần Quốc Tảng cho lui binh.
Lý Hằng không dám tung quân đuổi theo, còn trách Lý Bang Hiến chủ quan khinh địch, y nói:
– An Nam lắm sông ngòi, chớ có lai vãng gần sông, kẻo nguy khốn với chúng.
Y cho quân rời xa dòng Lục Nam, nhằm hướng đồi núi mà tiến. Lý Hằng không thể ngờ cách đầy mười mấy dặm có hàng trăm chiến thuyền của Đại Việt đậu san sát ven bờ đợi chuyển quân khi tình thế bất lợi.
Trên hướng do Trần Khánh Dư chốt chặn, hơn tám ngàn quân của ta phải đương đầu với ba vạn quân của Khoan Triệt. Nắm rõ chủ trương của Quốc Tuấn, Nhân Huệ Vương không tung quân tác chiến trực diện mà ra đòn tập kích vào hậu quân của giặc. Dẫn năm trăm kị binh chặn đường khiêu chiến địch, vương cưỡi ngựa ô, khoác chiến bào tía, tay cầm long đao đứng trước hàng quân, dõng dạc quát hỏi:
– Ta là Phiêu kị tướng quân Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, muốn biết kẻ cầm đầu đám lính nửa người nửa ngợm kia là ai, mau mau xưng tên kẻo bị giết chết cũng vô danh như bọn tiểu tốt.
Khoan Triệt phi ngựa tới, dừng lại cách Khánh Dư nửa tầm tên, đáp trả:
– Chiến tướng Khoan Triệt lừng danh Mông Cổ là ta. Bầy ruồi
nhặng chớ có vo ve, kẻo chết không kịp ngáp.
Khánh Dư khích bác:
– Nhìn tướng mạo của ngươi còm nhom, nghe nói võ nghệ cũng tầm thường, chắc không dám đơn đả độc đấu mà thích dùng chiêu ở đông hiếp yếu, lấy thịt đè người để che mắt thiên hạ. Khoan Triệt lông lên, phi ngựa xông tới:
– Thằng An Nam hỗn xược, hãy nếm thử ngọn kích của ta. Khánh Dư xách đao thúc ngựa lao vào tiếp chiêu. Hai người quần thảo được mười mấy hiệp, đao kích đụng độ tóe lửa mà xem ra khó phân thắng bại. Chợt nghe thấy tiếng hò reo vọng tới, đoán hậu quân bị đối phương tập kích, Khoan Triệt phóng ra xa, kìm ngựa rồi nói:
– Ngươi đang bày trận nghi binh. Ta tạm ngưng cuộc đấu ở đây. Khánh Dư cười vang, kiêu hãnh đáp:
– Ha, ha, ha... Rừng nào cọp nấy, ngươi hãy nhớ kỹ điều này. Đoàn kị binh Mông Cổ quay đầu trợ chiến tuyến sau. Khánh Dư cũng dẫn quân băng rừng tiếp ứng cho các đơn vị đang quấy rối hậu quân địch.
Cánh trung tâm của Thoát Hoan có tới mười vạn quân. Cậy binh đông tướng mạnh, lũ Nguyên Mông tràn vào Nội Bàng như một trận cuồng phong hung bạo. Quân của Hưng Đạo chưa đầy ba vạn, không thể đương đầu với địch, Vương quyết định rút khỏi cứ địa, chia quân làm ba cánh nhằm chỗ yếu của địch mà công kích. Phạm Ngũ Lão dẫn quân cắt ngang đội hình giặc, sau một trận giáp chiến tơi bời liền cho quân rút nhanh vào rừng. Nguyễn Khoái dùng binh
tập kích hậu quân địch, thiêu rụi mười mấy xe lương, giết vài trăm tên quân vụ rồi lại mất hút sau dãy núi mù sương.
Trần Hưng Đạo cho gia tướng Tuấn Thọ và Nguyễn Hòa dẫn kị binh ra khiêu khích, Thoát Hoan sai Mãng Cổ Thái đem quân nghênh chiến. Hai bên loạn đả dữ dội. Quân Đại Việt yếu thế phải tháo chạy, Mãng Cổ Thái hò quân truy sát. Đuổi đến một khe suối hẹp, đội kị binh của Tuấn Thọ và Nguyễn Hòa vượt khe vọt thẳng vào rừng. Quân kị Mông Thát ào ào thúc ngựa tràn qua. Thời cơ đến, hàng trăm chiến binh của Nguyễn Địa Lô từ sau các gốc cây giương nỏ diệt bọn kị mã đang loay hoay vượt suối. Mãng Cổ Thái vội vã thu binh, bỏ lại hơn năm chục xác lính kị thiện chiến.
A Lý Hải Nha dẫn năm vạn tinh binh từ hướng tây bắc tiến vào trận địa phòng thủ của Hưng Vũ Vương Nghiễn chỉ với quân số hơn một vạn người. Lực lượng của ta quá chênh lệnh so với địch, buộc Quốc Nghiễn phải dựng chiến lũy để cản bước quân thù. Những lũy đất đá được dựng chi chít trên đường tiến quân của chúng, đằng sau mỗi mô đất là hàng trăm cung thủ ẩn mì chờ địch. A Lý Hải Nha dùng bộ binh công lũy và tung kị binh đánh bọc sườn trận địa của ta. Hàng vạn quân Thát ào lên tấn công bị cung nỏ của ta bắn chặn, chúng dùng khiên mộc đỡ tên lại bị quân ta bắn bùi nhùi lửa, buộc giặc phải tháo lui. Bọn kị binh men theo sườn núi tập kích liền bị quân mai phục trên núi lăn đá cản đường. Song sức thù quá mạnh, chúng lần lượt chiếm từng chiến lũy, quân ta không cận chiến mà rút lui về chiến lũy sau. Cho đến chiều ngày hai mươi sáu, bọn A Lý Hải Nha vẫn còn phải đánh dẹp năm lũy phía trước mới có thể tiến vào Nội Bàng ở cách đây chỉ mười hai dặm. Trời mùa đông tối sớm, hai bên
đành ngưng chiến, giữ vững vị trí và chuẩn bị cho trận đánh ngày mai.
