" Sơn Ca Vẫn Hót - Kristin Hannah full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sơn Ca Vẫn Hót - Kristin Hannah full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo SƠN CA VẪN HÓT Tác giả: Kristin Hannah Dịch giả: Đinh Thanh Vân, Hoàng Anh Nhà xuất bản Phụ nữ - 2016 —★— ebook©vctvegroup Tặng Matthew Shear. Người bạn. Người dẫn dắt. Nhà vô địch. Nhớ ông nhiều! Và tặng Kaylee Nova Hannah, ngôi sao mới nhất của chúng ta: Chào mừng cô gái bé bỏng! 1 Ngày 9 tháng Tư năm 1995 Duyên hải Oregon Trong cuộc đời khá dài của mình, nếu có một điều tôi học được, thì đó là: trong tình yêu chúng ta nhận ra con người mà ta muốn trở thành, còn trong chiến tranh, chúng ta nhận ra mình là ai. Thế hệ trẻ ngày nay muốn biết tất cả mọi chuyện về người khác. Họ cho rằng việc nói ra một vấn đề sẽ giúp giải quyết nó. Còn tôi thuộc một thế hệ trầm lặng hơn. Chúng tôi hiểu giá trị của việc quên đi, cũng như sức cám dỗ của việc sáng tạo lại. Dẫu vậy, dạo gần đây, tôi hay nghĩ về cuộc chiến tranh và quá khứ của mình, về những người tôi đã để mất. Để mất. Nói thế thì giống như tôi đã làm thất lạc những người thân yêu của mình, như thể tôi đã bỏ họ lại một nơi không phải của họ, rồi quay gót ra đi, bối rối đến nỗi không thể lần ngược trở lại. Họ không bị thất lạc. Họ cũng không ở một nơi tốt hơn. Họ đã ra đi. Khi đã gần đất xa trời, tôi mới hiểu rằng, cũng giống như niềm tiếc nuối, sự đau buồn đã định vị sẵn trong ADN của mỗi người chúng ta, và sẽ mãi mãi là một phần của chúng ta. Tôi đã già hẳn đi chỉ vài tháng sau khi chồng tôi qua đời và bệnh tình của tôi được chẩn đoán. Da tôi nhăn nheo như tờ giấy sáp mà người ta cố vuốt phẳng sau khi dùng đi dùng lại. Mắt tôi thường xuyên phản chủ - trong bóng tối, khi đèn pha xe hơi bật sáng, hay lúc trời mưa. Sự yếu kém lạ lẫm của thị lực thật khó chịu. Có lẽ đó cũng là một nguyên nhân khiến tôi quay nhìn lại phía sau. Quá khứ có một sự rõ ràng mà ở hiện tại, tôi không còn có được nữa. Tôi muốn hình dung mình sẽ được bình yên sau khi ra đi, gập lại tất cả những người mình từng yêu thương và để mất. Ít nhất tôi sẽ được tha thứ. Nhưng tôi đâu có ngốc nghếch, đúng không nhỉ? +++++ Ngôi nhà của tôi, do ông trùm ngành gỗ xây dựng nên từ hơn trăm năm trước và đặt tên là Ngọn Cây, đã được rao bán, còn tôi thì chuẩn bị dọn đi, vì con trai tôi cho rằng mẹ nó nên làm thế. Thằng bé đang cố chăm sóc tôi, cho tôi thấy nó yêu tôi nhiều đến thế nào trong khoảng thời gian cực kỳ khó khăn này, thế nên tôi đành nhượng bộ thái độ kiểm soát của nó. Việc tôi chết ở đâu thì có gì mà phải bận tâm kia chứ? Nhưng thật ra đó mới là vấn để. Việc tôi sống ở đâu đã không còn quan trọng nữa. Tôi đang gói ghém cuộc sống tại miền duyên hải Oregon, nơi tôi đã định cư gần năm mươi năm về trước. Những hành trang mà tôi muốn mang theo cũng chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng có một thứ. Tôi với sợi dây kéo, mở cầu thang dẫn lên gác mái. Cầu thang từ trên trần vươn xuống như một quý ông chìa tay ra. Lần theo những bậc thang mỏng mảnh rung rinh dưới chân, tôi trèo lên tầng áp mái sực mùi ẩm mốc. Một bóng đèn tròn độc nhất treo lủng lẳng trên trần. Tôi kéo sợi dây công tắc. Tầng áp mái giống như khoang của một con tàu hơi nước cũ kỹ với các vách tường được ốp những tấm ván rộng, mạng nhện giăng đầy các kẽ nứt và buông xuống từng mớ từ các khe ván. Mái nhà dốc đến nỗi tôi chỉ có thể đứng thẳng ở trung tâm căn phòng. Tôi trông thấy cái ghế bập bênh bằng gỗ từng được sử dụng hồi mấy đứa cháu còn bé, một cái cũi cũ xì, một chiếc ghế ngựa gỗ nom thật thảm hại gắn trên những cái lò xo gỉ nhoèn, và chiếc ghế mà con gái tôi đang làm dở dang thì ngã bệnh. Những chiếc hộp được chất dọc theo tường, đề những cái tên như “Giáng sinh”, “Lễ Tạ ơn”, “Lễ Phục sinh”, “Halloween”, “Bát đĩa”, “Thể thao”. Trong các hộp này là những thứ tôi không dùng thường xuyên nữa nhưng lại không đành lòng bỏ đi. Với tôi, việc chấp nhận không trang trí cây thông Giáng sinh cũng đồng nghĩa với buông xuôi đầu hàng, mà tôi thì chưa bao giờ làm việc đó. Nằm trong một góc chính là thứ mà tôi đang tìm: một chiếc rương kiểu cổ, được dán kín các tem nhãn hành lý sau những chuyến đi. Tôi gắng sức lôi chiếc rương nặng nề ra giữa gác mái, ngay bên dưới bóng đèn, rồi quỳ xuống bên cạnh nó, nhưng cơn đau như xé ở đầu gối khiến tôi phải ngồi bệt hẳn xuống. Lần đầu tiên sau ba mươi năm, tôi mở nắp chiếc rương. Ngăn trên cùng đựng toàn những món đồ trẻ con. Những chiếc giày nhỏ xíu, bàn tay bằng sứ, những bức vẽ bằng chì màu với các nhân vật ốm tong teo như cái que, còn mặt trời thì cười toe toét, phiếu liên lạc với nhà trường, những tấm ảnh chụp trong lớp học múa. Tôi nhấc cái ngăn lên và đặt nó sang bên cạnh. Những món đồ kỷ niệm nằm lộn xộn dưới đáy rương: vài quyển nhật ký bìa bọc da đã bạc màu, một xấp bưu thiếp cũ buộc dây ruy băng lụa màu xanh, một chiếc hộp bằng bìa cứng móp méo nằm trong một góc, vài tập thơ mỏng đề tên tác giả Julien Rossignol, và một hộp giày đựng hàng trăm tấm ảnh đen trắng. Trên cùng là một mảnh giấy đã ố vàng. Tay tôi run rẩy khi cầm nó lên. Một cái thẻ căn cước từ thời chiến tranh. Tôi nhìn tấm ảnh thẻ của một phụ nữ trẻ tuổi. Juliette Gervaise. - Mẹ ơi? Tôi nghe thấy tiếng con trai mình vang lên từ những bậc cầu thang ọp ẹp. Những tiếng chân bước hòa nhịp với tiếng con tim tôi đang đập. Thằng bé có gọi tôi trước đó không nhỉ? - Mẹ? Mẹ không nên lên trên này. Khỉ thật. Mấy cái bậc thang lung lay hết rồi. - Thằng bé đến đứng cạnh tôi. - Chỉ một cú ngã là... Tôi nắm lấy ống quần con trai, lắc đầu nhè nhẹ. Tôi không đủ sức ngước lên. “Đừng” là tất cả những gì tôi có thể nói ra. Thằng bé quỳ gối, rồi ngồi xuống. Tôi có thể ngửi thấy mùi nước thơm sau cạo râu của nó, tinh tế và hơi nồng, hòa quyện với một chút mùi khói thuốc lá. Nó đã đốt một điếu ở bên ngoài, thói quen mà nó đã bỏ từ hàng chục năm trước nhưng rồi quay trở lại sau khi bệnh tình của tôi được chẩn đoán. Tôi không việc gì phải nói ra sự không hài lòng của mình: con trai tôi là bác sĩ. Nó thừa biết không nên hút thuốc mà. Nếu theo bản năng thì tôi đã nhét cái thẻ vào trong rương và đóng ngay nắp lại, che giấu nó một lần nữa. Cả đời tôi đã làm như thế. Nhưng giờ thì tôi sắp chết đến nơi rồi. Không quá nhanh chóng, có lẽ thế, nhưng cũng không quá chậm. Và tôi cảm thấy buộc phải nhìn lại cuộc đời mình. - Mẹ ơi, mẹ đang khóc kìa. - Thế à? Tôi muốn cho thằng bé biết sự thật, nhưng tôi không thể. Sự yếu đuối khiến tôi lúng túng và xấu hổ. Ở vào cái tuổi này, lẽ ra tôi chẳng còn sợ bất cứ chuyện gì... nhất là quá khứ của mình. Tôi chỉ đáp gọn lỏn: - Mẹ muốn đem theo cái rương này. - Nó to quá. Con sẽ sắp xếp các thứ mẹ cần vào một cái thùng bé hơn. Tôi mỉm cười trước nỗ lực kiểm soát tình hình của thằng bé. - Mẹ yêu con, và bệnh tình mẹ đã nặng trở lại. Vì những lý do đó, mẹ đã luôn chiều ý con. Nhưng mẹ chưa chết. Mẹ muốn đem theo cái rương này. - Nhưng mẹ cần cái gì trong đó mới được? Toàn là những tranh tượng của bọn con và các thứ linh tinh khác thôi mà! Nếu tôi kể sự thật cho con trai mình nghe từ trước đây rất lâu, hoặc nhảy nhót, đánh chén và hát hò nhiều hơn, có lẽ thằng bé đã nhìn thấy con người đích thực của tôi, chứ không phải một người mẹ có thể dựa dẫm được như những người mẹ khác. Nó yêu cái phiên bản không hoàn chỉnh của tôi. Tôi đã luôn cho rằng đó là điều mình muốn: được yêu thương và ngưỡng mộ. Giờ đây tôi nghĩ có lẽ mình muốn được thấu hiểu nhiều hơn. - Hãy coi như đây là ước nguyện cuối cùng của mẹ. Tôi có thể thấy thằng bé chỉ chực bảo tôi đừng nói như thế, nhưng nó sợ sẽ nghẹn ngào. Nó hắng giọng. - Mẹ đã vượt qua bệnh tật hai lần rồi. Lần này mẹ sẽ lại vượt qua thôi. Chúng tôi đều biết đó không phải là sự thật. Sức khỏe của tôi không ổn định và đang yếu dần. Tôi không thể ngủ hoặc ăn mà thiếu thuốc men. - Tất nhiên là mẹ sẽ vượt qua. - Con chỉ muốn bảo vệ mẹ. Tôi mỉm cười. Dân Mỹ nhiều khi ngây thơ như thế đấy. Tôi đã từng lạc quan giống như con trai mình. Tôi từng nghĩ thế giới thật yên bình. Nhưng đó là hồi lâu lắm rồi. - Juliette Gervaise là ai vậy mẹ? Câu hỏi của Julien vang lên. Tôi hơi choáng váng khi nghe thấy nó phát âm cái tên đó. Tôi nhắm mắt, và trong thứ bóng tối đượm mùi mốc meo của dĩ vãng, tâm trí tôi lần ngược về quá khứ, vượt qua nhiều năm tháng và băng qua bên kia đại dương. Tôi bắt đầu hồi tưởng lại, trái với mong muốn của tôi - hay là đúng với nó nhỉ, ai mà biết được. 2 Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. 3 Vianne có biết chút ít về chiến tranh. Không hẳn là tiếng bom rơi đạn nổ hay cảnh máu chảy đầu rơi, mà là hậu quả của nó. Mặc dù được sinh ra trong thời bình, những ký ức đầu đời của chị đều gắn với chiến tranh. Chị còn nhớ đã chứng kiến mẹ mình khóc lóc khi từ biệt chồng. Chị còn nhớ mình luôn đói và lạnh. Nhưng chủ yếu chị nhớ cha đã thay đổi như thế nào khi ưở về, ông đi tập tễnh, thở dài sườn sượt và im lặng. Đó là lúc ông bắt đầu uống rượu, chỉ quan tâm đến bản thân và không chú ý đến gia đình. Sau đó, chị nhớ những lần cha mẹ đóng sập cửa, những trận cãi vã nổ ra để rồi chấm dứt trong sự im lặng khó chịu và hai người ngủ ở hai phòng riêng biệt. Người cha lên đường ra mặt trận và người cha quay trở về là hai người khác hẳn nhau. Vianne đã cố gắng để được yêu thương; và cố gắng để tiếp tục yêu thương cha mình, nhưng cuối cùng; cả hai điều đó đều không thực hiện được. Suốt nhiều năm sau khi được cha gửi về Carriveau, Vianne đã sống một cuộc sống tự lập. Chị gửi thiếp mừng Giáng sinh và Sinh nhật cho ông, nhưng chẳng bao giờ nhận được gì. Hai cha con hiếm khi nói chuyện với nhau. Còn gì để mà nói nữa? Không giống với Isabelle, đứa có vẻ như không thể từ bỏ được, Vianne hiểu và chấp nhận rằng khi mẹ qua đời, gia đình chị đã tan vỡ theo cách không thể hàn gắn. Đơn giản cha chị là một người đàn ông không muốn làm cha của hai đứa con mình. - Anh biết em sợ chiến tranh như thế nào. - Antoine nói. - Phòng tuyến Maginot sẽ cầm cự được. - Vianne nói, cố tỏ ra thuyết phục. - Đến Giáng sinh anh sẽ về thôi. Phòng tuyến Maginot là hàng dặm bê tông, vật cản và vũ khí được dựng lên dọc theo biên giới Đức sau Thế chiến I để bảo vệ nước Pháp. Quân Đức không thể xuyên thủng nó được. Antoine ôm vợ vào lòng. Mùi hoa nhài thật ngây ngất. Đột nhiên Vianne nhận ra rằng kể từ nay, bất cứ khi nào ngửi thấy mùi hoa nhài, chị sẽ nhớ đến cuộc chia ly hôm nay, chắc chắn là như vậy. - Em yêu anh, Antoine Mauriac, và em mong anh sẽ quay về nhà với em. Sau đó, chị không nhớ hai người đã trở vào trong nhà, leo lên cầu thang, nằm xuống giường, và cởi quần áo cho nhau. Chị chỉ nhớ mình khỏa thân trong vòng tay anh, nằm dưới anh trong khi anh làm tình với chị theo một cách anh chưa từng làm trước đây, với những nụ hôn cuồng loạn, sục sạo, và đôi tay tựa như muốn xé toạc chị ra dù đang ôm ấp chị. - Em mạnh mẽ hơn là em tưởng đấy, V. - Antoine lên tiếng sau đó, lúc họ nằm im lặng trong vòng tay nhau. - Không phải vậy đâu. - Chị thì thầm, khẽ đến mức anh không nghe thấy. +++++ Sáng hôm sau, Vianne chỉ muốn giữ Antoine ở trên giường cả ngày, chị còn định thuyết phục anh rằng cả nhà nên gói ghém đồ đạc và lén lút trốn đi trong đêm. Nhưng họ sẽ đi đâu? Chiến tranh đang treo lơ lửng trên toàn cõi châu Âu. Chị đã làm xong bữa sáng và đang rửa bát thì một cơn đau đầu như búa bổ ập đến. - Nhìn mẹ có vẻ buồn. - Sophie lên tiếng. - Sao mẹ lại buồn được trong một ngày hè đẹp như thế này, khi chúng ta chuẩn bị đi thăm những người bạn thân thiết? - Vianne nhoẻn miệng cười, hơi quá tươi tắn. Chỉ đến khi Vianne ra khỏi cửa và đứng dưới một gốc táo ở sân trước, chị mới nhận ra mình đang đi đất. - Mẹ ơi! - Sophie sốt ruột gọi. - Mẹ đến đây. - Chị đáp, rồi theo chân Sophie băng qua cái sân trước, chuồng chim bồ câu cũ (giờ là nơi cất dụng cụ làm vườn) và nhà kho trống. Sophie mở cổng chạy sang cái sân được chăm sóc kỹ lưỡng của nhà hàng xóm, hướng về phía một căn nhà nhỏ xây bằng đá với cửa màu xanh dương. Sophie gõ cửa một tiếng, rồi khi không nghe thấy ai trả lời, con bé bước vào nhà. - Sophie! - Vianne gọi giật giọng, nhưng cô con gái bỏ ngoài tai. Sự khách khí là không cần thiết khi đến chơi nhà bạn thân, vì suốt mười lăm năm qua Rachel de Champlain vẫn là người bạn tốt nhất của Vianne. Hai người gặp nhau chỉ một tháng sau khi cha chị bỏ hai đứa con gái ở lại Le Jardin. Kể từ đó hai người trở thành một cặp đôi khăng khít: Vianne gầy gò, xanh xao và hay lo lắng, còn Rachel cao như bọn con trai, với hàng lông mày rậm rì và giọng nói oang oang như lệnh vỡ. Cả hai cô gái đều là những đứa không thể hòa nhập, cho đến khi họ gặp nhau. Hai cô bé trở nên không thể tách rời ở trường học và làm bạn với nhau trong suốt những năm qua. Họ cùng đi học đại học và trở thành giáo viên, cùng mang bầu một lượt. Giờ đây họ dạy ở hai lớp cạnh nhau tại ngôi trường làng. Rachel xuất hiện trên ngưỡng cửa, tay bế cậu con trai mới sinh, Ariel. Hai người phụ nữ trao đổi với nhau bằng ánh mắt. Trong ánh mắt đó là tất cả những gì họ đang cảm