"
Si Mê và Liều Lĩnh - Loretta Chase full prc pdf epub azw3 [Lãng mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Si Mê và Liều Lĩnh - Loretta Chase full prc pdf epub azw3 [Lãng mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Si Mê Và Liều Lĩnh Tác giả: Loretta Chase
"MGIỚI THIỆU
ột trong những cây bút tuyệt vời nhất mọi thời đại của dòng tiểu thuyết lãng mạn." - Julia Quinn
Chín năm trước, cậu bé Peregrine Dalmay đã dại dột tham gia vào Ý Tưởng trốn nhà đi tìm kho báu của tiểu thư Olivia Wingate Carshington. Kết quả là chàng bị đưa sang Ai Cập để giúp chú Rupert nghiên cứu khảo cổ. Suốt chín năm, miền đất huyền bí này đã trở thành tình yêu của cuộc đời chàng, nơi ngày nào cũng đối mặt với rắn rết, bọ cạp, trộm cướp và bọn sát nhân.
Giờ chàng trở về nhà mà không lường trước được rằng chính Olivia - một phụ nữ nhà DeLucy Đáng Sợ - mới là mối nguy hiểm lớn nhất. Một lần nữa, chàng lại bị nàng đẩy vào một cuộc truy tìm kho báu trong lâu đài bị ma ám của dòng họ Dalmay. Để rồi chàng nhận ra một điều mà lâu nay chàng vẫn cố công trốn tránh: Nàng mới là kho báu quý giá nhất của chàng.
"Si mê và liều lĩnh" đã đem về cho Loretta Chase giải RITA 2010 - giải thưởng danh giá nhất của dòng văn học lãng mạn Mỹ.
LCHƯƠNG 1
ondon
Ngày 5 tháng Mười năm 1822
Thưa ngài,
Ngài Phải Đốt Lá Thư này sau khi đọc xong. Nếu nó rơi vào Tay Người Khác, em sẽ lại một lần nữa bị Tống Cổ về NÔNG THÔN, tới một trong những ThÁi ấp của chú dượng Carsington của em, nơi em gần như chắc chắn sẽ bị CÔ LẬP. Em không ngại trở thành
kẻ Quê Mùa ở Small Doses, nhưng bị NHỐT GIAM và cấm đoán mọi Hình Thức Giao Thiệp Xã Hội (vì sợ em thiết lập những Mối Quan Hệ Không Phù Hợp hoặc Lôi Kéo Những Kẻ Khờ Khạo Lạc Lối) thì thật không chịu nổi và chắc chắn sẽ dẫn em tới những Hành Động Tuyệt Vọng.
Em bị Giám Sát thường xuyên. Cách duy nhất để gửi cho ngài một lá thư đầy đủ, Không Bị cắt Xén và Không Bị Kiểm Duyệt, là viết trong Nơi Bí Mật của em rồi thỏa thuận với Người Nào Đó - người phải Giữ Kín Thanh Danh, Đảm Nhận nhiệm vụ nguy hiểm khác thường - để đặt Lá Thư này lẫn vào những Thư Từ Ngoại Giao.
Lẽ ra em không nên liều mạng thực hiện Hành Động Nguy Hiểm này chỉ để nhắc ngài nhớ rằng hôm nay là Tròn Một Năm kể từ ngày chúng ta khởi đầu Hành Trình Vô Cùng Thú Vị tới Bristol. Em cũng không nên đánh cược với Tự Do của mình chỉ để Chuyển Tải Thông Tin Thông Thường Vô Hại mà một Quý Cô Trẻ được phép trao đổi với một Quý Ông Trẻ mà cô quen biết - ngay cả khi anh ta thật sự là Anh Trai cô hay ít nhất cũng là một kiểu Anh Họ nào đó. Em buộc phải dùng tới mánh lới vì NHIỆM VỤ của em là phải thông báo cho ngài biết Gia Cảnh nhà ngài lại có một thay đổi lớn. Người ta cứ nghĩ Bọn Trẻ Con chúng ta mù tịt về những Chuyện Này, nhưng em đâu có Mù, và sự thật là, Mẹ ngài lại đang có mang.
Phải, ở cái tuổi của bà thì như thế thật choáng váng, và hơn nữa chỉ vừa đúng một năm từ khi cậu em trai đầu tiên của ngài ra đời. Tiện thể, David Bé Bỏng đang ngày càng giống ngài một cách kinh ngạc, ít nhất là về ngoại hình. Trẻ con thay đổi không ngừng trong Những Giai Đoạn Đầu Đời, nhưng Ngoại Hình của nó dường như đã định hình. Tóc nó trông giống tóc ngài lắm và màu Mắt của nó dường như cũng đã chuyển sang màu xám sẫm lạ thường, ôi, em đang đi chệch vấn đề rồi.
Em luôn Thắc Mắc về chuyện Mẹ ngài đột ngột MANG THAI sau mười ba năm ngừng sinh nở. Nhưng Bà Cố Hargate nói rằng những chuyến viếng thăm dài trong mấy năm gần đây tới nơi mà Bà Cố gọi là Tổ Ấm Tình Yêu ở Scotland của cha mẹ ngài có thể giải thích tất cả. Bà Cố nói rằng món Haggis và Whiskey Scotland đã Gây nên Chuyện. Bà nói rằng sự kết hợp của hai món đó luôn gây ra một tác động phi thường đối với Ông Cố. Em hiểu ý bà khi bà nói từ “phi thường”, bởi vì em đã tình cờ nhìn thấy Bộ Sưu Tập Tranh Điêu Khắc Bí mật của bà
Em phải viết ngắn thôi nếu muốn nó được an toàn bỏ vào Hòm Thư. Thử Thách này sẽ đòi hỏi em phải lẻn tới Dinh Thự của Một Người Bà Con Nào Đó tìm một Người Làm Mướn. May mà em còn có các Đồng Minh. Nếu em bị tóm, BẢN ÁN GIAM CẦM Ở CHỐN NÔNG THÔN sẽ chờ em - nhưng như ngài biết đấy, em luôn coi sự An Toàn và
Hạnh Phúc của bản thân Chẳng Là Gì Hết khi em Phụng Sự Mục Đích Cao Cả. Trân trọng,
Olivia Wingate-Carsington
Thebes, Ai Cập
Ngày 10 tháng Mười một năm 1822
Olivia thân mến,
Ta đã nhận được thư em cách đây mấy ngày và lẽ ra phải trả lời sớm hơn, nhưng bài vở và công việc đã chiếm trọn thời gian của ta. Nhưng hôm nay chú Rupert đang ra ngoài đuổi một nhóm người Pháp xâm phạm một trong những địa điểm khai quật của chúng ta - lần thứ ba rồi đấy. Đám du côn đó cứ đợi người giúp việc của bọn ta vắng mặt là hất hết cát xuống hố - công sức không biết bao nhiêu tuần bỏ ra. Rồi những tên người Pháp xảo trá ấy chế ra một tờ sắc chỉ của một vị vua chúa không hề có thật nào đó, tuyên bố cái sắc chỉ ấy trao cho chúng quyền hạn tuyệt đối đối với khu vực khai quật này.
Ta có thể bẻ đầu chúng giống như chú Rupert đang làm, nhưng dì Daphne trói ta vào bao lơn của chiếc dahabeeya (một loại thuyền khá phổ biến trên sông Nile) và bảo ta phải viết thư về nhà. Ta viết thư cho cha mẹ thì chỉ tổ nhắc họ nhớ ra là ta vẫn tồn tại trên đời, và như thường lệ sẽ thôi thúc họ đột nhiên mong mỏi ta về nhà để xem những vở kịch của họ cho tới khi họ quên bẵng mất lý do muốn có ta ở nhà và lại gửi ta tới một ngôi trường buồn thảm khác.
Nhưng, là con gái kế của Đức ông Rathbourne, em cũng như người nhà của ta, không ai có lý lẽ gì để phản đối ta viết thư cho em chứ không phải cho cha mẹ. Ta vô cùng phân vân khi nhận tin từ em. Một mặt, ta rất tiếc khi biết một đứa trẻ ngây thơ vô tội khác sắp bị quẳng vào cơn bão tố của cha mẹ ta. Mặc khác, ta lại thấy vui khi cuối cùng cũng có thêm em út, và rất hài lòng khi David lớn lên mạnh khỏe.
Ta không hiểu tại sao lại có người bực mình khi em thông báo với ta rằng mẹ ta mang thai, nhưng nói cho cùng ta cũng chẳng bao giờ hiểu được thái độ phê phán áp đặt lên nữ giới. Cuộc sống của phụ nữ ở đây còn tệ hơn, nếu điều đó có thể an ủi em. Dù sao, ta hy vọng em sẽ không bị giam cầm vì đã thông tin cho ta. Tính khí của em không hợp với luật lệ quy củ, chứ đừng nói tới chuyện bị giam cầm. Ta đã học được điều này trong suốt cuộc phiêu lưu em nhắc đến.
Tất nhiên ta vẫn còn nhớ như in ngày ta cùng em rời London thật bất ngờ và đột ngột - hai từ ta sẽ luôn gắn cho em.
Mọi khoảnh khắc trong chuyến đi của chúng ta tới Bristol đều khắc sâu trong trí óc ta như những dòng chữ Hy Lạp và Ai Cập khắc trên hòn đá Rosetta, và cũng sẽ tồn tại lâu bền như thế. Nếu có ai đó, sống sau chúng ta nhiều thế kỷ, tình cờ đào xác ta lên và phân tích não ta, họ sẽ thấy khắc tạc nơi đó những con chữ rỗ ràng: Olivia. Đột ngột. Bất ngờ.
Em biết ta không thừa hưởng được chút nào cái tính đa cảm của cha mẹ mình. Tư duy của ta phải được dẫn dắt bởi thực tế. Thực tế là, cuộc đời ta có một bước ngoặt quan trọng sau chuyến đi ấy. Nếu không đi với em, hẳn ta đã bị gửi vào một trong nhiều ngôi trường ở Scotland áp dụng kỷ luật hà khắc như người Sparta - mà nói cho
công bằng thì người Sparta còn dễ chịu hơn. Cái lũ người đang nhan nhản khắp những ngôi trường Scotland mà ta suýt nữa phải chịu đựng đó cũng thiển cận và dễ làm ta điên tiết như người Sparta, nhưng điều kiện sống thì khủng khiếp hơn nhiều, ví như thứ phương ngữ Scotland ta không tài nào lĩnh hội nổi và thời tiết cực kỳ khắc nghiệt. Và cả kèn túi nữa.
Để cảm ơn em, ta gửi một kỷ vật nho nhỏ kèm theo lá thư. Theo dì Daphne, ký hiệu khắc trên con bọ hung này là “kheper” - “kh” phát âm như “ach" trong tiếng Đức. Những ký hiệu tượng hình luôn có nhiều nghĩa và nhiều cách sử dụng. Bọ hung tượng trưng cho sự tái sinh. Ta xem chuyến đi tới Ai Cập này như một sự tái sinh.
Hóa ra nơi này tuyệt vời hơn những gì ta dám mong đợi. Qua hàng bao thế kỷ, cát đã nuốt chửng nhiều nền văn minh, những nền văn minh mà chúng ta chì vừa mới bắt đầu khai quật. Mọi người quý ta lắm, và ngày nào chúng ta cũng tràn đầy sự phấn khích cả về thể chất lẫn tinh thần, ở nhà thì chẳng bao giờ được thế cả. Ta không biết bao giờ mình mới trở lại nước Anh. Ta hy vọng là không quá lâu.
Ta phải dừng bút ở đây. Chú Rupert quay lại rồi - rất vui mừng khi chú không sứt mẻ chút nào - và ta rất nóng lòng được nghe về cuộc ẩu đả của chú với bọn sên bò vô lại kia.
Thân ái,
Lisle
TB. Ta mong em sẽ không chào ta là Thưa ngài. Ta có thể nghe thấy em nói ra từ đó với giọng điệu châm chọc giễu cợt, và nhìn thấy điệu nhún gối chào - hay có lẽ là một cái gật đầu, dựa vào việc em mù tịt không biết con gái nên và không nên làm gì phần cường điệu của em.
L.
TTB. Bức Điêu Khắc nào cơ?
Bốn năm sau
London
Ngày 12 tháng Hai năm 1826
L thân mến,
Chúc mừng SINH NHẬT LẦN THỨ MƯỜI TÁM của ngài!
Em phải viết lá thư này thật Nhanh, vì em sắp bị Đi Đày nữa rồi, lần này là tới Cheshire với chú Darius. Chuyến đi này sẽ dạy em đủ thứ Vặt Vãnh TRÊN GIỜI DƯỚI ĐẤT, từ kính thiên văn Sophy Hubble cho tới trò bài bạc ở Gaming Hell.
Em ước gì chuyến về Thăm nhà vừa rồi của ngài kéo dài hơn. Nếu thế thì chúng ta đã được Kỷ Niệm Ngày Trong Đại này bên nhau. Nhưng ở Ai Cập ngài hạnh phúc hơn nhiều, em biết điều đó.
Song nếu còn lưu lại ở đây, hẳn ngài đã không được phép trở lại Ai Cập nữa rồi.
Không lâu sau khi ngài Khởi Hành, bọn em đã vướng vào một VỤ KHỦNG HOẢNG với Cha Mẹ ngài. Như ngài biết, em luôn bảo vệ Người Lớn khỏi Sự Thật. Em đã giải thích cho ông bà Atherton hiểu rằng Bệnh Dịch Hạch ở Ai Cập không phải là cái
BỆNH TRUYỀN NHIỄM NGUY HIỂM CHẾT NGƯỜI từng xảy ra vào Thời Trung cổ, mà chỉ có mỗi một người trong số ít du khách hay ốm yếu bệnh tật mới thường mắc phải thôi. Nhưng chỉ Mấy Tuần sau khi tàu của ngài nhổ neo, Kẻ Rỗi Hơi nào đó Đã Nói Cho Họ Biết Sự Thật! Họ ĐIÊN TIẾT, tới mức YÊU CẦU con Tàu quay lại! Em bảo họ nếu phải trở lại thì ngài sẽ chết mất, nhưng họ nói em đang bi kịch hóa vấn đề một cách thái quá. Em ư! Ngài có tin được không? Rõ thật lươn ngắn lại chê chạch dài Nhưng thôi em phải dừng bút đây. Chú ấy đến rồi.
Không có thời gian để Kể Đầu Đuôi Câu Chuyện. Chỉ cần biết Cha Dượng em đã Xử Lý xong Vụ Này, và hiện giờ ngài được AN TOÀN.
Vỉnh biệt, Bạn của em. Em không biết liệu có còn được gặp lại ngài nữa không - Ôi, chết tiệt. Phải đi đây.
Thân mến,
Olivia Carsington
TB. À, em bỏ “Wingate” trong tên em đi rồi, và ngài sẽ biết tại sao sau khi em kể với ngài điều Chú em đã nói về Mẹ em. Nếu Cha em còn sống, hẳn ông đã không chấp nhận cả hai bọn họ, ngài cũng biết rồi đấy - Quỷ tha ma bắt chú em đi! Chú ấy không đợi em đâu.
o O o
Trong một ngôi làng cách Edinburgh mười dặm,
Scotland Tháng Năm 1826
Hai năm nay, không có ai sống ở lâu đài Gorewood.
Ông Dalmay tuổi cao sức yếu, phải chuyển tới sống trong một dinh thự hiện đại ấm áp khô thoáng hơn ở Edinburgh từ mấy năm trước. Trợ lý của ông ta vẫn chưa tìm được người thuê lâu đài, trong khi người coi sóc lâu đài thì gặp tai nạn từ mùa xuân năm ngoái đến giờ vẫn chưa quay trở lại. Đó là lý do tại sao công việc phục chế và tu sửa dần dần đình trệ - việc này đã kéo dài triền miên, phải nói là trong suốt thời gian ông Dalmay sống ở lâu đài.
