"Sinh Vật Thần Thoại Khắp Thế Gian - Epic PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sinh Vật Thần Thoại Khắp Thế Gian - Epic PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
EPIC Biên soạn
Bìa: Bảo Anh
Minh họa: Tú Ngô
[Dành cho lứa tuổi 8+]
NXB KIM ĐỒNG
Năm 2020
Giá bìa: 79.000 VN đồng
Ebook được tạo ra với mục đích phi lợi nhuận nhằm chia sẽ đến các bạn đọc giả
MỤC LỤC
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 SINH VẬT HUYỀN BÍ CHÂU ÂU
Yêu nữ Huldra
Hải quái Kraken
Xà vương Basilisk
Tiên nữ Selkie
Thủy quái Kelpie
Gã khổng lồ Grendel
Quỷ khổng lồ Troll
Hồn ma Jack O’lantern
Tiểu yêu Boggart
Bạch Kì Mã
Mụ phù thủy Baba Yaga
Nhân Sư
Nhân Ngưu Minotaur
CHƯƠNG 2 SINH VẬT HUYỀN BÍ CHÂU PHI VÀ TRUNG ĐÔNG
Ác xà Apep
Quái vật địa ngục Ammit
Quái vật khổng lồ Grootslang
Cá khổng lồ Bahamut
Vị thần trong chai Jinn
Quái thú ăn thịt người Manticore
Chim thần Simurgh
Nữ hoàng rắn Shahmaran
CHƯƠNG 3 SINH VẬT HUYỀN BÍ CHÂU MĨ
Quái thú Akhlut
Đại bàng gió Wuchosen
Chim Sấm
Cá sấu khổng lồ Cipactli
Bóng ma thù hận La Cegua
Tiểu quỷ Saci
CHƯƠNG 4 SINH VẬT HUYỀN BÍ CHÂU Á
Thần điểu Garuda
Vua khỉ Hanuman
Mộc Tinh
Nữ quỷ Rangda và thần thú Barong
Kì Lân
Quái thú Niên
Cáo chín đuôi
Rắn tám đầu Orochi
Thủy quái Kappa
Chồn Tanuki
Tuyết Nữ
Chúa quỷ Shuten Doji
CHƯƠNG 5 TRUYỀN THUYẾT VỀ LOÀI RỒNG
Cá chép hóa rồng
Viên ngọc của rồng
Rồng Bakunawa nuốt mặt trăng Rồng biển Yofune Nushi
Rồng thần Quetzalcoatl
Rồng ba đầu Zmey
Rồng đỏ Y Ddraig Goch
Rồng Nidhogg ăn rễ cây tần bì
Rồng tham vàng Fafnir
Rồng lại rắn Python
Cuốn sách này tập hợp truyện kể về những sinh vật huyền bí khắp năm châu bốn biển. Mỗi truyện đính kèm thông tin về sinh vật như chủng loài, nơi sinh sống, các khả năng đặc biệt... cùng đánh giá mức độ nguy hiểm của chúng dựa trên thang điểm:
★ : Vô hại, thậm chí còn giúp đỡ loài người.
★ ★ : Khá phiền phức, nhưng có thể trị được.
★ ★ ★ : Nguy hiểm, hãy hết sức cẩn trọng khi đối đầu với chúng! ★ ★ ★ ★ : Cực kì nguy hiểm, mau chạy đi!
★ ★ ★ ★ ★ : May ra thần linh mới trị được đám này!
Giờ, xin mời bạn lật giở từng trang và khám phá các sinh vật thần thoại khắp thế gian!
Chương 1
SINH VẬT HUYỀN BÍ
CHÂU ÂU
Châu Âu cổ kính là quê hương của nhiều thần thoại phong phú, hấp dẫn, nổi tiếng thế giới như thần thoại Bắc Âu, thần thoại Celtic, thần thoại Hy Lạp... Có thể bạn đã nghe và đọc nhiều về mấy con Ma Cà Rồng, lũ Ma Sói hay các Nàng Tiên Cá... nhưng còn Bạch Kì Mã, Kelpie và hải quái Kraken? Vô số sinh vật huyền bí thú vị được điểm tên trong chương này mà có thể bạn chưa từng biết đến.
Yêu nữ Huldra
• Chung loài: Yêu tinh
• Nơi sinh sông: Vùng rưng núi Băc Âu
• Kha năng đạc biẹt: Phù phép quyên ru nam giơi, yêm bùa nguyên rua, và mọt sô năng lưc pháp thuạt khác
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★
S
âu trong những cánh rừng âm u vùng Bắc Âu, có một thiếu nữ tên là Huldra sống cô độc một mình. Nhiều người gọi Huldra là tiên rừng, nhưng cũng không ít người coi nàng là quái vật bởi hình dạng kì lạ. Giống như nhiều thiếu nữ, Huldra có gương mặt xinh đẹp, làn da trắng và mái tóc vàng óng. Điểm khác người duy nhất là nàng mọc một cái đuôi to dài và thô kệch như đuôi bò, thêm nữa, lưng nàng có một lỗ thủng trông giống như một cái hốc trên thân cây.
Dù sao thì Huldra vẫn rất xinh đẹp. Không những thế, nàng còn thành thạo thuật thôi miên và sở hữu giọng hát vô cùng lôi cuốn, kết hợp hoàn hảo với tiếng đàn hạc khiến không một gã đàn ông nào đủ nghị lực và tỉnh táo để cưỡng lại sức hút đó. Người đàn ông nào trót theo Huldra vào rừng thì phải đồng ý cưới nàng làm vợ để có cơ hội trở về.
Một lần, Huldra nhận được lời cầu hôn, và nàng vô cùng hạnh phúc. Vậy là nàng sắp được làm vợ, sắp thoát khỏi khu rừng âm u cùng nỗi cô đơn dẳng dại đeo bám.
Vào ngày đám cưới diễn ra, Huldra bất ngờ nhận thấy ma thuật của nàng bị vô hiệu hóa ngay khi nàng đặt chân lên lễ đường. Từ một cô dâu xinh đẹp, Huldra biến thành cô gái vô cùng xấu xí, tuy nhiên, mừng là cái đuôi bò của nàng cũng biến mất. “Thế là từ bây giờ, mình sẽ chẳng còn bị gọi là quái vật nữa.” Huldra thầm nghĩ, trong lòng vô cùng hạnh phúc.
Nhưng, lại một lần nữa Huldra không lường hết được mọi chuyện. Người chồng của nàng không hề vui mừng khi thấy cái đuôi mất đi, ngược lại, anh ta chán nản vì cô vợ mình vừa cưới vốn đang xinh đẹp giờ bỗng trở nên xấu xí. Chẳng mấy chốc, người chồng đối xử lạnh nhạt với Huldra và bắt đầu có ý định đi tán tỉnh một cô gái khác. Huldra biết được, giận lắm, giận đến nỗi cái đuôi bò mọc trở lại. Nàng dùng cái đuôi đó quất cho gã chồng bội bạc một trận nên thân rồi bỏ về rừng, tiếp tục sống cuộc sống tự do tự tại. Thật kì lạ, ngay khi trở về cánh rừng quen thuộc, nhan sắc của Huldra lại xinh đẹp như xưa. Nàng không bao giờ còn phiền lòng về cái đuôi của mình nữa.
Thi thoảng, Huldra vẫn giấu kĩ chiếc đuôi trong váy, ra khỏi rừng và tản bộ dọc bờ sông.
Một lần nọ, có anh chàng tên là Hagen đi câu cá ngoài sông. Anh định bụng đem số cá câu được ra chợ bán để đổi lấy quần áo ấm cho mùa đông sắp tới. Hagen buông cần từ sáng sớm mà đến giữa trưa vẫn chẳng có con cá nào cắn câu. Đang chán nản, anh bỗng nhìn thấy một cô gái vô cùng xinh đẹp với mái tóc vàng óng dạo bước lại gần. Khỏi nói thì chúng ta ai cũng đoán được đó là Huldra. Lúc đầu, Hagen không nhận ra nàng, nhưng khi nhìn thấy cái đuôi bò trứ danh mà nàng vô tình để lộ dưới tà váy thì Hagen biết ngay. Thế nhưng, không giống như những người dân làng luôn sợ hãi bỏ chạy hoặc cười nhạo Huldra, Hagen nhẹ nhàng cúi đầu chào và nói: “Thưa tiểu thư, dường như lớp váy lót của nàng đang lộ ra bên ngoài.”
Hulra vội giấu chiếc đuôi đi và thầm khen ngợi Hagen là một chàng trai tử tế. Để tưởng thưởng Hagen, Huldra chỉ cho chàng vị trí có nhiều cá. Hagen làm theo lời chỉ dẫn của Huldra nên ngày hôm đó và rất nhiều ngày sau, anh chàng câu được vô số cá. Vậy là mùa đông năm ấy Hagen có áo ấm để mặc rồi!
* * * * *
Bạn có biết: Một truyền thuyết khác về Huldra kể rằng: Khi Adam và Eva đang tắm cho những đứa con của mình, bất chợt Chúa đến thăm. Lúc đó còn một đứa trẻ chưa được tắm nên Eva vội vã đem giấu nó đi. Chúa nhìn qua một lượt những đứa trẻ sạch sẽ thơm tho và hỏi Eva: “Con có bỏ sót đứa trẻ nào không?” “Không, thưa Đức Chúa, tất cả đều ở đây.” Bạn biết đấy, đâu có dễ đánh lừa Chúa. Ngài nói: “Tốt thôi, hãy cứ để những gì giấu kín được giấu kín.” Vậy là đứa trẻ bị Eva giấu đi trở thành Huldra và luôn sống ẩn nấp trong rừng sâu, không bao giờ gặp gỡ người ngoài.
Hải quái Kraken
• Chung loài: Quái vạt
• Nơi sinh sông: Vùng biên Băc Âu
• Kha năng đạc biẹt: Còn là điêu bí ân chưa đươc khám phá. Chı biêt răng vơi nhưng xúc tu không lô, nó có thê dê dàng nhâc bông và be đôi mọt con tàu lơn
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★ ★
Ô
ng cụ Brant từng là một thủy thủ. Thời trẻ, ông cụ rong ruổi trên biết bao hải trình, đối diện với biết bao cơn bão, cập bờ biết bao miền đất xa lạ. Mỗi tối, lũ trẻ trong làng háo hức ngồi trước lò sưởi ấm áp nhà ông cụ để nghe kể về các cuộc phiêu lưu trên biển. Có một chuyện mà đứa trẻ nào cũng nhớ như in nhưng lúc nào cũng muốn nghe ông cụ Brant kể lại, và lần nào nghe ông cụ kể chúng cũng há hốc mồm vì kinh ngạc như mới lần đầu nghe bởi nó quá kì lạ, quá khó tin. Đó là câu chuyện về Kraken - chúa tể của biển cả, con quái vật to lớn nhất còn sót lại trên thế giới.
“Lần đó, tàu của chúng ta xuất phát từ bờ biển Na Uy, dự định đi ngược lên hướng Tây Bắc để đến Ireland, sau đó đi tiếp, xa nữa, đến Greenland. Trời lạnh cắt da cắt thịt, đổi lại, biển rất hiền lành. Tàu của chúng ta đi được độ hai hay ba ngày gì đó, ta không còn nhớ rõ, mọi thứ rất an lành. Trời lạnh lắm các cháu ạ, nhưng yên bình, và rượu rum thì giúp chúng ta giữ ấm và vui vẻ hơn.
Những ngày tiếp theo, biển hơi động, nhưng vẫn không có dấu hiệu của cơn bão nào - đó là điều tuyệt vời nhất. Bất chợt, tay hoa tiêu đang đứng trên cột buồm hét lên:
“Một hòn đảo! Có một hòn đảo cách đây chỉ khoảng hai hải lí.” “Thật kì lạ!”
Thuyền trưởng của chúng ta nhăn trán, ông giở tấm bản đồ ra xem.
“Không thể có hòn đảo nào cách chỗ chúng ta hai hải lí được. Không có hòn đảo nào như thế được vẽ trên bản đồ cả. Cậu chắc chứ, Even?” Thuyền trưởng hỏi tay hoa tiêu.
“Tôi luôn tin tưởng vào đôi mắt của mình, thưa thuyền trưởng!” Cậu ta cả quyết.
Vậy là toàn đoàn quyết định đến gần hòn đảo xem cho rõ thực hư. Đó đúng là một hòn đảo, rộng xấp xỉ mười dặm. Một hòn đảo trống không, chẳng có rừng cây hay núi đồi, nằm trơ trọi như một khối đá giữa đại dương.
“Sợ quái gì, cứ lên đảo chơi cho biết!” Một thủy thủ nêu ý kiến, cùng ý kiến với đại đa số thủy thủ đoàn.
Vậy là thuyền trưởng ra lệnh hạ neo rồi cử một đôi thuyền nhỏ chèo vào thăm dò. Có lẽ gọi đó là “một khối đá giữa đại dương” thì đúng hơn là một “hòn đảo”. Ngoài lớp rêu và thực vật nhỏ, chẳng có sinh vật sống nào trên đảo.
Đêm hôm đó, chúng ta đốt lửa trại và ăn uống vui vẻ. Cho dù nó là một hòn đảo trống không thì cảm giác được đặt chân lên mặt đất sau nhiều ngày lênh đênh cũng làm ai nấy khoan khái, dễ chịu.
Đến nửa đêm, cả đoàn tỉnh giấc bởi sự rung lắc dữ dội. Dường như có động đất. Hòn đảo rung chuyển và chìm dần xuống biển. Chúng ta hốt hoảng chèo về thuyền lớn, chẳng kịp thu dọn đồ. Mặt biển dao động liên tục, mặc dù trời không hề mưa bão. Những xoáy nước khổng lồ tựa như muốn hút cả con tàu xuống đáy sâu. Thuyền trưởng tức tốc ra lệnh cho thuyền viên căng buồm, chèo hết tốc lực ra khỏi vùng biển dữ.