nhận và sợ hãi. Vianne theo cô bạn thân vào trong một căn phòng nhỏ, sáng sủa và vô cùng ngăn nắp. Một bình hoa dại tô điểm cho chiếc bàn gỗ thô mộc bên cạnh bộ ghế cọc cạch. Trong một góc phòng khách là chiếc va li bằng da, bên trên có đặt chiếc mũ phớt màu nâu yêu thích của Marc, chồng Rachel. Chủ nhà đi vào bếp lấy chiếc đĩa gốm đựng đầy bánh canelé, sau đó hai người bước ra bên ngoài. Trong cái sân nhỏ sau nhà, hoa hồng mọc men theo hàng rào cây thủy lạp. Một cái bàn và bốn chiếc ghế nằm cập kênh trên khoảng sân lát đá. Những chiếc đèn cổ treo lủng lẳng trên cành một cây dẻ. Vianne cầm một chiếc bánh lên cắn thử, thưởng thức lớp nhân kem đậm đà mùi vani bên trong phần vỏ bánh giòn và hơi xém cạnh. Chị ngồi xuống. Rachel ngồi đối diện với Vianne, đứa trẻ trên tay vẫn ngủ ngon lành. Sự yên lặng dường như đã lây từ người nọ sang người kia, khiến trong lòng họ cùng dâng lên một nỗi lo âu khắc khoải. - Mình tự hỏi liệu thằng bé có được biết mặt bố nó hay không. - Rachel lên tiếng, mắt nhìn xuống cậu con trai. - Rồi họ sẽ bị thay đổi. - Vianne trầm ngâm đáp. Cha của chị từng tham gia trận Somme, trong đó hơn bảy trăm ngàn người đã bỏ mạng. Những lời đồn đại về tính hung bạo của quân Đức đã theo những người ít ỏi còn sống sót bay về quê nhà. Rachel chuyển sang đỡ đứa bé trên vai và nhẹ nhàng vỗ lưng cho nó. - Marc không giỏi thay tã. Ari thì lại thích ngủ trên giường bọn mình. Bây giờ thì chuyện đó sắp được thu xếp ổn thỏa. Vianne nhoẻn cười. Câu đùa của Rachel chẳng có gì to tát, nhưng cũng giúp chị cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút. - Tiếng ngáy của Antoine chẳng khác nào người ta cưa gỗ. Mình sắp được ngủ ngon rồi. - Và chúng ta có thể làm món trứng chần cho bữa tối. - Bớt được một nửa lượng quần áo phải giặt. - Vianne tiếp lời, nhưng rồi giọng chị lạc đi. - Mình không giỏi chuyện này đâu, Rachel - Có chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua nó. - Trước khi mình gặp Antoine... Rachel xua tay. - Mình biết rồi. Cậu gầy như que củi, lắp ba lắp bắp mỗi khi lo lắng và dị ứng với mọi thứ. Mình biết hết. Mình có mặt ở đó mà. Nhưng giờ chuyện đó đã qua rồi. Cậu sẽ mạnh mẽ. Cậu có biết tại sao không? - Tại sao? Nụ cười của Rachel biến mất. - Mình biết mình là đứa có da có thịt. Như tượng tạc, theo lời mấy mụ bán áo ngực và bít tất dài khi họ muốn bán được hàng cho mình. Nhưng mình cảm thấy... hoang mang vì chuyện này, V. à. Sẽ có lúc mình phải dựa vào cậu đấy. Tất nhiên là không phải với toàn bộ trọng lượng này, tất nhiên rồi. - Như vậy chúng ta không được gục ngã cùng một lúc. - Chính xác. - Rachel nói. - Kế hoạch là thế nhé. Giờ thì chúng ta có nên mở một chai cognac không nhỉ? Hay là gin? - Mới có mười giờ sáng thôi đấy. - Cậu nói chí phải. Một ly French 75 vậy. +++++ Sáng ngày thứ Ba, khi Vianne thức giấc, ánh nắng đã tràn qua cửa sổ, lấp lánh rọi sáng những thanh xà trên trần. Antoine đang ngồi bên cửa sổ, trên chiếc ghế đong đưa bằng gỗ óc chó mà anh đã làm hồi Vianne mang bầu đứa thứ hai. Chiếc ghế trống đã chế giễu họ suốt nhiều năm qua. Trong những năm chị sẩy thai liên tiếp, Vianne nghĩ lại. Đúng là cây khô mọc giữa đất màu: ba sinh linh mất đi trong bốn năm trời. Những mạch đập yếu dần, những bàn tay tím tái. Thế rồi, một phép màu xảy ra: một đứa bé đã sống sót. Sophie. Ẩn trong những thớ gỗ của chiếc ghế kia là những bóng ma nhỏ đáng thương, nhưng cũng có những kỷ niệm đẹp đẽ. - Có lẽ em nên đưa Sophie lên Paris. - Antoine đứng dậy. - Ông ngoại sẽ trông nom hai mẹ con em. - Cha em đã có quyết định khá rõ ràng về chuyện sống cùng con gái. Em không nghĩ ông sẽ chào đón bọn em đâu. - Vianne đẩy cái chăn chần qua một bên và đứng lên, đặt đôi chân trần xuống tấm thảm đã sờn. - Hai mẹ con sẽ ổn chứ? - Sophie và em sẽ không sao đâu. Dù sao thì anh cũng sẽ sớm quay về. Phòng tuyến Maginot sẽ đứng vững. Và Chúa biết quân Đức không phải là đối thủ xứng tầm với chúng ta. - Rất tiếc là vũ khí của bọn chúng thì có đấy. Anh đã rút hết tiền khỏi ngân hàng. Có sáu mươi lăm ngàn franc ở dưới nệm. Em tiêu tiền cẩn thận nhé, Vianne. Cùng với đồng lương giáo viên của em, hai mẹ con sẽ đủ sống một thời gian dài. Vianne bỗng thấy hoảng sợ. Chị biết quá ít về tình hình tài chính của gia đình. Antoine trước giờ vẫn lo liệu chuyện đó. Anh chậm rãi đứng dậy và vòng tay ôm chị. Vianne chỉ muốn đóng chai cảm giác an toàn mình đang có ngay lúc này, để về sau có thể lấy ra uống những khi cô đơn và hoảng sợ. Hãy nhớ điều này, chị thầm nghĩ. Nhớ ánh sáng vương trên mái tóc lòa xòa của anh, tình yêu trong đôi mắt nâu của anh, đôi môi nứt nẻ vừa mới hôn chị chỉ một giờ trước đó, trong bóng tối. Qua ô cửa sổ mở rộng phía sau hai người, Vianne nghe thấy tiếng vó ngựa chậm rãi khua cồm cộp trên đường và tiếng lạch cạch của cỗ xe mà con ngựa kéo theo. Chắc là ông Quillian đang trên đường chở hoa ra chợ. Nếu lúc này Vianne đang ở dưới sân, ông sẽ dừng xe, tặng cho chị một cành hoa và nói rằng hoa cũng chẳng thể đẹp bằng người, trong khi chị tủm tỉm cười cảm ơn rồi mời ông uống chút gì đó. Vianne miễn cưỡng rời khỏi vòng tay chồng. Chị tiến đến chỗ cái bàn gỗ, đổ một chút nước ấm từ trong chiếc bình bằng gốm ra chậu rồi rửa mặt. Trong cái hốc tường được tận dụng làm nơi thay quần áo, phía sau hai lớp màn vải lanh màu vàng và trắng, Vianne mặc áo ngực, quần đùi dây rút và đeo nịt bít tất. Chị xỏ chân vào đôi tất lụa, kéo chúng lên rồi gài vào nịt bít tất. Sau đó chị mặc một chiếc váy cổ vuông bằng vải bông có dây lưng. Khi chị bước ra khỏi chỗ thay quần áo, Antoine không còn ở trong phòng nữa. Chị lấy ví rồi đi xuôi theo hành lang tới phòng của Sophie. Cũng giống như phòng của hai vợ chồng, phòng của Sophie khá nhỏ, có trần dốc không ốp ván, sàn gỗ, và một cửa sổ trông ra vườn cây. Trong phòng có đặt một chiếc giường sắt, một cái bàn đầu giường bên trên có chiếc đèn ngủ được truyền lại qua nhiều người, và một tủ quần áo sơn màu xanh. Những bức tranh của Sophie treo trên tường để trang trí. Vianne mở cửa sổ cho ánh nắng tràn vào phòng. Như thường lệ, trong những tháng hè nóng nực, Sophie đã đá cái chăn xuống đất trong lúc ngủ. Con gấu bông màu hồng nằm dụi đầu vào má con bé. Vianne cầm con gấu lên, quan sát khuôn mặt xinh xắn đáng yêu của nó. Năm ngoái gấu Bébé đã bị bỏ lăn lóc trên một cái kệ gần cửa sổ khi Sophie chuyển sang chơi những món đồ chơi mới hơn. Giờ thì Bébé đã trở lại. Vianne cúi xuống hôn lên má con gái. Sophie trở mình, chớp chớp mắt. - Con không muốn bố đi, mẹ ơi. - Sophie thì thầm. Con bé với lấy Bébé, gần như giật con gấu ra khỏi tay mẹ. - Mẹ biết. - Chị thở dài. - Mẹ biết mà. Vianne tiến lại chỗ tủ áo và chọn lấy chiếc váy lính thủy yêu thích của Sophie. - Con đội vòng hoa bố đã tết được không ạ? Chiếc “vương miện” xộc xệch bằng hoa cúc nằm trên bàn đầu giường. Những bông hoa nhỏ đã héo úa. Vianne nhặt nó lên và đội cho Sophie. Vianne đã nghĩ mình sẽ giữ được bình tĩnh, nhưng rồi chị bước vào phòng khách và trông thấy Antoine. - Bố ơi! - Sophie ngập ngừng chạm tay vào vòng hoa cúc dại trên đầu. - Bố đừng đi. Antoine quỳ xuống, ôm con gái vào lòng. - Bố phải ra trận để bảo vệ mẹ và con. Nhưng bố sẽ quay về trước khi con kịp nhận ra điều đó. Vianne nghe thấy sự nghẹn ngào trong giọng nói của chồng. Sophie lùi lại. Vòng hoa cúc lệch sang một bên đầu con bé. - Bố hứa là bố sẽ về nhé? Antoine nhìn vào đôi mắt lo lắng của Vianne phía sau khuôn mặt hớn hở của Sophie. - Ừ. - Cuối cùng anh đáp. Sophie gật đầu. Ba người im lặng ra khỏi nhà. Họ nắm tay nhau đi lên sườn đồi tới chỗ căn nhà kho bằng gỗ màu xám. Cỏ úa vàng cao ngang đầu gối phủ kín quả đồi; trong khi những bụi tử đinh hương um tùm như những cỗ xe kéo mọc men theo hàng rào. Ba cây thập tự nhỏ màu trắng là tất cả những gì còn lại trên thế giới này để nhắc Vianne nhớ tới những đứa con mà chị đã đánh mất. Hôm nay chị không muốn để ánh mắt mình nấn ná ở đó chút nào. Tâm trạng chị đã đủ nặng nề rồi. Chị không thể bồi thêm sức nặng của những ký ức ấy nữa. Bên trong nhà kho là chiếc Renault cũ màu xanh lá cây của gia đình. Khi cả ba người đã vào trong xe, Antoine nổ máy, lùi xe ra ngoài; rồi cho xe chạy qua những đám cỏ chết màu nâu để tiến ra con đường. Vianne nhìn qua cửa kính xe nhỏ xíu đầy bụi, quan sát những thung lũng xanh rì loang loáng trôi qua cùng những hình ảnh quen thuộc - những mái ngói đỏ, những ngôi nhà đá, đồng cỏ và ruộng nho, những cánh rừng với các thân cây mảnh dẻ. Chẳng mấy chốc họ đã đến nhà ga xe lửa ở gần Tours. Sân ga ken đầy những nam thanh niên xách va li, phụ nữ ôm hôn từ biệt và trẻ con khóc lóc. Một thế hệ đàn ông lên đường ra trận. Một lần nữa. Đừng nghĩ đến chuyện đó, Vianne tự nhủ. Đừng nhớ lại cảnh bọn họ tập tễnh trở về nhà, mặt cháy xém, tay chân không còn lành lặn... Chị nắm chặt tay chồng trong khi Antoine mua vé rồi dẫn cả nhà tới chỗ đoàn tàu. Trên toa tàu hạng ba nóng như chảo lửa, hành khách chen chúc như đám lau sậy trong đầm lầy, chị ngồi thẳng người, vẫn nắm tay chồng; chiếc túi xách để trong lòng. Khi đến nơi, khoảng một chục người xuống tàu. Cả ba đi theo những người khác trên một con đường lát đá dẫn tới nơi có vẻ là thành phố nhỏ nhất ở vùng Touraine. Làm sao chiến tranh lại có thể đang đến gần và cái thành phố lạ lùng với những chùm hoa lộn xộn và những bức tường đổ này lại đang tập hợp lính tráng đi đánh giặc được kia chứ? Antoine giật tay vợ để chị đi tiếp. Chị đã dừng lại từ lúc nào? Phía trước mặt họ là một cánh cổng đôi bằng sắt mới dựng bên cạnh các bức tường đá. Phía bên kia cổng là những dãy nhà tạm. Cánh cổng sắt bật mở. Một người lính cưỡi ngựa tiến ra để chào đón những người mới đến, cái yên bằng da kêu kẽo kẹt theo nhịp bước của con ngựa. Khuôn mặt người lính lấm lem bụi đất và đỏ bừng vì thời tiết nóng nực. Anh ta giật cương bắt con ngựa dừng lại, ngoặt đầu sang hai bên và thở phì phò. Một chiếc máy bay rền rĩ bay qua đầu họ. - Các anh. - Người lính nói. - Mang giấy tờ đến chỗ cậu trung úy đằng kia, cạnh cổng. Nào, nhanh chóng lên. Antoine hôn Vianne, dịu dàng khiến chị muốn khóc. - Anh yêu em. - Anh nói lí nhí. - Em cũng yêu anh. - Chị đáp, nhưng những từ ngữ tưởng rất lớn lao ấy sao bây giờ lại nhỏ bé đến lạ. Tình yêu có là gì khi đối mặt với chiến tranh? - Con nữa, bố ơi. Con nữa! - Sophie hét lên và lao vào vòng tay bố. Cả gia đình ôm nhau một lần cuối, cho đến khi Antoine gỡ mình ra. - Tạm biệt. - Anh nói. Vianne không biết nói gì để đáp lại. Chị nhìn anh bước đi và lẫn vào đám đông những chàng trai nói cười rộn rã, đến khi không còn nhận ra anh được nữa. Hai cánh cổng sạt đồ sộ đóng sầm lại. Âm thanh kim loại lạnh lùng vang lên giữa bầu không khí nóng bức đầy bụi bặm, trong khi hai mẹ con chị đứng trơ trọi giữa đường. 4 Tháng Sáu năm 1940 Pháp Ngôi biệt thự thời Trung cổ nằm trên một sườn đồi xanh rì cây cối. Trông nó tựa như thứ được trưng bày trong tủ kính của một người bán mứt kẹo: một tòa lâu đài bằng caramel, với các ô cửa sổ bằng sợi đường và cửa chớp màu kẹo táo. Xa hơn phía bên dưới là mặt hồ xanh biếc phản chiếu mây trời. Những khoảnh vườn được tỉa tót cẩn thận cho phép dân làng, và quan trọng hơn là những vị khách của họ, đi dạo loanh quanh các khu đắt, nơi chỉ những chủ đề được chấp nhận mới được thảo luận. Trong căn phòng ăn trang trọng, Isabelle Rossignol ngồi thẳng đuỗn bên chiếc bàn ăn phủ vải trắng đủ lớn để phục vụ cho hai mươi bốn người. Mọi thứ trong phòng thật nhợt nhạt. Các vách tường và sàn nhà được ốp đá màu con hàu. Trần nhà vút cong tới một đỉnh nhọn cao phải đến sáu mét. Bị mắc kẹt giống như những người trong phòng, âm thanh được khuếch đại lên đáng kể. Bà Dufour đứng ở đầu bàn, mặc một chiếc váy giản dị màu đen để hở một khoảng trống bằng cái thìa canh ở phần gốc cái cổ dài của bà ta. Chiếc trâm cài đầu gắn một viên kim cương là món trang sức duy nhất bà ta mang trên người (một món duy nhất, các cô gái, hãy chọn cho kỹ vào, mọi thứ đều có tiếng nói của nó, và không gì nói to bằng sự rẻ tiền). Khuôn mặt hẹp của bà ta dừng lại nơi chiếc cằm thô và được đóng khung bằng những lọn tóc bạc màu rõ đến mức phá hỏng vẻ trẻ trung mà bà ta mong muốn. - Mánh khóe ở đây, - bà Dufour nói với giọng hiểu biết, rành rọt và gọn ghẽ, - là hoàn toàn yên lặng và không gây chú ý trong khi làm phận sự của các cô. Mỗi cô gái ngồi quanh bàn mặc một chiếc áo khoác len màu xanh dương vốn là đồng phục của trường. Vào mùa đông thì không đến nỗi, chứ trong buổi chiều hè tháng Sáu này thì bộ trang phục quả là không thể chịu đựng nổi. Isabelle cảm thấy mình bắt đầu toát mồ hôi và chẳng có lượng oải hương nào trong loại xà phòng nàng dùng có thể che giấu nổi mùi gắt của nó. Isabelle nhìn xuống quả cam chưa bóc vỏ nằm giữa chiếc đĩa sứ Limoges của mình. Những món dụng cụ được xếp đặt đúng chỗ ở hai bên chiếc đĩa. Nĩa dùng cho xa lát, nĩa dùng cho món chính, dao, thìa, dao xắn bơ, nĩa để ăn cá. Vân vân và vân vân. - Nào! - Bà Dufour nói. - Cầm đúng món dụng cụ lên... khẽ thôi, thưa các cô, và bóc vỏ quả cam. Isabelle cầm lấy nĩa và cố gắng ấn những