Chính vì thế, trong buổi tối mùa xuân này, Jock và Roy Rankin mới tha hồ tự do sục sạo tòa lâu đài.
Như thường lệ, chúng đang đào bới. Chúng đã rút ra kinh nghiệm là những phiến đá tuyệt đẹp trên lan can gác thượng không thể nguyên vẹn nếu thả từ độ cao hơn ba mươi mét xuống mặt đất. ở tầng hầm ngập rác rưởi của lâu đài chắc sẽ dễ bẩy đá lên hơn. Trước đây, ai đó đã thử trộm một phiến đá ở cầu thang. Người nào thuê chúng chắc chắn sẽ trả hậu hĩnh cho những phiến đá còn lại.
Trong khi chúng đang đào một phiến đá khá lớn trên bậc thang dẫn từ một cái nền toàn vữa và gạch vụn nham nhở, ánh sáng từ đèn lồng chiếu lên một vật hình tròn trông không giống miếng vữa hay mảnh đá.
Jock nhặt nó lên nhìn chằm chằm. “Nhìn xem,” hắn nói.
Chính xác ra thì hắn không nói như thế. Hắn và Roy nói thứ tiếng Anh của dân Scotland, người nói tiếng Anh bình thường hẳn sẽ dễ dàng nhầm với tiếng Phạn hoặc
tiếng Albania.
“Mày kiếm được cái gì thế?” Roy hỏi.
“Hông bít. Khuy đồng à?”
“Đưa xem nào.”
Sau khi phủi lớp bụi đi, Roy nói, “Một cái huy hiệu, chắc vậy.” Hắn nhìn chăm chú vào vật đó.
“Huy hiệu cổ à?” Jock hỏi. “Loại đó có giá lắm đấy.”
“Có thể.” Roy chùi kỹ hơn rồi nhìn thêm hồi lâu. Xong hắn đánh vần một cách khó khăn, “R-E-X. Rồi đến một cái dấu, không phải chữ cái. Rồi đến C-A-R-O-L-V-S.”
Jock, trình độ đọc vốn chỉ đủ để nhận biết được bảng hiệu quán trọ, lên tiếng, “Cái gì đấy?”
Roy nhìn hắn. “Tiền,” hắn đáp gọn lỏn.
Chúng quay lại việc đào bới với cảm giác phấn khích mới mẻ.
London
Ngày 3 tháng Mười năm 1831
Peregrine Dalmay, Bá tước xứ Lisle, hết ngó sang cha lại nhìn sang mẹ. “Scotland ư? Con không đời nào tới đó đâu.”
Ông bà Hầu tước Atherton đưa mắt nhìn nhau. Lisle chẳng buồn dò đoán ẩn ý của cái nhìn đó. Cha mẹ chàng sống trong thế giới riêng của họ.
“Nhưng chúng ta đã trông đợi cả ở con,” mẹ chàng lên tiếng.
“Vì sao chứ?” chàng nói. “Trong lá thư gần đây nhất con đã nói rất rõ là con sẽ chỉ ở lại một thời gian ngắn rồi trở về Ai Cập ngay rồi còn gì.”
Cha mẹ chàng đã chờ đợi đến tận lúc này - ngay trước khi cả nhà phải lên đường tới Dinh thự Hargate - để nói với chàng về tình trạng khủng hoảng tại một trong những cơ ngơi ở Scotland của gia tộc Dalmay.
Tối nay ông bà Bá tước Hargate sẽ mở dạ yến khiêu vũ để mừng sinh nhật thứ chín mươi lăm của Eugenia, nữ Bá tước thừa kế[1] vùng Hargate, nữ chúa của gia tộc Carsington. Lisle đã từ Ai Cập trở về nhà để tham dự bữa tiệc đó, tất nhiên không phải chỉ vì có thể đây là cơ hội cuối cùng chàng được nhìn thấy quý bà già nua gian xảo ấy còn sống.
Mặc dù đã trưởng thành và cao tới gần mét tám, không còn ở trong vòng tay chăm bẵm của Rupert và Daphne Carsington nữa, nhưng Lisle vẫn coi ông bà Carsington là gia đình của mình. Họ là gia đình đúng nghĩa duy nhất mà chàng từng biết. Chàng không thể nào bỏ lỡ buổi lễ này.
Chàng rất mong được gặp cả gia đình họ, đặc biệt là Olivia. Chàng đã không gặp nàng năm năm trời rồi, kể từ lần cuối chàng về thăm nhà. Hai tuần trước, khi chàng về đến London thì nàng vẫn đang ở Derbyshire. Tận hôm qua nàng mới về nhà.
Do hôn ước không thành nên nàng đã về ngôi nhà của cha mẹ nàng ở vùng quê từ
đầu tháng Chín, chỉ mấy ngày sau lễ đăng quang của nữ hoàng. Đây là hôn ước lần thứ ba hoặc thứ tư hoặc thứ mười - nàng đã kể tất cả những lần hôn ước ấy trong thư nhưng chàng chẳng tài nào nhớ được - và lần này được xem là đã đánh đổ mọi kỷ lục trước đây về độ chóng vánh. Chưa đến hai giờ đồng hồ từ khi nàng chấp nhận chiếc nhẫn của ngài Gradfield cho tới lúc nàng gửi trả lại anh ta, kèm với một lá thư chi chít chữ viết hoa và gạch chân. Quá cay đắng khi nhận được lời khước từ đó, ngài Gradfield quay ra gây sự với một người ngoài cuộc chẳng có tội tình gì dẫn tới một cuộc đấu kiếm, cả hai đều đâm trúng nhau nhưng không ai mất mạng.
Nói cách khác, đó là sự kích động quen thuộc khi dính dáng tới Olivia.
Đương nhiên Lisle về nhà không phải vì cha mẹ mình. Họ rất lạ đời. Họ có con có cái, nhưng đó chẳng phải một gia đình. Họ dính lấy nhau như sam và chỉ mải mê với những màn tuồng chèo không hồi kết của mình.
Đây là một cảnh điển hình: ba người lớn của gia đình tập trung trong phòng khách, nói về một chủ đề mà những người bình thường chắc chắn sẽ để dành cho một cuộc thảo luận có lý trí vào một thời điểm phù hợp - chứ không phải ngay trước khi đi dự dạ tiệc khiêu vũ.
Có vẻ như lâu đài Gorewood ngày càng xập xệ suốt ba hay bốn trăm năm qua và trong cả mấy thế kỷ đó thi thoảng lắm nó mới được tu sửa một lần. Chẳng biết vì lý do gì, cha mẹ chàng đột nhiên quyết định khôi phục lại vẻ huy hoàng trước kia của tòa lâu đài, và chàng phải tới đó trông nom công trình, bởi vì ở đó có vấn đề về... ma?
“Nhưng con phải đi,” mẹ chàng nói. “Phải có ai đó đi. Phải có ai đó làm gì đấy."
“Phải có ai đó làm trợ lý điền thổ cho cha mẹ chứ,” Lisle lên tiếng. “Thật kỳ cục khi khắp xứ Midlothian mà Mains không kiếm được người làm. Con tưởng người Scotland đang khát việc lắm chứ nhỉ.”
Chàng bước lại bên lò sưởi để hơ tay.
Mới từ Ai Cập về được mấy tuần nên chàng vẫn chưa thích ứng được với khí hậu ở đây. Với chàng, mùa thu xứ Anh thật chẳng khác gì mùa đông băng giá. Scotland quả là khắc nghiệt không chịu nổi. Cho dù đang giữa mùa hè vậy mà thời tiết ở đó vẫn thật khủng khiếp: chẳng tuyết dày hay mưa đá thì cũng ảm đạm, gió chướng, mưa dầm.
Chàng chẳng nề hà thời tiết gay gắt khó chịu đó. Nói thật, điều kiện ở Ai Cập còn khắc nghiệt hơn nhiều. Nhưng Ai Cập bày ra trước mắt những thế giới đang chờ chàng phát hiện. Scotland thì chẳng có gì để khám phá, chẳng có bí ẩn cổ xưa nào để khai quật.
“Mains đã cố hết sức rồi, thậm chí cả hối lộ nữa,” cha chàng nói. “Chúng ta cần có một người đàn ông trong gia đình có mặt ở đó. Con biết tính cố kết gia tộc của người Scotland ra sao rồi đấy. Mọi người muốn ông chủ tòa lâu đài đó coi sóc mọi việc. Cha không thể đi được. Cha không thể để mặc mẹ con trong tình trạng sức khỏe yếu ớt thế này được.”
Nói cách khác, mẹ chàng lại đang mang bầu.
“Có vẻ như anh phải bỏ rơi em rồi, anh yêu,” mẹ chàng nói, đặt một bàn tay ẻo lả
lên đầu. “Peregrine chẳng bao giờ quan tâm tới cái gì ngoài tiếng Hy Lạp, Latin, với cả Toxic của nó.”
“Coptic,” Lisle nói. “Ngôn ngữ cổ xưa của...”
“Lúc nào mà chẳng là Ai Cập,” mẹ chàng sụt sịt ngắt lời. “Lúc nào mà chả là mấy cái kim tự tháp và xác ướp với lại giấy da, có bao giờ là chúng ta đâu. Các em trai con thậm chí còn chẳng biết con là ai!”
“Bọn nó biết rõ ấy chứ,” Lisle cự lại. “Con là người gửi từ nước ngoài về cho bọn nó tất cả những thứ đồ thú vị nhất.”
Với bọn chúng, chàng là một ông anh bảnh bao và bí ẩn đang trải qua những cuộc phiêu lưu đáng say mê trên một vùng đất hoang dại và nguy hiểm. Và quả thực chàng đã gửi cho chúng toàn những thứ quà có thể làm bọn con trai sướng điên người: xác ướp mèo và chim, da rắn, răng cá sấu, bọ cạp được bảo quản tuyệt đẹp. Chàng còn viết thư cho bọn nhỏ rất đều đặn.
Thế nhưng chàng cũng không thể dập tắt tiếng nói trong đầu kết tội chàng đang bỏ rơi các em mình. Thật chẳng hay ho gì khi nghĩ rằng ở đây chàng không làm được gì cho bọn nhỏ, ngoại trừ chia sẻ nỗi khốn khổ của chúng.
Chỉ có ngài Rathbourne - nổi tiếng khắp giới thượng lưu với danh hiệu Đức Ngài Hoàn Hảo - là đối phó được với cha mẹ chàng, ông đã cứu Lisle khỏi tay họ. Nhưng giờ thì Rathbourne đã có gia đình riêng rồi.
Lisle biết mình cần phải làm gì đó cho các em. Nhưng công việc tu sửa lâu đài này thật là vớ vẩn. Chàng sẽ phải trì hoãn việc trở lại Ai Cập trong bao lâu? Mà vì cái gì mới được chứ?
“Con không hiểu chuyện con sợ run cầm cập trong một tòa lâu đài cũ kỹ, ẩm ướt, sắp sập tới nơi thì có ích gì cho các em con cơ chứ?” chàng nói. “Con không thể tưởng tượng ra có công việc gì nực cười hơn việc đi bốn trăm dặm đường để tới cứu một cơ số dân lao động mê tín dị đoan khỏi tay ma quỷ. Nói vậy không có nghĩa là con biết dân làng đó sợ cái gì. Lâu đài nào ở Scotland mà chả bị ma ám. Mọi nơi đều bị ám. Chiến địa. Cây cối. Rặng đá. Người ta mê mẩn những con ma của mình.”
“Chuyện này còn hơn cả ma quỷ ấy chứ,” cha chàng lên tiếng. “Đã xảy ra nhiều tai nạn thật kinh hoàng, có rất nhiều tiếng kêu khiếp đảm trong đêm chết lặng.”
“Người ta nói rằng một lời nguyền ngủ yên từ rất lâu đã bừng tỉnh lại khi ông chú Frederick Dalmay vô tình bước lên mộ bà cụ tổ của Malcom MacFetridge,” mẹ chàng rùng mình nói. “Sau đó, sức khỏe của Frederick ngay lập tức bắt đầu suy giảm. Ba năm sau thì ông ta chết!”
Lisle nhìn quanh, thầm ước - đây chẳng phải lần đầu - có ai đó để chàng có thể quay sang mà bảo, “Tin nổi chuyện này không?”
Mặc dù muốn thấy cha mẹ có lý hơn mình còn khó hơn muốn gặp kỳ lân, nhưng sự chính trực trong Lisle buộc chàng phải chỉ ra sự thật.
“Ông Frederick Dalmay đã chín mươi tư tuổi rồi,” chàng bảo. “ông mất khi đang ngủ. Trong một ngôi nhà ở Edinburgh, cách tòa lâu đài được cho là bị nguyền rủa kia tới mười dặm.”
“Thế thì sao chứ,” cha cậu nói. “Vấn đề là lâu đài Gorewood là tài sản của dòng họ Dalmay và nó đang bị phá hủy!”
Thế mà tới tận bây giờ hai người mới buồn quan tâm tới nó, Lisle nghĩ, ông chú Frederick đã để mặc tòa lâu đài đó hàng mấy năm nay rồi, và cha mẹ chàng cũng chả thèm đoái hoài gì.
Tại sao bỗng nhiên nó lại trở nên quan trọng thế?
Thì còn làm sao được nữa? Chàng đang ở nhà nên không thể lờ cha mẹ đi theo cái cách chàng đã lờ những lá thư của họ. Đây là mánh khóe để giữ chàng ở nước Anh. Không phải bởi vì họ cần chàng hay muốn có chàng. Đơn giản họ nghĩ đây là nơi chàng nên ở.
“Nó thì quan tâm gì chứ?” mẹ chàng thổn thức. “Đã bao giờ Peregrine quan tâm đến chúng ta chưa?” Bà vùng vằng đứng dậy khỏi ghế và đi về phía cửa sổ, cứ như thể bà sẽ lao mình ra ngoài đó trong nỗi tuyệt vọng vậy.
Lisle chẳng bận tâm. Mẹ chàng không đời nào quẳng mình ra ngoài cửa sổ hay đập đầu vào bệ lò sưởi. Bà chỉ giả bộ như sẽ làm thế thôi.
Thay vì suy nghĩ chín chắn, cha mẹ chàng lại thường thích diễn kịch.
“Ôi Jasper, chúng ta đã phạm tội ác khủng khiếp nào tới nỗi phải chịu hình phạt có đứa con lạnh lùng vô tâm như thế này?” bà kêu gào than khóc.
“Ôi Lisle, ôi Lisle.” Hầu tước Atherton ôm đầu và biểu diễn tư-thế-vua-Lear yêu thích của ông. “Một người đàn ông biết dựa dẫm vào ai đây nếu không phải là cậu con trai cả đồng thời là người thừa kế của mình?”
Trước khi ông kịp tuôn ra bài diễn thuyết quen thuộc về bầy quỷ sứ bạc bẽo lạnh lùng và những đứa con vô ơn bội nghĩa, mẹ chàng đã lên tiếng. “Đây là cái giá chúng ta phải trả vì đã quá nuông chiều con,” bà nói, nước mắt lưng tròng. “Đây là phần thưởng cho chúng ta khi trao con cho Rupert Carsington, kẻ vô trách nhiệm nhất nước Anh.”
“Với con thì chỉ có nhà Carsington là đáng quan tâm,” cha chàng nói. “Suốt chừng ấy năm sống ở Ai Cập, con đã viết cho cha mẹ bao nhiêu lá thư nào? Cha có thể đếm trên đầu ngón tay.”
