" Sói Thảo Nguyên - Hermann Hesse PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sói Thảo Nguyên - Hermann Hesse PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Sói thảo nguyên Sói thảo nguyên Tác giả: Hermann Hesse Dịch giả: Lê Chu Cầu Kích thước: 13 x 20.5 cm Số trang: 316 Ngày xuất bản: 09-08-2013 Giá bìa: 80.000 ₫ Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Nguồn sách: Chào Buổi Sáng Chụp pic: kararoxbee Type minhminhvan: Phần 1 haywenchongchan: Phần 2 Heidi: Phần 3 graywonder: Phần 4 Beta: Tina Huỳnh Làm ebook: Dâu Lê Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com Giới thiệu Sói thảo nguyên là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Hermann Hesse - một nhà văn, nhà thơ và hoạ sĩ người Đức, đã từng đoạt giải Nobel văn học năm 1946. Sa chân lạc bước giữa hai thời đại, mang bản chất của sói hoang dã nguyên thủy và con người trí tuệ luôn xung đột cực độ trong dòng máu – Harry Haller thuộc những kẻ vướng nghiệp phải trải nghiệm mọi vấn nạn đời người bằng nỗi thống khổ của riêng mình ở địa ngục trần gian... Cuộc khủng hoảng tâm thần ấy không của cá biệt một người, mà là căn bệnh thời đại, là chứng loạn thần kinh của cả thế hệ trong đó có Haller, và dường như không chỉ những cá nhân yếu đuối, thấp kém mới mắc phải, mà chính ở những con người giàu thể lực, trí lực nhất, tài ba nhất… Đặc biệt mang màu sắc tự truyện và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Hermann Hesse, Sói Thảo Nguyên (1927) hòa quyện tuyệt vời tư tưởng Á Đông huyền bí siêu linh với nền văn minh châu Âu. Trong khi khắc họa sâu sắc và xúc động hành trình của một tâm hồn đi đến giải thoát, Sói Thảo Nguyên đồng thời là bức tranh thấm đẫm hương vị tình yêu hoan lạc, thể hiện đầy ám ảnh cuộc xung đột tinh thần diễn ra giữa bản chất sói và người trong một tài năng xuất chúng bị mắc kẹt giữa hai thời đại đang nung nấu chiến tranh. Không kém Ulysses [James Joyce] và Bọn làm bạc giả [André Gide] về thử nghiệm viết táo bạo, Sói Thảo Nguyên cũng là cuốn tiểu thuyết đầy thách thức, gây xáo trộn tâm trí, là phần thưởng quý giá cho những độc giả đang nỗ lực tiếp cận một nước Đức tri thức thời cận đại. “‘Anh rất muốn nhảy với em lần nữa,’ tôi nói, ngất ngây vì hơi ấm của nàng, ‘nhảy với anh vài bước, Maria nhé, anh say mê cánh tay tuyệt mỹ của em, cho anh được nắm thêm một lát nữa! Nhưng mà này, Hermine đã kêu gọi anh. Nàng đang ở địa ngục.’ ‘Em đã đoán thế mà. Vĩnh biệt, Harry, em sẽ mãi nhớ anh.’ Nàng giã biệt. Bông hồng mùa hè ấy đã đến độ và ngào ngạt hương thơm của vĩnh biệt, mùa Thu và định mệnh.” Đặc biệt mang màu sắc tự truyện và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Hermann Hesse, Sói Thảo Nguyên (1927) hòa quyện tuyệt vời tư tưởng Á Đông huyền bí siêu linh với nền văn minh châu Âu. Trong khi khắc họa sâu sắc và xúc động hành trình của một tâm hồn đi đến giải thoát, Sói Thảo Nguyên đồng thời là bức tranh thấm đẫm hương vị tình yêu hoan lạc, thể hiện đầy ám ảnh cuộc xung đột tinh thần diễn ra giữa bản chất sói và người trong một tài năng xuất chúng bị mắc kẹt giữa hai thời đại đang nung nấu chiến tranh. Không kém Ulysses [James Joyce] và Bọn làm bạc giả [André Gide] về thử nghiệm viết táo bạo, Sói Thảo Nguyên cũng là cuốn tiểu thuyết đầy thách thức, gây xáo trộn tâm trí, là phần thưởng quý giá cho những độc giả đang nỗ lực tiếp cận một nước Đức tri thức thời cận đại. Thông tin tác giả Hermann Hesse sinh ngày 2.7.1877 ở Calw vùng Wũrttemberg (Đức) và mất ngày 9.8.1962 ở Montagnola (Thụy Sĩ). Cha của ông đã sống ba năm ở Ấn Độ với tư cách là nhà truyền giáo, mẹ ông là con gái của nhà truyền giáo, nhà Ấn Độ học, tiến sĩ Hermann Gundert- một người có học vấn uyên thâm về Ấn Độ và có riêng một thư viện lớn.Năm 1890, Hermann Hesse học Trường Latinh. 1891, ông học thần học. Ông bỏ học do thấy mình không thích hợp với nghề làm giáo sĩ, rồi 1892 ông học nghề buôn bán sách. 1899-1904, ông sống ở Bael (Thụy Sĩ) và mở hiệu sách cũ. Từ 1904, ông sống ở Gaienhofen bên bờ hồ đẹp như mộng là Bodensee (bên này hồ thì thuộc về Đức, bên kia hồ thuộc Thụy Sĩ) và chuyển sang viết văn chuyên nghiệp. Cũng năm 1904 ông xuất hiện trên văn đàn với tác phẩm Peter Camenzind. Đây là một tiểu thuyết giáo dục (Bildungsroman) rất hấp dẫn bạn đọc đương thời. 1911, ngán cảnh náo nhiệt của thời cuộc nên năm 1912, Hermann Hesse sang Thụy Sĩ và nhập quốc tịch nước này. Là tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất – hơn 100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế giới. Ông sinh ra ở Đức, trong một gia đình truyện giáo Kitô giáo. Năm 1923 ông nhận quốc tịch Thụy Sĩ. Là một người Châu Âu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng phương Đông huyền bí, ông đã viết nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận chứa đựng sức mạnh tâm linh mãnh mẽ, chinh phục trí tưởng tượng và sự trung thành của nhiều thế hệ độc giả. Năm 1946, ông được trao giải Nobel Văn chương. Ông mất năm 1962. Các tác phẩm chính: - Unterm Rad (Bị chà đạp – 1906) - Peter Camenzind (1904) - Siddhartha (1922) - Kurgast (Khách dưỡng bệnh – 1925) - Die Nümberger Reise (Chuyến đi Nurnberg – 1927) - Der Steppenwolf (Sói Thảo Nguyên – 1927) - Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương Đông – 1932) - Das Glasperlenspiel (Trò chơi hạt ngọc thủy tinh – 1943) Mục lục Lời người dịch Lời Bạt viết năm 1942 cho Sói Thảo Nguyên Lời giới thiệu của người xuất bản Bút ký của Harry Haller Dành riêng cho những người điên Lời người dịch “Tôi sinh ra vào gần cuối Kỷ nguyên mới, không lâu trước khi thời Trung Cổ rục rịch quay trở lại”. Năm 1925, Hermann Hesse (1877-1962) đã mở đầu bản Sơ yếu lý lịch (Kurzgefasster Lebenslauf) khá dài của mình như thế. Giới sử học phương Tây định nghĩa Kỷ nguyên mới (Neuzeit) bắt đầu từ năm 1500 cho tới ngày nay và vẫn đang tiếp tục, còn thời Trung Cổ ở Châu Âu đã chấm dứt vào năm 1499. Nghĩa là, dưới cái nhìn của Hesse, ông chào đời vào buổi giao thời có lẽ kỳ lạ nhất trong lịch sử loài người, vì theo ông, thời Trung Cổ đen tối - đã cáo chung ở Châu Âu từ mấy thế kỷ trước, nhường chỗ cho những thời kỳ Phục Hưng và Khai Sáng - đang như một bóng ma rục rịch quay trở lại lục địa này. Và Hesse quan niệm “Đời người chỉ thật sự thống khổ, thật sự biến thành địa ngục, khi hai thời đại (…) chồng chéo lên nhau (…) Có những thời kỳ mà cả một thế hệ lạc loài vào giữa hay thời đại, giữa hai phong cách sống như thế, khiến nó mất đi mọi khả năng thấy mình đương nhiên được quyền hiện hữu, mất đi mọi tập tục, cảm tưởng được bảo bọc và mất đi tính hồn nhiên vô tư”. (Sói Thảo Nguyên). Những ý tưởng cô đơn, yếm thế này đã đến với Hesse từ rất sớm. Năm 1892 - chưa đầy mười lăm tuổi - cậu học trò Hesse nhạy cảm đã toan tự tử bằng súng lục, vì muốn “lìa đời như ráng đỏ hoàng hôn” khiến cha mẹ cậu phải đưa cậu vào bệnh viện tâm thần. Trước khi bắt đầu sáng tác Sói Thảo Nguyên vào mùa đông 1924, Hesse từng phải hứng chịu nhiều bất hạnh: năm 1916 cha ông chết, bà vợ đầu tiên mắc chứng tâm thần phân liệt phải nằm bệnh viện, con trái út lâm bệnh nặng… khiến ông cũng bị khủng hoảng, phải điều trị về tâm lý một thời gian khá dài, năm 1919 ly thân, rồi ly dị vào năm 1923. Cuộc hôn nhân với bà vợ thứ hai một năm sau đó dường như cũng không hạnh phúc ngay từ đầu, nên đã nhanh chóng tan vỡ vào năm 1927. Sói Thảo Nguyên, sáng tác trong hoàn cảnh ấy, là câu chuyện của một kẻ cảm thấy mình nửa người, nửa sói, phải hứng chịu nhiều khốn khổ cho đến khi phát hiện ra hai phương cách hầu thoát khỏi tình trạng như thế: hoặc tự sát, hoặc tìm đến với sự hài hước. Qua đôi nét nói trên (và một số chi tiết được chú thích trong bản dịch này) về cuộc đời cùng cảnh ngộ của tác giả, bạn đọc dễ dàng nhận ra nhân vật Harry Haller trong Sói Thảo Nguyên là hình tượng tiểu thuyết hóa của chính Hermann Hesse (cùng hai chữ H.H.) và những dằn vặt của con người luống tuổi cô đơn, bệnh hoạn này không phải là huyễn tưởng. Các quán rượu, khách sạn, vũ hội trong truyện đều có thật - được tác giả giữ nguyên tên hoăc thay đổi - là những nơi Hesse thường lui tới trong thời gian sáng tác Sói Thảo Nguyên ở Basel và Zürich (Thụy Sĩ). Yếu tố “tự truyện” trong Sói Thảo Nguyên đậm nét hơn hẳn trong những tác phẩm trước và sau đó của ông như Unterm Rad (Bị hủy hoại), Demian, Narziss und Goldmund (Narziss và Goldmund). Năm 1946, Hermann Hesse được trao tặng giải Nobel Văn chương cho sự nghiệp văn học của ông; Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá Sói Thảo Nguyên là “đặc sắc” trong số những tác phẩm chịu ảnh hưởng phân tâm học của Freud vào mấy thập niên đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, khi Sói Thảo Nguyên xuất bản lần đầu vào năm 1927, giới phê bình văn học ở Đức tỏ ra lạnh nhạt, thậm chí thù địch! Có lẽ vì nhiều người trong giới ấy chưa thể quên Hesse đã kịch liệt lên án Thế Chiến I mà “Tổ quốc của họ” - và của ông - phải chịu trách nhiệm, đã đăng báo một tiểu luận kêu gọi giới trí thức Đức thoát ra khỏi chủ nghĩa dân tộc và yêu nước hẹp hòi; đặc biệt họ cố tình bưng tai, bịt mắt trước lời cảnh báo của tác giả về một cuộc chiến tranh mới, được đất nước Đức của họ và của ông chuẩn bị ráo riết lúc bấy giờ - mười hai năm trước khi Thế chiến II bùng nổ. Thậm chí Sói Thảo Nguyên còn bị quy chụp là nguyên nhân đã có độc giả tự sát - bệnh cạnh những “hiểu nhầm” khác, nên năm 1942 ông phải viết “Lời Bạt” minh định “quyển sách tuy kể về những đau khổ và cùng quẫn, nhưng hoàn toàn không phải là sách của một kẻ tuyệt vọng, mà của một người tin tưởng”. Song, qua Sói Thảo Nguyên, Hesse không chỉ nói lên nỗi cô đơn của con người trong xã hội cùng sự giằng xé giữa “nhân tính” và “thú tính” của cá nhân, mà còn kêu gọi hoà bình, và thật đáng ngạc nhiên: ngay từ những năm 1920 ông cũng đã đồng thời cảnh báo, dù chỉ thoáng qua, về xung đột giữa con người và kỹ thuật, về sự hủy hoại Trái Đất bởi những tập đoàn tài chính lòng tham vô hạn - những nguy cơ luôn rất thời sự trên thế giới! Thơ văn của Hermann Hesse đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Độc giả Nhật Bản đặc biệt ái mộ ông. Ở Hoa Kỳ, Hesse rất được ưa chuộng trong những thập niên đất nước này ồ ạt can thiệp quân sự vào Việt Nam; độc giả Mỹ coi ông là đại biểu cho lập trường phản chiến và không khuất phục trước uy quyền. “Mong mỗi người [khi đọc Sói Thảo Nguyên] rút ra được từ đó những điều tương ứng và lợi lạc với mình” - như Hesse viết trong “Lời Bạt”. Lê Chu Cầu Lời Bạt viết năm 1942 cho Sói Thảo Nguyên[1] [1] Nachwort zum Steppenwolf (Volker Michels, Materialien zu Hermann Hesses “Der Steppenwolf” - Tư liệu về Sói Thảo Nguyên của Hermann Hesse - Suhrkamp Verlag, Frankfurt a.M., 1972) - Mọi chú thích trong sách đều là của người dịch - LCC Người ta có thể hiểu và hiểu nhầm thơ văn theo nhiều cách. Trong phần lớn các trường hợp, tác giả không phải là cơ quan có chức năng quyết định bạn đọc hiểu được tới đâu trong tác phẩm, rồi sau đó bắt đầu sự hiểu nhầm. Nhiều tác giả được bạn đọc thấy tác phẩm của họ rành mạch hơn là chính họ. Dẫu sao, trong hoàn cảnh nào đó những hiểu nhầm vẫn có thể bổ ích. Vả chăng, theo tôi thấy thì dường như Sói Thảo Nguyên bị hiểu nhầm ghê gớm hơn bất kỳ tác phẩm nào khác trong các trước tác của tôi và thường là ở chính những bạn đọc tán thành, thậm chí nồng nhiệt hoan nghênh, chứ không phải ở những kẻ bài bác, những kẻ đã nhận định về quyển sách này theo kiểu khiến tôi phải kinh dị. Nguyên nhân thường đưa đến những trường hợp ấy phần vì, nhưng chỉ phần nào thôi, quyển sách này do một người năm mươi tuổi viết ra và nói về những vấn đề của chính lứa tuổi đó, nhưng nó lại rất thường rơi vào tay các bạn đọc quá trẻ. Nhưng tôi cũng thường thấy trong số các bạn đọc cùng lứa tuổi với tôi những người tuy có ấn tượng về quyển sách này, song lạ lùng sao họ chỉ thấu hiểu được một nửa nội dung của nó. Những bạn đọc ấy, dường như là vậy, đã tìm lại được chính mình trong Sói Thảo Nguyên, đã đồng nhất với hắn, đã cùng đau khổ những nỗi đau và cùng mơ những giấc mơ của hắn mà quên bẵng rằng quyển sách này cũng biết và nói về chuyện khác hơn là về Harry Haller cùng những khó khăn của hắn, rằng có một thế giới thứ hai cao cả hơn, bất diệt, vượt lên trên Sói Thảo Nguyên cùng cuộc đời đầy rẫy vấn đề của hắn, rằng tập Luận thuyết cùng hết thảy những đoạn bàn về tinh thần, nghệ thuật và “những người bất tử” trong quyển sách đã đối nghịch với cái thế giới đau khổ của Sói Thảo Nguyên bằng một thế giới của niềm tin tích cực, vui tươi, vượt khỏi phạm vi cá nhân và phi thời gian, rằng quyển sách tuy kể về những đau khổ và cùng quẫn nhưng hoàn toàn không phải là sách của một kẻ tuyệt vọng, mà của một người tin tưởng. Tất nhiên tôi không thể và không muốn quy định độc giả phải hiểu cuốn tiểu thuyết của tôi theo cách nào. Mong mỗi người rút ra được từ nó những điều tương ứng và lợi lạc với mình! Nhưng tôi sẽ thích thú nếu nhiều người trong số đó nhận ra được rằng câu chuyện của Sói Thảo Nguyên tuy diễn tả một thứ bệnh và sự khủng hoảng, song không phải thứ bệnh đưa tới cái chết, không phải một sự diệt vong, mà ngược lại: một sự chữa lành. Hermann Hesse Lời giới thiệu của người xuất bản Quyển sách này chứa đựng những ghi ghép còn lưu giữ được của một người đàn ông, người mà hai dì cháu tôi gọi là “con Sói Thảo Nguyên” như chính ông thường tự xưng. Tập di cảo của ông có cần được giới thiệu tỉ mỉ hay không là điều hãy tạm để ngỏ. Riêng tôi dẫu sao vẫn có nhu cầu góp thêm vài trang vào cảo bản này của Sói Thảo Nguyên, trong đó tôi cố ghi lại hồi ức của mình về ông. Những gì tôi biết về ông thật quá ít ỏi, quá khứ và lai lịch của ông thì tôi hoàn toàn không rõ. Nhưng nhân cách của ông đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu đậm và phải nói rằng dù sau cũng gây cho tôi rất nhiều thiện cảm. Sói Thảo Nguyên là một người đàn ông tuổi trạc ngũ tuần, một ngày nọ, cách đây vài năm, đã đến nhà dì tôi, nói muốn tìm một căn phòng sẵn đồ đạc. Ông thuê căn gác xép sát mái và phòng ngủ nhỏ bên cạnh[1]. Ít hôm sau ông trở lại với hai chiếc rương cùng một thùng sách lớn, rồi ở với dì cháu tôi chín hay mười tháng gì đấy. Ông sống rất lặng lẽ và khép kín. Nếu phòng ngủ của ông và tôi không sát liền, đưa đến những lần gặp gỡ ngẫu nhiên trên cầu thang hay hành lang, thì hẳn hai bên chẳng bao giờ quen biết nhau, vì ông không phải là người thích giao tiếp; ông là người ưa cô độc tới mức tôi chưa từng thấy ai như thế; đúng là một con sói thảo nguyên, như thỉnh thoảng ông vẫn tự xưng, một sinh vật xa lạ, hoang dại và nhút nhát, thậm chí cực kỳ nhút nhát, đến từ một thế giới khác với thế giới của tôi. Ông đã sống, do bẩm sinh cùng số mạng, kiếp cô đơn tới mức nào và đã chấp nhận - có ý thức - đến đâu rằng đó là định mệnh của mình, điều này tất nhiên tôi chỉ được biết qua những ghi chép ông để lại. Tuy nhiên trước đấy tôi cũng đã biết đôi chút về ông sau ít lần gặp gỡ và trò chuyện ngắn ngủi để thấy rằng hình ảnh mình có được qua những ghi chép này cơ bản khớp với điều tôi cảm nhận một cách mờ nhạt và thiếu sót, đương nhiên rồi, qua những lần gặp gỡ nọ. [1] Mùa đông năm 1924, Hesse (lúc ấy 47 tuổi, đã cùng với gia đình cư ngụ tại Thụy Sĩ từ năm 1912) đến thành phố Basel thuê một căn gác sát mái gồm hai phòng để sáng tác Sói Thảo Nguyên; đầu năm 1927 ông hoàn thành tác phẩm này ở Zürich. Tình cờ tôi có mặt lúc Sói Thảo Nguyên bước vào nhà chúng tôi lần đầu tiên và trở thành khách trọ của dì tôi. Ông đến vào giờ ăn trưa, trên bàn còn đầy chén đĩa, mà tôi thì nửa giờ nữa mới phải trở lại văn phòng. Tôi không quên được ấn tượng lạ lùng và rất mâu thuẫn mà ông đã gây ra cho tôi ở lần gặp gỡ đầu tiên ấy. Ông bước vào nhà qua cánh cửa kính, sau khi đã kéo chuông. Dì tôi hỏi trong hành lang tranh tối tranh sáng rằng ông muốn gì, còn ông, con sói thảo nguyên, lại nghếch cái đầu với mái tóc ngắn ngủn, quay qua quay lại hỉnh hỉnh mũi đánh hơi một cách căng thẳng, rồi nói trước khi trả lời và xưng danh tính: “Ôi chao, ở đây thơm quá”. Ông mỉm cười nữa chứ và bà dì hiền hậu của tôi cũng mỉm cười theo, còn tôi thấy lời giáo đầu này có vẻ kỳ quặc, nên không mấy ưa ông. “Đúng ra thì,” ông nói,“tôi đến vì căn phòng bà định cho thuê”. Chỉ khi ba người chúng tôi leo cầu thang lên tầng sát mái, tôi mới nhìn ông được kỹ hơn. Ông không cao lắm, nhưng có tướng đi và diện mạo của một kẻ vóc dáng to lớn; ông khoác chiếc áo măng tô mùa đông hợp thời trang, vừa vặn, bộ y phục trông tạm được tuy có hơi luộm thuộm, mày râu nhẵn nhụi, mái tóc cắt ngắn đã hoa râm. Mới đầu dáng đi của ông khiến tôi thấy khó ưa vì có vẻ gì nhọc nhằn và lưỡng lự, không hợp với những đường nét góc cạnh của khuôn mặt cũng như giọng điệu trong lời nói của ông. Mãi sau tôi mới nhận ra và được biết vì ông bệnh tật[2] nên việc đi đứng khiến ông mệt nhọc. Với kiểu mỉm cười chỉ riêng ông có được, lúc đó quả đã làm tôi khó chịu, ông quan sát cầu thang, mấy bức tường, cửa sổ và những chiếc tủ cao, cổ kính, đặt trên khoang cầu thang nằm giữa hai tầng. Dường như ông hài lòng với mọi thứ này, đồng thời lại thấy chúng nực cười thế nào ấy. Nói chung cả con người ông gây ra ấn tượng như thể ông đến với chúng tôi từ một thế giới xa lạ, chẳng hạn từ những nước nằm bên kia bờ đại dương, nên thấy mọi thứ nơi đây trông xinh xắn thật, nhưng có hơi kỳ quặc. Ông lễ độ, tôi không thể nào nói khác được, thậm chí rất đáng mến nữa. Ông lập tức tỏ ý bằng lòng về ngôi nhà, chẳng kì kèo gì, nhưng quanh người đàn ông ấy dường như bao phủ một bầu không khí xa lạ và gây cảm giác bất ổn, hoặc thái độ kình địch, như tôi cảm nhận lúc đó. Ông thuê căn gác xép kèm cả phòng ngủ, chăm chú và vui vẻ nghe dì tôi giải thích về lò sưởi, nước nôi, chuyện phục vụ và các quy định phải tuân thủ trong nhà; ông đồng ý hết, lại còn đề nghị trả trước tiền thuê phòng, nhưng vẫn có vẻ lạ lẫm, tựa hồ bản thân ông thấy việc mình làm là kỳ quặc và không đáng quan tâm, như thể việc thuê phòng cùng trò chuyện với người khác bằng tiếng Đức là điều gì khác thường và mới lạ, còn suốt thời gian đó thực ra trong thâm tâm ông bận nghĩ đến chuyện khác. Ấn tượng đầu tiên của tôi đại khái như thế, chẳng phải là cảm tưởng tốt, nếu không có bao chuyện nho nhỏ khác khiến nó phải được xét lại và sửa đổi. Trước hết là gương mặt mà tôi có cảm tình ngay từ đầu của người đàn ông ấy; bất chấp vẻ xa lạ nọ, tôi vẫn thấy mến nó; có lẽ đó là một gương mặt khá độc đáo, hơi u buồn, nhưng ẩn một tâm trí linh hoạt, chìm đắm suy tư, luôn chiêm nghiệm sâu sắc những gì quanh mình. Rồi, như để tôi thấy ông đáng mến hơn, ông quả có cố gắng lấy một cung cách lễ độ và lịch thiệp, nhưng hoàn toàn không kênh kiệu; ngược lại còn có chút gây mủi lòng, như thể ông đang nài nỉ van lơn, mà mãi sau tôi mới lý giải được, nhưng ngay lúc ấy cũng đã khiến tôi có thiện cảm với ông đôi chút. [2] Hesse mang trong người khá nhiều bệnh trầm kha (nên năm 1946 ông không thể đến Stockholm - thủ đô Thụy Điển - nhận giải Nobel). Việc thăm thú hai căn phòng và thương lượng chưa xong xuôi thì tôi đã hết giờ nghỉ trưa, phải quay lại nhiệm sở. Tôi cáo từ và để dì tôi tiếp ông. Chiều về, dì kể rằng ông khách lạ đã thuê rồi và nay mai sẽ dọn vào; ông chỉ yêu cầu đừng khai báo việc ở trọ của ông, vì một người bệnh tật như ông thật khó kham nổi phải tới Sở Cảnh Sát làm thủ tục và loanh quanh chầu chực, vân vân. Tôi còn nhớ rất rõ lúc đó chuyện này đã khiến tôi cảnh giác như thế nào và cảnh báo dì đừng đáp ứng điều kiện ấy. Tôi thấy việc e ngại cảnh sát thật quá khớp với vẻ xa lạ nơi người đàn ông nọ, nếu không nói là rất đáng ngờ, khiến người khác thấy thiếu tin cậy. Tôi giải thích để dì hiểu dù thế nào cũng không nên đáp ứng yêu cầu khá kỳ quái của một kẻ lạ hoắc, vì dì có thể sẽ gặp những hậu quả rất không hay. Nhưng hóa ra dì đã nhận lời ông rồi và quả thật dì đã bị một người lạ mê hoặc, vì xưa nay dì chưa hề nhận khách trọ nếu không chớm thấy có được với họ một mối quan hệ giữa con người với nhau, thân thiết như dì cháu hoặc hơn nữa như mẹ con, nên từng bị một vài khách trọ trước đây ra sức lợi dụng. Mấy tuần đầu quả có như thế thật, khiến tôi đã chê trách người khách trọ mới về đôi ba điều, còn dì tôi lần nào cũng đều hăng hái bênh vực ông. Vì tôi không hài lòng việc tránh khai báo với cảnh sát, nên muốn ít ra được rõ dì tôi biết gì về người khách lạ, về gốc gác và dự tính của ông. Hóa ra dì đã biết được điều này điều nọ rồi, dù ông chỉ nán lại rất ngắn sau khi tôi đi khỏi quãng giữa trưa. Ông nói với dì rằng ông định ở lại thành phố chúng tôi vài tháng, đến làm việc ở các thư viện và đi thăm viếng những di tích cổ xưa của thành phố. Đúng ra việc ông chỉ thuê phòng ngắn hạn như thế không phù hợp với dự tính của dì tôi, song rõ ràng ông đã chiếm được tình cảm của dì, dù cách xuất hiện của ông khá khác thường. Nói tóm lại, hai căn phòng đã cho thuê và lời phản đối của tôi là quá muộn màng. “Sao ông ấy lại bảo ở đây thơm nhỉ?” tôi hỏi. Dì tôi, đôi khi linh cảm rất tài, liền đáp: “Chuyện ấy dì biết rõ lắm. Nhà mình toát ra sự sạch sẽ, ngăn nắp và một nếp sống thân mật, đoàng hoàng, điều đó khiến ông ấy hài lòng. Ông ấy trông như thế lâu nay không được sống như thế, nên thấy thiếu thốn”. À vâng, cứ cho là thế đi, tôi nghĩ. “Nhưng,” tôi nói,“nếu ông ấy không còn quen với một nếp sống trật tự và đàng hoàng thì sẽ xảy ra chuyện gì đâu? Dì sẽ làm gì, nếu ông ấy ăn ở không sạch sẽ, làm nhơ bẩn mọi thứ hoặc say bí tỉ về nhà lúc đếm hôm khuya khoắt?” “Thì hẵng để xem sao đã” dì nói rồi cười, và thế là tôi cũng bỏ qua luôn. Quả thật những lo ngại của rôi là vô căn cứ. Tuy hoàn toàn không có một cuộc sống trật tự và khuôn phép, ông khách trọ không hề gây phiền hà hay phương hại gì cho chúng tôi; tới hôm nay dì cháu tôi vẫn còn nghĩ đến ông với lòng quý mến. Nhưng trong thâm tâm, tận đáy lòng chúng tôi, người đàn ông này đã gây xáo trộn, đã khiến hai dì cháu tôi phiền muộn rất nhiều, và phải nói thẳng rằng còn lâu tôi mới dứt được mối quan hệ với ông. Ban đêm tôi vẫn thỉnh thoảng mơ thấy ông và cảm thấy rằng ông, rằng chỉ riêng sự hiện hữu của một người như ông, đã khiến tôi lo âu và bị xáo trộn hoàn toàn, mặc dù tôi thật lòng quý mến ông. Hai ngày sau, một phu xe chở hành lý của người khách lạ đến nhà; ông tên là Harry Haller. Một chiếc va li thật đẹp bằng da khiến tôi có ấn tượng tốt và một chiếc hòm lớn phẳng phiu, loại dùng đi tàu thủy, với những dấu hiệu cho thấy dường như nó đã từng viễn du, ít ra nó được dán đầy nhãn hiệu đã ố vàng của lắm khách sạn và hãng vận tải nhiều nước, cả những nước bên kia đại dương. Rồi ông xuất hiện và thời kỳ tôi dần dà làm quen với con người lạ lùng ấy bắt đầu. Thoạt tiên, về phần mình, tôi không hề chủ động. Mặc dù tôi đã quan tâm đến Haller ngay từ phút đầu trông thấy ông, nhưng trong vài tuần lễ đầu tôi không làm gì để gặp hay bắt chuyện với ông. Ngược lại, tôi phải thú nhận điều này, ngay từ đầu tôi đã theo dõi ông đôi chút, thỉnh thoảng còn vào cả phòng ông khi ông đi vắng và đã làm trò do thám vặt - chẳng qua vì tò mò. Về bề ngoài của Sói Thảo Nguyên tôi đã kể đôi điều rồi. Thoạt nhìn, ông gây ấn tượng là một nhân vật đáng chú ý, hiếm thấy và có năng khiếu khác thường; gương mặt ông đầy vẻ sắc sảo; sự biến đổi cực kỳ tế nhị và linh hoạt của nét mặt phản ánh một cuộc sống nội tâm phong phú, hết sức sinh động, vô cùng tinh tế và mẫn cảm, Khi trò chuyện cùng ông, lúc ông - không phải lúc nào cũng thế - bước qua giới hạn của loại ngôn từ đã thành quy ước để nói ra những lời riêng tư từ cõi lạ của ông, thì những kẻ như tôi chịu quy phục ngay lập tức. Ông suy nghĩ nhiều hơn người khác; về những vấn đề tri thức ông tỏ ra khách quan gần như lạnh lùng, một kiểu suy nghiệm và hiểu biết đầy tự tin, thái độ mà chỉ những người thật sự trí thức mới có được, những người không còn chút tham vọng nào, những người không bao giờ muốn nổi bật hoặc định thuyết phục người khác, hay quyết giành lẽ phải về mình. Tôi còn nhớ một câu nói thuộc loại như thế của ông trong thời gian cuối ông ở đây, thật ra gọi là câu nói thì không đúng, vì nó chỉ diễn ra qua một ánh mắt thôi. Bấy giờ có một nhà sử học, kiêm triết gia và phê bình văn học lừng danh khắp châu Âu, cho biết sẽ có một buổi thuyết trình tại hội trường đại học; tôi đã thuyết phụ được Sói Thảo Nguyên đi nghe, dù mới đầu ông hoàn toàn không hứng thú. Chúng tôi cùng đi và ngồi cạnh nhau trong giảng đường. Lúc diễn giả bước lên bục và bắt đầu bài diễn thuyết, ông ta đã làm thất vọng một số cử tọa, những người chờ đợi nơi ông một đấng tiên tri, qua lối xuất hiện khá làm dáng và hợm hĩnh của mình. Khi ông mở miệng bằng đôi lời tán dương thính giả và cảm ơn sự tham dự đông đảo của họ, Sói Thảo Nguyên liền liến nhìn tôi, một cái nhìn ngắn ngủi phê phán những lời nói nọ và toàn bộ con người diễn giả; chao ơi, một cái nhìn đáng sợ, không thể nào quên, và ta có thể viết cả một quyển sách về ý nghĩa của nó! Cái nhìn ấy không chỉ phê phán diễn giả và hủy diệt nhân vật nổi tiếng nọ bằng một kiểu mỉa mai nhẹ nhàng; thế là còn ít. Đúng ra ánh mắt ấy hàm chứa ưu sầu hơn là mỉa mai, thậm chí một nỗi ưu sầu tột cùng, đến thành vô vọng. Vẻ tuyệt vọng âm thầm của ánh mắt ấy có thể nói đã trở thành thói quen và cung cách của ông. Bằng độ sáng tuyệt vọng, nó soi thấu không chỉ nhân phẩm nhà diễn thuyết hợm hĩnh, nó châm biếm và kết liễu giây phút ấy, châm biếm và kết liễu sự chờ đợi cùng tâm trạng của công chúng, châm biếm và kết liễu cái tựa đề có phần kênh kiệu của bài diễn thuyết được công bố - không, ánh mắt của Sói Thảo Nguyên còn xuyên suốt hết thời đại chúng ta, xuyên suốt tấn tuồng lăng xăng bận rộn, thói hãnh tiến, hợm mình, xuyên suốt trò đùa hời hợt của đời sống tinh thần khoác lác, nông cạn - ôi chao, khốn khổ thay nó còn nhìn sâu hơn nữa, vượt khỏi những thiếu sót và tuyệt vọng của thời đại chúng ta, quá khỏi đời sống tinh thần và nền văn hóa của chúng ta. Ánh mắt ấy xuyên thẳng đến trọng điểm của tất cả bản chất con người, nó hùng biện diễn tả chỉ trong vài giây hết thảy nỗi hoài nghi của một nhà tư tưởng, kẻ có lẽ tỏ tường hơn ai hết về nhân phẩm và ý nghĩa của đời người. Cái nhìn ấy bảo: “Xem kìa, lũ khỉ kia là chúng ta đấy! Xem kìa, con người là thế đấy!” và mọi tiếng tăm, thông thái, mọi thành tựu của trí tuệ, mọi hăm hở vươn tới sự trác việt, sự vĩ đại và trường tồn trong bản chất con người đều đổ ụp, chỉ còn là trò nghịch ngợm của lũ khỉ thôi! Thế này là tôi đã nói trước khá nhiều rồi, ngược với dự tính và ý muốn của tôi; đại thể tôi đã nói ra điều cơ bản về Haller mất rồi, trong khi mới đầu tôi định từng bước vén bức màn che phủ chân dung con người ông qua việc kể lại từng giai đoạn của quá trình tôi tìm hiểu ông. Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com Lỡ nói trước rồi thành thử bây giờ tôi không cần thiết kể thêm nữa về sự “xa lạ” bí ẩn của Haller, cũng như tường thuật tỉ mỉ bằng cách nào tôi đã dần dà phỏng đoán và hiểu ra nguyên do và ý nghĩa của sự xa lạ này, của hoàn cảnh sống đơn độc khác thường và đáng sợ này. Như thế lại tốt hơn, vì tôi muốn cá nhân mình đứng khuất phía sau càng xa càng hay. Tôi không muốn làm một màn công bố những điều mình tin tưởng, hoặc sáng tác truyện ngắn, hoặc mổ xẻ tâm lý, mà chỉ muốn làm chứng nhân góp đôi chút vào hình ảnh một con người độc đáo, kẻ đã để lại tập di cảo Sói Thảo Nguyên này đây. Ngay phút đầu tiên nhìn thấy ông, khi ông bước qua tấm cửa kính vào nhà dì tôi, đầu nghếch lên như một con chim và tấm tắc khen trong nhà có mùi thơm, tôi đã thấy ngay một vẻ gì khác thường nơi người đàn ông này, và phản ứng khờ khạo đầu tiên của tôi là ác cảm. Tôi cảm thấy (dì tôi, ngược hẳn với tôi, hoàn toàn chẳng trí thức tí nào, cũng cảm thấy gần như thế) - tôi cảm thấy người đàn ông này bệnh hoạn, về tâm thần hoặc tình cảm hoặc tính khí gì đó, nên tôi đã phản kháng với bản năng của kẻ lành mạnh. Với thời gian, thái độ phản kháng này nhường chỗ cho lòng quý mến, dựa trên sự đồng cảm sâu sắc với con người triền miên đau khổ vô cùng tận này, mà tôi là người cùng chứng kiến tình cảnh ngày càng cô độc và cái chết dần mòn trong tâm can ông. Theo thời gian tôi rõ dần rằng bệnh tật này không phải do thể tạng ông thiếu kém gì, mà ngược lại do thiếu quân bình giữa tài năng sung mãn và thể lực của ông. Tôi nhận thấy Haller là thiên tài của khổ đau, hiểu theo nghĩa một số câu nói của triết gia Nietzsche[3],ông đã tạo trong con người mình một khả năng thần sầu, khủng khiếp, vô bờ bến để chịu đựng khổ đau. Đồng thời tôi nhận thấy không phải sự khinh miệt thế giới, mà sự khinh bỉ chính mình mới là nền tảng cho sự yếm thế của ông, vì khi ông mạt sát không khoan nhượng và tàn tệ về những định chế hoặc cá nhân, ông không hề loại trừ mình ra, mà luôn coi mình là đối tượng đầu tiên cho những mũi tên của ông, luôn là người đầu tiên ông căm ghét và bác bỏ… [3] Friedrich Nietzsche (1844-1900): triết gia Đức, mới ngoài 30 tuổi đã phải chịu nhiều đau khổ vì bệnh tật. Tôi phải thêm vào đây một nhận xét về tâm lý. Dẫu chỉ biết rất sơ sài về cuộc đời Sói Thảo Nguyên, tôi vẫn có đầy đủ lý lẽ để cho rằng thuở nhỏ ông được mẹ cha cùng các vị thầy đầy nhân ái, nhưng nghiêm khắc và rất mộ đạo[4] dạy dỗ; họ lấy “bẻ gãy ý chí” làm nền tảng của việc giáo dục. Việc hủy hoại nhân cách và bẻ gãy ý chí nọ không thành công ở cậu học trò này, vì cậu quá kiên cường, vững chãi, biết tự hào và có sức mạnh tinh thần[5].Thay vì hủy hoại nhân cách, lối giáo dục kia chỉ dạy được cậu một điều: tự căm ghét mình. Nay cả đời ông hướng mọi khả năng tưởng tượng thần sầu, vận dụng mọi sức mạnh trong suy nghĩ tự chống lại mình, chống lại đối tượng vô tội và cao quý ấy. Trong việc này, dẫu sao, ông vẫn là một người Cơ Đốc giáo hoàn toàn, một kẻ tuẫn đạo đúng nghĩa, nên mọi biện pháp gắt gao, mọi chê bai chỉ trích, mọi hành vi hiểm độc, mọi căm hận - mà ông tưởng tượng ra được - ông đều hướng tất cả vào mình trước hết. Với mọi người khác và thế giới xung quanh, ông luôn luôn cố gắng yêu thương họ bằng những hành động dũng cảm và nghiêm túc nhất, công tâm với họ, không làm họ đau khổ, vì ông ghi lòng tạc dạ câu “Ngươi phải yêu thương đồng loại” giống như luôn tâm niệm nỗi căm ghét chính mình, vì thế nên cả cuộc đời ông là một thí dụ cụ thể cho thấy rằng, nếu không tự thương yêu mình thì cũng không thể thương yêu đồng loại, rằng mối căm ghét bản thân cũng tương tự như tính ích kỷ độc tôn, rốt cuộc