Hòn đảo vừa chìm xuống biển lại lập tức nổi lên, tạo ra những cơn sóng vĩ đại. Từ dưới đáy biển, những xúc tu như thể của một con bạch tuộc khổng lồ tóm lấy vài thủy thủ xấu số và lôi tuột xuống nước. Một cột buồm bị đập gãy.
Và, trong nỗi kinh hoàng tột độ, chúng ta nhận ra cái thứ mà chúng ta đã đặt chân lên ngày hôm đó không phải là một hòn đảo. Nó là một sinh vật sống. Một con quái vật biển khổng lồ. Chính là Kraken trong truyền thuyết, ác mộng của các thủy thủ! Chúng ta không tin được là nó có thật cho đến khi một cái xúc tu nữa đập vỡ mạn tàu. Dưới ánh trăng lờ mờ, chúng ta không thể nhìn rõ Kraken, nhưng có lẽ cái phần nổi trên mặt nước, cái thứ mà chúng ta ngỡ là một hòn đảo, chỉ là một bộ phận trên cơ thể của con quái vật mà thôi. Chắc chắn kích thước của nó còn to hơn chúng ta tưởng tượng rất nhiều.
Lại thêm vài thủy thủ bị những xúc tu của Kraken kéo xuống biển. Đứng trước sinh vật hùng mạnh và to lớn nhất đại dương, con tàu trông bé nhỏ như một miếng đồ chơi gỗ. Con thủy quái dùng những xúc tu quấn lấy thân tàu và nâng con tàu lên cao. Ta nghĩ rằng ta đã nhìn thấy một cái gì như đôi mắt của con Kraken, to và đỏ rực ngay cả khi ở bên dưới mặt nước đen thẫm. Chỉ một cú xiết, con tàu vỡ tan trong những xúc tu. Cả đoàn nhanh chân nhảy ra khỏi tàu trước khi con tàu nát vụn. Chúng ta cố gắng bơi ra xa hết sức có thể, nhưng có lẽ đó chỉ là những hành động vẫy vùng trong vô vọng. Chẳng thể nào thoát khỏi kết cục làm mồi cho Kraken.
Chắc các cháu đang thắc mắc tại sao ta vẫn còn sống và ngồi đây kể lại? Đúng rồi đấy! Vài người trong chúng ta may mắn thoát chết. Chính vào giây phút nguy kịch nhất, khi cả đám sắp làm mồi cho Kraken, trời nổi cơn dông. Những tia sét rạch ngang bầu trời, sấm chớp ầm ầm như một trận thủy chiến bằng đại bác. Có lẽ Kraken không quen với thứ ánh sáng lóe chớp từng hồi, cũng không cảm thấy dễ chịu khi nghe các tiếng nổ lúc một tia sét đánh xuống tựa như cơn thịnh nộ của thần Thor vĩ đại. Vậy là nó lặn sâu xuống đáy biển. Thật vậy, Kraken lặn không sủi tăm. Nó quay về với đáy biển tăm tối và yên tĩnh. Chúng ta thoát chết trong gang tấc. Những hạt mưa bắt đầu rơi. Sấm sét vẫn đì đùng trên đầu, sóng biển dâng lên rồi hụp xuống, nhưng chưa bao giờ chúng ta mừng khi gặp bão đến vậy. Những người sống sót, trong đó có ta, cố gắng bám vào những mảnh vỡ của con tàu, và đến sáng hôm sau, khi bão tan, chúng ta may mắn được một tàu bạn đi ngang qua cứu. Chúng ta gần như chết cóng, đói lả và kiệt sức, nhưng sống sót. Một nửa thủy thủ đoàn vẫn toàn mạng. Sau này, ta không mấy khi gặp lại các đồng đội năm đó. Đó là chuyến ra biển cuối cùng của ta. Ta sợ rằng Kraken vẫn ẩn khuất đâu đó dưới đáy biển tăm tối để chờ ta, tin ta đi, nó có thể chờ hàng trăm năm đấy!”
* * * * *
Bạn có biết: Kraken có thể có thật! Những người đánh cá đã từng bắt được các con bạch tuộc có chiều dài từ 18 đến 24 mét ở những vùng biển sâu thuộc Bắc Thái Bình Dương và Bắc Đại Tây Dương. Thậm chí nhiều con có kích thước tương đương một chiếc xe buýt loại nhỏ.
Xà vương Basilisk
• Chung loài: Quái thú
• Nơi sinh sông: Tây Âu
• Kha năng đạc biẹt: Đọc tô trên ngươi cưc mạnh, ngoài ra có thê hóa đá con môi chı băng mọt cái liêc măt
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★
C
ó một quả trứng rắn, chẳng biết bằng cách nào, lăn vào ổ của bầy gà. Không con gà mái nào chịu ấp quả trứng kì lạ đó, cuối cùng, chỉ có một con gà trống bảy tuổi chịu ấp. Có lẽ chính vì sự khác thường ấy mà quả trứng nở ra một con quái vật.
Càng lớn trông con quái vật càng khủng khiếp. Nó có cái đầu của gà trống, đuôi của rắn và thân hình của thằn lằn. Đôi cánh nó giống như một đôi cánh dơi khổng lồ, trải rộng và mọc những móng vuốt sắc lẻm. Người ta đặt tên cho nó là Basilisk.
Với vóc dáng to lớn và vẻ ngoài đáng sợ, Basilisk nhanh chóng trở thành mối đe dọa của những sinh vật hiền lành như lũ gà. Con quái vật không thèm ở với đám gà nữa mà tìm về với quê cha đất tổ – ổ của bầy rắn.
Basilisk chẳng hề giống những con rắn thông thường, cũng như chẳng có vẻ gì giống một con gà, nhưng điều đó không hề chi, Basilisk nhanh chóng chinh phục bầy rắn bằng sức mạnh đáng sợ của nó. Một con rắn nhìn cái mào trên đỉnh đầu của Basilisk và nói với chúng bạn: “Nhìn kìa, trên đầu ngài Basilisk có một cái vương miện đỏ chói. Ngài ấy sinh ra với số mệnh được làm vua rồi!” Vậy là lũ rắn nhao nhao hưởng ứng cái “số mệnh” đó, tôn vinh Basilisk làm vua của loài rắn. Có vị vua mới mạnh mẽ, lũ rắn
trở nên bạo dạn và sẵn sàng gây chiến với các giống vật khác trong rừng. Giờ bọn chúng chẳng sợ loài mãnh thú nào nữa. Kể cả gấu xám hay chó sói cũng bị Basilisk đánh bại. Basilisk chẳng phải vất vả gì nhiều, bởi trên người nó có sẵn một loại chất kịch độc, bất kể sinh vật sống nào chạm vào đều lăn ra chết ngay tức khắc.
Danh tiếng về nỗi sợ hãi mà Basilisk gây ra chẳng mấy chốc vượt ra ngoài phạm vi khu rừng. Một hiệp sĩ dũng cảm tình nguyện vào rừng tiêu diệt con quái vật. Biết trước về chất độc chết người của Basilisk, chàng trang bị một bộ giáp sắt che kín từ đầu đến chân, thêm một cây giáo thật dài để có thể tấn công con quái vật từ xa. Chàng hiệp sĩ cảm thấy vô cùng tự tin, phóng ngựa đến hang ổ của Basilisk. Thấy Basilisk đang nằm ngủ, chàng thúc ngựa lao đến, chĩa mũi giáo về phía trước, đâm vào con quái vật. Thế nhưng, mọi chuyện tồi tệ hơn chàng hiệp sĩ nghĩ. Basilisk không hề hấn gì, hơn nữa, chất độc trên thân mình nó còn truyền qua ngọn giáo, thấm qua cả lớp giáp sắt dày của chàng hiệp sĩ, giết chết chàng ta, đồng thời, cả con ngựa mà chàng cưỡi cũng chịu chung số phận. Chất độc của Basilisk quả là thứ đáng sợ nhất trần đời!
Hồi Basilisk còn nhỏ, khi mà chất độc của nó còn chưa hình thành, Basilisk đã vượt trội về vóc dáng kì quái và có sức mạnh hơn hẳn các sinh vật khác. Một đêm nọ, nó trở về, toàn thân dính đầy máu của loài vật, trên mặt lộ vẻ hả hê. Thì ra, nó vừa đánh bại cả một đàn sói.
“Basilisk nhỏ bé,” con gà trống than, “sao lúc nào con cũng hung dữ và tàn ác như vậy? Con gây chiến với tất cả các loài. Chẳng lẽ con không biết sợ sao?”
“Số mệnh đã định con sẽ trở thành vua của muôn loài, là mãnh thú vô địch. Chẳng kẻ nào có thể đánh nhau với con mà toàn mạng.” Basilisk ngáp
dài, chui vào ổ của nó để ngủ. “Nhưng vì cha đã hỏi, con sẽ kể cho cha một bí mật. Chỉ có loài chồn hương mới là thiên địch của con thôi.”
Nói rồi, con quái vật khép mi mắt, chìm sâu vào giấc ngủ.
Nhờ thông tin con gà già cung cấp, lũ gà trẻ vội vã đi tìm một con chồn hương. Tiếc thay, loài này đã chuyển khỏi khu rừng từ nhiều năm trước, chẳng còn một mống. Đang buồn bã âu sầu, bỗng một con gà nhớ ra bà nội nó từng chơi thân với một ông chồn - ông chồn duy nhất còn sót lại ở khu rừng này. Hồi nhỏ, chính nó từng đi cùng bà đến chơi nhà ông. Lần theo trí nhớ, con gà tìm lại được hang của ông chồn. Ông chồn đang ngủ. Đã nhiều năm nay, ông chồn không ra khỏi hang. Ông chẳng quan tâm đến những chuyện đang diễn ra bên ngoài, cũng bỏ luôn thói quen săn mồi.
Con gà lay ông chồn già dậy, kể cho ông mối nguy từ Basilisk và cầu xin ông ra tay giúp khu rừng. Gà phải kể những ba lần ông chồn mới nghe thủng câu chuyện. Sự nhiệt tình thời tuổi trẻ bỗng bừng lên trong ông, và ông quyết định quyết chiến với con quái vật.
Những giác quan nhạy bén của một con thú chuyên săn rắn dường như chưa từng rời bỏ ông chồn già. Mắt ông nhìn rõ mọi thứ, mũi ông thì liên tục tiếp nhận và phân loại hàng trăm mùi hỗn độn. Chẳng mấy chốc ông chồn đã lần được đến tổ của Basilisk. Con quái vật nhìn thấy địch thủ trước mặt thì có phần hoảng hốt, nó dùng ánh mắt chết người để hóa đá ông chồn nhưng vô dụng. Cả hai lao vào đánh nhau bằng móng vuốt, răng và mỏ. Basilisk to lớn gấp chục lần ông chồn, nhưng ông chồn lại khéo léo, nhanh nhẹn, biết tấn công vào những điểm yếu của con quái vật. Tuy vậy, do tuổi cao sức cạn, ông lãnh vô số vết thương, sợ rằng không cầm cự được lâu. Đang lúc nguy cấp, con gà trống trẻ tuổi đã kể ở trên vẫn núp trong bụi quan sát trận đấu nãy giờ bỗng nhảy ra gáy to một tiếng. Mặc dù nó còn trẻ,
tiếng gáy chưa đủ nội lực, nhưng cũng đủ khiến Basilisk giật mình, bỏ trận, chạy một mạch. Giữa rừng vốn có một cái hồ nước, nhỏ thôi, nhưng mặt hồ phẳng lì như gương. Basilisk chạy đến đây thì hết đường. Nó vô tình nhìn xuống mặt nước, thấy gương mặt đáng sợ của mình phản chiếu dưới đó và không khỏi kinh hãi. Thừa lúc ấy, ông chồn già từ đâu nhảy đến, cắn ngập bộ răng vào cổ Basilisk. Con quái vật hét lên một tiếng ghê rợn rung động cả cánh rừng rồi lăn ra chết.
Ông chồn già kiệt sức sau trận chiến, hoặc cũng có thể đã ngấm quá nhiều độc của Basilisk, trút hơi thở cuối cùng bên xác con quái vật. Cả khu rừng thương tiếc chôn cất ông chồn hương dũng cảm. Không còn Basilisk, lũ rắn chẳng thể tác oai tác quái, các loài vật lại sống cuộc sống thanh bình và an toàn như trước. Tuy nhiên, huyền thoại về con quái vật Basilisk vẫn thường được lũ thú vật và con người đem ra kể cho nhau nghe trong những đêm mưa gió rùng rợn.
* * * * *
Bạn có biết: Người ta rất dễ nhầm lẫn Basilisk với một loại quái vật khác là Cockatrice bởi hình dáng tương tự và cùng có nọc độc chết người. Điểm khác biệt là Basilisk được sinh ra từ quả trứng rắn (hoặc cóc) được ấp bởi một con gà. Cockatrice thì ngược lại, được sinh ra từ một quả trứng gà ấp bởi một con rắn (hoặc cóc). Thực ra việc phân biệt hai con quái vật này cũng không quá quan trọng, vì dù gặp con nào thì lựa chọn tốt nhất của chúng ta vẫn là chạy càng xa càng tốt.
Tiên nữ Selkie
• Chung loài: Yêu tinh
• Nơi sinh sông: Bơ biên Ireland, Scotland
• Kha năng đạc biẹt: Sông đươc dươi nươc nhơ biên hình thành hai câu, khi lên bơ có thê ơ hình dạng con ngươi
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★
N
gày xưa, ở một làng chài nhỏ ven biển Ireland, có chàng đánh cá tên Goll. Một lần, Goll quăng lưới và bắt được một con cá ngừ. Chàng nhìn con cá nhỏ bé, còi cọc, bèn thở dài: “Quăng lưới cả sáng mà chỉ được có nhõn một con cá. Nhưng thôi, cũng đủ no bụng bữa nay.”
Con cá ngừ, chẳng hiểu bằng cách nào, bỗng cất tiếng van xin: “Chàng trai trẻ, hãy thả ta đi, ta sẽ tặng anh một viên ngọc trai quý giá. Anh đem bán đi là có cuộc sống sung túc, chẳng cần phải đi đánh cá.”