“Nhưng tại sao nó lại phải viết khi mà nó chẳng bao giờ nghĩ đến chúng ta cơ chứ?” mẹ chàng rền rỉ.
“Tôi chỉ đòi hỏi một việc nhỏ nhoi, thế mà nó đáp lại bằng sự nhạo báng!” Cha chàng lao về phía lò sưởi và đấm thùm thụp lên bệ lò. “Trời ơi, làm sao tôi chịu được chuyện này đây? Cứ phải lo âu sầu não vì con như vầy thì cha đến phải xuống mồ sớm thôi Lisle ạ, cha cam đoan là sẽ như thế đấy.”
“Ôi người thương yêu nhất của em, đừng nói thế chứ!” mẹ chàng rú lên. “Em làm sao sống nổi nếu không có anh. Em sẽ nối gót chân anh ngay thôi, và mấy thằng bé tội nghiệp sẽ thành cô nhi cả.” Bà quay ngoắt khỏi cửa sổ chạy tới gieo mình xuống ghế rồi bắt đầu khóc nấc lên thảm thiết.
Cha chàng vung tay chỉ về phía người vợ đang nức nở điên cuồng của mình. “Hãy nhìn xem con vừa làm gì với mẹ con đi!”
“Mẹ lúc nào mà chẳng như thế ạ,” Lisle lên tiếng.
Cha chàng buông thõng tay xuống và giận dữ rời khỏi chỗ chàng, ông rút khăn mùi soa ra dúi vào tay vợ - rất kịp lúc, bởi vì bà cũng đang cần rút khăn của mình ra lắm đây. Nước mắt nước mũi bà đã giàn giụa cả.
“Vì bọn trẻ, chúng ta phải cầu nguyện sao cho ngày đó không bao giờ đến,” cha chàng vừa nói vừa vỗ nhẹ lên vai vợ. Mắt ông cũng nhòa lệ. “Dĩ nhiên là Lisle rồi sẽ rong chơi giữa đám người kém văn minh, bỏ rơi các em nó vào tay những kẻ xa lạ vô tâm vô tình.”
Giờ các em chàng cũng đã phải sống giữa những người xa lạ vô tâm rồi, Lisle thầm nghĩ. Nếu mồ côi, chúng sẽ tới ở với một trong các bà cô của chàng. Mặc dù cách đây mấy năm, ngài Atherton đã mất đi một người em gái - vợ đầu của ngài Rathbourne - nhưng sáu chị em gái khác của ông vẫn mạnh khỏe cả, và họ sẽ không bận lòng nếu phải nuôi thêm vài ba đửa nữa cùng với đàn con đông đúc của mình. Nói thế không có nghĩa là họ thực sự trực tiếp chăm sóc con cái mình. Người hầu, người giám hộ và gia sư sẽ nuôi dạy chúng. Cha mẹ thì chẳng làm gì mấy ngoài việc nhúng mũi vào khi chẳng ai cần, tìm cách quấy quả mọi người và nghĩ ra những kế hoạch cắc cớ nực cười làm người khác tốn thời gian.
Chàng sẽ không cho phép cha mẹ tùy ý nhào nặn chàng. Nếu để mình bị cuốn vào vòng xoáy tình cảm, chàng sẽ không bao giờ thoát ra được.
Cách để trụ vững trên mảnh đất hà khắc này là bám vào sự thật.
“Bọn nhỏ có cả hàng dài người thân chăm sóc chúng, và có thừa tiền để sống thoải mái,” chàng nói. “Chúng sẽ không bị ngược đãi và chết đói trong trại mồ côi. Thế nên con sẽ không tới Scotland vì một việc ngớ ngẩn đâu.”
“Sao con có thể tàn nhẫn tới mức ấy?” mẹ chàng nức nở. “Một gia sản của nhà ta đang có nguy cơ biến mất đấy!” Bà vật người ra ghế, để chiếc khăn tay của chồng rủ xuống từ những ngón tay run lẩy bẩy của mình, nhìn như bà sắp sửa ngất lịm đi.
Người quản gia bước vào. Như mọi khi, ông vờ như không nhìn thấy màn kịch ngẫu hứng về tình cảm gia đình đang diễn ra trước mắt.
Ông báo với họ xe ngựa đang chờ.
Xe ngựa đã chuyển bánh nhưng màn kịch không chấm dứt mà vẫn tiếp tục trong suốt hành trình tới dinh thự Hargate. Vì khởi hành muộn mà đường sá thì đông nên họ nằm trong số những người đến muộn nhất.
Trước và sau khi chào chủ nhà cùng đông đủ các cặp vợ chồng nhà Carsington, rồi trong khoảng thời gian trước lúc họ đi qua đám đông để tới khu vực dành cho khách danh dự, cha mẹ Lisle liên tục nhắc đi nhắc lại bài chỉ trích của họ.
Chủ nhân của bữa tiệc sinh nhật, nữ Bá tước thừa kế Hargate, trông chẳng có gì thay đổi. Qua thư của Olivia, chàng biết rằng Bà Cố vẫn tán gẫu, say rượu và chơi bài với bạn bè - nhà Carsington gọi bạn bè của Bà Cố là các Nữ Yêu - cũng như vẫn tìm được thời gian và năng lượng dư thừa để đe nẹt cả gia đình.
Lúc này Bà Cố đang vận trên mình bộ cánh mới nhất và đắt nhất, tay cầm một ly rượu, ngồi trên ngai, các Nữ Yêu xúm xít xung quanh bà giống như những quý bà
đang phục dịch nữ hoàng. Cũng có thể là giống như đám kền kền vây quanh kền kền chúa, ai thích nghĩ thế nào cũng được.
“Trông cháu tiều tụy một cách đáng buồn, Penelope,” Bà Cố bảo mẹ chàng. “Một số người tươi như hoa nở khi họ mang bầu, số khác thì không. Tiếc rằng cháu không thuộc số bừng nở rực rỡ - trừ cái mũi của cháu. Nó đỏ lựng lên kìa, cả mắt của cháu nữa. Hồi bằng tuổi cháu, ta chẳng bao giờ khóc nhiều như thế, mà cũng không sinh ra những đứa con ngỗ ngược. Ngày trước nếu cháu hỏi thì ta đã khuyên cháu sinh nở một lèo luôn, chứ không ngừng lại giữa chừng rồi đợi cho đến tận khi nhan sắc mất hút và cơ thể nhão xệ rồi mới đẻ tiếp.”
Tạm tha cho mẹ chàng - lúc đó đang nín thinh như hến và mặt mày đỏ lựng - quý bà già nua gật đầu với Lisle. “A, kẻ lang bạt đã trở về, làn da rám nắng, như mọi khi. Ta dám chắc là cháu sẽ choáng khi thấy đám con gái ở đây đều ăn vận kín cổng cao tường, nhưng cháu sẽ phải chịu đựng thôi.”
Mấy người bạn hiểu bà vừa chơi chữ nên cười ầm lên.
“Lột ra[2], chính thế,” phu nhân Cooper lên tiếng. Bà trẻ hơn Bà Cố, mới chỉ tầm bảy mươi tuổi. “Bà sẽ đánh cược gì đây Eugenia, khi tôi bảo đám con gái đang tò mò muốn biết liệu khắp người anh chàng này có rám nắng như khuôn mặt hay không?”
Bên cạnh chàng, mẹ chàng khẽ rên lên.
Nữ Bá tước thừa kế ngả người về phía chàng. “Lúc nào cũng là một tiểu thư nhỏ bé yểu điệu,” Bà Cố nói bằng giọng thì thầm rất kịch. “Đừng bận tâm tới con bé. Đây là bữa tiệc của ta, và ta muốn thanh niên phải được vui vẻ. Ở đây đầy rẫy các thiếu nữ xinh đẹp, và hết thảy chúng nó đều đang vô cùng khao khát được gặp kẻ phiêu lưu vĩ đại của chúng ta. Giờ thì tiến lên nào, Lisle. Nếu cháu thấy Olivia đang đính hôn với ai thì hãy bảo nó đừng có lố bịch như thế.”
Bà Cố vẫy vẫy tay xua chàng đi, rồi quay trở lại tra tấn phụ huynh của chàng. Lisle bỏ rơi họ mà không hề cảm thấy lương tâm cắn rứt, và chàng mất hút vào đám đông.
Phòng khiêu vũ, đúng như nữ Bá tước thừa kế đã hứa, đầy ắp những thiếu nữ xinh đẹp, và Lisle không có cách nào cưỡng được họ, dù họ có kín cổng cao tường hay không. Đương nhiên chàng chẳng có gì chống đối chuyện khiêu vũ. Chàng dễ dàng tìm được bạn nhảy và khiêu vũ rất vui vẻ.
Tuy nhiên, suốt buổi ánh mắt của chàng vẫn đưa khắp đám đông, tìm kiếm mái đầu đỏ rực ấy.
Nếu không khiêu vũ, chắc hẳn Olivia đang chơi bài - và lừa đảo bất cứ kẻ nào đủ dũng khí chơi với nàng. Hoặc có thể nàng đang ở trong một góc tối nào đó để đính hôn lần nữa, như nữ Bá tước thừa kế đã dự đoán. Những cuộc đính hôn tan vỡ nhiều không kể xiết của Olivia - những hôn ước hẳn phải khiến con gái của một gia đình kém quyền lực và ít giàu có hơn suy sụp - sẽ không thể làm nản lòng những kẻ cầu hôn. Họ cũng chẳng bận tâm đến việc nàng không xinh đẹp tuyệt trần. Olivia Carsington luôn là một món mồi ngon.
Ông bố quá cố của nàng, Jack Wingate, là người con trai thứ vô trách nhiệm của Bá tước Fosbury, ông cụ mới chết gần đây và để lại cho nàng cả một gia sản. Tử tước Rathbourne, cha dượng của nàng đồng thời là chú của Lisle, cũng có vô khối tiền
bạc, chưa kể ông ta còn là người thừa kế của Bá tước Hargate, nhân vật sở hữu khối tài sản còn lớn hơn nhiều.
Trong suốt buổi khiêu vũ, nàng là chủ đề thường xuyên của các cuộc chuyện trò: chiếc váy táo bạo mà nàng đã mặc tới lễ đăng quang tháng trước, cuộc đua xe ngựa của nàng với phu nhân Davenport, trận đấu kiếm nàng thách đấu với ngài BentWhistle - vì ông ta đã đánh một cậu bé người hầu - vân vân và vân vân.
Nàng đã bước chân vào xã hội thượng lưu được bốn năm rồi, thế mà nàng vẫn chưa kết hôn, và nàng vẫn là đề tài bàn tán của cả London.
Điều này chẳng mảy may khiến chàng ngạc nhiên.
Mẹ nàng, bà Bathsheba, sinh ra trong một chi rất khó ưa của dòng họ DeLucey: chi nổi tiếng có nhiều kẻ lừa đảo, quân bịp bợm và người tái hôn. Trước khi Bathsheba Wingate cưới ngài Rathbourne, Olivia đã cho thấy những dấu hiệu mười mươi rằng nàng sẽ đi theo bước chân của các bậc tiền bối. Dầu cho nền giáo dục quý tộc đã che lấp những dấu hiệu đó nhưng tính cách của Olivia thì rõ ràng là không hề thay đổi.
Lisle còn nhớ những dòng thư nàng gửi tới Ai Cập cho chàng chẳng bao lâu sau khi đứa em trai đầu tiên của chàng ra đời.
Em mong chờ ngày mình trở thành cô gái độc thân. Khi đó em sẽ được sống một cuộc đời không ngừng biến động.
Xét về chuyện đó, nàng đã thành công.
Chàng sắp bắt đầu chủ động đi kiếm nàng thì chợt để ý thấy đám thanh niên đang làm dáng và bông đùa với ai đó trong một góc của căn phòng - rõ ràng là họ đang tranh giành sự ưu ái của nữ hoàng sắc đẹp.
Chàng đi về hướng đó.
Đám người đông tới nỗi thoạt đầu tất cả những gì chàng có thể nhìn thấy là một mái tóc tạo kiểu thời thượng ngạo mạn nổi lên trên tất thảy những cái đầu đàn ông. Hai con chim thiên đường trông như đang cắm mỏ vào một cuộn to đùng toàn... tóc đỏ. Đỏ rực.
Trên thế gian này chỉ có một cô gái có mái tóc đỏ như thế mà thôi.
Chà, thế đấy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy Olivia đang ngồi giữa đám đàn ông đó. Nàng có địa vị và món hồi môn cực kỳ béo bở. Từng ấy là đủ để bù cho...
Đám đông rẽ ra nên chàng thấy được toàn bộ cảnh tượng. Nàng quay sang phía chàng và chàng sững lại.
Chàng đã quên mất rồi.
Đôi mắt to xanh biêng biếc ấy.
Trong một khoảnh khắc, chàng đứng đó bất động, lạc lối giữa màu xanh sâu thẳm như trời đêm Ai Cập.
Rồi chàng chớp mắt và nhìn lại nàng, từ đôi chim lố bịch đang treo mình trên những lọn tóc đỏ búi chặt tới đôi giày đế bằng mũi nhọn ló ra từ phía dưới hàng mớ diềm đăng ten và nếp xếp ở đường viền chiếc váy xanh nhạt của nàng.
Rồi ánh mắt chàng lại ngước lên, và tâm trí chàng chầm chậm trượt đi.
Ở giữa mái tóc và đôi giày, chàng thấy cái cổ thanh mảnh, đôi bờ vai mịn màng và bộ ngực quá đỗi căng tròn đang phô bày... và thấp hơn phía dưới là vòng eo nhỏ nhắn yêu kiều lượn xuống bờ hông đầy nữ tính...
Không, chắc chắn không đúng. Olivia có rất nhiều thứ. Nhưng xinh đẹp không nằm trong số đó. Nổi bật, đúng: đôi mắt xanh đến lặng người và mái tóc rực rỡ. Những thứ đó của nàng chẳng ai khác có được. Và phải, dưới kiểu tóc ngạo mạn kia đích thị là gương mặt nàng... nhưng không, không phải thế.
Chàng nhìn chằm chằm, ánh mắt của chàng hết đưa lên lại đưa xuống, hết lần này tới lần khác. Sức nóng của căn phòng bỗng nhiên trở nên quá ngột ngạt, tim chàng đập thình thịch lạ thường và tâm trí chàng chới với trong một màn sương mù ký ức dày đặc, ở đó chàng đang cố tìm cách lý giải những gì mắt mình trông thấy.
Chàng lờ mờ nhận ra rằng mình cần phải nói gì đó, nhưng chẳng thấy ý tứ nào xuất hiện trong đầu. Chàng đã quen sống ở một thế giới khác, vùng đất khác, những kiểu đàn ông và phụ nữ khác. Mặc dù chàng đã cố để hòa hợp với hoàn cảnh này, nhưng đâu có dễ. Từ trước tới nay chàng chưa bao giờ biết nói những gì mình không nghĩ, còn giờ thì chàng lại không biết làm sao để nói lên được điều mình đang nghĩ.
Trong khoảnh khắc ấy, tất cả những gì chàng đã học được trên đời đều bỗng chốc tiêu tan. Chàng trông thấy một cảnh mộng vượt ra khỏi mọi quy tắc, mọi ngôn từ vô vị và mọi cách thức hợp lý để ngắm nhìn và di chuyển, hình ảnh ấy xé tan mọi thứ tầm thường kia thành từng mảnh và thổi bay đi.
“Ngài Lisle,” nàng cất tiếng, rồi nghiêng đầu duyên dáng, đám lông vũ của đôi chim trên đầu nàng khẽ rung rinh theo. “Mọi người đang đánh cược đấy, xem liệu ngài có tới bữa tiệc sinh nhật của Bà Cố không.”