nó tạo ra cùng một tình trạng cô lập và mối tuyệt vọng kinh hoàng nhất. [4] Cha và ông ngoại tác giả từng là những nhà truyền giáo đạo Tin Lành ở Ấn Độ, sau đó vẫn tiếp tục các hoạt động liên quan đến tôn giáo ở Đức và Thụy Sĩ. [5] Trong bức thư của bà mẹ tác giả viết cho chồng vào tháng Tám năm 1881, có đoạn: “(…) thằng nhỏ này có (…) một ý chí mãnh liệt và một kiểu hiểu biết quả thật khác thường ở tuổi lên bốn của nó”. Nhưng bây giờ đã đến lúc tôi tạm gác qua một bên những suy nghĩ riêng của mình để nói về những sự kiện đã xảy ra thật. Điều đầu tiên tôi biết về ông Haller, một phần qua việc tôi lén lục soát phòng ông, phần khác qua những nhận xét của dì tôi, liên quan đến lối sống của ông. Tôi sớm nhận ra ông là một người chuyên vùi đầu vào những suy tư cùng sách vở và không làm một nghề thực tế nào. Ông luôn dậy rất muộn, thường mãi gần trưa rồi choàng áo khoác lên bộ đồ ngủ, đi vài bước từ phòng ngủ sang phòng khách của mình. Phòng khách này, trên gác sát mái nhà, rộng rãi và ấm cúng với hai cửa sổ, chỉ mới sau vài ngày trông đã khác lúc còn những người thuê trước. Đồ đạc chồng chất và càng ngày càng đầy ngập thêm lên. Trên các bức tường được treo tranh, gắn ảnh; vì thường là những bức vẽ cắt từ các tạp chí nên chúng thay đổi thường xuyên. Một bức phong cảnh miền Nam, những tấm hình chụp ảnh ở một thành phố nhỏ vùng quê nước Đức, hẳn là quê hương của Haller, xen vào đấy là những bức họa màu nước rực rỡ mà mãi về sau chúng tôi mới biết do ông tự vẽ[6].Rồi hình một thiếu phụ - cũng có thể là thiếu nữ - xinh đẹp. Có thời gian trên tường treo một bức tranh tượng Phật nước Xiêm, sau thay bằng một phiên bản họa phẩm “Đêm” của Michelangelo[7],rồi một chân dung của Mahatma Gandhi. Sách vở không chỉ chất đầy chiếc tủ sách to mà còn nằm la liệt trên bàn, trên chiếc án thư cổ kính xinh xinh, trên đi văng, trên ghế, trên sàn; những mẫu giấy làm dấu kẹp trong các quyển sách ấy thay đổi chỗ thường xuyên. Lượng sách cứ tăng liên tục, vì ông không chỉ ôm từ thư viện về cả lô, mà còn nhận được thường xuyên bằng bưu kiện. Người ngụ trong căn phòng này hẳn phải là một học giả. Mùi khói thuốc bám trên mọi thứ cùng những mẩu thuốc, những chiếc gạt tàn rải rác khắp nơi lại càng phù hợp với hình ảnh ấy. Tuy nhiên phần lớn sách không thuộc loại khảo cứu, mà là tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ thuộc mọi thời đại và của mọi dân tộc. Có thời gian trên chiếc đi văng nơi ông thường nằm suốt ngày, lăn lóc đủ sáu quyển dày cộm của một tác phẩm tựa đề Chuyến du lịch của Sophie từ Memel tới Sachsen[8] xuất bản vào cuối thế kỷ 18. Một bộ toàn tập của Goethe và một của Jean Paul chừng như được dùng rất nhiều, cũng như Novalis, cả Lessing, Jacobi và Lichtenberg nữa. Vài quyển của Dostoyevsky[9] kẹp đầy những mẩu giấy dày đặc ghi chú. Trên chiếc bàn lớn, giữa các chồng sách và tạp chí, thường thấy có một bó hoa; một hộp vẽ màu nước cũng nằm lăn lóc ở đấy, luôn bám đầy bụi, bên cạnh là những chiếc gạt tàn thuốc và, cũng chẳng giấu giếm làm gì, đủ loại chai lọ đựng thức uống. Một cái chai bọc rơm thường đựng vang đỏ ông mua ở một cửa hàng nhỏ gần nhà, thỉnh thoảng có cả một chai Burgund cũng như Malaga và một chai to rượu anh đào mà tôi thấy chỉ trong một thời gian ngắn đã gần cạn, rồi bị vứt ở một góc phòng mặc cho bụi bám, phần rượu còn lại chẳng hề vơi đi. Tôi không muốn bào chữa cho trò do thám vặt của mình và thẳng thắn thú nhận rằng, trong thời gian đầu, tất cả những dấu hiệu này của một cuộc sống tuy đáp ứng những nhu cầu của trí tuệ song lại đi đôi với phung phí thời gian và bê tha, đã khiến tôi ghê tởm và nghi ngại. Tôi không chỉ là một công dân sống điều độ, có thói quen lao động và phân chia thời gian chính xác, mà còn không cả rượu chè, thuốc lá, thành thử những chai rượu trong phòng Haller còn khiến tôi ít thiện cảm hơn là quang cảnh hỗn độn như trong tranh vẽ ở đây. [6] Ngoài viết văn, làm thơ, Hesse còn vẽ tranh. [7] Michelangelo (1475-1564): nhà họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư trứ danh của Ý. [8] Tên bộ tiểu thuyết của Johann Timotheus Hermes (1738- 1821) [9] Jean Paul, Novalis, Lessing, Jacobi và Lichtenberg: tên một số nhà văn Đức ở thế kỷ 18 và 19; còn Dostoyevsky là nhà văn Nga. Trong chuyện ăn uống, người khách lạ này sống cũng rất không điều độ và thất thường, không khác gì trong chuyện ngủ nghê và làm việc của mình. Có những ngày ông hoàn toàn không bước ra khỏi nhà và chẳng ăn uống gì ngoài cà phê buổi sáng, thỉnh thoảng dì tôi thấy một vỏ chuối là thứ sót lại duy nhất của bữa ông ăn; những ngày khác ông lại đi ăn tiệm, khi thì vào quán sang trọng và thanh lịch, lúc lại đến quán nhỏ ở ngoại ô. Sức khỏe của ông có vẻ không được tốt; ngoài chuyện đi đứng khó khăn khiến ông thường khá vất vả lúc leo cầu thang, dường như ông còn bị những chứng tật khác trong cơ thể làm tình làm tội. Có lần ông buột miệng kể đã nhiều năm ông mắc chứng tiêu hóa yếu và ngủ không ngon. Tôi cho rằng chính là tại ông uống rượu. Về sau, đôi khi đi với ông tới một trong những quán quen của ông, tôi thỉnh thoảng chứng kiến ông nốc vang ừng ực lúc tâm trạng thất thường, nhưng tôi và mọi người khác chưa từng thấy ông thật sự say bao giờ. Tôi không bao giờ quên được lần gặp gỡ đầu tiên, chỉ có ông và tôi. Chúng tôi biết nhau chỉ như hàng xóm ở cạnh phòng trong một ngôi nhà thuê thôi. Một chiều nọ đi làm về, tôi ngạc nhiên thấy Haller ngồi chỗ thềm nghỉ cầu thang giữa tầng một và tầng hai. Ông ngồi ở bậc trên cùng và nánh sang bên cho tôi đi qua. Tôi hỏi ông không được khỏe chăng và đề nghị đưa ông lên tới tận tầng trên. Haller nhìn tôi và tôi chợt nhận ra mình vừa đánh thức ông ra khỏi một dạng của trạng thái xuất thần. Nụ cười dần dần nở trên gương mặt ông - kiểu mỉm cười khả ái khiến ta thấy tội nghiệp của ông, nụ cười từng thường làm trái tim tôi trĩu nặng - rồi mời tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi cám ơn và bảo tôi không quen ngồi trên cầu thang trước căn hộ của người khác. “À phải đấy”, ông nói và cười hơn nữa. “Ông nói phải. Nhưng xin ông chờ cho một chút, tôi phải chỉ ông thấy cái lý do đã khiến tôi ngồi đây một lúc”. Vừa nói ông vừa chỉ vào khoảnh hàng lang trước căn hộ của một góa phụ ở tầng một. Trên cái khoảnh nhỏ lát ván nằm giữa cầu thang, cửa sổ và cửa kính ra vào của căn hộ là một chiếc tủ gỗ gụ cao dựng sát tường, trên bày những đồ cổ bằng thiếc, trước tủ là hai chậu cây to, một cây đỗ quyên và một cây bách tán, đặt trên hai bục thấp. Hai cây này thật đẹp và luôn được giữ gìn rất sạch sẽ, không chê trách được, như chính tôi từng thú vị nhận thấy. “Ông nhìn kìa”, Haller nói tiếp,“cái khoảnh hành lang nhỏ này với cây bách tán thơm thật là thơm; đã bao lần tôi đi qua đây mà không thể không dừng lại chốc lát. Trong căn hộ của bà dì ông cũng thơm lắm, ngăn nắp và sạch sẽ nhất mực, nhưng cái chỗ có cây bách tán này đây thật là sạch bóng, được hút bụi, lau chùi, sạch như li như lau, đến độ thành ra rực rỡ. Tôi cứ luôn phải hít đầy phổi - ông cũng ngửi thấy chứ nhỉ? Cái mùi xi đánh gỗ, thoảng chút mùi dầu thông còn đọng lại cùng với gỗ gụ, những chiếc lá được lau sạch, tất cả toát ra một mùi thơm như thế đấy, mức độ hoàn thiện của việc sạch sẽ tinh tươm trong giới trưởng giả, của tính chu đáo và chính xác, của việc hoàn tất nhiệm vụ và lòng trung tín ở ngay cả trong những việc nhỏ nhặt. Tôi không rõ người ở trong căn hộ này là ai, nhưng đằng sau tấm cửa kính kia hẳn phải là cõi thiên đường của sự tinh khiết và lối sống trưởng giả sạch bong bụi bặm, của trật tự và sự tận tụy giữ gìn những tập quán và chu toàn bổn phận dù nhỏ nhặt, với thái độ kính sợ đến mức khiến ta xúc động”. ©STENT: http://www.luv-ebook..com Thấy tôi im lặng nên ông nói tiếp: “Xin ông chớ nghĩ rằng tôi mỉa mai! Thưa ông, không đời nào tôi dám cười nhạo lối sống trưởng giả và trật tự. Đúng là chính tôi sống trong một thế giới khác, chứ không phải trong thế giới này, và có lẽ tôi không đủ khả năng chịu đựng nổi, dù chỉ một ngày, trong một căn hộ với cây bách tán như thế kia. Nhưng dù tôi là một con sói thảo nguyên già nua và tệ mạt, song tôi vẫn là con của một bà mẹ và mẹ tôi cũng từng là một người đàn bà thuộc tầng lớp trung lưu, từng trồng hoa, chăm nom phòng ốc, cầu thang, bàn ghế, màn cửa, và hết sức cố gắng giữ cho căn hộ cùng đời bà được sạch sẽ, thanh khiết và ngăn nắp như bà mong muốn. Mùi dầu thông làm tôi nhớ đến điều ấy, mùi cây bách tán gợi tôi nhớ đến điều ấy, nên tôi ngồi chỗ này chỗ nọ, nhìn vào khoảnh vườn con yên ả của sự nền nếp này và thấy vui vui vì nó vẫn còn đây, chứ chưa mai một”. Ông muốn đứng lên, nhưng hơi vất vả, nên không từ chối khi được tôi đỡ đôi chút. Tôi vẫn lặng thinh, nhưng đã bị khuất phục, giống như dì tôi trước đây, trước sức lôi cuốn nào đó mà đôi lúc con người lạ lùng này có được. Chúng tôi từ từ sóng vai bước lên cầu thang; tới trước cửa phòng ông, tay cầm sẵn chìa khóa, ông quay lại nhìn thẳng mặt tôi và với giọng rất mực thân ái ông nói: “Ông mới đi làm về à? Chà, tôi chẳng hiểu gì về những chuyện ấy; tôi sống xa cách những chuyện như thế, đại loại là sống bên lề, ông biết chứ. Nhưng tôi nghĩ rằng ông cũng ham mê sách vở và những thứ cùng loại, có lần bà dì ông bảo rằng ông đã qua bậc trung học và giỏi tiếng Hy Lạp. Ấy, sáng nay tôi tìm thấy một câu của Novalis, tôi chỉ ông coi nhé? Ông cũng sẽ thích thú cho mà xem”. Ông kéo tôi vào căn phòng nồng nặc mùi thuốc lá, rút một quyển từ một trong những chồng sách, lật tìm. “Cái này cũng hay, rất hay,” ông nói,“ông nghe thử câu này nhé: “Ta nên kiêu hãnh trước khổ đau - mỗi khổ đau đều là một nhắc nhở đến đẳng cấp cao của chúng ta”. Tuyệt! Tám mươi năm trước cả Nietzsche cơ đấy! Nhưng đó không phải là câu tôi muốn tìm - ông chờ chút - đây rồi. Câu ấy thế này: “Phần lớn người ta đều không muốn bơi, cho đến lúc họ bơi được” Không dí dỏm sao? Dĩ nhiên người ta không muốn bơi! Người ta sinh ra để sống trên mặt đất, chứ đâu phải trong nước. Và dĩ nhiên họ cũng không muốn suy tư, họ được tạo ra để sống, không phải để suy tư! Đấy, và ai suy tư, ai coi suy tư là chuyện chủ yếu, người ấy tuy có thể tiến xa trong lĩnh vực này, nhưng chính là người ấy đã hoán đổi đất lấy nước, và sẽ có lúc chết đuối”. Lúc ấy ông đã thu hút được tôi, khiến tôi chú ý và nán lại một lúc với ông, rồi từ đó việc chúng tôi trò chuyện đôi chút với nhau, khi gặp nơi cầu thang hay trên đường phố, không phải là hãn hữu. Vào những dịp ấy, giống như lần trò chuyện trước cây bách tán, mới đầu tôi luôn có đôi chút cảm giác rằng ông giễu cợt tôi. Nhưng không phải thế. Đối với tôi, cũng như với cây bách tán, ông có thái độ gần như kính trọng; ông ý thức rõ về hoàn cảnh mất gốc rễ của mình, khiến đôi lúc ông có thể cực kỳ hào hứng khi trông thấy một hành động thường nhật của thế giới trưởng giả, chẳng hạn việc tôi đi làm đúng giờ giấc, hay nghe một câu nói của người giúp việc trong nhà hoặc của người soát vé xe điện. Mới đầu tôi thấy điều này có hơi lố bịch và thái quá, đúng là tính khí của kẻ thượng lưu ăn không ngồi rồi, một kiểu đa cảm vờ vĩnh. Nhưng dần dà tôi phải nhìn nhận rằng quả thật ông, từ căn phòng không khí ngột ngạt, từ tình cảnh một kẻ xa lạ và tính chất sói thảo nguyên của mình, gần như đã ngưỡng mộ và yêu thích thế giới trưởng giả nhỏ bé của chúng tôi như một nơi chốn vững chãi và an toàn, như cái gì xa vời và không đạt nổi đối với ông, như quê hương và sự thanh bình mà không có con đường nào dẫn ông tới đó. Lần nào ông cũng trân trọng ngả mũ chào người giúp việc của chúng tôi, một người đàn bà đàng hoàng tử tế, và lần nào dì tôi trò chuyện đôi chút với ông, chẳng hạn lưu ý ông việc sửa quần áo hoặc một cái cúc bị sút, ông đều lắng nghe với vẻ chăm chú và trịnh trọng đáng ngạc nhiên; như thể với nỗ lực vượt bậc và vô vọng, ông cố lách qua một kẽ hở, vào trong cái thế giới nhỏ bé, yên bình này, để nó trở thành mái gia đình ấm cúng của mình, dù chỉ được một giờ thôi. ©STENT: https://www.luv-ebook.com Ngay lần trò chuyện đầu tiên nơi đặt chậu cây bách tán, ông đã tự xưng là Sói Thảo Nguyên, và điều này khiến tôi ngạc nhiên và hơi bối rối. Từ ngữ gì mà lạ lùng vậy nhỉ? Nhưng rồi tôi tập chấp nhận nó không chỉ qua việc làm cho mình thích nghi, mà chẳng mấy chốc chính tôi, trong những suy nghĩ của mình, đã không bao giờ còn gọi ông bằng gì khác ngoài cái tên Sói Thảo Nguyên và ngay cả hiện nay tôi cũng không biết có từ nào chính xác hơn cho hình tượng này. Một con sói thảo nguyên lạc lối, tìm đến với chúng tôi nơi phố thị và cuộc sống bầy đàn - không hình ảnh nào khác diễn tả chính xác hơn con người ông cùng cảnh cô đơn đến thành xa cách, chất hoang dã, sự bồn chồn, nỗi nhớ nhà và tình trạng không có quê hương của ông. Có lần tôi được dịp quan sát ông cả buổi chiều, tại một buổi hòa nhạc, tôi ngạc nhiên thấy ông ngồi gần tôi, còn ông lại không nhận ra tôi. Đầu tiên họ trình diễn nhạc Händel, loại âm nhạc hay ho và quý phái, nhưng Sói Thảo Nguyên ngồi trầm tư, chẳng chút liên quan đến âm nhạc lẫn mọi người chung quanh. Ông ngồi tách biệt, cô đơn và xa lạ, khuôn mặt lạnh lùng nhưng đầy âu lo cúi nhìn xuống. Rồi tới một đoản khúc của Friedemann Bach, tôi hết sức kinh ngạc thấy chỉ sau vài nhịp người khách lạ của tôi đã bắt đầu mỉm cười thả hồn theo tiếng nhạc, đắm chìm vào nội tâm, dễ có đến mười phút trông ông thật say sưa hạnh phúc và mê ly trong những giấc mộng tuyệt vời, khiến tôi chú ý tới ông hơn là vào tiếng nhạc. Khi đoản khúc này chấm dứt, ông bừng tỉnh, ngồi thẳng lại, chuẩn bị đứng lên, dường như định ra, nhưng lại ngồi và nghe khúc nhạc chót, đó là những biến tấu của Reger[10], thứ nhạc mà nhiều người cảm thấy lê thê và chán ngán. Cả Sói Thảo Nguyên cũng thế, mới đầu ông còn chú ý, hăm hở lắng nghe, nhưng rồi thấy chán, liền thọc hay tay vào túi, lại đắm chìm vào tâm tư của mình, nhưng lần này không hân hoan và chìm trong mơ mộng nữa, mà buồn bã và cuối cùng cau có bực bội; gương mặt ông lại xa vắng, nhợt nhạt và u tối, trông già đi, bệnh tật và bất mãn. [10] Händel, Friedemann Bach, Reger: các nhạc sĩ cổ điển Đức. Sau buổi hòa nhạc tôi lại thấy ông trên đường phố, liền bước theo sau. Trùm kín người trong chiếc măng tô, ông chán chường và mệt mỏi bước về hướng khu phố của chúng tôi, nhưng tới trước một quán ăn nhỏ kiểu xưa ông dừng lại, phân vân nhìn đồng hồ rồi bước vào. Tôi bỗng nổi hứng nên cũng vào theo. Ông ngồi tại một chiếc bàn kiểu thị dân; chủ quán và cô chạy bàn chào hỏi ông như một khách quen, tôi cũng chào và ngồi xuống cạnh ông. Chúng tôi ngồi ở đó một giờ đồng hồ. Trong lúc tôi uống hai ly nước suối, ông gọi nửa lít vang đỏ rồi thêm một phần tư lít nữa. Tôi bảo tôi cũng có mặt trong buổi hòa nhạc, nhưng ông chẳng đả động gì tới chuyện ấy. Ông đọc nhãn hiệu chai nước suối của tôi và hỏi tôi không thích uống vang ư, vì ông muốn mời tôi. Khi nghe đáp tôi không bao giờ uống rượu, ông tỏ vẻ chưng hửng và nói: “Phải, ông nói đúng. Tôi cũng đã từng sống tiết chế nhiều năm và cả ăn chay[11] một thời gian dài nữa, nhưng bây giờ tôi lại cầm tinh Thủy thần, một chòm sao tối tăm và ẩm ướt”. [11] Ăn chay ở đây không có nghĩa toàn “rau đậu” theo kiểu Phật giáo, mà thường chỉ là kiêng rượu thịt. Và