Goll ngẫm nghĩ những lời con cá ngừ nói rồi trả lời: “Ta chẳng cần nhiều tiền bạc làm gì, với ta, được ra biển đánh cá là niềm vui. Nhưng cuộc sống của ta cô đơn quá, nếu ngươi hứa giúp ta có một người vợ xinh đẹp, ta sẽ thả ngươi ra.”
Không còn cách nào khác, con cá đành hứa với Goll.
Sau khi được thả xuống nước, con cá dặn chàng: “Đêm nay, khi trăng lên, anh hãy ra bãi đá ven biển. Nhớ nấp thật kĩ. Anh sẽ nhìn thấy những con hải cẩu lên bờ tắm ánh trăng, anh hãy đợi chúng cởi bỏ lớp da hải cẩu bên ngoài và biến thành các thiếu nữ xinh đẹp. Anh không phải lo sợ gì, đó là những nàng Selkie - tiên nữ của biển cả. Ta xin mách cho anh một bí mật: chỉ cần anh giấu đi một bộ đa hải cấu, thiếu bộ da đó, sẽ có một nàng tiên nữ không thể trở về lòng biển.”
Những gì con cá nói thật khó tin, nhưng Goll vẫn đánh liều, thử vận may xem sao. Vậy là chàng đợi đến đêm, chạy ra nấp sẵn ở bãi đá như cá đã dặn. Trăng lên cao, đúng như lời cá ngừ, một lũ hải cẩu từ dưới biển bò lên bờ. Chúng cởi bỏ lớp da như người ta cởi áo khoác, biến thành những cô gái vô cùng xinh đẹp. Nàng nào cũng trẻ trung, tươi tắn, không khỏi khiến Goll say mê. Nhớ lời dặn của con cá, Goll kiên nhẫn đợi các nàng tắm trăng xong, rủ nhau nhảy xuống biển nghịch nước, nô đùa, lúc đó mới chạy nhanh ra, nhặt lấy một bộ da hải cẩu và tót về nhà, giấu kĩ bộ da vào trong hòm. Khi Goll quay lại, các nàng Selkie đã chạy hết về biển, chỉ còn một nàng trẻ nhất vẫn ngồi lại trên bờ.
Nàng chính là chủ nhân của bộ da hải cẩu mà Goll đánh cắp. Tên nàng là Erin. Không có bộ da, nàng không thể quay về biển, đành chấp thuận ở lại làm vợ Goll.
Thấm thoắt bảy năm trôi qua. Nàng Erin sinh cho Goll một bé trai và một bé gái vô cùng xinh xắn, đáng yêu. Nhờ năng lực đặc biệt của mình, Erin chỉ cho Goll biết chỗ nào đánh được nhiều cá, nên cuộc sống của họ nay sung túc, đủ đầy và luôn tràn ngập tiếng cười. Chỉ duy nhất có một điều khiến Erin buồn bã: nàng chưa lúc nào nguôi nỗi nhớ nhà. Nàng vốn thuộc về biển cả và không thể cưỡng lại tiếng gọi của bản năng. Các Selkie chỉ có thể ở trên đất liền liên tục trong bảy năm, quá thời hạn đó, cơ thể họ sẽ không thể chịu được. Nhìn Erin ngày một ốm yếu và xanh xao, Goll cảm thấy hối hận. Chàng tự trách mình ích kỉ, đã đánh cắp bộ da của Erin, khiến nàng không thể trở về quê nhà. Vậy là Goll quyết định nói sự thật với Erin và đem trả cho vợ bộ da hải cẩu. Ba cha con tiễn Erin ra biển. Họ tạm biệt nhau trong nước mắt. Erin ôm hôn chồng con lần cuối rồi khoác lên mình tấm áo da hải cẩu, bơi ra biển.
Cứ mỗi tháng một lần, vào ngày trăng sáng nhất, người dân trong làng thấy ba cha con chàng Goll dắt nhau ra bờ biển. Họ ở lại trên bãi đá cả đêm, nô đùa với một con hải cẩu. Có người còn cả quyết rằng đã nhìn thấy con hải cẩu cởi bỏ lớp da và biến thành nàng Erin. Những lời đồn thổi như vậy thường không ai biết chính xác, có lẽ chỉ ba cha con chàng Goll là rõ nhất.
* * * * *
Bạn có biết: Nhiều truyền thuyết kể rằng Selkie không chỉ có nữ giới! Rất nhiều Selkie sau khi cởi bỏ lớp da hải cẩu thì biến thành những chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Những người phụ nữ khi quá nhớ thương chàng Selkie của mình có thể nhỏ bảy giọt nước mắt xuống biển, chàng sẽ xuất hiện trong chốc lát. Chỉ trong chốc lát mà thôi!
Thủy quái Kelpie
• Chung loài: Quái vạt
• Nơi sinh sông: Scotland
• Kha năng đạc biẹt: Biêt tạo ra lơi nguyên, mưu mô xao quyẹt, dùng năng lưc biên hình đê đánh lưa và dân dụ con môi xuông nươc
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★
S
cotland, những đứa trẻ thường được bố mẹ căn dặn không nên chơi gần sông hồ. Chẳng phải vì họ sợ lũ trẻ không biết bơi, mà bởi nỗi ám ảnh về một con thủy quái tên là Kelpie.
Nếu bạn không phải là trẻ con và đang đọc những dòng chữ này thì đừng vội mừng, bởi ngay đến người trưởng thành cũng không dễ dàng thoát khỏi con quái vật tinh khôn và nhiều ma thuật nhường ấy.
Kelpie có khả năng biến thành rất nhiều hình dạng khác nhau, nhiều đến nỗi chẳng ai nhớ được hình dạng thật của nó. Với mỗi hình dạng, nó toan tính âm mưu phù hợp nhằm lừa con người lại gần để kéo họ xuống nước, dìm chết và ăn thịt.
Một trong những lốt biến hình yêu thích của Kelpie là một con ngựa xinh đẹp. Chuyện kể rằng, có mười đứa trẻ ở một làng nọ rủ nhau đi chơi, mặc dù đã được cha mẹ dặn dò kĩ càng rằng phải tránh xa sông hồ, chúng nhanh chóng lãng quên lời căn dặn, chạy chơi đến tận bờ con sông lớn. Từ dưới nước, một con ngựa đen có đôi mắt màu bạc từ từ nổi lên. Nó khoan thai bước lên bờ, rũ sạch bộ bờm mượt như nhung. Nó đẹp quá! Quả là một con ngựa cao lớn và oai vệ. Lũ trẻ xuýt xoa, trầm trồ, tranh nhau vuốt ve
con ngựa lạ lùng và đẹp đẽ, không đứa nào không muốn được cưỡi thử sinh vật này. Và kì lạ thay, cứ mỗi một đứa trẻ trèo lên, cái lưng con ngựa lại dài ra thêm một chút, cho đến khi nó có thể cõng được tận chín đứa trẻ.
“Thôi nào Bran, hãy trèo nốt lên lưng ngựa đi, chúng tớ tin rằng nó đủ chỗ cho cả cậu. Rồi chúng ta có thể cưỡi nó về làng!” Chín đứa trẻ đang ngồi trên lưng con Kelpie thi nhau gọi đứa trẻ thứ mười trèo lên.
Bran – đứa thứ mười - cũng đã định làm theo, nhưng lờ mờ trong tâm trí, nó còn nhớ lời căn dặn của mẹ: “Đừng ra chơi ở bờ sông!”, “Đừng lại gần những con vật lạ từ dưới nước đi lên!”
Vậy là Bran chỉ đứng dưới đất, đưa tay vuốt ve cái mũi ẩm ướt của con ngựa chứ không dám trèo lên lưng nó. Nhưng lạ chưa, Bran không thể rút tay về. Ngón tay cậu bé dường như bị dính chặt vào da thịt con ngựa. Nói đúng hơn, làn da của con ngựa dường như được phủ một lớp keo rất dày, cả chín đứa trẻ cưỡi trên lưng ngựa cũng bị dính chặt, không thể trèo xuống. Con ngựa đã lừa lũ trẻ! Nước da màu đen bóng của con ngựa bỗng chuyển sang màu xanh nhợt nhạt, chiếc bờm mượt mà hóa ra lớp rong rêu nhớp nháp, chỉ có đôi mắt là vẫn màu bạc, ánh lên những tia nhìn lạnh lẽo. Con quái vật cố kéo những đứa trẻ xuống sông. Không còn cách nào khác, Bran đành rút con dao nhỏ vẫn đeo bên hông, cắt đứt ngón tay để thoát được khỏi con quái vật. Thế nhưng chín đứa bạn của Bran thì không may mắn như vậy, chúng bị dính chặt trên lưng Kelpie. Con quái vật lặn sâu xuống lòng sông, kéo theo cả chín đứa trẻ mà chắc chắn rằng sẽ bị dìm chết và bị ăn thịt từng đứa một.
Một câu chuyện khác thì kể về tay địa chủ khôn ngoan tên là Conn. Hắn ta muốn xây một căn nhà lớn trên đỉnh đồi nhưng lại tiếc tiền thuê nhân công và ngựa kéo các khối đá lên dốc. Conn biết rằng một con Kelpie khỏe bằng hàng chục đàn ngựa, vì vậy hắn lập kế hoạch bắt Kelpie phải làm việc không công cho mình. Conn ra bờ sông nơi người ta đồn rằng Kelpie thường xuất hiện, núp trong một bụi cây và chờ đợi. Khi hoàng hôn buông, mặt sông phẳng lặng bỗng xao động, một con ngựa cao lớn, đẹp đẽ, đeo một bộ yên cương bằng bạc nạm ngọc vô cùng tinh xảo xuất hiện. Đó chính là Kelpie. Con thủy quái tản bộ thong dong dọc bờ sông và dừng lại thưởng thức những đám cỏ non ngon lành. Chớp thời cơ đó, Conn nhẹ nhàng tiến đến từ đằng sau, dùng dao cắt lấy bộ yên cương quý giá của Kelpie và mang thẳng về nhà. Mất bộ yên cương, Kelpie không thể trở xuống nước được nữa. Nó đuổi theo Conn, nhưng chạy trên bờ rõ ràng không phải thế mạnh
của con thủy quái. Conn tinh quái đóng chặt cửa nhà, trèo lên tầng trên, thò cổ ra cửa sổ và nói với Kelpie:
“Này quái vật, ta biết bộ yên cương này rất quý với mày. Nếu mày chịu khó kéo giúp ta đống đá nặng lên ngọn đồi đằng kia để ta xây nhà, ta sẽ trả lại bộ yên cương cho mày.”
Kelpie không còn cách nào khác ngoài chấp thuận. Nhờ có sức khỏe, một mình nó kéo hết các khối đá lên đồi, Conn chẳng mất một đồng tiền công nào mà công việc lại tiến triển rất nhanh. Chẳng mấy chốc, những khối đá được kéo lên hết, nhưng Kelpie từ một con ngựa to lớn đẹp đẽ nay chỉ còn da bọc xương bởi phải làm việc cật lực. Giữ lời hứa, Conn trả lại bộ yên cương cho Kelpie. Kelpie vội vã chạy lại bờ sông, nó quay đầu, nhìn Conn với ánh mắt thù hận và tuôn ra những lời nguyền rủa độc địa trước khi nhảy tùm xuống nước, tạo ra những âm thanh ầm ầm như sấm rền. Chỉ một thời gian sau, những lời nguyền rủa của Kelpie trở thành sự thực, Conn ốm nặng rồi qua đời, còn căn nhà to lớn bằng đá trên đỉnh đồi của hắn sụp đổ trong một trận mưa bão. Bạn thấy đấy, bài học rút ra ở đây là: đừng cố lợi dụng và làm phiền những con quái vật.
* * * * *
Bạn có biết: Có một câu chuyện khác kể rằng một con Kelpie đã biến thành một chàng trai và đem lòng yêu cô thôn nữ nọ. Khi cô thôn nữ vô tình tháo chiếc vòng bạc trên cổ người tình, anh ta hiện nguyên hình là con Kelpie. Kelpie tình nguyện ở lại trang trại nhà cô để làm việc chăm chỉ trong một năm. Cô thôn nữ đồng ý trả lại chiếc vòng cổ, Kelpie trở về hình dạng con người, và hai người quyết định kết hôn. Như vậy, nếu ta thật lòng yêu thương và biết làm việc chăm chỉ, thì cho dù là quái vật, ta vẫn có thể hạnh phúc mãi mãi về sau.
Gã khổng lồ Grendel
• Chung loài: Quái nhân
• Nơi sinh sông: Thụy Điên
• Kha năng đạc biẹt: Nhơ vóc dáng không lô và nhưng cơ băp răn chăc, Grendel có thê dê dàng nghiên nát ca mọt đọi quân băng tay không
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★
N
gày xưa, ở vương quốc Thụy Điển, có vị vua tên là Hrothgar nổi tiếng là một anh hùng thời chiến và là một con người hào sảng, nhân nghĩa. Vua Hrothgar xây dựng trong cung điện của mình một sảnh đường lớn gọi là Heorot. Khắp bốn phương, người ta bàn tán về sảnh đường Heorot của vua Hrothgar không ngớt. Những chiến binh dũng cảm, các nhà hiền triết, thân vương quý tộc hay lữ khách mệt mỏi sau hành trình dài... tất thảy đều được chào đón trong sảnh đường của nhà vua với rượu thịt và âm nhạc cả ngày lẫn đêm không dứt. Mọi người vui vẻ tiệc tùng, nâng cao ly rượu, hát vang những khúc ca chúc sức khỏe đức vua Hrothgar cũng như ca ngợi sự hào phóng của ông.