Khi nghe giọng nói quá đỗi thân quen của nàng, lý trí chàng bắt đầu khai đường mở lối thoát khỏi vũng lầy hỗn độn.
Đây là Olivia, lý trí chàng lên tiếng. Mọi điều thuộc về nàng: tiếng nói, đôi mắt, mái tóc, gương mặt. Phải, gương mặt nàng đã khác bởi giờ đây nó trở nên mềm mại nữ tính hơn. Má nàng mịn hơn, tròn hơn. Khuôn miệng nàng đầy đặn hơn...
Chàng nhận ra mọi người đang kháo nhau, kẻ này hỏi chàng là ai, người kia trả lời. Nhưng tất cả dường như thuộc về thế giới khác, không hề liên quan đến chàng. Ngoài Olivia, chàng không còn nhìn được hay nghe thấy hay nghĩ ngợi về bất cứ điều gì khác nữa.
Rồi chàng nhận thấy đôi mắt nàng thoáng cười và khuôn miệng nàng khẽ cong lên.
Chàng rơi đánh thịch trở lại mặt đất, tiếng rơi mạnh tới nỗi chừng như đầu kia căn phòng khiêu vũ rộng thênh thang cũng có thể nghe thấy.
“Có đổi cả thế giới ta cũng không bỏ lỡ bữa tiệc này được,” chàng nói.
“Em rất vui được gặp ngài, không chỉ bởi vì em vừa thắng cược.” Nàng chậm rãi vừa quan sát vừa đánh giá chàng, cái nhìn ấy khiến chàng nổi da gà và nóng rực toàn thân.
Ôi Chúa ơi, giờ nàng nguy hiểm hơn bao giờ hết.
Chàng tự hỏi cái nhìn ấy nhằm vào ai. Nàng chỉ đang thử nghiệm sức mạnh của bản thân hay nàng đang cố đồng loạt kích động tất cả những kẻ ngưỡng mộ mình bằng cách vờ như chàng là người đàn ông duy nhất trong căn phòng này?
Dù là gì đi nữa thì nàng cũng rất xuất sắc.
Nhưng nói gì thì nói, thế là quá đủ rồi.
Nàng không còn là cô bé nữa - ấy là nếu nàng đã từng là cô bé - và chàng cũng không còn là cậu bé. Chàng biết cách chơi trò này. Chàng để ánh mắt mình trượt xuống ngực nàng. “Em lớn thật rồi,” chàng nói.
“Em biết rồi, ngài đang chế nhạo mái tóc của em,” nàng đáp.
Nàng biết thừa là chàng không nói tới chuyện tóc tai. Olivia chưa bao giờ ngờ nghệch.
Nhưng chàng hiểu ẩn ý của nàng và nghiêm túc đánh giá kiểu tóc ấy. Mặc dù cột tóc của nàng cao vọt lên trên đám thanh niên, nhưng chàng đủ cao để thấy được đôi chim. Chàng nhận thấy những phụ nữ khác cũng có kiểu tóc kỳ cục không kém. Mấy thập kỷ trở lại đây, trong khi trang phục của đàn ông ngày càng nghiêm túc thì trang phục của phụ nữ ngày càng loạn xị.
“Mấy con chim đã đậu trên đầu em,” chàng nói. “Rồi chết ở đó.”
“Hẳn chúng lại cho rằng mình vừa được lên thiên đường,” một gã thanh niên đứng bên cạnh lên tiếng.
“Trông như mấy cái xác chết cứng đờ ấy,” chàng tiếp.
Olivia thoáng mỉm cười với chàng. Có gì đó thật kỳ lạ diễn ra trong ngực chàng. Có gì đó khác nữa diễn ra ở phía dưới thấp hơn, không hoàn toàn lạ lẫm mà cũng chẳng tuyệt đối thân quen.
Chàng cố dìm những cảm xúc ấy vào quên lãng.
Nàng không thể thôi cái trò ấy đi, chàng tự nhủ. Từ khi sinh ra nàng đã vậy rồi, lúc nào cũng là DeLucey Đáng Sợ. Chàng không được nghĩ xa xôi. Nàng là bạn, là đồng minh, và trên hết, là em gái của chàng. Chàng buộc mình tưởng tượng về nàng như ngày đầu gặp nàng: một cô bé mười hai tuổi gầy gò cứ lấy sổ của chàng đập vào đầu chàng. Một cô bé lôi cuốn chết người, lúc nào cũng ưa trêu chọc.
“Em đã ăn mặc thế này vì ngài đấy,” nàng nói. “Để bày tỏ lòng kính trọng trước Hành trình Chinh phục của ngài ở Ai Cập. Em đã đặt hàng tấm lụa may chiếc váy này sao cho tiệp với màu xanh của dòng sông Nile trong những bức tranh vẽ bằng màu nước của ngài. Vì không tìm được cò quăm nên bọn em đành phải dùng hai con chim thiên đường.”
Hạ giọng thấp xuống đầy bí ẩn, nàng ngả người về phía chàng, để lộ ra rõ ràng và cận cảnh hơn khoảng da thịt trắng ngần, tròn đầy vừa vặn đôi bàn tay đàn ông. Ở khoảng lộ ra chừng một phần tư khuôn ngực ấy, chàng nhận thấy hơi ẩm mỏng mảnh mà sức nóng của phòng khiêu vũ phủ lên lấp lánh trên da nàng. Chàng cũng nhận ra hương thơm thiếu nữ tỏa ra từ đó: sự hòa quyện đầy nguy hiểm của một khoảng da thịt ẩm ướt và một làn hương dịu nhẹ thoảng bay.
Giỏi lắm, nàng hẳn đang cảnh cáo chàng đây mà.
Hãy nghĩ tới cô bé mười hai tuổi gầy gò, chàng tự răn mình.
“Em muốn ăn mặc giống mấy quý bà trên những tấm thiệp chụp các bức tranh trong hầm mộ mà ngài đã gửi cho em,” nàng nói tiếp, “nhưng bị cấm.”
Âm điệu và độ nhấn của từ bị cấm làm tâm trí chàng dịu xuống. Thực tế, chàng tự nhủ. Hãy bám lấy thực tế, như...
Tàn nhang trên da nàng đi đâu cả rồi?
Có lẽ ánh nến êm dịu của gian phòng đã làm nốt tàn nhang mờ đi. Có thể nàng đã độn ngực. Mà cũng có khi nàng đã thoa nước chanh lên đó chăng?
Ngừng nghĩ về ngực nàng ngay, ôi cái cách mà sự loạn trí lừa dối con người. Nàng đang nói gì ấy nhỉ? Cái gì đấy về tranh ảnh trong hầm mộ.
Chàng lấp đầy tâm trí bằng những hình người phẳng lì trên tường đá.
“Nói cho đúng thì phụ nữ trong các bức tranh trong hầm mộ ấy không mặc đồ,” chàng nói. “Khi còn sống, có vẻ như họ bị bó chặt trong tấm vải lanh siêu mỏng.”
Trang phục đó đúng là không còn gì để tưởng tượng nữa, có lẽ vì thế mà thậm chí chàng - người luôn muốn bám lấy thực tế và để lãnh địa tưởng tượng lại cho cha mẹ mình - không hề khó hình dung ra thân hình tròn trịa lúc này của Olivia quấn trong một tấm vải lanh mỏng dính thì như thế nào.
“Rồi khi chết,” chàng nói tiếp, “họ lại mặc quá nhiều, quấn chặt từ đầu tới chân bao nhiêu lớp vải lanh. Cả hai lối phục trang ấy dường như chẳng thực tế với bữa tiệc khiêu vũ của người Anh.”
“Ngài không hề thay đổi,” nàng thẳng người dậy. “Luôn quá tầm thường.”
“Mặc kệ Lisle đi, anh ta chỉ biết quẳng cơ hội vàng qua cửa sổ thôi,” một gã khác lên tiếng. “Thay vì ca tụng tiểu thư đây - như mọi người đàn ông có mắt nên làm - và nỗ lực để giành được đặc ân của nàng, thì anh ta lại cứ lan man giảng giải đến chán về phong tục của những kẻ ngoại đạo.”
Phải, bởi vì có thế mới an toàn được ở chốn này.
“Sự chú ý của tôi không hề chệch hướng, ta xin đảm bảo như thế, thưa tiểu thư Carsington,” Lisle nói. “Lúc này thậm chí nó còn vững vàng yên vị nữa.”
Chàng những muốn bóp cổ ma quỷ nào đã cho nàng khuôn mặt và hình thể ấy - chẳng lẽ nàng còn cần thêm vũ khí hay sao. Chắc chắn đây là trò ma quỷ. Một vụ đổi chác nào đó xảy ra trong khoảng năm năm kể từ lần cuối Lisle gặp nàng. Dĩ nhiên là quỷ Sa tăng, như bất cứ kẻ nào khác, hẳn đã chịu phần thiệt thòi khủng khiếp nhất khi thương lượng với nàng.
Ở một góc tâm trí chàng, cái giọng nói vốn thường xuyên cảnh báo chàng về rắn, bọ cạp và bọn kẻ sát nhân ẩn mình trong bóng tối đang lên tiếng: Coi chừng.
Nhưng khỏi cần nói chàng cũng biết rồi, vì chàng hiểu Olivia quá rõ. Nàng quá nguy hiểm. Dù là xinh đẹp hay ấn tượng, ngực tròn đầy hay lép kẹp, ở
nàng luôn toát ra sự lôi cuốn không tài nào cưỡng được. Nàng dễ dàng làm say đắm những chàng trai thông minh, đa số họ đã từng chứng kiến nàng phá hủy sự thanh bình của những chàng trai thông minh không kém khác.
Chàng biết chứ. Những lá thư nàng gửi chẳng đầy rẫy những “sự thất vọng ngọt ngào” đấy sao. Kể từ lúc bước vào căn phòng này, chàng đã được nghe những câu chuyện khác. Chàng biết nàng là người như thế nào.
Vì là đàn ông nên tạm thời chàng mới chưa bị rối trí. Khi đàn ông gặp phụ nữ xinh đẹp thì nghiễm nhiên sẽ nảy sinh phản ứng thể xác như thế này. Chàng có cảm xúc thế này không biết bao nhiêu lần rồi. Lần này có phần xáo trộn chỉ bởi người mà chàng đang có cảm xúc lại là Olivia.
Nàng là bạn, là đồng minh, và trên hết, là em gái chàng.
Chàng vẫn luôn nghĩ về nàng như thế.
Và chàng sẽ tiếp tục nghĩ về nàng như thế, chàng tự nhủ.
Chàng chỉ hơi choáng váng một chút, tất cả có thế thôi. Chàng là kiểu đàn ông gần như ngày nào cũng gặp chuyện gây choáng váng, và từ những chuyện ấy mà chàng lớn khôn.
“Bởi lúc này sự chú ý của ta đã cố định một chỗ,” chàng nói, “nên có lẽ quý cô đây sẽ rộng lòng nhảy với ta điệu tiếp theo.”
“Đến lượt tôi chứ,” một trong số những chàng trai đang vây quanh nàng lên tiếng. “Tiểu thư Carsington đã hứa rồi.”
Olivia nạt chàng ta im lặng. “Ngài có thể đợi điệu sau, ngài Belder ạ. Lâu lắm rồi ngài Lisle đây mới về, mà chẳng mấy bữa ngài ấy lại đi rồi. Ngài ấy là người nay đây mai đó nhất thế gian. Nếu tôi không nắm lấy cơ hội này, ai mà biết được đến bao giờ tôi mới có cơ hội khác? Biết đâu ngài ấy sẽ bị đắm tàu. Cũng có thế ngài ấy sẽ bị cá sấu xơi hay bị rắn độc hoặc bọ cạp cắn. Có thể ngài ấy sẽ chết bị dịch bệnh. Ngài biết đấy, ngài ấy chẳng bao giờ hạnh phúc, trừ khi liều mạng để giúp nâng cao tri thức của chúng ta về một nền văn minh cổ đại. Tôi có thể khiêu vũ với ngài lúc nào chẳng được.”
Belder nhìn Lisle đằng đằng sát khí, nhưng lại mỉm cười với Olivia và nghe lời người đẹp.
Khi Lisle dẫn nàng đi, rốt cuộc chàng cũng hiểu tại sao vì nàng mà rất nhiều chàng trai vẫn cứ bắn nhau liên tục.
Tất cả bọn họ đều muốn có nàng đến phát điên; nàng biết điều đó nhưng chẳng bận tâm.
Chú thích
[1] Nữ Bá tước thừa kế (DoWager Countess): vợ của Bá tước quá cố và được thừa hưởng tước vị này sau khi chồng qua đời.
[2] Chơi chữ: bear (chịu đựng) và bare (lột, cởi bỏ).
BCHƯƠNG 2
àn tay đeo găng mà Olivia vừa cầm lấy thật là ấm áp và còn mạnh mẽ rắn rỏi hơn nàng nhớ. Khi bàn tay ấy đan vào tay nàng, cả cơ thể nàng ấm rực lên, điều ấy khiến nàng giật nẩy mình - nhưng đây quyết không phải là cú sốc đầu tiên của nàng trong đêm nay.
Trước đây nàng đã bao giờ cầm tay Lisle chưa? Nàng không tài nào nhớ được. Nhưng nàng thấy thật tự nhiên khi nắm tay chàng, đi bên chàng, dù chàng không còn là cậu bé nàng từng biết.
Ví như, chàng to lớn hơn rất nhiều, mà không chỉ về mặt thể xác, dù rằng chỉ riêng sự thay đổi ngoại hình ở chàng cũng đủ ấn tượng lắm rồi.
Mấy phút trước, khi lần đầu chàng tiến lại gần nàng, chàng đã chặn đứng tầm nhìn của nàng với mọi thứ khác trong gian phòng. Chàng luôn cao hơn nàng. Nhưng chàng không còn là một thiếu niên cao ngỏng nữa. Chàng đã trở thành đàn ông, phong thái đầy nam tính của chàng quả thực khiến người ta ngây ngất.
Nàng chẳng phải người duy nhất hoa mắt vì chàng. Trong đám người vây quanh nàng có mấy cô bạn gái. Nàng đã để ý thấy cách họ nhìn Lisle khi chàng tiến lại gần nàng. Giờ đây, khi chàng và nàng bước vào giữa đám đông, đi tới sàn khiêu vũ, nàng thấy bao nhiêu cái đầu quay lại - và lần này thì không chỉ có đàn ông, và không phải tất cả bọn họ đều nhìn nàng.
Nàng cũng đã nhìn chằm chằm ngay khi thấy chàng tiến vào đám đông, dù đã biết rất rõ về chàng. Chàng thu hút người khác bởi vì chàng chẳng giống ai.
Nàng âm thầm xét đoán, đánh giá chàng như nàng vẫn đánh giá mọi người, như bất kỳ ai giống DeLucey Đáng Sợ sẽ làm.
Mặt trời Ai Cập đã nhuộm sẫm da chàng thành màu đồng và tô sáng mái tóc chàng thành màu vàng nhạt, nhưng đó không phải là điểm duy nhất thay đổi ở chàng.
Chiếc áo choàng đen ôm lấy bờ vai vạm vỡ và thân hình mảnh dẻ của chàng, cái quần hằn lên đôi chân dài chắc nịch. Chiếc áo lanh của chàng trắng muốt, còn đôi giày thì đen bóng. Dù chàng cũng mặc đồ dạ tiệc nghiêm chỉnh như bao nhiêu thanh niên khác, nhưng chẳng hiểu sao có cảm giác như chàng không mặc áo quần đầy đủ, có lẽ bởi vì chẳng quý ông nào ý thức mạnh mẽ tới vậy về cơ thể cường tráng ẩn dưới lớp phục trang thanh lịch.