Sáng hai mươi bảy tháng chạp, giặc Nguyên ào ạt tấn công đánh chiếm mấy ải lũy cuối. Song đối phương đã bỏ ngỏ trận địa, họ rút đi trong đêm mà chúng không hay biết. A Lý Hải Nha tiến vào Nội Bàng như một cuộc dạo chơi. Thoát Hoan đã chiếm Nội Bàng từ đêm qua, bọn Khoan Triệt, Lý Hằng và Sát Tháp Nhi Đài cũng đã ở đấy. Viên Bình chương có phần hổ thẹn, nhưng vẫn cố bào chữa cho sự chậm trễ của mình:
– Bẩm đại vương, cánh quân của tại hạ đánh một trận dữ dội với bọn An Nam. Chúng cố thủ trong các chiến lũy chống trả quyết liệt, buộc tại hạ phải ra đòn sấm sét diệt sạch tám ngàn địch quân, trong khi ta chỉ mất hơn bảy trăm binh sĩ.
Thoát Hoan nói:
– Khá khen cho Bình chương, tổn thất chua bằng một phần mười đối phương là lập đại công rồi đó.
A Lý Hải Nha có vẻ đắc chí, chẳng những không bị chê trách còn nhận được lời khen ngợi của chủ soái. Khoan Triệt nói nhỏ với Lý Hằng “Hải Nha phô trương quá đáng. Quân An Nam đâu dễ ngồi yên để cho y ra tay tàn sát”.
Sau khi rút về Vạn Kiếp, Hưng Vũ Vương cho kiểm đếm quân số. Thuộc hạ báo cáo “Quân ta thương vong bốn trăm ba mươi người”. Hưng Trí Vương Hiện đem quân chặn đường bọn Bột La Hợp
Đáp Nhĩ cách Nội Bàng tám mươi dặm. Rút kinh nghiệm trận thất thủ Chi Lăng, Hiện tung các toán du binh vài ba trăm người, bất ngờ đột kích vào đội hình giặc, không nhất thiết tiêu diệt địch, chủ yếu quấy rối làm cản bước chúng tiến về đích. Hết toán này đến toàn khác, xuất hiện bất kỳ, bắn vài trăm mũi tên, giật ngã vài chục vó ngựa rồi lại rút nhanh vào rừng núi. Đoàn quân của Bột La Hợp Đáp Nhĩ bị xoay như chong chóng, hết đỡ chỗ này lại và chỗ kia, thành thử sang ngày hai mươi chín tháng chạp chúng mới đến được Nội Bàng. Bấy giờ cứ địa chẳng còn một mống quân Nguyên, đại binh của Thoát Hoan đã tiến đánh Vạn Kiếp từ ngày hôm trước.��
Lại nói khi Thoát Hoan kéo vào Nội Bàng, thu được một đồn trại trống rỗng. Y cho quân sục sạo khắp nơi bắt được một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi. Bị tra khảo, người này xưng tên là Đoàn Thai, chức tước nhỏ nhoi, tuổi cao sức yếu, do ốm nặng nên không thể rút chạy cùng mọi người. Thoát Hoan mừng lắm, bèn sai đóng cũi áp giải sang Nguyên như một bằng chứng về chiến thắng lẫy lùng đập tan sào huyệt của đầu lĩnh quân đội An Nam là Trần Quốc Tuấn. Hắn không quên viết biểu gửi triều đình làm cứ liệu cho quốc sử Đại Nguyên ghi nhận công trạng. Lúc bị giải đi, Đoàn Thai cười lớn, mà rằng “Bủa lưới trùng trùng chỉ bắt được một con cá nhỏ ốm tong teo mà đã coi là đại công. Nước Việt lắm kình ngư, bắt không nổi có ngày còn bị bục lưới”.
Từ trên núi cao quan sát tình hình chiến địa, nhận thấy việc giằng co
với địch ở Nội Bàng không đem lại hiệu quả thiết thực, Hưng Đạo Vương quyết định di tản toàn bộ lực lượng về Vạn Kiếp. Quân hiệu tỏa đi các hướng, thông báo cho các tướng lĩnh ngoài mặt trận khẩn trương hành quân trong đêm, tránh kinh động giặc.
Tại cánh quân trung tâm, gần ba vạn quân của Quốc Tuấn chia làm hai ngả rút lui. Số đông vượt núi băng rừng nhằm hướng tây nam mà đi, hơn vạn quân rút theo đường thủy bằng hàng trăm chiến thuyền từ Bãi Tân xuôi dòng Lục Nam.
Ban đầu Vương dự định đi đường bộ, Dã Tượng bèn can gián: – Theo đường núi phải mất ba ngày, theo đường thủy chưa đầy một ngày là Đại Vương đã đến Vạn Kiếp. Đi đường bộ thì giặc có thể dùng ngựa truy kích, đi đường thủy thì giặc không có thuyền để đuổi theo.
Hưng Đạo nói:
– Ta sợ rằng ra đến Bãi Tân thuyền đã rút hết, bấy giờ biết tính sao?