Thế nhưng không phải tất cả mọi người đều yêu quý đức vua. Sâu trong các cánh rừng u tối bên cạnh cung điện là nơi cư ngụ của con quái vật Grendel. Chẳng sách vở nào có thể mô tả đầy đủ và chi tiết về Grendel, bởi những người nhìn thấy hắn đều đã bị hắn ăn thịt, hoặc nếu không thì cũng sợ chết khiếp rồi. Người ta chỉ biết rằng Grendel có vóc dáng cao lớn, sừng sững như một quả đồi. Hắn cực kì ghét âm nhạc và những tiếng cười nói vui vẻ. Sự im lìm chết chóc hay tiếng la hét sợ hãi mới là âm thanh yêu thích của con quái vật. Ấy thế nhưng từ khi vua Hrothgar xây dựng sảnh
đường Heorot, Grendel ngày nào cũng phải nghe tiếng ca hát nhảy múa, tiếng reo hò chúc tụng từ cung điện vọng tới. Hắn cảm thấy ghen tức khi mọi người có thể vui vẻ, hạnh phúc như vậy. Và thế là Grendel quyết định phá đám cuộc vui.
Một đêm nọ, hắn đạp đổ tường thành, phá tung cánh cửa sảnh đường, xông vào bữa tiệc và hất đổ mọi thứ. Grendel tóm lấy những người dự tiệc và nuốt chửng họ. Quân lính của đức vua chẳng thể làm gì con quái vật to lớn, hơn nữa, da thịt của hắn dường như cứng hơn cả sắt thép, chẳng đao kiếm nào xuyên thủng. Thế rồi, đêm sau, con quái vật lại đến, đêm sau, rồi
đêm sau nữa... thấm thoắt mười hai năm liên tiếp Grendel đến cung điện hằng đêm để đập phá và bắt người ăn thịt. Sảnh đường Heorot vui tươi, đầy ắp tiếng cười nói giờ hoang tàn và lạnh lẽo. Chẳng vị khách nào dám ở lại trong cung điện của vua Hrothgar nữa. Đức vua cho vời không ít chiến binh tài giỏi đến để tiêu diệt Grendel nhưng tất cả đều thất bại và bị con quái vật ăn thịt.
Đến một ngày, có một con thuyền từ vùng biển phía Nam cập bến bờ Thụy Điển. Những người trên thuyền xin yết kiến đức vua Hrothgar. Người đứng đầu đoàn thủy thủ tự xưng là Beowulf và giới thiệu rằng họ là những chiến binh quả cảm tới từ vùng Geats ở phương Nam, hay tin đức vua bị Grendel quấy nhiễu nên tình nguyện đến tiêu diệt quái vật.
Đức vua Hrothgar mở tiệc khoản đãi đoàn người. Họ ăn uống no say mà chẳng hề lo sợ gì về thử thách sắp tới. Cho đến gần nửa đêm Beowulf mới dừng bữa tiệc. Ông ra lệnh tắt hết đèn nến, bố trí các chiến binh giả vờ nằm ngủ la liệt trên sàn, người nào cũng giấu sẵn vũ khí trong người. Như mọi khi, nửa đêm, Grendel xuất hiện. Tên quái vật có chút bất ngờ vì lâu lắm rồi mới lại thấy sảnh đường của nhà vua có nhiều người như vậy. Chắc mẩm sẽ được một bữa no nê, hắn quơ tay tóm lấy người nằm gần nhất, ngờ đâu đó chính là Beowulf. Ông dễ dàng thoát khỏi bàn tay của Grendel. Theo hiệu lệnh, các chiến binh khác nhất tề vùng dậy, bao vây con quái vật. Một cuộc chiến ác liệt diễn ra trong sảnh đường. Nhiều chiến binh đã bỏ mạng. Beowulf nhanh chóng nhận ra rằng da thịt Grendel không thể bị xâm phạm bởi đao kiếm, vì vậy ông quyết định dùng sức khỏe hơn người của mình, đánh tay không với tên quái vật. Grendel tuy to lớn và hung dữ nhưng đứng trước một Beowulf bình tĩnh, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, hắn chịu, không thể đánh bại con mồi. Cuối cùng, bằng một động tác bài bản, Beowulf khóa chặt tay Grendel và bẻ gãy cánh tay tên quái vật.
Đau đớn là một cảm giác hoàn toàn mới lạ đối với Grendel. Do cơ thể rắn chắc không vũ khí nào có thể đâm thủng, nhiều năm nay Grendel chưa từng biết đến cảm giác đau. Giờ đây, khi bị đánh bại bởi chiến binh Beowulf, tên quái vật sợ hãi bỏ chạy. Hắn chạy thật nhanh về hang ổ tăm tối ở sâu trong rừng và không bao giờ dám trở lại quấy phá vương quốc nữa. Người ta nói rằng Grendel đã chết trong một đầm lầy vì vết thương quá nặng.
Thế là sảnh đường của đức vua Hrothgar, sau mười hai năm im lìm chết chóc, lại tưng bừng ánh lửa ánh nến, mọi người lại tụ tập vui vẻ, nâng cao ly rượu, hát vang những bài ca chúc mừng đức vua, ca ngợi lòng dũng cảm của người anh hùng Beowulf và các chiến binh. Vua Hrothgar ban thưởng xứng đáng cho đoàn người của Beowulf vì chiến công này.
* * * * *
Bạn có biết: Không chỉ có một con Grendel đâu. Theo truyền thuyết, cứ năm trăm năm, một mụ phù thủy sẽ sinh ra một con Grendel. Với sức mạnh của mình, nó được tôn sùng là nhà vô địch của tất cả các loài quái vật - một nhà vô địch khó tính và không thích ồn ào.
Quỷ khổng lồ Troll
• Chung loài: Quái nhân
• Nơi sinh sông: Băc Âu (thương rình rạp ơ nhưng cây câu, đương cái) • Kha năng đạc biẹt: Vóc dáng to cao, khoe mạnh (nhưng hơi ngôc nghêch) • Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★
T
roll là tên gọi một giống quỷ khổng lồ trong thần thoại Bắc Âu. Chúng là những sinh vật thô kệch, cao lớn, sống chủ yếu trong các cánh rừng và vùng núi. Với vóc dáng to lớn . hơn người thường và bản tính hung bạo, lũ Troll thực sự nguy hiểm đối với những người lỡ bắt gặp chúng. Thế nhưng, tuy to lớn, khỏe mạnh, lũ Troll khá ngu ngốc và tham lam, hai điểm yếu thường sẽ làm hại chúng, như câu chuyện tôi chuẩn bị kể dưới đây:
Ở một vùng nọ, có một cây cầu đá chẳng biết do ai xây bắc qua con sông lớn. Đây từng là tuyến đường độc đạo giúp người dân trong vùng buôn bán, trao đổi với vùng khác. Độ vài năm gần đây, chẳng còn ai dám đi qua cây cầu này nữa, bởi bỗng từ đâu xuất hiện một con Troll đến cư ngụ dưới gầm cầu và tự nhận cây cầu là do nó xây. Mỗi khi có ai định qua cầu, nó chặn đường và đòi tiền phí. Nếu ai không có tiền, con Troll sẽ ăn thịt người đó. Chính vì vậy, mọi người thường tránh đi qua cầu. Con Troll lâm vào cảnh đói khát.
Một ngày, có chú dê con tên là Billy định bụng băng qua cây cầu để đến vùng cỏ non bên kia sông. A lê hấp! Con Troll lập tức nhảy ra chặn đường Billy. Nó hít hà mùi da thịt thơm ngon của chú dê non, miệng ứa nước dãi.
“Hà hà, đã nhiều ngày nay ta không có gì bỏ bụng. Lũ người sợ chết không còn dám đi qua cây cầu này nữa. Không ngờ hôm nay lại vớ được một con dê con, hơi nhỏ, nhưng cũng đủ một bữa, hà hà...” Con Troll cười khoái trá, nghĩ không biết nên nuốt chửng hay ăn dè con mồi này.
Billy nhìn thấy con Troll to lớn thì sợ lắm, chân cẳng run bần bật, đứng không vững. Nhưng chú dê bỗng nhớ lời dặn của cha và anh trai. Vậy là, lấy hết can đảm, Billy nói:
“Ông Troll ơi, xin ông đừng ăn tôi, ông xem này, người tôi bé không khác hạt lạc là mấy, lại chỉ toàn da bọc xương, ông ăn tôi chẳng bõ dính răng. Xin ông cho phép tôi được qua bên kia sông ăn cỏ. Ăn no rồi, tôi sẽ béo lên, lúc quay về xin mời ông xơi.”
“Hừ, ta đang đói bụng đây, đợi mi ăn no mới quay về thì ta chết đói à?”
“Ông Troll, xin hãy nghe tôi này,” Billy van nài, “ông chẳng nhất thiết phải ăn thịt tôi làm gì. Đi ngay đằng sau tôi là anh trai tôi. Anh tôi đã đến tuổi thiếu niên, da thịt hồng hào, béo tốt hơn tôi nhiều lắm. Chỉ một lát nữa là anh tôi sẽ đi đến đây, lúc đó ông ăn thịt anh tôi có phải là no bụng hơn không nào?”
Con Troll tuy đang đói cồn ruột nhưng nghe nói đến một chú dê béo hơn thì nổi lòng tham. Nó gật gù để cho Billy đi qua, ngồi đợi anh trai chú dê.
Quả nhiên, chỉ một lúc sau, có chú dê khác tung tẩy bước đến. Đúng như lời Billy, anh trai của chú cao lớn và chắc thịt hơn. Con Troll ngay lập tức lao đến túm lấy dê anh.
“Ôi, ông Troll oai vệ! Xin ông đừng ăn thịt tôi làm gì!” Dê anh thảng thốt. “Nhìn tôi to béo thế này thôi nhưng thịt nhão và đầy mỡ, ăn chẳng ngon miệng đâu. Xin ông tha cho tôi. Đi ngay đằng sau tôi là cha tôi. Cha tôi đang ở độ tuổi mạnh khỏe, cả người đầy cơ, da thịt săn chắc, chắc chắn sẽ ngon miệng hơn là tôi.”
Con Troll tham ăn đói gần lả, nhưng nghe đến một con dê mạnh khỏe và săn chắc hơn thì bỏ ngay ý định ăn thịt chú dê béo. Con quái vật ngu ngốc không hề biết rằng chính dê cha đã dạy cho hai chú dê con nói những lời trên để thoát khỏi nguy hiểm.
Quả nhiên, chỉ một lúc sau, dê cha thong thả bước đến. Con Troll vội nhảy ra chặn đường, nhưng mọi thứ trái với tưởng tượng của nó. Dê cha không hề run sợ trước con Troll bởi dê cha là chú dê to lớn, khỏe mạnh nhất vùng, cặp sừng to lớn uy nghi mọc trước trán. Dê cha từng đánh bật nhiều loài thú dữ.
“Tên Troll ngu ngốc tham ăn, ngươi đừng tưởng có thể dễ dàng ăn thịt được ta!” Dê cha quát lên sang sảng, cúi đầu, chúi cặp sừng lớn của mình về phía con quái vật và lao tới nhanh như chớp.
Không biết dê cha thực sự dũng mãnh hay vì con Troll đã quá đói và kiệt sức mà chỉ một cú húc của dê, Troll ngã nhào khỏi thành cầu, rơi xuống con sông chảy xiết và bị dòng nước cuốn đi đâu mất. Dê cha đoàn tụ với hai chú dê con ở bãi cỏ bên kia bờ. Từ đó, chẳng ai còn thấy con Troll xuất hiện nữa, mọi người qua lại cây cầu tấp nập như xưa.
* * * * *
Bạn có biết: Nhiều người cho rằng lũ Troll rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi nếu gặp ánh sáng, cơ thể chúng sẽ hóa đá. Vậy nên nhỡ có bị một con Troll truy đuổi, bạn hãy cố cầm cự đến sáng nhé.
Hồn ma Jack O’lantern
• Chung loài: Linh hôn
• Nơi sinh sông: Anh Quôc
• Kha năng đạc biẹt: Là chuyên gia trong lıñ h vưc nói dôi và lưa đao • Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★
N
gày 31 tháng Mười là ngày lễ Halloween trong phong tục của nhiều nước phương Tây. Trong ngày này, lũ trẻ thường hóa trang thành yêu ma quái vật để đi xin kẹo các nhà, còn người lớn thì trang trí nhà cửa, vườn tược bằng những quả bí ngô khoét hình mặt người. Vậy, bạn có biết tại sao những quả bí ngô đó xuất hiện vào dịp Halloween không?
Câu chuyện của chúng ta bắt đầu từ một ngày xửa ngày xưa rất lâu về trước ở đất nước Ireland, nơi nổi tiếng với những lâu đài cổ đầy bóng ma cư ngụ. Nhưng đừng sợ, câu chuyện tôi sắp kể đây chẳng liên quan gì đến những bóng ma đâu! Đó là câu chuyện về anh chàng Jack láu cá.
Jack là một gã trai bình thường sống tại một ngôi làng nhỏ chẳng có gì đặc biệt. Thế nhưng ở trong làng, Jack nổi tiếng là kẻ khôn ngoan và rất hay lừa lọc. Những trò chơi khăm của Jack ừ thì vui thật đấy, nhưng cũng khiến cho dân làng già trẻ lớn bé, đến ngay cả những người thân trong gia đình Jack, phải bực bội, khó chịu.
Một tối nọ, khi Jack đang ngồi cà kê tại quán rượu thì quỷ sứ bỗng xuất hiện. Bạn sẽ tự hỏi: “Quỷ sứ trông như thế nào?” Không, không phải là con quỷ với nước da đỏ như máu, một cặp sừng lớn trên đầu và những chiếc răng nhọn đâu. Quỷ sứ xuất hiện trong quán rượu với hình dạng một người đàn ông bình thường. Thế nhưng đôi mắt lạnh lẽo như nước trong hồ băng và nước da xám xịt như bầu trời trong cơn bão của quỷ sứ toát ra vẻ đáng sợ khiến không kẻ nào dám lại gần. Sự xuất hiện của hắn làm bầu không khí trong quán rượu trở nên nặng nề, khó chịu.
Quỷ sứ lại gần Jack và nói với cậu chàng: “Này Jack, ngươi sống trên đời như thế này là quá đủ rồi, những trò chơi khăm vớ vẩn của ngươi đã quá
đà rồi. Giờ thì ngươi phải xuống địa ngục với ta!”