Nàng thấy nhiều cô gái để mắt tới chàng, ngừng trò chuyện để đánh giá chàng hoặc cố gắng bắt được ánh mắt của chàng.
Họ chỉ thấy cái vẻ bề ngoài. Nhưng nàng phải thừa nhận, chỉ riêng ngoại hình của chàng cũng đủ hấp dẫn rồi.
Nàng biết, trong những phương diện ẩn khuất hơn, chàng khác như thế này. Nền giáo dục của chàng không phải như của giới quý tộc thông thường. Daphne Carsington đã dạy dỗ chàng mọi điều, còn nhiều hơn cả những gì chàng học được từ trường trung học công lập và đại học. Rupert Carsington thì dạy chàng các kỹ năng
sinh tồn mà chẳng mấy quý ông cần đến: ví như cách cầm dao, hay làm thế nào để quẳng một gã đàn ông qua cửa sổ.
Mấy chuyện này thì nàng rõ. Tuy nhiên, nàng không hề chuẩn bị cho sự thay đổi trong giọng nói của chàng: dấu hiệu lờ mờ như trêu ngươi của một nhịp điệu du dương không phải của tiếng Anh ẩn trong chất giọng quý tộc, và cái cách mà âm thanh ấy gợi lên hình ảnh lều bạt, khăn xếp và phụ nữ bán khỏa thân uể oải trên những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ.
Cách chàng di chuyển cũng không còn như trước đây nữa. Suốt gần mười năm, chàng đã sống trong một thế giới nguy hiểm và phức tạp, ở đó chàng học cách di chuyển lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo hoặc rắn mang bành.
Làn da màu đồng và mái tóc vàng khiến người ta nghĩ đến loài hổ, nhưng như thế không lột tả được sự thay đổi của chàng. Chàng di chuyển như... nước. Khi chàng len qua đám đông, mọi người không ngừng rì rầm bàn tán. Quan sát chàng bước đi, phụ nữ ngất ngây choáng ngợp còn đàn ông thì tính chuyện giết chàng.
Là người đã học được cách nhận thức mọi thứ xung quanh, chàng biết rất rõ điều này, nàng chắc chắn như thế, mặc dù gương mặt chàng chẳng biểu lộ điều gì.
Nhưng vì đã quen chàng từ lâu, nàng biết rõ rằng con người chàng không lạnh lùng như bề ngoài. Ẩn dưới vẻ mô phạm, logic là bản tính bướng bỉnh, dữ dội. Nàng ngờ rằng bản tính ấy không hề thay đổi.
Hơn thế, chàng còn rất nóng nảy - theo chàng bảo thì gần đây cái tính này ngày càng khắc nghiệt hơn.
Nàng giật tay chàng. Chàng nhìn xuống nàng. Dưới ánh nến, đôi mắt xám của chàng lấp lánh ánh bạc.
“Lối này,” nàng cất tiếng.
Nàng dẫn chàng đi ngang qua một đám người hầu đang bê khay, buông tay chàng ra để lấy hai ly sâm banh trên một cái khay, rồi đi ra khỏi phòng khiêu vũ, bước tới hành lang rồi từ đó tiến sang phòng chờ. Sau một giây ngập ngừng, chàng theo nàng vào trong.
“Đóng cửa lại,” nàng nói.
“Olivia,” chàng nhắc.
“Ôi thôi nào,” nàng nói. “Cứ như em còn chút phẩm hạnh nào để mất không bằng.”
Chàng đóng cửa lại. “Sự thật là em có phẩm hạnh, dù ta tin chắc hẳn em đã phá hủy nó trong mấy năm vừa rồi.”
“Có rất ít thứ mà tiền bạc và địa vị không thể mua, trong đó có phẩm hạnh,” nàng đáp. “Ngài hãy cầm lấy một ly để em được chính thức chào đón ngài về nhà.” Chàng đỡ lấy chiếc ly nàng đưa, những ngón tay đeo găng của chàng khẽ chạm phải tay nàng.
Cái va chạm khiến nàng cảm thấy nhói lên dưới lớp găng, dưới làn da. Cả trái tim nàng cũng nhói lên và đập hối hả.
Nàng lùi nửa bước, và chạm ly với chàng.
“Mừng ngài về nhà, bạn thân mến của em,” nàng nói. “Chưa có ai em gặp mà lại thấy vui như khi gặp ngài.”
Nàng muốn quăng mình vào chàng và vòng tay qua cổ chàng. Đáng lý nàng đã làm như thế, bất chấp mọi phép tắc xã hội, nhưng cái nhìn từ đôi mắt lấp lánh của chàng khi lần đầu chạm phải mắt nàng đã khiến nàng phải dừng lại.
Chàng là bạn nàng, phải, và trên đời này chỉ có mỗi Bà Cố hiểu nàng hơn chàng. Nhưng giờ chàng đã là một người đàn ông, không còn là cậu bé mà nàng từng biết nữa.
“Em đã chán ngấy những trò điên rồ,” nàng nói tiếp, “nhưng khi phát hiện ra ngực em, vẻ mặt ngài quả là hết sức khôi hài. Đó là tất cả những gì em có thể làm để giữ mặt nghiêm trang.”
Giờ đây chàng lại nhìn vào đó, từ nơi ấy sức nóng dấy lên, lan rộng và ngấm sâu. Trong một chốc, nàng lại rịn mồ hôi, đúng như lúc trước, khi chàng nhìn nàng lần đầu tiên. Đó là lời cảnh báo mà nàng cần: Đừng đùa với ngọn lửa này.
Chàng ngắm nghía bộ ngực của nàng với vẻ nghiêm túc, y như chàng đang nghiên cứu một dòng chữ tượng hình. “Lần cuối gặp em, ta đâu có thấy nó,” chàng bảo. “Ta quá bối rối. Em lấy nó từ đâu ra vậy?”
“Em lấy nó từ đâu ra ư?” Trời ơi, chàng vẫn như xưa, rối bời vì bộ ngực của nàng cứ như thể nó là một mảnh gốm cổ. “Nó cứ thế phát triển thôi. Mọi thứ đều phát triển. Rất chậm. Điều đó không lạ hay sao? Về mọi phương diện, em đều phát triển sớm hơn bạn bè đồng lứa cơ mà.” Nàng nhấp rượu. “Nhưng đừng bận tâm tới ngực của em, Lisle.”
“Em thì nói thế nào chẳng được. Em đâu phải đàn ông. Còn ta thì chưa quen với nó.”
Nàng cũng chưa quen với cảm giác khi chàng nhìn nàng theo cách đó. Nàng bật cười khanh khách, “Ôi, vậy thì cứ nhìn đi, nếu ngài phải làm thế. Bà Cố nói với em rằng khi đàn ông không muốn nhìn vào đó nữa thì ta trở thành cát bụi, và em nên tận hưởng nó chừng nào còn có thể.”
“Bà chẳng thay đổi chút nào.”
“Bà dễ tổn thương hơn và chóng chán hơn trước, mặc dù bà vẫn còn hăng hái lắm. Em không biết mình sẽ làm gì khi không còn bà nữa.”
Bà Cố là bạn tâm tình của Olivia, người duy nhất biết mọi bí mật của nàng. Nàng không thể kể hết mọi chuyện với mẹ hay dượng. Họ đã cố gắng hết sức với nàng rồi. Sự thật sẽ chỉ khiến họ đau lòng mà thôi. Nàng phải bảo vệ họ khỏi điều đó.
“Tối nay Ta không biết phải làm gì nếu không có bà,” Lisle nói. “Bà đã giam lỏng cha mẹ ta cho ta thoát thân.” Chàng luồn tay vò tóc mình thành một mớ rối nùi, phụ nữ mà thấy chắc phát ngất mất. “Ta biết là không nên bận tâm vì họ, nhưng xem ra ta không giỏi nghệ thuật phớt lờ họ.”
“Lần này ngài không thể lờ chuyện gì vậy?” nàng hỏi.
Chàng nhún vai. “Một trò điên như thường lệ. Không cần phải đi vào chi tiết để làm em phát chán.”
Nàng biết cha mẹ là nỗi khổ mà chàng phải chịu đựng. Cả thế giới của họ chỉ xoay tròn quanh họ. Mọi người khác, kể cả con cái, chỉ là diễn viên trong vở kịch lớn của cuộc đời họ mà thôi.
Bà Cố là người duy nhất có thể dễ dàng lôi họ về với hiện thực, bởi vì bà chỉ nói và làm những gì mình thích. Mọi người khác hoặc quá bối rối, hoặc quá tử tế lịch sự, cũng có thể họ không cần phải chuốc lấy rắc rối làm gì. Ngay cả cha dượng của nàng cũng chẳng làm được gì hơn ngoài việc kiềm chế họ, mà chỉ thế cũng đủ thử thách khả năng bình tĩnh của ông rồi, thế nên ông chỉ can thiệp trong những trường hợp quá khích thôi.
“Ngài phải nói em nghe mọi chuyện,” nàng nói. “Em rất khoái tính điên khùng của ông bà Atherton. Khi đứng cạnh họ, em cảm thấy mình hoàn toàn nghiêm trang, có lý và ngu ngơ đến duyên dáng.”
Chàng khẽ mỉm cười, khóe miệng bên phải hơi nhếch lên.
Tim nàng đột nhiên chao đảo.
Nàng bước tới thả mình xuống một chiếc ghế bành bọc đệm dày cộp đặt bên lò sưởi. “Lại đây sưởi ấm đi,” nàng nói. “Phòng khiêu vũ nóng như địa ngục ấy, nhưng em biết là ngài không cảm thấy thế. Tránh xa khỏi những tấm thân ấm áp ấy, hẳn ngài nghĩ mình đang ở trong nhà mồ.” Nàng khoát tay chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Nói em nghe giờ cha mẹ ngài muốn gì ở ngài.”
Chàng đi lại gần lò sưởi nhưng không ngồi xuống ghế. Chàng nhìn lò sưởi hồi lâu, rồi nhìn nàng, nhưng chỉ trong chốc lát, rồi lại quay về phía ánh lửa mê hoặc.
“Họ muốn ta xử lý một lâu đài đổ nát của nhà ta, cách Edinburgh khoảng mười dặm,” chàng nói.
“Ôi lạ quá,” Olivia thốt lên sau khi Lisle đã tóm tắt xong màn kịch của cha mẹ chàng. Chàng biết nàng có thể tự mình thêm thắt vào những chi tiết đầy tính kịch. Trong chín năm trở lại đây, nàng ở bên cha mẹ chàng còn nhiều hơn cả chàng.
“Ta ước chuyện này có gì đó lạ,” chàng nói. “Nhưng với cha mẹ ta thì có gì lạ đâu.”
“Ý em là chuyện ma mãnh ấy,” nàng nói. “Thật lạ khi vì ma quỷ mà công nhân không chịu tới làm. Thử nghĩ xem có bao nhiêu bóng ma ám Tháp London. Có gã đao phủ đuổi nữ Bá tước xứ Salisbury vòng quanh đoạn đầu đài.”
“Anne Boleyn cầm cái đầu của bà ấy.”
“Những hoàng tử trẻ,” nàng nói. “Đấy mới chỉ là vài bóng ma thôi đấy - và mới chỉ là một tòa nhà thôi đấy. Khắp đất nước này chỗ nào mà chẳng có ma, thế nhưng xem ra có ai bận tâm đâu. Thật kỳ lạ khi những công nhân Scotland đó lại thấy sợ. Thế mà em cử tưởng họ thích bị ám cơ đấy.”
“Ta cũng đã nói thế với cha mẹ, nhưng logic là thứ ngôn ngữ mà họ từ chối hiểu,” chàng nói. “Chuyện này chả liên quan gì đến ma mãnh hay lâu đài cả, thật đấy. Đơn giản chỉ là để giữ ta ở nhà thôi.”
“Nhưng ở đây ngài sẽ phát rồ lên mất,” nàng nói.
Nàng luôn hiểu, từ cái ngày hai người gặp nhau và chàng nói với nàng về quyết định
đi Ai Cập của mình. Nàng đã gọi đó là Hành trình Chinh phục.
“Lẽ ra ta không nên lấy đó làm phiền,” chàng nói, “nếu họ thực sự cần ta ở đây. Các em trai ta cần ta - chúng cần ai đó - nhưng ta không biết phải làm gì. Nếu ta đưa bọn nhỏ sang Ai Cập thì chưa chắc cha mẹ ta đã nhớ chúng. Nhưng chúng còn bé quá. Trẻ con lớn lên giữa khí hậu miền Bắc khó mà phát triển khỏe mạnh được ở đó.”
Nàng hơi ngửa đầu ra sau ngước nhìn chàng. Khi đôi mắt xanh to tròn ấy nhìn lên khuôn mặt chàng, có điều gì đó xảy ra bên trong chàng, những điều cực kỳ phức tạp, không chỉ liên quan đến bản năng thú vật và cơ quan sinh sản của chàng. Những điều đó nẩy lên trong lồng ngực khiến chàng cảm thấy nhoi nhói như bị kim châm.
Chàng quay mặt đi, lại nhìn vào lò sưởi.
“Ngài sẽ làm gì?” nàng hỏi.
“Ta chưa quyết định,” chàng đáp. “Cái gọi là khủng hoảng chỉ mới nổ ra mấy phút trước khi gia đình ta đi dự tiệc tối nay. Ta chưa có thời gian để nghĩ xem phải làm gì. Nói thế không có nghĩa là ta định làm gì với cái lâu đài vớ vẩn đó. Ta cần nghĩ đến mấy đứa em. Ta sẽ phải dành thêm thời gian cho chúng, rồi sau đó sẽ quyết định.”
“Ngài nói đúng,” nàng nói. “Cái lâu đài ấy đâu đáng để chàng bận tâm. Thật quá lãng phí thời gian. Nếu ngài...”
Nàng ngừng lại giữa chừng vì cánh cửa bật mở và Quý bà Rathbourne bước vào. Tóc đen sẫm, mắt không xanh như mắt cô con gái, nhưng bà vẫn là một nhan sắc tuyệt trần.
Với bà, Lisle luôn có cảm giác bình yên, quý mến và không bị xáo trộn.
“Vì Chúa, Olivia, Belder đã tìm con khắp nơi,” bà nói. “Con đã hứa sẽ khiêu vũ với cậu ta cơ mà. Lisle, đáng lẽ cháu phải hiểu biết hơn mới phải, sao lại để Olivia lôi kéo cháu vào một nơi riêng tư như thế.”
“Mẹ à, bọn con đã không gặp nhau năm năm rồi!”
“Lisle có thể gọi con vào ngày mai, nếu cậu ấy không ngại xông xáo qua một đám quý ông trì độn,” bà Rathbourne lên tiếng. “Lúc này, những cô gái trẻ khác đang la hò đòi nhảy với cậu ấy đấy. Cậu ấy đâu phải của riêng con, và sự vắng mặt quá lâu của con sẽ khiến Belder kích động đấy. Thôi nào, Lisle, ta chắc cháu không muốn kết thúc bữa tiệc bằng việc đánh nhau với một trong những người cầu hôn lúc nào cũng sôi sục ghen tuông của Olivia, những kẻ khờ khạo đáng thương. Quá lố bịch không thể diễn tả thành lời.”
Họ rời khỏi phòng chờ, Lisle và Olivia chia tay nhau, nàng tới với ngài Belder và những gã si tình khác, còn chàng bước vào vòng vây của những cô gái không giống nàng, như thể họ thuộc về những giống loài khác.
Cho tới tận khuya, khi đang khiêu vũ với một cô gái, chàng mới nhớ ra điều mà mình đã nhìn thấy, ngay trước khi phu nhân Rathbourne cắt ngang cuộc trò chuyện của hai người: đó là tia sáng lấp lánh trong đôi mắt xanh ngời của Olivia trước khi sự biểu lộ của họ chuyển sang hướng vào nội tâm theo cái kiểu mà chàng đã học được cách nhận biết từ nhiều năm trước.