Dã Tượng đáp:
– Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương tất chưa rời thuyền đi chỗ khác.
Hưng Đạo hào hứng nói:
– Vậy còn chần chừ gì nữa. Ta đi thôi.
Vương và gần chục gia binh phóng ngựa đến Bãi Tân. Quả nhiên thuyền của Yết Kiêu vẫn đậu tại bến nước trống trải chờ đợi chủ soái của mình. Vương hỏi:
– Binh thuyền của ta đi lâu chưa?
Yết Kiêu đáp:
– Chiếc cuối cùng rời bến một canh giờ trước.
Vương lại hỏi:
– Có chở hết quân không?
Yết Kiêu đáp:
– Không bỏ sót một người nào.
Khi thuyền của Yết Kiêu ra đến giữa dòng thì một toán kị binh Mông Thát ập tới. Chúng đứng trên bờ bắn dăm chục mũi tên, tất cả đều rơi tõm xuống nước. Đám gia binh trên thuyền cười ầm lên, bảo rằng “Giặc bắn tên tiễn biệt Đại Vương đấy”.
Phần lớn quân đã hội về Vạn Kiếp, duy Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện chưa thấy trình diện, Hưng Đạo cử thám báo đi dò la tình hình. Ngày hôm sau, trinh sát cấp báo “Cánh quân của Hưng Trí vẫn bảo toàn lực lượng, do quấy phá liên tục đội hình của Bột La Hợp Đáp Nhĩ nên việc rút quân bị chậm trễ, hiện đang trên đường trở về”, vương mỉm cười hài lòng với kết quả cầm chân giặc của đội quân do người con trai út chỉ huy.
Lúc bấy giờ, ngoài lực lượng quân sự, Vạn Kiếp không còn dân thường. Người dân chôn giấu tài sản, vận chuyển lương thực vào rừng sâu ẩn náu, gia quyến của các vương hầu chạy lên núi, trốn trong các hang động cách xa đường tiến quân của giặc. Thiên Thành và các thị nữ sống tại mấy căn chòi lá ở một địa điểm bí mật trên núi Chí Linh, Hưng Đạo Vương gửi thư cho bà, trong thư có đoạn viết “mấy cha con vẫn bình yên vô sự. Thế giặc đang mạnh, chúng sẽ đánh Vạn Kiếp trong nay mai. Phu nhân hãy an lòng mà ở tại chỗ, chớ có quay về vì bất cứ lý do gì. Không lâu đâu, giặc sẽ tan, bấy giờ
tôi sẽ vào tận núi đón bà tái hồi thái ấp..”. Phu nhân đọc xong thư của chồng, mỉm cười lẩm bẩm “Ta cũng vui lây vì tinh thần lạc quan của vương đấy”.
Ba ngày liên tiếp, quân từ các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn nườm nượp đổ về Vạn Kiếp. Trong lực lượng bổ sung có nhiều tân binh mới nhập ngũ. Người dân không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, khắp một vùng đông bắc, từ làng trên xóm dưới những đinh điền có thể cầm vũ khí đều lên đường tòng chinh. Hưng Đạo cả mừng, trong tay ngài đã có non hai mươi vạn binh sĩ. Vương chia quân đóng giữ từ Vạn Kiếp đến Phả Lại tạo thế giớc tương hỗ lẫn nhau.
Thám báo truyền tin về, bọn Ô Mã Nhi đã kéo vào cửa Thái Bình ngược lên Lục Đầu Giang. Trên đường hành binh, suốt một dải ven biển từ miền trung ra bắc, chúng tịch thu thuyền bè và quẳng ngư dân xuống nước, bất kể là phụ nữ hay trẻ con. Từ tám chục chiến thuyền, hiện đội thủy quân của Ô Mã Nhi có hơn ba trăm chiếc.
Hưng Đạo Vương nghe tin mà giận sôi người, ngài bảo với tả hữu “Tên này quá tàn ác. Nếu gặp hắn dứt khoát phải đòi nợ máu, quyết không tha”. Ngay trong đêm, vương triệu tập hội nghị quân sự, bàn kế đối phó với giặc.
Hưng Đạo thông báo tình hình với các tướng lĩnh:
– Binh lực của Thoát Hoan đã tập trung quanh Vạn Kiếp tới ba mươi vạn và hơn hai vạn kị binh, chúng còn được tăng cường gần hai vạn quân của Ô Mã Nhi cùng với ba trăm chiến thuyền. Giặc đang rất sung sức, nếu quyết chiến với chúng sẽ bất lợi cho ta, vậy các tướng có chủ ý gì hãy trình bày để cùng bàn bạc.
Trần Khánh Dư lên tiếng:
– Thuyền chiến tại Vạn Kiếp có hai trăm bảy chục chiếc, như vậy thủy binh ta không thua sút giặc là mấy. Dư mỗ quen sông nước, có thể đảm trách phòng thủ tuyến đường sông từ Phả Lại đến Vạn Kiếp, đề nghị Tiết chế Đại vương chuẩn thuận.
Hưng Đạo hỏi:
– Nếu chiến cuộc bất lợi, Nhân Huệ đã tính đường rút chưa? Khánh Dư đáp:
– Nếu đánh không lại chúng, mỗ sẽ đưa đội thuyền ngược dòng Lục Nam lên thượng nguồn ẩn náu chờ thời cơ.
Hưng Đạo cười vang, mà rằng:
– Cách tính của Nhân Huệ hợp với chủ ý của ta. Vậy ngài có lực lượng thuyền chiến và hơn một vạn bộ binh tương hỗ thủy bộ, ngoài ra ta bổ sung cho ngài năm mươi thủy binh Kình Ngư của Yết Kiêu, họ sẽ giúp ngài triệt hạ thuyền chiến của giặc mà không tốn quá nhiều binh lực.
Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn đề nghị:
– Xin phụ vương cho con đem quân trấn giữ Lưu Thôn, nơi này địa hình hiểm trở có thể bố trận mai phục đánh địch từ xa. Hưng Đạo chấp thuận, ngài nói:
– Ta tăng cường cho con hai ngàn gia binh thiện chiến do Tuấn Thọ, Nguyễn Hòa chỉ huy. Quốc Hiện lập phòng tuyến cách Lưu Thôn hai mươi dặm, hỗ trợ cho Quốc Nghiễn rút quân an toàn. Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão chặn địch ở hướng tây bắc, Quốc Tảng lập phòng tuyến phía sau, lúc cần giải nguy cho phía trước.
Minh Hiến Vương Uất cản giặc ở hướng bắc, phía sau có ta trợ chiến. Các cánh quân phải lưu ý không đánh lớn để hạn chế thương vong. Cầm cự trong vài ngày rồi rút quân theo hướng đông bắc đến vùng núi Đông Triều.
Minh Hiến Vương Uất hỏi:
– Tại sao ta không rút quân về phía nam để bảo vệ các vùng chưa bị giặc chiếm mà lại kéo quân lên ngược?
Hưng Đạo giải thích:
– Sức giặc đang mạnh, ta rút về phía nam thì chúng lại đuổi đánh dài dài. Giấu quân lên ngược là ở sau lưng đại quân của chúng. Đây là điều giặc không ngờ tới nên ta có thể bảo toàn lực lượng. Nhược bằng chúng có phát hiện ra cũng không thể rời bỏ mục tiêu chiếm kinh đô Đại Việt để quay ngược về vị trí xuất phát mà truy đuổi quân ta trên vùng núi cao. Bấy giờ từ hậu phương của giặc ta sẽ thừa cơ đánh úp, đánh lén khiến chúng thất điên bát đảo. Khi giặc bỏ vùng đông bắc để kéo về xuôi là lúc ta xuất quân thu hồi Vạn Kiếp.
Các tướng lĩnh vô cùng thán phục sách lược chống giặc của Đại Vương, Nguyễn Khoái nói với Phạm Ngũ Lão “Làm tướng dưới quyền Đại Vương quả là hạnh ngộ lớn lao của chúng ta. Nhưng huynh vẫn may mắn hơn tôi vì được làm con rể của ngài”. Ngũ Lão tuy không nói gì mà trong lòng vẫn đầy ứ cảm xúc hãnh diện.
Ngay trong đêm, Hưng Đạo Vương viết thư cấp báo cho Trần Quang Khải, thư viết “Chưa phải lúc đánh lớn để giành lại lãnh thổ. Để né đòn giặc, tôi sẽ đưa đại quân lên ngược. Huynh bàn bạc với Quan gia chủ động kéo giặc về xuôi, bấy giờ tôi lại đem quân về thu
hồi đông bắc, chờ thời cơ chín muồi sẽ tổng phản công quét sạch giặc thù ra khỏi bờ cõi”.
Ngày mồng sáu tháng giêng năm Ất Dậu (1285), quân Nguyên khởi binh đánh Vạn Kiếp. Ô Mã Nhi dùng kị binh tiến đánh Phả Lại và cho đoàn thuyền chiến công phá đội hình thủy quân của ta. Ở trên bộ, Trần Khánh Dư chia quân làm hai cánh; một cánh do Phó tướng Đặng Trứ chỉ huy dựa vào núi dùng cung tên và đá tảng cản bước giặc; một cánh do Tả bộc Lưu Văn Các đầu lĩnh ẩn nấp sau những bãi lau sậy và cây rừng ven sông, đợi thuyền giặc qua thì dùng nổ diệt thủy quân. Sông không rộng, thuyền giặc đi hàng bốn, hàng năm nên những chiếc chạy ven bờ đều bị tổn thất binh lực. Ở dưới nước, Khánh Dư cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến, thuyền giặc đuổi diệt, thuyền ta tấp vào bãi, thuyền giặc lớn hơn nên bị sa lầy chỗ nước cạn. Phiêu kị tướng quân dẫn đầu đoàn chiến binh nhảy sang thuyền giặc giáp chiến với chúng. Quân của ông giết sạch bọn lính thủy và đốt cháy ba chiến thuyền của Mông Thát.��
Đến chiều tối, giặc chiếm được Phả Lại, quân của Lưu Văn Các và Đặng Trứ rút vào núi đợi lệnh chủ tướng. Chiến trường dưới sông chưa ngã ngũ, giặc và ta vẫn ở thế giằng co. Nửa đêm, Yết Kiêu dẫn đội Kình Ngư xuất trận. Trời tối như hũ nút, mưa rơi nhòe mặt sông, giá rét căm căm khiến bọn giặc chủ quan, chểnh mảng phòng bị. Các chiến binh mình đồng da sắt, bất chấp cái lạnh của nước, nhẹ ngàng tuồn xuống sông, ngậm ống thở tiếp cận thuyền giặc. Để tăng hiệu
quả diệt thuyền, Yết Kiêu chia đội làm năm toán, mỗi toán mười người, nhằm thuyền lớn mà diệt. Bọn giặc bị đánh thức bởi những tiếng động mạnh từ đáy thuyền dội lên, chúng còn đang lơ mơ chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nước đã tràn vào khoang, chốc lát cả năm chiến thuyền chìm lỉm đem theo hàng trăm lính giặc xuống chậu hà bá. Toàn đội của Yết Kiêu trở về bình an.