Jack biết gã đàn ông đang đứng trước mặt mình chính là quỷ sứ nhưng không hề tỏ ra sợ hãi, cậu chàng bình thản nói: “Này ngài quỷ. Tôi biết tỏng là ngài rồi! Nhưng nào, bạn tôi ơi, trước khi chúng ta đi, ít nhất hãy ngồi xuống đây và cùng uống vài cốc rượu với tôi đã chứ! Chúng ta chẳng vội, phải không?”
Quỷ sứ thấy cũng có lí. Hắn nghĩ: “Hừ, ngươi tưởng rằng có thể chuốc ta say để bỏ trốn ư? Chẳng ai có thể làm quỷ sứ say, và cũng chẳng ai chạy trốn được quỷ sứ cả!”
Nghĩ vậy, con quỷ ngồi xuống uống rượu với Jack. Cả hai uống hết cốc này đến cốc khác, cho đến tận nửa đêm, số cốc rượu đã xếp cao quá đầu người.
“Này ông bạn,” Jack vỗ vai con quỷ, tỏ vẻ vô cùng thân thiết, “thú thực với ông là tôi định chuốc cho ông say rượu để bỏ trốn, nhưng xem ra tôi đã thất bại. Tôi chấp thuận đi theo ông về địa ngục... ngặt nỗi... chà chà.”
“Làm sao? Ngươi đang băn khoăn chuyện gì hả Jack?”
“Tôi rất muốn mời ông chầu rượu hôm nay, nhưng khổ, chúng ta uống quá nhiều, mà tôi không mang đủ tiền để trả cho chủ quán. Ông biết đấy, tôi có thể tạm biệt trần gian này với danh tiếng là kẻ hay lừa lọc, nhưng tuyệt nhiên tôi không muốn mang danh là kẻ quỵt tiền.”
“Ha ha,” quỷ sứ bật cười, “có khó gì, ta sẽ trả tiền bữa rượu này. Tiền vàng thì ta đâu thiếu!”
“Không không,” Jack xua tay, “nếu ông móc tiền của ông ra trả thì chẳng còn gì thú vị nữa. Sao chúng ta không cùng thực hiện một trò chơi
khăm cuối cùng trước khi tôi tạm biệt trần gian nhỉ? Ông hãy tự biến mình thành một đồng tiền vàng để tôi trả cho tay chủ quán. Sau khi lão cất ông vào tủ, ông hiện nguyên hình và chuồn đi, để xem mặt lão chủ quán sẽ thế nào khi sáng hôm sau thức dậy thấy đồng tiền vàng không cánh mà bay.”
Bạn nên biết lũ quỷ sứ có bản tính thích đánh lừa con người. Vì thế. khi nghe kế hoạch chơi khăm lão chủ quán rượu, quỷ sứ đồng tình ngay. Hắn đọc thần chú và... hô biến, trở thành một đồng tiền vàng nằm ngay ngắn trên bàn.
Thế nhưng Jack không đem đồng tiền vàng để trả cho chủ quán, vì cậu chàng mang đủ tiền rồi. Cậu lập tức cầm đồng tiền mà con quỷ biến hóa thành nhét vào trong túi áo, bên cạnh cây thánh giá bạc. Do sức mạnh của cây thánh giá, phép thuật của quỷ sứ bị vô hiệu hóa. Hắn không thể biến trở lại hình dạng cũ. Đến lúc này, quỷ sứ mới biết là mình bị Jack lừa. Hắn khẩn khoản van xin.
Jack nói: “Được rồi, ta sẽ thả ngươi ra, tuy nhiên, người phải thề với ta bằng lời thề danh dự rằng trong vòng mười năm tiếp theo sẽ không đến làm phiền ta nữa.”
“Ôi cậu Jack quý hóa, ta thề, ta thề bằng cả danh dự của loài quỷ sứ, trong vòng mười năm cậu sẽ không bị làm phiền, giờ thì hãy thả ta ra đi!”
Nếu có đức tính gì của loài quỷ sứ mà chúng ta chấp nhận được thì đó chính là việc giữ chữ tín. Quỷ sứ không bao giờ làm trái lời thề của chúng. Vì vậy, trong vòng mười năm kế tiếp, chàng Jack được sống vui khỏe, chẳng bị làm phiền lần nào.
Thế nhưng, thời gian thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc đã hết năm thứ mười. Quỷ sứ lại đến tìm Jack. “Lần này sẽ không có một giọt rượu nào
nữa!” Con quỷ tự hứa với lòng.
Hắn rình lúc Jack đang đi ngoài đường thì đột ngột xuất hiện.
“Thế nào, người bạn cũ?” Quỷ sứ cười thỏa mãn. “Ta đã thực hiện lời thề, không làm phiền ngươi trong mười năm. Giờ, đã hết hạn rồi, ngươi sẽ phải theo ta xuống địa ngục.”
Jack nghe thế thì buồn lắm. Anh chàng gật gù: “Vâng, thưa ngài quỷ. Tôi biết là đã đến lúc tôi phải đi với ngài rồi. Thế nhưng... tôi chỉ xin ngài một thỉnh cầu nho nhỏ là được ăn trái táo cuối cùng, coi như là cơ hội cuối cùng được nếm mùi vị đồ ăn của nhân gian.”
“Hừ, ta biết lấy đâu ra táo cho ngươi bây giờ?” Quỷ sứ sốt ruột.
“Táo ngay đây thôi. Ngay trên cái cây này.” Jack chỉ vào cây táo mà cậu đang đứng cạnh. “Cây này cao quá, táo thì mọc tít trên kia, tôi không trèo lên hái được. Nhưng ngài thì khác, với khả năng của ngài, chắc chắn ngài có thể hái táo giúp tôi, xin hãy giúp kẻ bất hạnh này được thỏa nguyện ước cuối cùng!”
“Hái táo hả? Cũng không hại gì. Chỉ cần mình không biến thành đồng tiền hay bất cứ đồ vật nào nữa là được. Nó sẽ không lừa được mình nữa đâu.” Nghĩ vậy, quỷ sứ chấp thuận lời thỉnh cầu của Jack. Hắn chẳng mất mấy công sức để trèo lên ngọn cây. Chỉ đợi có thế, ở bên dưới, Jack nhanh nhẹn khắc một hình thánh giá lên thân cây. Điều đó khiến phép thuật của quỷ sứ bị vô hiệu hóa, và hắn không thể trèo xuống được.
“Này quỷ sứ, nếu ngươi thề không làm phiền ta trong vòng mười năm nữa, ta sẽ xóa hình thánh giá này đi và để ngươi xuống!” Jack nói vọng lên với quỷ sứ.
Vậy là một lần nữa quỷ sứ mắc lừa Jack. Hắn đành chấp nhận thỏa thuận. Trong mười năm tiếp theo, Jack không hề bị quỷ sứ làm phiền. Cậu chàng được thỏa sức chọc phá dân làng mà chẳng sợ hãi gì. Thế nhưng chưa hết mười năm thì Jack lâm bệnh và qua đời. Linh hồn cậu chàng bay lên thiên đường. Thánh Peter đứng canh ở cổng lập tức chặn Jack lại. Ngài nói: “Này Jack, sinh thời ngươi luôn bày ra những trò đùa tai quái để chọc phá xóm làng, khiến biết bao người phiền lòng. Một kẻ như ngươi không thể lên thiên đàng được. Ta trục xuất ngươi xuống địa ngục.”
Không được qua cổng thiên đàng, Jack đành lủi thủi đi xuống địa ngục, thế nhưng quỷ sứ lại từ chối đây đẩy: “Chưa hết thời hạn mười năm, ngươi không thể xuống địa ngục được. Hơn nữa, ta nghĩ lại rồi, ta không muốn thu nhận một kẻ láu cá như ngươi, ngươi sẽ phá tung địa ngục mất. Hãy đi đi!”
Bị cả thiên đàng và địa ngục xua đuổi, linh hồn Jack chẳng biết về nơi nào, đành đi lang thang vô định khắp thế gian trong đêm tối mịt mùng. Thấy Jack tội nghiệp, quỷ sứ bỗng nổi lòng thương. “Dù sao nó cũng là một tay thú vị.” Quỷ sứ nghĩ thế và đem tặng cho Jack một viên than hồng để cậu chàng có thể soi đường trong đêm đen. Jack khoét một quả bí ngô, đục vài cái lỗ trên đó và nhét viên than hồng vào, vậy là cậu chàng có đã có một cái đèn lồng hữu dụng, giúp cậu nhìn rõ đường đi trong những đêm tối trời.
Thế là kể từ đó, trong ngày lễ Halloween, người ta khoét những quả bí ngô, đặt nến vào trong để làm đèn lồng, nhằm tưởng nhớ câu chuyện về chàng Jack đáng thương còn mãi lang thang trên thế giới người phàm, hoặc để răn đe mọi người không nên bày những trò lừa lọc, chọc phá xóm làng nếu không muốn chịu kết cục như Jack.
* * * * *
Bạn có biết: Thực ra ban đầu, những người châu Âu sử dụng củ cải để khắc mặt Jack vào dịp lễ Halloween. Chỉ đến khi lễ hội này du nhập sang Mĩ, người ta mới chuyển sang dùng bí ngô thay cho củ cải. Lí do ư? Thì quả bí dễ khắc mặt người hơn củ cải. Tại sao không ai ở châu Âu nhận ra điều đó sớm hơn nhỉ?
Tiểu yêu Boggart
• Chung loài: Yêu tinh
• Nơi sinh sông: Anh Quôc
• Kha năng đạc biẹt: Rât gioi bày trò chơi khăm, dê dàng chạy thoát hay lân trôn xuông lòng đât nhơ vóc dáng nho bé
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★
T
rong truyền thuyết miền đồng quê nước Anh, người ta kể về Boggart - những sinh vật nhỏ thó, lông lá và vô cùng nghịch ngợm. Chúng thường sống lẩn khuất ngay trong nhà của con người và tìm đủ cách chọc phá để chủ nhà không thể có một ngày tồi tệ hơn được nữa. Nhìn chung, chúng là sinh vật phiền phức, tuy không làm hại ai nhưng thực sự phiền phức! (Ngoại trừ lũ Boggart sống ở đầm lầy và trong rừng được cho là chuyên bắt cóc trẻ em.) Có lời khuyên rằng nếu ta đặt tên riêng cho một con Boggart, ví dụ như là “Harry”, là “Jack”, “Bánh Mì Cháy” hay “Chân Vòng Kiềng”... bất cứ tên nào cũng được, thì Boggart sẽ trở nên ngoan ngoãn hơn (mặc dù chẳng ai kiểm chứng được điều này và chúng nó vẫn nghịch như quỷ sứ).
Câu chuyện về Boggart tôi xin kể cho các bạn như sau:
Ở một miền quê nước Anh, gia đình anh nông dân George vừa chuyển đến một căn nhà rộng rãi. Có vẻ như họ sẽ có một cuộc sống yên bình ở ngôi làng này, nhưng không. Một ngày, họ phát hiện ra rằng mình không phải người chủ duy nhất của căn nhà. Có một con Boggart sống tại cái hốc nào đó trong ngôi nhà cùng với gia đình George. Ngày nào cũng như ngày nào, một chuỗi trò chọc phá chơi khăm diễn ra không dứt. Khi thì những đồ đạc lặt vặt bỗng dưng biến mất, khi thì sữa vừa đổ ra bát ngay lập tức bị
thiu, khi thì con chó trông nhà bị kẻ nào đó đánh què, phải đi tập tễnh, khi thì những cái giày bay tứ tung và phi vào mặt lũ trẻ... Kinh khủng hơn, con Boggart còn không buông tha cho gia đình George lúc đêm khuya. Nó canh lúc mọi người yên giấc thì nấp ở dưới kéo chăn hoặc dùng tay rung lắc giường.
“Quá đủ rồi!” George gào lên sau một tháng liên tiếp mất ngủ vì con Boggart.
Vậy là gia đình họ quyết định chuyển nhà để chạy trốn nó. Trong khi cả gia đình đang chất đồ đạc lên xe ngựa thì một người hàng xóm đi qua hỏi thăm: “Vậy là bác định chuyển nhà dù vừa mới đến ở được một tháng ư?”
“Thế đó, thưa bác.” George thở dài. “Tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi không chịu nổi ngôi nhà này nữa!”
Bỗng, từ trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh trên xe ngựa, một giọng nói the thé đáng ghét phát ra, nhại lại những lời của George: “Thế đó thưa bác, tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi không chịu nổi ngôi nhà này nữa!”
“Cái quái gì vậy?” George giật mình. Rõ ràng đó là tiếng của con Boggart chết tiệt. “Tại sao nó lại ở trên xe ngựa? Nó định đi theo gia đình mình sao?”
“Chà, trong trường hợp này thì chịu đựng con Boggart trong ngôi nhà cũ còn hơn là chịu đựng nó trong một ngôi nhà mới lạ hoắc lạ huơ.” Nghĩ vậy, anh nông dân George quyết định không chuyển đi nữa. Họ dỡ đồ đạc và học cách sống chung với những trò nghịch phá của con Boggart, hi vọng một ngày nó sẽ chán và bỏ đi, trước họ.
Bạn thấy Boggart thật là phiền phức và bất trị? Không phải ai cũng chịu thua lũ Boggart như George đâu. Tôi sẽ kể thêm cho các bạn câu chuyện về bác nông dân James. Bác James mới chuyển đến một trang trại và bắt đầu lựa chọn hạt giống để canh tác cho vụ mùa sắp tới. Từ xó nhà, bất thình lình, một con Boggart lông lá và hung dữ nhảy ra. Tuy chỉ cao bằng một nửa bác James nhưng nó vô cùng hiếu chiến. Nó gào thét đòi đuổi bác ra khỏi mảnh đất mà nó cho rằng là của nó, rằng loài Boggart đã sinh sống ở đây từ thời ông nội nó. Bác James cũng chẳng vừa, bác lôi ra giấy tờ sở hữu hợp pháp mảnh đất này. Đôi bên cãi nhau ỏm tỏi suốt cả buổi sáng. Đến cuối ngày, vì thấm mệt, cả hai đi đến một thỏa thuận: Tất cả rau củ mà bác James thu hoạch được trên mảnh đất này sẽ phải chia một nửa cho con Boggart. Một nửa, tức là bằng nhau, chẳng ai hơn ai cả.