Suy tính. Lúc ấy nàng đang suy tính.
Và điều đó, như mẹ nàng có thể nói với bất cứ ai bà gặp, luôn rất nguy hiểm. Dinh thự Somerset, London
Thứ Tư, ngày 5, tháng Mười
Đây không phải là cuộc gặp chính thức của Hội Khảo cổ. Thứ nhất, họ thường họp vào thứ Năm. Thứ hai, phải tháng Mười một mới đến kỳ họp.
Nhưng Lisle chẳng mấy khi trở về London, mà có vẻ như chàng sẽ lại đi trước tháng Mười một. Mọi học giả hứng thú với những di tích cổ của Ai Cập đều muốn nghe chàng nói chuyện, và dù diễn ra khá đột ngột nhưng sự kiện này vẫn thu hút rất đông người tới dự.
Lần về nhà gần đây nhất, chàng mới mười tám tuổi, tuy nhiên chàng đã trình bày một tài liệu rất đáng chú ý về tên của các pharaoh Ai Cập. Nói chính xác thì giải mã chữ tượng hình vốn là chuyên môn của Daphne Carsington. Ai cũng biết điều này. Ai cũng biết bà là một thiên tài. Vấn đề ở chỗ bà là phụ nữ. Phải có một người đàn ông đại diện cho bà, nếu không các khám phá và học thuyết của bà sẽ gặp phải sự đả kích châm biếm không thương tiếc từ đám đông toàn những kẻ to mồm sự và ghét phụ nữ thông minh, chưa kể lại còn thông minh hơn họ.
Em trai bà, người thường đại diện cho bà, đã ra nước ngoài. Chồng bà, Rupert Carsington, dù không ngốc nghếch như mọi người vẫn tưởng nhưng không thể nào đọc hết một bài nghiên cứu mà mặt mày vẫn tươi tỉnh - ấy là nếu ông không ngủ gật mất trong lúc đang đọc.
Vì Lisle và bà Daphne đã cộng tác nhiều năm nay, và vì chàng luôn tuyệt đối đề cao khả năng của bà, nên chàng vô cùng hạnh phúc được đại diện trình bày bài viết mới nhất của bà với sự trang trọng mà nó đáng được nhận.
Nhưng có một vị khán giả cho rằng toàn bộ bài viết ấy là trò lố.
Ngài Belder ngồi ở hàng đầu, ngay cạnh Olivia, anh ta đã chế nhạo từng lời Lisle thốt ra.
Nếu anh ta đang cố gây ấn tượng với Olivia bằng trò đó thì đúng nhầm to rồi.
Nhưng có vẻ như Belder chỉ muốn chọc tức Lisle. Hôm qua, khi Lisle gọi Olivia, chắc hẳn anh ta cũng ở đó. Nhưng khi ấy có đến phân nửa thế giới đang ở nhà cha mẹ nàng, thế nên Lisle chỉ nói được đôi lời với nàng. Chàng nói với nàng về bài viết chàng sẽ trình bày, nàng bảo nàng sẽ tới nghe, và Belder bảo rằng anh ta sẽ hộ tống nàng. Anh ta tuyên bố: Anh ta không tưởng tượng được mình lại có thể bỏ lỡ “bài giảng nho nhỏ” của ngài Lisle.
Tính khí Lisle rất dễ nổi nóng. Lúc này, vì danh dự của Daphne nên chàng bực điên lên: Belder đang nhạo báng công trình nghiên cứu vất vả của bà. Nhưng chàng tự nhủ, thằng ngớ ngẩn này sẽ không thể khua môi múa mép thêm nữa. Đây đâu phải phòng khiêu vũ hay dạ hội, và những khán giả có mặt cũng chẳng tài nào kiên nhẫn nổi với kiểu cư xử của Belder.
Quả nhiên, Lisle vừa nghĩ đến đó thì một học giả đã lên tiếng. “Thưa ông,” quý ông đó lạnh lùng nói, “ông làm ơn để dành sự dí dỏm của mình cho một hoàn cảnh thích
hợp: Ví như câu lạc bộ của ông, hoặc tiệm cà phê hay quán rượu nào đó chẳng hạn. Chúng tôi tới đây để nghe quý ông trên bục diễn thuyết, không phải nghe ông nói.”
Lisle vờ phủi vết bụi bám trên giấy. Không hề ngẩng lên, chàng cất tiếng, “Dí dỏm ư? Đấy có phải là sự dí dỏm không nhỉ? Tôi xin lỗi, ngài Belder, vì đã không hưởng ứng lời bình luận của ngài. Tôi lại nhầm tưởng ngài là một vị thánh cơ đấy.”
“Một vị thánh?” Belder cười lớn - rõ ràng là đang làm bộ làm tịch với Olivia, để tỏ ra mình chẳng quan tâm tới chuyện vừa bị mắng giữa đám đông như một cậu học trò thô lỗ.
“Đúng thế,” Lisle nói. “Ngài biết đấy, ở Ai Cập, những kẻ chậm hiểu hay mít đặc đều bị gọi là thánh, và sự quái dị của chúng từ dáng vẻ, lời nói tới hành động đều được xem là dấu hiệu ban phước của thần linh.”
Đám đông khán giả cười ầm lên. Các học giả ra sức châm chọc Belder để trả đũa. Đáp lại họ, mặt anh ta còn đỏ hơn cả tóc của Olivia.
Chấp nhận thái độ xin được bỏ qua của Belder, Lisle trình bày phần còn lại công trình nghiên cứu của Daphne trong hòa bình.
Khi Lisle trả lời xong các câu hỏi và khán giả bắt đầu giải tán, chàng băng qua đám đông vây quanh Olivia - đúng là một bầy gà ngu ngốc túm tụm xung quanh một con cá sấu mơ màng, chàng thầm nghĩ - và đề nghị đưa nàng về nhà. Quay người khỏi Belder, nàng dành tặng cho Lisle một nụ cười ngất ngây tới nỗi chàng không dám nhìn thẳng trong một lúc. Rồi nàng khoác tay chàng. Họ đi ra xe ngựa. Theo sau là Bailey, người hầu của nàng.
Cô hầu đặt bậc tam cấp lên xe ngựa, Olivia đang đi về phía đó thì trên vỉa hè một thằng bé lao như bay tới. Nó phi hết tốc lực, luồn lách qua đám đông các học giả đang vừa thả bộ dọc phố Strand vừa tranh luận về pharaoh.
Nó lách qua Lisle, nhưng rồi đứng sững lại khi thấy Olivia, nhan sắc rực rỡ của nàng khiến nó mờ mắt và mất thăng bằng. Nó chùn chân và mất tập trung, dù vẫn tiếp tục chạy.
Đúng lúc đó, ngài Belder đang vội vã bước về phía xe ngựa của Olivia. Thằng bé đâm sầm vào anh ta, và cả hai cùng loạng choạng. Nó ngã xuống vỉa hè còn Belder ngã vào rãnh nước.
Thằng bé lồm cồm đứng lên, nhìn Belder vẻ khiếp đảm rồi lại cắm đầu chạy.
“Thằng trộm kia, đứng lại!” Belder gầm lên. Hai người bạn của anh ta tóm lấy thằng bé khi nó cố chạy qua họ.
Ngài Belder đứng lên khỏi rãnh nước. Người quen đi ngang qua đều châm chọc anh ta không ngớt: “Vừa ngủ dậy à Belder?” hoặc “Kia có phải là loại sữa tắm dưỡng da mới nhất không, Belder?”, cứ thế cứ thế.
Rác rưởi bùn lầy nâu nâu đen đen nhuốm bẩn cái quần màu be và chiếc áo màu xanh của ngài Belder, cả cái nơ bướm chải chuốt, áo vest và găng tay nữa. Anh ta nhìn xuống bộ quần áo, rồi nhìn sang thằng bé. Cái nhìn khiến thằng bé sợ co người lại và hét lên, “Chỉ là tai nạn thôi, thưa ngài! Tôi không lấy gì cả!”
“Đúng đấy,” Olivia nói át tiếng thằng bé. “Em thấy chuyện xảy ra mà. Nếu ăn trộm,
thằng bé sẽ...”
“Em cứ đợi trong xe ngựa, để ta giải quyết chuyện này,” Lisle cắt ngang trước khi nàng kịp giải thích rằng phải xử sự bần tiện thế nào thì mới là kẻ trộm được. Xét cho cùng, nàng là chuyên gia trong chuyện này.
“Đừng có ngớ ngẩn,” nàng nói. “Em có thể giải quyết chuyện này.”
Lisle cố dẫn nàng đi, nhưng nàng giật tay chàng ra và bước tới chỗ mấy người đàn ông đang tóm chặt thằng bé.
“Để nó đi,” nàng nói. “Đó chỉ là tai nạn.”
Với Lisle, những dấu hiệu cảnh báo đã rất rõ ràng: cổ và má nàng đỏ bừng lên, và cái cách nàng nhấn mạnh từ “tai nạn” như kiểu đang ngầm rủa Các anh là đồ ngu.
Khi không thể dùng sức mạnh để kéo nàng đi thì chàng buộc phải nói thật to để át nàng đi. Nhưng Belder đã lên tiếng trước.
“Em không biết lũ khốn nạn này làm trò gì đâu, tiểu thư Carsington ạ,” anh ta nói. “Chúng lao vào người ta là có mục đích, để trộm ví của ta.”
Lisle lên tiếng, “Có thể là thế nhưng...”
“Không phải cậu bé này,” Olivia tiếp lời. “Nếu đúng là trộm thì sẽ rất nhanh và chính xác, anh chẳng tài nào phát hiện ra nó đâu. Nó sẽ để ý sao cho không đâm phải anh và không thu hút mọi người chú ý vào nó, và nó sẽ không dừng lại mà bỏ chạy ngay. Hơn nữa, chúng thường có đồng bọn.”
Nàng nói quá đúng, bất cứ kẻ có lý trí nào cũng nhận ra điều này.
Nhưng Belder đang giận sôi gan, và thằng bé là mục tiêu gần nhất. Anh ta chỉ mỉm cười kẻ cả với Olivia rồi quay sang đám đông đứng xem xung quanh. “Ai đó gọi cảnh sát đi,” anh ta hô lớn.
“Không!” thằng bé la lên. “Tôi không lấy gì cả!”
Nó giằng giật, cố thoát thân.
Ngài Belder ghì đầu thằng bé xuống.
“Anh là kẻ đại ngu!” Olivia gào lên. Nàng liên tiếp đập mạnh cái ô gập lên vai anh ta. “Ối!”
“Thả thằng bé ra!” Nàng quật ô vào mấy gã đang giữ thằng bé.
Belder giữ tay nàng để ngăn không cho nàng đánh bạn anh ta.
Lisle thấy bàn tay đeo cái găng bẩn thỉu tóm lấy cánh tay Olivia. Chàng thấy giận điên người.
Chàng bước lên, túm chặt lấy cánh tay Belder giật mạnh ra. “Đừng chạm vào cô ấy,” chàng gằn giọng. “Đừng bao giờ chạm vào cô ấy.”
HCHƯƠNG 3
ai phút sau.
“Ôi thưa tiểu thư,” Bailey thốt lên. “Họ giết nhau mất.” Ngay khi chộp được Belder, Lisle liền hất văng anh ta, nhưng Belder có vẻ như không muốn mọi chuyện dừng ở đó. Anh ta đẩy Lisle, nhưng Lisle đẩy anh ta còn mạnh hơn, làm Belder đập người vào tường. Belder bật lên, giật găng tay ra, ném mũ đi, vung nắm đấm. Lisle cũng làm y như thế.
Đừng chạm vào cô ấy, chàng đã nói thế, giọng hạ thấp một cách đáng sợ khiến nàng run rẩy.
Thật ngớ ngẩn làm sao. Nàng đâu phải cô nữ sinh bé bỏng, nhưng trái tim nàng vẫn đánh trống liên hồi như chưa bao giờ như thế, cho dù chuyện thanh niên đánh nhau vì nàng đã quá thường tình, và nàng cũng biết câu nói ấy không có gì đặc biệt với Lisle. Chàng chỉ hành động theo bản năng, bảo vệ theo bản năng. Đánh nhau cũng theo bản năng.
Nhưng nhiều năm nay rồi Olivia không thấy chàng đánh nhau.
Thật ra nàng đã không tận mắt chứng kiến cảnh đánh nhau nhiều năm rồi. Cánh đàn ông thường gặp nhau vào buổi bình minh, tránh xa con mắt cộng đồng, bởi vì đấu kiếm là bất hợp pháp.
Đấu tay bo thì không bị cấm. Nhưng xét cho cùng, các quý ông chẳng bao giờ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay giữa ban ngày ban mặt, trên một con phố chính của London.
Dĩ nhiên là nàng rất hào hứng.
“Họ sẽ cố giết nhau,” nàng nói với Bailey. “Nhưng tất cả những gì họ làm được sẽ chỉ là đấm nhau thùm thụp, mà như thế thì quả là thú vị hơn nhiều so với trò đứng cách nhau hai mươi bước chân rồi đấu súng. Belder đang rất máu chiến, còn Lisle sẽ vui lòng làm đối thủ của anh ta.”
Nhìn ánh mắt của Bailey, nàng biết cô hầu cũng không hề thờ ơ. Là một cô gái da màu nhỏ nhắn xinh đẹp nhưng Bailey không yếu ớt như vẻ bề ngoài. Nếu chẳng vậy thì cô đã không thể sống sót nổi khi phục vụ Olivia.
“Em chưa bao giờ thấy Lisle đánh nhau đâu,” Olivia nói. “Ta biết là với mái tóc vàng sáng và đôi mắt xanh xám đó, ngài ấy trông chẳng khác gì thiên thần, nhưng ngài ấy quả thực là một võ sĩ hung dữ đáng sợ đấy. Có lần ta đã thấy ngài ấy đập tơi tả một gã to khỏe như bò mộng, dễ chừng phải lớn gấp đôi ngài ấy.”
Chuyện đó xảy ra vào ngày nàng bắt đầu Hành trình Chinh phục tới Bristol. Lisle đã không tán thành khi biết Nat Diggerby trở thành bạn đồng hành của nàng.
Nói thực, nàng cũng không thích Diggerby cho lắm. Dù vờ như chẳng bận tâm nhưng nàng vẫn thấy vô cùng nhẹ nhõm khi Lisle thay thế hắn ta.
Trở lại với cuộc ẩu đả, Olivia ước gì có thể thấy rõ hơn. Nàng nghe thấy tiếng gầm
gừ và tiếng đấm đá huỳnh huỵch lên cơ thể, nhưng đám đàn ông đã chắn mất tầm nhìn của nàng. Họ đang hét hò cổ vũ, cá cược xem ai sẽ chiến thắng.
Dù cá tính có mạnh mẽ đến mấy, nàng cũng biết rằng tốt nhất là không nên cố chen vào vòng người đó. Một quý cô thì không được đứng chung với đám đàn ông khát máu. Một quý cô phải đứng đợi ở một khoảng cách an toàn khi thấy có đánh nhau.
Nếu trèo lên phía sau xe ngựa - chỗ đứng của gia nhân - thì nàng sẽ thấy rõ hơn, nhưng nàng cũng không được phép làm như thế.
Nàng chỉ có thể chờ đợi, lắng nghe và nhìn loáng thoáng, lòng thầm hy vọng Lisle sẽ lành lặn rời khỏi cuộc chiến. Nàng tự nhủ đánh nhau thì chàng quá quen rồi. Ở Ai Cập, người ta luôn cố giết chàng. Thế nhưng chẳng hiểu sao Belder cứ ghen tuông phát điên với chàng, hơn nữa Lisle đã làm bẽ mặt anh ta trước đám đông cử tọa toàn những người có địa vị.