Bị mất thuyền thiệt quân, Ô Mã Nhi lồng lộn tức tối, quyết ăn miếng trả miếng tức thời. Cuối canh tư, y dẫn hai ngàn tinh binh bất ngờ càn quét dọc bờ sông, phát hiện ba thuyền nhỏ của ta náu trong đám lau sậy. Giặc ào xuống đánh chiếm, các chiến binh Kình Ngư không kịp chèo thuyền ra giữa dòng, buộc phải nhảy xuống nước thoát thân. Mười hai chiến sĩ bị giết, ba người bị bắt sống.
Lôi tù binh về đến trại, bấy giờ trời đã sáng rõ, thấy trên cánh tay mỗi người đều thích chữ “Sát Thát”, Ô Mã Nhi điên tiết, không cần tra hỏi, cho trói ba chiến binh vào cọc tre trên bờ Lục Nam rồi sai lính lấy dao lọc thịt cánh tay của họ để chảy máu đến chết. Không một lời rên rỉ, những tráng sĩ Đại Việt vô danh mắt mở lớn như muốn thu trọn hồn sông nước khi bước vào cõi bất tử, khiến bọn lính Mộng Thát rùng mình kinh sợ.
Yết Kiêu và những người thoát chết trở về trình diện Nhân Huệ Vương. Phán đoán tình thế chiến trường, Khánh Dư quyết định cho rút quân tức khắc. Bộ binh và kị binh vượt rừng lên núi Chí Linh, đoàn chiến thuyền ngược dòng Lục Nam lên thượng nguồn. Kể từ đấy, Yết Kiêu, người gia nô trung tín của Hưng Đạo Vương, bôn ba đánh giặc cùng đội ngũ của Phiêu kị tướng quân, cho đến giữa tháng ba, ông mới có dịp trở về dưới trướng chủ cũ.
Tại mặt trận Lưu Thôn, Quốc Nghiễn cho quân mai phục trên sườn núi và cánh rừng rậm rạp, lại sai Tuấn Thọ – Nguyễn Hòa dẫn quân ra khiêu chiến cốt như giặc vào cạm bẫy. Vạn hộ Nghê Nhuận dẫn quân tiên phong đuổi đánh hai tiểu tướng của ta. Quân ta vờ thua chạy, Tuấn Thọ dẫn một nửa quân chạy vào núi, Nguyễn Hòa dẫn số quân còn lại chạy vào rừng. Nghê Nhuận cũng chia quân làm hai hướng truy kích. Y dẫn quân đuổi đánh Tuấn Thọ, phó tướng Thiên hộ Quách Khái bám theo Nguyễn Hòa.
Chạy đến rừng thì lũy trúc mở ra, đoàn quân lao vào bên trong, Nguyễn Hòa đi sau rốt, chờ cho các huynh đệ qua hết bấy giờ ông sẽ phóng ngựa vào. Một mũi tên của giặc đâm xuyên lưng người chiến tướng trung dũng khiến ông ngã nhào xuống đất. Thấy Nguyễn Hòa lâm nguy, Hưng Vũ Vương dẫn quân xông ra giải cứu. Ta và địch cận chiến dữ dội, Quốc Nghiễn tay cầm trường kiếm lăn xả vào đám loạn quân, quyết giành giật bằng được viên tiểu tướng bị trọng nặng. Khi Nguyễn Hòa được đồng đội cứu thoát thì quân ta cũng rút hết vào lũy trúc. Những bó trúc to lấp kín cổng, giặc không thể đột phá. Suốt một cánh rừng ken dày tre trúc nên quân Thát không dám liều mình lách qua. Từ bên trong, sào tre vát đầu và tên nhọn bắn ra như mưa, khiến giặc thương vong vô số.
Bọn Thát tháo chạy ra xa, Quách Khái sai lính đánh đá mồi lửa đốt rừng trúc. Đoán biết được ý đồ của giặc, Quốc Nghiễn cho rút quân vào sâu trong rừng. Khi rừng trúc cháy trơ gốc, quân Nguyên xông vào nhưng chẳng tìm thấy một cái xác.
Nghê Nhuận dẫn quân đuổi theo Tuấn Thọ. Viên tiểu tướng cùng các chiến hữu phóng vào khe núi, bọn Thát bám riết phía sau ở
một cự li không đầy mười trượng. Bất ngờ từ sườn núi, hàng loạt mũi tên bay ra hạ gục toán kị binh đi đầu, bọn giặc kìm ngựa định tháo lui thì bị đá tảng lăn xuống cản đường. Tuấn Thọ và đồng đội quay đầu phản công, hai bên giáp trận nảy lửa. Nghê Nhuận mở đường máu thoát ra ngoài, bị Tuấn Thọ rượt theo đâm mũi giáo xuyên bụng, chết tốt.��
Trên hướng bắc và tây bắc, bọn Thoát Hoan, A Lý Hải Nha và Lý Hằng tiến quân thuận lợi. Quân ta chủ động lui binh trước thế giặc mạnh như thác lũ. Hưng Đạo Vương tổ chức rút quân theo cách cuốn chiếu, đội hình sau hỗ trợ cho đội hình trước rút đi, cứ thế lần lượt rời khỏi các vị trí của họ, bỏ ngỏ trận địa trống không cho giặc.
Khi đã chiếm được Vạn Kiếp và Phả Lại, Thoát Hoan triệu tập tướng soái bàn kế hoạch tiến quân. Ý truy vấn thuộc cấp: – Các ngươi quân đông tướng mạnh, sao để bọn Quốc Tuấn chạy thoát, nay biết chúng ở đâu mà đuổi đánh?