Vụ mùa đầu tiên, bác James hỏi con Boggart:“Ngươi muốn lấy phần mọc trên mặt đất hay phần mọc dưới lòng đất?”
Vốn là kẻ thích chui rúc dưới lòng đất, Boggart lập tức chọn phần mọc bên dưới. Thế là bác James trồng lúa mì.
Vụ mùa năm đó, bác thu hoạch hết phần hạt ở trên ngọn, để lại gốc rạ chẳng thể ăn được cho con Boggart.
Đến vụ mùa sau, chẳng đợi bác James hỏi, con Boggart đòi được lấy phần mọc trên mặt đất. Thế là bác James đổi sang trồng khoai tây. Đến khi thu hoạch, bác lấy hết sạch những củ khoai béo mầm, chừa lại phần ngọn vô dụng cho Boggart. Thêm một vụ mùa nhịn đói, con Boggart không thể chịu được nữa và đành bỏ mảnh đất mà đi. Từ đó, bác James yên tâm trồng trọt mà chẳng sợ kẻ nào tranh giành với mình nữa.
* * * * *
Bạn có biết: Ngược lại với đám Boggart phá phách, trong thần thoại Anh nhắc đến một loài tiểu yêu có vóc dáng tương tự tên là Brownie. Họ chẳng làm phiền gì con người cả, trái lại, vào ban đêm, khi con người đi ngủ, các Brownie lén làm nốt công việc còn dang dở cho con người. Các chủ nhà tốt bụng có thể để ít bánh mì và sữa cho Brownie như một món
quà cảm ơn, và họ cũng chỉ cần có thế. Nhớ nhé! Họ chỉ cần có thế! Bởi nếu bạn cố tình tặng họ những món quà giá trị hơn, các Brownie sẽ cảm thấy bị xúc phạm và sẽ bỏ đi mãi mãi!
Bạch Kì Mã
• Chung loài: Linh thú
• Nơi sinh sông: Vùng rưng núi Tây Âu
• Kha năng đạc biẹt: Phát ra nguôn năng lương thuân khiêt giúp thanh lọc môi trương, hôi phục sưc khoe cho ngươi ôm
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★
K
hông phải sinh vật thần thoại nào cũng là những con quái vật kì dị và đáng sợ. Bạch Kì Mã là ví dụ điển hình. Nó là sinh vật thánh thiện và thuần khiết, luôn đem lại điềm lành, sức khỏe và may mắn cho mọi sinh vật ở nơi nó đi qua. Người ta đồn rằng Bạch Kì Mã có thể khiến người đang ốm nặng khỏe mạnh trở lại, và khi sừng của nó chạm vào những nguồn nước ô nhiễm, nước sẽ được thanh lọc và trở lại trong lành như xưa.
Ở một vương quốc giàu có và xinh đẹp, đức vua anh minh sống cùng hoàng hậu và công chúa trong tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ. Mọi chuyện trong vương quốc có lẽ sẽ trôi qua êm đềm nếu như không có tin đồn về sự xuất hiện của Bạch Kì Mã, một con quái vật với cái sừng dài trên đỉnh đầu đang lẩn khuất trong rừng. Nhà vua ra lệnh tập hợp quân lính và thợ săn lành nghề nhất để săn lùng sinh vật này. Cả ngày lẫn đêm, lâu đài của đức vua rực sáng ánh lửa, tiếng mài dao kiếm, tiếng rèn sắt, làm bẫy rộn ràng không dứt. Họ đã lùng sục các cánh rừng trong cả vương quốc mà vẫn chưa tìm được dấu vết của sinh vật bí ẩn mang cái tên Bạch Kì Mã.
Nàng công chúa bé nhỏ năm ấy tròn mười ba tuổi. Không chỉ được biết đến vì nhan sắc, nàng còn nổi tiếng khắp vương quốc là một công chúa thánh thiện và giàu lòng vị tha. Chỉ có điều, công chúa rất ưa phiêu lưu mạo hiểm. Cho dù cha nàng luôn căn dặn nàng không được đi chơi xa cho đến khi ông bắt được con Bạch Kì Mã, nhưng khu rừng ngoài kia quá hấp dẫn đối với công chúa nên một ngày nọ, công chúa lẻn ra khỏi lâu đài, trốn vào rừng chơi. Nàng bị mê hoặc bởi bao loại hoa thơm cỏ lạ, những dòng suối mát lạnh và tiếng chim hót líu lo, từng bước thêm đi sâu vào khu rừng. Chẳng mấy chốc, trời tối, những loài cây hoa sặc sỡ giờ bị thay thế bằng các bóng cây to lớn, âm u đáng sợ, tiếng chim hót líu lo im bặt, chỉ còn những tiếng hú ghê rợn của lũ sói đang đi săn mồi.
Công chúa đã bị lạc đường. Mệt, đói và sợ hãi, nàng ngồi khóc giữa rừng, thầm hối hận vì đã không nghe lời vua cha. Bỗng, một luồng sáng bạc nhẹ nhàng chiếu rọi cả mảng rừng u tối. Công chúa ngừng khóc, ngẩng đầu lên và không thể tin vào mắt mình. Đứng trước mặt nàng là một con ngựa đẹp tuyệt vời. Toàn thân nó trắng toát không tì vết, tựa như mặt trăng thu nhỏ. Còn trên đỉnh đầu là một chiếc sừng dài vô cùng duyên dáng. Nó chính là con Bạch Kì Mã mà cả vương quốc đang săn lùng suốt thời gian qua.
Không một chút sợ hãi, con Bạch Kì Mã chậm rãi bước lại gần công chúa, khẽ cúi đầu và để yên cho nàng đưa tay vuốt ve cổ và bờm. Cảm giác ấm áp và yên lành truyền từ con Bạch Kì Mã sang công chúa, nàng không còn sợ hãi và mệt mỏi nữa. Bạch Kì Mã vốn là một sinh vật kiêu kì và không bao giờ lại gần con người, trừ khi đó là một cô gái thánh thiện, có tâm hồn trong sáng không vẩn đục như công chúa. Nó để công chúa cưỡi lên lưng rồi phi như bay, cõng nàng thoát khỏi khu rừng tối, quay trở về lâu đài.
Không một chút sợ hãi, con Bạch Kì Mã tuyệt đẹp chạy thẳng vào sân cung điện, giữa muôn vàn tay thợ săn lăm lăm vũ khí. Gặp lại con gái, đức vua và hoàng hậu mừng rỡ rơi nước mắt. Nhà vua lập tức thét bảo đám quân lính và thợ săn buông vũ khí và không được làm tổn hại Bạch Kì Mã. Thực ra, mệnh lệnh của đức vua không còn cần thiết nữa, bởi hết thảy mọi người đều đang đứng ngây ra ngắm nhìn vẻ đẹp của Bạch Kì Mã. Không ai còn giữ ý định làm tổn hại một sinh vật thuần khiết như vậy. Bạch Kì Mã chẳng nấn ná ở lại, nó khẽ nghiêng đầu cúi chào công chúa, người duy nhất từng có cơ hội lại gần nó, rồi phóng nước đại, quay về khu rừng, nhanh như một cơn gió.
Từ ngày ấy, cả vương quốc không ai còn có ý định đi săn lùng Bạch Kì Mã. Họ tôn thờ và coi Bạch Kì Mã là loài vật linh thiêng. Tuy rằng chẳng có ai nhìn thấy Bạch Kì Mã thêm một lần nào nhưng dường như họ đều cảm nhận được phúc lành mà sinh vật kì diệu này mang đến cho vương quốc.
* * * * *
Bạn có biết: Bạch Kì Mã được lấy làm biểu tượng quốc gia của Scotland. Người Scotland chọn sinh vật này bởi họ cho rằng Bạch Kì Mã
có thể đánh thắng cả sư tử - biểu tượng của nước Anh. Họ nói tính cách ngạo nghễ thà chết không để bị bắt của Bạch Kì Mã tượng trưng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Scotland trước quân đội Anh.
Mụ phù thủy Baba Yaga
• Chung loài: Quái nhân
• Nơi sinh sông: Vùng rưng núi nươc Nga hoạc Ba Lan
• Kha năng đạc biẹt: Nhiêu phép thuạt, có thê bay, biên hình và điêu khiên mọt ngôi nhà biêt đi
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★
B
ạn đã bao giờ được nghe ai đó kể chuyện về mụ Baba Yaga sống lẩn khuất trong những cánh rừng Taiga1lạnh giá ở nước Nga xa xôi? Đó là một mụ phù thủy đáng sợ, nhiều phép thuật và rất thích ăn thịt trẻ con. Nếu chưa, hãy trùm chăn, lặng yên và nghe tôi kể một câu chuyện về mụ đây!
Cậu bé Milo và cô bé Mila là hai anh em sinh đôi trong một gia đình nông dân. Năm hai đứa lên mười tuổi, người mẹ ốm nặng qua đời, người cha lấy vợ khác. Mụ dì ghẻ rất ghét hai đứa con riêng của chồng và luôn tìm cách đay nghiến, hành hạ chúng. Một lần, khi người cha ốm liệt giường, mụ ta nghĩ ra một cách để đuổi hai anh em ra khỏi nhà. Mụ nói:
“Cha chúng bây đang ốm rất nặng, vậy mà chúng bây còn bình thản ngồi nhà nữa hả, đồ bất hiếu! Hãy vào sâu trong rừng, hái cho bằng được những quả thanh lương trà màu xanh để làm thuốc cho cha chúng bây.”
Rồi chẳng để Milo và Mila kịp nói gì, mụ ném cho mỗi đứa một mẩu bánh mì và xua chúng vào rừng. Đứng trước bìa rừng u tối, Mila khóc nức nở. Milo động viên em:
“Đừng khóc nữa, hãy nghĩ đến cha ốm đang nằm đợi chúng ta mang thuốc về. Anh em ta phải tìm được cây thanh lương trà màu xanh.”
Nghe vậy, Mila ngừng khóc và lau sạch nước mắt. Cô bé rất hiếu thảo, vì vậy, cho dù đứng trước khu rừng đáng sợ, cô vẫn cương quyết theo anh trai tiến bước. Lũ trẻ ngây thơ và dại dột đâu biết rằng trên đời này làm gì
có quả thanh lương trà nào màu xanh, tất cả chỉ là mưu mô gian hiểm của mụ dì ghẻ muốn đuổi hai đứa ra khỏi nhà.
Milo và Mila đi sâu mãi vào trong rừng. Ở trên cao, mặt trời tỏa sáng rực rỡ, nhưng dường như một thế lực hắc ám nào đó ngăn những tia sáng rọi xuống khu rừng. Hai đứa trẻ đã ăn sạch ổ bánh mì mang theo và giờ thì vừa đói, vừa mệt, vừa sợ.
“Này anh Milo, hãy nói rằng em không nằm mơ đi!” Mila giật áo anh. “Có phải em vừa ngửi thấy mùi bánh mì nướng không?”
Milo khịt mũi, chăm chú hít ngửi và ngay lập tức đồng ý với cô em gái. Quên cả mệt và sợ, hai đứa chạy theo mùi bánh thơm tỏa ra và tìm đến một ngôi nhà giữa rừng. Thật kì lạ, sao lại có ngôi nhà gỗ ở đây nhỉ? Ai mà lại sống một mình trong khu rừng u tối này? Kì lạ hơn nữa là ngôi nhà này biết đi. Đúng vậy đấy, không phải hai đứa trẻ đang nằm mơ hay tôi kể nhầm đâu, ngôi nhà biết đi! Nó có hai cái chân như chân gà và đang đi đi lại lại đủng đỉnh quanh sân, mùi bánh thơm từ trong nhà tỏa ra ngào ngạt.
Mila chưa kịp ngăn cản thì Milo đã toan trèo qua hàng rào để lại gần ngôi nhà kì lạ. Thế nhưng chúng kinh hoàng nhận ra cái hàng rào bao quanh sân không phải làm bằng gỗ mà được ghép từ những bộ xương và sọ người. Quá kinh hãi, hai đứa trẻ vội quay đầu chạy, nhưng đã quá muộn rồi.
Một tiếng cười the thé nghe đến rợn người vọng ra. Cánh cửa trên ngôi nhà có chân bật mở, một mụ phù thủy gớm ghiếc đứng đó, cười đắc chí:
“Hai con chuột nhắt trông mới béo tốt làm sao! Chúng mày dám cả gan xâm phạm vào lãnh thổ của ta, đừng hòng thoát!”
Milo và Mila chạy hết sức mình, nhưng làm sao có thể nhanh bằng ngôi nhà ma quái với cặp chân gà dài ngoằng? Chẳng mấy chốc chúng đã bị mụ
phù thủy bắt được.
Nhìn gần mới thấy mụ phù thủy gớm ghiếc làm sao. Mụ có làn da khô cứng như vỏ cây, một cái mũi nhọn hoắt và dài khoằm đến nỗi nếu mụ có nằm ngủ trên giường thì cái mũi đụng cả vào trần nhà cũng nên. Người ta gọi mụ là Baba Yaga. Mụ Baba Yaga đưa cái mũi dài hít ngửi Milo và Mila, vô cùng khoái trá:
“Hai con chuột nhắt không béo lắm nhưng thịt rất thơm, làm món hầm thì thật hợp. Nhưng ta vừa ăn no thịt trẻ con rồi, ta tạm thời tha mạng cho hai đứa bây. Nhưng chúng mày phải ở đây làm việc và phục vụ ta.”
Thế rồi, mụ phù thủy Baba Yaga đóng những cái xích to đùng vào cổ chân hai anh em, bắt Milo và Mila ngày ngày làm việc nhà cho mụ. Mỗi ngày, mụ ta lại bay ra ngoài trên một cái cối xay và chỉ trở về khi trời đã tối. Do Milo và Mila dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ nên Baba Yaga vẫn để hai anh em sống, nhưng có vẻ đã nhiều ngày rồi mụ không bắt được đứa trẻ nào để ăn thịt, hai anh em lo sợ rồi sẽ đến lượt hai đứa bị bỏ vào nồi.