cái răng sắc của nó vào lớp vỏ dày, nhưng quả cam lăn ra và lao qua phần mép viền của chiếc đĩa, khiến nó kêu lanh canh. - Khỉ thật. - Nàng lẩm bẩm, nhanh tay chộp lấy quả cam trước khi nó rơi xuống sàn. - Khỉ á? - Giọng nói của bà Dufour vang lên phía sau lưng cô gái. Isabelle giật nảy mình. Chúa ơi, bà ta di chuyển nhanh như rắn bò trong đám lau sậy. - Em xin lỗi, thưa cô. - Isabelle lên tiếng, tay đặt quả cam về chỗ cũ. - Cô Rossignol, làm thế nào mà trong suốt hai năm gia ân cho các phòng học của chúng tôi bằng sự hiện diện của mình, cô vẫn chẳng học được gì nhiều thế nhỉ? Isabelle lại chọc cái nĩa vào quả cam. Một thao tác không đẹp mắt, nhưng hiệu quả. Nàng mỉm cười ngước lên nhìn bà Dufour. - Thưa cô, thường thì thất bại của người học chính là thất bại của người dạy đấy ạ. Mọi người quanh bàn nhất loạt nín thở. - A. - Bà Dufour lên tiếng. - Vậy ra chúng tôi là lý do khiến cô chưa thể ăn cam đúng cách cơ đấy. Isabelle cố gắng cắt xuyên vỏ cam, với một nỗ lực quá mức. Lưỡi dao trượt ra khỏi lớp vỏ sần sùi và đập vào cái đĩa sứ. Những ngón tay của bà Dufour vươn tới túm lấy cổ tay của Isabelle. Các cô gái ngồi quanh bàn trố mắt nhìn cảnh tượng đó. - Lịch sự trò chuyện đi, các cô gái. - Bà Dufour nhếch mép cười khẽ. - Không ai muốn ăn tối cùng một pho tượng cả. Được nhắc nhở, các cô gái bắt đầu khe khẽ trao đổi với nhau về những chuyện mà Isabelle không hề quan tâm. Vườn tược, nắng mưa, áo váy. Những chủ để được chấp nhận đối với phụ nữ. Isabelle phải huy động toàn lực để khỏi thét lên khi nghe cô gái ngồi bên cạnh nói khẽ: - Mình rất thích đăng ten Alençon, còn cậu? - Cô Rossignol. - Bà Dufour cất tiếng. - Phiền cô đi gặp hiệu trưởng và nói với bà ấy là cuộc thử nghiệm của chúng ta đã đến lúc kết thúc. - Như vậy nghĩa là sao ạ? - Bà ấy sẽ biết. Đi đi. Isabelle nhanh chóng rời bàn trước khi bà Dufour đổi ý. Khuôn mặt bà ta rúm ró đầy khó chịu khi nghe thấy tiếng chân ghế miết ken két trên sàn đá. - Thật ra em không thích cam, thưa cô. - Isabelle mỉm cười. - Thật à? - Bà Dufour mỉa mai hỏi lại. Isabelle chỉ muốn bỏ chạy khỏi căn phòng ngột ngạt đó, nhưng vì đã gặp rắc rối đủ rồi nên nàng cố buộc mình đi chậm rãi, vai đưa ra sau, cằm ngẩng cao. Tại cầu thang, nơi nàng có thể bước xuống với ba cuốn sách đặt trên đầu khi bắt buộc, Isabelle nhìn quanh quất. Không thấy ai khác ngoài mình, nàng chạy bổ xuống thang. Xuống đến hành lang bên dưới, Isabelle giảm tốc độ và thẳng người lại. Khi đi đến phòng hiệu trưởng, hơi thở của nàng đã trở lại bình thường. Isabelle gõ cửa. Nghe thấy hai chữ “mời vào” vang lên đanh gọn, nàng mở cửa bước vào. Hiệu trưởng Allard đang ngồi sau cái bàn giấy bằng gỗ gụ có thếp vàng ở các mép. Thảm trang trí kiểu Trung cổ treo đầy trên những vách tường bằng đá, trong khi một cửa sổ ghép kính hình vòm cho phép nhìn bao quát những khu vườn được cắt xén nhiều đến nỗi thành ra nhân tạo nhiều hơn là tự nhiên. Ngay cả những con chim cũng hiếm khi đậu xuống đó. Rõ ràng chúng cảm nhận được bầu không khí ngột ngạt và không muốn nán lại. Isabelle ngồi xuống, rồi nhận ra mình chưa được mời, nàng bật dậy. - Em xin lỗi, thưa cô. - Ngồi xuống đi, Isabelle. Nàng làm theo, cẩn thận bắt chéo hai chân ở đoạn mắt cá như các quý cô nên làm, rồi đan hai tay vào nhau. - Cô Dufour bảo em đến nói với cô là cuộc thử nghiệm đã chấm dứt ạ. Bà hiệu trưởng với tay tìm một chiếc bút máy Murano trên bàn, rồi cầm nó lên, gõ gõ xuống mặt bàn gỗ. - Vì sao em đến đây, Isabelle? - Em ghét cam. - Sao cơ? - Và nếu em phải ăn một quả cam, một điều mà thực lòng em không hiểu tại sao mình phải làm dù không thích, em sẽ dùng tay như người Mỹ vẫn làm. Thực ra là như mọi người vẫn làm. Dùng dao và nĩa để ăn cam á? - Ý tôi là, vì sao em đến ngôi trường này? - À, ra là vậy. Ơ thì... Tu viện Thánh Tâm ở Avignon đã đuổi học em. Chẳng vì lý do gì cả, có thể nói như vậy. - Thế còn trường dòng nữ tu Phanxicô? - À, họ cũng có lý do để đuổi em. - Và ngôi trường trước đó nữa? Isabelle không biết phải nói gì. Bà hiệu trưởng đặt chiếc bút máy xuống. - Em sắp mười chín tuổi rồi. - Vâng ạ, thưa cô. - Tôi nghĩ đã đến lúc em đi. Isabelle đứng lên. - Em phải quay lại lớp học ăn cam ạ? - Em hiểu nhầm rồi. Ý tôi là em nên rời khỏi trường, Isabelle à. Rõ ràng em không thích học những điều chúng tôi dạy. - Cách ăn một quả cam, khi nào được phết phô mai, và ai có địa vị quan trọng hơn: con trai thứ của một quận công hay một đứa con gái không có quyền thừa kế hay đại sứ của một đất nước vô danh tiếu tốt ạ? Thưa cô, cô có biết điều gì đang diễn ra trên thế giới ngoài kia không? Isabelle có thể bị đưa về miền thôn quê hẻo lánh, nhưng không vì thế mà nàng không nắm được tình hình thế sự. Ngay cả trong ngôi trường này, bị kiềm tỏa phía sau những hàng giậu và trói buộc bởi phép lịch sự, Isabelle vẫn biết chuyện gì đang diễn ra trên đất Pháp. Đêm đêm, trong căn phòng tu viện của mình, khi đám bạn học đã đi ngủ, nàng vẫn ngồi mãi để nghe lén đài BBC qua chiếc radio của mình. Pháp đã về phe Anh tuyên chiến với Đức, và Hitler đang tấn công. Khắp nơi trên đất nước, người Pháp đang tích trữ lương thực, lắp tấm che cửa sổ và học cách sống như loài chuột chũi trong bóng tối. Họ đã chuẩn bị, đã lo lắng, và rồi... chẳng có gì xảy ra. Nhiều tháng đã trôi qua, vẫn không có gì xảy ra. Lúc đầu, tất cả những gì người ta trao đổi với nhau là về Thế chiến I, và những mất mát đã xảy ra với quá nhiều gia đình, nhưng cùng với thời gian, người ta chỉ còn nghe nói về chiến tranh, và các cô giáo của Isabelle gọi nó là cuộc chiến nực cười. Thảm kịch thực sự đang diễn ra ở chỗ khác của châu Âu, tại Bỉ, Hà Lan và Ba Lan. - Trong chiến tranh thì cách cư xử có quan trọng không, Isabelle? - Hiện tại nó không quan trọng ạ. - Isabelle buột miệng và lập tức thầm mong mình không nói câu đó ra. Bà hiệu trưởng đứng dậy. - Chúng tôi không phải là nơi thích hợp cho em, nhưng... - Cha em sẽ gửi em tới bất cứ đâu cho nhẹ nợ. Isabelle thà nói toẹt sự thật còn hơn là một lời dối trá khác. Nàng học được rất nhiều bài học trong hơn mười năm di chuyển qua các trường nội trú và tu viện, nhưng trên hết Isabelle đã hiểu nàng phải tự đứng trên đôi chân của mình. Hiển nhiên nàng không thể trông cậy vào cha và chị gái. Hiệu trưởng Allard nhìn Isabelle. Cánh mũi cô gái hơi nở ra, cho thấy một sự phản kháng nhẹ nhàng nhưng đau đớn. - Đàn ông mất vợ thì đau đớn lắm. - Con gái mất mẹ cũng rất đau đớn ạ. - Isabelle nhếch mép cười bướng bỉnh. - Nhưng em đã mất cả mẹ lẫn cha, đúng không cô? Một người qua đời, người kia quay lưng với em. Không biết sự mất mát nào đau đớn hơn. - Chúa ơi, Isabelle, em có cần phải lúc nào cũng nói ra mọi suy nghĩ trong đầu như vậy không? Isabelle đã nghe mãi lời chỉ trích này, nhưng tại sao nàng phải giữ mồm giữ miệng kia chứ? Có nói thế nào thì cũng chẳng ai buồn lắng nghe nàng kia mà. - Như vậy em sẽ rời trường hôm nay. Tôi sẽ đánh điện cho cha em. Tómas sẽ đưa em ra ga. - Đêm nay ạ? - Isabelle chớp mắt. - Nhưng... cha em sẽ không muốn đón nhận em. - À. Các hậu quả, - bà hiệu trưởng đáp. - Có lẽ bây giờ em đã hiểu đó là điều mình nên nghĩ đến. +++++ Isabelle lại ngồi một mình trên tàu hỏa, đi đến một nơi chưa biết sẽ tiếp nhận mình ra sao. Qua lớp kính cửa sổ bẩn thỉu đầy vết ố, nàng nhìn phong cảnh loang loáng trôi qua: những cánh đồng cỏ, mái ngói đỏ, những ngôi nhà bằng đá, những cây cầu xám, lũ ngựa... Mọi thứ trông vẫn y nguyên như trước, một điều khiến Isabelle ngạc nhiên. Chiến tranh đang đến gần, nàng những tưởng nó sẽ để lại dấu vết trên mọi thứ theo cách nào đó, thay đổi màu cỏ, làm chết cây cối hoặc xua đuổi lũ chim chẳng hạn. Nhưng hiện tại, trong lúc đang ngồi trên đoàn tàu xình xịch chạy vào Paris, nàng nhận thấy mọi thứ trông vẫn hoàn toàn bình thường. Tại ga Lyon rộng lớn, đoàn tàu rít lên, phun phì phì rồi dừng lại. Nàng cúi xuống chiếc va li nhỏ dưới chân và kéo nó đặt lên lòng. Trong khi quan sát các hành khách vội vã rời toa tàu, câu hỏi mà Isabelle vẫn né tránh bỗng xuất hiện trở lại trong đầu nàng. Cha nàng. Isabelle muốn tin ông sẽ đón chào nàng về nhà, và rốt cuộc ông sẽ chìa tay ra gọi tên con gái một cách đầy yêu thương, giống như Trước Kia, khi mẹ còn là chất keo gắn kết họ với nhau. Isabelle nhìn xuống chiếc va li mòn vẹt của mình. Nhỏ quá. Hầu hết những học sinh nữ cùng trường với nàng đều mang theo cả bộ rương hòm bọc da và gắn đinh tán bằng đồng. Bọn họ có tranh ảnh trên bàn học, đồ lưu niệm trên bàn đầu giường và các album ảnh trong ngăn kéo. Về phần mình, Isabelle chỉ có một tấm ảnh đóng khung của một người phụ nữ mà nàng muốn nhớ nhưng lại không thể. Những khi cố gắng, tất cả những gì hiện lên trong đầu nàng là hình ảnh nhạt nhòa của những người đang khóc, ông bác sĩ lắc đầu và mẹ nói gì đó về việc nắm tay chị gái nàng thật chặt. Như thể điều đó có ích. Vianne cũng nhanh chóng bỏ rơi Isabelle hệt như cha nàng đã làm. Isabelle nhận ra toa tàu chỉ còn một mình nàng. Nắm chặt chiếc va li trong bàn tay đeo găng, nàng rụt rè rời khỏi chỗ ngồi và xuống tàu. Sân ga đầy kín người. Những đoàn tàu rùng rùng xếp hàng, khói than vương đầy trong không khí, cuộn bốc lên vòm trần cao tít. Một hồi còi rít lên đâu đó. Những cái bánh xe bằng sắt bắt đầu khua động. Sân ga rung lên dưới chân Isabelle. Cha nàng kia, nổi bật giữa đám đông. Khi ông nhận ra con gái, Isabelle trông thấy sự khó chịu làm thay đổi nét mặt của ông, biến nó thành một khuôn mặt sắt đá. Ông là một người cao, ít nhất cũng phải một mét chín mươi, nhưng Thế chiến I đã làm ông trở nên lom khom. Hay chí ít đó cũng là điều mà người ta nói, theo trí nhớ của Isabelle. Đôi vai rộng của ông xuôi hẳn xuống, như thể với tất cả những thứ trong đầu mình ông chẳng còn bận tâm đến tư thế nữa. Mái tóc thưa của ông bạc phơ và rối bù. Mũi ông rộng và phẳng, nom như một cái bay, còn đôi môi thì mỏng như lá lúa. Vào một ngày hè nóng nực như hôm nay, ông mặc chiếc áo sơ mi trắng nhàu nhĩ, hai ống tay áo xắn lên. Chiếc cà vạt thắt hờ hững trên cái cổ áo sờn rách, trong khi cái quần nhung kẻ của ông rõ ràng cần phải được giặt. Isabelle cố tỏ ra người lớn. Có thể đó là điều cha nàng muốn ở nàng. - Isabelle. Nàng dùng cả hai bàn tay nắm chặt quai xách của chiếc va li. - Ba.. - Lại bị đuổi? Nàng gật đầu, khó nhọc nuốt khan. - Thời buổi này làm sao chúng ta tìm được một ngôi trường khác đây? Được lời như cởi tấm lòng, Isabelle nói luôn: - Con muốn ở với ba. - Với ba á? Cha nàng có vẻ khó chịu và ngạc nhiên. Nhưng một cô gái muốn ở với cha ruột của mình thì có gì là bất thường kia chứ? Isabelle tiến thêm một bước tới gần cha mình. - Con có thể làm việc trong hiệu sách. Con sẽ không quẩn chân ba đâu. Isabelle hít một hơi, chờ đợi. Mọi âm thanh đột nhiên lớn hẳn lên. Nàng nghe thấy tiếng người ta đi lại, sân ga rền rĩ dưới chân, bồ câu đập cánh trên đầu và một đứa bé khóc oe oe. Tất nhiên rồi, Isabelle. Về nhà thôi. Cha nàng thở dài ngán ngẩm rồi quay gót. - Này, - ông ngoảnh lại gọi, - con có đi không đấy? +++++ Isabelle nằm trên tấm chăn trải lên lớp cỏ có mùi ngòn ngọt, một quyển sách mở toang trước mặt. Ở đâu đấy gần bên nàng, một con ong bay vù vù trên một bông hoa, tựa như một chiếc xe mô tô nhỏ xíu giữa khung cảnh yên tĩnh. Hôm nay là một ngày nóng rộp da, đúng một tuần sau ngày nàng về Paris. Không phải về nhà. Isabelle biết cha mình vẫn đang tìm cách tống khứ con gái đi, nhưng nàng không muốn nghĩ đến chuyện đó vào một ngày rực rỡ như thế này, giữa một không gian đượm mùi anh đào và cỏ xanh tươi. - Em đọc nhiều quá đấy. - Christophe lên tiếng, miệng nhai nhai một nhánh cỏ. - Sách gì thế? Tiểu thuyết diễm tình à? Isabelle đóng sách lại, lăn người về phía anh. Đó là một cuốn sách về Edith Cavell* , một y tá thời Thế chiến I. Một nữ anh hùng. - Em cũng có thể làm một nữ anh hùng thời chiến đấy, Christophe. Anh bật cười. - Một cô gái ư? Anh hùng? Vớ vẩn. Isabelle nhanh chóng đứng dậy, giật phắt mũ và đôi găng tay trắng ra. - Đừng có giận anh. - Christophe nhăn nhở cười. - Anh mệt mỏi vì câu chuyện chiến tranh này rồi. Và sự thực là phụ nữ vô dụng trong chiến tranh. Công việc của bọn em là chờ đợi bọn anh quay trở về. Christophe chống một tay vào má, mắt ngước lên nhìn Isabelle qua lọn tóc vàng lòa xòa che mắt. Trong chiếc áo kiểu thủy thủ và quần trắng ống rộng, anh đúng là anh, một sinh viên “có điều kiện”, không quen động tay động chân vào bất cứ công việc gì. Nhiều sinh viên cùng tuổi anh đã tình nguyện rời giảng đường để nhập ngũ. Christophe thì không. Isabelle leo lên dốc, băng qua vườn cây tới mỏm đồi cỏ nơi chiếc Panhard mui trần của Christophe đang đậu. Nàng đã ngồi sau tay lái và nổ máy giòn giã khi anh xuất hiện, khuôn mặt đẹp trai theo kiểu chuẩn mực lấp lánh mồ hôi, trên tay vắt vẻo chiếc làn đựng đồ picnic trống rỗng. - Anh bỏ cái đó ra sau xe đi. - Nàng nói với một nụ cười tươi tắn. - Ai cho em lái? - Em đấy. Anh lên xe đi. - Xe của anh mà, Isabelle. - Này, chính xác mà nói, và em biết sự thật quan trọng như thế nào với anh, Christophe, đây là xe của mẹ anh. Em trộm nghĩ xe