Mấy phút trôi qua mà có cảm giác như đã mấy tiếng đồng hồ, đột nhiên một tiếng hét vang lên, rồi tất cả im bặt. Vòng người dãn ra. Nàng thấy Belder đang nằm trên đất, mấy người bạn của anh ta đang chạy lại đó.
Nàng rảo bước về phía trước, lấy cùi chỏ và cái ô mở lối đi giữa đám đông đang thưa dần.
Nàng chộp tay Lisle giật mạnh. “Đi thôi,” nàng nói.
Chàng ngây ra nhìn nàng. Tóc chàng rối bù và bẩn thỉu, môi chàng chảy máu. Máu rỏ xuống cả cà vạt tơi tả. Một ống tay áo khoác của chàng rách toạc xuống từ đường chỉ trên bờ vai.
“Đi thôi,” nàng nói. “Anh ta không đánh được nữa đâu.”
Lisle nhìn vào gã đàn ông đang nằm trên mặt đất, rồi quay lại nhìn nàng. “Em không định an ủi anh ta à?”
“Không.”
Chàng lấy khăn tay ra lau môi, mặt nhăn lại.
Nàng lấy cái khăn từ tay chàng và chấm nhẹ lên môi chàng. “Ngày mai mắt ngài sẽ thâm tím mất thôi, và trong vòng mấy ngày tới ngài sẽ phải ăn đồ ăn mềm,” nàng nói.
“Em có sở trường về chuyện những gã ngốc đánh nhau đấy,” chàng nói.
Nàng ngừng tay. “Môi ngài rồi sẽ sưng phồng lên,” nàng nói. “Nếu gặp vận rủi thì ngài còn không nói được nữa ấy chứ.” Nàng lắc lắc đầu, quay người bước về phía xe ngựa.
Chàng bước theo. “Nếu không thích họ thì em không nên khuyến khích họ,” chàng nói.
“Em đâu cần phải khuyến khích họ,” nàng nói. “Phụ nữ nhà DeLucey rất quyến trai. Mà đàn ông thì về căn bản đều là lũ ngốc. Cả ngài cũng thế thôi. Ngài đã kiếm cớ để đánh lộn, y như anh ta vậy.”
“Có lẽ đúng thế,” Lisle nói. “Ta không nhớ nổi lần cuối mình được phấn khích đến thế này khi đánh bại đối thủ là bao giờ nữa.”
Chàng đưa bàn tay bẩn thỉu và thâm tím ra đỡ nàng bước lên bậc tam cấp nhỏ hẹp của xe ngựa. Nàng nhìn xuống bàn tay chàng, cau mày.
“Ghê lắm à?” chàng hỏi.
“Không hẳn,” nàng nói. “Em chỉ nghĩ nó sẽ còn đau lâu lắm đấy.” “Cũng đáng thôi,” chàng đáp.
Ôi đàn ông, nàng thầm nghĩ.
Nàng nắm lấy tay chàng, bước vào trong xe ngựa rồi an vị trên ghế. Bailey theo sau và ngồi phía đối diện.
“Em không chắc niềm vui đánh bại Belder đáng cái giá ấy,” nàng nói. “Ta quen với chuyện mắt thâm đen và hàm đau điếng lắm rồi,” chàng bảo.
“Em không có ý đó,” nàng nói. “Chuyện này mà đến tai cha mẹ ngài thì sẽ chẳng vui vẻ gì đâu.”
Chàng nhún vai.
“Tốt hơn ngài nên để em đưa về nhà,” nàng nói.
Chàng lắc đầu. “Em không phải làm thế đâu. Nichols sẽ đến đây ngay sau khi đi nhặt mũ cho ta.”
Cậu bé người hầu mảnh khảnh đang bước nhanh về phía họ, vừa đi vừa rút khăn phủi mũ cho Lisle.
Bailey đưa ánh mắt sắc lẹm liếc cậu đầy tớ điển trai của Lisle, rồi khịt mũi ra vẻ miệt thị. “Chúng ta nên về thẳng nhà thôi thưa cô,” Bailey lên tiếng.
“Cô ấy đúng đấy,” Lisle nói. “Chẳng mấy chốc nữa cả London sẽ kháo nhau chuyện em dùng ô đánh Belder. Chắc chắn em sẽ muốn về nhà trước khi tin đó kịp đến, như vậy em mới có thể nhào nặn câu chuyện theo ý mình.”
Nàng có kể với cha mẹ phiên bản nào của câu chuyện này đi nữa thì cũng không quan trọng. Họ đã quá mệt mỏi với những vụ tai tiếng của nàng, ông bà cụ Hargate thì sẽ nói gì đó, nhưng chắc cũng không dễ chịu. Họ nghĩ nàng đến tuổi kết hôn lâu rồi. Họ tin rằng nàng cần có chồng con thì mới hết lông bông được. Họ đã sắp xếp cho con cái đâu ra đó cả. Nhưng các con của họ đều là con trai, họ tuyệt nhiên không có điểm nào giống nàng. Nói cho đúng thì trên đời này chẳng có ai giống nàng, ngoại trừ những DeLucey Đáng sợ khác: những sinh vật bất kham, không thể tin tưởng được.
Nếu kết hôn, cuộc đời nàng sẽ quanh quẩn với việc làm vợ và làm mẹ, rồi năm tháng sẽ chậm chạp trôi đi trong ngột ngạt. Nàng sẽ không đời nào được làm cái gì thực sự thú vị, không bao giờ nữa. Đương nhiên, nàng sẽ không còn được tham gia vào những chuyến phiêu lưu kỳ thú mà nàng hằng mơ ước.
Nói như thế không có nghĩa là lúc này nàng đang có nhiều mơ ước, khi mà xã hội này bị bó buộc bởi những luật lệ ngày càng hà khắc hơn.
Nhưng một khi nàng chưa phải là vợ của ai - và một khi Bà Cố còn sống và chiến đấu với những kẻ khác để bảo vệ nàng - thì ít nhất Olivia vẫn còn một chút tự do.
Nàng quyết không từ bỏ sự tự do ấy cho đến chừng nào không còn lựa chọn nào khác.
“Về nhà em ăn tối đi,” nàng nói với Lisle. “Rồi chúng ta sẽ trò chuyện.” “Ta nghĩ ta nên tắm trước đã,” chàng nói.
Chàng cười với nàng, cảm giác như mình là một nam sinh lôi thôi nhếch nhác, và gợi nhắc nàng về cậu bạn đã đánh bại Nat Diggerby rồi đóng vai người hộ vệ trung thành của nàng trên con đường tới Bristol.
Nụ cười tươi rói cùng với ký ức vừa trỗi dậy khiến mọi thứ trong nàng đảo lộn. “Em cũng nghĩ thế,” nàng nói.
Chàng đóng cửa xe ngựa lại.
Nàng dựa lưng vào ghế để chống lại sự thôi thúc phải ngó ra cửa sổ dõi theo chàng quay lưng bước đi.
Nàng thấy chiếc xe ngựa khẽ nảy lên khi mấy người hầu nhảy lên chỗ đứng của mình. Một người gõ nhẹ lên mái xe, thế là chiếc xe lắc lư chuyển bánh.
Vài phút sau, Bailey lên tiếng, “Tiểu thư, cô vẫn cầm chiếc khăn tay của ngài ấy đấy ạ.”
Olivia nhìn xuống chiếc khăn. Nàng sẽ cho giặt sạch rồi bổ sung vào bộ sưu tập của mình. Chiếc găng tay phải của nàng che đi cái mặt đá hình con bọ hung mà chàng đã gửi cho nàng từ lâu. Nàng đã đính nó vào một chiếc nhẫn và thường xuyên đeo. Chàng cũng gửi thư cho nàng nữa, nhưng rất ít: nàng gửi dăm bảy bức thì chàng mới gửi được một bức.
Nàng giữ gìn tình bạn cũng như từng bức thư của chàng. Nàng giữ gìn những món đồ trang sức rẻ tiền chàng gửi cùng với mọi vật kỷ niệm linh tinh vớ vẩn nàng sưu tầm được. Nhưng nàng biết, chàng chưa bao giờ cho ai nhiều hơn thế. Chàng đã dâng hiến bản thân - trái tim, trí óc, tâm hồn - cho Ai Cập từ lâu lắm rồi.
“Ngài ấy sẽ không nhớ đâu,” nàng nói.
Dinh thự Atherton
Tối hôm ấy
“Ôi Peregrine, sao con có thể làm thế?” Phu nhân Atherton gào lên. “Đánh lộn! Như một đứa côn đồ dung tục! Trên phố Strand! Giữa bàn dân thiên hạ!”
Bà quay sang nhìn chồng. “Anh thấy không Jasper? Đây là hệ quả của việc để Rupert Carsington coi sóc thằng bé trong ngần ấy năm đấy.”
Nói thế thật chẳng có lý chút nào. Lisle đã biết đánh nhau từ cách đây quá lâu rồi, chính chàng cũng không nhớ nổi. Chàng chẳng cần sự dìu dắt của chú Rupert trong lĩnh vực này. Từ bé đến giờ, chàng chưa từng né tránh ẩu đả, bất kể đối thủ là ai, lớn nhỏ thế nào, đông đảo đến đâu. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ.
“Con đã thành kẻ mọi rợ mất rồi!” cha chàng nổi trận lôi đình. “Con thậm chí chẳng thể trình bày một tài liệu trước Hội Khảo cổ mà không gây ầm ĩ.”
“Đâu có gì mà ầm ĩ,” Lisle lên tiếng. “Một cuộc tranh luận thì đúng hơn. Các tài liệu
còn có nhiều thứ thú vị hơn để nói.”
“Báo chí chẳng thích gì hơn là những chuyện khủng khiếp về đám đàn ông đánh nhau vì Olivia Carsington,” mẹ chàng lên tiếng. “Mẹ không tin nổi cô ta cũng biến cả con thành một thằng khờ. Mẹ thấy mất mặt quá. Sau chuyện này mẹ phải đối diện với bạn bè ra sao đây? Làm sao mẹ còn ngẩng đầu lên được?” Bà ngồi thụp xuống chiếc ghế dài và òa lên nức nở.
“Đây là hậu quả của việc nuông chiều thú vui vô nghĩa ở Ai Cập của con,” cha chàng nói. “Được thôi, cha sẽ đặt dấu chấm hết cho việc này, một lần và mãi mãi. Chừng nào còn chưa thấy một chút xíu bổn phận làm con, phong thái cư xử ra dáng quý tộc, thì con sẽ không nhận được một xu nào từ ta nữa đâu.”
Lisle nhìn ông hồi lâu. Như thường lệ, chàng nghĩ đây chỉ là một màn kịch. Cha mẹ chàng mà không nổi trận lôi đình thì mới lạ.
Nhưng chuyện này thì quả là mới mẻ. Chàng không chắc mình nghe có rõ không. Giống như bao cậu con trai của các gia đình quý tộc khác, Lisle hoàn toàn phụ thuộc vào cha mình về mặt tài chính. Tiền là tất cả những gì chàng nhận được từ cha mẹ mình. Họ chưa bao giờ cho chàng tình yêu thương và sự thấu hiểu. Nhà Carsington thì cho chàng điều đó, rất nhiều. Nhưng chàng không thể xin tiền của gia đình bên ấy.
“Cha sẽ cắt trợ cấp của con à?” chàng hỏi.
“Con đã cười nhạo, phớt lờ, lợi dụng chúng ta, và lạm dụng sự rộng lượng của chúng ta,” cha chàng nói. “Chúng ta đã dốc hết kiên nhẫn chịu đựng điều đó, nhưng lần này thì con quá đáng lắm rồi. Con đã làm mẹ con bẽ mặt.”
Như kịch bản đã lên sẵn, mẹ chàng ngất xỉu.
“Chuyện này thật điên rồ,” Lisle kêu lên. “Thế thì con phải sống làm sao?”
Cha chàng vội vã chạy lại bên cạnh đưa cho mẹ chàng muối hít. “Nếu muốn có tiền, con sẽ phải cư xử như những quý ông khác,” ông vừa nói vừa khẽ nâng đầu mẹ chàng khỏi chiếc gối mà bà vừa khéo léo ngả lên. “Con sẽ phải tôn trọng ý muốn của cha mẹ con. Con sẽ phải đến Scotland như yêu cầu của chúng ta, và lần đầu tiên trong đời, con sẽ phải gánh vác trách nhiệm. Nếu muốn tới Ai Cập, con sẽ phải bước qua xác cha!”
Cuối cùng, Lisle không tới nhà Olivia ăn tối. Chiều muộn hôm đó, Olivia nhận được một mảnh giấy nhắn của chàng: Nếu tới ăn tối, ta sẽ phải giết một ai đó. Tốt nhất là nên tránh xa. Có lẽ em cũng có đủ rắc rối rồi.
L
Nàng viết lại:
Viết Thư không an toàn. Gặp em ở góc đường Công viên Hyde. Ngày mai. Mười giờ Sáng. ĐỪNG ĐỂ EM ĐỢI ĐẤY.
O
Công viên Hyde
Sáng hôm sau
Mới mấy năm trước, những quý ông sành điệu nhất London còn có cái mốt sáng sáng dạo bộ trong công viên Hyde, rồi chiều chiều tầm từ năm tới bảy giờ lại trở lại đấy đi dạo.
Nhưng giờ đây thú đi dạo buổi sáng không chỉ lỗi thời mà còn bị xem là thô thiển.
Tuy nhiên, buổi sáng là thời điểm tuyệt vời để Hẹn hò Bí mật, như sau này Olivia viết trong thư.
Như thông lệ, nàng đến muộn, mà Lisle thì chưa bao giờ giỏi chờ đợi. Nhưng cảm giác sốt ruột của chàng tan biến ngay khi nàng xuất hiện trong tầm mắt, cái lông chim to đùng màu xanh nhạt vẫy vẫy trên chóp mũ giống như ngọn cờ khiêu chiến. Nàng mặc chiếc váy cưỡi ngựa được cắt may theo kiểu nhà binh, màu xanh của váy tiệp với màu xanh của đôi mắt nàng.
Ánh mặt trời ban mai nghiêng nghiêng sà xuống mái tóc xoăn đang cố trốn khỏi mũ và những chiếc kẹp tóc, nắng làm tóc nàng lung linh như ngọc hồng lựu.
Khi nàng tới bên cạnh, chàng vẫn còn chưa hoàn hồn.
“Ngài không biết phải khó khăn thế nào em mới thoát được Bailey đâu,” nàng nói. “Chắc ngài nghĩ cô ấy sẽ thấy nhẹ nợ, vì cô ấy ghét phải đi xe ngựa vào thành phố, nhưng không phải vậy đâu, cô ấy đã quyết định đi với em đấy. Em mất vô khối thời gian mới thuyết phục được cô ấy ở nhà và dịu bớt nghi ngờ. Để làm được thế, em
buộc phải mang theo thằng hầu giữ ngựa.” Nàng hất cái đầu đính lông chim về phía cậu thanh niên mặc chế phục lịch sự giữ khoảng cách khá xa phía sau nàng. “Không phải là ngài với em có cái gì bí mật phải giấu giếm, nhưng cả nhà đang bực điên lên với em vì em đã khiến ngài đánh nhau với Belder.”
“Tự ta muốn vậy,” chàng đáp.
“Mắt ngài tệ quá,” nàng nói, rướn người ra trước một chút để nhìn vào đấy.