Một ngày nọ, con chuột sống lâu năm trong nhà mụ phù thủy đến nói với Mila: “Này cô bé đáng yêu và tốt bụng, hãy cho ta một mẩu bánh mì trong lò, ta sẽ tìm cách giải thoát cho cô bé và anh trai.”
Mila nghe thấy thế thì mừng lắm, lén giấu lại khẩu phần ăn của mình để dành cho chuột. Ba ngày liền như vậy, Milo cảm thấy mất bình tĩnh: “Hừ, cái con chuột này là đồ nói dối. Ba ngày nay chúng ta đã nhịn ăn để phần nó, mà nó có giúp chúng ta thoát khỏi đây đâu?”
Milo vừa nói dứt lời thì chú chuột đã xuất hiện: “Ấy này cậu bé, xin đừng cáu kỉnh và nghĩ xấu về tôi. Hôm đầu tiên tôi đã lấy trộm được chìa khóa mở xích cho hai người. Nhưng tôi nghĩ sau khi hai người trốn đi, thế
nào mụ Baba Yaga cũng phát hiện ra và đuổi theo, vì thế tôi đã cố gắng đợi thêm hai đêm, mỗi đêm tôi đánh cắp một món bảo bối của mụ. Đến hôm nay thì hai người có thể trốn đi được rồi.”
Chú chuột đưa chìa khóa mở xích cho Milo và Mila, đồng thời cho hai anh em một chiếc khăn tay và một chiếc lược, dặn: “Mỗi khi nguy cấp, hãy ném một thứ lại đằng sau. Những vật này sẽ giúp ích cho hai anh em. Thôi, giờ thì hãy chạy thật nhanh ra khỏi khu rừng này đi, đừng chậm trễ nữa.”
Tạm biệt chuột, Milo và Mila mải miết băng rừng. Bỗng hai đứa nghe thấy tiếng động lớn sau lưng: mụ Baba Yaga cùng căn nhà có chân đang tức tốc đuổi sát. Nhớ lời chuột, Milo ném cái khăn tay ra đằng sau. Chiếc khăn lập tức biến thành một con sông lớn, nước chảy xiết. Căn nhà chân gà của mụ phù thủy không thể đi được tiếp. Milo và Mila yên tâm tiếp tục hành trình về nhà, nhưng rồi chúng lại giật mình kinh hãi vì tiếng cười the thé của Baba Yaga vọng tới từ trên cao. Mụ ta đã bỏ lại căn nhà bên bờ sông, cưỡi chiếc cối bay của mình và gần bắt kịp hai đứa trẻ.
“Lũ chuột nhắt kia! Lần này mà bắt được, ta sẽ làm thịt hết, quẳng chúng mày vào lò nướng!” Mụ rít lên.
Mila sực nhớ đến bảo vật thứ hai, cô bé lấy cái lược ra và ném về phía sau. Ngay lập tức, một hàng rào gai um tùm rậm rạp xuất hiện bất ngờ, chặn ngang đường bay của Baba Yaga. Mụ bị mắc vào những cành cây đâm tua tủa và không thể cử động được.
Milo và Mila không dám dừng lại. Hai đứa chạy hết tốc lực, dường như vẫn nghe được những tiếng kêu thét giận dữ và lời nguyền rủa đáng sợ của mụ phù thủy văng vẳng bên tai. Cuối cùng hai anh em cũng ra được tới bìa rừng và về làng. Chúng đã mất tích nhiều tháng trời. Ở nhà, cha của hai đứa đã khỏi bệnh và ngày nào cũng đi tìm chúng. Ba cha con mừng rỡ ôm chầm
lấy nhau. Biết được đầu đuôi câu chuyện, người cha giận dữ đuổi mụ dì ghẻ độc ác ra khỏi nhà. Từ đó, ba cha con sống những ngày tháng hạnh phúc bên nhau. Cho đến nhiều năm về sau, Milo và Mila không bao giờ dám quay trở lại khu rừng đó một mình.
* * * * *
Bạn có biết: Baba Yaga trong truyền thuyết không chỉ là một mụ phù thủy thích ăn thịt trẻ con đâu. Có những câu chuyện kể rằng mụ là một nữ thần quyền năng đại diện cho sức mạnh của thiên nhiên và trái đất. Người ta còn cho rằng ba chàng kị sĩ - một người cưỡi ngựa trắng, một người cưỡi ngựa đỏ và một người cưỡi ngựa đen lần lượt đại diện cho ban ngày, mặt trời và màn đêm - là ba nô bộc của Baba Yaga, tức là mụ thậm chí có thể điều khiển thời gian.
Nhân Sư
• Chung loài: Quái vạt
• Nơi sinh sông: Hy Lạp
• Kha năng đạc biẹt: To lơn, mạnh me, có thê dê dàng ăn thịt ngươi thương nhưng là mọt sinh vạt có trí tuẹ, thích bày ra câu đô đê thư thách con môi
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★
C
hẳng hiểu vì nguyên cớ gì mà các vị thần Hy Lạp đâm ra căm ghét người dân thành Thebes và quyết định trừng phạt họ. Các thần thả một con Nhân Sư trước lối vào thành. Bất kì ai muốn đi đến hoặc rời khỏi Thebes đều phải trả lời những câu đố của nó, và kẻ nào đáp sai sẽ bị nó ăn thịt. Kể từ đó, Thebes dường như bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chẳng ai dám nghĩ đến chuyện tới thành phố này nữa.
Cho đến một ngày nọ, có chàng trai tên là Oedipus - người mà Số Phận đã định sau này sẽ trở thành đức vua cai trị Thebes - quyết định thử vận may với những câu đố của Nhân Sư. Chàng lên đường đi đến thành phố bị các vị thần nguyền rủa. Quả nhiên, vừa tới lối vào thành, một con quái thú to lớn nhảy ra chặn đường chàng.
Hình dạng của con quái thú vô cùng kì lạ. Nó có đầu người nhưng thân thì của loài sư tử, nó mọc một đôi cánh đại bàng trên lưng và cái đuôi là một con rắn đang nhe nanh dữ tợn. Đó chính là Nhân Sư, con quái vật canh giữ Thebes bấy lâu. Nó cất tiếng nói như con người:
“Hỡi chàng trai dại dột, sao ngươi dám cả gan đi đến thành phố đã bị các vị thần nguyền rủa? Ngươi hãy mau mau quay đầu trở về, hoặc nếu muốn đi tiếp, hãy trả lời ba câu đố của ta. Nên nhớ, trả lời sai dù chỉ một câu, ta sẽ ăn thịt ngươi ngay lập tức!”
“Ta đến đây hôm nay chính là vì muốn chấp nhận thử thách của nhà ngươi, bởi Thebes là đích đến của ta và ta sẽ không quay đầu lùi bước!” Oedipus dũng cảm trả lời con quái vật.
“Được rồi, chàng trai dại dột và can đảm. Vậy hãy trả lời câu đố này: Có hai chị em, người này sinh ra người kia, rồi người kia lại sinh ra người này. Họ là ai?”
“Đáp án là ban ngày và ban đêm. Hết ngày thì đến đêm, hết đêm lại sang ngày.” Oedipus trả lời không do dự.
“Giỏi lắm. Vậy hãy đáp câu hỏi thứ hai của ta: “Khi bạn sở hữu tôi thì bạn muốn chia sẻ tôi với người khác, nhưng một khi đã chia sẻ tôi, bạn sẽ không còn sở hữu tôi. Tôi là gì?”
Oedipus nhớ chàng đã đọc được câu đố này trong một cuốn sách.
“Đáp án là: bí mật. Khi tôi sở hữu một bí mật, tôi sẽ muốn kể điều đó với người khác. Nhưng một khi đã kể ra, bí mật không còn là bí mật nữa.”
Nhân Sư có phần kinh ngạc về trí tuệ của Oedipus.
“Ta ngợi khen ngươi, kẻ dễ dàng vượt qua hai câu hỏi đầu của ta. Ta sẽ ban cho ngươi một ân huệ: Hãy từ bỏ ý định tới Thebes và quay trở lại trên con đường đã dẫn ngươi đến đây. Ngươi sẽ không thể trả lời câu hỏi thứ ba của ta đâu. Hãy quay về đi, ta tha chết cho ngươi đấy, chàng trai.”
“Ta chưa bao giờ có ý định lùi bước trước bất kì thử thách nào. Xin hãy nói ra câu đố cuối cùng.”
“Vậy được. Lắng nghe câu đố thứ ba của ta đây, hỡi kẻ lữ hành dại dột: Con gì buổi sáng đi bằng bốn chân, buổi trưa đi bằng hai chân và buổi chiều đi bằng ba chân?”
Đây chính là câu hỏi Nhân Sư đã hỏi biết bao kẻ qua đường xấu số và chưa một ai trên thế gian trả lời được. Oedipus suy nghĩ mất nửa ngày trời, và khi Nhân Sự bắt đầu hết kiên nhẫn, định bụng nhảy vào ăn thịt chàng thì Oedipus cất tiếng:
“Đáp án là con người. Buổi sáng, tựa như thuở còn bé, con người sẽ bò bằng tứ chi, đến trưa, tức là tuổi trưởng thành, anh ta có thể đi bằng hai chân, còn buổi xế chiều, tức là lúc về già, anh ta phải chống thêm cây gậy, thành ba chân.”
Con Nhân Sư thật sự bất ngờ. Chưa từng có ai trên đời trả lời đúng cả ba câu hỏi của nó. Quá tức tối, nó lao mình xuống vực đá tự tử. Vậy là không tốn một chút sức lực nào mà chỉ nhờ vào trí tuệ của mình, Oedipus đã tiêu diệt được Nhân Sư, giải phóng cả thành phố Thebes khỏi lời nguyền của các vị thần.
Không phải lúc nào cũng cần dùng sức mạnh cơ bắp, một cái đầu thông minh đôi khi đủ giúp ta trở thành anh hùng rồi, đúng không?
* * * * *
Bạn có biết: Một câu đố cho chính bạn nhé: “Tôi còn sống nhưng không có hơi thở. Tôi lạnh như người chết. Tôi không bao giờ khát, vậy mà tôi luôn uống nước. Tôi là gì?”
Cứ bình tĩnh suy nghĩ câu trả lời, bởi chẳng có con Nhân Sư nào đang đợi bạn cả.
Nhân Ngưu Minotaur
• Chung loài: Nưa ngươi nưa thú
• Nơi sinh sông: Đao Crete - Hy Lạp
• Kha năng đạc biẹt: To lơn, khoe mạnh, hung bạo
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★
T
rong thần thoại Hy Lạp, Minotaur là một con quái vật kì dị, nửa người nửa bò, vô cùng hung tợn. Câu chuyện về quái vật này được kể như sau:
Lúc bấy giờ, ở đảo quốc Crete (thuộc nước Hy Lạp ngày nay), nhà vua băng hà mà chưa kịp chọn người kế vị khiến ba chàng hoàng tử tranh giành ngôi báu. Trong số ba người, hoàng tử Minos là người khôn khéo và nhiều mưu mẹo nhất. Ông ta dùng những lời lẽ ngon ngọt để xin thần biển Poseidon phù hộ, nhờ thế mà được chọn làm vua. Nhưng có lẽ khôn khéo quá đôi khi lại đem đến tai họa. Đáng lẽ vua Minos phải hiến tặng cho thần Poseidon một con bò trắng để cảm tạ thần, nhưng ông ta quá tiếc con bò. Quả thực, trên thế gian chưa từng có con bò nào đẹp như vậy. Toàn thân nó phủ lông trắng muốt thuần khiết, những bắp thịt chắc nịch cân đối và cặp sừng vàng uy nghi. Minos khôn khéo nghĩ rằng có thể đánh lừa thần Poseidon, ông ta đánh tráo món quà, giữ lại con bò trắng tuyệt đẹp và gửi cho thần Poseidon một con bò khác. Thật là ngu ngốc khi cố gắng đánh lừa một vị thần! Poseidon biết hết. Thần nổi giận và quyết định trừng phạt Minos. Thông thường, với những kẻ bất kính, Poseidon sẽ dâng nước biển lên nhấn chìm nhà cửa của chúng, nhưng lần này, thần nghĩ ra một cách trừng phạt đích đáng hơn.
“Ngươi thích con bò đến vậy hả? Vậy ta sẽ biến con trai ngươi thành bò!” Poseidon cất lời nguyền rủa Minos.
Đúng y như lời thần nói, hoàng hậu Pasiphaë mang bầu và đẻ ra một sinh vật quái thai, có đầy đủ tay chân giống con người nhưng đầu thì lại của loài bò. Người ta gọi nó là “Minotaur”, có nghĩa là “Con bò của Minos” như để nhắc lại lỗi lầm của vị vua này.
Minotaur lớn rất nhanh. Chỉ sau vài năm, nó đã to như một gã khổng lồ. Song song với sự phát triển về kích thước, tính tình Minotaur cũng ngày một trở nên hung bạo, và đặc biệt, nó thích ăn thịt người. Vua Minos rất sợ hãi con quái vật đầu bò này. Ông ra lệnh cho kiến trúc sư Daedalus xây dựng một mê cung khổng lồ ngay dưới tầng hầm của cung điện rồi nhốt
Minotaur vào đó, để nó mãi mãi không thể ra ngoài được nữa. Nhằm xoa dịu cơn giận của Minotaur, tránh việc nó tìm cách thoát khỏi mê cung và đánh sập cả cung điện, hằng năm, vua Minos phải đem hiến tế bảy người con trai và bảy người con gái làm thức ăn cho nó.
