"Sổ Tay Luật Sư 2: Kỹ Năng Hành Nghề Luật Sư Trong Tố Tụng Hình Sự, Hành Chính, Dân Sự PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sổ Tay Luật Sư 2: Kỹ Năng Hành Nghề Luật Sư Trong Tố Tụng Hình Sự, Hành Chính, Dân Sự PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo SỔ TAY LUẬT SƯ TẬP 2 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ, HÀNH CHÍNH, DÂN SỰ CÁC TÁC GIẢ BIÊN SOẠN Trưởng nhóm biên soạn: LS.TS. Phan Trung Hoài PHẦN 1 : KỸ NĂNG HÀ NH NGHỀ LUẬ T SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chương 1 : Nhữ ng vấ n đề chung LS.TS. Phan Trung Hoài Chương 2 : Mộ t số kỹ năng cơ bả n củ a Luậ t sư khi tham gia tố tụ ng hì nh sự Chương 3 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong vụ á n ma tú y Chương 4 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong vụ á n tham nhũ ng Chương 5 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong vụ á n xâm phạm an ninh quố c gia Chương 6 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong việc bà o chữ a, bả o vệ quyề n lợ i hợ p phá p cho ngườ i dướ i 18 tuổ i Chương 7 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho phá p nhân LS.TS. Phan Trung Hoài LS.TS. Chu Thị Trang Vân LS. Hoàng Huy Được LS.TS. Phan Trung Hoài LS.ThS. Đinh Văn Quế LS. Phạm Thanh Bình LS. Nguyễn Thị Hồng Liên LS.TS. Chu Thị Trang Vân TS.LS. Phan Trung Hoài PHẦN 2 : KỸ NĂNG HÀ NH NGHỀ LUẬ T SƯ TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Chương 8 : Nhữ ng vấ n đề chung LS. Phạm Công Hù ng Chương 9 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n hà nh chí nh LS. Nguyễn Chiến PHẦN 3 : KỸ NĂNG HÀ NH NGHỀ LUẬ T SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chương 10 : Nhữ ng vấ n đề chung LS.ThS. Nguyễ n Minh Tâm Chương 11 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n dân sự LS.ThS. Nguyễn Minh Tâm 6 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 PHẦN 4 : KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN DÂN SỰ CỤ THỂ Chương 12 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n hôn nhân và gia đì nh Chương 13 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n tranh chấp thừ a kế Chương 14 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n tranh chấ p đấ t đai Chương 15 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n bồ i thườ ng thiệt hại ngoà i hợ p đồ ng LS.ThS. Trương Thị Hò a LS.ThS. Trương Thị Hò a LS.ThS. Trương Thị Hò a LS.TS. Nguyễ n Đì nh Thơ Chương 16 : Kỹ năng hành nghề luật sư trong vụ á n tranh chấ p lao độ ng Chương 17 : Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư trong tố tụ ng trọ ng tà i thương mại LS.ThS. Cao Đứ c Nhuậ n LS. Đặng Xuân Hợp, LS. Trinh Nguyễn, LS. Trần Thảo Uyên và LS. Nguyễn Trung Nam LỜI NHÀ XUẤT BẢN Công cuộc Đổi mới của Việt Nam đã trải qua hơn 30 năm và đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, đặc biệt là về kinh tế - xã hội, cùng với đó là sự hoàn thiện từng bước của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hệ quả của sự phát triển nhanh chóng này chính là rất nhiều các vấn đề ngày càng phức tạp trong sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội. Do đó, sự có mặt của Luật sư trong việc giải quyết các tranh chấp và tư vấn trong nhiều lĩnh vực là rất cần thiết và đã trở nên không còn xa lạ. Luật sư ngày nay được nhìn nhận với tư cách là một nghề nghiệp có vị thế và vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc đem lại công bằng, bình đẳng cho xã hội. Chính vì vị trí, vai trò và chức năng xã hội đặc biệt quan trọng như vậy, các Luật sư ngoài những kiến thức pháp luật sâu rộng, còn cần phải có những hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực, đặc biệt, phải là người có đạo đức trong sáng, giàu lòng trắc ẩn và có tinh thần dũng cảm, luôn bảo vệ chính nghĩa. Muốn trở thành Luật sư, một cá nhân phải trải qua thời gian dài với không ít thử thách trong việc tích lũy kinh nghiệm, tạo dựng uy tín cá nhân. Vì vậy, nhiều Luật sư mới vào nghề có thể sẽ bỡ ngỡ và lúng túng trong xử lý các vụ việc cụ thể. Với mục đích đào tạo những Luật sư vừa “hồng” vừa “chuyên”, xây dựng đội ngũ Luật sư Việt Nam ngày càng vững mạnh, Liên đoàn Luật sư Việt Nam phối hợp với Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) biên soạn bộ Sổ tay luật sư gồm 3 tập và xuất bản tại Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Theo LS.TS. Phan Trung Hoài - Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Trưởng Tiểu ban xây dựng Sổ tay luật sư thì bộ sách này là tập hợp những kinh nghiệm quý báu được chắt lọc theo kiểu “rút ruột nhả tơ” của những Luật sư có thâm niên và uy tín trong nghề, với tinh thần “cầm tay chỉ việc” nhằm dìu dắt thế hệ luật sư trẻ vững vàng hơn trong con đường hành nghề luật sư đầy khó khăn, thử thách. Vì vậy, ngoài những lý thuyết chung, bộ sách tập trung vào trình bày các kỹ năng hành nghề, bao gồm: Kỹ năng cứng liên quan đến thực hành, áp dụng pháp luật và kỹ năng mềm trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý mà các Luật sư cần chú ý. Bộ sách được chia làm 3 tập với nội dung chính như sau: Tậ p 1 - Luậ t sư và hà nh nghề luậ t sư: Giới thiệu những nội dung cơ bản về Luật sư và nghề luật sư. Ngoài ra, Tập 1 cũng đề cập các vấn đề cơ bản nhưng đặc biệt quan trọng mà mỗi Luật sư cần quan tâm, như: Thù lao luật sư; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư; Hợp đồng dịch vụ pháp lý; Chế độ tài chính, kế toán và thuế mà Tổ chức hành nghề luật sư cần tuân thủ,... Tập 2 - Kỹ năng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, hành chính, dân sự: Giới thiệu những kỹ năng hành nghề của Luật sư khi tham gia tranh tụng trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự. Ngoài ra, Tập 2 cũng cung cấp một số vấn đề cơ bản và những kỹ năng mà Luật sư cần có khi tham gia tố tụng trọng tài. Tậ p 3 - Kỹ năng hà nh nghề luậ t sư tư vấn trong lĩ nh vực đầ u tư, kinh doanh, thương mại: Giới thiệu những kỹ năng hà nh nghề của Luật sư trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, kinh doanh, thương mại, đặc biệt là các lĩnh vực xây dựng, mua bán - sáp nhập (M&A), bất động sản,... Bên cạnh đó, Tập 3 còn cung cấp một số quy trình tư vấn cũng như mẫu văn bản tư vấn cụ thể mà các Luật sư có thể tham khảo khi thực hiện các dịch vụ tư vấn đặc thù. Bộ Sổ tay luật sư (3 tập) thực sự là món quà có ý nghĩa của lớp luật sư đàn anh gửi tặng cho các thế hệ đi sau. Tuy nhiên, do đây là công trình của nhiều tác giả và được biên soạn trong một thời gian ngắn nên chắc chắn sẽ còn một số thiếu sót. Các tác giả và Nhà xuất bản rất mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để bộ sách tiếp tục được hoàn thiện trong những lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Tháng 10 năm 2017 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT MỤC LỤC Lời Nhà xuất bản 7 Lời nói đầu 15 Phần I KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 17 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 19 I. Vai trò của Luật sư trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý 19 II. Chức năng xã hội của Luật sư trong hoạt động tố tụng 21 III. Một số khó khăn, vướng mắc 25 IV. Nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử 29 V. Các hành vi bị nghiêm cấm và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia tố tụng 33 Chương 2 MỘT SỐ KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ 43 I. Tiếp xúc khách hàng, thủ tục đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi 43 II. Tham gia hoạt động điều tra 58 III. Các kỹ năng trao đổi công việc, phối hợp thực hiện trong quan hệ với viện kiểm sát, tòa án 66 IV. Nghiên cứu hồ sơ vụ án 69 V. Xây dựng đề cương xét hỏi 71 VI. Chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng 73 VII. Nhận thức và thao tác kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa 75 10 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Chương 3 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN MA TÚY 83 I. Tính chất, đặc điểm của vụ án ma túy 84 II. Đặc điểm tâm lý của người phạm tội ma túy 85 III. Kỹ năng tiếp xúc, làm việc với các bị can, bị cáo thực hiện tội phạm ma túy trong trại giam 87 IV. Thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá chứng cứ trong các vụ án ma túy 89 Chương 4 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN THAM NHŨNG 96 I. Nhận diện đặc điểm và các dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm về tham nhũng 96 II. Tiếp nhận yêu cầu và tham gia tố tụng bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong các vụ án tham nhũng 101 Chương 5 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA 116 I. Khái quát về các tội xâm phạm an ninh quốc gia 116 II. Một số kỹ năng bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 120 III. Một số điểm lưu ý khi bào chữa tội “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” 132 Chương 6 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VIỆC BÀO CHỮA, BẢO VỆ QUYỀN LỢI HỢP PHÁP CHO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI 137 I. Các văn bản pháp luật điều chỉnh 137 II. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 139 MỤC LỤC ♦ 11 Chương 7 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VIỆC BÀO CHỮA, BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO PHÁP NHÂN 165 I. Tính cấp thiết trong việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân 165 II. Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội 171 III. Kỹ năng tham gia tố tụng, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho pháp nhân 178 Phần 2 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 187 Chương 8 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 189 I. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân 189 II. Xác định tư cách của người tham gia tố tụng 190 Chương 9 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 205 I. Đặc điểm tranh tụng của Luật sư trong vụ án hành chính 205 II. Kỹ năng tham gia giai đoạn sơ thẩm vụ án hành chính 207 III. Kỹ năng tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa sơ thẩm 220 IV. Tranh tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính 228 Phần 3 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 231 Chương 10 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 233 I. Tí nh chấ t, đặ c điể m củ a vụ á n dân sự 233 II. Phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự 234 12 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 III. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự có liên quan đến hoạt động của Luật sư 235 IV. Cá c quyề n và nghĩ a vụ củ a Luật sư trong tố tụ ng dân sự 241 Chương 11 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ 243 I. Nhận thức về kỹ năng của Luật sư trong vụ án dân sự 243 II. Tiếp xúc khách hàng, đăng ký thủ tục bảo vệ quyền lợi 243 III. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp 244 IV. Soạn thảo đơn kiện, đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đơn phản tố 245 V. Thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự 248 VI. Gặ p gỡ , trao đổ i vớ i khá ch hà ng 248 VII. Tham gia các phiên họp cung cấp, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, hòa giải 249 VIII. Nghiên cứu hồ sơ vụ án, hệ thống hóa chứng cứ, xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi của đương sự 250 Phần 4 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN DÂN SỰ CỤ THỂ 257 Chương 12 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 259 I. Tí nh chấ t, đặ c điể m củ a vụ á n hôn nhân và gia đì nh 259 II. Nhữ ng nộ i dung Luật sư cầ n trao đổ i vớ i khá ch hà ng khi tham gia vụ án về hôn nhân và gia đình 263 III. Những vấn đề pháp lý đặt ra khi ly hôn 267 IV. Kỹ năng xem xét nguyệ n vọ ng củ a con trong vụ á n ly hôn 268 V. Nghiên cứ u hồ sơ vụ á n tranh chấ p hôn nhân và gia đình 269 MỤC LỤC ♦ 13 VI. Đá nh giá chứ ng cứ trong vụ á n tranh chấ p hôn nhân và gia đình 270 VII. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi của khách hàng 272 VIII. Kỹ năng xét hỏi và trình bày luận cứ của Luật sư trong vụ án ly hôn 273 Chương 13 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP THỪA KẾ 275 I. Tí nh chấ t, đặ c điể m củ a vụ á n tranh chấ p thừ a kế 275 II. Các loại tranh chấp thừa kế 276 III. Nhận thức của Luật sư khi tham gia vụ án tranh chấp thừa kế 278 IV. Cá c quy đị nh phá p lý về thừ a kế 279 V. Thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh gia chứng cứ về các vấn đề cầ n chứ ng minh 281 VI. Kỹ năng hòa giải của Luật sư trong vụ án tranh chấp thừa kế 282 VII. Quan hệ giữa Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành về thừ a kế 283 VIII. Á n lệ về thừ a kế 285 IX. Chuẩn bị phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tranh chấp thừa kế 286 X. Kỹ năng tham gia phiên tòa vụ án tranh chấp thừa kế 287 Chương 14 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 289 I. Tí nh chấ t, đặ c điể m củ a vụ á n tranh chấ p đấ t đai 289 II. Án lệ trong tranh chấp đất đai 320 Chương 15 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 323 I. Tính chất, đặc điểm vụ án dân sự đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 323 14 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 II. Cá c loạ i tranh chấ p về bồ i thườ ng thiệ t hạ i ngoà i hợ p đồ ng 324 III. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 325 IV. Tiếp nhận, đánh giá yêu cầu của khách hàng 327 V. Vấn đề xác định thiệt hại 328 VI. Thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ 336 VII. Nghiên cứu hồ sơ, xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi khách hàng 341 Chương 16 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP LAO ĐỘNG 345 I. Tí nh chấ t, đặ c điể m tranh chấp về lao độ ng 346 II. Các loại tranh chấp lao động và những tranh chấp lao động phổ biế n trong thự c tiễ n 346 III. Tiế p nhậ n, đá nh giá yêu cầ u củ a khá ch hà ng - nhận diện tranh chấp lao động và xử lý tình huống 359 IV. Thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ 362 V. Hò a giả i trong tranh chấ p lao độ ng 368 VI. Nghiên cứ u hồ sơ, xây dự ng phương á n bả o vệ quyề n lợ i cho khá ch hà ng 371 Chương 17 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 383 I. Trọng tài thương mại 383 II. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải khác 395 LỜI NÓI ĐẦU Tiếp theo Tập 1, Sổ tay Luật sư Tập 2 đề cập những kỹ năng cơ bản của luật sư trong tranh tụng, cụ thể là các kỹ năng của luật sư khi tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng trong tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự (bao gồm lĩnh vực kinh doanh - thương mại và tố tụng trọng tài). Những vấn đề pháp lý trình bày ở Tập 2 chủ yếu được phân tích theo quy định của Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, và các đạo luật tố tụng đang có hiệu lực thi hành như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ Luật tố tụng hành chính năm 2015, những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29- 6-2016 của Quốc hội ban hành cho phép áp dụng thực hiện đối với các quy định có lợi cho người phạm tội (điểm a, b khoản 4 Điều 1). Trong quá trình biên soạn, các tác giả cũng đã cập nhật các quy định pháp luật của những đạo luật mới được ban hành nhưng chưa có hiệu lực thi hành tính đến thời điểm biên soạn như Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Hai bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01-01-2018. Ở một số chuyên đề có liên quan, Sổ tay Luật sư Tập 2 cũng phân tích một số quy định của các văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn thi hành, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Nhìn chung, kỹ năng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, hành chính, dân sự chủ yếu dựa trên căn cứ pháp lý quy định tại Điều 27 Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, quy định trong các luật, 16 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 bộ luật về tố tụng và kinh nghiệm tích lũy của các luật sư có thâm niên nghề nghiệp. Tuy nhiên, để một luật sư có thể hành nghề trong thực tiễn phụ thuộc rất nhiều vào việc tạo điều kiện của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước và tổ chức, cá nhân khác. Tham gia tố tụng là một trong những hình thức dịch vụ pháp lý mà Luật sư được phép cung cấp cho khách hàng. Đây là lĩnh vực hành nghề có những khó khăn nhất định so với hoạt động tư vấn pháp luật hoặc cung cấp dịch vụ pháp lý do đặc thù là nhiều áp lực và mức độ rủi ro trong hoạt động hành nghề cao. Liên đoàn Luật sư Việt Nam trân trọng cảm ơn các luật sư là những người có trải nghiệm hành nghề sâu sắc, đã dành nhiều tâm huyết đúc kết kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề truyền lại cho các luật sư trẻ mới vào nghề, giúp họ có thêm hành trang để tự tin, chủ động trong việc cung cấp dịch vụ tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong xã hội. TM. THƯỜNG TRỰC LIÊN ÐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM Trưởng Tiểu ban xây dựng Sổ tay Luật sư LS. TS PHAN TRUNG HOÀI Phó Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quyết tâm của Việt Nam trong việc gia nhập WTO, Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 (sau đây gọi tắt là Luật luật sư) ra đời đã đáp ứng được sự chờ đợi của giới luật sư và của xã hội trước những đòi hỏi, yêu cầu của việc xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”1, bảo đảm và tôn trọng quyền con người trong hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhìn chung, Luật luật sư đã giải quyết được một phần những vướng mắc trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của Luật sư theo Pháp lệnh luật sư năm 2001 và các văn bản pháp luật có liên quan trước đó, nâng cao giá trị hiệu lực của văn bản pháp luật điều chỉnh, mở ra một không gian pháp lý rộng rãi cho Luật sư hành nghề, đồng thời đặt ra đòi hỏi rất cao về tư cách, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của Luật sư. Thực tế cho thấy, phần lớn các Luật sư khi cầm trên tay chiếc Thẻ Luật sư đều nhận thức rõ ràng sứ mệnh, chức năng xã hội cao quý của nghề này nên đã cố gắng trau dồi kiến thức, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao kỹ năng hành nghề. Tuy nhiên, vẫn có những Luật sư quan niệm chỉ cần được cấp Thẻ Luật sư mà không cần hành nghề, 1. Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013. 20 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 thậm chí đặt nặng tính chất dịch vụ thay cho sự phục vụ tận tâm đối với khách hàng. Khi tham gia tố tụng, thông thường Luật sư phải chịu nhiều áp lực, quá trình hành nghề gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân của những khó khăn này phần lớn xuất phát từ việc một số cán bộ tiến hành tố tụng chưa có nhận thức đúng về vị trí, vai trò của Luật sư. Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân, điều kiện khác nhau, bản thân những người tập sự hành nghề Luật sư qua chương trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, tuy tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng cơ bản, nhưng lại chưa có điều kiện trải nghiệm trong thực tiễn tố tụng. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan trọng nhất là, Luật sư phải nhận thức được vị trí, vai trò của bản thân trong đời sống xã hội và về thị trường dịch vụ pháp lý ngày càng phát triển như hiện nay. Luật sư là một chủ thể thực hiện pháp luật thông qua các thiết chế và khuôn khổ pháp lý do Nhà nước quy định và tổ chức, được cung cấp các dịch vụ pháp lý, thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và bảo đảm sự áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật. Bản chất hoạt động của Luật sư không chỉ là hoạt động tuân thủ pháp luật, mà chứa đựng trong đó các giá trị dân chủ, tính độc lập cùng với việc xây dựng, củng cố uy tín cá nhân và khẳng định giá trị của thương hiệu nghề nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, sự tham gia của Luật sư trong các hoạt động xét xử của Tòa án không chỉ thể hiện sự bảo đảm dân chủ của tiến trình tố tụng mà còn là cơ sở cho việc thực hiện quyền con người trong hoạt động tư pháp. Có thể nói, sự tham gia của đội ngũ Luật sư Việt Nam trong những năm qua đã có những ảnh hưởng, đóng góp không nhỏ đến kết quả hoạt động xét xử của Tòa án, đồng thời qua hoạt động nghề nghiệp này, hệ thống văn bản pháp luật về Luật sư cũng dần được hoàn thiện. Trong điều kiện nói trên, việc trang bị các kỹ năng hành nghề chuyên nghiệp khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình, kinh doanh - thương mại Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 21 hay tố tụng trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng đối với các Luật sư mới vào nghề. II. CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG Chức năng xã hội của Luật sư được quy định tại Điều 3 Luật luật sư: “Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Mỗi Luật sư trong nhận thức và hoạt động nghề nghiệp đều cần thấm nhuần tinh thần, nội hàm chức năng xã hội của nghề nghiệp nói trên để chuyển hóa thành các hành vi ứng xử, kỹ năng nghề nghiệp trong thực tiễn tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong xã hội. Nói tới chức năng xã hội của Luật sư là đề cập thiên chức và sứ mệnh của Luật sư, tới cách thức mà Luật sư hành nghề hướng đến những giá trị cơ bản làm nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Chức năng này không phải tự nhiên mà có, bởi lẽ về bản chất, hoạt động Luật sư phản ánh trước hết nhu cầu của các chủ thể về trợ giúp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhìn từ góc độ lịch sử, có thể nhận thấy, việc hình thành nghề Luật sư trên thế giới có căn nguyên sâu xa từ cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công trong xã hội. Chính từ hành động chống lại những bất công trong xã hội có giai cấp mà hình ảnh Luật sư xuất hiện đẹp đẽ như biểu tượng về lòng nghĩa hiệp, phản ánh ước vọng khát khao của các tầng lớp nhân dân về công bằng, dân chủ. Như vậy, hoạt động của Luật sư không thể tách rời với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tố tụng hình sự của mỗi quốc gia. Từ đó có thể thấy, các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh đã trở thành “dung môi” cho hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. Nếu mất đi môi trường và đối tượng phục vụ là các chủ thể trong xã hội thì Luật sư sẽ mất đi nền tảng tạo thành mục tiêu hoạt động của mình. 22 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Nhìn chung, chức năng xã hội của Luật sư được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng nhu cầu pháp lý của các chủ thể trong xã hội một cách minh bạch, giúp những chủ thể này nhận biết chân thực và chính xác các nhu cầu chính đáng của mình. Quan niệm này xuất phát từ việc xác định vị trí Luật sư trong xã hội là người hướng dẫn pháp luật. Thông thường, một chủ thể trong xã hội trông cậy vào sự trợ giúp về mặt pháp lý của Luật sư vì họ tin tưởng không chỉ vào kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề mà cả về tính liêm chính, chuẩn mực trong hành vi của mỗi Luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư như một bộ phận trí thức ưu tú, có văn hóa và hoài bão, có ảnh hưởng nhất định đến quá trình phát triển của xã hội cũng như hoạt động tố tụng. Vì thế, yêu cầu về phẩm chất của Luật sư khi tham gia tố tụng là phải tuân thủ pháp luật, có kỹ năng, kỷ luật, có trình độ chuyên môn, tận tâm với khách hàng và còn phải là người có tấm lòng yêu thương con người, một lòng vì chính nghĩa, tin tưởng vào công bằng xã hội. Trong một chừng mực nhất định, hình mẫu Luật sư phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay ở Việt Nam phải là người có trình độ văn hóa và nhận thức chính trị, dựa trên nền tảng lý luận, tinh thông nghề nghiệp, có kiến thức pháp luật sâu sắc, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú và phương pháp làm việc linh hoạt; vừa giữ được giới hạn các chuẩn mực của pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp, vừa biết vận dụng sáng tạo tinh thần thượng tôn pháp luật vào việc xử lý các vụ việc trong đời sống. Khi tham gia tố tụng, Luật sư được xem như một “trợ tá trong hành trình tìm kiếm công lý”. Ở đây, cần nhìn nhận về công lý trong điều kiện lịch sử, cụ thể của đất nước. Nhìn chung, công lý được coi là giá trị của một nền tư pháp dân chủ khi các quyền con người được tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp. Trong khi đó, pháp luật được coi là đại lượng công bằng trong đánh giá, xử sự, hành động của các chủ thể trong xã hội, tạo ra một cơ chế minh bạch nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong khi đó, hoạt động của Luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội được coi là một tiêu chí để đánh giá uy tín, chất lượng của hoạt động Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 23 tư pháp. Với Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và sự hoàn thiện pháp luật về Luật sư (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW), có thể nói, nghề Luật sư ở nước ta đang có những cơ hội phát triển rất thuận lợi. Do đó, chức năng xã hội của Luật sư, xét trong điều kiện cụ thể của tiến trình cải cách tư pháp hiện nay là “một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”1. Khi nói tới chức năng xã hội của Luật sư nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng, cần đặt vị trí Luật sư trong các mối quan hệ chi phối đến hoạt động nghề nghiệp và xem xét các yếu tố này trong tổng thể các giá trị của sự phát triển dân chủ, quan niệm về sự công bằng, văn minh cũng như các thành tố khác tạo nên một xã hội dân chủ. Hoạt động của Luật sư trong tố tụng thời gian qua đã góp phần mang đến cho xã hội nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng những giá trị dân chủ, thông qua sự bình đẳng trong tranh tụng, đề xuất yêu cầu, đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Một khía cạnh đáng chú ý là Điều 3 Luật luật sư đã bỏ đối tượng “pháp chế xã hội chủ nghĩa” khi quy định chức năng xã hội của Luật sư như được nêu tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh luật sư năm 2001. Sự thay đổi này không làm giảm đi nhiệm vụ “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” như một chức năng xã hội của Luật sư, đồng thời cũng không giới hạn nhiệm vụ, thiên chức của Luật sư chỉ nằm ở việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức như là nhiệm vụ, thiên chức duy nhất. Nói cách khác, Luật sư trong quá trình hành nghề không những chỉ quan tâm đến thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần mà còn phải quan tâm đến yếu tố phi vật chất, phi dịch vụ trong hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, bào chữa theo 1. Trần Đức Lương: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1 (tháng 1-2002), tr.4. 24 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 chỉ định của cơ quan tố tụng, Đoàn Luật sư mà luật sư là thành viên hoặc tham gia với tư cách là Luật sư của tổ chức, đơn vị, từng bước đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ý nghĩa, tính chất trong việc phục vụ cho lợi ích cộng đồng, giúp lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hóa giải các xung đột về lợi ích giữa các cá nhân và chủ thể khác trong xã hội đã góp phần nâng cao vị thế của người Luật sư, giúp họ trở thành một cầu nối tuyên truyền và thực hiện pháp luật. Như vậy, mặc dù chức năng xã hội của Luật sư tuy chỉ được quy định ngắn gọn trong Điều 3 Luật luật sư, nhưng ẩn chứa trong đó những quan niệm, ý nghĩa sâu xa về thiên chức nghề nghiệp, sự cống hiến và đóng góp to lớn của đội ngũ Luật sư trong tiến trình phát triển nền dân chủ, từng bước hướng đến tiếp cận với công lý, công bằng xã hội. Để làm tốt chức năng xã hội cao quý đó, bản thân mỗi Luật sư, dù hoạt động trong phạm vi và hình thức hành nghề nào cũng cần quan tâm đến việc xây dựng uy tín nghề nghiệp cá nhân, làm nền tảng cấu thành uy tín của tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Về phần mình, uy tín của tổ chức Luật sư sẽ biểu hiện trực tiếp giá trị dân chủ của thể chế và hoạt động tố tụng của một quốc gia. Luật sư phải luôn lấy việc phụng sự công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng làm mục đích thực hiện hoạt động nghề nghiệp, thực hiện trên cơ sở pháp luật, lấy uy tín làm gốc. Đây chính là yêu cầu nội tại, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình và hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ Luật sư. Do đó, xây dựng chế độ tín nhiệm đối với Luật sư là bộ phận cấu thành quan trọng trong việc xây dựng chế độ tín nhiệm của xã hội đối với nghề Luật sư trong đời sống và trong tố tụng. Mỗi Luật sư phải có ý thức bảo vệ uy tín cá nhân của mình thông qua các hình thức và phạm vi hoạt động nghề nghiệp. Mất đi uy tín cá nhân là mất đi bản chất của Luật sư, tạo nên sự bị động khi tham gia tố tụng, đồng thời mất đi sự tin cậy của xã hội đối với tổ chức hành nghề luật sư. Tóm lại, uy tín cá nhân của Luật sư được coi là yếu tố sống còn của hoạt động nghề nghiệp Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 25 Luật sư, là nền tảng cho việc thực hiện chức năng xã hội của Luật sư. Vì vậy, mỗi Luật sư phải phấn đấu từng bước xây dựng hình ảnh của mình trong xã hội như một “vệ sĩ” bảo vệ chính nghĩa, công bằng và dân chủ trong trái tim của công chúng. III. MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC Từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án trong thời gian qua, có thể nhận thấy một số khó khăn, vướng mắc đối với các Luật sư khi tham gia tố tụng như sau: Một là, với tư cách chủ thể áp dụng pháp luật. Tòa án là cơ quan tài phán có thẩm quyền xét xử, giải quyết các vụ việc, đưa ra các căn cứ pháp lý nhằm phân định đúng sai, xác định chủ thể thực hiện hành vi có tội hay không có tội, bảo vệ sự công bằng, lợi ích của các bên đương sự trên cơ sở các quy định pháp luật cụ thể. Tuy nhiên, do mô hình tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng hiện nay ở nước ta chủ yếu dựa trên xét hỏi kết hợp với tranh tụng nên quá trình xét xử chủ yếu là hoạt động thẩm vấn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Đại diện Viện kiểm sát (nếu có). Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, thông qua lăng kính nhận thức chủ quan, Thẩm phán phần nhiều đã định hình một chủ thể là có tội hay không có tội, hành vi họ thực hiện là hợp pháp hay không hợp pháp, có thể trong một chừng mực nhất định, quá trình thẩm vấn tại tòa thực chất chỉ là sự chứng minh cho nhận thức có sẵn trước đó của Thẩm phán. Trong trường hợp này, các yếu tố khách quan bên ngoài như sự kiện đặc biệt, tình tiết chứng cứ mới, v.v., đôi khi không có ý nghĩa trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng. Do đó, có lúc Thẩm phán chưa giữ được vai trò là người trọng tài, phân định một cách vô tư và khách quan. Hai là, sự tham gia tố tụng của Luật sư ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, giai đoạn điều tra, khởi tố bị can còn hạn chế, nên tình trạng xét xử với quan niệm “án tại hồ sơ” còn tương đối phổ biến, dẫn đến cách suy nghĩ những gì thể hiện trong hồ sơ là bất biến, có giá trị chứng minh, bất kể trình tự thu thập chúng có đúng pháp luật hay không. Những bất cập nêu trên thực chất đã không cho phép các 26 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 chủ thể áp dụng pháp luật có bất kỳ cơ hội nào để phản biện về tính đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật. Thực trạng này cũng bắt nguồn từ quan niệm hoạt động của Luật sư chỉ là hoạt động bổ trợ tư pháp, không mang tính chủ động và độc lập, phụ thuộc vào cơ chế “xin - cho” v.v.. Ba là, bản thân các quy phạm pháp luật còn ít nhiều mang tính hình thức, máy móc, các tiêu chí áp dụng pháp luật chưa phản ánh được sự phức tạp, đa chiều của đời sống xã hội. Nói cách khác, pháp luật, với tư cách là đối tượng áp dụng của các chủ thể hoạt động tư pháp vốn còn bất cập, chưa theo kịp sự phát triển sôi động của đời sống hiện nay. Biểu hiện rõ nét nhất là cách thức áp dụng pháp luật về tội phạm trong các vụ án hình sự hoặc quan niệm “án dân sự xử thế nào cũng được” của một số cơ quan, người tiến hành tố tụng. Khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực, vấn đề này đã được giải quyết cơ bản thông qua quy định tại khoản 2 Điều 4: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật để áp dụng”1. Như vậy, ở thời điểm hiện tại, Tòa án phải thụ lý, giải quyết các yêu cầu khởi kiện, kể cả đối với các quan hệ xã hội mà pháp luật chưa điều chỉnh Thông qua những khó khăn, vướng mắc khi tham gia thực tiễn xét xử nêu trên, mỗi Luật sư cần nhận thức được vai trò của mình trong quá trình áp dụng thống nhất pháp luật và cần lưu ý những điểm cụ thể trong kỹ năng hành nghề của Luật sư như sau: Thứ nhất, kỹ năng hành nghề của Luật sư phải dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Theo các quy định chung của các bộ luật tố tụng, Luật sư với tư cách là người tham gia tố tụng có nhiệm vụ cùng với khách hàng của mình tìm kiếm chứng cứ, tài liệu chứng minh và đề xuất các giải pháp pháp lý cho việc áp dụng thống nhất pháp luật. Đối diện với cáo buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với khách hàng, Luật sư có trách nhiệm tìm ra các lựa chọn cho việc áp dụng pháp luật bằng cách chỉ ra 1. Khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 27 tính thiếu căn cứ của các cáo buộc đó hoặc của tinh thần điều luật được áp dụng. Ví dụ, trong một thời gian dài trước đây, các nhà làm luật chưa chỉ rõ khía cạnh chủ thể của tội danh trốn thuế là pháp nhân hay cá nhân. Trong khi đó, trên thực tế, pháp nhân mới là chủ thể áp dụng và có nghĩa vụ nộp