Lý Hằng nói:
– Địch lợi dụng đêm tối để rút quân, hiện chưa xác định được hướng đi của chúng.
Thoát Hoan gắt ầm lên:
– Chúng rút đến chục vạn quân, chẳng lẽ không để lại dấu vết? Khoan Triệt nói:
– Quốc Tuấn kéo quân lên núi, nhưng núi ở đây trùng điệp nên khó bể phán đoán. Theo tại hạ, bọn họ vượt núi về phía nam để bảo vệ các vùng đất còn lại.
A Lý Hải Nha nói:
– Thám báo truyền tin cho biết, thế tử An Nam tập trung hàng chục vạn quân ở một khúc sông gọi là Bình Than, có lẽ Quốc Tuấn kéo về đấy hội quân với chúa của y để hợp lực chống đại quân thiên triều.
Thoát Hoan hỏi:
– Từ đây đến Bình Than cách bao xa?
A Lý Hải Nha đáp:
– Theo đường bộ mất hai ngày hành binh. Theo đường thủy chỉ khoảng tám mươi dặm.
Thoát Hoan hỏi chư tướng:
– Ai muốn lãnh quân thủy bộ đi tiên phong công phá Bình Than? Mã Nhi từ hàng cuối bước ra giữa sảnh, nói lớn:
– Thuộc tướng xin dẫn binh thuyền diệt Bình Than, bắt sống chúa An Nam dâng lên đại vương.
Thoát Hoan mừng rỡ nói:
– Vậy Ô Mã Nhi chỉ huy đội thuyền, cử Nạp Hải làm phó tướng dẫn hai vạn quân hợp lực công phá. Hai người khẩn cấp tiến quân, nếu bắt được cha con thế tử Trần gia thì coi như lập đại công đó.
Hai viên tướng phụng mệnh lui ra ngoài thi hành công vụ. Thoát Hoan truyền lệnh cho các tướng soái:
– Bọn thế tử bị thua trận tất bỏ thuyền lên ngựa chạy về xuôi, A Lý Hải Nha kéo quân chốt chặn các ngả đường diệt tàn quân của địch, bắt cho được quốc vương của chúng. Khoan Triệt đốc quân trợ chiến Ô Mã Nhi và Nạp Hải, kết hợp việc lùng sục tận thu nguồn lương thực, thực phẩm. Phải vét cho sạch, không mang đi được thì
tiêu hủy. Lý Hằng dẫn quân chiếm các vùng đông nam, phòng đối phương tháo chạy ra biển. Đích đến là Long thành, ta sẽ hội quân ở đấy.
Lại nói về Thượng hoàng và Quan gia. Sau khi hội quân với Chiêu Minh Vương và các vương hầu khác ở Nam Sách, lực lượng của hai vua bấy giờ có tới mười vạn binh cùng với hàng trăm thuyền chiến. Vua tôi bàn tỉnh đem quân tới Bình Than đón đầu giặc.
Ngày hôm sau, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải nhận được thư của Hưng Đạo Vương, ngài bàn với nhị hoàng:
– Tiết chế đề nghị ta chủ động dụ giặc về xuôi, kéo chúng tới các đầm bãi, rừng gò dọc sông Nhị Hà, không tổ chức đánh lớn, chỉ dùng lực lượng nhỏ quấy phá, chọc sườn, tập hậu địch quân. Giặc tất dồn binh lực đuổi theo nhị hoàng, Hưng Đạo sẽ rảnh tay triệt phá hậu phương của địch.
Thượng hoàng Thánh Tông hỏi:
– So sánh lực lượng thế nào?
Thái sư đáp:
– Thủy bộ ta có mười vạn. Chưa chắc giặc đã dốc binh đánh Bình Than, có thể chúng chỉ dùng một bộ phận vừa đủ công phá trận địa của ta, lực lượng còn lại chúng sẽ phân chia tiến đánh các ngả, mở rộng địa bàn chiếm đóng tới tận Thăng Long, chặn đường ta rút về xuôi.
Vua Nhân Tông hỏi:
– Chiêu Minh đã vạch sẵn kế sách rút quân chưa, ta sẽ đi đường nào, về đâu?
Thái sư trình bày:
– Theo thần thấy, thủy quân Mông Thát yếu hơn hẳn bọn kị binh và bộ binh. Nhị hoàng rút quân bằng đường thủy an toàn hơn. Ta sẽ từ Lục Đầu vào Đông Ngàn' rồi qua Nhị Hà. Tại đây, thần đã huy động người đóng cọc gỗ dọc bờ sông, thủy bộ của ta tập kết ở Đông Bộ Đầu, kìm chân giặc trước cửa ngõ Thăng Long.
Nhận định của Thái sư Trần Quang Khải về ý đồ của giặc quả không sai. Nhưng “nước cờ” rút bằng đường thủy của Chiêu Minh Vương cao tay hơn kế sách chặn đường vây bắt của Thoát Hoan. Lực lượng của ta vẫn bảo toàn, các vua Trần bình an, chiến trường chính dịch chuyển khỏi vùng đông bắc.
Bọn Ô Mã Nhi và Nạp Hải khởi chiến từ ngày mồng chín tháng giêng rồi đuổi theo đội thuyền của ta tới Nhị Hà thì không dám tiến thêm. Phía trước là Đông Bộ Đầu, dưới bến có gần ngàn chiến thuyền, trên bờ có hơn chục vạn quân Đại Việt, ba vạn quân Thát đành bó tay đợi viện binh.