của phụ nữ thì nên để con gái cầm lái. Isabelle cố gắng không mỉm cười khi anh đảo mắt và lẩm bẩm “tốt thôi” trong khi chồm người cất cái làn ra phía sau ghế lái. Sau đó, thật chậm rãi để làm tăng hiệu quả, anh bước vòng qua phía trước xe và ngồi vào chiếc ghế bên cạnh nàng. Anh chỉ vừa dập cửa là nàng liền cài số và đạp ga. Chiếc xe lừng khừng một giây, rồi lao tới, phả khói bụi trong lúc tăng dần tốc độ. - Chúa ơi, Isabelle. Chậm thôi! Nàng dùng một tay giữ chiếc mũ rơm đang đập phần phật, tay kia nắm chặt vô lăng, chỉ hơi giảm tốc độ một chút khi vượt mặt những tài xế khác. - Chúa ơi, chậm thôi. - Christophe lại nói. Rõ ràng anh phải hiểu là nàng không hề có ý định vâng lời anh. - Ngày nay một phụ nữ có thể ra trận. - Isabelle nói khi rốt cuộc lưu lượng giao thông ở Paris cũng buộc nàng phải lái chậm lại. - Em có thể làm một tài xế xe cứu thương chẳng hạn. Hoặc em có thể tham gia giải các thông điệp mã hóa. Hoặc quyến rũ kẻ thù để moi thông tin về một địa điểm hoặc một kế hoạch bí mật nào đó. Anh nên nhớ là trò chơi... - Chiến tranh không phải trò chơi, Isabelle. - Em biết chứ, Christophe. Nhưng nếu nó nổ ra thật, em có thể có ích. Ý em là thế. Trên phố Đô đốc Coligny, nàng buộc phải đạp phanh để tránh đâm vào một chiếc xe tải. Một đoàn xe của Nhà hát Quốc gia đang kéo ra khỏi bảo tàng Louvre. Thật vậy, xe tải ở khắp nơi và nhiều hiến binh mặc đồng phục đang điều khiển giao thông. Những bao cát đã được chất đống quanh một số tòa nhà và tượng đài để bảo vệ trước sự tấn công chưa hề xảy ra kể từ khi nước Pháp tham chiến. Tại sao lại có nhiều cảnh sát Pháp trên đường phố như thế nhỉ? - Lạ thật. - Isabelle nhíu mày lẩm bẩm. Christophe vươn cổ quan sát chuyện đang xảy ra. - Họ đang đưa các cổ vật ra khỏi Louvre. - Anh nói. Quan sát thấy một khoảng gián đoạn của dòng xe cộ, Isabelle tăng tốc. Chẳng bao lâu sau, nàng đã dừng xe trước cửa hiệu sách của cha. Isabelle vẫy tay chào Christophe và bước vào trong cửa hiệu. Nó vừa dài vừa hẹp, sách chất chồng từ dưới đất lên tận trần nhà. Qua năm tháng, cha nàng đã cố gắng gia tăng quy mô trữ sách bằng cách làm những giá sách tự đứng. Kết quả của “sự cải thiện” đó là một mê cung được hình thành. Các chồng sách tạo ra những lối đi lắt léo, càng vào trong càng sâu hun hút. Ở cuối cửa hiệu là sách du lịch. Một số chồng sách được chiếu sáng, số khác nằm trong bóng tối. Không có đủ ổ cắm điện để lắp đèn cho mọi ngóc ngách và xó xỉnh. Nhưng cha nàng thuộc lòng mọi tựa sách nằm trên các kệ. - Muộn thế! - Ông cất tiếng, ngước mắt lên khỏi bàn làm việc ở phía sau cửa hiệu. Ông đang làm gì đó với cái máy in, chắc là để in mấy quyển thơ chẳng ai thèm mua của ông. Những ngón tay bè bè của ông dính đầy mực xanh. - Chắc bọn con trai quan trọng với con hơn là công việc. Isabelle ngồi vào chiếc ghế đẩu phía sau quầy tính tiền. Sau một tuần sống cùng với cha, nàng đã quyết định không cãi lại ông, dù trong bụng không đồng tình. Nàng sốt ruột nhịp nhịp chân. Những từ ngữ, câu chữ - những lời bào chữa - chỉ chực bùng ra. Thật khó mà không nói với ông những suy nghĩ của nàng, nhưng Isabelle biết ông muốn nàng cuốn xéo nhiều đến mức nào, nên đành ngậm miệng lại. - Con có nghe thấy không đấy? - Một lúc sau cha nàng lên tiếng. Không lẽ nàng ngủ gục? Isabelle ngồi thẳng dậy. Nàng không nghe thấy tiếng cha mình bước lại gần, nhưng hiện tại ông đang đứng ngay bên cạnh, lông mày nhíu lại. Có một âm thanh khác lạ trong cửa hiệu, chắc chắn rồi. Bụi đang rơi xuống từ trên trần, các giá sách khẽ rung lên tạo ra tiếng động như những hàm răng va vào nhau. Những cái bóng lướt qua tủ kính bày sách ở lối vào cửa hiệu. Hàng trăm cái bóng như thế. Người ư? Người đâu mà nhiều thế? Cha nàng bước ra cửa. Isabelle leo xuống khỏi ghế và đi theo ông. Khi ông mở cửa, nàng nhìn thấy cả một đám đông đang chạy trên phố, đặc kín vỉa hè. - Chuyện quái gì thế này? - Cha nàng lẩm bẩm. Isabelle đẩy ông qua một bên và tiến đến gần đám đông. Một người đàn ông va vào Isabelle mạnh đến nỗi làm nàng loạng choạng. Ông ta thậm chí không buồn xin lỗi. Thêm nhiều người nữa lao qua chỗ hai cha con. - Có chuyện gì thế? Chuyện gì đang diễn ra vậy? - Isabelle hỏi một người đàn ông mặt đỏ gay, miệng thở khò khè đang cố gắng thoát ra khỏi đám đông. - Quân Đức đang tiến vào Paris. - Ông ta nói. - Chúng ta phải đi. Tôi đã từng tham gia Thế chiến I. Tôi biết... Isabelle cười khẩy. - Quân Đức ở Paris á? Không thể có chuyện đó. Người đàn ông bỏ chạy, luồn lách qua trái rồi qua phải, hai nắm tay hết co vào lại duỗi ra. - Chúng ta phải về nhà thôi. - Cha nàng lên tiếng và khóa cửa hiệu sách lại. - Đó không thể là sự thật. - Isabelle nói. - Điều tệ hại nhất vẫn luôn có thể là sự thật. - Cha nàng rầu rĩ đáp. - Đi sát vào ba nhé. Nói đoạn ông hòa mình vào đám đông. Isabelle chưa bao giờ chứng kiến một sự hoảng loạn như thế. Ngược xuôi trên phố, các bóng đèn bật sáng, xe ô tô nổ máy, các cánh cửa nhà đóng sập lại. Mọi người thét gọi nhau, cố gắng không để lạc mất nhau giữa đám đông lộn xộn. Isabelle bám sát cha mình. Sự hỗn loạn trên phố làm hai cha con đi chậm lại. Các tuyến xe điện ngầm quá đông đúc nên họ phải đi bộ. Rốt cuộc, lúc trời gần tối hẳn hai cha con cũng về đến nhà. Cha của Isabelle phải thử hai lần mới mở được cổng của tòa nhà có căn hộ mà họ đang sống. Bàn tay ông run rẩy dữ dội. Khi vào đến bên trong, họ không buồn dùng chiếc thang máy ọp ẹp mà vội vã leo năm tầng lầu để lên nhà. - Đừng bật đèn. - Cha của Isabelle vội nói ngay khi mở cửa căn hộ. Nàng theo cha vào phòng khách và nhanh chân tiến đến cửa sổ, vén tấm che nhìn ra ngoài. Từ phía xa vọng lại một âm thanh rì rầm. Khi nó lớn dần lên, khung cửa sổ kêu lạch cạch như viên đá bị lắc trong cái cốc. Isabelle nghe thấy tiếng xé gió chỉ vài giây trước khi nhìn thấy một nhóm các vật thể đen trùi trũi trên bầu trời, như những con chim bay thành đàn. Máy bay. - Bọn Đức. - Cha nàng thì thào. Những chiếc máy bay Đức bay qua Paris. Âm thanh rú rít tăng lên, trở thành giống như tiếng ré của phụ nữ, thế rồi ở đâu đó, chắc là khu quận Hai, một quả bom phát nổ tạo ra một quầng sáng rực lạ lùng, và lửa bốc lên. Còi báo động réo vang. Cha của Isabelle vội đóng các màn che lại và đưa nàng ra khỏi căn hộ, xuống cầu thang. Hàng xóm của họ cũng đang làm điều tương tự. Mọi người mang theo áo khoác, trẻ nhỏ và thú cưng xuống sảnh, sau đó theo những bậc thang hẹp, quanh co bằng đá xuống tầng hầm. Trong bóng tối, họ ngồi bên nhau, túm tụm lại. Không khí đặc quánh mùi ẩm mốc, hơi người và nỗi sợ hãi - đó là thứ mùi rõ nét nhất. Cuộc ném bom tiếp tục diễn ra cùng những tiếng rít và rì rầm. Vách hầm rung chuyển xung quanh họ, bụi rơi lả tả từ trên trần. Một đứa bé bắt đầu khóc không dỗ được. - Làm ơn dỗ cho nó nín đi. - Ai đó gắt lên. - Tôi đang cố đây, thưa ông. Nó sợ. - Ai mà chẳng sợ! Sau một khoảng thời gian dài như vô tận, im lặng bao trùm lấy họ. Nó còn tệ hơn cả tiếng động. Paris còn lại những gì? Khi mọi chuyện đã ổn, Isabelle cảm thấy toàn thân tê liệt. - Isabelle? Nàng muốn cha vươn tay ra nắm lấy tay mình và dỗ dành, cho dù chỉ trong thoáng chốc, nhưng ông đã quay đi và leo lên cầu thang tăm tối của căn hầm. Khi trở lại căn hộ của họ, Isabelle lập tức tiến đến bên cửa sổ, nhìn qua tấm màn che tìm kiếm tháp Eiffel. Nó vẫn còn đó, vươn cao trên một dám khói đen dày đặc. - Đừng có đứng cạnh cửa sổ. - Cha nàng lên tiếng. Isabelle chậm rãi quay đi. Ánh sáng duy nhất trong phòng phát ra từ chiếc đèn pin của ông, một vệt sáng vàng vọt trong bóng tối. - Paris sẽ không gục ngã. - Nàng nói. Cha nàng không đáp. Ông chỉ nhíu mày. Isabelle tự hỏi liệu có phải ông đang nhớ về Thế chiến I và những gì mình chứng kiến trên các chiến hào. Có lẽ vết thương của ông cũng đang nhói đau, đồng điệu với tiếng bom rơi lửa cháy. - Đi ngủ đi, Isabelle. - Sao con có thể ngủ được giữa lúc như thế này? Cha nàng thở dài. - Rồi con sẽ học được, nhiều chuyện có thể xảy ra lắm con à. 5 Họ đã bị chính quyền lừa dối. Họ đã được trấn an hết lần này qua lần khác rằng phòng tuyến Maginot sẽ ngăn không cho quân Đức tiến vào nước Pháp. Dối trá. Không có bê tông, sắt thép hay binh sĩ Pháp nào có thể chặn được bước tiến của Hitler, và chính phủ của họ đã tháo chạy khỏi Paris như lũ ăn trộm trong đêm. Người ta đồn rằng chính phủ đang hoạch định chiến lược ở Tours, nhưng chiến lược thì làm được gì khi Paris sắp bị quân thù giày xéo? - Con chuẩn bị xong chưa? - Con không đi đâu, ba ơi. Con đã nói rồi mà. Isabelle đã mặc trang phục đi đường là váy màu đỏ chấm bi và giày gót thấp, theo yêu cầu của cha. - Không nói đi nói lại chuyện này nữa, Isabelle. Nhà Humbert sắp đến đón con rồi. Họ sẽ đưa con đến Tours. Từ đó, con có thể tự xoay xở để tìm đến nhà Vianne. Chúa biết con luôn giỏi chuyện trốn trường về nhà mà. - Tức là ba lại đuổi con đi. Một lần nữa. - Đủ rồi đó, Isabelle. Anh rể của con đang ở ngoài mặt trận, chị con ở nhà một mình cùng với cháu gái. Con sẽ làm theo lời ba. Con sẽ rời Paris. Ông có biết chuyện này làm nàng đau lòng thế nào không? Ông có bận tâm không? - Ba chưa bao giờ quan tâm đến chị Vianne hay con. Với lại chị ấy cũng chẳng muốn cưu mang con nhiều hơn ba đâu. - Con sẽ đi. - Con muốn ở lại và chiến đấu. Giống như Edith Cavell. Ông đảo mắt. - Con có nhớ bà ta chết như thế nào không? Bị bọn Đức xử tử. - Ba à. - Không nhiều lời nữa. Ba đã chứng kiến những điều bọn chúng có thể làm, Isabelle. Con thì không. - Nếu sự việc tồi tệ như thế thì ba nên đi với con. - Và bỏ lại nhà cửa, hiệu sách cho chúng sao? Ông nắm tay Isabelle và lôi nàng ra khỏi căn hộ, xuống cầu thang. Chiếc mũ rơm và chiếc va li của nàng va đập vào tường, hơi thở nàng dồn dập. Cuối cùng ông mở cửa và kéo nàng ra đại lộ Bourdonnais. Hỗn loạn. Bụi bặm. Đám đông. Đường phố là một đoàn người rồng rắn sống động, nhích tới từng chút một, khò khè phun bụi đất và rúc còi inh ỏi. Người lớn kêu cứu, con nít khóc lóc trong khi mùi mồ hôi đè nặng trong không khí. Những chiếc xe hơi làm cả khu vực tắc tị, chiếc nào chiếc nấy oằn mình chở theo lỉnh kỉnh hòm xiểng và hành lý. Người ta mang đi mọi thứ tìm được, kể cả xe cút kít, xe đạp và xe đẩy trẻ em. Những người không thể tìm được hoặc không mua được xăng, không có xe hơi hay xe đạp thì đi bộ. Hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ và trẻ em dắt díu nhau lê bước, đem theo tối đa những gì họ có thể xách. Va li, làn liễu, thú cưng. Những người quá già và quá trẻ đã bắt đầu bị tụt lại phía sau. Isabelle không muốn gia nhập đám đông tuyệt vọng thối chí chỉ toàn phụ nữ, trẻ em và ông bà già này. Trong khi cánh đàn ông trẻ tuổi đang hy sinh ngoài mặt trận thì gia đình của họ lũ lượt bỏ đi, tiến về phía Nam hoặc phía Tây, dù thật ra, điều gì khiến những người này nghĩ mình sẽ an toàn ở đó kia chứ? Các đạo quân của Hitler đã tràn vào Ba Lan, Bỉ và Tiệp Khắc rồi. Đám đông nuốt chửng lấy họ. Một phụ nữ va phải Isabelle, lúng búng nói lời xin lỗi, rồi đi tiếp. Isabelle bám theo cha mình. - Con có thể có ích mà, ba. Con sẽ làm y tá, hoặc lái xe cứu thương. Con có thể băng bó hoặc khâu vết thương. Bên cạnh hai cha con, một tiếng còi xe rúc lên. Cha Isabelle nhòm qua vai nàng. Isabelle trông thấy vẻ nhẹ nhõm trên gương mặt ông. Nàng nhận ra nét mặt này: nó có nghĩa là ông sắp tống khứ được cô con gái. Một lần nữa. - Họ đây rồi. - Ông nói. - Đừng đuổi con mà. - Nàng nói. - Ba ơi! Ông kéo nàng len qua đám đông tới chỗ một chiếc xe hơi màu đen. Một tấm nệm nhem nhuốc buộc lùng phùng trên nóc xe, cùng với một lô cần câu và một chuồng nhỏ có con thỏ bên trong. Nắp cốp xe mở được buộc dây ghì xuống, Isabelle nhìn thấy trong cốp chất đầy va li, làn và đèn. Bên trong xe, ông Humbert dùng những ngón tay trắng múp míp giữ chặt lấy vô lăng như thể chiếc xe là một con ngựa bất kham có thể lồng lên bất cứ lúc nào. Ông là một người mập lùn, làm việc trong một cửa hàng thịt gần hiệu sách của cha Isabelle. Patricia, vợ ông là một phụ nữ khỏe mạnh với vẻ nông dân chân chất thường thấy ở người nông thôn. Chị ta đang hút một điếu thuốc và giương mắt nhìn ra ngoài cửa xe như thể không tin được điều mình trông thấy. Ông Humbert quay kính xe xuống rồi thò đầu ra ngoài. - Chào anh, Julien. Con bé sẵn sàng chưa? Cha nàng gật đầu. - Rồi. Cảm ơn nhé, Edouard. Patricia chồm người tới để nói với cha nàng qua cửa xe: - Chúng tôi chỉ đi tới Orléans thôi đấy. Và con bé phải chia tiền xăng. - Tất nhiên rồi. Nàng không thể đi. Hèn lắm. Không đúng chút nào. - Ba... - Tạm biệt - Ông nói với giọng đủ cứng rắn để nhắc cho Isabelle nhớ nàng không có quyền lựa chọn. Nói rồi ông hất đầu về phía chiếc xe. Isabelle tê tái tiến đến bên nó. Nàng mở cửa sau và trông thấy ba bé gái nhem nhuốc đang rúc vào nhau, nhai bánh quy, tu nước và chơi với búp bê. Nàng không hề muốn nhập bọn với chúng, nhưng đành phải len vào, tự tạo một khoảng trống giữa những con người xa lạ thoang thoảng mùi phô mai và xúc xích, rồi đóng cửa. Xoay người trên ghế, Isabelle đăm đăm nhìn cha mình qua cửa kính sau. Khuôn mặt ông trơ lì dưới ánh mắt của con