khi tôi đùa lối nói bóng gió của ông bằng cách trả lời rằng người như ông mà lại tin vào chiêm tinh thì thật là khó tin đối với tôi, ông liền lấy lại cái giọng lễ độ thường khiến tôi bị xúc phạm và nói: “Đúng quá, kể cả môn khoa học này tôi cũng rất tiếc không thể tin nổi”. Tôi cáo từ ra về, còn ông mãi rất khuya mới về đến nhà, nhưng bước chân vẫn bình thường, và như mọi khi ông không đi ngủ ngay (là láng giềng sát vách nên tôi nghe thấy rất rõ), mà còn thức trong phòng khách sáng đèn của ông khoảng một giờ nữa. Tôi cũng không quên một buổi chiều khác. Lúc ấy tôi ở nhà một mình, dì tôi đi vắng, có tiếng chuông gọi cửa; tôi ra mở, thấy một thiếu phụ rất đẹp; khi nàng hỏi ông Haller, tôi nhận ra ngay nàng là người trên bức ảnh trong phòng ông. Tôi chỉ cho nàng cửa phòng ông rồi rút lui. Nàng ở trên đó một lúc, lát sau tôi nghe tiếng họ cùng xuống cầu thang, chuyện trò ríu rít, thích thú và đùa cợt, rồi đi ra ngoài. Tôi rất sững sốt vì nhà ẩn cư này có một người tình, mà lại trẻ đẹp và thanh lịch đến thế, khiến mọi phỏng đoán của tôi về ông và cuộc đời ông lại trở thành không chắc chắn. Nhưng non một giờ sau ông đã trở về, một mình, với bước chân nặng nề, buồn bã, gắng sức lên lầu, rồi rón rén đi đi lại lại trong phòng khách hàng giờ liền, thật y như một con sói trong cũi; suốt đêm căn phòng sáng ánh đèn cho đến hừng đông. Tôi không biết giờ về mối quan hệ này, chỉ muốn nói thêm: tôi thấy ông với thiếu phụ nọ một lần nữa trên một con đường trong thành phố. Họ khoác tay nhau, trông ông thật hạnh phúc và tôi lại ngạc nhiên thấy đôi khi khuôn mặt ưu tư và cô đơn của ông có thể đầy nét phong nhã, thậm chí ngây thơ non dại tới mức nào và tôi hiểu thiếu phụ kia, hiểu cả sự đồng cảm dì tôi dành cho người đàn ông này. Nhưng chiều hôm ấy ông trở về, cũng buồn bã và khốn khổ; tôi gặp ông ở cửa nhà, kẹp dưới lớp áo măng tô chai rượu vang Ý, như tôi đã đôi lúc thấy, rồi ngồi với nó suốt nửa buổi tối trong hang ổ của mình ở trên kia. Tôi thấy tội nghiệp ông, thấy cuộc đời mà ông sống ấy mới buồn thảm, phí hoài và khó xoay chuyển làm sao! Thôi, tôi kể lan man như thế đủ rồi. Không cần thêm những tường thuật và miêu tả để cho thấy Sói Thảo Nguyên sống cuộc đời của một kẻ tự sát. Tuy nhiên tôi không tin rằng ông đã tự kết liễu đời mình, khi hồi đó ông đột ngột rời khỏi thành phố của chúng tôi mà không lời từ biệt và biến mất vào một ngày nọ, nhưng chỉ sau khi đã thanh toán đủ mọi khoản tiền còn thiếu. Dì cháu tôi không bao giờ còn nghe tin tức gì nữa về ông và vẫn còn giữ vài ba bức thư gửi đến ông sau đó. Ông không để lại gì ngoài tập cảo bản đã viết trong thời gian lưu lại đây cùng vài dòng ngắn ngủi tặng tôi với vài lời ghi chú cho phép tôi tùy ý làm gì với nó cũng được. Tôi không thể nào kiểm chứng tính chân thực của những sự kiện tường thuật trong tập di cảo của Haller. Tôi không hề hoài nghi rằng chúng phần lớn là tưởng tượng, nhưng không phải theo nghĩa bịa đặt tùy tiện, mà theo nghĩa một thử nghiệm về cách diễn đạt, nhằm thể hiện những diễn biến từng trải sâu sắc trong tâm hồn dưới hình thức những biến cố ai cũng trông thấy được. Những sự cố phần nào kỳ quái trong sự tưởng tượng của Haller có lẽ xảy ra vào khoảng cuối thời gian ông lưu lại đây, và tôi cho rằng chúng cũng dựa một phần trên những điều ông đã trải qua thực sự ngoài đời. Quả thật trong thời gian ấy người khách của chúng tôi đã có sự thay đổi trong cách cư xử và ngoại hình; ông rất hay vắng nhà, đôi khi suốt nhiều đêm, và không đụng tới sách vở. Qua vài lần gặp gỡ hãn hữu hồi ấy, tôi thấy ông có vẻ sinh động và trẻ ra khác thường, đôi khi rõ ràng là đang có điều gì đấy khiến ông rất thú vị. Nhưng ngay sau đó là một cơn bệnh trầm uất nặng nề mới, ông nằm cả ngày trên giường, chẳng buồn ăn và cũng trong thời gian ấy nổ ra một trận cãi vã hết sức gay gắt, phải nói là dữ dội với người tình[12] tái xuất hiện của ông, làm náo động cả nhà, khiến ngày hôm sau Haller phải xin lỗi dì tôi. [12] Nhân vật người tình Erika này ngoài đời chính là nữ ca sĩ Ruth Wenger, vợ thứ hai của Hesse. Họ lấy nhau năm 1924, nhưng không hạnh phúc, nên trong thời gian cùng lưu lại Basel mỗi người ở riêng một nơi, và cuối cùng ly hôn năm 1927. Không, tôi tin chắc ông không tự sát. Ông còn sống, ông đang lê đôi chân mệt mỏi lên xuống cầu thang những ngôi nhà lạ khác, đăm đăm nhìn đâu đó vào những sàn nhà lát gỗ lau chùi bóng loáng và những cây bách tán được chăm sóc sạch sẽ, ngồi suốt nhiều ngày trong những thư viện và suốt nhiều đêm trong các quán rượu hay nằm trên một chiếc đi văng thuê, nghe thấy con người và thế giới đang sống ở sau những ô cửa sổ, và biết rằng mình bị loại ra khỏi đó, nhưng ông không tự tử, vì mẩu niềm tin còn sót lại bảo rằng ông phải nếm trải nỗi đau khổ ấy, nếm trải cho đến cạn kiệt nỗi đau khổ tệ hại trong trái tim ông và vì nỗi khổ này mà ông phải chết. Tôi không nguôi nghĩ đến ông; ông đã không làm cho đời tôi được thanh thản hơn, ông không có tài hỗ trợ và khuyến khích sở trường cùng hạnh phúc lẫn niềm hân hoan trong tôi, mà hỡi ơi, ngược lại! Nhưng tôi không phải là ông và tôi không sống theo kiểu của ông, mà của tôi, một cuộc sống trung lưu bình thường, nhưng ổn định và bận rộn vì những bổn phận phải chu toàn. Và như thế chúng tôi, tôi với dì tôi, có thể nghĩ đến ông, bình thản và trong tình bằng hữu. Dì tôi chắc có nhiều điều hơn là tôi để nói về ông, nhưng dì chôn giấu chúng trong trái tim nhân hậu của bà. Trở lại với những ghi chép này của Heller, về những tưởng tượng lạ lùng, bệnh hoạn có, mà hấp dẫn và đầy ắp tư tưởng cũng có, thì tôi phải nói rằng nếu những tờ giấy này ngẫu nhiên lọt vào tay tôi mà tôi không quen biết tác giả của chúng, chắc chắn tôi sẽ phẫn nộ quẳng đi ngay. Nhưng do mối quan hệ quen biết với Haller nên tôi có thể hiểu được chúng phần nào, thậm chí tán thành nữa là khác. Tôi sẽ rất đắn đo trong việc truyền đạt chúng tới người khác, nếu chỉ thấy trong đó những tưởng tượng mang tính bệnh lý của riêng một tâm hồn bệnh hoạn đáng thương. Nhưng tôi thấy trong đó chất chứa điều gì hơn thế, một tư liệu của thời đại, vì bệnh tâm thần của Haller - nay tôi biết điều này - không phải là thói dở hơi của riêng lẻ một người, mà chính là bệnh của thời đại, là chứng loạn thần kinh của thế hệ trong đó có Haller, và dường như không chỉ những cá nhân yếu đuối và thấp kém mới mắc phải, mà đúng hơn lại là những con người giàu thể lực, trí lực nhất, tài ba nhất. Những ghi chép này - bất kể chúng dựa trên trải nghiệm thực tế nhiều hay ít - là một nỗ lực nhằm vượt thắng căn bệnh tràn lan của thời đại, không phải qua tránh né vòng vo hay tô son vẽ phấn, mà bằng cách cố gắng đưa căn bệnh đó lên làm đối tượng để thể hiện thời đại. Chúng đúng là một cuộc hành trình xuyên địa ngục, theo nghĩa đen, lúc thì ta thấy kinh hãi, khi khác lại anh dũng táo bạo, vượt qua sự hỗn mang của một thế giới nội tâm âm u, một cuộc hành trình quyết chí băng qua địa ngục, thách thức sự hỗn mang và chịu đựng bị cái ác hành hạ cho đến giờ phút cuối. Một lưu ý của Haller đã cho tôi chìa khóa để thấu đạt nhận thức trên. Có lần, sau khi chúng tôi trò chuyện về cái gọi là những điều dã man thời Trung Cổ, ông bảo tôi: “Thật ta những điều dã man này không có thực. Một người thời Trung Cổ hẳn sẽ đánh giá mọi cung cách trong đời sống chúng ta ngày nay một cách khác hẳn; y sẽ kinh tởm cho như vậy là vô cùng tàn bạo, khủng khiếp và man rợ! Mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa, mỗi tập tục và truyền thống đều có cung cách của nó, xác định mức độ từ khoan dung đến hà khắc, đặt tiêu chuẩn thế nào là thiện mỹ hay tàn ác, coi một số nỗi thống khổ là đương nhiên và nhẫn nại chấp nhận một số hiện tượng xấu xa nào đấy. Đời người chỉ thật sự thống khổ, thật sự biến thành địa ngục khi hai thời đại, hai nền văn hóa và tôn giáo chồng chéo lên nhau. Một người thời Thượng Cổ nếu phải sống trong thời Trung Cổ hẳn sẽ chết ngộp một cách khốn khổ, hệt như một thổ dân vùng hoang dã hẳn sẽ chết ngộp giữa nền văn minh của chúng ta. Có những thời kỳ mà cả một thế hệ lạc loài vào giữa hai thời đại, giữa hai phong cách sống như thế, khiến nó mất đi mọi khả năng thấy mình đương nhiên được quyền hiện hữu, mất đi mọi tập tục, cảm tưởng được bảo bọc, và mất đi tính hồn nhiên vô tư. Tất nhiên không phải ai cũng cảm thấy điều ấy với mức độ như nhau. Trước đây hơn một thế hệ, một người với bản chất như Nietzsche đã phải chịu đựng nỗi thống khổ của thời bây giờ rồi - nay hàng nghìn người phải hứng chịu những gì Nietzsche từng nếm trải qua cô đơn mà không ai thấu hiểu”. Tôi thường nghĩ tới lời nói ấy khi đọc tập bút ký này, Haller thuộc vào những người sa chân lạc bước vào giữa hai thời đại, những kẻ bị văng ra khỏi sự được bảo bọc và tính vô tư, ông thuộc những kẻ vướng nghiệp dĩ phải trải nghiệm mọi vấn nạn của đời người bằng nỗi thống khổ của riêng mình ở địa ngục trần gian. Theo tôi thì ý nghĩa có thể rút ra từ tập bút ký của ông để lại cho chúng ta nằm ở điểm này, vì thế tôi đã quyết định công bố nó, mà không có ý bênh vực hoặc phán xét; điều này xin để tùy lương tâm của mỗi đọc giả. Bút ký của Harry Haller Dành riêng cho những người điên Ngày hôm nay đã trôi qua, như mọi ngày vẫn trôi qua; tôi đã kết liễu nó, đã nhẹ nhàng thủ tiêu nó bằng nghệ thuật sống tạm bợ và nhút nhát của tôi; tôi đã làm việc được vài giờ, tra cứu những quyển sách cổ; tôi bị một cơn đau hành hạ suốt hai tiếng đồng hồ, giống như những người luống tuổi vẫn phải chịu đựng thôi; tôi uống tí thuốc bột và mừng rỡ vì đã đánh lừa được cơn đau, rồi đầm mình trong bồn nước nóng, để hơi ấm dễ chịu thấm vào người. Ba lần tôi ra nhận thư và đọc lướt qua mọi thư từ cùng ấn phẩm chẳng quan trọng này, sau đó luyện cách hô hấp, nhưng lười biếng nên hôm nay bỏ những bài tập về tư duy; tôi đã đi dạo một giờ, ngắm nhìn trên bầu trời hình dáng những áng mây tơ đẹp đẽ, mỏng mảnh, hiếm khi xuất hiện. Rất thú vị, giống như việc đọc những quyển sách cổ, như nằm trong bồn nước ấm, nhưng nói chung đó không hẳn là một ngày tuyệt vời, cũng chẳng được là một ngày chan hòa hạnh phúc và phới phới niềm vui, mà chỉ là một trong những ngày bình thường và quen thuộc với tôi từ lâu nay: những ngày thoải mái vừa phải, chịu đựng được, nhì nhằng, những ngày nhạt nhẽo của một kẻ luống tuổi bất đắc chí, những ngày tôi không bị đau nhức gì ghê gớm, không lo âu gì đặc biệt, không phiền não gì thật sự, không tuyệt vọng, những ngày mà ngay cả câu hỏi phải chăng đã đến lúc noi gương Adallbert Stifter[1] tử nạn trong lúc cạo râu, có thể được đem ra cân nhắc một cách khách quan và bình thản không chút căng thẳng sợ hãi. [1] Adallbert Stifter (1805-1868): nhà văn Áo, đã tự sát bằng dao cạo râu vì không chịu nổi bệnh tật giày vò. Ai đã từng nếm trải những ngày khác, những ngày bi thảm với những cơn đau do chứng thống phong hoặc chứng nhức đầu tồi tệ bám rễ sau tròng mắt, như thế bị phù thủy quỷ quyệt trù ếm, khiến mọi hoạt động của mắt và tai bị biến từ niềm vui được nghe và được thấy thành cơn đau vò xé, hoặc những ngày tâm hồn lịm chết, những ngày khốn khổ tâm tư trống rỗng và tuyệt vọng, những ngày mà ngay trên Trái Đất bị hủy hoại và khai thác cạn kiệt bởi các hiệp hội cổ phần, chúng ta bị thế giới của con người cùng cái gọi là nền văn minh nham nhở ngạo nghễ cười nhạo báng và dai dẳng đeo đuổi trong cái vẻ hào nhoáng lọc lừa, đê tiện lẫn vô liêm sỉ kiểu chợ phiên của chúng, chẳng khác thứ thuốc dùng gây ói mửa, tập trung và thúc đẩy tới cao độ khiến Cái Tôi bệnh hoạn hết chịu đựng nổi - ai đã từng nếm trải những ngày địa ngục ấy sẽ rất hài lòng với những ngày bình thường hoặc làng nhàng không sự cố như ngày hôm nay; y sẽ ngồi bên lò sưởi ấm áp với lòng biết ơn, y sẽ đọc tờ báo buổi sáng và ghi nhận cũng với lòng biết ơn rằng thêm một ngày đã qua mà vẫn chưa nổ ra cuộc chiến tranh mới nào, không xuất hiện thêm một chế độ độc tài nào, không có thêm vụ những lạm trắng trợn nào trong chính trường và kinh tế bị phanh phui; y sẽ biết ơn nắn dây cây đàn thất huyền gỉ sét của mình tấu một bài thánh vịnh hòa nhã, âm hưởng nghe có phần hoan hỉ thú vị; với tấu khúc này y làm cho vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột - vốn trầm lặng, hòa nhã, thường khật khừ do tác dụng của thứ thuốc có chất Brom - đâm ra ngán ngẩm, và trong bầu không khí đậm đặc nhàm chán làm y hài lòng ấy, trong tình trạng không bị cơn đau nào hành hạ làm y thấy vô cùng biết ơn ấy, cả hai - vị thần nửa dơi nửa chuột ngủ gật nom phát chán và gã người nửa dơi nửa chuột tóc hoa râm ngân nga bài thánh vịnh - trông y hệt như anh em sinh đôi. Quả là một điều tuyệt vời khi tâm hồn thư thái, cơ thể không đau đớn, với những ngày ngoan ngoãn dễ chịu này, khi chẳng cơn đau hay dục vọng nào dám lên tiếng kêu ca, mà tất cả chỉ thoảng qua như lời thì thào, như bước chân rón rén. Chỉ tiếc rằng tôi lại không chịu nổi chính tâm trạng hài lòng này, khiến ít lâu sau tôi đâm ra thù ghét lẫn kinh tởm nó thậm tệ và tôi phải tuyệt vọng chạy trốn vào những nhiệt độ khác, bằng cách đi tìm khoái cảm, và nếu cần, đi tìm cả cảm giác đớn đau. Cứ ít lâu sau khi phải sống thiếu vắng cảm giác hoan lạc hay đau đớn, phải chịu đựng hít thở không khí vô vị nhạt nhẽo của những ngày gọi là tốt đẹp ấy, tôi liền cảm thấy đau đớn và khốn khổ trong tâm hồn mãi còn thơ dại của mình, đến nỗi cầm cây đàn han gỉ từng dùng tấu khúc tri ân quẳng vào gương mặt đắc ý của vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột còn ngái ngủ, vì tôi thấy thà nóng bỏng vì cơn đau quặn quái quỷ trong ruột gan còn hơn phải chịu đựng thứ nhiệt độ được điều hòa rất dễ chịu này. Thế rồi trong lòng tôi bừng bừng nỗi khao khát man dại những cảm giác mạnh, những chuyện giật gân, bừng bừng nỗi căm ghét nếp sống không sinh khí, nhạt nhẽo, khuôn phép, cằn cỗi này, và tiếp đó là cơn điên cuồng ham muốn đập phá tan hoang gì đấy, chẳng hạn một siêu thị, một ngôi giáo đường hoặc chính tôi, muốn làm những chuyện ngu xuẩn ngông cuồng, chẳng hạn giật phăng mái tóc giả của vài thần tượng đang được suy tôn, cung cấp cho dăm ba chú nhóc học sinh nổi loạn những tấm vé đi Hamburg mà chúng khao khát, dụ dỗ một cô bé hoặc vặn cổ vài kẻ đại diện cho thứ trật tự của thế giới trưởng giả. Vì điều tôi thù ghét, kinh tởm và nguyền rủa một cách sâu sắc nhất trong tất cả mọi thứ là: tâm trạng mãn nguyện này, thể chất này, cuộc sống tiện nghi thoải mái, thói lạc quan được duy trì của giới thị dân, việc chăm chút vun bồi để những gì xoàng xĩnh, bình thường, ở mức trung bình được phát triển tràn lan. Tôi kết thúc cái ngày tầm thường tàm tạm này trong tâm trạng như thế khi bóng đêm vừa xuống. Tôi không kết thúc nó theo cách bình thường và thoải mái cho một người hứng chịu đôi chút khổ đau bằng cách chui tọt vào chiếc giường có sẵn túi chườm nước nóng như một thứ mồi đang chờ đợi, mà bằng cách chán ngán và ghê tởm trước kết quả nhỏ nhoi của cả một ngày lao tâm khổ tứ, bực bội xỏ giày, khoác măng tô, đi vào phố trong bóng đêm và sương mù, tới quán Mũ Sắt uống thứ mà dân nhậu gọi là “một ly vang nhỏ” theo tập quán xưa. Thế là tôi từ căn phòng trên gác xép bước xuống cầu thang, những bậc thang khó leo của cái thế giới xa lạ, những bậc