các loại thuế liên quan đến hoạt động kinh doanh; còn cá nhân, dưới danh nghĩa giám đốc, tổng giám đốc chỉ bị điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập cá nhân và chịu trách nhiệm với tư cách đại diện theo pháp luật của pháp nhân (nếu có). Tương tự như vậy, đối với các tội phạm về ô nhiễm môi trường, chưa có cơ sở pháp lý cho việc xem xét trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Chưa kể, khi xem xét đối tượng là pháp nhân, còn phải xem xét đến các yếu tố như các thành viên góp vốn, cổ đông, giới hạn trách nhiệm theo tỷ lệ góp vốn theo các quy định của Luật doanh nghiệp, v.v.. Từ thực tiễn nêu trên, đến khi Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015) ra đời, vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân mới được đặt ra. Tóm lại, khi tham gia tố tụng, Luật sư có trách nhiệm tuân thủ pháp luật tố tụng, giải quyết hài hòa giữa hai yêu cầu tưởng chừng mâu thuẫn là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và tôn trọng sự thật, bảo vệ tính hiệu lực của pháp luật. Sự thống nhất các quyền lợi khác nhau trong một trật tự pháp luật chỉ có thể có được khi Luật sư nhận thức được ý nghĩa đặc biệt quan trọng về “sứ mệnh trợ tá công lý” của hoạt động nghề nghiệp, mang đến công bằng và dân chủ cho các tiến trình tố tụng. Thứ hai, thông qua hoạt động tham gia tố tụng, Luật sư trở thành người giải thích, hướng dẫn thực thi pháp luật. Là người có kiến thức pháp luật sâu sắc, Luật sư tham gia vào quá trình hướng dẫn thực hiện pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ngay trong các giai đoạn tố tụng, nhất là tại các phiên tòa hình sự, trong quá trình tư vấn hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Nhìn chung, các bị cáo hoặc đương sự trong các quan hệ tố tụng đều có sự lo ngại do hạn chế về hiểu biết pháp luật, nên tại phiên tòa thường né tránh, 28 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 khai báo quanh co, thậm chí, hiểu sai tinh thần của một điều luật. Mặt khác, có một số trường hợp các chủ thể này lại tìm cách “lách luật”, “dẫn dắt” Luật sư thực hiện các yêu cầu trái với pháp luật hoặc trái đạo đức nghề nghiệp. Trách nhiệm hướng dẫn pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án đòi hỏi các Luật sư ngoài sự tinh thông về pháp luật còn phải có sự hiểu biết sâu về tâm lý, kinh nghiệm đời sống xã hội, xác định được bản chất vụ án và suy nghĩ của khách hàng, giúp họ hiểu, vận dụng pháp luật một cách đúng đắn. Có thể nói, sự tham gia của Luật sư trong thực tiễn xét xử là một trong những “kênh” hướng dẫn pháp luật có hiệu quả nhất. Bởi lẽ bị can, bị cáo, đương sự thường tin tưởng và “gửi gắm số phận”, kỳ vọng của mình vào Luật sư. Thứ ba, thông qua thực tiễn tham gia tố tụng, Luật sư góp phần sáng tạo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đây là một loại hoạt động đặc biệt của Luật sư, thể hiện sự độc lập, sáng tạo trong quá trình hành nghề, bởi lẽ: Cùng với các chức danh tư pháp khác, Luật sư cũng là chủ thể của quá trình áp dụng pháp luật, là người phát hiện ra sự bất cập, mâu thuẫn của các quy định pháp luật. Tại các phiên tòa, các Luật sư bao giờ cũng là người chủ động phát hiện những vi phạm về thủ tục tố tụng, việc áp dụng pháp luật thiếu căn cứ. Sự phát hiện này là tiền đề của hoạt động sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Khả năng độc lập của Luật sư cũng thường được thể hiện trong việc tìm kiếm, tổng hợp, đánh giá các căn cứ pháp lý áp dụng trong thực tiễn xét xử. Hồ sơ vụ án thường chứa đựng rất ít thông tin liên quan đến pháp luật làm cơ sở phản biện hoặc thu thập chứng cứ không đầy đủ. Thông qua hoạt động tìm kiếm, tổng hợp, đánh giá các căn cứ pháp lý liên quan đến vụ án, Luật sư sẽ có cơ hội phát hiện những bất cập của pháp luật, các nguyên nhân khách quan và chủ quan của hành vi sai phạm cũng như các yếu tố khác tác động đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án (nếu có). Hoạt động sáng tạo trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Luật sư nhìn từ thực tiễn xét xử còn là quá trình tranh luận đến cùng Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 29 để hạn chế áp dụng hoặc xem xét lại những quy định pháp luật bất cập, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện. Ví dụ, trong vụ án Minh Phụng - Epco, các Luật sư đã kiên quyết đấu tranh về những bất hợp lý trong việc định giá tài sản bảo đảm cho việc cấn trừ công nợ của ngân hàng. Chính sự áp dụng căn cứ định giá là phần chênh lệch giữa trị giá tài sản thế chấp và các khoản nợ tín dụng của ngân hàng đã khiến vụ án bị cáo buộc thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Thực tế, sau phiên tòa phúc thẩm Minh Phụng - Epco khoảng 4 tháng, Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản cho phép các bên có thể tự thỏa thuận định giá tài sản theo giá thị trường. Lúc này, những hệ quả phát sinh từ việc xử lý tài sản trong quá trình thi hành án của các doanh nghiệp nói trên đã trở nên phức tạp do việc định giá, bán và kinh doanh các tài sản này trước đó đã không còn phù hợp với quyết định của bản án phúc thẩm, xa rời cơ chế thị trường, v.v.. Các Luật sư mới vào nghề mặc dù đã được trang bị về kiến thức trong quá trình đào tạo ở Học viện Tư pháp hoặc các cơ sở đào tạo khác, nhưng không phải ai cũng có thể dễ dàng hiểu rõ về môi trường pháp lý và thực tiễn hành nghề ở Việt Nam để có được những định hướng đúng đắn cho mục tiêu nghề nghiệp của mình. Mỗi Luật sư đều phải có trải nghiệm, tâm huyết và trách nhiệm đối với cuộc sống, nghề nghiệp, cảm nhận ý nghĩa cao quý của nghề Luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý theo phạm vi tham gia tố tụng. IV. NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI, NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Việc bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện các quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục; quyền không buộc phải chứng minh là mình vô tội; quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc nhận mình có tội; tự bào chữa, nhờ người bào chữa, v.v., đã được thể hiện trong nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể: 30 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Theo quy định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã; được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; tự bào chữa, nhờ người bào chữa, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người (Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngoài các quyền liên quan việc thông báo các quyết định và lý do bị tạm giữ, bị bắt tạm giam, còn được trình bày lời khai, trình bày ý kiến và không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa, nhờ người bào chữa, v.v.. (Điều 59, 60, 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Quan trọng hơn, Điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”. Như vậy, ngay cả trong trường hợp bị can, bị cáo nhận tội vì bất cứ lý do gì, nhưng lời nhận tội đó không phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án thì các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng không đủ căn cứ buộc tội, kết tội bị can, bị cáo. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nghĩa vụ thông báo, giải thích, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 31 tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo khoản 2 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, việc này phải được ghi vào biên bản. Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý hiện hành thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Việc thông báo, giải thích phải ghi vào biên bản như được quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội còn thể hiện thông qua trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thông báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong trường hợp người bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước mà không có mặt và sự vắng mặt này không vì lý do bất khả kháng, hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập lần thứ hai mà tiếp tục vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử theo quy định tại Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nhằm cụ thể hóa và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định chi tiết nội dung của nguyên tắc quan trọng này tại Điều 26. Cụ thể: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, ngườ i có thẩ m quyề n tiến hà nh tố tụ ng khác, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa 32 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặ c trườ ng hợ p khá c do Bộ luật tố tụng hình sự quy đị nh. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự là tư tưởng mang tính đột phá, xuyên suốt trong nội dung đổi mới, hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cải cách tư pháp, được thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, là giải pháp quan trọng, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tố tụng hình sự. Việc quy định nguyên tắc này trong Bộ luật tố tụng hình sự đã tạo cơ hội mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho bị can, bị cáo, người đại diện của họ; mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để người bào chữa tham gia, giúp quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc lưu tâm những vấn đề thuộc về nhận thức nêu trên sẽ giúp Luật sư ứng xử, thực hiện các kỹ năng hành nghề phù hợp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 33 V. CÁC HÀNH VI BỊ NGHIÊM CẤM VÀ NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA TỐ TỤNG Các hành vi bị nghiêm cấm (trong đó bao gồm cả các nghĩa vụ của Luật sư) khi tham gia tố tụng được quy định tại Điều 9 Luật luật sư; khoản 5 Điều 72; khoản 2 và 3 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 75, khoản 7 Điều 76 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, điểm e khoản 3, điểm g khoản 6 Điều 61 Luật tố tụng hành chính năm 2015 và Quy tắc 14, 20, 24, 26.3 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, nhìn chung bao gồm các hành vi sau đây: Thứ nhất, cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là vụ, việc). Đây là một trong những điều cấm kỵ căn bản mà mỗi Luật sư cần lưu ý trong quá trình hành nghề khi tham gia tố tụng. Trong thực tiễn, vấn đề xác định nội hàm khái niệm “quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ án” có thể hiểu đơn giản như quyền lợi giữa bị cáo với bị hại, người liên quan; giữa nguyên đơn với bị đơn, v.v.. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, trong một vụ án hình sự có nhiều bị cáo, Luật sư nhận trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho cả giám đốc và nhân viên mà trong quá trình điều tra, lời khai của họ mâu thuẫn, đổ trách nhiệm cho nhau; lại có trường hợp, Luật sư bào chữa cho một bị cáo trong vụ án này, nhưng khi bào chữa cho một bị cáo trong một vụ án khác có cùng nguyên đơn dân sự, cơ quan điều tra lại từ chối tư cách người bào chữa mặc dù là hai vụ án khác nhau. Như vậy, các chủ thể có quyền lợi có đối lập nhau hay không phụ thuộc một phần vào nhận định của Luật sư, phần lớn còn lại do đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong một số trường hợp, cơ quan điều tra yêu cầu Luật sư khi làm thủ tục đăng ký bào chữa phải làm cam kết không đồng thời tham gia với tư cách là nhân chứng, người liên quan, người phiên dịch hay giám định, trong khi thực tế, Luật sư không hề có tư cách tham gia vào các vai trò nói trên. 34 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Thứ hai, cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật. Các hành vi được liệt kê ở trên đã phản ánh mức độ và biểu hiện của các dạng vi phạm pháp luật trong quá trình hành nghề của Luật sư khi tham gia tố tụng; trong một số trường hợp có thể dẫn đến nguy cơ Luật sư bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điểm d khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của Luật sư là phải tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Quy tắc 14.1 trong Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam quy định Luật sư không được “chủ động xúi giục, kích động khách hàng kiện tụng hoặc thực hiện những hành vi khác trái pháp luật”. Ngoài ra, trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, Quy tắc 24.2 quy định Luật sư không được có hành vi “cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ mà Luật sư biết rõ là sai sự thật; tham gia hay hướng dẫn khách hàng tạo thông tin, tài liệu, chứng cứ sai sự thật để cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thực hiện những hành vi khác với mục đích lừa dối cơ quan tiến hành tố tụng”. Tuy nhiên, có những trường hợp, bản thân Luật sư cũng không đủ khả năng để phân biệt hay nhận thức tài liệu, vật chứng mà khách hàng cung cấp là giả mà phải thông qua giám định khoa học - kỹ thuật hình sự. Do đó, khi tiếp nhận tài liệu, vật chứng trước khi nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng, Luật sư cần trao đổi kỹ với khách hàng về tính xác thực của tài liệu, vật chứng, nguồn gốc hình thành, mối liên hệ với vụ án để từ đó quyết định giao nộp hay sử dụng để chứng minh. Mặt khác, trong thực tiễn, do xuất phát từ nhu cầu hoặc bức xúc của khách hàng, Luật sư không đưa ra những lời khuyên, phân tích, đánh giá mức độ phải trái mà xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật. Ranh giới giữa sự “đồng cảm” của Luật sư với khách hàng và việc tiếp tay để khách hàng khai sai sự thật hoặc khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật là rất mong manh. Bởi đôi khi, do chiều lòng Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 35 khách hàng, Luật sư bỏ mặc việc khai báo của khách hàng, vì đơn giản nghĩ, lời khai nếu không phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ thì cũng không được coi là chứng cứ. Ngoài ra, Luật sư tư vấn cho các vụ khiếu kiện đông người, liên quan vấn đề đất đai, môi trường cần thận trọng và tuân thủ quy trình, kỹ năng hành nghề của Luật sư trên cơ sở thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Thứ ba, tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Đây có thể coi vừa là hành vi bị cấm, vừa là bổn phận đạo đức của mỗi Luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Điểm g khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của Luật sư là “không được tiết lộ thông tin về vụ á n, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Mỗi Luật sư cần lưu ý từ việc nhỏ nhất là trao đổi về thông tin của khách hàng với những người không liên quan đến vụ án, hoặc nghiêm trọng hơn là tiếp xúc, thông tin cho báo chí hoặc cơ quan không có thẩm quyền. Hơn nữa, nội hàm “thông tin về vụ việc, về khách hàng” khá rộng, chỉ khi nào khách hàng cho rằng việc tiết lộ thông tin nói trên làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, quyền lợi hợp pháp của họ thì mới phát sinh việc xem xét trách nhiệm của Luật sư. Một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua là nếu thực thi nghiêm túc quy định về hành vi bị cấm này của Luật sư thì liệu có mâu thuẫn với trách nhiệm của Luật sư trong việc tố giác hành vi vi phạm pháp luật của khách hàng hay không? Ngày 20-6-2017, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau: “Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, 36 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa”. Trong quá trình thảo luận dự thảo để thông qua Luật sửa đổ, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, theo quan điểm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, quy định này có thể sẽ làm hạn chế và gây bất lợi cho người bào chữa, bởi với chức năng, trách nhiệm nghề nghiệp, muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tình nghi, bị buộc tội thì Luật sư phải có được sự tin tưởng từ khách hàng và điều này sẽ ảnh hưởng đến việc tiết lộ các thông tin liên quan đến vụ việc mà Luật sư đang đảm nhận. Việc quy định người bào chữa phải tố giác các thông tin do người bị tình nghi, người bị buộc tội có thể dẫn đến giảm sút sự tin cậy của khách hàng vào chức năng xã hội của Luật sư, gây hạn chế trong sự chia sẻ thông tin một cách trung thực giữa người bị tình nghi, bị buộc tội với người bào chữa. Đó là chưa kể, nếu chưa có sự xác minh, thẩm tra, đánh giá thì rất khó có căn cứ để xác định những thông tin mà khách hàng tiết lộ là đúng sự thật hay không, việc tố giác của Luật sư lúc này dễ rơi vào trường hợp bị cáo buộc ngược lại với tội danh vu khống. Trong khi đó, trừ nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định từ Điều 108 đến Điều 121 Bộ luật hình sự năm 2015 (các tội xâm phạm an ninh quốc gia), thì quy định người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác các tội phạm ở mức đặc biệt nghiêm trọng, có khung hình phạt từ 15-20 năm tù, chung thân hoặc tử hình theo quy định tại khoản 3 Điều 19 là không phù hợp vì hầu hết đó là các tội mà người bào chữa vẫn thường tham gia hoặc được chỉ định bào chữa theo quy định tại Điều 76 Bộ luật này. Ngoài ra, việc quy định xử lý trách nhiệm hình sự của người bào chữa như ở khoản 3 Điều 19 rất dễ dẫn đến việc “tùy tiện” áp dụng để xử lý người bào chữa, đặc biệt trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không muốn người bào chữa tham gia tố tụng trong vụ án hình sự khi quan điểm bào chữa khác biệt hoặc ngược lại với quan điểm buộc tội. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 37 Như vậy, theo quy định hiện hành, người bào chữa được miễn trách nhiệm hình sự khi không tố giác tội phạm, vì việc tố giác đi ngược lại nghĩa vụ bảo mật thông tin trao đối với khách hàng và việc người bào chữa có tố giác tội phạm hay không cũng không ngăn chặn được hậu quả của tội phạm đã xảy ra. Trong trường hợp biết được khách hàng hoặc các đồng phạm của họ đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì người bào chữa sau khi đã cố gắng thuyết phục khách hàng tự giác khai báo hoặc tự nguyện chấm dứt hành vi phạm tội mà không thành công, sẽ phải thực hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm theo quy định đến cơ quan chức năng có thẩm quyền để kịp thời ngăn chặn, xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu người bào chữa không thực hiện nghĩa vụ nói trên sẽ phải chịu trách hình sự về tội “không tố giác tội phạm”. Các tội danh người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự khi không tố giác bao gồm: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác. Đây là phạm vi tương đối rộng, bao gồm rất nhiều tội thuộc trường hợp bào chữa theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu tình hình tội phạm ở nước ta thời gian qua, mặc dù luật đã được Quốc hội thông qua, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng trong tương lai chỉ nên quy định người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tiết lộ thông tin về tội phạm giết người (quy định tại Điều 389) và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến an ninh quốc gia. Quy định như trên sẽ thu hẹp phạm vi các tội danh thuộc trường hợp người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tiết lộ thông tin về tội phạm, hạn chế rủi ro nghề nghiệp đối với người bào chữa do những yếu tố khách quan không thể lường hết được trong hoạt động nghề nghiệp, đồng thời góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người dân, bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia Việt Nam. Mặt khác, cần làm rõ nội hàm của khái niệm “biết rõ thông tin” của khách hàng đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đối với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia. Liên đoàn 38 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Luật sư Việt Nam cho rằng chỉ nên quy định người bào chữa chỉ có thể tiết lộ thông tin đối với các hành vi bị coi là tội phạm nêu trên nếu “biết rõ, có căn cứ chứng minh và cần thiết phải ngăn ngừa hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thể xảy ra”. Thứ tư, sách nhiễu, lừa dối khách hàng; nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Phần lớn các Luật sư đều nhận diện rõ hành vi bị cấm này, vì để tạo niềm tin, sự tin cậy của khách hàng đối với cá nhân Luật sư nói riêng và tổ chức hành nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư nói chung, rất cần sự trung thực, tận tâm phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, động cơ khác nhau, một số Luật sư có biểu hiện sách nhiễu, lừa dối khách hàng. Ví dụ: Luật sư đi tiếp khách, ăn uống ngoài quán ăn, nhà hàng nhưng lại khẳng định là đi “giao tiếp” để yêu cầu khách hàng đến trả tiền; không gặp mặt bị can, bị cáo trong nhà tạm giữ, trại tạm giam nhưng lại nói với thân nhân của họ là có đi, v.v.. Nhìn chung, những biểu hiện nói trên đều liên quan đến nhận thức sai lệch của Luật sư với suy nghĩ rằng khách hàng đang phụ thuộc vào mình, cầu cạnh sự trợ giúp của mình nên nếu có “yêu sách” chút ít thì khách hàng cũng sẽ chấp nhận. Như đã nói ở trên, việc xây dựng uy tín, chế độ tín nhiệm của Luật sư có ý nghĩa sống còn đối với nghề nghiệp Luật sư, do đó, Luật sư cần thận trọng, cân nhắc mỗi hành vi, ứng xử của mình để vừa bảo đảm thực hành nghề nghiệp chuẩn mực theo quy định của pháp luật, vừa là chỗ dựa tin cậy cho các chủ thể trong xã hội khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý. Trong quá trình phát triển nghề Luật sư và thực tiễn hành nghề khi tham gia tố tụng ở Việt Nam, phần lớn các Luật sư đều nhận thức rõ tính minh bạch trong quan hệ với khách hàng, nhất là thỏa thuận liên quan vấn đề hết sức nhạy cảm là thù lao Luật sư. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao tính chuyên nghiệp và sự tín nhiệm của người dân đối với Luật sư (tham khảo thêm nội dung quan trọng liên quan đến bản chất, cách thức đàm phán, thỏa thuận về thù lao Luật sư với khách hàng tại Sổ tay Luật sư Tập 1). Ngoài ra, một trong những Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 39 yêu cầu cấp thiết trong mối quan hệ với khách hàng chính là: Luật sư phải thỏa thuận, ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó nêu rõ các điều khoản thù lao và chi phí Luật sư. Vậy cần hiểu hành vi “nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý” như thế nào cho đúng? Về nguyên tắc, việc thỏa thuận mức thù lao Luật sư và chi phí phải được thể hiện trong hợp đồng cung cấp dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, do chưa dự liệu được hết những phức tạp, khó khăn trong việc trợ giúp pháp lý cho khách hàng, trong thu thập chứng cứ, hoặc phải di chuyển đến các địa phương khác, nên có trường hợp Luật sư đề nghị khách hàng bổ sung chi phí hoặc buộc họ phải thanh toán ngoài hợp đồng; thỏa thuận thù lao ghi trong hợp đồng ở mức thấp, nhưng thực chất lại yêu cầu nhận cao hơn, v.v.. Những hành vi nói trên đều không phù hợp với ứng xử của Luật sư, bị pháp luật nghiêm cấm. Để hạn chế tối đa các vi phạm không đáng có, Luật sư và khách hàng có thể lựa chọn phương thức đàm phán, thỏa thuận ký phụ lục hợp đồng dịch vụ pháp lý để bổ sung thù lao Luật sư hoặc chi phí. Đồng thời, Luật luật sư cũng nghiêm cấm Luật sư nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đã quy định bổ sung những hành vi không được làm của Luật sư trong mối quan hệ với khách hàng, bao gồm1: - Sử dụng tiền bạc, tài sản của khách hàng trong khi hành nghề vào mục đích riêng của cá nhân Luật sư; 1. Từ Quy tắc 14.2 đến 14.7, Quy tắc 14.12 và 14.13 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. 40 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 - Gợi ý hoặc đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản của khách hàng cho Luật sư hoặc cho những người thân thích, ruột thịt của Luật sư; - Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện vụ việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng; - Đòi hỏi từ khách hàng hoặc người có quyền, lợi ích liên quan với khách hàng bất kỳ khoản tiền chi thêm hoặc tặng vật nào ngoài khoản thù lao và các chi phí kèm theo đã thỏa thuận, trừ trường hợp khách hàng tự nguyện thưởng cho Luật sư khi kết thúc dịch vụ; - Tạo ra các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, bất lợi cho khách hàng để lôi kéo, đe dọa, làm áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc mưu cầu lợi ích bất chính khác từ khách hàng; - Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà Luật sư đảm nhận để mưu cầu lợi ích cá nhân; - Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng làm ảnh hưởng tới danh dự Luật sư và nghề Luật sư; - Đòi hỏi tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, v.v.. Thứ năm, móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc; có lời lẽ, hành vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng; tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác. Đây là các hành vi của Luật sư trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng bị pháp luật nghiêm cấm, vì không chỉ đi ngược lại Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam mà còn tạo rủi ro cho chính Luật sư trong khi hành nghề với nguy cơ bị coi là có hành vi phạm tội đưa, môi giới hối lộ hoặc gây ra những trở ngại cho hoạt động Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 41 tố tụng, theo quy định của pháp luật. Thực tế, trong quá trình tham gia tố tụng, theo yêu cầu của khách hàng hoặc theo chỉ định của các cơ quan tiến hành tố tụng, mục tiêu chung của các Luật sư đều là thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, có thái độ hợp tác, lịch sự, tôn trọng những người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, vấn đề xác định thế nào là “không suy đoán chủ quan mang tính chất kích động, quy chụp, kết tội người khác hoặc có những lời lẽ gây bất lợi cho khách hàng của mình; không cố tình trì hoãn, gây trở ngại cho việc xét xử bằng những phương thức bất hợp lý hay trái đạo đức” cũng cần được nhìn nhận một cách đúng đắn. Thật ra, tự bản thân quan điểm bào chữa hay tranh luận của Luật sư đã bao hàm tính chủ quan, nhưng vấn đề chính là ở chỗ, cần tránh những lời nói, hành vi mang tính chất kích động, quy chụp, kết tội người khác tại phiên tòa và cả trong tài liệu gửi đến cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này vẫn thường xảy ra trên thực tế, do vị thế đại diện cho các khách hàng có quyền lợi khác nhau hoặc do thiếu kiềm chế dẫn đến việc một số luật sư đã có những văn bản, lời nói quy chụp mang tính cá nhân, thoát ly khỏi nội dung tranh tụng. Mặt khác, thực tiễn tố tụng trong các vụ án hình sự cho thấy, không phải lúc nào các quan điểm, chứng cứ và căn cứ pháp luật mà Luật sư cho rằng có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật đều được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vấn đề là khi tranh luận, Luật sư phải có thái độ ứng xử chuẩn mực, có văn hóa, vừa kiên trì bảo vệ ý kiến, luận cứ chính đáng và hợp pháp của mình, nhưng cũng phải kịp thời điều chỉnh, ghi nhận quan điểm có căn cứ của người buộc tội hoặc của Luật sư bảo vệ cho người có quyền lợi đối lập với khách hành của mình, để tránh tình trạng bị coi là “bào chữa bằng mọi giá”, bất chấp sự thật khách quan. Ngoài ra, cần nhận diện thêm một trong những hành vi không được làm là “tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi bất hợp pháp nhằm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho cơ quan, người có thẩm quyền 42 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc”. Khái niệm “bất hợp pháp” trong trường hợp này có thể bao gồm việc Luật sư biết rõ yêu cầu trì hoãn, kéo dài việc giải quyết vụ việc là không có căn cứ pháp luật,nhưng vẫn tự mình hoặc xúi giục khách hàng thực hiện nhằm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Chẳng hạn, Luật sư mặc dù đã được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng đến ngày diễn ra phiên tòa thì không có mặt. Khi thư ký liên hệ bằng điện thoại thì trả lời đang ở sân bay, đang đi công tác, v.v, làm cho phiên tòa phải tạm dừng để chờ Luật sư theo yêu cầu của bị cáo, nhưng sau đó hoàn toàn không liên hệ được với Luật sư do tắt điện thoại, khiến phiên tòa phải tạm hoãn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thứ sáu, lợi dụng việc hành nghề Luật sư, danh nghĩa Luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Mỗi Luật sư cần nhận thức rõ khi hành nghề là không nên lợi dụng tư cách người tham gia tố tụng tại phiên tòa để phát biểu những lời lẽ gây phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, đoàn kết dân tộc, tôn giáo hoặc tuyên truyền, phổ biến những quan điểm trái pháp luật hay đạo đức xã hội. Việc không nên thực hiện những hành vi nói trên về bản chất không giống với việc Luật sư trong quá trình tham gia tố tụng phát hiện và đưa ra những kiến nghị nhằm chấm dứt những vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bản lĩnh, phẩm chất và kỹ năng nghề nghiệp cùng với trải nghiệm thực tiễn sẽ giúp cho mỗi Luật sư tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với các quy định và quy tắc nói trên. Chương 2 MỘT SỐ KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ngoài những vấn đề chung mà các Luật sư cần nắm vững khi tham gia tố tụng đã trình bày tại Chương 1, Chương 2 tập trung làm rõ hơn những kỹ năng cụ thể của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau, bắt đầu từ khi Luật sư nhận được yêu cầu từ phía khách hàng cho đến khi Luật sư tham gia tại phiên tòa. I. TIẾP XÚC KHÁCH HÀNG, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BÀO CHỮA, BẢO VỆ QUYỀN LỢI 1. Tiếp xúc khách hàng Khách hàng đến gặp và yêu cầu Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng, Luật sư có thể bắt đầu tham gia ngay từ giai đoạn khách hàng có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố. Ngoài người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã đề nghị bổ sung quy định cho “người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố” (thường được gọi là nghi phạm trong giai đoạn tiền tố tụng), “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Kiến nghị này 44 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 đã được chấp nhận và quy định tại điểm e khoản 1 Điều 57 và điểm g khoản 1 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quy định này đã góp phần mở rộng thời điểm Luật sư có thể tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, khắc phục tình trạng cá nhân bị cơ quan điều tra triệu tập đến ghi lời khai, thực hiện một số biện pháp như tạm giữ người qua đêm, thu giữ hộ chiếu và ngăn chặn xuất cảnh, cấm đi khỏi nơi cư trú (thực chất nhằm hạn chế quyền tự do thân thể, đi lại) nhưng lại không được sự hỗ trợ pháp lý của Luật sư. Trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Người bị kết án đang chấp hành hình phạt đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật có quyền xin khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm và khi xét thấy cần thiết, Tòa án phải triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, người bị kết án là một trong những chủ thể hưởng quyền được bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình xem xét lại bản án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục quy định thủ tục triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục bắt buộc khi có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 383. Trường hợp khi tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, người bào chữa được trình bày ý kiến về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm yêu cầu theo khoản 2 Điều 386 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cùng với Bộ luật hình sự năm 2015 là những bộ luật đầu tiên ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Như vậy, pháp nhân cũng sẽ trở thành chủ thể được hưởng quyền được bào chữa, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 435 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa cho pháp nhân. Ngoài ra, đối với những trường hợp người bị buộc tội mà khung hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù, Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 45 tù chung thân, tử hình theo điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thì cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa. Quy định này mở ra cơ hội rất lớn cho sự tham gia của các Luật sư, nhất là các Luật sư trẻ đang khao khát có cơ hội tích lũy kinh nghiệm trong các vụ án hình sự. Khi thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, Luật sư cần chú ý một số kỹ năng sau đây: Thứ nhất, thông qua việc tiếp xúc ban đầu với khách hàng, Luật sư cần tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của khách hàng một cách thấu đáo, lắng nghe họ trình bày, xem xét những tài liệu ban đầu (đơn từ, các tài liệu liên quan, giấy tờ cá nhân, v.v.), đồng thời phải chỉ rõ cho khách hàng biết được giới hạn trách nhiệm của Luật sư trước pháp luật và trước khách hàng, không để khách hàng lôi kéo thực hiện những yêu cầu trái pháp luật. Thứ hai, một Luật sư liêm chính cần phải biết rõ khả năng chuyên môn của mình khi tiếp nhận một vụ án. Trong thực tiễn xét xử hình sự, có những Luật sư có khả năng chuyên môn và kinh nghiệm trong các vụ án đặc thù nhất định như tội phạm kinh tế, tham nhũng, xâm phạm quyền sở hữu, v.v., nhưng lại có rất ít kinh nghiệm trong các vụ án liên quan tới người chưa thành niên phạm tội hay tội phạm ma túy, v.v.. Trong một số trường hợp, Luật sư phải biết từ chối những việc vượt quá khả năng và kinh nghiệm của mình. Việc phân loại vụ án hình sự cho những Luật sư hành nghề khác nhau sẽ giúp các Luật sư dễ dàng tích lũy kinh nghiệm và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, Luật sư không nên làm cho khách hàng hiểu lầm rằng mình có thể giải quyết tốt vụ việc hơn hoặc có nhiều mối liên hệ/quan hệ tốt với cơ quan, người tiến hành tố tụng hơn so với Luật sư khác. Thứ ba, vị thế của khách hàng là khía cạnh Luật sư cần quan tâm khi tiếp xúc với họ. Trong vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cho phép người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) thực hiện quyền bào chữa thông qua việc nhờ Luật sư (Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Luật sư được tham gia bào chữa ngay từ giai 46 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc bất kỳ giai đoạn nào khác nếu được yêu cầu. Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ thì Luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi người bị bắt, bị tạm giữ có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên trên thực tế, người mời Luật sư bào chữa thường là những người có mối quan hệ với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Về mặt pháp lý, pháp luật về Luật sư và về tố tụng hình sự không quy định chỉ người bị buộc tội mới có quyền mời Luật sư và Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam cũng không cấm việc gia đình, thân nhân của họ mời Luật sư bào chữa, nhất là trong điều kiện bị can, bị cáo bị tạm giữ hoặc tạm giam. Do đó, khi tiếp xúc với người đến liên hệ, Luật sư cần biết chính xác mối quan hệ của người này với bị can, bị cáo để từ đó cư xử đúng mực. Thứ tư, về mặt pháp lý, thực chất mối quan hệ giữa Luật sư với khách hàng trong vụ án hình sự là quan hệ “nhờ và nhận” bào chữa cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng. Trong quan hệ này, pháp luật đề cao tính tự nguyện trong giao dịch, thỏa thuận xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên, kể cả vấn đề thù lao bào chữa. Tuy nhiên, việc chỉ hiểu quan hệ giữa Luật sư và khách hàng trên phương diện pháp lý một cách cứng nhắc như vậy là chưa đầy đủ. Trên thực tế, mối quan hệ này có thể nhận diện trên ba phạm vi sau đây: Quan hệ trong phạm vi tham gia bào chữa trong các giai đoạn tố tụng: Đây là mối quan hệ cơ bản, phát sinh trách nhiệm pháp lý của Luật sư trước pháp luật và trước khách hàng. Luật sư sau khi đã nhận bào chữa cho người bị buộc tội, tùy theo tính chất của từng vụ án phải có trách nhiệm lên kế hoạch và các bước đi cần thiết để tiến hành những việc phục vụ cho việc bào chữa như: Tiếp xúc bị can, bị cáo trong trại tạm giam, nghiên cứu hồ sơ, v.v.. Quan hệ với tư cách con người trong đời sống xã hội: Việc nhận biết mối quan hệ này một cách đúng đắn có ý nghĩa quan trọng trong điều chỉnh ứng xử hành vi của Luật sư với khách hàng. Trong giao tiếp công việc, dần dần mối quan hệ tình cảm giữa Luật sư và khách hàng sẽ Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 47 hình thành một cách tự nhiên, trong đó có sự tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, cùng chung mục đích là làm tất cả những gì tốt nhất trên cơ sở pháp luật và đạo đức. Việc xử lý mối quan hệ với khách hàng ngoài phạm vi công việc là một vấn đề hết sức nhạy cảm, cần có giới hạn nhất định, để Luật sư vừa giữ được những chuẩn mực nghề nghiệp, vừa có thể chia sẻ những bức xúc, tâm tư của khách hàng một cách tận tâm và chu đáo. Quan hệ về tài sản giữa Luật sư và khách hàng: Ở đây, cần phân biệt mối quan hệ này với thỏa thuận về thù lao. Đạo đức nghề nghiệp của Luật sư không cho phép Luật sư chạy theo lợi ích vật chất, coi đó là mục tiêu duy nhất trong hoạt động hành nghề, không được tham gia các hoạt động kinh doanh có thể gây ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của nghề Luật sư như quy định tại Quy tắc 14 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Thứ năm, sau khi tiếp xúc với khách hàng lần đầu tiên, tùy vào điều kiện, khả năng khác nhau và đặc điểm ở mỗi vùng, mỗi địa phương Luật sư lựa chọn các mẫu thủ tục tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, thỏa thuận về thù lao, mẫu Giấy giới thiệu với các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Do có sự khác biệt vùng miền, các mẫu tài liệu nói trên hiện nay chưa được thống nhất. Việc tiếp xúc với khách hàng trong một vụ án hình sự có thể được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau. Trên thực tế, nhiều Luật sư trẻ thường coi nhẹ giai đoạn đầu và coi việc tiếp xúc ban đầu chỉ mang tính chất thủ tục. Sau khi biết chính xác yêu cầu của khách hàng, Luật sư cần giải thích cho họ biết khả năng và những giới hạn trách nhiệm để tránh khách hàng lầm tưởng rằng Luật sư có thể giải quyết mọi vấn đề. Cần hướng dẫn khách hàng thực hiện các thủ tục cần thiết như điền vào mẫu yêu cầu nhờ Luật sư (nên để đích thân khách hàng làm điều này, trừ trường hợp vì lý do đặc biệt mà khách hàng không thể thực hiện được) hoặc thống nhất, thỏa thuận ký hợp đồng cung cấp dịch vụ pháp lý. Trong trường hợp đã thỏa thuận xong về thù lao Luật sư và chi phí hợp lý, cần cung cấp cho khách hàng các giấy tờ như biên nhận, hóa đơn tài chính và chuẩn bị các giấy tờ pháp lý cần thiết về thủ tục của Luật sư 48 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 (theo giai đoạn tố tụng mà Luật sư bắt đầu tham gia); lưu giữ những tài liệu ban đầu, v.v.. Tùy theo tính chất của từng vụ án, Luật sư có thể điều chỉnh thay đổi bổ sung cho phù hợp với điều kiện, phân loại các mẫu đăng ký cho bị can, thân nhân bị can, người bị hại, v.v.. Trong quá trình tiếp xúc, trao đổi ban đầu với khách hàng, Luật sư cần phân biệt đặc điểm của một số khách hàng khác nhau thuộc các vụ án đặc thù để có thể trao đổi và thống nhất các bước tiếp theo và nội dung cần chuẩn bị. Việc tiếp xúc khách hàng không chỉ đòi hỏi kỹ năng giao tiếp của Luật sư mà còn có thể giúp các bên hiểu rõ hoàn cảnh, nhân thân của nhau, tạo điều kiện để khách hàng hiểu thêm và tin tưởng vào khả năng, phẩm chất của Luật sư, đồng thời cũng giúp Luật sư có thể thấu hiểu hơn tâm trạng của khách hàng thông qua trực giác và kinh nghiệm. Việc trao đổi, đặt câu hỏi với khách hàng khi bắt đầu tìm hiểu sự việc sẽ giúp Luật sư xây dựng mối liên hệ sau đó giữa Luật sư và khách hàng thêm vững chắc, tạo niềm tin và khả năng trong tìm kiếm sự thật, bản chất của vụ việc. Những điểm Luật sư cần lưu ý trong buổi đầu tiếp xúc khách hàng: - Lắng nghe và chia sẻ với khách hàng với thái độ chân thực, chân thành, chia sẻ; - Đưa ra tư vấn phù hợp với hoàn cảnh, chân thực trong việc lý giải các sự kiện, tìm hiểu nguyên nhân, các yếu tố và các quy định pháp luật tác động, điều chỉnh hành vi. - Giải đáp những thắc mắc của khách hàng về mối quan hệ với Luật sư, nguyên tắc ứng xử, lịch làm việc và cách thức liên lạc, v.v. Theo Luật luật sư hiện hành, Luật sư không được tiết lộ những bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ giúp đỡ pháp lý trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Điểm g khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của Luật sư là: “không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản”. Quy tắc 12 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam về “Bí mật thông tin” cũng quy định: Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 49 “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật; Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Tuy nhiên trên thực tế, với tư cách là công dân, trước thông tin về tội phạm hoặc nguy cơ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi che giấu tội phạm, Luật sư cần có quyết định đúng đắn và hợp lý, giải quyết một cách hài hòa về quyền lợi của khách hàng khi kiểm tra rõ tình trạng và thông tin về tội phạm (nếu có). Luật sư nên khuyên khách hàng ra đầu thú, tự thú, giải thích về các hậu quả mà Luật sư có thể sẽ phải gánh chịu do hành vi che giấu, không tố giác tội phạm và các quyền lợi pháp lý mà khách hàng có thể được hưởng khi đầu thú, tự thú, v.v.. Pháp luật hình sự quy định nghĩa vụ tố giác của công dân, không ngoại trừ Luật sư (xem Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015). Trong một số trường hợp nhất định, Luật sư cần xem xét những yếu tố nghiêm trọng của tội phạm, khả năng có thể thực hiện được tội phạm và hậu quả của nó, v.v. (xem thêm Phần Những vấn đề chung). Thông thường, trong tổ chức hành nghề luật sư, thông tin bí mật nghề nghiệp cũng được chia sẻ với các nhân viên của tổ chức, nhưng trưởng văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật phải bảo đảm rằng nhân viên của mình cũng phải tuân thủ nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng. Trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, Luật sư không được tiết lộ thông tin do khách hàng cung cấp, cũng không được sử dụng thông tin của khách hàng cho mục đích riêng tư, trừ khi đã báo trước và được khách hàng đồng ý bằng văn bản. Điểm g khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ, Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 50 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Tóm lại, việc tiếp xúc khách hàng có thể diễn ra nhiều lần theo tiến độ giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, Luật sư luôn phải chú ý giữ thái độ, tác phong, nguyên tắc làm việc nêu trên trong các lần trao đổi, tiếp xúc với khách hàng. 2. Thủ tục đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi Trước đây, việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư (theo khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) chưa được thống nhất cả về thủ tục, nội dung lẫn hình thức của các giấy tờ có liên quan ở các địa phương, gây không ít khó khăn cho Luật sư khi làm thủ tục tham gia bào chữa. Trong nhiều trường hợp, vì quyền lợi của khách hàng, Luật sư không thể chất vấn hay gây căng thẳng với những cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bởi cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này còn chưa rõ ràng. Chỉ đến khi Thông tư số 70/2011/ TT-BCA ngày 10-10-2011 của Bộ Công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (Sau đây gọi tắt là Thông tư số 70/2011/TT-BCA) ra đời, thủ tục cấp Giấy chứng nhận bào chữa mới được quy định rõ ràng tại Điều 4 và 5. Sau đó, thành phần hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận bào chữa tiếp tục được quy định chi tiết tại khoản 3 Điều 27 Luật luật sư, bao gồm: - Thẻ Luật sư; - Giấy yêu cầu Luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc của người khác hoặc văn bản cử Luật sư của tổ chức hành nghề Luật sư nơi Luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn Luật sư đối với Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý. Để thực hiện được điều này, Luật sư cần kết hợp với nhân viên hành chính của tổ chức hành nghề luật sư, đặc biệt là thông báo với người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư, chủ động chuẩn bị các mẫu hồ sơ và giấy tờ có sẵn để sử dụng ngay khi cần thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 51 Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Thứ nhất, việc đăng ký và thủ tục đăng ký người bào chữa cho Luật sư là thủ tục mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 78) so với thủ tục cấp Giấy chứng nhận bào chữa của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Khoản 1 Điều 78 quy định: “trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa”. Khi người bị buộc tội hoặc đại diện hợp pháp, người thân thích của họ có yêu cầu Luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, kiểm tra giấy tờ và thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa cho Luật sư. Tuy nhiên hiện nay, thủ tục đăng ký bào chữa hoặc đăng ký bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự của Luật sư theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng chưa được hướng dẫn cụ thể, nên chỉ triển khai sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực vào ngày 01-01-2018. Thứ hai, trong một thời gian dài thực thi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa thống nhất về vấn đề bản thân bị can, bị cáo hay người thân của họ có quyền nhờ Luật sư bào chữa dẫn đến việc thực hiện còn khác nhau. Hiện nay, khoản 2, khoản 3, Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ thành phần hồ sơ đăng ký bào chữa đối với Luật sư. Cụ thể: + Trường hợp Luật sư được yêu cầu bào chữa, hồ sơ đăng ký bao gồm: Thẻ Luật sư (xuất trình bản chính và nộp bản sao có chứng thực); Giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội. + Trường hợp Luật sư được chỉ định bào chữa,hồ sơ đăng ký bao gồm: Thẻ Luật sư (xuất trình bản chính và nộp bản sao có chứng thực); Văn bản cử Luật sư của Tổ chức hành nghề luật sư nơi Luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn Luật sư đối với Luật sư hành nghề là cá nhân. Ngoài ra, khoản 4 Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định thời hạn đăng ký bào chữa được rút ngắn so với Bộ luật tố 52 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 tụng hình sự năm 2003: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa và o hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản”. Trong trường hợp tham gia bào chữa cho nhiều bị can khác nhau trong cùng một vụ án, Luật sư cần chuẩn bị đầy đủ các bộ hồ sơ đăng ký thủ tục bào chữa rồi mới thực hiện thủ tục này với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thực tế việc hành nghề Luật sư trong thời gian qua cho thấy, việc thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa ở cơ quan điều tra mỗi cấp, mỗi địa phương có khác nhau, thậm chí, bị trễ hạn rất nhiều và đôi khi không rõ lý do. Để giải quyết vướng mắc khi đăng ký, Luật sư cần tìm hiểu qua trực ban hình sự, văn phòng cơ quan điều tra để biết đầu mối thụ lý điều tra vụ án, tên của Điều tra viên, điện thoại liên lạc. Trong trường hợp chưa nhận được thông tin hồi báo, Luật sư nên gửi các văn bản đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, trường hợp Luật sư có đủ chứng cứ chứng minh các cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn, cản trở khi làm các thủ tục để đăng ký bào chữa thì có thể yêu cầu phía Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc Đoàn Luật sư địa phương can thiệp bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp. Cần lưu ý, nếu Luật sư thể hiện sự bức xúc, sử dụng lời lẽ gay gắt trong giao tiếp hoặc trong văn bản thì đôi khi có thể tác động làm quá trình đăng ký bào chữa diễn ra nhanh hơn nhưng cũng có thể gây ức chế, ảnh hưởng không tốt trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng. Khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (01-01- 2018), hy vọng rằng sẽ hạn chế được sự bất bình đẳng về vị thế giữa Luật sư và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, việc đăng ký bào chữa của Luật sư cũng giảm bớt những rào cản như trên. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 53 Thứ ba, vấn đề thủ tục lựa chọn và chỉ định người bào chữa có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn khác nhau, thể hiện tại khoản 1 và 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn và một trong những trường hợp chỉ định bắt buộc người bào chữa khi bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự. Luật luật sư quy định tại điểm b khoản 3 Điều 27 là “người khác” có thể nhờ người bào chữa cho người bị buộc tội. Nhằm giải quyết những vướng mắc trong cơ chế bảo đảm cho người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa, khoản 1 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: Người thân thích của người tham gia tố tụng, bao gồm: “Vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột”. Trong trường hợp người bị buộc tội đang bị tạm giam có văn bản từ chối Luật sư do thân nhân, gia đình lựa chọn, Luật sư cần xử lý tình huống này bằng cách yêu cầu được cùng Điều tra viên gặp trực tiếp người đang bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam đó để xác nhận việc từ chối theo quy định tại khoản 2 Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 3. Phương pháp, kỹ năng trao đổi, gặp gỡ khách hàng là người bị bắt, bị tạm giam, bị can, bị cáo, đương sự a) Trao đổi, gặp gỡ khách hàng là bị can, bị cáo tại ngoại, đương sự: Sau khi thống nhất về việc nhận trách nhiệm bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng là bị can, bị cáo đang tại ngoại, đương sự thì công việc tiếp theo có ý nghĩa rất quan trọng cho việc định hướng bào chữa, bảo vệ trong các giai đoạn tố tụng là tiếp xúc và trao đổi. Đây là một trong những bước rất cần thiết, là sợi dây gắn kết Luật sư với khách hàng. Một Luật sư có kinh nghiệm sẽ biết cách giữ mối 54 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 liên hệ sao cho khách hàng cảm nhận được sự quan tâm của Luật sư đối với công việc họ giao phó. Sau lần gặp đầu tiên, Luật sư cần thông báo định kỳ hoặc đột xuất cho khách hàng biết diễn tiến, kết quả công việc thông qua việc sử dụng các phương tiện liên lạc thường xuyên (điện thoại, fax, e-mail, v.v.). Luật sư nên đối thoại thường xuyên để có được sự đồng cảm của khách hàng trước những khó khăn, thách thức khi giải quyết vụ án. Luật sư cần dự đoán và thông báo cho khách hàng những khả năng có thể xảy ra trong tiến trình giải quyết vụ án. Cùng với việc tuân thủ nghiêm túc lệnh triệu tập lấy lời khai, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng những chi tiết cần thiết của việc ghi biên bản hỏi cung, biên bản lấy lời khai, những việc mà khách hàng có thể yêu cầu khi kết thúc biên bản làm việc (đọc lại, bổ sung, thêm bớt những nội dung ghi đúng lời khai, gạch và ký tên vào những khoảng trống trong bản hỏi cung, lấy lời khai, v.v.). Luật sư cũng cần phải trao đổi với khách hàng những vấn đề dự kiến sẽ được Điều tra viên tập trung làm rõ, hướng dẫn khách hàng trả lời đúng với bản chất vụ việc dưới góc độ pháp lý. Chẳng hạn, một bị can tại ngoại bị khởi tố về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, có thể sẽ được Điều tra viên hỏi về những hành vi sai phạm, cố ý (nếu có) dẫn đến việc“có hậu quả thiệt hại” xảy ra. Do đó, Luật sư cần giúp cho khách hàng có ý niệm về trách nhiệm hình sự và các dấu hiệu của tội phạm, tránh việc hướng dẫn khách hàng khai báo không đúng sự thật, gây cản trở cho quá trình điều tra. Khi đã nhận thức được những khía cạnh sau khi trao đổi với Luật sư, khách hàng sẽ định hướng và dự kiến được những nội dung trả lời Điều tra viên. Mặt khác, qua trao đổi ban đầu về nội dung vụ án, Luật sư cũng có được những bước đi thích hợp trong việc chứng minh việc không phạm tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thông qua các chứng cứ, tài liệu thu thập được như: Lời khai của các nhân chứng, diễn biến thời gian (hành động hoặc không hành động) vào thời điểm xảy ra vụ án, các vật chứng, tài liệu khác. Luật sư cần quan tâm cung cấp những khiếu nại, Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 55 giải trình cần thiết trong quá trình điều tra cho khách hàng, nhất là những vấn đề có điều kiện tổng hợp, thu thập ban đầu; định hướng khách hàng tiếp xúc, gặp gỡ với lãnh đạo cơ quan chủ quản để cung cấp tài liệu, xác nhận về quá trình công tác và những đóng góp, v.v.. b) Gặp, trao đổi với khách hàng là bị can trong nhà tạm giữ, trại tạm giam: Theo điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật sư chỉ được gặp khách hàng là người đang bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, cụ thể là khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và phải đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt kịp thời. Vì vậy, việc tham gia trong giai đoạn điều tra của Luật sư thời gian vừa qua còn mang tính hình thức bởi cuộc gặp này do Điều tra viên chủ động lên kế hoạch, việc hỏi của Luật sư chỉ được tiến hành khi Điều tra viên đồng ý, việc báo trước cho Luật sư thường rất gấp, không bảo đảm kịp thời gian làm việc, hỏi cung, v.v.. Để khắc phục hạn chế này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã phân biệt rõ các trường hợp người bào chữa có quyền gặp, trao đổi với người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam, bao gồm: - Cuộc gặp, hỏi giữa người bào chữa với người bị buộc tội (điểm a khoản 1 Điều 73): Có thể hiểu, cuộc gặp này do người bào chữa chủ động tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần, thời gian gặp; được hỏi, được trao đổi hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. Để được gặp người bị buộc tội theo quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ Luật sư, Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân. Cơ quan quản lý người bị buộc tội phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người bào chữa vi phạm các quy định về việc gặp, hỏi thì phải dừng ngay việc gặp, hỏi và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. 56 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 - Buổi hỏi cung, phúc cung do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiến hành với sự tham gia của người bào chữa: Cuộc gặp này của người bào chữa phụ thuộc vào kế hoạch đã được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, trong cuộc gặp này, người bào chữa chỉ được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi được người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can (điểm b khoản 1 Điều 73). Do người bào chữa đã có thể chủ động gặp, làm việc riêng với người bị buộc tội nên trong buổi gặp do Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành, người bào chữa chỉ được hỏi khi họ đồng ý theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là phù hợp. Để chuẩn bị cho cuộc gặp này, người bào chữa được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Người bào chữa có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa (điểm d và đ khoản 1 Điều 73). Theo khoản 1 điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trước khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trường hợp hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện của bị can thì Điều tra viên, cán bộ điều tra phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện cùng ký vào biên bản hỏi cung. Trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can. Liên quan đến trách nhiệm thông báo cho người bào chữa, Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ cơ quan có thẩm quyền Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 57 tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này. Chỉ trong trường hợp người bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (những trường hợp phải có mặt của người bào chữa). Vấn đề đặt ra là, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phải hướng dẫn cụ thể về quy định “báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa”. Trong trường hợp này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã đề nghị việc báo trước nên được thực hiện tối thiểu là trước 24 giờ so với thời gian tiến hành các hoạt động tố tụng. Nếu khách hàng là người mới bị bắt, bị tạm giữ hoặc bị can, bị cáo đang bị tạm giam, Luật sư cần sắp xếp cuộc gặp càng sớm và càng nhiều càng tốt vì đây là khoảng thời gian khách hàng ở trong trạng thái khủng hoảng tâm lý, có thể ảnh hưởng đến việc khai báo. Đồng thời, mặc dù đã dự liệu tình huống xấu nhất, người mới bị bắt, bị tạm giữ hoặc bị can, bị cáo đang bị tạm giam vẫn dễ bị bất ngờ, sợ hãi và mong có cơ hội tiếp xúc sớm với Luật sư. Buổi tiếp xúc đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng cả về phương diện tâm lý và nhận thức, có ảnh hưởng đến quá trình tham gia tố tụng của Luật sư. Do đó, Luật sư cần chuẩn bị chu đáo về các tài liệu đã được nghiên cứu, chuẩn bị một số ý kiến để sẵn sàng trao đổi, giải đáp vướng mắc, định hướng tìm kiếm, thu thập và đánh giá chứng cứ gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hỏi thêm những sự kiện chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn; tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, thái độ của khách hàng, v.v.. Thủ tục tiếp xúc ban đầu với bị can trong nhà tạm giữ, trại tạm giam ở mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy, Luật sư nên chuẩn bị sẵn những giấy tờ để đối chiếu khi cần thiết. Khi thực hiện thủ tục cần chú ý những bước sau: - Sau khi vào cổng nhà tạm giữ, trại tạm giam trình giấy tờ, Luật sư cần liên hệ với Điều tra viên để được hướng dẫn. Trong trường hợp đã kết thúc điều tra, Luật sư liên hệ với bộ phận hồ sơ làm thủ tục trích xuất 58 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 bị can, bị cáo. Kinh nghiệm cho thấy, Giấy chứng nhận người bào chữa (trước đây) hay Giấy đăng ký bào chữa (sắp tới) thường chỉ được cấp 01 (một) bản chính nên Luật sư cần photo giấy này cùng Thẻ Luật sư để bộ phận thủ tục hồ sơ lưu giữ và trả lại bản chính cho Luật sư. - Khi vào khu vực hỏi cung, tùy theo sơ đồ bố trí của từng trại giam, Luật sư sẽ được bàn giao bị can, bị cáo để làm việc và ký nhận, ký trả trên sổ ghi chép theo dõi của cơ sở giam giữ. Cần lưu ý là, hiện nay, nhiều cơ sở giam giữ đã trang bị các phương tiện ghi âm, ghi hình để bảo đảm tính minh bạch, công khai, nên Luật sư tuyệt đối không được cả nể, chiều lòng khách hàng bằng cách nhận thư từ, vật dụng cá nhân hoặc trao đổi những vấn đề nhạy cảm có thể dẫn đến hiểu sai về trách nhiệm của người bào chữa. Trong buổi tiếp xúc ban đầu, sau khi lắng nghe ý kiến trình bày của bị can, bị cáo, Luật sư cần đặt những câu hỏi để tìm hiểu thêm nguyên nhân, bối cảnh, bản chất hành vi và các tình tiết cần làm rõ. Trong trường hợp Luật sư phát hiện những lời khai trong hồ sơ mâu thuẫn với những thông tin do bị can, bị cáo trực tiếp trao đổi với mình thì phải làm rõ từng điểm mâu thuẫn và tìm ra lý do dẫn đến những mâu thuẫn đó. Nhiều trường hợp, dấu hiệu bức cung, mớm cung của Điều tra viên hoặc dấu hiệu của sự sai lệch trong hồ sơ vụ án được Luật sư phát hiện ngay từ những buổi làm việc như vậy. Đó sẽ là những chứng cứ quan trọng để Luật sư sử dụng cho việc bào chữa của mình, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật. II. THAM GIA HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA 1. Tham gia một số hoạt động điều tra, phối hợp với Điều tra viên Khi được chấp thuận với tư cách người bào chữa, Luật sư được Điều tra viên thông báo về tiến trình điều tra, thời gian và địa điểm hỏi cung bị can. Lúc đó, Luật sư cần đăng ký về kế hoạch làm việc bằng văn bản để xác định thời điểm thích hợp đối với cả hai bên. Khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền của người bào chữa, cụ thể là: Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 59 “a) Gặp, hỏi người bị buộ c tộ i; b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; c) Có mặt trong hoạt độ ng đố i chấ t, nhậ n dạng, nhậ n biết giọ ng nó i và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; e) Đề nghị thay đổi người có thẩ m quyề n tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, ngườ i có thẩ m quyề n tiến hà nh tố tụ ng; h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hà nh tố tụng kiểm tra, đánh giá; k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra; m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; 60 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dướ i 18 tuổ i, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Như vậy, để việc tham gia của Luật sư trong các buổi hỏi cung của Điều tra viên với bị can có hiệu quả, tuân thủ quy định của pháp luật, cần chú ý một số nội dung và hoạt động dưới đây: - Luật sư cần có văn bản xác định yêu cầu, nội dung và phạm vi đề nghị tham dự các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can, thông báo về thời gian, lịch trình có thể thu xếp tham dự các buổi hỏi cung này; - Điều tra viên cần có văn bản thông báo cho Luật sư thời gian, địa điểm và lịch làm việc với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can (dự kiến), cách thức trao đổi, liên hệ với Luật sư, những nguyên tắc và điều cấm khi làm việc tại buổi hỏi cung theo quy định của cơ quan điều tra, về trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra; - Khi tham gia buổi lấy lời khai, hỏi cung do Điều tra viên chủ trì, ngoài việc hỏi bị can với sự đồng ý của Điều tra viên, Luật sư có thể có một số quyền sau: + Giải thích về mặt pháp luật và lưu ý người bị buộc tội về quyền trả lời hoặc không trả lời về một vấn đề mà Điều tra viên hỏi; + Phản đối câu hỏi của Điều tra viên mà theo nhận thức của Luật sư với những câu hỏi mà Luật sư cho rằng mang tính chất mớm cung, bức cung; + Xem xét và có ý kiến về tính chính xác của nội dung biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung; + Xác dịnh tình trạng sức khỏe và tâm thần của người bị buộc tội khi hỏi cung, lấy lời khai. Về biên bản làm việc với sự có mặt của Luật sư, cần phân biệt hai loại biên bản làm việc tương ứng với hai trường hợp triệu tập gặp hỏi người bị buộc tội trong nhà tạm giữ, trại tạm giam như đã phân tích ở trên. Bao gồm: Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 61 - Biên bản hỏi cung, lấy lời khai bị can với sự có mặt của Luật sư, trong đó chủ thể làm việc chính là Điều tra viên và người bị buộc tội, Luật sư chỉ là người tham dự, chứng kiến hoặc tham gia hỏi khi được Điều tra viên đồng ý; - Biên bản làm việc của Luật sư, với sự có mặt của Điều tra viên, trong đó Luật sư đặt câu hỏi và người bị buộc tội trả lời về những vấn đề, hành vi mà cơ quan điều tra đã khởi tố và tiến hành điều tra. Những điều Luật sư cần chú ý để tránh vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp: - Không nên mang theo, sử dụng điện thoại, phương tiện liên lạc khác trong quá trình làm việc trong nhà tạm giữ, trại tạm giam. Luật sư tuyệt đối không tạo điều kiện cho người bị buộc tội nói chuyện, liên lạc với gia đình; không mang theo đồ dùng gia đình yêu cầu để đưa cho người bị buội tội; - Không nên làm người bị buộc tội ảo tưởng về việc Luật sư có thể tháo gỡ mọi việc. Trong các buổi hỏi cung bị can có sự tham gia của Luật sư, cần tránh đặt câu hỏi mà không được sự chấp nhận của Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc các câu hỏi có tính chất mớm cung. Không nên có thái độ ứng xử không đúng, thiếu tôn trọng đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên; - Tuyệt đối không đưa và nhận thư của người bị buộc tội và gia đình họ vì làm như vậy có thể khiến người bị buộc tội phải chịu kỷ luật trong trại tạm giam và Luật sư có thể bị xem xét là vi phạm trong quá trình tham gia tố tụng. - Sau các buổi làm việc với người bị buộc tội trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, thông thường, người thân của họ thường đề nghị Luật sư cho biết tình trạng giam giữ, sức khỏe và nhất là những việc Điều tra viên đã hỏi. Luật sư nên tránh trả lời những câu hỏi đi sâu vào tình tiết vụ án vì đây là những bí mật điều tra cần được tôn trọng. Luật sư chỉ nên thông qua nắm bắt tình hình, dự kiến cùng gia đình thực hiện một số nội dung cần điều tra, xác minh, cung cấp tài liệu, vật chứng để làm rõ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. 62 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 2. Thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá chứng cứ Trong một vụ án hình sự, để thực hiện tốt nhất vai trò của mình, Luật sư cần quan tâm đến kỹ năng thu thập chứng cứ, bởi càng tìm ra được nhiều chứng cứ có lợi thì khả năng gỡ tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ được quyền lợi cho khách hàng càng cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện nay các Luật sư thường không chủ động tìm kiếm, phát hiện và thu thập chứng cứ của vụ án hình sự mà chủ yếu dựa trên những chứng cứ được cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp hay lời khai, thông tin từ những người liên quan trong vụ án được ghi chép lại thành văn bản lưu tại hồ sơ. Tình trạng này một phần xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, những khó khăn, bất lợi của Luật sư trong việc tiếp cận, phát hiện và thu thập chứng cứ để phục vụ cho quá trình bào chữa, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong một vụ án hình sự. Vấn đề bảo đảm quyền thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ của người bào chữa, bảo vệ quyền lợi của khách hàng là một trong những nội dung cốt lõi trong kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và đã nhận được sự ủng hộ của đại diện các cơ quan tiến hành tố tụng, các đại biểu Quốc hội. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, địa vị pháp lý của Luật sư chưa tương xứng với chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, nên trong quá trình tham gia tố tụng, Luật sư không được quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm phục vụ cho việc thực hiện trách nhiệm bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Trong nhiều trường hợp, người bào chữa tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu từ phía nhân chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng bị từ chối hoặc gây khó khăn. Liên quan đến vấn đề này, khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận 3 quyền của người bào chữa, bao gồm: (h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; (k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 63 năm 2015, để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, người bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người bào chữa cung cấp, cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp khó khăn, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Cùng với việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại, thì đây là biện pháp rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, là cơ sở cho việc nâng cao vị thế của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Luật sư cũng không nên thụ động, dựa dẫm vào các tài liệu, chứng cứ sao chụp được từ cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho việc nghiên cứu, đánh giá của mình, mà cần phải triệt để tận dụng những quyền mà pháp luật trao cho, cần phát huy khả năng vận dụng, nắm bắt và xác định mục tiêu hướng đến của vụ án để thu thập, phát hiện những yếu tố, chứng cứ cần thiết phục vụ cho việc bào chữa cho thân chủ. Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý không nên quá chú trọng, lấn sâu vào việc tìm kiếm chứng cứ phục vụ cho bào chữa mà xem nhẹ các tài liệu, chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp, bởi trong hồ sơ của cơ quan điều tra có thể chứa đựng nhiều thông tin có lợi cho việc bào chữa. Luật sư chỉ nên thu thập, tìm kiếm những chứng cứ có lợi cho khách hàng. Bởi ngoài nghĩa vụ làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, thì trách nhiệm của Luật sư trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Như vậy, những chứng cứ Luật sư có thể sử dụng phải là những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội và không làm xấu đi tình trạng của người bị buộc tội, như chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu bị can thực sự vô tội, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội 64 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ. 3. Tham gia một số hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị triệu tập Điều tra viên và người tham gia tố tụng khác Trước đây, trong quá trình hành nghề, Luật sư chưa có nhiều cơ hội tham gia các hoạt động tố tụng khác như chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, thu giữ vật chứng, định giá và bán đấu giá tài sản, v.v.. Trừ một số vụ án liên quan đến các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp, việc triệu tập Điều tra viên để làm rõ các vấn đề liên quan việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, các dấu hiệu bức cung, nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án, v.v., không được pháp luật tố tụng hình sự quy định cũng như không được tiến hành trên thực tế. Để giải quyết những bất cập nêu trên, điểm g khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có quyền đề nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật, đề nghị triệu tập người làm chứng, Điều tra viên và người tham gia tố tụng khác. Một điểm mới nữa của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm (khoản 1 Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Ngoài ra, theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để thực hiện quyền này của người bào chữa, trong quá trình xét xử, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên đã điều tra vụ án và những người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Đây là quy định mới nhằm nâng cao địa vị pháp lý, quyền của người bào chữa cũng như làm rõ trách nhiệm của Điều tra viên trong quá trình tiến hành điều tra vụ án. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 65 4. Tham gia vào trình tự xem xét, giải quyết các yêu cầu của bên buộc tội và gỡ tội Có rất nhiều hoạt động mà Luật sư có thể tham gia nhằm giải quyết yêu cầu do các bên tham gia tranh tụng đưa ra trước khi mở phiên tòa xét xử công khai. Việc tìm kiếm cách thức để người bị buộc tội và người bào chữa của họ có thể đưa ra yêu cầu xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quá trình điều tra, thu thập chứng cứ trước khi mở phiên tòa và khiến Tòa án phải thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đề cao quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Đây cũng là cơ hội giúp sàng lọc, loại bỏ các chứng cứ buộc tội được thu thập theo cách không hợp pháp, nhờ đó nguyên tắc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trong việc đánh giá chứng cứ có cơ hội được thực hiện ngay trước khi mở phiên tòa. Điều 253 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa phải tiếp nhận và có thể hỏi người cung cấp về những vấn đề có liên quan đến chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó và việc tiếp nhận phải được lập biên bản. Ngay sau khi nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, Tòa án phải chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật, Viện kiểm sát phải xem xét và chuyển lại cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ án. Theo quy định tại Điều 279 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa phải giải quyết các yêu cầu, đề nghị sau: (a) Yêu cầu của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, Điều tra viên và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa; về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án; (b) Đề nghị của bị cáo, người đại diện, người bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; (c) Đề nghị của Kiểm sát viên, những người tham gia 66 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 tố tụng về việc xét xử theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín; (d) Đề nghị của những người tham gia tố tụng về việc vắng mặt tại phiên tòa. Nếu xét thấy yêu cầu, đề nghị có căn cứ thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa giải quyết theo thẩm quyền hoặc thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và thông báo cho người đã yêu cầu, đề nghị biết; nếu không chấp nhận thì thông báo bằng văn bản có nêu rõ lý do. III. CÁC KỸ NĂNG TRAO ĐỔI CÔNG VIỆC, PHỐI HỢP THỰC HIỆN TRONG QUAN HỆ VỚI VIỆN KIỂM SÁT, TÒA ÁN Sau khi kết thúc điều tra, Luật sư phải tiếp xúc và làm việc với Viện kiểm sát, Tòa án nên cần thực hiện theo đúng Quy tắc 23, Quy tắc 24 trong Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Sau đây là một số điểm cần lưu ý: 1. Tiếp xúc với Kiểm sát viên Trước đây, từng có quan niệm không đúng khi cho rằng Luật sư và Kiểm sát viên là “những đối thủ trên đấu trường pháp lý”. Thậm chí có trường hợp, thay vì tranh luận về những vấn đề pháp lý mà hồ sơ vụ án đặt ra, hai bên lại đấu khẩu, công kích cá nhân, sử dụng những lời lẽ thiếu suy nghĩ hoặc có những ứng xử làm ảnh hưởng đến văn hóa pháp đình. Vì thế, việc xác định mối quan hệ phối hợp bình đẳng, minh bạch trên tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự giữa Luật sư và Kiểm sát viên là hết sức cần thiết. Bởi lẽ: Thứ nhất, khi được chấp nhận tham gia tố tụng, Luật sư cần có những ứng xử phù hợp với Viện kiểm sát và Kiểm sát viên có thẩm quyền. Thực tiễn hành nghề cho thấy, phần lớn lãnh đạo Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều có thái độ chuẩn mực, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư hành nghề. Nếu Luật sư tôn trọng Kiểm sát viên, tuân thủ nghiêm túc các quy định về quyền và nghĩa vụ của Luật sư, các quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp, có thái độ ứng xử đúng đắn thì sẽ có điều kiện thực hiện nhiều hoạt động có lợi về mặt pháp lý cho khách hàng của mình. Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 67 Thứ hai, thời điểm làm phát sinh mối quan hệ giữa Luật sư với Kiểm sát viên thật ra không phải chỉ bắt đầu từ sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, mà ngay trong giai đoạn điều tra Luật sư đã có thể phát sinh nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Do đó, trong giai đoạn truy tố, Luật sư cần tích cực nghiên cứu hồ sơ vụ án, kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai lầm của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đưa ra các kiến nghị pháp lý, kiến nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn, yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung, xem xét lại các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Muốn vậy, cùng với việc hiểu rõ bản chất hoạt động của Kiểm sát viên, Luật sư cũng cần hiểu thêm về cơ chế buộc tội và tính chất “thông khâu” trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên để chuẩn bị cho giai đoạn xét xử sau này. Thứ ba, phạm vi mối quan hệ trong giai đoạn quyết định việc truy tố giữa Luật sư và Kiểm sát viên bao gồm: - Viện kiểm sát giải quyết các yêu cầu về thủ tục tố tụng như đăng ký tư cách người bào chữa, ngoài ra, một số địa phương còn yêu cầu Viện kiểm sát cấp lệnh trích xuất vào trại tạm giam; - Luật sư xác định cơ chế phối hợp, trao đổi với Kiểm sát viên về những yêu cầu, nội dung, phương thức Luật sư tham gia trong giai đoạn làm cáo trạng và quyết định truy tố, cách thức liên lạc, bảo đảm nguyên tắc minh bạch trong ứng xử; - Luật sư đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật; - Luật sư tham gia các buổi phúc cung, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, tài liệu về nhân thân; đề xuất kiểm tra tình trạng thể chất và tâm thần của người bị buộc tội; - Kiểm sát viên nhận cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát và giải quyết các yêu cầu, khiếu nại của Luật sư trong giai đoạn quyết định truy tố. Thứ tư, Luật sư nên tránh trao đổi, bàn bạc, làm việc với Kiểm sát viên bên ngoài trụ sở Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố; tự ý sao chép 68 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 tài liệu mà không có sự đồng ý của Kiểm sát viên; không bảo đảm thời gian hẹn làm việc; ứng xử thiếu văn hóa, đánh giá không đúng về phẩm chất, năng lực của Kiểm sát viên; vi phạm những điều cấm của pháp luật và Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. 2. Tiếp xúc với Tòa án Mối liên hệ giữa Luật sư và Tòa án chủ yếu thông qua Thư ký của Tòa án. Thư ký tòa án là người trực tiếp hỗ trợ Luật sư thực hiện các thủ tục tố tụng, hướng dẫn, tạo điều kiện cho Luật sư tham khảo, nghiên cứu, sao chụp hồ sơ vụ án, tiếp nhận và chuyển các yêu cầu, đề xuất, kiến nghị của Luật sư đến Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc đến lãnh đạo của Tòa án, cấp, tống đạt các hồ sơ, tài liệu, quyết định cho bị cáo, Luật sư, v.v.. Tất nhiên, đây là những quan hệ đúng đắn, minh bạch, không phải móc nối, làm sai quy chế, vi phạm pháp luật. Sự tôn trọng đối với Tòa án là bước khởi đầu để Luật sư có thể tiếp xúc và triển khai những công việc cần thiết sau này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Do đó, để hình thành quan niệm đúng đắn về mục đích của việc tạo lập mối quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án thì Luật sư cần phải bảo đảm những yếu tố sau đây: - Bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Luật sư theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm; đồng thời tôn trọng sự thật khách quan, tuân thủ pháp luật, góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, đóng góp vào quá trình hoàn thiện pháp luật. Thông qua các kỹ năng, Luật sư cần khẳng định vai trò của mình trong việc bảo đảm tranh tụng dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp, tôn trọng việc Tòa án là đối tượng trung tâm của chiến lược cải cách tư pháp, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. - Hoàn thiện các kỹ năng trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm phát hiện những thiếu sót, sai phạm của quá trình điều tra và truy tố Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 69 nhằm đưa ra những kiến nghị hợp pháp, hợp lý, đặc biệt là trong việc bảo đảm thẩm quyền xét xử, các thủ tục tố tụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, bảo lãnh hoặc dùng tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm, triệu tập nhân chứng và những người có liên quan, v.v., nhằm chuẩn bị cho bị cáo, đương sự những điều kiện tốt nhất về nội dung, tâm lý trước và trong khi diễn ra phiên tòa. - Thông qua việc xây dựng và bảo đảm mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, từng bước góp phần xây dựng, hoàn thiện các quy tắc ứng xử nghề nghiệp và chuẩn mực văn hóa pháp đình. - Gắn liền quá trình hành nghề của Luật sư với việc bảo đảm thời hạn chuẩn bị xét xử và kế hoạch xét xử của Tòa án. IV. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là một kỹ năng đặc biệt quan trọng của Luật sư, có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành phương án bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ trong các giai đoạn tố tụng. Đây là sự kết hợp khả năng bao quát, đánh giá toàn diện với sự nhạy cảm, cẩn trọng và hiểu biết đến từng chi tiết, sự kiện của Luật sư đối với vụ án. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án có được thực hiện nhuần nhuyễn hay không còn tùy thuộc vào kinh nghiệm của Luật sư trong việc tìm ra cách tiếp cận “mạch chính”, những vấn đề thuộc về bản chất của vụ án như: Hành vi đó có cấu thành tội phạm hay không, các căn cứ nào có thể sử dụng để xác định hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc minh oan cho thân chủ, các căn cứ nào liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự mà Luật sư bảo vệ, v.v.. Ngoài ra, việc nghiên cứu hồ sơ còn giúp cho Luật sư có thể nắm bắt các sự kiện, tình tiết để trao đổi, làm việc chính xác với người bị buộc tội, đương sự, làm cơ sở cho việc đề xuất, kiến nghị với các cơ quan và người tiến hành tố tụng những giải pháp để ngăn chặn, xác minh, thu thập tài liệu, tổ chức đối chất, thực hiện một số hoạt động điều tra khác nhằm làm sáng tỏ sự thật vụ án. 70 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Để chuẩn bị cho việc nghiên cứu hồ sơ được chu đáo, thuận lợi, Luật sư cần quan tâm những vấn đề sau: Thứ nhất, chủ động liên hệ với Kiểm sát viên sau khi được xác nhận tư cách người bào chữa để sắp xếp lịch và địa điểm nghiên cứu hồ sơ. Tùy theo loại hồ sơ vụ án, khối lượng nhiều hay ít, Luật sư có thể đăng ký thứ tự hồ sơ nghiên cứu. Trước hết, cần xem xét danh mục tổng thể các tài liệu có trong hồ sơ vụ án (thống kê bút lục), sau đó, lựa chọn nghiên cứu, sao chụp những hồ sơ liên quan trực tiếp đến bị can mà mình nhận trách nhiệm bào chữa. Trong điều kiện được phép sao chụp hồ sơ, tài liệu trong ngày, Luật sư cần trang bị máy ảnh kỹ thuật số để tranh thủ thời gian, sau đó lưu về máy tính cá nhân để xử lý. Thứ hai, về phương pháp trình và nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần quan tâm các vấn đề liên quan tới thủ tục tố tụng được thể hiện trong hồ sơ, cụ thể: - Thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố và bắt tạm giam bị can, thẩm quyền giữ, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, kê biên tài sản, v.v.. Trong một vụ án, Luật sư cần quan tâm cả thủ tục về trích lục tiền án, tiền sự, việc đình chỉ chức vụ, tạm đình chỉ sinh hoạt Đảng, v.v.; - Các thủ tục liên quan đến việc trưng cầu và tiến hành giám định (sức khỏe, tài liệu, chữ ký, giám định kế toán - tài chính, v.v.); - Các thủ tục liên quan tới việc đối chất, xác minh và các tài liệu trao đổi về tố tụng giữa các cơ quan có thẩm quyền. Thứ ba, về phạm vi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần chú ý những vấn đề cụ thể sau đây: - Kiểm tra, đối chiếu lại nội dung giữa Cáo trạng và Kết luận điều tra, Kết luận điều tra bổ sung; xác định tội danh, các hành vi bị coi là tội phạm, khung hình phạt, v.v.; - Nghiên cứu các văn bản trao đổi giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, với các cơ quan khác về việc đánh giá ban đầu hành vi của bị can, cơ sở của việc đề nghị phê chuẩn bắt tạm giam (trong một số trường hợp, những nhận định ban đầu này không chính xác, nên sau đó cơ quan điều tra phải thay đổi quyết định khởi tố bị can); Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 71 - Nghiên cứu các kết luận giám định (tài sản, tài chính - kế toán, tỷ lệ thương tật, nguyên nhân gây ra cái chết hoặc bị thương, v.v.), các biên bản khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm điều tra; - Nghiên cứu lời khai của bị can mà mình bào chữa và các bị can khác, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; - Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trích lục tiền án, tiền sự. Thứ tư, Luật sư đồng thời cần tuân thủ một số nguyên tắc trong xử lý thông tin, trong đó có việc bảo đảm những thông tin về bí mật điều tra, cách thức trao đổi thông tin, tài liệu với khách hàng. V. XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG XÉT HỎI Cùng với việc chuẩn bị chu đáo quan điểm bào chữa, thống nhất với bị cáo, đương sự trước khi mở phiên tòa, Luật sư cần quan tâm xây dựng kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa. Đây là một kế hoạch dự kiến, gắn với hoạt động hành nghề của Luật sư trong quá trình tham gia nên không cố định, có thể được thay đổi tùy theo hoàn cảnh, diễn biến của phiên tòa. Tất nhiên, kế hoạch thẩm vấn cần được xây dựng một cách có chọn lọc sao cho thông qua quá trình thẩm vấn, Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa có thể đoán được hướng đi của Luật sư. Mục đích của xây dựng kế hoạch thẩm vấn: - Thể hiện tính tích cực, chủ động tham gia vào quá trình xét xử tại phiên tòa của Luật sư; - Nhận diện được những nội dung và đối tượng cần tham gia thẩm vấn trên cơ sở bám sát quá trình thẩm vấn của những người tiến hành tố tụng; - Kết quả thẩm vấn, tiến trình tranh tụng có thể làm cơ sở cho việc hình thành phán quyết của Hội đồng xét xử. 72 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Nhận diện phạm vi đối tượng thẩm vấn: Khác với kế hoạch thẩm vấn của Hội đồng xét xử phải bao quát toàn bộ những vấn đề và những người tham gia tố tụng khác (trừ người bào chữa), trọng tâm kế hoạch thẩm vấn của Luật sư chủ yếu liên quan đến những đối tượng có mối quan hệ trực tiếp, có lời khai ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án, đến việc xác định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà Luật sư bào chữa. Đó có thể là lời khai của các bị cáo khác, nhân chứng, người liên quan, giám định viên, v.v.. Để làm rõ những vấn đề mấu chốt từ kết quả thẩm vấn, Luật sư cần lưu ý đến trình tự thẩm vấn, cách thức tiến hành và nghệ thuật thẩm vấn. Trường hợp Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì tùy thuộc vào yêu cầu bảo vệ mà xác định đối tượng thẩm vấn, có thể khai thác những thông tin phục vụ cho yêu cầu bồi thường thiệt hại, xác định trách nhiệm hình sự, v.v.. Xác định nội dung các câu hỏi thẩm vấn: Chuẩn bị nội dung các câu hỏi thẩm vấn là khâu quan trọng nhất của kế hoạch thẩm vấn. Vì thời lượng thẩm vấn tại tòa do Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa điều khiển và quyết định nên Luật sư cần tập trung vào những câu hỏi liên quan trực tiếp đến việc xác định trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, trách nhiệm dân sự của bị cáo trong vụ án hình sự (nếu có). Các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu, tránh việc có thể hiểu theo nhiều nghĩa khiến người bị hỏi lúng túng, đôi khi không đạt được hiệu quả thẩm vấn. Ngoài ra, Luật sư cần rà soát lại các câu hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và các Luật sư khác để tránh trùng lặp khi tham gia xét hỏi. Hình thức của bản kế hoạch thẩm vấn: Kế hoạch thẩm vấn có thể được thể hiện bằng hình thức viết tay hoặc đánh máy hay in ấn cẩn thận. Luật sư có thể chia khổ giấy làm hai phần, một phần dự kiến nội dung câu hỏi thẩm vấn, phần còn lại để trống để ghi chép câu trả lời. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, trao đổi với bị can, bị cáo, Luật sư từng bước hình thành và xây dựng một bản kế hoạch thẩm vấn chi tiết. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù Luật sư đã xây dựng kế hoạch thẩm vấn rất chi tiết, nhưng theo diễn biến phiên tòa có thể sẽ phải lược bỏ hoặc đặt thêm nhưng câu hỏi mới để làm sáng tỏ vấn đề. Vì Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 73 thế, trong giai đoạn thẩm vấn tại tòa, Luật sư phải tập trung lắng nghe các phần thẩm vấn của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác để điều chỉnh kịp thời kế hoạch thẩm vấn của mình cho phù hợp. VI. CHUẨN BỊ LUẬN CỨ BÀO CHỮA, BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO KHÁCH HÀNG Việc chuẩn bị quan điểm bào chữa, bảo vệ quyền lợi hoàn toàn khác với văn bản kiến nghị của Luật sư trước khi mở phiên tòa. Cụ thể: - Dự thảo quan điểm pháp lý của Luật sư là sự chuẩn bị chưa đầy đủ về định hướng bào chữa hoặc bảo vệ, nên cấu trúc của nó không phụ thuộc vào việc bảo đảm tính hình thức của văn bản. - Trong khi đó, văn bản kiến nghị của Luật sư gửi cho Tòa án đòi hỏi tính nghiêm túc về hình thức, chặt chẽ, được lập thành văn bản chính thức, thể hiện tập trung vào vấn đề cần kiến nghị hoặc đưa ra kiến nghị xem xét toàn diện vụ án. Những đề xuất trong văn bản này phải cụ thể, dựa trên căn cứ pháp lý chính xác, không phải là những vấn đề còn tranh cãi. Mặc dù chưa phải là bản quan điểm pháp lý chính thức trình bày trước phiên tòa, nhưng cấu trúc của bản dự thảo quan điểm pháp lý của Luật sư vẫn cần có những nội dung chủ yếu sau: - Phần mở đầu: Nêu cơ sở của việc nhận trách nhiệm bào chữa cho bị cáo (qua gia đình hoặc trực tiếp được người bị buộc tội nhờ từ giai đoạn nào), tóm tắt nội dung luận tội của Cáo trạng, nhấn mạnh điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng, tên của tội danh. Đối với văn bản bảo vệ quyền lợi, Luật sư nêu tóm tắt hành vi mà bị cáo thực hiện và những thiệt hại của bị hại do hành vi phạm tội gây ra, xác định những điều khoản pháp lý là căn cứ cho việc xử lý hành vi hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo. - Phần đánh giá về nguyên nhân, bối cảnh, những yếu tố tác động đến quá trình giải quyết vụ án: Đây là nội dung quan trọng mà các Luật sư thường ít quan tâm vì cho rằng vấn đề cơ bản trong quan điểm 74 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 pháp lý của Luật sư là đánh giá trực tiếp tội danh quy buộc đối với bị can, bị cáo. Tuy nhiên, việc đánh giá các yếu tố này cho phép Luật sư nhìn thấu đáo, toàn diện các khía cạnh, vấn đề có thể ảnh hưởng tới việc đánh giá bản chất vụ án, bao gồm: + Nguyên nhân phát sinh vụ án (nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân khách quan và chủ quan), + Bối cảnh và các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc xem xét, đánh giá bản chất vụ án. - Phần đánh giá về chứng cứ liên quan việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm: Đây là phần quan trọng nhất, là “xương sống” của văn bản thể hiện quan điểm pháp lý của Luật sư. Ở nội dung này, thông qua việc đánh giá chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra thể hiện trên hồ sơ và các chứng cứ khác thu thập được, Luật sư có thể luận giải, bác bỏ, phân tích những vấn đề trong kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng là có căn cứ pháp lý hay không. Cấu trúc của phần này gồm: + Bám sát các dấu hiệu cấu thành tội phạm và những vấn đề pháp lý phải thỏa mãn khi muốn xác định trách nhiệm hình sự của bị can. Trong một số trường hợp, Luật sư nên so sánh giữa cấu thành tội phạm của các tội khác nhau, những dấu hiệu cần và đủ với những sai lầm thường gặp trong thực tiễn xét xử dẫn đến xác định không đúng các dấu hiệu cấu thành tội phạm; + Sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp nhằm hướng tới việc chứng minh tính không có căn cứ trong việc truy tố tội danh với bị cáo hoặc trong trường hợp bị cáo nhận tội, những tình tiết giảm nhẹ cần được lưu tâm khi giải quyết vụ án, v.v.. Ngoài lời khai của các đối tượng liên quan đến vụ án, những chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, lời khai của nhân chứng, người liên quan, người bị hại, v.v., Luật sư đều phải đánh giá, gắn liền chúng với việc chứng minh có hay không hành vi phạm tội của bị cáo mà Luật sư nhận trách nhiệm bào chữa. Có hai cách để diễn giải nội dung các chứng cứ, bút lục liên quan đến phần này: Trích dẫn Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 75 nguyên văn đoạn lời khai thích hợp (có thể hiện bút lục, ngày tháng, thậm chí địa điểm, người tiến hành lấy lời khai, v.v.) hoặc tóm tắt ý chính của lời khai và bút lục thể hiện trong hồ sơ. Tuy nhiên, đối với một số lời khai, chứng cứ quan trọng, cần trích nguyên văn nội dung và xuất xứ, thậm chí in đậm, in nghiêng để lưu ý nhấn mạnh khi trình bày. + Trong các vụ án phức tạp, đòi hỏi phải có sự đối chiếu, căn cứ vào kết quả giám định tư pháp (pháp y, giám định tài chính - kế toán, v.v.), Luật sư cần có ý kiến đánh giá về thủ tục trưng cầu và tiến hành giám định, nhận xét xem phương pháp, nội dung kết luận giám định có căn cứ hay không, có giá trị pháp lý hay không. - Phần kết luận và kiến nghị: Nội dung của phần này có thể tóm tắt, nêu ngắn gọn những nhận xét, kết luận từ phần đánh giá nội dung, khẳng định các căn cứ pháp lý cho việc chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc các tình tiết về hoàn cảnh, nhân thân của bị cáo có thể làm căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó, Luật sư mạnh dạn đề xuất các kiến nghị pháp lý thích hợp như đề nghị tuyên bố bị cáo không phạm tội, tuyên trả tự do tại phiên tòa, hoặc vận dụng các điều luật xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết xác định áp dụng dưới khung hình phạt, áp dụng chế định án treo (án không giam giữ), v.v.. Trường hợp Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự thì cần có những kết luận và kiến nghị trong việc yêu cầu xử lý công bằng đối với bị cáo và yêu cầu bị cáo bồi thường các thiệt hại đối với người bị hại hoặc thực hiện trách nhiệm dân sự đối với đương sự mà mình bảo vệ. VII. NHẬN THỨC VÀ THAO TÁC KỸ NĂNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA 1. Chuẩn bị tham gia và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa Vấn đề nhận thức, chuẩn bị và có mặt tại phiên tòa sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong kỹ năng hành nghề Luật sư, ảnh hưởng đến hiệu quả bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng. Điều 291 76 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa là bắt buộc, nhưng có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo, người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 dành hẳn mục V Chương XXI để quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đồng thời coi đây là nội dung cốt lõi thể hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Về cơ bản, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa quy định việc Chủ tọa phiên tòa là người trực tiếp điều hành việc hỏi, mà chỉ quy định trong quá trình xét hỏi, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi (Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có những điểm mới trong quy định trình tự phát biểu khi tranh luận, yêu cầu Kiểm sát viên khi luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự cũng như những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa (Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Về phần mình, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu, những lập luận để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ buộc tội, gỡ tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 77 hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án, cũng như có quyền đưa ra đề nghị của mình đối với những vấn đề nêu trên. Trên cơ sở đó, theo Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Kiểm sát viên phải đưa ra những chứng cứ, tài liệu và những lập luận của mình để đối đáp đến cùng với từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại và những người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến, tuy nhiên, chủ tọa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và các ý kiến trùng lặp. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nếu những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và phải được thể hiện trong bản án. Những điểm đổi mới nêu trên là cơ sở bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tại phiên tòa, quá trình thẩm vấn của Luật sư là cách thể hiện hướng đi, dự báo về những vấn đề cần tranh luận. Đối với những Kiểm sát viên nhiều kinh nghiệm tranh tụng, họ đôi khi sẽ tạo ra những bài luận tội “mở”, chủ động để khoảng trống, sơ hở để Luật sư nhầm tưởng họ luận tội không đầy đủ, chứng cứ còn thiếu sót, v.v., để khi đến phần bào chữa 78 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 của Luật sư, họ sẽ đưa ra những bằng chứng, lý lẽ sắc bén. Vì vậy, Luật sư cần hết sức chủ động trong việc rà soát những nội dung đã chuẩn bị và có những kỹ năng khi tham gia tranh tụng. Sau đây là những điểm cần chú ý trong việc chuẩn bị cấu trúc và nội dung bài bào chữa trên cơ sở sự chuẩn bị luận cứ bào chữa như đã trình bày tại Mục IV nêu trên và qua diễn biến thực tế tại phiên tòa: - Phần mở đầu: Cách mở đầu bài bào chữa có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình tranh luận. Luật sư cần lưu ý đây là bài trình bày bằng miệng tại phiên tòa, nên phong thái, khẩu khí, văn phong của Luật sư đóng vai trò rất quan trọng. Luật sư cần chú ý tới “không gian” pháp đình để xác định cách mở bài phù hợp tại phiên tòa nhằm thu hút sự chú ý của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác. Có một số cách mở đầu bài phát biểu bào chữa phổ biến như sau: + Giới thiệu bản thân với tư cách người bào chữa, tóm tắt những nội dung buộc tội của Viện kiểm sát; + Đánh giá trực diện về lời luận tội của Kiểm sát viên, nhận xét về những quan điểm, căn cứ nêu trong phần kết luận, từ đó tập trung phân tích, đánh giá nhằm bác bỏ quan điểm của Kiểm sát viên. + Đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, thu hút sự chú ý của dư luận, phần mở đầu có thể nêu lên những cảm nhận, suy nghĩ của Luật sư khi nhận trách nhiệm bào chữa cho bị cáo, phân tích những yếu tố, ảnh hưởng tác động đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Ngoài ra, Luật sư có thể phác họa bối cảnh xảy ra vụ án, những quan điểm, tinh thần cần quán triệt để bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. + Trong trường hợp vụ án liên quan đến tình hình trật tự xã hội, Luật sư cũng có thể sử dụng cách tiếp cận bài bào chữa từ sự cảm thông, sự chia sẻ với những mất mát, đau đớn của gia đình các nạn nhân. Như vậy có thể nói, tùy theo bối cảnh của mỗi phiên tòa mà Luật sư có thể có những cách mở đầu bài phát biểu bào chữa khác nhau để Phần 1: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ♦ 79 tạo ra những ấn tượng, cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Việc mở đầu bài bào chữa như thế nào không phải là một nội dung cố định, rập khuôn, mà là một trong những phần thể hiện được tính thích ứng, óc phán đoán, tư duy nhạy bén, sự cảm nhận tinh tế, với trách nhiệm và nhãn quan chính trị - pháp lý đầy đủ của Luật sư. - Phần nội dung: Đây là phần trọng tâm trong bài bào chữa, là sự kết tinh quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án, quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa và là sự chuyển hóa linh hoạt nội dung các bản kiến nghị của Luật sư qua các giai đoạn trước đây. Cấu trúc của phần nội dung có thể được sắp xếp theo những cách khác nhau. Ví dụ: Cách 1: Bám sát nội dung luận tội của Kiểm sát viên nhằm đáp lại những cáo buộc, những lập luận thiếu chứng cứ. Luật sư cần lưu ý đây chưa phải là phần đối đáp khi tranh luận, nhưng với việc bám sát nội dung buộc tội sẽ giúp Luật sư tập trung cao độ cho phần bào chữa mà không bị Chủ tọa phiên tòa ngắt lời, có cơ hội nêu bật sự khác biệt giữa quan điểm buộc tội và quan điểm bào chữa. Cách 2: Luật sư chủ động xây dựng cấu trúc theo sự chuẩn bị của mình, trong đó chia ra thành từng đề mục lần lượt theo các bước sau: + Tóm tắt những hành vi và tội danh mà đại diện Viện kiểm sát đã kết luận đối với bị cáo thông qua lời luận tội; + Phân tích các chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa để chứng minh việc kết tội bị cáo là không đầy đủ căn cứ pháp lý hoặc làm rõ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; + Các tình tiết liên quan đến nhân thân, nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội, v.v.. Cách 3: Nếu vụ án phức tạp, phiên tòa phải hoãn xử nhiều lần, trong đó có cả việc hoãn xử để điều tra bổ sung, Luật sư cần tóm tắt lại những vấn đề đã đặt ra trong các phiên tòa trước, những nội dung mà Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung, kết quả điều tra bổ sung và đánh giá về những kết quả bổ sung đó. 80 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 2 Cách 4: Nếu đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho phần tranh luận với Kiểm sát viên, Luật sư có thể không cần phải đưa ra hết nội dung đã chuẩn bị trong bài bào chữa mà chỉ “hé mở” một số nội dung có khả năng sẽ sử dụng cho việc đối đáp trong phần tranh luận tại phiên tòa. Trong thực tiễn tranh tụng, Luật sư thường giữ lại những chứng cứ, bút lục có ý nghĩa quyết định để đưa vào nội dung trong phần đối đáp. - Phần kết luận, kiến nghị: Nếu ở phần mở đầu bài bào chữa, Luật sư cần cố gắng tạo ra ấn tượng, thu hút sự chú ý của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác thì ở phần kết luận, Luật sư cần có được sự lắng đọng, đúc kết những kết luận, những căn cứ pháp lý mang tính thuyết phục cao. Sau đây là một số gợi ý kết thúc bài bào chữa mà Luật sư có thể tham khảo: + Nhận xét và kết luận rõ ràng quan điểm bào chữa của Luật sư, từ đó nêu lên căn cứ pháp lý nhằm đưa ra kiến nghị định hướng xử lý vụ án cụ thể, dứt khoát có tội hay không có tội. + Hệ thống lại những luận điểm chính đã nêu trong bài bào chữa, nhấn mạnh những điểm kết luận, đề cập các vấn đề về nhân thân và điều kiện sức khỏe của khách hàng để Hội đồng xét xử xem xét. + Đối với những vụ án phức tạp, được dư luận quan tâm, ngoài việc hệ thống lại những nội dung đã trình bày trong bài bào chữa, Luật sư cần nhấn mạnh đến những tác động to lớn từ kết quả quá trình tiến hành tố tụng, từ đó đề xuất, thu hút sự chú ý của Hội đồng xét xử trước khi bước vào phần nghị án. Ngoài ra, Luật sư cũng cần chuẩn bị cho trường hợp Hội đồng xét xử sau phần tranh luận có thể quay trở lại phần xét hỏi. Để tránh lúng túng, Luật sư cần quan tâm đến một số mối quan hệ ứng xử với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác: + Đối với Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên: Luật sư cần tôn trọng các quyết định của Chủ tọa phiên tòa khi điều khiển quá trình tranh luận. Trong quá trình Kiểm sát viên phát biểu luận tội, Luật sư không nên """