gái, cái miệng hơi trễ xuống là dấu hiệu duy nhất cho biết ông nhìn thấy nàng. Đám đông tràn qua ông như dòng nước trùm qua một tảng đá, cho đến khi tất cả những gì Isabelle thấy được chỉ là một bức tường những kẻ lạ mặt thất thểu đi phía sau chiếc xe. Isabelle ngồi ngay ngắn trở lại. Bên phía cửa xe của nàng, một phụ nữ trẻ đang nhìn nàng đăm đăm, đôi mắt đờ đẫn, mái tóc rối bù như tổ quạ, đang cho một đứa bé đỏ hỏn bú. Chiếc xe di chuyển chậm chạp, có khi nhích từng chút một, có khi dừng một lúc lâu. Isabelle nhìn những đồng bào của nàng đi lướt qua với nét mặt ngạc nhiên, sự hãi và bối rối. Thỉnh thoảng một ai đó đập tay vào nắp ca pô hoặc cốp xe, van xin gì đó. Mọi người nhất quyết không hạ kính xe xuống cho dù cái nóng trong xe thật kinh khủng. Lúc đầu, Isabelle chỉ thấy buồn vì phải ra đi, nhưng rồi cơn giận dữ trong nàng bùng lên, bức bối hơn cả bầu không khí hôi hám trong xe. Nàng thấy mệt mỏi vì bị xem như thứ đồ bỏ đi. Đầu tiên là cha từ bỏ nàng, sau đó đến lượt chị Vianne gạt nàng ra rìa. Isabelle nhắm mắt lại để che giấu những giọt nước mắt không thể kìm nén. Trong bóng tối nồng mùi xúc xích, mồ hôi và khói thuốc, bên cạnh bọn trẻ con đang cãi nhau chí chóe, nàng nhớ lại lần đầu tiên mình ra khỏi nhà. Trên chuyến tàu cách đây đã rất lâu... Isabelle ngồi nép bên cạnh Vianne, người chẳng làm gì khác ngoài khóc thút thít và giả vờ ngủ. Thế rồi bà kia nhìn xuống qua cái mũi như chiếc ống đồng và nói: “Chúng sẽ không sao đâu.” Mặc dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã nghĩ mình biết thế nào là cô độc, nhưng hóa ra không phải. Trong ba năm sống ở Le Jardin, ít nhất Isabelle cũng có một người chị, dù Vianne gần như chẳng bao giờ hiện diện. Isabelle còn nhớ mình đứng từ cửa sổ trên gác nhìn xuống, quan sát chị gái và đám bạn của chị từ xa, thầm cẩu xin mình được nhớ đến, được mời chơi chung. Thế rồi khi chị Vianne cưới anh Antoine và sa thải bà Bất Hạnh (đó không phải tên thật của bà ta, tất nhiên rồi, nhưng nó cũng nói lên phần nào sự thật), Isabelle đã tin rằng mình là một phần của gia đình chị. Nhưng không được lâu. Khi Vianne sẩy thai thì đó cũng là lời từ biệt chóng vánh dành cho Isabelle. Ba tuần lễ sau, ở cái tuổi lên bảy, Isabelle đã đi học ở trường nội trú đầu tiên trong đời. Đó là lúc nàng thực sự biết thế nào là cô độc. - Này, Isabelle. Cô có đem theo thức ăn không đấy? - Patricia hỏi. Chị ta quay người ra sau để quan sát Isabelle. - Không ạ. - Thế còn rượu? - Tôi chỉ đem tiền, quần áo và sách. - Sách. - Patricia xẵng giọng rồi lại quay lên. - Có ích ghê. Isabelle lại nhìn qua cửa xe. Nàng đã phạm sai lầm gì nữa đây? +++++ Nhiều giờ trôi qua. Chiếc xe lầm lũi tiến về phía nam. Isabelle thầm cảm ơn lớp bụi đã phủ kín cửa kính xe và che đi quang cảnh thê thảm đáng buồn. Con người. Khắp mọi nơi. Phía trước, đằng sau, bên cạnh họ. Đám đông dày đặc đến nỗi chiếc xe chỉ có thể nhích từng chút một. Cũng giống như lái xe qua một đàn ong chỉ tản ra một vài giây rồi lại xúm vào trở lại. Nắng nóng kinh khủng. Nắng biến bên trong xe thành một hỏa lò và đánh gục những người phụ nữ đang lũ lượt di chuyển bên ngoài về phía... Về đâu mới được? Không ai biết chính xác chuyện gì đang diễn ra phía sau lưng họ, và liệu phía trước họ có an toàn hay không. Chiếc xe đột ngột chồm tới rồi dừng lại. Isabelle đập người vào chiếc ghế phía trước. Bọn trẻ lập tức khóc đòi mẹ. - Chó chết. - Ông Humbert lầm bầm. - Bố nó. - Patricia nói với giọng nghiêm túc. - Bọn trẻ đang nghe kia. Một bà già đập vào nắp ca pô khi đi qua. - Thôi rồi, mẹ nó. - Ông Humbert nói. - Chúng ta hết xăng rồi. Patricia trông như một con cá mắc cạn. - Gì cơ? - Anh đã dừng máy bất cứ dịp nào có thể trên đường. Em biết mà. Chúng ta không còn xăng nữa, và cũng chẳng kiếm đâu ra xăng. - Nhưng mà... thế... ta phải làm gì bây giờ? - Chúng ta sẽ tìm chỗ nghỉ lại. Có lẽ anh sẽ thuyết phục được em trai anh đi đón chúng ta. - Ông Humbert mở cửa xe, cẩn thận tránh không đụng vào người đi đường, rồi bước xuống con đường bụi bặm đầy rác rưởi. - Thấy chưa. Kia kìa. Étampes không còn xa nữa. Chúng ta sẽ thuê một phòng, ăn uống gì đó và sáng hôm sau tất cả sẽ khá hơn. Isabelle ngồi thẳng lại. Chắc chắn nàng đã ngủ thiếp đi và bỏ lỡ điều gì đó. Họ sẽ bỏ cái xe lại hay sao? - Chúng ta có đi bộ nổi tới Tours không ạ? - Nàng hỏi. Patricia quay lại. Trông chị ta cũng kiệt sức và nóng bức hệt như Isabelle. - Có lẽ một cuốn trong mớ sách của cô có thể giúp được đấy. Rõ ràng chúng là lựa chọn thông minh hơn bánh mì và nước uống. Đi nào, các con. Xuống xe thôi. Isabelle thò tay xuống chiếc va li dưới chân. Nó bị mắc kẹt, khiến nàng phải nỗ lực một chút để lôi ra. Hộc một tiếng, nàng rốt cuộc cũng gỡ được cái va li và mở cửa xe bước ra ngoài. Lập tức Isabelle bị vây quanh bởi đám đông xô đẩy, chen lấn và chửi rủa. Ai đó cố giật chiếc va li khỏi tay Isabelle. Nàng ra sức giữ lại. Trong khi nàng ôm khư khư nó trong lòng, một phụ nữ đẩy một chiếc xe đạp chất đầy đồ đạc đi ngang qua. Người phụ nữ nhìn Isabelle một cách tuyệt vọng, đôi mắt đen toát lên vẻ kiệt quệ. Ai đó xô vào Isabelle làm nàng loạng choạng suýt ngã chúi. Nhờ có những người đang di chuyển ngay phía trước mà nàng không ngã quỵ xuống đất bẩn. Nghe thấy người đi bên cạnh cất tiếng xin lỗi, nàng vừa định đáp lại thì chợt nhớ tới gia đình Humbert. Isabelle luồn lách đi vòng qua phía bên kia xe, hét gọi: - Ông Humbert! Không có tiếng trả lời, chỉ có những bước chân rầm rập không ngừng nghỉ trên đường. Isabelle gọi tên Patricia, nhưng tiếng gọi của nàng bị át đi bởi tiếng chân người, tiếng lốp xe nghiến trên mặt đường bẩn thỉu. Ai đó lại va phải nàng, cố lách qua nàng. Nếu ngã xuống, nàng sẽ bị giẫm chết, ngay giữa đám đông những người đồng bào. Tay giữ chặt quai xách bằng da của chiếc va li, Isabelle gia nhập đoàn người kéo về Étampes. Vài giờ sau đó, khi trời đã tối, nàng vẫn đi mải miết. Đôi chân của nàng nhức nhối, một vết rộp khiến chân nàng đau rát theo từng bước đi. Cơn đói đi bên cạnh nàng, thúc mãi cái khuỷu tay nhọn hoắt bé xíu của nó vào nàng, nhưng nàng biết làm gì với nó bây giờ? Nàng chuẩn bị đồ đạc cho một chuyến đi tới nhà chị gái, chứ không phải một cuộc di tản bất tận. Nàng đem theo ấn bản Bà Bovary mà mình thích nhất, cùng với cuốn sách mà mọi người đều đọc, Cuốn theo chiều gió, và một ít quần áo, không hề có thức ăn nước uống. Nàng cứ ngỡ toàn bộ chuyến đi chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ chứ không nghĩ mình sẽ phải cuốc bộ tới tận Carriveau. Lên đến đỉnh một con dốc nhỏ, Isabelle dừng lại. Ánh trăng soi rõ hàng ngàn con người đang đi bên cạnh, phía trước và phía sau nàng, chen lấn, xô đẩy nàng về phía trước, cho đến khi không còn cách nào khác nàng phải lảo đảo đi tiếp. Hàng trăm người khác đã chọn sườn dốc này để làm nơi nghỉ chân. Phụ nữ và trẻ em ngồi bệt xuống vệ đường bãi cỏ hoặc rãnh nước. Con đường bẩn thỉu tràn ngập những chiếc xe hơi chết máy và đủ thứ vật dụng bị bỏ quên, bị vứt đi, bị giẫm đạp, hoặc quá nặng để mang theo. Phụ nữ và trẻ con co cụm nằm trên cỏ, dưới những gốc cây hoặc dọc theo mương rãnh, ngủ thiếp đi, tay vẫn quấn chặt lấy nhau. Isabelle kiệt sức dừng lại ở ngoại vi Étampes. Đám đông tràn về phía trước nàng, chen nhau trên con đường dẫn vào thành phố. Nàng đã hiểu ra. Étampes sẽ chẳng có chỗ nào để ở và chẳng có gì để ăn. Những người tản cư đến trước nàng có lẽ đã càn quét qua thành phố như một đàn châu chấu, mua mọi thứ thực phẩm trên các quầy hàng. Sẽ chẳng còn phòng nào trống. Tiền cũng chẳng giúp ích gì được cho nàng. Vậy nàng phải làm gì đây? Đi theo hướng tây nam, về phía Tours và Carriveau. Chứ còn gì nữa? Là một cô gái, nàng đã nghiền ngẫm các bản đồ vùng này với mục tiêu quay trở về Paris. Nàng thuộc vùng đất này, nếu có thể bình tĩnh suy nghĩ. Isabelle tách mình ra khỏi đám đông đang đi về phía những tòa nhà bằng đá xám lờ mờ dưới ánh trăng, rồi thận trọng băng qua thung lũng. Xung quanh nàng, mọi người ngồi la liệt trên cỏ hoặc nằm ngủ dưới những tấm chăn. Isabelle có thể nghe thấy họ cử động và trò chuyện. Có lẽ phải đến hàng trăm, hàng ngàn người như thế. Ở cuối cánh đồng, nàng tìm thấy một con đường mòn chạy về phía Nam, dọc theo một bức tường thấp. Bước lên đó, nàng chỉ còn lại một mình. Nàng dừng lại và để cho cảm giác ấy lan tỏa khắp người, giúp mình trấn tĩnh. Rồi nàng bước tiếp. Sau khoảng một dặm, con đường dẫn nàng tới một cánh rừng thưa gồm các loại cây thân nhỏ. Lúc Isabelle đã đi vào sâu trong rừng và đang cố lờ đi những ngón chân đau nhức, dạ dày cồn cào, cổ họng khô khốc, thì nàng chợt ngửi thấy mùi khói. Thịt nướng. Cơn đói khiến Isabelle suy sụp và trở nên bất cẩn. Nàng trông thấy quầng sáng vàng vàng của ngọn lửa và tiến về phía đó. Đến phút cuối cùng nàng mới nhận ra nguy hiểm và dừng lại. Một cành con gãy rắc dưới chân nàng. - Cô có thể lại gần. - Một giọng nam giới lên tiếng. - Cô đi như một con voi trong rừng ấy. Isabelle cứng người, nhận ra mình thật ngu ngốc. Nơi này có thể nguy hiểm với một cô gái đi một mình. - Nếu tôi muốn cô chết thì cô đã bỏ mạng lâu rồi. Đúng vậy thật. Anh ta hoàn toàn có thể lao vào nàng trong đêm tối và cắt cổ nàng. Isabelle đã không chú ý đến gì khác ngoài tiếng òng ọc trong cái dạ dày rỗng và mùi thịt nướng. - Cô có thể tin ở tôi. Isabelle căng mắt trong đêm tối, cố nhìn rõ mặt người đang nói, nhưng không thể. - Anh cũng có thể nói câu đó dù sự thật hoàn toàn ngược lại. Một tiếng cười vang lên. - Phải. Giờ thì lại gần đây. Tôi đang nướng một con thỏ. Isabelle đi về phía nguồn sáng nằm bên kia một cái rãnh, trên đồi. Những thân cây xung quanh nàng giống như được ánh trăng dát bạc. Nàng đi rất chậm, sẵn sàng bỏ chạy ngay tức khắc. Khi chỉ còn cách đống lửa một thân cây thì nàng dừng lại. Một thanh niên đang ngồi bên ngọn lửa, tựa vào một thân cây xù xì, chân co chân duỗi. Anh ta có lẽ chỉ lớn hơn Isabelle vài tuổi. Thật khó mà nhìn kỹ người thanh niên dưới ánh lửa bập bùng. Anh ta có mái tóc đen dài bết lại, trông như đã lâu không biết đến lược hay xà phòng. Bộ quần áo tả tơi và nhem nhuốc của anh ta khiến nàng nhớ tới những người tản cư thất thểu kéo qua Paris gần đây, họ tích cóp thuốc lá, giấy vụn và chai lọ rỗng để xin đổi lấy thức ăn hoặc sự giúp đỡ. Người thanh niên có cái vẻ xanh xao, yếu đuối của một kẻ không bao giờ biết bữa ăn kế tiếp của mình sẽ ra sao. Thế nhưng anh ta đang mời nàng ăn. - Tôi mong anh là một người đàng hoàng. - Isabelle nói từ chỗ nàng đang đứng, khuất trong bóng tối. Người thanh niên bật cười. - Tôi tin chắc cô đang mong điều đó. Isabelle bước vào vùng ánh sáng phát ra từ đống lửa. - Ngồi xuống đi. - Anh ta nói. Isabelle ngồi xuống đám cỏ, đối diện với anh ta. Anh chàng nghiêng người tránh đống lửa và đưa cho nàng một chai rượu vang. Nàng tu một hơi dài. Anh ta bật cười khi nàng đưa trả chai rượu và đưa tay quệt cằm. - Cô quả là một bợm nhậu xinh đẹp. Isabelle không biết phải đáp thế nào. Anh chàng lại mỉm cười. - Gaëtan Dubois. Bạn bè gọi tôi là Gaët. - Isabelle Rossignol. - A, một con chim sơn ca. Nàng nhún vai. Ghi nhận đó chẳng có gì mới mẻ. Họ của nàng có nghĩa là “chim sơn ca”. Mẹ vẫn hay gọi chị em nàng là những con chim sơn ca khi hôn chúc hai đứa ngủ ngon. Đó là một trong những ký ức ít ỏi về bà mà Isabelle còn nhớ được. - Tại sao anh rời Paris? Đàn ông như anh nên ở lại chiến đấu mới phải. - Bọn họ đã mở cửa nhà tù. Hình như dùng bọn tôi để chiến đấu cho nước Pháp sẽ hay hơn là nhốt sau song sắt khi bọn Đức tràn qua. - Anh đã ngồi tù á? - Chuyện đó có làm cô sợ không? - Không. Chỉ là... tôi không ngờ đến. - Cô nên sợ. - Gaëton nói và đưa tay vén tóc che mắt. - Dù sao thì cô cũng an toàn khi có tôi. Tôi còn nhiều chuyện khác phải tính đến. Tôi sẽ đi xem mẹ và chị gái thế nào trước khi tìm một đơn vị để gia nhập. Tôi sẽ thỏa sức giết bọn khốn nạn đó. - Anh thật may mắn. - Isabelle nhún vai đáp. Tại sao đàn ông trên đời này có thể dễ dàng làm những điều họ muốn, trong khi với phụ nữ lại khó khăn đến thế? - Đi với tôi đi. Isabelle biết tốt hơn nàng không nên tin anh ta vội. - Anh chỉ nói như thế vì tôi xinh, và anh nghĩ tôi sẽ ngủ với anh nếu ở lại. Gaëton nhìn nàng trừng trừng qua đống lửa. Ngọn lửa kêu lách tách, xèo xèo khi có mỡ nhỏ xuống. Anh ta uống một ngụm rượu rồi đưa cái chai cho nàng. Bàn tay họ chạm nhau bên ngọn lửa, hai làn da trần trụi lướt qua nhau. - Tôi có thể lên giường với cô ngay bây giờ nếu đó là điều tôi muốn. - Nhưng tôi không tự nguyện làm chuyện đó. - Isabelle đáp và nuốt khan, không thể quay nhìn đi chỗ khác. - Tự nguyện chứ. - Anh ta nói với một giọng điệu khiến nàng sởn da gà và thở gấp. - Nhưng ý tôi không phải như thế. Tôi đang rủ cô đi chiến đấu cùng tôi. Isabelle cảm thấy một điều gì đó quá mới mẻ và chưa thể nắm bắt được. Nàng biết mình xinh đẹp. Đó là một sự thật giản đơn đối với nàng. Người ta luôn nói như thế mỗi khi gặp nàng. Nàng biết đàn ông vẫn nhìn mình chòng chọc với một khao khát lộ liễu, tập trung vào mái tóc, cặp mắt xanh hoặc đôi môi mọng của nàng. Nàng biết