thang được lau chùi sạch sẽ, hoàn toàn theo kiểu cách trưởng giả của một ngôi nhà gồm ba hộ trông bề thế, mà trên tầng sát mái là nơi ẩn dật của tôi. Tôi không rõ sao lại như thế, nhưng tôi, con sói thảo nguyên sống tha hương và là một con người cô độc, một kẻ thù ghét cái thế giới tiểu tư sản, lại sống trong những ngôi nhà của tầng lớp trưởng giả chính cống, đó là một thói đa cảm thâm căn cố đế của tôi. Tôi không sống trong các lâu đài hoặc những ngôi nhà của lớp người cùng khổ, mà chỉ toàn trong những cái ổ tiểu tư sản rất mực đàng hoàng, rất mực nhàm chán, chăm chút không chê vào đâu được, nơi thoảng mùi dầu nhựa thông với chút xà phòng, và sẽ giật mình nếu lỡ để cửa sập quá mạnh vào ổ khóa hoặc đi giầy bẩn vào nhà. Hiển nhiên tôi yêu bầu không khí này từ thời thơ ấu và nỗi khát khao thầm kín của tôi về thứ gì như thể quê hương toàn đưa đẩy tôi ngớ ngẩn tìm về những lối cũ đường xưa, không cưỡng lại được. Ấy, mà tôi cũng thích sự tương phản giữa cuộc sống của tôi - thiếu vắng tình cảm và căng thẳng nội tâm, một cuộc sống hoàn toàn vô trật tự - với cái môi trường trưởng giả và lấy gia đình làm trọng ấy. Tôi thích ngồi trên bậc thang hít thở cái mùi toát ra từ một thế giới yên ắng, ngăn nắp, sạch sẽ, tử tế và thuần tính; mặc dù tôi ghét sự trưởng giả, nhưng cái mùi này luôn phảng phất chút gì khiến tôi xúc động, và tôi thích sau đó bước qua ngưỡng cửa phòng mình, nơi không còn mọi thứ kia nữa, nơi những mẩu thuốc lá và những vỏ chai vang nằm lăn lóc giữa các chồng sách, nơi mọi thức đều bừa bộn, lạc lõng, không được ngó ngàng, và nơi mọi thứ - sách vở, bản thảo, những ý tưởng - đều ghi dấu và nói lên tâm trạng cùng quẫn của những kẻ cô đơn, về toàn bộ vấn đề đặt ra cho cuộc sống con người, niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa mới cho kiếp nhân sinh nay đã trở thành vô nghĩa. Thế rồi tôi đi qua chỗ để cây bách tán. Nói cho chính xác thì nơi tầng một ngôi nhà này, cầu thang dẫn qua khoảnh hành lang trước một căn hộ còn được lau chùi sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ không chê được, vì khoảnh hàng lang này toát lên một sự chăm chút phải nói là quá sức con người, nó là một ngôi đền nhỏ bé tỏa sáng của sự ngăn nắp. Trên tấm sàn lát gỗ, mà người ta ngần ngại khi bước chân lên, có đặt hai cái bục xinh xinh, trên mỗi bục có một chậu cây to, một chậu đỗ quyên, chậu kia trồng cây bách tán khá lớn, non khỏe, cứng cáp, tuyệt vời hoàn hảo, ngay cả chiếc là hình kim cuối cùng trên cái cành cao nhất cũng ánh lên sự lau chùi thường xuyên. Đôi khi, biết không ai để ý, tôi vẫn dùng nơi này như một ngôi đền, tôi ngồi nghỉ chốc lát ở một bậc thang phía trên cây bách tán, chắp hai tay, trầm mặc nhìn xuống khoảnh vườn nhỏ của sự ngăn nắp được chăm chút đến mức làm nao lòng và khôi hài hiếm thấy khiến tâm hồn tôi chừng như xúc động. Tôi đoán rằng sau khoảnh hành lang này, có thể gọi là trong bóng mát thiêng liêng của cây bách tán, có một căn hộ đầy bàn ghế bằng gỗ gụ sáng bóng và một nếp sống tử tế, mọi người biết chăm lo sức khỏe, dậy sớm, chu toàn bổn phận, những buổi họp mặt gia đình nhộn nhịp nhưng chừng mực, mỗi Chủ Nhật đều đi lễ nhà thờ và tối tối đi ngủ sớm. Nguồn ebooks: http://www..luv-ebook.com Làm ra vẻ tươi tỉnh, tôi bước đi trên mặt nhựa ẩm ướt của những con đường hẹp; những ngọn đèn đường như ứa lệ và quấn khăn tang, phát ra những quầng sáng nhòe nhoẹt xuyên qua làn không khí ẩm đục, lạnh lẽo, và hút vào thứ ánh sáng lờ đờ hắt lên từ mặt đường ướt át. Tôi chợt nhớ lại những năm tháng đã lãng quên thời trẻ - hồi ấy tôi từng yêu những buổi chiều ảm đạm và tối tăm vào cuối thu và suốt mùa đông như thế nào; tôi đã tham lam, mê mẩn thu hết vào tâm khảm toàn bộ ấn tượng về nỗi cô đơn và hội chứng u sầu, khi trùm chiếc măng tô, lang thang suốt nửa đêm, rảo bước qua vùng cây trụi lá trong mưa bão đầy đe dọa; ngày ấy tôi đã cô đơn rồi, nhưng lòng tột cùng thống khoái và trong đầu đầy những vần thơ, để rồi sau đó ngồi trên mép gường trong phòng mình, viết ra dưới ánh nến lung linh! Chà, chuyện ấy đã qua rồi, chén rượu kia đã uống cạn rồi và không có ai rót tiếp cho tôi nữa. Đáng tiếc chăng? Không đáng tiếc. Chẳng có lý do gì phải nuối tiếc những chuyện đã qua. Chỉ nên tiếc cho hiện tại và hôm nay, tiếc tất cả những giờ phút và tháng ngày tôi đã mất, nhiều vô kể; tôi mất vì phải trải qua những ngày giờ đó mà chẳng nhận thức điều gì mới hoặc không có sự cố nào làm tôi rúng động tâm can. Nhưng đội ơn Chúa, cũng có những ngoại lệ; đôi khi, hiếm hoi thôi, có những giờ phút khác mang đến những rúng động, mang đến những nhận thức mới, kéo sập những bức tường và đưa tôi, kẻ lạc đường, trở lại với trung tâm sinh động của thế gian. Buồn rầu nhưng trong tâm khảm tràn đầy khích lệ, tôi cố gắng nhớ lại biến cố cuối cùng thuộc loại này. Đó là tại một buổi hòa tấu, trình diễn loại âm nhạc cổ điển tuyệt vời, lúc ấy đang giữa hai nhịp của một nhạc khúc được các nhạc công sáo và kèn gỗ tấu lên nhẹ nhàng, thanh thoát, đột nhiên cánh cửa dẫn sang thế giới bên kia mở ra cho tôi; tôi bay lượn vòng khắp thiên đường và được mục kích Đức Chúa Trời đang làm công việc dựng xây thế giới; tôi đau nỗi đau thần thánh và không chống cự lại gì nữa trên cõi nhân gian, không còn thấy sợ hãi điều gì nữa nơi trần thế, tôi đồng ý chấp nhận mọi chuyện, dâng hiến tim mình cho tất cả. Sự kiện này kéo dài không lâu, khoảng mười lăm phút thôi, nhưng đêm hôm ấy nó lại trở về trong giấc mơ; rồi từ đấy, vào những ngày lê thê, buồn tẻ, thỉnh thoảng tia sáng đó lại âm thầm lóe lên, đôi khi tôi thấy nó đi qua đời mình hàng phút rõ rệt như một dấu vết linh thiêng bằng vàng, hầu như luôn bị vùi sâu dưới bụi bặm và bùn nhơ, rồi lại lóe lên những tia óng ánh vàng, chừng như chẳng bao giờ tắt được, thế mà chỉ lát sau lại đã mất tăm. Có lần chuyện xảy ra giữa canh khuya, đang nằm thao thức chợt tôi thốt ra những vần thơ, những vần thơ tuyệt hay và kỳ diệu, khiến tôi không dám nghĩ đến chuyện viết ra; sáng hôm sau tôi chẳng còn nhớ gì nữa, những thật ra chúng vẫn còn đâu đấy trong tôi như hạt hồ đào nặng trĩu nằm trong lớp vỏ khô giòn nứt nẻ. Lần khác tia sáng đến lúc tôi đang đọc một nhà thơ, đang suy ngẫm về một tư tưởng của Descartes, của Pascal[2]; lần khác nữa nó lại tỏa sáng, rồi vạch một vệt bằng vàng lên trời cao, trong lúc tôi đang ở bên cạnh người yêu dấu của mình. Chao ôi, thật khó tìm ra dấu tích thần thánh ấy ngay giữa cuộc đời chúng ta đang sống này, ngay giữa thời đại mà con người sống quá mãn nguyện, qua ư trưởng giả, quá ư tẻ nhạt về mặt tinh thần này; ta cứ nhìn những kiểu kiến trúc, những cung cách làm ăn kinh doanh, những đường lối chính sách và những con người này thì thấy! Ngay giữa một thế giới mà không một mục tiêu nào của nó tôi chia sẻ được, không một niềm vui nào của nó phản ánh niềm vui của tôi, hỏi làm sao tôi không trở thành một con sói thảo nguyên, một kẻ ẩn cư thô lỗ được chứ. Tôi không thể nào ngồi lâu trong một nhà hát hay rạp chiếu phim, hầu như không đọc nổi một tờ báo nào, hiếm khi đọc một quyển sách thịnh hành, tôi không thể hiểu được người ta tìm hứng thú và niềm vui gì trong những toa xe lửa và khách sạn đầy nhóc, trong những quán cà phê đông nghẹt giữa tiếng nhạc ngột ngạt gây khó chịu, trong các quán rượu và ca vũ trường của những thành phố xa hoa, ở những cuộc triển lãm quốc tế, tại các đám rước, trong các buổi thuyết trình cho những kẻ ham học hỏi, trên các sân vận động lớn - tôi không thể hiểu và chia sẻ tất cả những thú vui mà cả nghìn người khác cố công đeo đuổi này, dù tôi có thể đạt được, nếu muốn. Ngược lại, những gì xảy đến với tôi trong những giờ phút hạnh phúc hiếm hoi, những gì làm tôi thấy sung sướng, cho tôi kinh nghiệm sống thực, khiến tôi mê mẩn hay thấy mình thăng hoa, thì thế giới cùng lắm chỉ biết tới, tìm kiếm và yêu thích trong thi ca, còn trong đời sống họ xem đó là điên rồ. Quả thật, nếu thế giới này đúng, nếu thứ âm nhạc nọ trong các quán cà phê, những hội hè lễ lạc, những con người Mỹ hóa này - những kẻ không đòi hỏi gì cao xa - đúng, thì tôi sai, tôi điên, như thể tôi đúng là Sói Thảo Nguyên, như tôi thường tự xưng, một con vật lạc loài trong một thế giới xa lạ và khó hiểu, và nó không còn tìm thấy quê hương, khí trời và thứ ăn quen thuộc của nó. [2] Descartes, Pascal: hai nhà khoa học kiêm triết gia Pháp ở thế kỷ 17. Với những suy nghĩ quen thuộc này tôi tiếp tục rảo bước trên con đường ướt át, băng qua một trong những khu yên tĩnh và cổ kính nhất thành phố. Trong bóng tối phía đối diện, bên kia con đường hẹp, có một bức tường cổ bằng đá xám mà tôi luôn thích ngắm nghía. Nó luôn đứng đó, cổ kính và trơ trơ như thế đấy, xen giữa một ngôi giáo đường nhỏ và một bệnh viện đã có từ xưa. Ban ngày mắt tôi thường dừng thật lâu trên mặt tường nhám, không còn nhiều mặt bằng để trống, lặng lẽ, câm nín trong trung tâm phố, nơi cứ mỗi nửa mét vuông ta lại bị một cửa hàng, một luật sư, một nhà sáng chế, một thầy thuốc, một thợ hớt tóc hay một lang băm chuyên trị chai chân đập cái tên vào mắt. Cả lúc này tôi cũng lại thấy bức tường cổ thanh thản đứng đó, thế nhưng có điều gì đã thay đổi; tôi thấy một cái cổng nhỏ xinh xinh hình chóp nhọn ở giữa bức tường và tôi trở nên bối rối, vì quả thật tôi không còn rõ cái cổng ấy luôn có từ xưa hay mới được xây thêm. Chắc chắn nó trông cũ kỹ rồi, cũ lắm; có lẽ từ nhiều thế kỷ trước cái cổng nhỏ với cánh cửa gỗ đóng im ỉm này dẫn vào sân trong im lìm ngủ quên của một tu viện nào đấy và bây giờ cũng vẫn dẫn vào đó, dù tu viện không còn nữa; hẳn tôi đã thấy cái cổng này cả trăm lần rồi mà chẳng quan tâm đấy thôi; sở dĩ lần này tôi chú ý có lẽ vì nó vừa được sơn lại. Dẫu sao tôi đã dừng chân, chăm chú nhìn qua, chứ không bước sang bên đó, vì lòng đường lầy bùn và sũng nước. Tôi chỉ đứng trên vỉa hè, ngó qua thôi; lúc ấy đã tối lắm rồi và tôi thấy dường như quanh cổng có kết một vòng hoa hay thứ gì đó sặc sỡ. Và bây giờ, khi cố nhìn kỹ hơn, tôi thấy phía trên cổng một tấm biển màu sáng, dường như trên đó có hàng chữ viết. Tôi căng mắt và cuối cùng đã bước qua đường, mặc kệ bùn lầy nước đọng. Tôi thấy ở đó, trên nền xám xanh cổ kính của bức tường, phía trên cái cổng, một vệt sáng nhờ nhờ và bên trên vệt ấy chạy những chữ cái đủ màu, thoắt ẩn thoắt hiện. Hóa ra đúng là họ, tôi nghĩ thế, đã lạm dụng đến cả bức tường cổ hiền hòa này làm đèn hiệu quảng cáo! Trong lúc ấy tôi giải đoán vài ba trong số những từ thoáng hiện ra; chúng xuất hiện lúc nhanh lúc chậm, mờ tịt và chập chờn rồi tắt phụt rất mau nên thật khó đọc, cứ phải đoán mò. Người nào muốn kinh doanh kiểu này thật chẳng tài cán gì, hắn chỉ là một con sói thảo nguyên, một kẻ đáng thương hại; sao hắn lại chiếu những chữ nọ ở đây, lên bức tường này, trong cái ngõ tối tăm nhất khu phố cổ, vào giờ này, lúc trời mưa, nơi chẳng ai lai vãng và tại sao những chữ ấy lại lướt qua, biến nhanh, chập chờn và khó đọc đến thế? Nhưng khoan đã, bây giờ tôi đã nhận ra được nhiều chữ nối tiếp nhau rồi, chúng như thế này: Hí viện ma thuật Không phải ai muốn vào xem cũng được - không phải cho mọi người Tôi thử mở cổng, nhưng ấn hết sức mà cái tay nhấn cũ kỹ nặng nề vẫn không nhúc nhích. Dòng chữ thoắt ẩn thoắt hiện kia phụt tắt; nó chấm dứt đột ngột, buồn bã, như thể chợt nhận ra tiếp tục trò chơi này chỉ uổng công. Tôi lùi lại vài bước, lún sâu trong bùn, không thấy chữ nào nữa xuất hiện, trò chơi ấy đã kết thúc; tôi đứng trong sình lầy chờ thật lâu, song hoài công. Nhưng kìa, khi tôi đã bỏ cuộc và quay lại vỉa hè thì vài ba chữ bằng ánh sáng màu mè chợt nhỏ giọt trên mặt đường nhựa bóng loáng trước mắt tôi. Tôi đọc thấy: Chỉ… dành cho… những… người điên! Chân ướt, tôi lạnh cóng, tuy vậy tôi vẫn đứng chờ một lúc lâu nữa.Chẳng thấy gì thêm.Trong lúc tôi còn đứng ngẫm nghĩ rằng những chữ màu mỏng manh, lung linh sáng, lập lòe trên bức tường ướt át và trên mặt nhựa đen bóng thật đẹp biết bao, chợt một hình tượng trong mớ ý tưởng lúc nãy lại hiện ra: biểu tượng của vệt ngời sáng như vàng nọ, cái vệt sáng chợt đến chợt đi mất hút không thể tìm thấy nữa. Tôi lạnh tái tê, tiếp tục bước đi, miên man nghĩ tới vệt sáng nọ, lòng đầy khắc khoải mong tìm ra cánh cổng dẫn vào cái hí viện ma thuật chỉ dành cho những người điên. Trong lúc ấy chân tôi đã bước vào bãi chợ, nơi không thiếu những trò tiêu khiển về đêm; cứ vài bước lại thấy một tấm bích chương hoặc biển quảng cáo: Ban nhạc nữ - Ca vũ trường - Rạp chiếu phim - Đêm khiêu vũ, nhưng những thứ này hoàn toàn không phải cho tôi, mà cho “tất cả mọi người”, cho những kẻ bình thường, những kẻ tôi thấy đang túm tụm chen qua các cửa vào ở khắp nơi. Tuy nhiên tôi cũng bớt buồn bã chút ít, vì một lời chào đến từ thế giới khác quả đã làm động lòng tôi, dăm ba chữ màu nhảy nhót và gây xôn xao trong tâm hồn tôi, chạm vào những sợi dây đàn ẩn kín lâu nay, và tôi được thấy dấu vết vàng kia lóe lên một lần nữa. Tôi tìm đến quán rượu nhỏ, cũ kỹ, không chút đổi thay từ ngày đầu tiên tôi dừng chân tại thành phố này, ngót hai mươi lăm năm trước. Vẫn bà chủ cũ; trong số những thực khách ngày hôm nay có vài người đã từng ngồi đây từ thuở nọ, vẫn tại chỗ đó, trước cũng những cái ly ấy. Tôi bước vào cái quán tồi tàn, nơi ẩn dật của tôi. Tuy nó cũng chỉ là một nơi nương náu tương tự như trên bậc thang đặt cây bách tán, tuy ở đây tôi cũng không tìm thấy quê hương và cộng đồng, mà chỉ tìm được một chỗ yên tĩnh trong khán giả, trước một sân khấu cho những kẻ xa lạ diễn những màn lạ lẫm, nhưng chỉ riêng chỗ yên tĩnh này thôi cũng khá đáng giá rồi: không đông nghẹt người, không tiếng hò la, không tiếng nhạc, chỉ dăm ba thị dân bình thản ngồi tại mấy chiếc bàn gỗ đơn sơ (không cẩm thạch, không sắt tây tráng men, không vải nhung, không đồng thau!), trước mặt mỗi người là một ly rượu cho buổi tối - loại vang lâu năm có tên tuổi. Có lẽ dăm ba vị khách thân thiết này của quán, mà tôi nhận ra được, thuộc hàng phàm phu tục tử thật sự và ở nhà họ, trong những căn hộ phàm phu, có những chiếc bàn thờ hiu quạnh đặt trước những tượng thần Toại nguyện vớ vẩn nào đấy; có thể họ cũng là những kẻ cô đơn và đi chệch lối như tôi, những Lưu Linh trầm lặng đầy suy tư về những lý tưởng bị phá sản; họ có phải là sói thảo nguyên và là những kẻ đáng thương hay không, tôi chẳng rõ. Họ đến đây vì nhớ nhà, vì thất vọng, vì có nhu cầu tìm thứ gì khác; người có vợ tìm kiếm nơi đây bầu không khí thời độc thân, vị công chức già tìm âm hưởng những năm tháng thời sinh viên, hết thảy họ đều khá trầm lặng, hết thảy họ đều là dân nhậu và giống như tôi, họ thích ngồi trước nửa lít vang Alsace hơn là trước ban nhạc nữ. Đây là nơi tôi thả neo, nơi tôi ngồi được một đến hai giờ đồng hồ. Vừa làm một ngụm Alsace, tôi đã nhận thấy ngày hôm nay tôi chưa ăn gì, ngoài bữa điểm tâm. Thật quái lạ, sao con người ta lại có thể nuốt trôi đủ mọi thứ như thế nhỉ! Tôi đọc một tờ báo dễ đến mười phút, để cho tư tưởng của một kẻ vô trách nhiệm nào đấy thâm nhập vào tôi qua thị giác; hắn nhai nát lời người khác và nhồi nước bọt vào đó, rồi nhả ra chứ chưa kịp tiêu hóa. Đến phiên tôi ngấu nghiến hấp thụ lại, cả một cột báo dài. Rồi tôi chén một khoanh lớn gan xẻo từ bụng một con bê. Thật lạ lùng! Ngon nhất là