Nhân Tông bàn với các quan tướng:
– Giặc đã dừng binh, như vậy là chúng đang đợi quân tăng viện. Trẫm muốn cử người sang trại giặc giả dạng cầu hòa để dò la địch tình, ai vì trẫm đi một chuyến?
Văn thần võ tướng nín thinh, chẳng ai to gan liệu mạng chui đầu vào hang cọp. Một viên quan nhỏ giữ chức Chi hậu cục thủ là Đỗ Khắc Chung xin lãnh trọng trách:
Chương 3
Bãi Đà Mạc thất thế, Trần Bình Trọng sa cơ
Miền Hoan Ái nguy nan, Chiêu Minh Vương tăng viện
Mã Nhi trực tứ tuần, miệng dơi tai chuột, tính khí hung tợn, thô lỗ và tàn nhẫn, tuy tướng mạo tầm thước nhưng có sức khỏe vô song; mười sáu tuổi đã tham gia trận mạc, từ một tên sĩ tốt thăng tiến lên chức Vạn hộ, đủ thấy y đã cống hiến cho Đại Hãn biết bao nhiêu máu thịt của những người bị giết hại trên các nẻo đường chinh chiến. Trong cuộc rượt đuổi vua Trần, đoàn quân của Mã Nhi bị nhiều phen mất ăn quên ngủ vì sự quấy phá của đối phương, quân số thiệt hại không nhiều nhưng cũng khiến viên chiến tướng Ả Rập vài phần kiêng sợ. Lúc kéo vào Nhị Hà, thấy lực lượng An Nam quá hùng hậu, Ô Mã Nhi chột dạ, không dám chủ động tiến công. Y dựng trại tại bờ bắc sông Hồng rồi cử người cấp báo cho Thoát Hoan về động tĩnh của quân Trần.
Lính hầu báo tin có sứ giả đối phương sang thương thuyết, Ô Mã Nhi hỏi Nạp Hải nên ứng xử ra sao? Viên phó tướng cho rằng: – Bọn An Nam cử người qua cốt dò xét tình hình quân ta. Theo ý tại hạ, ta tương kế tựu kế cứ mặc nhiên phô trương lực lượng khiến chúng không dám động thủ. Vài ba ngày nữa đại binh kéo đến, bấy giờ chúng muốn tiến đánh thì đã muộn.
Mã Nhi hài lòng với cách ấy bèn cho quân dựng đại kỳ trên bãi sông, ra vẻ tình cờ để sứ giả Đại Việt chứng kiến binh thuyền hùng
hậu của Mông Thát. Đỗ Khắc Chung với chào tướng giặc, đúng đỉnh theo chân hắn dạo quanh các trại thủy bộ rồi điềm nhiên nói: – Cờ to gặp gió mạnh dễ rách toạc, chi bằng cuốn lại đem về. Mã Nhi bắt bẻ:
– Ý ngươi muốn tụi ta rút quân? Vậy vua nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cán bánh xe liệu sẽ ra sao?
Khắc Chung đáp:
– Các người không theo phương cách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người.
Mã Nhi dọa dẫm:
– Đại quân mượn đường đánh Chiêm Thành, vua ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát.
Khắc Chung đáp:
– Nẻo trần có muôn lối, có lối lên trời, có lối xuống địa ngục. Muốn qua Chiêm chớ đi nẻo này kẻo chui xuống vực sâu, lúc ấy cất mình lên cũng không nổi.
Nói rồi, Khắc Chung ra về. Ô Mã Nhi bảo với các tướng “Người này ứng biến giỏi, không làm nhục mệnh vua, không làm hổ phận tôi. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được”. Y sai người đuổi theo sứ giả của ta nhưng không bắt kịp.
Đỗ Khắc Chung trở về bẩm báo tình hình địch quân. Vua tôi trù trừ chưa quyết đánh lớn. Trần Quang Khải sai Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh dẫn một đội thuyền nhỏ đến trước trại giặc khiêu chiến thăm dò. Ô Mã Nhi án binh bất động. Hai bên bắn tên qua lại nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho đối phương.
Ngày mười bốn tháng giêng, đại quân của Thoát Hoan rầm rộ kéo đến bờ bắc sông Hồng. A Lý Hải Nha cướp thuyền của dân để làm cầu phao trên sông. Khi chúng đổ sang bờ nam thì quân ta đã rút hết. Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đem quân vào Thăng Long. Cả một tòa thành rộng lớn mà không một bóng người, phố xá hoang phế, cung thất trống trải, khí sắc âm u lạnh lẽo khiến quân tướng Nguyên Mông thấy ớn xương sống. Chẳng có ai chào đón, chẳng có thứ gì để cướp bóc, cũng chẳng kiếm được một đấu gạo hẩm, một con gà què. Ngay buổi chiều hôm ấy, Thoát Hoan họp quân cơ trên sân Thiên An.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Sao đại vương không cho họp trong điện mà họp ngoài sân? Thoát Hoan nói:
– Ở bên trong âm khí nặng lắm, sàn gạch thì nhớp nháp, cột vách thì chảy nước, mùi ẩm mốc rất khó chịu.
Lý Bang Hiến ra vẻ hiểu biết:
– Bẩm đại vương, đấy là do thời tiết, bọn An Nam gọi là trời nồm, không khí ẩm ướt nên vật dụng đều như bị nhúng nước. Thoát Hoan đáp:
– Thôi thôi ta không cần biết đấy là gì. Chỉ thấy rùng mình khó
chịu khi bước vào cung vàng điện ngọc của chúng. Mà làm gì có vàng ngọc, muốn kiếm một con lợn để nướng thịt còn chả có. Họp mau mau rồi ra ngoài thành dựng lều đốt lửa cho ấm áp, ở trong này lâu khéo sinh bệnh mà chết.