họ nhòm ngó bộ ngực của mình như thế nào. Nàng nhìn thấy vẻ đẹp của mình phản chiếu cả trong đôi mắt của phụ nữ. Đám con gái ở trường không muốn nàng đứng quá gần những đứa con trai mà chúng thích, và coi nàng là một đứa kiêu căng trước cả khi nàng mở miệng. Cái đẹp chỉ là một cách thức khác để hạ bệ nàng, để không nhìn nhận nàng. Isabelle quen với việc thu hút sự chú ý theo cách khác. Và nàng cũng không phải hoàn toàn thơ ngây không biết đam mê là gì. Chẳng phải các xơ của trường dòng thánh Phanxicô đã đuổi cổ nàng vì dám hôn một bạn nam trong thánh lễ đó sao? Nhưng lần này là một cảm giác khác. Anh ta đã nhìn thấy vẻ đẹp của nàng, dù chỉ là trong ánh sáng nhá nhem, có thể nói như thế, nhưng anh ta nhìn xuyên qua nó. Hoặc là thế, hoặc là anh ta đủ khôn để nhận ra thứ nàng muốn cống hiến thêm cho thế giới này ngoài một gương mặt ưa nhìn. - Tôi có thể làm những việc quan trọng. - Nàng khẽ nói. - Tất nhiên rồi. Tôi có thể dạy cô cách dùng súng và dao găm. - Tôi cần phải đi tới Carriveau để chắc chắn chị gái vẫn ổn. Chồng chị ấy đang ở ngoài mặt trận. Gaëton nhìn nàng với nét mặt quả quyết. - Chúng ta sẽ đi thăm chị của cô ở Carriveau và mẹ tôi ở Poitiers, sau đó chúng ta sẽ lên đường chiến đấu. Anh ta nói như thể đó là một cuộc phiêu lưu, một chuyến bỏ nhà đi gia nhập gánh xiếc, như thể họ sẽ nhìn thấy các ông nuốt kiếm và các bà có râu vậy. Đó chính là thứ mà nàng luôn mơ tưởng đến trong đời. - Lên kế hoạch như thế nhé. - Nàng nói, không nén được nụ cười trên môi. 6 Sáng hôm sau, Isabelle hấp háy mở mắt khi ánh nắng xuyên qua tán lá xào xạc trên đầu. Nàng ngồi dậy, vuốt phẳng chiếc váy đã bị tốc lên cao trong lúc ngủ, để lộ nịt tất ren màu trắng và đôi tất lụa rách. - Đừng có đổ cho tôi đấy. Isabelle liếc nhìn sang bên trái và thấy Gaëton đang tiến đến chỗ mình. Đó là lần đầu tiên nàng nhìn thấy anh ta một cách rõ ràng. Anh chàng cao lêu nghêu, nom như một dấu phẩy và mặc bộ quần áo trông như ăn mày. Bên dưới chiếc mũ rách te tua, khuôn mặt anh chàng nhọn hoắt, râu ria tua tủa và bong vảy nhiều nơi. Anh ta có vầng trán rộng, chiếc cằm nhô ra và đôi mắt xám sâu thẳm ẩn sau hàng mi rợp. Ánh nhìn trong đôi mắt ấy cũng nhọn chẳng kém chiếc cằm, nó cho thấy một sự háu đói rõ rệt. Đêm qua nàng cứ tưởng đó là cách anh ta nhìn mình. Giờ thì nàng đã hiểu anh ta nhìn đời như thế. Gaëton không làm nàng sợ, không hề. Isabelle không giống như chị Vianne, dễ dàng hoảng sợ và lo lắng. Nhưng nàng cũng không ngu ngốc. Nếu muốn đi cùng người thanh niên này, nàng cần phải làm rõ một số chuyện. - E hèm... - Nàng lên tiếng. - Vụ nhà tù. Anh chàng nhìn nàng, nhướn một bên lông mày đen, như thể muốn hỏi “sợ rồi à?” - Một cô gái như cô sẽ chẳng hiểu gì về nó đâu. Tôi có thể nói với cô nó khá giống với Jean Valjean, và cô sẽ tưởng nó đúng là như tiểu thuyết. Chuyện này Isabelle nghe mãi rồi. Chung quy cũng tại vẻ ngoài của nàng, như những lời nhận xét ác ý thường nói. Một con bé xinh xẻo tóc vàng thì đương nhiên phải ngu đần và nông cạn. - Anh ăn trộm thức ăn cho gia đình mình à? Anh chàng nhếch mép cười bí hiểm. - Không. - Anh có nguy hiểm không? - Còn tùy. Cô nghĩ thế nào về những người cộng sản? - A, ra anh là tù chính trị. - Đại loại thế. Nhưng như tôi đã nói, một cô gái xinh đẹp như cô sẽ chẳng hiểu gì về chuyện sống sót đâu. - Anh sẽ ngạc nhiên vì những gì tôi biết đấy, Gaëton. Nhà tù không chỉ có một loại. - Thế à, cô nàng xinh đẹp? Cô biết gì về nó nào? - Anh đã phạm tội gì? - Tôi đã lấy những thứ không thuộc về mình. Trả lời như vậy đủ chưa? Trộm. - Và anh đã bị bắt. - Hiển nhiên rồi. - Chuyện đó không vui vẻ gì, Gaëton. Anh đã sơ sẩy à? - Gọi tôi là Gaët. - Anh chàng khẽ nói và tiến lại gần nàng. - Tôi chưa biết liệu chúng ta có là bạn hay không. Gaëton chạm vào tóc nàng, quấn một lọn tóc quanh ngón tay nhem nhuốc của mình. - Chúng ta là bạn. Cứ chấp nhận thế đi. Giờ thì lên đường thôi. Khi anh ta vươn tay ra để cầm lấy tay nàng, lẽ ra Isabelle đã từ chối, nhưng nàng không làm thế. Hai người ra khỏi cánh rừng và đi ngược theo con đường quay về, hòa nhập vào đám đông trở lại. Đám đông chỉ mở ra vừa đủ để họ bước vào rồi lại khép chặt quanh họ như một nắm đấm. Isabelle dùng một tay níu lấy Gaëton, tay kia xách va li. Họ đi bộ nhiều dặm. Xung quanh họ la liệt những chiếc xe hơi bất động. Những chiếc xe kéo bị hỏng khiến lũ ngựa dừng lại không thể đi tiếp. Isabelle cảm thấy mình trở nên thờ ơ và đờ đẫn, kiệt sức vì cái nóng, bụi bặm và cơn khát. Một phụ nữ vừa khóc vừa lê bước bên cạnh nàng, nước mắt của bà ta đen nhẻm vì bụi. Người phụ nữ bị thế chỗ bởi một bà già khoác áo lông đầm đìa mồ hôi trông như đang đeo mọi món trang sức mà mình có. Ánh nắng gay gắt hơn, gieo rắc cái nóng ngột ngạt đến nhức đầu. Trẻ con la khóc, phụ nữ rên rỉ. Không khí đầy mùi cơ thể và mùi mồ hôi hăng nồng, nhưng Isabelle đã quen với nó đến mức gần như không để ý tới mùi của mình hay của người khác. Lúc gần ba giờ chiều, khoảng thời gian nóng nhất trong ngày, thì hai người nhìn thấy một tốp lính Pháp đang đi bộ cùng hướng với mình, tay kéo lê mấy khẩu súng trường. Họ di chuyển một cách vô tổ chức, không theo đội hình và khá chậm chạp. Một chiếc xe tăng chạy rì rì bên cạnh họ, nghiến nát những món đồ bị vứt bỏ trên đường. Trên xe, những người lính mặt còn măng sữa ngồi thất thểu, đầu cúi gục. Isabelle buông tay Gaëton và vất vả lách qua đám đông, tiến đến gần toán lính. - Các anh đi nhầm hướng rồi! - Nàng hét lên, kinh ngạc vì giọng nói khản đặc của mình. Gaëton đấm mạnh một người lính, khiến anh ta loạng choạng lùi lại và đập người vào chiếc xe tăng đang chạy chậm rì. - Ai sẽ chiến đấu cho nước Pháp đây? - Gaëton hỏi. Người lính có đôi mắt lờ đờ lắc đầu. - Không ai cả. Isabelle thoáng thấy ánh thép trên con dao được Gaëton kề vào cổ anh lính. Anh ta nheo mắt lại và gào lên: - Làm đi. Ra tay đi. Giết tôi đi. Isabelle kéo Gaëton ra. Trong mắt anh, nàng nhìn thấy một sự phẫn nộ dữ dội đến phát sợ. Anh có thể sẽ ra tay, anh có thể cắt cổ người lính kia. Bất giác nàng nghĩ: Họ đã mở cửa nhà tù. Có khi nào Gaëton không chỉ là một tên trộm? - Gaët!- Isabelle kêu lên. Câu nói của nàng khiến Gaëton lắc đầu như muốn gạt đi rồi hạ con dao xuống. - Ai sẽ chiến đấu cho chúng ta? - Anh nói với giọng cay đắng và bật ho vài tiếng. - Chính chúng ta. - Nàng nói. - Sẽ sớm thôi. Phía sau lưng Isabelle, một chiếc xe hơi bóp còi. Nàng mặc kệ. Giờ đây đi xe cũng chẳng khá khẩm hơn cuốc bộ - những chiếc xe hiếm hoi còn chạy được đang di chuyển tùy theo sự cho phép của đám đông, tựa như những vật thể trôi dạt giữa đám lau sậy của một dòng sông đục ngầu. - Thôi nào. - Isabelle lôi Gaëton ra xa đám lính Pháp rệu rã. Họ đi tiếp, vẫn nắm tay nhau, nhưng dần dần Isabelle nhận thấy một sự thay đổi ở Gaëton. Anh hiếm khi lên tiếng và không còn mỉm cười nữa. Cứ tới mỗi thành phố thì đám đông lại mỏng đi một chút. Họ vật vờ tiến vào Artenay, Saran, và Orléans, đôi mắt bùng lên nỗi tuyệt vọng khi thò tay vào trong túi sờ lần chỗ tiền mà họ hy vọng sẽ được tiêu. Nhưng Isabelle và Gaëton vẫn tiếp tục đi. Hai người cuốc bộ cả ngày, kiệt sức ngủ thiếp đi trong đêm tối và sáng hôm sau lại thức dậy bước tiếp. Đến ngày thứ ba, Isabelle đã trở nên tê dại vì mệt mỏi. Những bọng nước nổi đầy trên các ngón chân và phần ức bàn chân khiến mỗi bước đi của nàng trở nên vô cùng đau đớn. Tình trạng mất nước khiến đầu nàng đau nhức dữ dội, trong khi cơn đói điên cuồng gặm nhấm dạ dày. Bụi lọt đầy vào mắt và cổ họng làm nàng ho liên tục. Isabelle vấp phải một nấm mồ mới đắp bên vệ đường, được đánh dấu bởi một cây thánh giá gỗ sơ sài. Giày của nàng vướng vào thứ gì đó - một con mèo đã chết - khiến nàng đâm bổ về phía trước, suýt nữa thì ngã quỵ. Gaëton giữ nàng lại. Isabelle bám vào tay anh, cương quyết đứng thẳng người lên. Tai nàng đã nghe thấy tiếng gì đó được bao lâu rồi? Một giờ? Một ngày? Những con ong. Chúng vù vù quanh đầu nàng. Isabelle xua chúng đi. Nàng liếm đôi môi khô khốc và nghĩ đến những quãng thời gian êm đềm ngồi trong vườn, với những con ong bay lượn đây đó. Không. Không phải ong. Nàng biết âm thanh này. Isabelle dừng lại, nhăn trán. Đầu óc nàng rối bời. Nàng đang cố nhớ điều gì? Âm thanh rì rì lớn dần, rồi những chiếc máy bay xuất hiện. Có sáu hay bảy chiếc cả thảy, giống như những chữ thập nhỏ trên bầu trời xanh trong không một gợn mây. Isabelle khum tay che mắt, quan sát những chiếc máy bay đang tiến đến gần họ và hạ độ cao... Ai đó rú lên: - Bọn Đức! Phía đằng xa, một cây cầu đá nổ tung trong quầng khói lửa mịt mù. Những chiếc máy bay sà xuống trên đầu đám đông. Gaëton đẩy Isabelle ngã chúi rồi nằm đè lên người nàng. Cả thế giới quanh nàng chỉ còn là những âm thanh: tiếng gầm rú của động cơ máy bay, tiếng ra-ta-ta-ta của khẩu súng máy đang nhả đạn, tiếng thình thịch của con tim nàng đang đập, và tiếng la hét của những người khác. Đạn cày rãnh trên mặt cỏ. Mọi người la hét và bật khóc. Isabelle nhìn thấy một người phụ nữ bay trên không như một con búp bê bằng giẻ rách rồi rơi thịch xuống đất, nằm bất động. Cây cối gãy gục. Lửa bùng lên. Khói tràn ngập khắp nơi. Thế rồi... im lặng. Gaëton lăn người qua một bên. - Cô vẫn ổn chứ? - Anh hỏi. Isabelle vuốt lại tóc và ngồi dậy. Xác người nằm la liệt, lẫn trong màn khói lửa. Mọi người la hét, khóc lóc và hấp hối. Một ông già rên lên: - Cứu tôi với! Isabelle bò lồm cồm tới chỗ ông ta và nhận ra máu ông đã loang đầy mặt đất. Nơi bụng ông có một vết thương toang hoác, ruột xổ hết ra ngoài. - Chắc có ai đó là bác sĩ. - Nàng chỉ có thể nói được như thế. Và rồi nàng lại nghe thấy âm thanh đó. Tiếng rì rì. - Chúng đang quay trở lại. - Gaëton kéo Isabelle đứng dậy. Nàng suýt trượt ngã trên lớp cỏ sũng máu. Cách đó không xa lắm, một quả bom phát nổ. Isabelle nhìn thấy một đứa trẻ mặc tã bẩn thỉu đang đứng khóc bên xác một người phụ nữ. Nàng loạng choạng định tiến lại gần nó. Gaëton gạt đi. -Tôi phải giúp... - Cái chết của cô sẽ không giúp ích gì cho nó đâu. - Anh gầm lên và lôi mạnh khiến nàng đau đớn. Isabelle lảo đảo đi theo Gaëton trong tình trạng đờ đẫn. Họ lách tránh những cái xác xe và xác người, đa phần đã bị nát bấy không thể phục hồi, xương lòi cả ra ngoài quần áo. Khi đi đến cuối thành phố, Gaëton kéo Isabelle vào trong một nhà thờ đá nhỏ. Những người khác đã ở đó, khom người túm tụm trong các góc tường, nấp dưới những hàng ghế, tay ôm chặt người thân. Máy bay tiếp tục gầm rú trên đầu họ, kèm theo đó là những tràng súng liên thanh. Cửa sổ ghép kính vỡ tan, những mảnh thủy tinh màu rơi rào rào như mưa, cắt cứa vào da thịt mọi người. Những cây xà gỗ kêu răng rắc, bụi và đá rơi lả tả. Đạn bay vèo vèo qua nhà thờ, găm những cánh tay và cẳng chân xuống nền nhà. Bàn lễ vỡ vụn. Gaëton nói gì đó với Isabelle và nàng đáp lại hoặc đang định làm điều đó, nàng cũng không biết nữa. Chỉ biết là trước khi kịp hiểu ra sự tình, một quả bom khác đã rít lên, rơi xuống, và mái nhà trên đầu nàng nổ tung. 7 Ngôi trường tiểu học không phải là một trường lớn theo tiêu chuẩn thành phố, nhưng cũng khá rộng rãi và có tổ chức, đủ không gian để tiếp đón bọn trẻ con của Carriveau. Trước khi trở thành trường học, tòa nhà đã từng được sử dụng để làm khu nuôi ngựa của một địa chủ giàu có, do vậy nó được thiết kế theo hình chữ U với khoảng sân trung tâm là nơi tập hợp các cỗ xe và những người lái buôn. Công trình có những bức tường đá xám, cửa chớp màu xanh sáng và sàn gỗ. Tòa nhà trong trang trại trước kia sắp xếp ngay hàng thẳng lối đã bị đánh bom trong Thế chiến I và không bao giờ được xây lại nữa. Giống như rất nhiều trường học tại các thành phố tỉnh lẻ của Pháp, nó nằm ở rìa của khu dân cư. Vianne đang ở trong lớp học, phía sau bàn giáo viên. Chị quan sát những khuôn mặt trẻ con sáng láng và dùng chiếc khăn tay đã nhàu để thấm mồ hôi ở môi trên. Dưới sàn, bên cạnh mỗi bàn học là chiếc mặt nạ phòng độc bắt buộc. Bây giờ bọn trẻ đi đâu cũng phải mang nó theo. Các ô cửa sổ mở toang và vách tường đá dày dặn giúp tránh nắng, nhưng cái nóng vẫn rất ngột ngạt. Ông Trời thừa biết, nếu không có cái nóng đè nặng thì mọi người cũng đã khó mà tập trung lắm rồi. Tin tức từ Paris thật khủng khiếp và gây kinh hãi. Tất cả những gì người ta bàn tán bây giờ là tương lai ảm đạm và hiện tại kinh hoàng: bọn Đức đã chiếm Paris. Phòng tuyến Maginot đã bị phá vỡ. Quân Pháp hoặc chết như ngả rạ trong các chiến hào hoặc tháo chạy khỏi mặt trận. Suốt ba đêm vừa rồi, sau cú điện thoại của cha, Vianne không tài nào ngủ nổi. Isabelle đang ở một nơi có Chúa mới biết giữa Paris và Carriveau, còn Antoine thì bặt vô âm tín. - Ai muốn chia động từ courir nào? - Chị hỏi với giọng mệt mỏi. - Đáng lẽ chúng em phải học tiếng Đức chứ ạ? Vianne chợt nhận ra câu hỏi đó được dành cho mình. Đám học trò lúc này tỏ ra quan tâm thấy rõ, chúng ngồi thẳng người, mắt sáng lên. - Cô xin lỗi? - Chị nói và hắng giọng, tìm cách câu giờ. - Chúng ta nên học tiếng Đức, chứ không phải tiếng Pháp. Người vừa nói câu đó là Gilles Fournier, con trai ông hàng thịt. Cha và ba người anh trai của