rượu Alsace. Tôi vốn không chuộng rượu vang mạnh, những thứ đặc biệt lôi cuốn và hương vị độc đáo, nhất là vào bữa ăn hằng ngày. Thường tôi thích những loại vang thuần túy địa phương, nhẹ, không mang nhãn hiệu gì đặc biệt, có thể uống được nhiều; chúng thật ngon và mang hương vị của đồng quê, đất đai, bầu trời và cây cỏ quanh vùng. Một ly Alsace và một khúc bánh mì ngon, thế là tuyệt nhất trong mọi bữa ăn. Bấy giờ tôi đã xơi hết phần gan rồi, một sự thú vị đặc biệt vì tôi hiếm khi ăn thịt, trước mặt là một ly thứ hai. Đó cũng là một điều kỳ quái, vì đâu đấy trong những thung lũng xanh mơn mởn có những con người khỏe mạnh hiền lành trồng nho, ép thành rượu vang, để rồi đây đó trên thế giới, thật xa, đôi ba thị dân thất vọng và dăm con sói thảo nguyên nản chí có thể lặng lẽ uống, tìm chút can đảm và nhiệt tình từ những ly rượu của mình. Quái lạ hay chăng, tôi chẳng quan tâm! Chủ yếu là nó ngon, có tác dụng, gây hứng thú. Nghĩ tới những lời nhai lại của bài báo tôi bật cười khuây khỏa và sực nhớ ra điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát được những chiếc sáo và kèn gỗ trình tấu mà tôi đã quên khuấy; nó trào dâng trong tôi như một bong bóng xà phòng bé tẹo, sáng ngời, óng ánh, phản chiếu dưới dạng thu nhỏ toàn thế giới muôn màu, rồi nhẹ nhàng vỡ. Nếu điệu nhạc ngắn ngủi tuyệt vời nọ có thể âm thầm bám rễ trong tâm hồn tôi và một ngày kia những bông hoa diễm kiều của nó lại bừng nở với muôn sắc màu duyên dáng thì có thể nào tôi hoàn toàn vô vọng được chăng? Dù tôi chỉ là một con thú lạc đường không hiểu được thế giới chung quanh thì cuộc sống khinh suất của tôi vẫn có ý nghĩa, có gì đó trong tôi đã lên tiếng trả lời, đã như chiếc máy thu nhận những lời kêu gọi từ những thế giới cao xa vòi vọi; đầu óc tôi chất chứa muôn nghìn hình ảnh: Những đoàn thiên thần của Giotto[3] từ một vòm nhỏ màu thiên thanh của ngôi giáo đường ở thành phố Padua, đi cạnh họ là Hamlet và Ophelia[4] đầu đội vòng hoa, những biểu tượng tuyệt vời của mọi nỗi buồn và ngộ nhận trên thế gian, nhà lái khí cầu Gianozzo đang thổi tù và trong chiếc khí cầu cháy phừng phừng, Attila Schmelze[5] cầm chiếc mũ mới trong tay, còn Borobudur[6] tung hê lên trời những hình thù chạm khắc trùng trùng điệp điệp của nó. Cho dù mọi hình dáng xinh đẹp này sống trong cả nghìn trái tim khác thì vẫn còn cả vạn hình ảnh và giai điệu nữa không ai biết, ngoài tấm lòng tôi, chỉ mắt tôi thấy và tai tôi nghe được. Bức tường nhà thương cũ kỹ màu xanh xám, loang lổ, hư hao vì mưa nắng với những vệt nứt và vết phong hóa khiến ta có thể hình dung ra cả nghìn bức bích hoạ - ai đáp lại lời nó, ai mở rộng lòng chào đón nó, ai yêu quý nó, ai cảm nhận sức quyến rũ nơi những màu sắc đang âm thầm giãy chết của nó? Những quyển sách cổ với những tiểu họa màu sáng dịu của các tu sĩ và của các thi sĩ Đức trước đây hai trăm hoặc một trăm năm nay bị dân tộc họ lãng quên, toàn những quyển đã cũ sờn và thâm sì, những bản in hoặc viết tay của các nhạc sĩ ngày trước, những tờ giấy bền chắc, ố vàng ghi nốt nhạc cùng những giấc mơ bằng thanh âm đã bị đông cứng của họ - ai nghe những tiếng nói thông minh, tinh quái và khát khao của họ; trái tim ai chở đầy những trí tuệ và sức lôi cuốn của họ xuyên qua một thời đại khác, xa lạ với họ? Ai còn nhớ đến cây bách nhỏ bé, dẻo dai tận đỉnh núi phía trên Gubbio[7], gãy toác vì đá lở mà vẫn bám chặt vào sự sống và trong cảnh quẫn bách đã nhú lên một ngọn mới lơ thơ? Ai công tâm với bà nội trợ ở tầng một và cây bách tán sạch bong của bà? Đêm khuya, ai đọc những chữ như mây khói của làn sương mù la đà trên dòng sông Rhin? Chính là Sói Thảo Nguyên. Và ai đã tìm trên đống hoang tàn của đời mình cái ý nghĩa xốn xang, chịu đựng điều tưởng chừng phi lý, sống kiếp dường như điên rồ và ai đã âm thầm hy vọng được mặc khải và gần với Chúa trong sự hỗn loạn ghê gớm cuối cùng? [3] Giotto di Bondone (1266-1337): họa sĩ Ý. [4] Hamlet và Ophelia: những nhân vật trong vở kịch Hamlet của Shakespeare. [5] Gianozzo và Attila Schmelze: hai nhân vật chính trong hai quyển tiểu thuyết của nhà văn Đức Jean Paul (1763-1825). [6] Borobudur: ở Java, Indonesia, nơi có đại đền Phật giáo nổi tiếng thế giới, xây dựng vào năm 800 theo kiến trúc Ấn Độ. [7] Gubbio: một thành phố ở Trung Ý. Tôi úp tay lên cái ly để bà chủ quán khỏi rót thêm rồi đứng dậy. Tôi không cần rượu nữa. Cái vệt bằng vàng đã lóe lên rồi, tôi đã hồi tường tới vĩnh cữu, tới Mozart[8], tới những vì sao. Tôi lại có thể thở hít được một giờ, có thể sống, được phép tồn tại, không phải chịu dằn vặt nữa, không phải sợ hãi hay hổ thẹn nữa. [8] Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791): nhạc sĩ thiên tài Áo. Khi tôi bước ra khỏi quán, con đường đã trở nên vắng lặng, gió lạnh hắt những hạt mưa phùn lay phay quanh những ngọn đèn đường nghe xào xạc và ánh lên như thủy tinh. Bây giờ đi đâu? Nếu giờ đây có được một chiếc đũa thần, hẳn tôi sẽ làm hiện ra một sảnh đường nho nhỏ xinh xinh, kiểu của vua Louis XVI, để nghe dăm nhạc sĩ tài hoa trình diễn vài ba tác phẩm của Händel và Mozart. Tôi đang hứng thú và sẽ nhấm nháp thứ âm nhạc mát rượi và quý phái ấy như thần thánh thưởng thức rượu tiên. Chao ơi, giá lúc này tôi có được một người bạn, một người bạn đang trầm tư bên ánh nến trong một căn gác xép nào đấy, với chiếc vĩ cầm để bên cạnh! Tôi sẽ lẻn vào trong cõi đêm yên ắng của anh, sẽ leo êm như ru lên cầu thang uốn khúc, khiến anh ngạc nhiên; rồi chúng tôi sẽ trò chuyện và nghe nhạc, ăn mừng dăm ba giờ khuya khoắt siêu phàm! Trước kia, trong những năm qua, tôi thường được hưởng hạnh phúc này, nhưng theo thời gian nó cũng đã dần xa và rời hẳn khỏi tôi; giữa ngày ấy và bây giờ đã bao năm khô héo. Tôi ngần ngừ đi về nhà, kéo cao cổ áo, thọc gậy trên mặt đường lát đá ướt át. Dù chậm bước đến đâu thì tôi cũng vẫn sẽ lại phải ngồi quá sớm trong căn gác xép, trong quê hương bé nhỏ giả tạo mà tôi không hề yên thương song cũng không thể thiếu, vì cái thời tôi có thể lang thang ngoài trời suốt một đêm đông mưa gió đã qua rồi. Lạy Chúa, tôi không muốn lòng mình chiều nay đang phơi phới bị gió mưa, bệnh thống phong hay cây bách tán làm mất vui và dẫu không có được dàn nhạc thính phòng và không tìm được một người bạn cô đơn với chiếc vĩ cầm, giai điệu thanh nhã nọ vẫn vang trong lòng tôi và tôi có thể ngân nga khe khẽ trong lúc thở hít đúng nhịp, tựa hồ nó được trình diễn cho chính tôi. Tôi vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Đúng vậy, không có nhạc thính phòng lẫn bạn bè thì đã sao và đúng là ngớ ngẩn khi mỏi mòn, nhưng bất lực, ngóng tìm sự ấm cúng. Cô đơn chính là độc lập! Tôi đã từng ao ước và đạt được điều này trong bao năm ròng. Nó lạnh lẽo, đúng thế, những cũng trầm lặng, trầm lặng tuyệt vời và mênh mông như bầu không gian yên ắng, giá lạnh, nơi các tinh tú chuyển dịch. Tôi đi ngang qua một vũ trường; tiếng nhạc Jazz dữ dội hắt vào tôi, nóng bỏng và sống sượng như làn hơi bốc lên từ thịt sống. Tôi dừng lại một lúc; dù ghê tởm loại nhạc này đến đâu, nó vẫn âm thầm quyến rũ tôi. Tôi ghét cay ghét đắng nhạc Jazz, nhưng vẫn thích nó gấp chục lần mọi thứ âm nhạc hàn lâm ngày nay; tính cuồng nhiệt sống sượng của nó chạm tới tận bản năng sâu thẳm trong tôi, toát ra một dục tính hồn nhiên và chân thật. Tôi đứng hỉnh mũi đánh hơi thứ âm nhạc chói tai này, cáu kỉnh và thèm thuồng đoán trước bầu không khí trong những căn phòng ấy. Một nửa điệu nhạc, cái phần du dương, thì lâm ly, ngọt xớt, ủy mị đến chảy nước, nửa kia hoang dại, bất thường và mãnh liệt, tuy vậy cả hai nửa lại hợp với nhau thật hồn nhiên, hòa thành một tổng thể. Đó là thứ âm nhạc suy đồi; thời các hoàng đế La Mã cuối cùng hẳn cũng có thứ âm nhạc tương tự. Tất nhiên so với Bach, với Mozart và âm nhạc đích thực, nó chỉ là thứ nhăng cuội - nhưng tất cả nghệ thuật của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, văn hóa giả tạo của chúng ta đều như thế cả, nếu so sánh với nền văn hóa chân chính. Và thứ âm nhạc này có ưu điểm là rất chân thành kiểu người da đen, đáng mến, vui tươi hồn nhiên chứ không giả trá. Đối với người Âu chúng ta, thứ âm nhạc này mang nét gì đấy của người da đen và người Mỹ, mạnh bạo nhưng hồn nhiên và tươi mát tựa trẻ thơ đang lớn. Châu Âu sẽ thành như vậy chăng? Nó đang dần như thế rồi chăng? Chúng ta, những kẻ am tường và hâm mộ Châu Âu thuở trước, nền âm nhạc đích thực thuở trước, thơ ca đích thực thuở trước, chẳng lẽ chúng ta chỉ là một nhúm thiểu số ngu xuẩn gàn dở mắc bệnh loạn thần kinh phức tạp, mai đây sẽ bị lãng quên và nhạo báng? Phải chăng đó là thứ mà chúng ta gọi là “văn hóa”, trí tuệ, tinh thần và coi là đẹp, là thiêng liêng; phải chăng đó chỉ là một bóng ma đã chết từ lâu mà chỉ dăm kẻ ngớ ngẩn chúng ta vẫn còn coi là đích thực? Phải chăng nó không hề đích thực và sống động? Phải chăng những gì lũ ngớ ngẩn chúng ta ra công suy nghĩ, tìm tòi vốn luôn chỉ là một bóng ma? Khu phố cổ tiếp nhận tôi, ngôi giáo đường nhỏ bé đứng tàn lụi và hư ảo trong khung cảnh màu xám. Đột nhiên tôi nhớ lại câu chuyện hồi chiều với cái cửa chóp nhọn bí ẩn, với tấm biển bí ẩn phía trên, với những chữ chiếu sáng nhảy múa giễu cợt. Hàng chữ ấy viết gì nhỉ? “Không phải ai muốn vào xem cũng được.” Và: “Chỉ dành cho những người điên”. Để thẩm tra, tôi nhìn qua bức tường cổ, thầm mong màn ảo thuật nọ tái diễn với hàng chữ mời mọc tôi, một gã điên, và cánh cổng để tôi vào. Có thể điều tôi ước mơ đang ở trong đó, có thể trong đó đang trình diễn thứ âm nhạc của tôi? ©STENT: http://www.luv-ebook.com Bức tường đá bình thản nhìn tôi; nó đen sẫm bóng chiều, khép kín, chìm đắm trong mơ. Chẳng thấy đâu một cái cổng, chẳng thấy đâu vòng chóp nhọn, chỉ bức tường tối đen, im lìm, không một kẽ hở. Tôi mỉm cười tiếp tục bước đi, thân mật gật đầu chào bức tường. “Ngủ ngon, tường nhé, ta không đánh thức mi đâu. Sẽ đến lúc người ta giật sập mi hoặc dán lên mi những bảng hiệu tham lam của họ, nhưng tạm thời mi vẫn còn đó, mi vẫn đẹp, vẫn im ắng và ta ưa thích mi”. Chợt tôi giật bắn người vì từ một ngõ đen ngòm có một người, một kẻ trở về nhà muộn màng và lẻ loi với bước chân mệt mỏi, nhô ra quan sát nách tôi; y đội mũ lưỡi trai, khoác áo choàng xanh, vác một thanh gỗ gắn bích chương, trước bụng quàng dây đai mang một chiếc hòm con để mở, giống những người bán hàng rong ở các chợ phiên. Y mệt mỏi bước qua trước mặt tôi, chẳng ngoái nhìn, bằng không tôi đã chào và mời y một điếu thuốc. Tôi cố thử đọc cái cờ hiệu của y, tấm bích chương đó gắn trên thanh gỗ, dưới ánh sáng ngọn đèn đường cạnh đấy, nhưng tấm bích chương cứ chao qua đảo lại nên tôi chẳng đọc được gì. Tôi liền gọi và yêu cầu y cho tôi xem. Y dừng bước, giữ thanh gỗ cho thẳng hơn, lúc ấy tôi có thể đọc được những chữ chao đảo nhảy múa: Giải trí hỗn loạn buổi tối! Hí viện ma thuật! Không phải ai muốn vào xe… “Tôi đang tìm ông đây,” tôi thích thú kêu lên. “Buổi giải trí ban tối của ông như thế nào? Ở đâu ? Bao giờ?” Y đã lại bước đi rồi. “Không phải ai muốn vào xem cũng được,” y thờ ơ nói, giọng ngái ngủ và đi tiếp. Y chán rồi, muốn về nhà. “Khoan đã,” tôi chạy theo gọi. “Ông bán những gì thế? Tôi muốn mua chút ít”. Không dừng lại, người đàn ông ấy máy móc thò tay vào hòm, rút ra một tập sách mỏng, chìa cho tôi. Tôi chụp ngay lấy, cất đi. Trong lúc tôi cởi cúc áo măng tô tìm tiền, y đã ngoặt vào một cái cổng bên đường, rồi đóng lại và biến mất. Mới đầu tôi nghe tiếng chân y nặng nề trên mặt đường đá, rồi trên một cầu thang gỗ, rồi không nghe gì nữa. Đột nhiên tôi thấy cũng quá mệt và cảm tưởng đã khuya lắm rồi, về là vừa. Tôi bước rảo hơn, chẳng mấy chốc đã vượt qua những con hẻm vùng ngoại ô đang say ngủ, về tới nhà. Nhà tôi nằm giữa khu thành lũy, nơi các công chức và những người hưu trí cấp thấp ngụ trong những ngôi nhà thuê nho nhỏ sạch sẽ, phía trước có bãi cỏ và khóm thường xuân. Qua khỏi đám thường xuân, bãi cỏ và bụi thông nhỏ tôi về tới của nhà, mò lỗ khóa, tìm nút bật đèn, lách qua tấm cửa kính, đi qua những cái tủ bóng lộn và những chậu cây, mở cửa phòng mình, chốn giả làm quê hương bé nhỏ của tôi, nơi chiếc ghế bành và lò sưởi có nghiên mực và hộp vẽ, có Novalis và Dostoyevsky chờ đợi tôi, hệt như bà mẹ hay người vợ, lũ con, các cô người làm, chó, mèo chờ đợi những con người khác, những con người đích thực, khi họ về nhà. Khi cởi chiếc áo măng tô ướt át, tôi chợt thấy lại tập sách nhỏ kia, liền rút ra. Đó là loại sách mỏng, in lem nhem trên giấy xấu bán ở các chợ phiên, giống như tập “Tử vi cho người sinh ra trong tháng Giêng” hay “Làm cách nào trẻ lại hai mươi tuổi trong tám ngày?” Nhưng khi đã ngồi yên trong ghế bành và đeo kính, tôi sửng sốt đọc và đột nhiên cảm giác về một số phận đang xảy đến qua nhan đề trên bìa tập sách chợ phiên ấy: Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên. Dành riêng cho những người điên. Và đây là nội dung của nó mà tôi đã đọc liền một mạch, mỗi lúc một hồi hộp thêm: LUẬN THUYẾT VỀ SÓI THẢO NGUYÊN Dành riêng cho những người điên Thuở ấy có một tay tên là Harry, biệt danh Sói Thảo Nguyên. Hắn đi hai chân, hắn mặc áo quần, hắn là người, nhưng thật ra hắn đích thị là một con sói thảo nguyên. Hắn học được nhiều thứ mà những người có đầu óc đều có thể học được và hắn là một kẻ khá thông minh. Nhưng cái hắn không học được là: hài lòng về mình và cuộc đời mình. Điều ấy hắn không học được, hắn là một kẻ bất đắc chí. Sở dĩ như thế có lẽ vì lúc nào trong thâm tâm hắn cũng biết (hoặc tưởng là biết) rằng thật ra hắn không phải là người, mà là một con sói từ thảo nguyên. Các nhà thông thái cứ việc tranh cãi xem hắn có thật là sói hay không; biết đâu đã có lần, trước cả khi hắn chào đời cũng nên, hắn được phù phép biến từ sói thành người, hoặc giả hắn sinh ra là người, nhưng lại được phú cho hồn một con sói thảo nguyên và bị nó chế ngự hoặc giả điều hắn tin rằng hắn thật ra là sói chỉ do trí tưởng tượng hoặc một thứ bệnh của hắn mà thôi. Chẳng hạn có thể thời thơ dại con người này rất hiếu động, bất kham và vô kỷ luật; những người dạy dỗ hắn đã tìm cách diệt trừ tính dã thú trong con người hắn và chính vì thế đã tạo cho hắn ấn tượng và niềm tin rằng thật ra hắn là một dã thú, chỉ khoác một lớp vỏ mỏng tanh của giáo dục và nhân tính thôi. Nếu muốn, người ta có thể nói tràng giang đại hải và tiêu khiển về điều này, thậm chí viết thành sách; nhưng chẳng ích gì cho Sói Thảo Nguyên, vì hắn chẳng mảy may quan tâm đến chuyện con sói nhập vào hắn là do bùa chú hoặc roi vọt, hay đó chỉ là tưởng tượng của tâm hồn hắn. Người khác, thậm chí ngay cả hắn nữa, muốn nghĩ gì về điều ấy, hắn cũng mặc kệ, vì sự nghĩ ngợi đó không trục nổi con sói ra khỏi hắn được. Vậy là Sói Thảo Nguyên có hai bản chất, một người và một sói; đó là số kiếp của hắn, và có thể số phận này chẳng phải đặc biệt và hiếm hoi gì lắm. Người ra đã từng thấy bao kẻ mang trong mình nhiều tính chất của chó hoặc chồn, của cá hoặc rắn nhưng không vì thế mà họ gặp phải khó khăn gì ghê gớm. Ở những kẻ đó người và chồn, người và cá đúng là sống cạnh nhau, không bên nào làm khổ bên nào, thậm chí còn tương trợ lẫn nhau; lắm kẻ tiến xa và đáng ganh tị nhờ được sức chồn hoặc khỉ đem lại cho họ phúc lộc nhiều hơn sức người trong họ. Điều này ai cũng biết. Nhưng ở Harry lại khác, người và sói trong hắn không tiến song đôi hoặc giúp đỡ nhau, mà thường trực là kẻ tử thù của nhau, phần này sống chỉ để làm khổ phần kia, và khi hai phần trong cùng một dòng máu và một tâm hồn coi nhau như kẻ tử thù thì đó là một cuộc sống khốn khổ. Thế đấy, ai cũng có số phận riêng và chẳng số phận nào nhẹ nhàng cả. Về phần Sói Thảo Nguyên của chúng ta thì lúc hắn cảm thấy mình sống giống sói, lúc lại giống người, như ở mọi sinh vật lai tạp; nhưng khi hắn là sói thì phần người trong hắn thường xuyên nằm rình rập, nhóm ngó, bình phẩm và phán xét - con những lúc hắn là người thì phần sói cũng làm y như thế. Chẳng hạn khi Harry là người, có một ý tưởng hay ho, một cảm xúc tinh tế cao quý hoặc có một hành vi gọi là thiện, con sói trong hắn liền nhe nanh, ra sức chế nhạo, chỉ cho hắn thấy rằng tất cả cái vở kịch cao quý kia, nực cười sao, lại rất thích hợp với một con thú thảo nguyên, một con sói; nó biết rất rõ trong thâm tâm điều gì khiến nó hài lòng, đó là đơn độc rong ruổi qua thảo nguyên, thỉnh thoảng uống máu tươi hoặc chạy theo một con sói cái - và, dưới nhãn quan của con sói, mọi hàng động của con người đều kỳ cục, vụng về, ngu xuẩn và kiêu căng phát sợ. Cũng y như vậy khi Harry cảm thấy mình là sói, khi hắn đe dọa người khác, khi hắn thù ghét và coi mọi người cùng cung cách xử thế cũng như tập quan suy đồi, giả trá của họ là kẻ tử thù; lúc ấy phần người trong hắn sẽ rình rập, theo dõi con sói, gọi nó là đồ súc vật, đồ dã thú, khiến nó chán chường, hết cả hứng thú trong bản tính sói chất phác, lành mạnh và hoang dã của nó. Bản chất Sói Thảo Nguyên như vậy đấy, và ta có thể hình dung cuộc đời Harry chẳng thoải mái và hạnh phúc chút nào. Nhưng như thế không hàm nghĩa hắn đặc biệt bất hạnh (mặc dù tự hắn cảm thấy thế, giống như ai cũng cho rằng nỗi đau khổ mình phải hứng chịu là ghê gớm nhất). Ta không nên nói như thế về ai. Ngay cả người không mang phần sói trong mình cũng không nhất thiết hạnh phúc. Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát sỏi. Với Sói Thảo Nguyên cũng thế. Phần lớn cuộc đời hắn rất bất hạnh, không thể phủ nhận điều ấy, và hắn có thể làm người khác bất hạnh theo, đó là khi hắn yêu thương họ và họ yêu thương hắn. Vì hết thảy những kẻ yêu thương hắn chỉ thấy một khía cạnh của hắn thôi. Có những người yêu thương hắn là một kẻ tế nhị, thông minh và độc đáo, nên khi họ đột nhiên phát hiện phần sói trong hắn, họ liền đâm ra kinh hoàng và thất vọng. Họ phải phát hiện ra thôi, vì Harry, như mọi sinh vật khác, muốn được thương yêu trọn vẹn, nên không thể che giấu và lấp liếm phần sói của hắn, nhất là trước tình thương yêu của những kẻ hắn rất trân trọng. Nhưng cũng có những kẻ thương yêu chính cái phần sói trong hắn, cái chất tự do, hoang dã, không thể thuần hóa, nguy hiểm, mạnh bạo, nên chính họ lại cực kỳ thất vọng lẫn đau đớn khi thấy con sói hoang dại, hung ác đột nhiên cũng là một con người, cũng khao khát điều tốt và sự dịu dàng, nghe cả nhạc Mozart, cũng đọc thơ và muốn có được lý tưởng của nhân loại. Phần lớn những người này đâm ra đặc biệt thất vọng và phẫn nộ, thế là Sói Thảo Nguyên đã truyền bản tính kép và đối nghịch của chính hắn vào mọi số kiếp xa lạ mà hắn tiếp xúc. Giờ đây ai tưởng rằng mình biết rõ Sói Thảo Nguyên và có thể hình dung được cuộc đời tội nghiệp và đau lòng của hắn, người ấy rất nhầm, người ấy còn lâu mới biết hết. Người ấy không biết rằng (chẳng quy tắc nào không có ngoại lệ và trong hoàn cảnh nhất định Chúc ưng kẻ duy nhất phạm tội hơn chín mươi chín kẻ công chính) ở Harry cũng có ngoại lệ và những may mắn tình cờ, rằng đôi khi hắn có thể thở, suy nghĩ và cảm thấy lúc như sói, lúc như người, rõ ràng chứ không lẫn lộn, đúng thế, và đôi khi, vào những giờ khắc rất hiếm hoi, phần sói và phần người sống hòa hoãn, thân ái với nhau, chứ không chỉ bên này ngủ, bên kia thức, mà tăng cường lẫn nhau, bên nọ giúp cho bên kia trở thành gấp đôi. Cũng trong cuộc đời người đàn ông này, như khắp nơi trên thế gian, dường như đôi lúc mọi thói quen, mọi việc thường nhật, mọi điều được nhìn nhận, mọi sự điều độ chỉ nhằm mục đích ngưng nghỉ ở đâu đó một đôi giây ngắn ngủi, rồi bị phá bỏ, nhường chỗ cho cái phi thường, phép lạ và ân sủng. Những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi này có đền bù và xoa dịu được số phận hẩm hiu của Sói Thảo Nguyên, khiến cuối cùng hạnh phúc cân bằng được khổ đau không, hay thậm chí niềm hạnh phúc ngắn ngủi nhưng mãnh liệt trong vài giờ ít ỏi ấy vượt xa sự hóa giải khổ đau, điều này hãy để cho những kẻ nhàn cư tha hồ ngẫm nghĩ. Chính Sói Thảo Nguyên cũng thường suy ngẫm về chuyện ấy, và đó là những ngày nhàn rỗi lẫn vô bổ của hắn. Ở đây cần phải nói thêm một điều. Có khá nhiều người cùng loại như Harry, đặc biệt là các nghệ sĩ. Những người này đều mang song song trong lòng họ hai linh hồn, hai bản chất vừa thù nghịch vừa phức tạp, cả thần thánh lẫn quỷ sứ, cả dòng máu mẹ lẫn dòng máu cha, cả khả năng tiếp thu hạnh phúc lẫn khả năng tiếp nhận khổ đau, giống như Harry mang trong con người hắn phần sói và phần người vậy. Những con người có cuộc sống rất không thanh thản ấy đôi khi cảm thấy một vẻ đẹp và sự mãnh liệt khôn tả trong những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi của họ, làn bọt của khoảnh khắc hạnh phúc đôi khi phụt cao chói lọi trên đại dương đau khổ, làm xúc động và lôi cuống người khác. Mọi công trình nghệ thuật đều đã ra đời như thế, như làn bọt hạnh phúc quý giá thoắt tan trên bể khổ; chính nhờ những công trình ấy mà một cá nhân đau khổ đã vươn lên khỏi số phận của mình được trong một giờ, đến mức hạnh phúc của người ấy rạng rỡ như một vì sao, khiến ai trông thấy cũng đều ngỡ là thứ gì vĩnh cửu và là giấc mơ hạnh phúc riêng tư của mình. Nói chung tất cả những con người này, dù việc họ làm và tác phẩm của họ mang tên gì đi nữa, đều không có đời sống thật sự, nghĩa là đời sống của họ không phải là sự hiện hữu, nó không có gì rõ rệt; họ không phải là những anh hùng hay nghệ sĩ hoặc nhà tư tưởng như kiểu những người khác là thẩm phán, thầy thuốc, thợ giày hay thầy giáo, mà cuộc đời họ là một dòng biến dịch triền miên, đau khổ và sóng gió, bất hạnh, bị giằng xé đầy đau đớn, khủng khiếp và vô nghĩa, ngay từ lúc người ta không chịu nhìn thấy ý nghĩa của nó trong chính những sự kiện, những hành động, những tư tưởng và những tác phẩm hiếm hoi rực sáng trên sự hỗn loạn của một cuộc đời như thế. Giữa những người thuộc loại này đã nảy sinh ý tưởng nguy hiểm và đáng sợ rằng biết đâu toàn thể đời người chỉ là một lầm lẫn phũ phàng, một sự sẩy thai khốc liệt và bất hạnh của bà mẹ nguyên thủy, một thử nghiệm man dại và thất bại khủng khiếp của tự nhiên. Những giữa những người ấy cũng đã nảy sinh một ý tưởng khác, rằng con người có thể không chỉ là thú vật tương đối có lý trí, mà là con của thần thánh, mang số phận bất tử. Mỗi loại người đều có những dấu hiệu đặc trưng, những biểu tượng, những phẩm hạnh cùng tật xấu và tội trọng riêng của họ. Dấu hiệu đặc trưng của Sói Thảo Nguyên là sống về đêm. Hắn sợ buổi sáng, vì đó là khoảng thời gian tệ hại trong ngày, chẳng khi nào đem lại cho hắn điều tốt lành. Hắn chưa từng thật thoải mái vào bất cứ một buổi sáng nào trong đời; hắn chưa hề làm được điều gì tốt đẹp vào những giờ trươc buổi trưa, chưa hề nghĩ ra được điều gì khả dĩ khiến hắn và người khác vui. Chỉ trong lúc xế trưa hắn mới ấm dần và sinh động và chỉ khi gần tối, vào những ngày hắn thoải mái, hắn mới nghĩa ra được nhiều chuyện, trở nên linh hoạt, đôi khi hào hứng và vui vẻ. Điều này liên quan đến nhu cầu được cô đơn và độc lập của hắn. Chưa ai từng khát vọng độc lập sâu xa và mãnh liệt như hắn. Thuở thiếu thời, lúc hàn vi phải vất vả kiếm sống, hắn thà chịu ăn đói, mặc rách chỉ để khỏi mất đi chút độc lập nhỏ nhoi. Hắn chưa hề bán mình cho đàn bà hoặc những kẻ lắm quyền nhiều thế hay vì tiền bạc hoặc cuộc sống phong lưu; hắn đã trăm lần vất bỏ và cự tuyệt những thứ được coi là lợi lộc và hạnh phúc trong mắt thế gian, chỉ cốt giữ lấy tự do. Hắn không thù ghét và ghê tởm gì hơn là nhận một chức vụ này đấy, giữ đúng thời gian biểu của ngày, của năm và phải tuân lệnh kẻ khác. Hắn thù ghét bàn giấy, văn phòng, công sở như thù ghét cái chết và điều khủng khiếp nhất, mà hắn trải qua trong mơ, là bị giam hãm trong trại lính. Hắn biết cách thoát khỏi những điều này, nhưng thường phải chịu nhiều hy sinh. Đây là mặt mạnh và đức tính của hắn; ở điểm này hắn bất khuất và không thể bị mua chuộc; ở điểm này hắn kiên định và cứng rắn. Có điều nỗi đau khổ và số phận của hắn lại gắn bó mật thiết với đức tính ấy. Đối với hắn thì cũng như đối với mọi người thôi: những gì hắn tìm kiếm và kiên trì tột bậc vươn tới vì một sự thôi thúc thâm sâu nhất từ bản chất, hắn đều đạt được, nhưng những điều ấy lại quá mức cho sự tốt lành của con người ta. Thoạt tiên điều ấy là ước mơ và hạnh phúc của hắn, nhưng rồi trở thành số phận đắng cay. Kẻ tham quyền lực sẽ tàn đời vì quyền lực, kẻ tham tiền vì tiền, kẻ quỵ lụy vì khúm núm, kẻ ham lạc thú vì dục lạc. Thành ra Sói Thảo Nguyên đã tàn đời vì sự độc lập của hắn. Đạt mục đích rồi, hắn càng độc lập thêm; không ai ra lệnh cho hắn được nữa, hắn chẳng phụ thuộc vào ai và hắn tự do quyết định việc làm hay không làm. Mọi kẻ xuất sắc đều chắc chắn đạt được điều mà lòng khát khao đích thực của họ thúc đẩy. Nhưng giữa lúc đạt được tự do, Harry chợt nhận thấy tự do của hắn là sự kết thúc, hắn thấy hắn cô đơn và thế gian đã để hắn yên thân một cách đáng sợ, hắn chẳng còn chút liên quan gì nữa với con người, thậm chí với chính hắn, hắn chết ngộp từ từ trong bầu không khí cứ mãi loãng dần của sự xa cách và cô độc. Vì bây giờ cô đơn và độc lập không còn là ước mơ và mục đích của hắn nữa mà là số phận, là bản án của hắn. Điều nguyện ước thần diệu đã được đáp ứng rồi, không rút lại được nữa; dù hắn thành tâm khao khát dang rộng đôi tay đón chào sự liên hệ gắn bó và đoàn kết cũng chẳng ích gì: không ai đoái hoài đến hắn. Mà nào có phải người ta ghét bỏ hay ghê tởm hắn đâu. Ngược lại, hắn có rất đông bạn bè. Nhiều người quý mến hắn. Song hắn luôn chỉ tìm được sự thiện cảm và niềm nở; người ta mời mọc, tặng quà, thân ái viết thư cho hắn, nhưng không ai gần gũi hắn, không ai nảy sinh chút gắn bó nào, không ai muốn và có khả năng cùng hắn chia sẻ cuộc đời. Giờ đây bao quanh hắn là khoảng trống của sự cô đơn, của bầu không khí thầm lặng; thế giới chung quanh hắn cứ dần trượt xa và bất lực trong việc tạo dựng quan hệ mà chẳng ý chí hay khao khát nào có thể chống chọi nổi. Đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đời hắn. Một đặc điểm khác là hắn ở trong số những kẻ tự tử. Ở đây cần phải nói rằng sẽ là sai lầm nếu chỉ dùng khái niệm ấy để gọi những kẻ tự hủy mình thật sự. Vì trong số này nhiều kẻ có thể gọi là tự tử do ngẫu nhiên, chứ tự sát không nhất thiết thuộc vào bản chất của họ. Có những kẻ chết vì tự sát trong số những hạng xoàng xĩnh, bắt chước vô ý thức, trong số người không cá tính, không tác phong đặc biệt, không định mệnh vững chãi nhưng không phải vì thế mà họ thuộc vào mẫu người tự tử, nếu xét toàn cá tính, trong khi có rất nhiều kẻ, phần lớn cũng nên, theo bản chất được xếp vào loại người tự tử, nhưng lại chẳng bao giờ dám thật sự tự hủy mình. “Kẻ tự sát” - Harry là một - không nhất thiết phải sống trong quan hệ đặc biệt gần gũi với cái chết; người ta có thể sống như vậy, mà vẫn không phải là kẻ tự sát. Nhưng kẻ tự tử có điểm khác thường ở chỗ y thấy Cái Tôi của mình, bất kể điều này đúng hay sai, là một hạt mầm đặc biệt nguy hiểm, đáng ngờ và bị đe dọa của tự nhiên, y luôn thấy mình mạo hiểm và bị đe dọa khác thường, như thể y đứng trên một mỏm đá bé tẹo, chỉ cần một cái xô nhẹ từ bên ngoài hay chút khiếp nhược từ bên trong đủ khiến y rơi vào cõi hư không. Đặc trưng trên lằn chỉ tay sinh mệnh của loài người này cho thấy tự tử là kiểu chết dễ có khả năng xảy ra nhất, ít ra trong trí tưởng tượng của chính họ. Điều kiện tiên quyết gây nên tâm trạng này - hầu như luôn thấy rõ ngay từ thời niên thiếu và bám theo họ suốt đời - không phải là sinh khí đặc biệt nhu nhược, ngược lại người ta thấy trong số những “kẻ tự sát” lắm người bản tính rất gan lì, đầy khao khát và cả liều lĩnh nữa. Nhưng giống như những kẻ hơi ốm một tí đã bị sốt, những người mà chúng ta gọi là “kẻ tự sát” vốn luôn rất dễ xúc động và nhạy cảm, hễ bị sốc một tí liền có khuynh hướng ráo riết nghĩ đến việc tự hủy mình. Nếu chúng ta có được một ngành khoa học đủ dũng cảm, đủ tinh thần trách nhiệm cao, nghiên cứu về con người thay vì chỉ quan tâm đến cơ chế những hiện tượng của sự sống, nếu chúng ta có được một ngành tương tự như nhân chủng học, tâm lý học, thì ai cũng sẽ quen thuộc với những sự kiên này. Điều chúng ta nói ở đây về những kẻ tự sát tất nhiên chỉ hời hợt thôi. Nó là tâm lý học, nghĩa là một phần của ngành vật lý. Xét về mặt siêu hình thì vấn đề khác hẳn và sáng tỏ hơn nhiều, vì quan sát trên khía cạnh này chúng ta thấy những “kẻ tự sát” như là những người mang cảm giác phạm tội vì sự cá biệt hóa của mình, như những linh hồn không còn thấy cứu cánh của cuộc đời là hoàn thiện và uốn nắn chính mình, mà là thủ tiêu nó, trở về với Mẹ nguyên thủy, trở về với Chúa, trở về với vũ trụ. Rất nhiêu kẻ trong số đó hoàn toàn bất lực trước việc tiến hành tự sát thật sự vào một lúc nào đấy, vì họ thấu rõ tội lỗi của hành động ấy. Tuy nhiên, với chúng ta họ vẫn là những kẻ tự sát, vì họ thấy đấng cứu tinh trong cái chết chứ không trong sự sống và họ sẵn sàng vứt bỏ đời mình, xả thân, hủy hoại, trở về với nguồn cội. Giống như mọi sức mạnh đều có thể trở thành yếu đuối (thậm chí phải trở thành, trong một số tình huống), kẻ tự sát điển hình có thể biến sự yếu đuối ngoài mặt của y thành sức mạnh cùng chỗ tựa, và y làm điều này hết sức thường xuyên. Đó cũng là trường hợp của Harry, của con Soi Thảo Nguyên. Như hàng nghìn đồng loại, hắn không chỉ biến ý tưởng bất cứ lúc nào con đường đưa hắn tới cái chết cũng rộng mở thành một trò tưởng tượng của tuổi trẻ u sầu, mà còn tìm thấy từ chính ý tưởng này một niềm an ủi và một chỗ dựa. Quả thật, trong tâm hồn hắn, cũng như trong mọi kẻ cùng loại mỗi dao động, mỗi đau đớn, mỗi bế tắc trong cuộc sống đều khơi dậy ngay ý muốn đào thoát bằng cái chết. Song từ ý hướng này hắn dần dà xây dựng cho mình một triết lý có ích cho đời hắn. Hắn vốn quen nghĩ rằng lối thoát cấp cứu kia thường xuyên rộng mở và điều đó đã tạo cho hắn sức mạnh, đã khiến hắn tò mò tận hưởng đau thương cùng những hoàn cảnh oái ăm; rồi khi quá khốn khổ, hắn đôi lúc tự nhủ với niềm vui tàn nhẫn, hả hê độc địa: “Ta tò mò xem thử con người có thể chịu đựng được đến đâu ấy mà! Khi nào quá mức, ta chỉ cần mở cái cửa cấp cứu kia là sẽ được giải thoát ngay thôi”. Khối kẻ tự sát đã được ý tưởng này truyền cho bao sức mạnh phi thường. Mặt khác, mọi kẻ tự sát đều quen thuộc với việc cưỡng lại sức cám dỗ của việc tự hủy mình. Ở một ngóc ngách nào đấy trong tâm hồn, họ thừa biết tuy tự tử là một lối thoát, song vẫn chỉ là một lối thoát khá ươn hèn, không chính đáng, trong khi chịu để cho cuộc đời chiến thắng mình, quật mình ngã gục mới đúng là cao đẹp hơn. Ý