Lý Hằng rỉ tai Khoan Triệt “Dạo này đại vương hay nói gở. Chinh chiến xứ người khi gặp thời tiết khác thường cũng là chuyện thường tình”. Khoan Triệt bình phẩm “Chủ soái đầu quen nhơ nhớp, cứ nghĩ chiếm được kinh đô nước người thì tha hồ mà thụ hương thơm tho êm ấm. Bọn Nam man xảo quyệt thật, chẳng bỏ lại một thứ gì ăn được, dùng được trong tòa thành mốc meo”.
Phần vì kinh hãi không dám ở trong cái thành lạnh lẽo hoang vắng, phần nữa lại sợ quân ta kéo đến bao vây, Thoát Hoan rút binh ra khỏi thành. Đại quân Mông Thát quay sang bờ bắc sông Hồng dựng trại, riêng Sát Tháp Nhi Đài đóng tại mé tây Thăng Long để phòng ngừa đối phương tập kích. Kịp lúc bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ đến hội quân.
Sau mấy ngày nghỉ dưỡng và tung thám báo dò la tin tức của vua Trần, Thoát Hoan vẫn chưa quyết nên tiến quân về hướng nào. Trinh sát chạy xuôi sông Hồng mấy chục dặm mà không thấy một chiếc thuyền hoặc một toán lính của đối phương. Mù mờ về thông tin nên chẳng biết địch quân ở đâu mà tiến đánh, điều trăn trở ấy khiến Trấn Nam Vương đau đầu mệt óc. Làm chủ soái năm mươi vạn binh mã mà động một tí phải hỏi han thuộc cấp có khác nào tự nhận mình là kẻ mù tịt về quân sự, lòng đang rối bời thì nghe báo quân Vân Nam của Bình chương chính sự Nạp Tốc Lạt Đinh vừa nhập trại, y liền cho gọi vào quân doanh để hỏi han tình hình. Nạp Tốc Lạt Đinh được
dịp khoe công:
– Quân của bản tướng đánh tan tác gần chục vạn quân của tướng Đông A là Trần Nhật Duật, hắn phải kéo tàn quân rút chạy về vùng núi tây nam. Như vậy là một vùng lãnh thổ phía tây của An Nam đã được dẹp yên.
A Lý Hải Nha hỏi móc:
– Bình chương Lạt Đinh sao không thừa thắng xông lên bắt sống cho rồi đầu lĩnh của chúng mà lại để hắn chạy thoát? Nạp Tốc Lạt Đinh đáp trả:
– Chúng có chân để chạy, có ngựa để cưỡi, đâu dễ ngồi yên một chỗ cho ta bắt. Vậy từ hồi tham chiến, Bình Chương Hải Nha đã bắt được một viên tướng Trần nào chưa?
A Lý Hải Nha nín khe. Thoát Hoan lên tiếng dàn hòa, không quên cài thêm gợi ý:
– Các ngươi chớ có đôi co, tất cả đã hội về đây tức là ta đang ở thế thắng. Điều cần bàn bây giờ là hướng tiến quân sắp tới chứ không phải việc phân định công lao.
Lý Hằng đề nghị:
– Bọn thế tử dứt khoát chạy về phương nam. Theo bản tướng, ta nên cất quân thủy bộ tràn xuống đánh dẹp một lần cho xong. Thoát Hoan hỏi vô tư:
– Ý các tướng khác ra sao?
Bột La Hợp Đáp Nhĩ nói:
– Nên tiến đánh phương nam, tập trung quân công phá Thiên Trường là vùng đất phát tích dòng dõi Đông A. Thể nào chúa Nam
man cũng ẩn náu ở đấy.
A Lý Hải Nha nói:
– Theo suy đoán của bản tướng, thời điểm này có lẽ Toa Đô đã dẫn quân từ Chiêm Thành đánh lên, nay ta dốc binh đánh xuống thì thế tử An Nam có khác nào cá nằm trên thớt.
Thoát Hoan thấy nhẹ người, bèn chỉ thị:
– Ta cũng suy tính như vậy. Nay lệnh cho Lý Hằng và Ô Mã Nhi thống lĩnh thủy quân xuôi sông Hồng mà đánh. Lệnh cho Khoan Triệt, Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Mãng Cổ Thái dẫn mười vạn quân tiến xuống phía nam. Giao cho Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh chỉ huy một vạn quân thiết lập binh trạm từ biên giới đến phía sau đại quân, cách ba mươi dặm đặt một trạm có ba trăm quân đồn trú, cách sáu mươi dặm đặt một trạm ngựa có một trăm chiến mã túc trực, bảo đảm thông suốt như một huyết mạch cung cấp lương thảo, vũ khí và chiến mã cho toàn quân. Các tướng khác sẽ theo ta dẫn đại quân tiếp ứng cho Lý Hằng và Khoan Triệt, hẹn hội binh ở Thiên Trường.
Quả như phán đoán của địch, hai vua cùng Thái sư Trần Quang Khải rút quân về phía nam, đích đến là phủ Thiên Trường, quê cha đất tổ của các vị. Song chúng chỉ đoán đúng ở những ngày sau, vì trước đấy quân ta rút sang phía đông, ngược hướng Lý Hằng vừa kéo đến.
Nguyên do ban đầu các vua cho binh thuyền theo ngả sông Thiên Đức đến sông Thái Bình để ra biển, nhưng gặp đoạn sông hẹp, nước cạn, không qua được. Trần Quang Khải đề nghị quay lại
"""