cậu đã ra mặt trận, để lại hai mẹ con quán xuyến cửa hàng của gia đình. - Bắn súng nữa. - François gật gù đồng tình. - Mẹ em bảo bọn em sẽ cần phải học cách bắn bọn Đức. - Bà em thì bảo tất cả nên di tản. - Claire lên tiếng. - Bà vẫn còn nhớ cuộc chiến trước kia và bảo chỉ có ngu mới ở lại đây. - Bọn Đức sẽ không vượt qua sông Loire, phải không ạ? Ngồi ở giữa hàng đầu, Sophie chồm người về phía trước trên ghế, hai tay đan vào nhau đặt trên mặt bàn học, mắt mở to. Con bé cũng rối bời vì các tin đồn chẳng kém gì Vianne. Nó đã khóc mãi cho đến khi ngủ thiếp đi trong hai đêm liên tiếp vì lo lắng cho bố. Bây giờ Bébé cũng đi học cùng con bé. Sarah ngồi ngay bên cạnh người bạn thân, khuôn mặt hoảng sợ không kém. - Các em lo sợ là đúng. - Vianne nói và tiến lại gần bọn trẻ. Đêm qua chị cũng nói như vậy với Sophie và với bản thân mình, nhưng câu đó nghe thật sáo rỗng. - Em không sợ. - Gilles nói. - Em có dao. Em sẽ giết bất kỳ tên Đức bẩn thỉu nào xuất hiện ở Carriveau. Đôi mắt Sarah mở to. - Chúng đang tới đây sao? - Không đâu. - Vianne phủ nhận một cách khó nhọc. Nỗi sợ hãi làm giọng chị kéo dài ra. - Những người lính Pháp, cha, chú, anh của các em, là những người đàn ông quả cảm nhất trên thế giới. Cô tin chắc họ đang chiến đấu bảo vệ Paris, Tours và Orléans ngay trong lúc này. - Nhưng Paris đã bị chiếm rồi. - Gilles nói. - Chuyện gì đã xảy đến với những người lính Pháp ở tiền tuyến ạ? - Trong chiến tranh luôn có các trận đánh lớn và những cuộc giao tranh nhỏ. Cái nào cũng gây tổn thất hết. Người của chúng ta sẽ không bao giờ để quân Đức chiến thắng. Chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng. - Vianne tiến lại gần các em học sinh hơn. - Nhưng chúng ta, những người ở hậu phương, cũng có một vai trò nhất định. Chúng ta phải can đảm và mạnh mẽ, không tin vào những điều xấu nhất. Chúng ta phải tiếp tục sống cuộc sống của mình, như vậy những người cha, anh và... chồng mới có một cuộc sống để quay về, đúng không? - Vậy còn dì Isabelle? - Sophie lên tiếng. - Ông ngoại nói lẽ ra dì đã có mặt ở đây rồi. - Anh họ của em cũng di tản khỏi Paris. - François nói. - Anh ấy cũng không xuất hiện ở đây. - Cậu của em nói đường rất xấu. Tiếng chuông vang lên và bọn trẻ bật dậy khỏi ghế như được gắn lò xo. Chỉ trong nháy mắt, chúng đã quên bẵng chiến tranh, máy bay, nỗi sợ hãi, và trở lại là những cô bé cậu bé tám, chín tuổi được giải phóng khỏi một ngày học hè ở trường. Chúng thi nhau la hét, nói cười và chen lấn nhau chạy ùa ra cửa. Vianne thầm cảm ơn tiếng chuông. Trời ơi, chị là một giáo viên, nhưng chị biết nói gì về những hiểm nguy như thế? Làm thế nào chị có thể trấn an một đứa trẻ khi nỗi sợ hãi của bản thân chị còn đang lồng lên? Vianne lúi húi làm những việc lặt vặt - nhặt nhạnh những thứ mà mười sáu đứa trẻ bỏ quên, giũ bụi phấn khỏi chiếc khăn lau bảng, cất sách đi. Khi mọi thứ đã gọn gàng, chị nhét giấy tờ và bút chì của mình vào trong cặp da rồi lôi cái xắc tay trong ngăn kéo dưới cùng ra. Chị đội cái mũ rơm lên đầu, kẹp nó cố định, rồi rời khỏi lớp học. Chị đi lững thững trên hành lang yên ắng, vẫy tay chào những người đồng nghiệp vẫn còn chưa kết thúc giờ dạy. Nhiều lớp học đã bị đóng cửa do các giáo viên nam đã được động viên. Đến lớp của Rachel, Vianne dừng lại, quan sát cô bạn đặt cậu con trai bé bỏng vào chiếc xe nôi và đẩy ra cửa lớp. Rachel định nghỉ dạy trong học kỳ này để ở nhà trông Ari, nhưng chiến tranh đã làm đảo lộn hoàn toàn kế hoạch đó. Giờ đây bà mẹ trẻ không còn lựa chọn nào khác ngoài đưa em bé đến lớp cùng mình. - Trông cậu cũng tệ như tâm trạng của mình. - Vianne nói khi cô bạn đến gần. Mái tóc của Rachel đã bị hơi ẩm làm cho xù lên thấy rõ. - Câu này không phải để khen ngợi, nhưng vì mình đang tuyệt vọng nên có thể coi nó như một lời khen. Mà này, má cậu dính phấn đấy. Vianne lơ đãng lau má và cúi xuống chiếc xe nôi. Đứa bé đang ngủ ngon lành. - Thằng bé thế nào? - Đối với một đứa trẻ mười tháng tuổi lẽ ra được ở nhà với mẹ nhưng lại phải lang thang quanh thành phố dưới máy bay địch và suốt ngày nghe bọn nhóc mười tuổi la hét á? Nó ổn. - Rachel mỉm cười và đưa tay vén một lọn tóc ướt trên mặt trong khi cùng Vianne đi dọc hành lang. - Mình nói chuyện có vẻ chua chát lắm nhỉ? - Cũng chẳng chua chát hơn mọi người đâu. - Chà! Cái giọng điệu này hợp với cậu hơn đấy. Những nụ cười và trò giả vờ vui vẻ của cậu khiến mình sởn da gà. Rachel đẩy chiếc xe nôi qua bậc tam cấp bằng đá xuống lối đi dẫn tới khoảng sân đầy cỏ, nơi từng là sân quần ngựa và chỗ giao hàng của các thương nhân. Ở giữa sân là một đài nước bằng đá bốn trăm năm tuổi đang kêu lóc róc và nhỏ nước. - Đi nào, các con! - Rachel gọi Sophie và Sarah, lúc đó đang ngồi cạnh nhau trên một băng ghế gỗ. Hai cô bé lập tức nghe lời và chạy lên đi phía trước hai bà mẹ, miệng liên tục tán chuyện, đầu ghé sát đầu, tay nắm chặt tay. Một thế hệ bạn thân kế tiếp. Mọi người rẽ vào một hẻm nhỏ rồi tiến ra phố Victor Hugo, đối diện một quán rượu, nơi những ông già ngồi trên mấy cái ghế sắt đang uống cà phê, hút thuốc lá và luận bàn chính sự. Phía đằng trước họ, Vianne nhìn thấy ba người phụ nữ lôi thôi lếch thếch đang tập tễnh bước đi, áo quần tả tơi, khuôn mặt xám ngoét vì bụi đường. - Những người đàn bà tội nghiệp. - Rachel thở dài. - Sáng nay Hélène Ruelle nói với mình là ít nhất một chục người dân tản cư đã đến thành phố đêm qua. Những câu chuyện họ kể thật đáng lo ngại. Nhưng về khoản đơm chuyện thì không ai bằng Hélène rồi. Bình thường thì Vianne đã bình phẩm về tính nhiều chuyện của Hélène, nhưng lúc này chị không nói gì. Theo lời cha chị, Isabelle đã rời Paris được mấy ngày nhưng vẫn chưa thấy đến Le Jardin. - Mình lo cho Isabelle quá. - Chị nói. Rachel khoác tay Vianne. - Cậu còn nhớ lần đầu tiên con bé bỏ trốn khỏi trường nội trú ở Lyon không? - Lúc đó nó bảy tuổi. - Isabelle đã đi đến tận Amboise. Một mình. Không một xu dính túi. Con bé đã ngủ hai đêm trong rừng và xin xỏ để được lên tàu. Vianne gần như chẳng nhớ gì về giai đoạn đó ngoại trừ nỗi bất hạnh của mình. Khi đánh mất đứa con đầu, chị đã rơi vào tình trạng trầm cảm. Antoine đã gọi năm ấy là năm mất mát. Đó cũng là cách chị nghĩ. Khi Antoine bảo sẽ đưa Isabelle lên chỗ cha chị ở Paris, chị đã thở phào nhẹ nhõm. Bởi vậy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Isabelle bỏ trốn khỏi trường nội trú được gửi đến. Cho đến hôm nay, Vianne vẫn cảm thấy xấu hổ vì cách mình đã đối xử với cô em gái bé bỏng. - Con bé lên chín khi lần đầu tiên nó về tới Paris. - Vianne cố gắng tìm sự an ủi trong câu chuyện quen thuộc. Isabelle rất cứng đầu, kiên trì và cương quyết. Luôn như thế. - Nếu mình không nhầm thì hai năm sau đó con bé đã bị đuổi học vì trốn trường đi xem một gánh xiếc lưu động. Hay đó là lần con bé dùng khăn trải giường để trèo ra khỏi tầng hai khu ký túc xá nhỉ? - Rachel mỉm cười. - Isabelle sẽ đến được đây nếu đó là điều nó muốn. - Và chỉ có Trời mới cứu được những ai dám ngăn cản nó. - Isabelle sẽ đến bất cứ lúc nào. Mình cam đoan với cậu. Trừ phi con bé đã gặp một hoàng tứ lưu vong và đem lòng yêu anh ta. - Chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra với Isabelle. - Cậu thấy chưa? - Rachel trêu. - Cậu đã cảm thấy khá hơn rồi đấy. Giờ thì sang nhà mình uống nước chanh thôi. Đó là việc đúng đắn nhất trong một ngày nóng như thế này. +++++ Sau bữa tối, Vianne cho Sophie đi ngủ rồi xuống tầng trệt. Chị lo đến nỗi không thể thư giãn được. Sự im lặng trong ngôi nhà tiếp tục nhắc chị nhớ rằng chưa có ai đến gõ cửa. Vianne đứng ngồi không yên. Bất chấp cuộc nói chuyện với Rachel, chị không thể xua tan nỗi lo lắng và linh tính về một chuyện chẳng lành đối với Isabelle. Vianne đứng lên, ngồi xuống, rồi lại đứng lên và đi ra mở cửa. Bên ngoài, những cánh đồng trải dài dưới bầu trời đêm nhuốm màu tím và hồng. Sân nhà chị nhấp nhô những bóng hình quen thuộc của hàng cây táo được cắt tỉa cẩn thận, lừng lững chắn giữa cửa ngôi nhà và tường rào đá phủ đầy hồng leo. Phía bên kia bờ rào là con đường dẫn tới thành phố và đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết những lùm cây thân nhỏ. Chếch về phía bên phải là những cánh rừng rậm hơn, nơi chị và Antoine thường trốn vào trong đó để không bị ai quấy rầy, hồi hai người trẻ hơn bây giờ. Antoine. Isabelle. Họ đang ở đâu? Chồng chị có đang ở tiền tuyến không? Em gái chị có đang trên đường từ Paris xuống đây không? Đừng nghĩ tới chuyện đó. Chị cần làm điều gì đó. Làm vườn chẳng hạn. Để giữ cho đầu óc tập trung vào chuyện khác. Cầm đôi găng tay làm vườn đã cũ mòn, rồi xỏ chân vào đôi ủng để cạnh cửa, Vianne bước ra khu vườn nằm trên khoảng đất bằng phẳng ở giữa lán cất dụng cụ và nhà kho. Khoai tây, hành tây, cà rốt, bông cải xanh, đậu Hà Lan, dưa chuột, cà chua và củ cải được trồng thành từng luống gọn gàng. Sườn đồi tiếp giáp với mảnh vườn là nơi các loại quả mọng như mâm xôi và phúc bồn tử được trồng thành luống. Vianne khom gối trên mảnh đất thịt màu mỡ và bắt đầu nhổ cỏ. Giai đoạn đầu hạ luôn là một thời kỳ triển vọng. Tất nhiên, nhiều thứ có thể hư hỏng trong tiết trời nóng nực, nhưng nếu người ta giữ được sự ổn định và bình tĩnh, không trốn tránh nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là làm cỏ và tỉa cành, họ sẽ có thể định hướng uốn nắn sự phát triển của cây cối. Vianne luôn bảo đảm cho các luống đất được vun xới gọn ghẽ và chăm sóc bằng bàn tay khỏe khoắn nhưng mềm mại. Khu vườn trao lại cho chị những thứ còn lớn lao hơn công sức mà chị bỏ ra với nó. Khi đứng trong vườn, chị tìm được cảm giác bình yên. Chị bắt đầu nhận thức về một chuyện gì đó không ổn một cách chậm rãi, từng chút một. Đầu tiên là một âm thanh lạ, một xung động, một tiếng lịch bịch, một tiếng thì thầm. Tiếp đó là mùi: thứ gì đó hoàn toàn tương phản với mùi hương dịu ngọt trong vườn của chị, một thứ mùi chua gắt khiến chị nghĩ tới rau quả thối hỏng. Vianne lau trán, nhận ra mình đang bôi bẩn trên đó, rồi đứng dậy. Nhét đôi găng tay làm vườn vào trong túi quần, chị đi nhanh ra cổng. Trước khi chị kịp ra đến nơi thì ba người phụ nữ đột ngột xuất hiện như từ dưới đất chui lên. Họ líu ríu đứng cạnh nhau trên đường, ngay phía ngoài cổng. Một bà già ăn mặc rách rưới đang ghì sát hai người còn lại vào mình: một cô gái trẻ ẵm trên tay đứa bé, và một cô bé mười mấy tuổi, một tay xách lồng chim, tay kia cầm xẻng. Trông mắt họ long lanh như đang lên cơn sốt. Người mẹ trẻ rõ ràng đang run rẩy. Khuôn mặt họ ướt đẫm mồ hôi, ánh mắt họ tràn đầy tuyệt vọng. Bà già giơ đôi bàn tay bẩn thỉu ra phía trước. - Cô có nước uống không? - Bà hỏi câu đó với sự hoài nghi và chán nản. Vianne mở cổng. - Tất nhiên rồi. Mọi người có muốn vào nhà không? Để ngồi nghỉ một chút chẳng hạn? Bà già lắc đầu. - Chúng tôi đi trước bọn họ. Chẳng có gì cho những người ở phía sau. Vianne không hiểu bà ta muốn nói gì, nhưng chuyện đó không quan trọng. Chị chỉ thấy nhóm phụ nữ đang đói lả và kiệt sức. - Xin chờ một chút. Nói đoạn Vianne quay vào trong nhà, gom chút bánh mì, cà rốt tươi và phô mai cho họ. Tất cả những gì chị có thể chia sẻ. Chị rót đầy nước vào một vỏ chai rượu và trở ra cổng, trao cho những người phụ nữ. - Cũng không có gì nhiều. - Chị nói. - Nó còn nhiều hơn những gì chúng tôi có kể từ khi rời Tours. - Người phụ nữ trẻ nói không ra hơi. - Mọi người đã từng tới Tours à? - Vianne hỏi. - Uống đi, Sabine. - Bà già kê chai nước lên môi cô cháu gái. Vianne vừa định hỏi tiếp về Isabelle thì bà ta đáp gọn lỏn: - Bọn họ đến rồi kia. Người mẹ trẻ buột miệng rên lên và ôm chặt đứa bé hơn. Nó im lìm và tái mét đến mức Vianne nín thở. Đứa bé đã chết. Chị từng biết đến cú quắp không dễ gỡ được của sự thương tiếc, chị đã từng rơi vào tấm màn xám xịt không lối thoát vây quanh tâm trí và khiến một người mẹ cứ tiếp tục bám víu rất lâu sau khi hy vọng đã trôi qua. - Cô vào nhà đi. - Bà già nói với Vianne. - Khóa chặt cửa nẻo vào. - Nhưng... Ba người phụ nữ lảo đảo lùi lại, như thể hơi thở của chị có độc. Thế rồi chị nhìn thấy những hình khối màu đen đang băng qua cánh đồng và lù lù tiến bước trên con đường. Mùi của họ đã đi trước họ. Mồ hôi người, rác rưởi và mùi cơ thể. Khi họ tiến đến gần hơn, khối màu đen tách nhỏ ra thành những cái bóng. Vianne nhìn thấy những bóng người trên đường và trên đồng cỏ: họ đi bộ, tập tễnh, tiến bước về phía chị. Một số người đẩy xe đạp, xe nôi hoặc xe kéo. Chó sủa inh ỏi, trẻ con kêu khóc. Tiếng ho xen lẫn với tiếng hắng giọng và khò khè. Những con người đang bước đi, băng qua cánh đồng và dọc theo con đường, mỗi lúc một gần hơn, vừa đi vừa xô đẩy và nói chuyện. Vianne không thể giúp đỡ từng ấy con người. Chị chạy vội vào trong nhà và khóa cửa lại sau lưng. Tiếp đó, chị lần lượt đi đóng cửa chớp và cửa các phòng. Khi đã hoàn tất, chị đứng trong phòng khách, hoang mang, tim đập thình thịch. Ngôi nhà bắt đầu rung lên đôi chút. Các cửa sổ kêu lạch xạch, những cánh cửa chớp đập canh cách vào tường đá. Bụi rơi xuống như mưa từ trên trần. Ai đó đập thình thình vào cửa trước. Tiếng đập cửa cứ tiếp tục vang