thức này, sự cắn rứt lương tâm này, đại loại cùng nguồn gốc với sự cắn rứt lương tâm của những kẻ gọi là thủ dâm, thôi thúc phần lớn những “kẻ tự sát” đấu tranh dai dẳng chống lại cám dỗ của việc tự hủy hoại. Họ đấu tranh như người mắc bệnh ăn cắp vặt chống lại tật xấu của mình. Sói Thảo Nguyên chẳng lạ gì điều ấy, vì chính hắn đã từng sử dụng đủ loại vũ khí khác nhau cho cuộc đấu tranh như thế. Cuối cùng, khoảng năm bốn mươi bảy tuổi, hắn nảy ra một ý định tài tình và không phải không khôi hài, khiến hắn thường thích thú. Hắn xác định vào sinh nhật thứ năm mươi sẽ cho phép mình tự sát[9] . Ngày ấy hắn được tự do quyết định có sử dụng lối thoát cấp cứu kia hay không, tùy tâm trạng của hắn hôm đó, hắn thỏa thuận với lòng như thế. Vậy thì nay dẫu hắn gặp chuyện gì cũng mặt, dù hắn ngã bệnh hay lâm cảnh nghèo đói, chịu đau khổ và đắng cay - tất cả đều có kỳ hạn, tất cả chỉ còn có thể kéo dài tối đa vài năm, vài tháng, vài ngày nữa và con số này cứ mãi giảm dần! Quả thật, nay hắn chịu đựng dễ dàng hơn nhiều một số điều phiền muộn trước đây từng giày vò hắn nặng nề và dai dẳng, thậm chí có lẽ đã khiến hắn rung động tận gốc rễ. Nếu vì lý do nào đấy hắn quá ư bực bội, chẳng hạn cuộc sống của hắn đã quạnh hiu, đơn chiếc và man rợ, lại phải chịu thêm nữa những đau đớn khác thường hoặc mất mát, thì hắn có thể bảo nỗi đau đớn ấy rằng: “Cứ chờ đi, hai năm nữa thôi, lúc ấy ta sẽ là chủ của bọn bay!” Và rồi hắn say mê đắm chìm hình dung thư từ cùng thiệp mừng sẽ đến với hắn vào buổi sáng sinh nhật thứ năm mươi như thế nào, trong lúc hắn, tin cậy vào con dao cạo, vĩnh biệt mọi khổ đau và khép lại cánh cửa cấp cứu sau lưng mình. Bấy giờ bệnh thống phong trong xương cốt hắn, chứng sầu muộn, bệnh nhức đầu và đau bao tử sẽ được thấy bọn chúng đang ở đâu. [9] “… Tôi khá tuyệt vọng một thời gian và không thiết sống nữa. Nhưng rồi tôi tìm được lối thoát. Tôi dự định vào sinh nhật thứ năm mươi, hai năm nữa, sẽ cho mình quyền tự treo cổ, nếu lúc ấy tôi còn mong muốn như thế…” (Thư ngày 1.4.1925 gửi vợ chồng Hugo Ball, người viết tiểu sử của Hesse). Hesse cũng gửi thư với nội dung tương tự cho một số người khác, vào thời điểm khác. (Thêm một chú thích: năm 1892, mới mười lăm tuổi, sau khi bị hai thầy giáo đánh đập tàn bạo, ép nhận lỗi vì “một chuyện cỏn con trong lớp mà tôi hoàn toàn vô tội”, Hesse “mất lòng tin và các thầy” nên đã toan tự tử bằng súng lục, khiến cuối năm học ấy cha mẹ ông phải đưa ông vào bệnh viện tâm thần). Cũng cần nói thêm: để giải thích hiện tượng riêng lẻ của Sói Thảo Nguyên, đặc biệt mối quan hệ khác thường của hắn với tầng lớp trưởng giả, chúng ta hãy quy các sự kiện này vào những quy luật cơ bản của chúng. Sẵn đây, chúng ta lấy ngay cái quan hệ của hắn với giới trưởng giả làm khởi điểm! Sói Thảo Nguyên, theo quan niệm của hắn, hoàn toàn đứng ngoài thế giới trưởng giả, vì hắn không có cuộc sống gia đình hay tham vọng xã hội. Hắn thấy mình hoàn toàn cá biệt, là kẻ lập dị, khi thì hắn là một kẻ ẩn cư bệnh hoạn, lúc là một cá nhân bẩm sinh thiên tài, cao quý, trội hơn hẳn những chuẩn mực nhỏ nhoi của đám làng nhàng. Hắn khinh miệt một cách có ý thức kẻ trưởng giả và tự hào không là một người như thế. Tuy nhiên trên một số khía cạnh hắn sống hoàn toàn trưởng giả; hắn có tiền gửi ngân hàng và trợ giúp họ hàng nghèo túng, hắn ăn mặc tuy không chăm chút, nhưng lịch sự và nhã nhặn, hắn tìm cách sống hòa hợp với Sở Cảnh Sát, Sở Thuế vụ và những quyền lực tương tự. Nhưng ngoài những điều ấy ra, một niềm khao khát âm thầm song mãnh liệt không ngừng kéo hắn tới cái thế giới trưởng giả bé nhỏ, tới những ngôi nhà êm ấm, đáng trọng với những khoảnh vườn sạch sẽ, khoang cầu thang được chăm chút sáng bóng và bầu không khí rất mực khiêm tốn của trật tự cùng sự sung túc. Hắn thích thói hư tật xấu và tính thái quá của mình, thích cảm thấy mình là kẻ đứng ngoài tầng lớp trưởng giả, là kẻ lập dị hoặc thiên tài, nhưng hắn không bao giờ cư ngụ và sống, tạm gọi thế, trong những khu vực chẳng còn tính trưởng giả nào. Hắn không thoải mái trong bầu không khí của những kẻ thô bạo hoặc khác thường cũng như của những kẻ phạm pháp hoặc tồn tại ngoài vòng pháp luật, hắn luôn sống trong khu vực của giới thị dân, lúc nào cũng duy trì quan hệ với tập tục, chuẩn mực và môi trường của họ, dù là quan hệ đối nghịch hay phản kháng. Ngoài ra, vì lớn lên trong nền giáo dục tiểu tư sản nên hắn vẫn còn lưu giữ từ đó không ít khái niệm cùng mẫu mực. Về lý thuyết hắn không hề chống báng giới buôn son bán phấn, nhưng cá nhân hắn không thể nào coi trọng một cô gái mãi dâm và xem thật là ngang hàng với mình. Hắn có thể quý mến như anh em một chính trị phạm, một nhà cách mạng hay người xách động quần chúng về mặt tinh thần - những kẻ bị Nhà nước và xã hội tẩy chay, nhưng hắn chẳng biết nên có thái độ thế nào với một tên ăn cắp, một gã trộm, một kẻ sát nhân dâm ác hơn là tội nghiệp chúng theo một cách khá trưởng giả. Bằng cách đó, lúc nào hắn cũng nhìn nhận và tán thành với một nửa bản chất và hành động của mình điều mà hắn phủ nhận và chống lại với nửa bản chất kia. Lớn lên với khuôn mẫu và tập quán nghiêm ngặt trong một gia đình trưởng giả, có học thức, một phần tâm hồn hắn vẫn còn luôn gắn bó với những trật tự của thế giới này, cả sau khi hắn đã cá thế hóa vượt mức khả dĩ của giới trưởng giả và thoát khỏi những lý tưởng cùng niềm tin của giới ấy từ lâu. “Lối sống trưởng giả”, như một trạng thái luôn hiện hữu của đặc tính con người, không là gì khác hơn sự cố gắng cân bằng, là nỗ lực tìm sự trung dung giữa vô số thái cực và những cặp đối nghịch trong cách xử thế của con người. Chúng ta thử lấy một cặp đối nghịch bất kỳ nào đấy làm thí dụ, chẳng hạn cặp người thánh thiện và kẻ phóng đãng, thì sự so sánh sẽ thành dễ hiểu ngay. Con người có khả năng dồn hết tâm trí vào chuyện tâm linh, vào việc nỗ lực tiếp cận với thánh thần, vào lý tưởng của bậc đức hạnh. Ngược lại con người cũng có khả năng dành hết tâm trí cho cuộc sống bản năng, cho đòi hỏi của dục vọng và hướng mọi nỗ lực vào việc đạt lạc thú nhất thời. Con đường thứ nhất dẫn tới bậc thánh thiện, tới những người hy sinh cho trí tuệ, tới sự quên mình vì Chúa. Còn con đường kia dẫn đến kẻ phóng đãng, tới kẻ chịu chết vì bản năng, tới sự buông thả cho điều thối rữa. Người trưởng giả tìm cách sống theo lối trung dung giữa hai cực đoan ấy. Y sẽ không bao giờ quên mình, hiến thân, chẳng theo sự say sưa cũng không theo nếp khổ hạnh; y sẽ không bao giờ thành kẻ tuẫn đạo, chẳng bao giờ chịu bị hủy diệt - ngược lại, lý tưởng của y không phải là sự hiến thân, mà là bảo tồn Cái Tôi, nỗ lực của y không dành cho sự thánh thiện cũng chẳng cho điều đối nghịch; y không chịu nổi tính vô điều kiện, tuy muốn phụng sự Chúa, nhưng y cũng muốn hưởng lạc thú ngất ngây; tuy y muốn sống đức hạnh, nhưng cũng thích đôi chút thoải mái và tiện nghi trên trần thế. Tóm lại, y cố tìm chốn trung dung giữa những cực đoan, trong một vùng ôn hòa, dễ chịu, không bão tố hay cuồng phong; quả thật y đã đạt được điều ấy, song bù lại sẽ thiếu cảm giác tuyệt mức như trong lối sống cực đoan và hoàn toàn buông thả. Người ta chỉ có thể sống cuồng nhiệt khi chịu trả giá cho Cái Tôi. Mà kẻ trưởng giả không quý gì hơn Cái Tôi (tất nhiên một Cái Tôi phát triển ở dạng sơ đẳng). Cho nên y chịu mất mát chút cuồng nhiệt đổi lấy Cái Tôi và sự an lòng; y thanh thản lương tâm thay vì đam mê Chúa, mãn nguyện thay vì dục lạc, thoải mái thay vì tự do, khát khao vừa phải thay vì cuồng nhiệt trí mạng. Vì thế kẻ trưởng giả, do bản chất, là một sinh vật có động lực sống yếu đuối, nhút nhát, sợ mọi phóng đãng, dễ bị chế ngự. Nên y đặt ra đa số thay cho quyền uy, luật lệ thay cho vũ lực, bầu cử thay cho tinh thần trách nhiệm. Rõ ràng thứ sinh vật yếu đuối và nhút nhát này dù đông đến mấy cũng không thể tự bảo tồn; do đặc tính nên nó không thể giữ vai trò gì khác hơn một đàn cừu giữa những con sói lang thang. Tuy nhiên chúng ta thấy vào thời những người hung bạo cầm quyền, kẻ trưởng giả dù bị đè nén nhưng không bao giờ chịu diệt vong, thậm chí dường như đôi khi y còn thống trị thế giới nữa. Sao lại thế được nhỉ? Bầy đoàn đông đảo của y, phẩm hạnh của y, quan niệm thông thường của người đời hoặc sự tổ chức của y đâu đủ mạnh để cứu y khỏi diệt vong. Kẻ đã quá bạc nhược ngay từ đầu thì chẳng phương thuốc nào trên thế gian giữ nổi mạng sống. Thế mà giai cấp trưởng giả vẫn tồn tại, vẫn mạnh và phát triển. Vì sao? Câu trả lời là: vì những con sói thảo nguyên. Quả thật sức sống của giai cấp trưởng giả hoàn toàn không dựa trên phẩm chất của các thành viên bình thường, mà của cực kỳ đông đảo outsider[10], những kẻ mà giai cấp trưởng giả có khả năng thu hút nhờ lý tưởng mơ hồ và uyển chuyển của nó. Luôn luôn có không ít những kẻ tính tình mạnh bạo và hiếu động trong giai cấp trưởng giả. Sói Thảo Nguyên Harry của chúng ta là một thí dụ điển hình. Hắn - kẻ đã vượt xa mức khả dĩ của một kẻ trưởng giả để phát triển thành một cá thể, kẻ đã từng biết mùi khoái cảm của sự trầm tư mặc tưởng cũng như những vui thú ảm đạm của sự thù hận lẫn ghét bỏ chính mình, kẻ khinh miệt luật lệ, phẩm hạnh và quan niệm thông thường của con người - vậy mà vẫn bó buộc là tù nhân của giai cấp trưởng giả, không thoát ra nổi. Cho nên chung quanh giới trưởng giả đúng nghĩa quy tụ biết bao thành phần của nhân loại, quy tụ hàng nghìn cuộc đời cùng trí tuệ; tuy mỗi kẻ ấy đều có thể phát triển vượt ra khỏi giai cấp trưởng giả, đi theo tiếng gọi của một cuộc sống tuyệt đối, vô điều kiện, nhưng do những tình cảm thời thơ ấu gắn bó với giới trưởng giả và vì tiêm nhiễm khá nặng sức sống yếu đuối của nó, nên y vẫn bám lấy nó, lệ thuộc nó, ràng buộc với nó, sẵn sàng phục vụ nó thế nào đấy. Vì phương châm của giai cấp tư sản ngược với những con người vĩ đại: kẻ nào không chống lại ta là theo ta! [10] Outsider (tiếng Anh trong nguyên tác): người ngoài cuộc. Thành ra, nếu thẩm tra tâm hồn Sói Thảo Nguyên, chúng ta sẽ thấy hắn đã cá thể hóa cao độ trở thành kẻ không-trưởng giả, vì mọi sự cá thể hóa tới mức cao đều quay lại chống đối Cái Tôi và có khuynh hướng hủy diệt nó. Chúng ta thấy trong con người hắn có những thôi thúc mãnh liệt hướng tới cả sự thánh thiện lẫn phóng đãng, nhưng vì một sự yếu đuối hay trì trệ nào đó, hắn không thể thực hiện được bước nhảy vào vũ trụ tự do và hoang dại, mà cứ bị trói chặt vào chòm sao mẹ nặng nề của giai cấp trưởng giả. Đó chính là vị trí của hắn trong vũ trụ, đó chính là sự câu thúc của hắn. Phần lớn trí thức, đại đa số nghệ sĩ thuộc vào mẫu người này. Chỉ những kẻ mạnh nhất trong bọn họ mới xuyên qua nổi bầu khí quyển của quả đất trưởng giả, tiến vào vũ trụ; còn những người khác thảy đều cam chịu hoặc thỏa hiệp, họ khinh bỉ giai cấp trưởng giả nhưng vẫn cứ lệ thuộc vào nó và củng cố lẫn ca ngợi nó; rốt cuộc họ phải tán thành nó để có thể sống. Cuộc đời của vô vàn con người này không vì thế mà biến thành bi thảm, nhưng khá bất hạnh và đen đủi; trong hỏa ngục của sự bất hạnh ấy tài năng của họ trở nên chín muồi, đơm hoa kết quả. Một số kẻ, ít ỏi thôi, bứt khỏi giai cấp trưởng giả, đạt đến chốn tuyệt đối, vô điều kiện, lại suy tàn một cách đáng khâm phục, họ là những kẻ bi tráng. Những kẻ còn lại chịu ràng buộc - mà tài năng của họ thường được giai cấp trưởng giả vô cùng trọng vọng - được một vương quốc thứ ba rộng mở đón chào, một thế giới ảo, nhưng độc lập: đó là sự hài hước. Những con sói thảo nguyên lòng chẳng yên bình, những kẻ triền miên đau khổ, mang số phận hẩm hiu không có được sức mạnh cần thiết để xuyên tới không gian của những vì sao, những kẻ tự thấy có thiên bẩm vào cõi tuyệt đối, nhưng lại không đủ khả năng sống trong đó, những kẻ ấy còn một con đường thoát an ủi vào sự hài hước, nếu tinh thần họ trở thành vững chãi và uyển chuyển qua đau khổ. Sự hài hước luôn mang tính trưởng giả thế nào ấy, dù kẻ trưởng giả thật sự không có khả năng hiểu được nó. Cái lý tưởng rối rắm, đa dạng của mọi con sói thảo nguyên trở thành hiện thực trong lãnh vực tưởng tượng của hắn; nơi đây chẳng những hắn có thể cùng lúc tán thành cả sự thánh thiện lẫn phóng đãng, uốn hai thái cực lại gần nhau, mà còn liên kết được cả kẻ trưởng giả vào sự tán thành đó nữa. Người bị thánh thần ám ảnh rất có thể tán thành kẻ tội phạm và ngược lại; nhưng cả hai loại người này, và mọi kẻ tuyệt đối khác, lại không thể chấp nhận thêm kẻ trưởng giả, loại dở dở ương ương. Chỉ có sự hài hước, phát minh tuyệt vời của những kẻ thiên bẩm trở thành vĩ đại nhưng bị kìm hãm, của những kẻ gần như bi tráng, của những kẻ bất hạnh thiên tư cùng tột, chỉ có sự hài hước (có lẽ đó là thành tựu độc đáo nhất và tài tình nhất của nhân loại) mới đạt được điều bất khả này: đó là phủ lên và hợp nhất mọi khía cạnh của con người với những tia sáng từ lăng kính của nó. Sống trong thế giới mà như thể đó không là thế giới, tôn trọng luật lệ mà vẫn đứng cao hơn nó, sở hữu mà “như không sở hữu”, từ bỏ mà như không từ bỏ - tất cả những đòi hỏi được ưa thích và thường được quy phạm hóa này của một triết lý sống rất mực thông tuệ chỉ có thể thực hiện được nhờ sự hài hước mà thôi. Và nếu ở mê cung ngột ngạt nơi địa ngục của mình, Sói Thảo Nguyên lại thành công trong việc sắc thứ thuốc thần diệu này - hắn không thiếu tư chất cùng phương cách - và vã mồ hôi, thì hắn sẽ thoát. Tất nhiên trong việc này hắn còn thiếu nhiều thứ. Nhưng khả năng và hy vọng là có. Ai yêu quý hắn, ai đồng cảm với hắn, hãy cầu chúc cho hắn thoát. Tuy qua đó hắn sẽ suốt đời gắn bó với giới trưởng giả, nhưng mọi khổ lụy của hắn sẽ trở nên có thể chịu đựng và đơm hoa kết quả. Quan hệ của hắn với thế giới trưởng giả, trong sự thương yêu và thù ghét, sẽ mất đi tính đa cảm; sự ràng buộc giữa hắn với thế giới này sẽ thôi liên tục giày vò hắn như một mối hổ nhục. Để đạt được điều ấy, hoặc để cuối cùng có thể dám lao vào trong vũ trụ, Sói Thảo Nguyên phải một lần tự đối chất với mình, phải nhìn sâu vào sự hỗn mang của chính tâm hồn mình và thấu hiểu triệt để về sự hiện hữu của mình. Lúc ấy sự hiện hữu mơ hồ của hắn sẽ tự hoàn toàn độc lập hiển lộ trước chính hắn và trong tương lai hắn sẽ không thể mãi trốn chạy địa ngục của bản năng, tìm tới những an ủi triết lý và tình cảm, rồi từ đó lại đào tẩu vào trạng thái ngất ngây mù quáng của loài sói. Người và sói sẽ buộc phải nhìn thẳng vào mắt nhau, nhận biết nhau mà không cần những mặt nạ mang cảm xúc giả dối. Lúc ấy hai bên hoặc sẽ nổi giận và vĩnh viễn lìa bỏ nhau, khiến chẳng còn con sói thảo nguyên nào nữa, hoặc chịu sống chung vì lý trí, do được sự hài hước soi sáng. Có thể một ngày nào đấy Harry sẽ đứng trước khả năng cuối cùng này. Có thể một ngày nào đấy hắn sẽ học được cách tự nhận ra mình, hoặc vì hắn có được tấm gương soi nhỏ bé của chúng ta, hoặc vì hắn gặp người bất tử, hoặc có thể hắn tìm thấy trong hí viện ma thuật của chúng ta thứ hắn cần để giải thoát tâm hồn bị hắt hủi của mình. Cả nghìn khả năng như thế đang chờ đợi hắn, chúng bị số phận của hắn thu hút không cưỡng được; mọi kẻ bên lề này của giai cấp trưởng giả đều sống trong bầu không khí của những khả năng ma thuật ấy. Chẳng cần gì hết mà sấm sét vẫn cứ đánh được. Sói Thảo Nguyên rất rành rẽ những điều ấy, dù hắn """