Nỗi kinh hoàng mà con quái vật đầu bò Minotaur gieo rắc lên đảo quốc Crete kéo dài nhiều năm, cho đến khi có một chàng thanh niên quyết định tiêu diệt con quái vật để chấm dứt những màn hiến tế tàn bạo. Đó là chàng Theseus – một lực sĩ dũng cảm đến từ Athens. Chàng tình nguyện làm con mồi cho quái vật để tiếp cận nó. Trước khi lên đường đến đảo Crete, chàng dặn người cha già:
“Ngày ngày, cha hãy ra bờ biển ngóng tin con. Nếu cha nhìn thấy con thuyền của con giương cánh buồm màu trắng tức là con đã chiến thắng quái vật và an toàn trở về. Nếu thuyền giương cánh buồm màu đen tức là con đã bỏ mạng.”
Theseus từ giã cha, đeo gươm, xách khiên, giong buồm tiến đến đảo Crete. Chàng hiểu rằng chuyến này đi lành ít dữ nhiều, bởi cho dù có thể tiêu diệt được Minotaur thì chàng cũng khó lòng tìm nổi đường thoát khỏi cái mê cung khổng lồ của vua Minos.
Cảm phục trước sự dũng cảm của Theseus, con gái vua Minos là nàng công chúa Ariadne quyết định giúp đỡ chàng. Trước khi Theseus tiến vào mê cung, công chúa lén đến gặp và trao cho chàng một cuộn chỉ vàng:
“Theseus dũng cảm, chàng hãy thả cuộn chỉ này ra ở lối vào mê cung để nó lăn theo từng bước chân chàng. Cuộn chỉ sẽ giúp chàng tìm ngược lại con đường đã đi và thoát khỏi mê cung.”
Có được sự trợ giúp của công chúa Ariadne, Theseus vững tin tiến vào chốn nguy hiểm. Chàng lần mò trong những bức tường mê cung, theo mùi hôi để tìm đến hang ổ của con quái vật. Chàng đã tiêu diệt được con quái vật đầu bò Minotaur và tìm đường thoát khỏi mê cung bằng cuộn chỉ vàng của công chúa Ariadne. Và như mọi cái kết có hậu cho các chàng trai dũng cảm, Theseus cưới công chúa Ariadne rồi cùng nàng trở về quê nhà.
* * * * *
Bạn có biết: Trong thần thoại Hy Lạp có rất nhiều sinh vật huyền bí được lai giữa con người và động vật. Ngoài Minotaur nửa người nửa bò ra còn có Centaur - nửa người nửa ngựa, Satyr - nửa người nửa dê, Harpy - nửa người nửa chim... nhiều lắm. Các bạn hãy tìm đọc thần thoại Hy Lạp để biết thêm những loài này nhé!
Chương 2
SINH VẬT HUYỀN BÍ CHÂU PHI
VÀ TRUNG ĐÔNG
Chào mừng bạn đến với đêm Ả Rập huyền ảo cùng những lời nguyền chết chóc trong lăng mộ các Pharaoh Ai Cập. Châu Phi và Trung Đông với nền văn minh Ai Cập và nền văn minh Lưỡng Hà lâu đời truyền tụng vô số câu chuyện về những sinh vật huyền bí kì lạ, và tôi chắc rằng bạn chưa từng nghe đến tên của hầu hết các sinh vật thần thoại được nhắc đến trong chương này.
Ác xà Apep
• Chung loài: Thân thú
• Nơi sinh sông: Ai Cạp
• Kha năng đạc biẹt: Kích thươc không lô cơ mọt hành tinh, bât tư, có thê nuôt ca các vị thân. Không đùa vơi nó đươc đâu!
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★ ★
T
rong thần thoại Ai Cập không có nhiều sinh vật huyền bí hay những con quái vật kì lạ như thần thoại Hy Lạp hay thần thoại Bắc Âu. Khi nhắc đến con quái vật đáng sợ nhất, người Ai Cập (và có lẽ cả các vị thần Ai Cập nữa, nếu như họ thực sự tồn tại) đều sẽ trả lời rằng đó là Apep.
Thật vậy, Apep là con quái vật đại diện cho những gì xấu xa, tồi tệ nhất, là vị ác thần đem lại sự hỗn loạn và hủy diệt. Trong hình hài một con rắn khổng lồ với cái đầu được làm từ đá lửa, Apep luôn rình rập để tìm thời cơ lật đổ vị thần mặt trời Ra, đưa thế gian chìm và tăm tối.
Thần Ra là mặt trời và mặt trời cũng chính là thần Ra. Thần tỏa ra ánh sáng rực rỡ soi tỏ thế gian và sáng tạo nên vạn vật. Bạn nhìn lên trời và thấy mặt trời mọc ở đằng Đông, lên cao dần và cuối cùng lặn ở đằng Tây. Đối với người Ai Cập, đó là hành trình thường nhật của thần Ra trên con thuyền được gọi là Manjet. Sáng sớm, thần Ra thức dậy từ phương Đông trong hình hài một đứa trẻ, con thuyền đi đến giữa trưa thì thần Ra đã kịp biến thành một thanh niên cường tráng, rồi đến chiều tối, khi con thuyền đưa thần Ra về Tây phương, thần trở thành một ông già chống gậy. Sáng hôm
sau, thần Ra và con thuyền Manjet lại xuất hiện ở phía Đông và lặp lại hành trình y như ngày hôm trước. Lặp đi lặp lại, ngày qua ngày.
Bạn đang thắc mắc câu chuyện trên thì liên quan gì đến con rắn Apep ư? Là thế này: Apep chẳng hề yêu thích ánh sáng, và nó cực kì căm ghét thần Ra. Khi chiều buông và thần Ra trở thành một ông già ốm yếu, con thuyền Manjet phải vượt qua mười hai cái hang dưới cõi âm để kịp trở lại phương Đông vào sáng hôm sau. Con rắn Apep luôn đợi tấn công thần Ra ở cửa hang số chín. Nó xua lũ rắn rết và cá sấu tay sai quấy nhiễu con thuyền, dọa nạt thần bằng tiếng gầm đáng sợ làm rung chuyển cả cõi âm. Nó tìm mọi cách để nuốt chửng thần Ra. Nhưng xui cho Apep, thần Ra không đơn độc. Trên thuyền Manjet luôn có các vị thần khác túc trực để bảo vệ thần Ra, đó là thần trí tuệ Thoth, thần công lí Ma’at và cả vị thần xấu tính hay ghen tức là thần Set. Các thần ngồi trên thuyền, sẵn sàng nghênh chiến với con rắn Apep, bảo vệ cho mặt trời. Nhờ vậy, đêm nào Apep cũng bị đánh bại. Nhưng nó chẳng chịu bỏ cuộc. Người ta nói rằng Apep là con quái vật không có mắt mũi. Không tri giác, nó không hề biết sợ hãi hay nản lòng, kiên trì tấn công ngày qua ngày nhằm đạt được mục đích. Có đôi lần, trong một thoáng chốc, Apep gần như đã thành công, nó nuốt được thần Ra vào bụng, nhưng rồi lại bị các vị thần khác đánh bại, phải nhả thần Ra ra. Hiện tượng nhật thực xảy ra, theo quan niệm của người Ai Cập, chính là khoảnh khắc ngắn ngủi Apep nuốt được thần mặt trời.
* * * * *
Bạn có biết: Rắn không chỉ là sinh vật đại diện cho sự xấu xa trong thần thoại Ai Cập. Người Ai Cập tôn thờ rất nhiều vị thần đầu rắn như nữ thần Renenutet bảo hộ cho mùa màng, thần Meretseger bảo hộ cho những người lao động. Ngay chính các pharaoh Ai Cập cũng đội một
chiếc vương miện có gắn hình rắn hổ mang, đó là con rắn Uraeus – linh vật bảo vệ cho vua chúa.
Quái vật địa ngục Ammit
• Chung loài: Thân thú
• Nơi sinh sông: Ai Cạp
• Kha năng đạc biẹt: Ngoại hình đáng sơ, có thê trưng phạt các linh hôn theo mẹnh lẹnh thân linh, bât tư, không thê ngăn chạn hay chạy thoát khoi nó
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★ ★
C
ó một sinh vật trong thần thoại mà người Ai Cập luôn “toát mồ hôi hột” khi nhắc đến tên, đó là Ammit, một con quái vật đầu cá sấu, mọc bờm trên đầu, nửa thân trước của loài sư tử, nửa thân sau là hà mã.
Điều làm người ta sợ hãi Ammit không chỉ là ngoại hình kì dị của nó, mà còn là...
Là gì thì mời tìm hiểu thông qua câu chuyện về một người Ai Cập, câu chuyện như sau:
Ramessu là một thương nhân độc ác. Lão không từ mọi thủ đoạn để làm giàu trên nỗi đau khổ và sự ngây thơ của dân lành. Nô bộc trong nhà đều bị Ramessu bóc lột tàn nhẫn. Thế rồi một ngày, Ramessu ốm nặng và qua đời. Chẳng vàng bạc của cải nào cứu được lão nữa, ngày phán quyết của lão đã đến.
Thần Anubis - vị thần đầu chó - đến dẫn linh hồn Ramessu xuống địa ngục. Trước tòa án trang nghiêm của thần Osiris - người cai quản cõi âm, Ramessu bị đem ra xét xử vì những tội ác của lão khi còn sống.
“Hãy bắt đầu buổi phán xét!” Thần Osiris ra lệnh.
Vậy là thần Anubis lấy ra một chiếc cân. Nữ thần công lí Ma’at rút một chiếc lông vũ trên vương miện của mình và đặt vào một bên cân. Ở bên còn lại, thần Anubis đặt lên đó một quả tim.
“Ngươi có nhận ra quả tim này không, Ramessu?” Thần Anubis hỏi. “Đúng rồi, đó chính là tim của ngươi đấy.”
Ramessu kinh hãi nhìn quả tim của chính mình. Nó to lớn nhưng đen và bốc mùi hôi thối. Khi quả tim và chiếc lông vũ đều được đặt trên bàn cân, ban đầu, chúng ở thế cân bằng, nhưng khi thần Thoth - vị thần tri thức - bắt đầu mang giấy bút ra và liệt kê những tội lỗi Ramessu gây ra khi còn sống: buôn gian bán dối, cho vay nặng lãi, bóc lột người làm công… thì đĩa cân bên quả tim của lão ngày càng trĩu nặng. Đến cuối cùng, quả tim nặng hơn hẳn chiếc lông vũ.
“Ramessu, khi còn sống ngươi đã làm quá nhiều điều ác, trái tim ngươi nặng trĩu tội lỗi, vậy nên đây là phán quyết của ta: linh hồn của ngươi sẽ không được đến thiên đàng.” Thần Osiris tuyên bố.
Vậy là quả tim của Ramessu bị ném xuống sàn cho một sinh vật đang chầu chực ở đó, chính là Ammit. Con quái vật đầu cá sấu nhanh chóng xơi tái quả tim của Ramessu khiến linh hồn lão không thể lên thiên đàng. Rồi nó lôi lão quẳng xuống biển lửa của địa ngục.
Thế đó. Đấy chính là lí do người Ai Cập sợ Ammit đến vậy, không phải vì ngoại hình của nó, mà là những điều nó có thể làm nếu người đó gây ra nhiều tội ác khi còn sống.
* * * * *
Bạn có biết: Với nhiều người Ai Cập, Ammit là một vị nữ thần chứ không phải một con quái vật - vị thần đại diện cho trật tự và công lí, giúp xua đuổi tà ác bằng vẻ ngoài đáng sợ. Rất tiếc, Ammit chưa bao giờ được thờ cúng công khai hay có đền thờ như các vị thần khác. Các “giám khảo khó tính” vẫn luôn không được ưa thích mà!
Quái vật khổng lồ Grootslang
• Chung loài: Quái thú
• Nơi sinh sông: Nam Phi
• Kha năng đạc biẹt: Kích thươc siêu không lô, có sưc mạnh cua loài voi và sư gian xao cua loài răn
• Đánh giá mưc đọ nguy hiêm: ★ ★ ★ ★ ★
T
heo thần thoại của người châu Phi, khi các vị thần sáng tạo thế gian, họ nhất trí với nhau sẽ nặn nên một sinh vật vừa mạnh mẽ vừa thông minh. Và thế là Grootslang ra đời - một sinh vật to lớn với cặp ngà sắc bén và chiếc đuôi dài chắc khỏe.
Nhưng rất sớm, các vị thần nhận ra sai lầm của mình. Grootslang quá mạnh và xảo quyệt. Không mất nhiều thời gian để nó đánh bại hay ăn thịt các giống loài khác và trở thành con vật thống trị thế gian. Thêm nữa, loài này sinh con đẻ cái rất nhanh và trở nên vô cùng đông đúc.
Các vị thần họp tới họp lui, quyết định phải tách Grootslang thành hai phần để giảm bớt sức mạnh của nó. Họ tóm từng con Grootslang và chia cơ thể chúng ra thành hai: một phần trở thành sinh vật to lớn có sức mạnh phi thường với cặp ngà dài và chiếc vòi to mà ngày nay chúng ta gọi là loài voi, còn một phần sở hữu trí thông minh và sự xảo quyệt, trở thành sinh vật trườn bò dưới đất, chính là loài rắn ngày nay.
Tuy nhiên, theo truyền thuyết, có một con Grootslang may mắn trốn thoát khỏi tay các vị thần. Nó là sinh vật nguy hiểm nhất thế gian với sức
mạnh của loài voi và trí tuệ của loài rắn, nhưng để trốn các vị thần, nó phải sống chui rúc trong một cái hang khổng lồ dưới lòng đất mà người châu Phi gọi là “Hố Không Đáy”. Người ta bảo, cái hang đó chứa đầy kim cương đá quý. Thi thoảng vẫn có kẻ liều mạng tìm đường đến Hố Không Đáy để đào kim cương, nhưng chẳng một ai trở về.
* * * * *
Bạn có biết: Voi và rắn ư? Sự kết hợp này chưa chắc đã là hoàn hảo nhất nếu bạn biết đến truyền thuyết về loài Griffin - một sinh vật trong thần thoại châu Âu với đầu và cánh đại bàng cùng thân của sư tử. Sự kết hợp giữa chúa tể của bầu trời và vua của mặt đất như Griffin có lẽ mới thực là hoàn hảo.
"""