lên như búa nện khiến Vianne không biết phải làm gì. Sophie chạy xuống cầu thang, tay giữ chặt gấu Bébé trên ngực. - Mẹ ơi! Vianne mở rộng vòng tay để Sophie lao vào. Chị ôm chặt lấy con gái trong khi cuộc tấn công tăng dần. Ai đó đập rầm rầm vào cửa bên. Xoong chảo bằng đồng treo trong nhà bếp đập vào nhau loảng xoảng. Chị nghe thấy tiếng bơm ken két. Họ đang lấy nước. Vianne nói với Sophie: - Con chờ ở đây một chút. Ngồi trên trường kỷ ấy. - Mẹ đừng bỏ con lại! Vianne gỡ Sophie ra và ấn con bé ngồi xuống. Cầm lấy que cời bằng sắt, chị rón rén trèo lên cầu thang, vào phòng ngủ và len lén quan sát qua cửa sổ, thận trọng ẩn mình. Có hàng chục người đang ở trong sân nhà chị, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Họ di chuyển như một đàn sói đói. Giọng nói của họ quyện vào nhau tạo thành tiếng rú tuyệt vọng. Vianne lui lại. Nếu mấy cánh cửa bung ra thì sao? Quá nhiều người có thể phá cửa ra vào và cửa sổ, thậm chí phá tường. Chị kinh hoàng quay xuống gác, nín thở cho đến khi nhìn thấy Sophie vẫn đang ngồi an toàn trên trường kỷ. Vianne ngồi xuống bên cạnh con gái, ôm nó vào lòng. Sophie cuộn tròn người lại tựa như một đứa bé. Chị vuốt mái tóc quăn của con bé. Vào lúc này, một người mẹ tốt hơn, mạnh mẽ hơn có lẽ sẽ kể một câu chuyện cho nó nghe, nhưng Vianne đang hoảng sợ đến nỗi không nói nên lời. Tất cả những gì chị nghĩ ra là một lời cầu nguyện không đầu không đuôi. Xin làm ơn. Vianne kéo Sophie sát vào mình hơn rồi nói: - Con đi ngủ đi, Sophie. Mẹ ở lại đây. - Mẹ ơi. - Sophie kêu lên, giọng con bé gần như bị át đi bởi tiếng đập cửa. - Nếu như dì Isabelle ở ngoài kia thì sao? Vianne nhìn khuôn mặt nhỏ bé và nghiêm túc của Sophie, lúc này đã bị phủ một lớp mồ hôi và bụi. - Chúa giúp dì ấy. Chị chỉ nói được có thế. +++++ Trông thấy ngôi nhà đá xám, Isabelle bỗng cảm thấy toàn thân kiệt quệ. Vai nàng chùng xuống. Những bọng nước ở chân trở nên không thể chịu đựng nổi. Gaëton mở cổng. Nàng nghe thấy nó kêu lạch cạch như bị hỏng và xiêu vẹo mở ra. Isabelle vịn vào anh bạn cùng đi và lảo đảo tiến tới chỗ cửa trước. Nàng gõ hai lần, nhăn nhó mỗi khi những khớp ngón tay rỉ máu đập vào lớp gỗ. Không ai ra mở cửa. Nàng dùng cả hai nắm tay đập cửa và cố gọi tên chị gái, nhưng cổ họng khản đặc của nàng không thốt được nửa chữ. Isabelle loạng choạng lùi lại, gần như quỳ thụp xuống vì chán nản. - Cô có thể ngủ ở đâu đây? - Gaëton vòng cánh tay quanh eo, giữ thẳng người cô gái. - Phía sau. Dàn giây leo. Gaëton đưa nàng vòng ra sau nhà. Dưới bóng cây um tùm sực mùi hoa nhài, Isabelle khuỵu xuống. Nàng gần như không nhận thấy Gaëton đã biến đâu mất. Sau đó anh quay trở lại với một chút nước âm ấm, và nàng uống ừng ực từ trong vốc tay anh. Thế vẫn chưa đủ. Dạ dày nàng sôi lên vì đói, nó gặm nhấm sâu thẳm bên trong nàng. Khi Gaëton dợm bỏ đi lần nữa, nàng vươn tay ra, thì thào gì đó, cầu xin anh đừng bỏ nàng một mình. Thế là anh nằm xuống bên cạnh nàng, chìa cánh tay ra để nàng gối đầu. Họ nằm bên nhau trên nền đất ẩm, mắt nhìn lên những nhánh dây leo đen thẫm quấn quýt trên giàn và buông rủ xuống đất. Mùi hương nồng đượm của hoa nhài và hoa hồng đang nở quyện với hơi đất tạo nên một chốn nghỉ ngơi tuyệt vời. Thế nhưng, ngay cả tại đây, trong sự tĩnh lặng này, hai người vẫn không thể quên được những gì mình vừa trải qua và những thay đổi mới đây của họ. Nàng đã trông thấy sự thay đổi nơi Gaëton, chứng kiến cơn phẫn nộ và sự điên cuồng bất lực xóa đi tình thương trong ánh mắt và nụ cười trên môi anh. Anh gần như không nói gì kể từ sau vụ ném bom, những khi lên tiếng thì giọng anh nhát gừng và cộc lốc. Cả hai giờ đây đã hiểu hơn về chiến tranh và những điều đang tới. - Cô có thể an toàn ở đây, cùng với chị gái của mình. - Anh nói. - Tôi không muốn an toàn. Và chị tôi cũng sẽ không muốn có tôi. Isabelle trở mình để nhìn anh. Ánh trăng rớt xuống thành những vệt dài đan xen nhau, chiếu sáng đôi mắt, khuôn miệng anh, để lại chiếc mũi và cái cằm trong bóng tối. Trông anh cũng khác đi, già hẳn chỉ sau mấy ngày vừa rồi, ưu tư và giận dữ. Anh có mùi mồ hôi, mùi máu trộn lẫn với mùi bùn đất và mùi tử khí, nhưng nàng biết mình cũng đang có mùi như vậy. - Anh có từng nghe nhắc đến Edith Cavell chưa? - Nàng hỏi. - Nhìn tôi cô thấy giống một người có học lắm à? Nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: - Vâng. Anh im lặng đủ lâu để Isabelle biết nàng vừa làm anh ngạc nhiên. - Tôi biết. Bà ấy đã cứu mạng hàng trăm phi công của quân Đồng minh trong Thế chiến I. Bà nổi tiếng với câu nói “lòng yêu nước thôi chưa đủ”. Đó là người hùng của cô, một phụ nữ bị quân thù xử tử. - Một phụ nữ đã làm nên sự khác biệt. - Isabelle nói và quan sát Gaëton. - Tôi đang dựa vào anh, một tên tội phạm đồng thời là một người cộng sản, để giúp tôi tạo nên sự khác biệt. Có lẽ tôi đúng là điên rồ và bốc đồng như người ta vẫn nói. - “Người ta” là ai? - Mọi người. - Nàng dừng lời, cảm thấy dự tính của mình đang đến rất gần. Nàng đã xác định không bao giờ tin ai, thế nhưng nàng lại tin Gaëton. Anh nhìn nàng như một người quan trọng. - Anh sẽ đưa tôi theo. - Isabelle nói tiếp. - Như đã hứa. - Cô có biết những thỏa thuận như vậy thường được chốt hạ như thế nào không? - Như thế nào? - Bằng một nụ hôn. - Anh đừng đùa nữa. Chuyện này nghiêm túc mà. - Còn gì nghiêm túc hơn một nụ hôn bên bờ vực chiến tranh? - Anh mỉm cười, một nụ cười héo hắt. Cơn giận dữ chất chồng lại dâng đầy trong ánh mắt anh, và làm Isabelle thấy sợ. Nó nhắc nàng rằng thật ra nàng chẳng biết gì về anh. - Tôi sẽ hôn một người đàn ông đủ can đảm để đưa tôi vào trận đánh cùng anh ta. - Tôi thì nghĩ cô chẳng biết hôn là gì. - Anh thở dài. - Anh đừng có nói chuyện mình không biết. - Isabelle lăn người ra xa và lập tức thấy thiếu sự đụng chạm của Gaëton. Cô không tỏ ra buông thả, nàng lăn trở lại để đối diện với anh và cảm thấy hơi thở anh trên mí mắt của mình. - Vậy anh hôn tôi đi. Để ghi nhớ thỏa thuận của chúng ta. Gaëton chậm rãi đưa một tay vòng ra sau gáy Isabelle và kéo nàng xích lại gần. - Cô có chắc không? Đôi môi anh gần như chạm vào môi nàng. Isabelle không rõ anh đang hỏi về chuyện lên đường ra mặt trận hay hỏi để chắc chắn được phép hôn nàng, nhưng ngay tại đây, trong khoảnh khắc này, chuyện đó không quan trọng. Isabelle từng đổi chác những nụ hôn với bọn con trai như thể chúng là những đồng xu bị bỏ quên trên băng ghế công viên hoặc đánh rơi trên nệm ghế. Trước kia, nàng chưa một lần nào thực sự khao khát một nụ hôn. - Chắc. - Nàng thì thầm và nép vào Gaëton. Khi anh hôn, một thứ gì đó bừng nở bên trong trái tim trống rỗng và xước xát của nàng, bung ra ngoài. Lần đầu tiên trong đời, những cuốn tiểu thuyết diễm tình của nàng trở nên có ý nghĩa, nàng nhận ra tâm hồn của một người phụ nữ có thể biến đổi nhanh chóng như thế giới trong chiến tranh. - Em yêu anh. - Nàng thì thào. Isabelle đã không nói lời yêu ai từ hồi bốn tuổi, khi nàng nói yêu mẹ. Nghe thấy những từ đó, nét mặt của Gaëton bỗng thay đổi và cứng lại. Nụ cười anh dành cho nàng gượng gạo và giả tạo đến nỗi nàng không hiểu nó mang ý nghĩa gì. - Sao thế? Em đã làm gì sai à? - Không. Tất nhiên là không. - Anh nói. - Chúng ta thật may mắn vì đã tìm được nhau. - Nàng nói. - Chúng ta không may mắn đâu Isabelle. Em hãy tin tôi đi. Nói đoạn anh kéo nàng lại gần để hôn cái nữa. Isabelle thả lòng mình trôi theo những cảm giác của nụ hôn, để cho nó chiếm lấy toàn bộ vũ trụ của mình, và rốt cuộc nàng đã biết thế nào là dành trọn bản thân mình cho một ai đó. +++++ Khi Vianne thức giấc, điều chị chú ý đầu tiên là sự tĩnh lặng. Đâu đó một con chim cất tiếng hót. Chị nằm bất động trên giường lắng nghe. Bên cạnh chị, Sophie ngáy và nói mê trong giấc ngủ. Vianne đến bên cửa sổ, vén tấm che. Trong sân nhà chị, những cây táo xơ xác cành lá, cánh cổng xiêu vẹo, gãy mất hai trong ba cái bản lề. Bên kia đường, cỏ ngã rạp trên đồng, những bông hoa dại bị giẫm nát. Những người tản cư đã đi qua và bỏ lại hàng đống đồ đạc thừa thãi: va li, túi, những chiếc áo khoác quá nặng và quá dày, áo gối, xe kéo. Chị xuống nhà và cẩn thận ra mở cửa trước. Sau khi lắng tai nghe và không thấy gì, chị mở chốt và xoay nắm cửa. Họ đã tàn phá khu vườn, vặt sạch những thứ gì có thể ăn được, bỏ lại những cành cây gãy và hàng đống rác rưởi. Mọi thứ đều bị hư hỏng hoặc mất mát. Chán nản, Vianne đi vòng ra sân sau, nơi đó cũng bị càn quét. Chị đang định quay vào nhà thì nghe thấy một âm thanh gì đó. Có lẽ là một em bé đang khóc. Nó lại vang lên. Ai đó đã bỏ một đứa trẻ lại ư? Chị cẩn trọng băng qua sân tới chỗ giàn dây leo khuất sau những cây hoa hồng và hoa nhài. Isabelle đang nằm co ro dưới đất, váy rách toạc, khuôn mặt xây xát và bầm giập. Mắt trái của nàng sưng vù đến mức gần như không thể mở ra. Một mảnh giấy được ghim vào áo lót của nàng. - Isabelle! Nàng khẽ hếch cằm lên, mở một con mắt vằn tia máu. - Chị! - Isabelle cất giọng khàn khàn. - Cảm ơn vì đã nhốt em ngoài này. Vianne tiến đến quỳ bên cạnh em gái. - Isabelle, người em đầy máu và vết thương. Có phải em đã bị... Isabelle ngớ ra một lát. - À, không phải máu của em. Ơ thì... phần lớn là không. - Nàng nhìn quanh. - Gaët đâu? - Sao cơ? Isabelle lảo đảo đứng lên, suýt ngã. - Anh ấy đã bỏ em rồi sao? Đúng thật rồi. - Nàng bắt đầu khóc. - Anh ấy đã bỏ em. - Thôi nào. - Vianne dịu giọng. Nói đoạn chị đưa em gái vào trong nhà. Isabelle đá văng đôi giày vấy máu, khiến chúng đập vào tường và rơi lộp độp xuống sàn. Những bước chân đẫm máu nối nhau tiến đến phòng tắm nằm bên dưới cầu thang. Trong khi Vianne đun nước đổ vào bồn tắm, Isabelle ngồi trên sàn, duỗi hai cẳng chân và đôi bàn chân nhuốm máu, lẩm nhẩm nói một mình và quẹt nước mắt tèm lem trên má. Khi bồn tắm đã sẵn sàng, Vianne quay sang phía Isabelle, nhẹ nhàng cởi đồ cho em gái. Tựa như một đứa trẻ, Isabelle mềm oặt đi, khóc thút thít đau đớn. Vianne gỡ hàng nút ở lưng chiếc váy đã từng có màu đỏ của Isabelle và cởi nó ra, không dám thở mạnh vì sợ làm em gái ngã quỵ. Bộ đồ lót bằng ren của Isabelle loang lổ những vết máu. Vianne mở dây buộc của đai nịt bụng và bỏ nó ra. Isabelle nghiến răng bước vào bồn tắm. - Ngả ra nào. Isabelle làm theo lời chị, trong khi Vianne xối nước ấm lên tóc cô em gái, tránh không để rơi vào mắt. Cùng lúc đó, chị gội đầu và tắm cho Isabelle, luôn miệng rù rì những âm thanh vô nghĩa để xoa dịu em gái mình. Vianne giúp Isabelle ra khỏi bồn tắm và lau khô người cho em bằng một cái khăn trắng mềm mại. Isabelle nhìn chị với đôi mắt trống rỗng, quai hàm trễ xuống. - Em ngủ đi một chút nhé? - Vianne nói. - Ngủ... - Isabelle lẩm bẩm, đầu nghiêng sang một bên. Vianne mang cho Isabelle một chiếc váy ngủ thơm mùi hoa hồng và oải hương, rồi giúp em gái mặc vào. Isabelle khó khăn lắm mới giữ cho mắt không díp lại trong khi được chị gái dẫn lên phòng ngủ trên gác và giúp nàng chui vào dưới chiếc chăn mỏng. Đầu chưa kịp chạm vào gối, nàng đã ngủ thiếp đi. +++++ Isabelle thức giấc khi xung quanh tối đen. Nàng nhớ trời còn sáng khi mình ngủ thiếp đi. Nàng đang ở đâu đây? Bật ngồi dậy đột ngột đến nỗi đầu óc choáng váng, Isabelle hít vài hơi thở rồi nhìn quanh. Đây là phòng ngủ trên gác của Le Jardin. Căn phòng cũ của nàng. Nhưng nó không cho nàng cảm giác ấm áp. Đã bao nhiêu lần bà Bất Hạnh nhốt nàng trong phòng ngủ “vì muốn tốt cho nàng’? - Đừng nghĩ tới chuyện đó. - Nàng nói thành tiếng. Tiếp theo là một ký ức còn tồi tệ hơn: Gaëton. Anh ta đã bỏ rơi nàng sau tất cả mọi chuyện. Điều đó khiến trong nàng ngập tràn một cảm giác thất vọng sâu sắc quá quen thuộc. Nàng chẳng học được điều gì trong đời ư? Mọi người bỏ đi. Nàng biết. Họ bỏ nàng mà đi. Isabelle khoác lên người chiếc váy xanh mặc trong nhà mà chị Vianne đã xếp gọn ở phía cuối giường. Sau đó nàng bước xuống những bậc thang hẹp và nông, tay vịn lan can bằng sắt. Mỗi bước đi đau đớn đối với nàng là một thắng lợi. Tầng trệt của ngôi nhà khá yên tĩnh. Âm thanh duy nhất là tiếng một chiếc radio loẹt xoẹt phát ở âm lượng nhỏ. Nàng khá chắc đó là Maurice Chevalier đang hát một bài tình ca. Hoàn hảo. Vianne đang ở trong bếp, trên người khoác một chiếc tạp dề vải bông kẻ bên ngoài chiếc váy mặc nhà màu vàng nhạt. Đầu chị quàng một chiếc khăn hoa. Chị đang dùng dao gọt vỏ khoai tây. Tiếng nước sôi nhẹ vui tai vang lên phía sau lưng chị, từ một cái ấm bằng gang. Mùi thức ăn khiến Isabelle ứa nước bọt. Vianne vội vàng kéo một chiếc ghế nơi cái bàn nhỏ trong góc bếp và gọi em gái: - Đây, em ngồi đi. Isabelle thả người xuống ghế. Vianne dọn cho em gái đĩa thức ăn đã được chị chuẩn bị sẵn. Một khoanh bánh mì vẫn còn ấm, một miếng phô mai, một vệt mứt mộc qua và vài lát giăm bông. Isabelle đưa đôi bàn tay trầy xước cầm lấy khoanh bánh mì, đưa lên miệng, hít hà mùi men. Tay nàng run rẩy khi nhặt con dao, bắt đầu phết một lớp dày mứt trái cây và phô mai lên bánh mì. Nàng đặt con dao xuống bàn không được khéo, khiến nó kêu “cạch” một tiếng. Isabelle cầm bánh mì cắn một miếng. Đó là thứ ngon nhất mà nàng từng ăn trong đời. Lớp vỏ bánh cứng, ruột bánh mềm, phô mai """