“Trông thì vậy thôi,” chàng nói. “Nichols biết cách xử lý mấy chuyện này.” Nếu cậu ta mà không biết cách thì giờ con mắt ấy đã sưng húp rồi. “Mấy ngày tới nó sẽ chuyển sang mấy màu hơi xấu một chút, nhưng rồi vết thâm sẽ mờ dần. Hôm trước rõ ràng em đã rất lo ngại cho cái miệng của ta, nhưng thực ra nó không tệ đến thế đâu.”
“Hôm nay ngài không đẹp mã bằng hôm ở dạ tiệc,” nàng nói. “Ai đó đã tả rất tỉ mỉ cho mẹ em về cuộc ẩu đả và những vết thương của ngài, mẹ em giận lắm. Bà bảo tốt nhất là em nên tránh xa ngài ra. Mẹ bảo chẳng cần em lôi kéo vào rắc rối thì ngài cũng có đủ khó khăn rồi.”
“Vô lý,” chàng đáp. “Nếu em tránh xa thì ta nói chuyện với ai được? Lại kia đi. Ở đây ồn ào quá.”
Mặc dù công viên này vô cùng vắng vẻ - đặc biệt là không có ai trong giới thượng lưu - nhưng góc đường Công viên Hyde lại rất nhộn nhịp. Dân buôn ma túy, người bán sữa, lính tráng, và đủ kiểu người thả bộ tụ tập đông đúc trên vỉa hè. Trên đường Knightsbridge, xe chở thư và xe ngựa công cộng tranh giành khoảng trống với những chiếc xe kéo chậm chạp, xe ngựa tư nhân, người cưỡi ngựa và khách bộ hành. Bọn trẻ chơi rông, rồi chó mèo lao như thiêu thân giữa xe với ngựa.
Ngày xưa, chính tại góc đường Công viên Hyde này đã khởi sự cuộc phiêu lưu đầu tiên của họ. Ký ức trỗi dậy thật sống động: Olivia, đứng bên cạnh một thằng con trai đầu bò đầu bướu... Lisle phải đánh thằng đó văng khỏi đường... rồi trèo lên một chiếc xe kéo chạy theo phía sau nàng...
Mỗi lần đợi nàng, chàng đều mong chờ sẽ nhìn thấy cô gái gầy nhẳng ngày trước, cô gái có mái tóc và đôi mắt không lẫn vào đâu được. Mỗi lần nhìn thấy nàng như lúc này, chàng lại thấy rối tung rối bời. Chàng vẫn chưa quen được với nhan sắc hiện giờ của nàng. Lòng chàng nhói lên khi nhìn thấy khuôn mặt ấy, và những nét cong mềm mại trên thân hình nàng được bộ váy cưỡi ngựa bó sát tôn lên khiến chàng rạo rực bao nhiêu cảm xúc.
Những cảm xúc sai trái. Kiểu cảm xúc mà những phụ nữ quyến rũ khuấy lên trong đàn ông. Mấy cô nàng lả lơi có thể tạo ra những cảm xúc đó.
Ngay lúc này, cái chàng đang cần là một người bạn, một đồng minh.
Nhưng ngay cả khi đã vào trong công viên, chàng nhận thấy mình vẫn chưa sẵn sàng lên tiếng. Chàng cần phải xóa bỏ cảm xúc xáo trộn ra khỏi trí não hoặc con tim - chàng không chắc chính xác thì cảm xúc ấy nằm ở đâu nữa.
“Đua không?” chàng hỏi.
Mắt nàng sáng lên.
Ngựa của họ tràn đầy năng lượng, hào hứng phi nhanh về hướng Tây trên con đường Rotten vắng vẻ. Ngựa của nàng dũng mãnh không kém gì ngựa của chàng, và nàng phi ngựa với kỹ năng và lòng dũng cảm mà nàng vẫn dành cho mọi thứ trong đời. Chàng về đích trước nàng không bao lâu, và khi dừng ngựa, họ cùng nhau cười vang - với chính họ, với niềm vui thuần khiết đến từ chuyến phi ngựa trong buổi sáng mùa thu đẹp trời.
Họ phi nước kiệu thẳng vào trong công viên.
Khi tới một hàng cây, khuất hẳn khỏi tầm nhìn của khách bộ hành, họ hãm ngựa đi thong dong.
Rồi chàng kể cho nàng nghe chuyện đã xảy ra.
“Họ cắt trợ cấp của ngài sao?” nàng nghi hoặc. “Không thể nào! Ngài sẽ phát điên ở đây mất. Ngài phải trở lại Ai Cập chứ.”
“Ta bảo rồi đấy, họ quyết giữ ta ở nhà,” chàng đáp. “Nhưng ta không nhận ra họ quyết tâm đến thế nào. Ta cử nghĩ có lẽ mấy hôm nữa họ sẽ bình tâm lại hoặc quên chuyện này đi, như bao nhiêu lần khác. Nhưng hôm nay họ thậm chí còn cứng rắn về chuyện cái lâu đài phải gió ấy hơn cả hôm qua. Cha ta chỉ tiếp tục cung cấp tài chính cho ta trong trường hợp ta đảm nhận công việc khôi phục tòa lâu đài ấy.”
“Em có thể hiểu được ông ấy đang nghĩ gì,” nàng nói. “Ông ấy nghĩ một khi đã bắt tay vào dự án này, sẽ có lúc ngài chuyển tình yêu của mình cho nó.”
Tim chàng nhói lên cảm giác có lỗi. “Tình yêu ư?” chàng hỏi.
“Cha mẹ chàng ghen tị với Ai Cập,” chàng nói. “Họ không hiểu sự khác nhau giữa một cái lâu đài cũ kỹ và những di tích cổ xưa. Với họ tất cả đều là công trình ‘cũ’.”
Chàng không cho rằng Ai Cập là tình yêu, nhưng Olivia thì có đấy, mà có lẽ cũng phải, trong cảm nhận của chàng có tình yêu đối với miền đất ấy và công việc nơi đấy.
Nàng hiểu quá rõ, đôi khi còn rõ hơn cả bản thân chàng. Nhưng nói cho cùng, nàng là người nhà DeLucey cơ mà, và họ đã tồn tại được qua nhiều thế hệ là nhờ giỏi nắm bắt tâm lý và thao túng người khác.
“Ta nghĩ mình nên thấy biết ơn vì trước đây họ không nghĩ tới chuyện sử dụng biện pháp thắt chặt hầu bao.”
“Nếu họ có nghĩ ra thì ngài Rathbourne cũng sẽ chi trả cho cuộc sống của ngài.” “Dượng em đã cho ta nhiều thứ quá rồi,” Lisle nói.
“Giờ ông ấy phải lo cho em và và anh chị của em nữa.”
“Em sẽ đưa tiền của em cho ngài,” nàng nói. “Ngài biết em sẽ làm thế mà.”
“Như thế thì thật là khủng khiếp,” chàng nói. “Ta mừng vì chuyện đó không thể xảy ra.” Chàng biết tiền bạc của nàng bị quản lý rất chặt, không chỉ để ngăn ngừa những kẻ đào mỏ mà còn để hạn chế chính nàng. Nàng đầy mâu thuẫn đến lạ kỳ: đầu óc rất tính toán nhưng con tim vô cùng rộng rãi. Hành động quên mình bảo vệ thằng bé đầu đường xó chợ hôm qua đã cho thấy điều đó.
Nàng xích lại gần, đặt bàn tay đeo găng lên tay chàng. “Em sẽ không để ngài phải mắc kẹt ở đây đâu,” nàng nói. “Chúng ta sẽ nghĩ kế.”
Chắc đã nghĩ ra điều gì đó nên đôi mắt to xanh thẳm của nàng sáng rỡ. “Không, không được,” chàng cương quyết.
Nàng là bạn tâm giao và là đồng minh của chàng, nhưng cái tính bốc đồng, coi thường lề thói, nhiệt tình sôi sục của nàng đôi khi khiến chàng phải dựng tóc gáy - chàng, con người ngày nào cũng đối mặt với rắn độc, bọ cạp, cá sấu, trộm cướp, bọn sát nhân, và tồi tệ nhất là đám quan chức.
Thật sự ra, nói óc duy lý của nàng cực kỳ mơ hồ là còn nhẹ đấy.
Chín năm trước, nàng đã dụ chàng cùng đi tới Bristol để truy tìm kho báu của một tay cướp biển, thật đáng kinh ngạc. Đó là một trong những Ý Tưởng của nàng. Mọi chuyện có lẽ đã kết thúc thật khủng khiếp với chàng - bị tống vào một ngôi trường tàn bạo ở Scotland chẳng hạn - nếu ngài Rathbourne không can thiệp.
Thay vào đó, Lisle được tới Ai Cập, và chàng biết rõ tất cả là nhờ có Rathbourne. Lisle cũng biết rằng con người ta không thể sống nhờ vào những điều kỳ diệu. Hơn nữa giờ đây chàng không còn là một cậu bé nữa, chàng đã là người đàn ông. Chàng không thể trông đợi, mà cũng chẳng muốn bạn bè và người thân phải hỗ trợ mình thoát khỏi bất cứ tình huống khó khăn nào.
“Không, Lisle, ngài phải nghe em,” Olivia tha thiết. “Em đã nghĩ ra một Ý Tưởng siêu tuyệt vời đây.”
Ôi, Olivia với một Ý Tưởng.
Chắc cái ý tưởng đó là lợi dụng một chút trí thông minh và bản năng tự bảo tồn nòi
giống để hành hạ trái tim của một gã đàn ông nào đó.
“Không Ý Tưởng gì hết,” chàng nói. “Bất kể cái gì cũng không.”
“Chúng ta đi Scotland nhé,” nàng nói. “Đi cùng nhau.”
Tim nàng đập thình thịch tới nỗi có lẽ ở tận lâu đài Kensington cũng có thể nghe thấy. Từ hôm thứ Bảy tới giờ, nàng không thể không nghĩ về cái lâu đài ở Scotland đó.
“Em mất trí rồi à?”
“Em đã biết thể nào ngài cũng nói thế mà.”
“Ta sẽ không đi Scotland đâu.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi cùng nhau," nàng nói. “Thế sẽ vui lắm. Một chuyến phiêu lưu đấy.”
“Đừng có ngớ ngẩn thế,” chàng nói. “Chúng ta không còn trẻ con nữa. Ngay cả em cũng vậy, em đâu thể đi Scotland với một gã thanh niên được chứ. Cha mẹ em không đời nào đồng ý đâu.”
“Họ đâu cần phải biết chuyện này.”
Đôi mắt xám của chàng trố lên. “Olivia.”
“Sáng mai cha mẹ em sẽ đi Derbyshire,” nàng nói. “Em sẽ ở lại London với Bà Cố.” Chàng nhìn sang chỗ khác. “Chuyện này mỗi lúc một tồi tệ hơn rồi.” “Em đã nghĩ kỹ rồi,” nàng nói.
“Từ khi nào cơ?” chàng hỏi, ánh mắt sắc như dao của chàng hướng lại phía nàng. “Ta vừa kể mọi chuyện với em cách đây chưa đầy một phút thôi mà.”
“Em nghĩ về cái lâu đài ấy lâu rồi,” nàng nói. Điều này thì quả là đúng thật. Với Lisle thì tốt nhất là nói càng thật càng tốt. Không chỉ vì tư duy của chàng cực kỳ logic và hết sức thẳng thắn, mà còn vì nàng nghĩ chàng có thể đọc được phần nào suy nghĩ của nàng. “Em đang nghĩ một kế giúp chàng thoát khỏi chuyện này.”
“Em không phải cứu ta,” chàng nói. “Em không phải hiệp sĩ mặc áo sắt sáng choang hay bất cứ cái gì em nghĩ. Ta gần hai mươi bốn tuổi rồi, và hoàn toàn có thể chăm sóc bản thân.”
“Làm ơn đừng mang lòng kiêu hãnh nam nhi ra dọa em,” nàng nói. “Chỉ cần lắng nghe, ngài sẽ thấy Ý Tưởng của em rất thực tế.”
“Chín năm trước em đã có một kế hoạch rất thực tế để cứu mẹ em khỏi cảnh nghèo túng bằng cách bỏ đến Bristol đào kho báu của bọn cướp biển ở trong vườn nhà Bá tước Mandeville!”
“Phải, và chuyện đó rất vui, đúng không?” nàng nói. “Đó là một cuộc phiêu lưu. Ngài thì lúc nào cũng được phiêu lưu. Em thì...” Nàng khoát tay. “Em hủy hôn ước và dùng ô đánh đàn ông.”
Chàng ném cho nàng một cái nhìn mà nàng không hiểu được. Rồi chàng thúc ngựa phi nhanh.
Chàng cần khoảng cách.
Chàng không muốn nghĩ về chuyện này, về nàng thuở nhỏ, cô bé luôn muốn trở thành kỵ sĩ và dấn thân vào mọi Hành trình Chinh phục.
Nàng phi ngựa theo chàng. “Đừng có khép cửa tâm trí,” nàng nói. “Ngài là một học giả, mà học giả thì luôn phải để cho đầu óc thông thoáng.”
“Đừng có điên rồ,” chàng nói. “Em không thể cứ thế mà đi Scotland chỉ vì em đã chán trò hối hôn và dùng ô đánh bọn đàn ông được. Ta rất tiếc là em phải chịu đựng những quy tắc ngớ ngẩn đối với nữ giới, nhưng ta chẳng thay đổi được gì. Và ngay cả ta cũng biết rõ là em không thể một thân một mình nhảy vào xe ngựa và chu du bốn trăm dặm mà không gây ra vụ việc tồi tệ nào.”
“Lúc nào em chẳng gây chuyện chứ,” nàng nói. “Em nổi tiếng như thế mà. Bất kể em nói hay làm gì ở bữa tối này hay dạ tiệc nọ thì chuyện đó cũng đều lan đi ầm ĩ khắp nơi vào sáng hôm sau. Olivia Carsington, Vụ Bê Bối Đêm Qua, chính là em. Lẽ ra em đã phải khắc dòng đó lên danh thiếp của mình.”
Chàng nhìn quanh. Sáng nay công viên thật tĩnh lặng, những con đường xung quanh yên ắng tới mức có thể nghe rõ tiếng lá xào xạc trên cây, tiếng vó gõ lộc cộc của hai con ngựa họ cưỡi, tiếng một đôi chim ríu rít gọi nhau.
Chàng cũng nghe được cả tiếng tim mình thình thịch nữa. Chàng đang bị cám dỗ, bị lôi cuốn khó mà cưỡng lại nổi.
Nhưng xưa nay lúc nào nàng chẳng cuốn hút chàng. Nàng đã cuốn hút chàng từ thuở mười hai. Nếu mười năm qua chàng không sống ở Ai Cập thì hẳn nàng đã đảo lộn cuộc đời chàng từ lâu rồi.
“Lẽ ra ta không phải nói với em điều này,” chàng nói. “Nhưng vì em mất trí rồi nên ta nghĩ ta phải nói cho em hay: Có thể em nghĩ về ta như một người anh trai nhưng sự thực đâu phải vậy. Em không thể đi cùng ta mà không có ai đi kèm được.”
“Tất nhiên là em phải có người đi kèm,” nàng nói. “Nhưng ngài cứ để em sắp xếp tất cả. Ngài chỉ cần...”
“Ta sẽ không làm gì cả,” chàng nói. “Trong tất cả mọi kế hoạch liều lĩnh điên rồ thì...” Chàng ngừng lời, lắc đầu. “Ta không tin nổi chuyện này. Cha ta cắt trợ cấp, ta chẳng có chỗ nào mà đi và chẳng có gì để sống. Vào tháng Mười, thật khủng khiếp! Em có biết Scotland vào tháng Mười như thế nào không?”
“Trời tối sầm, ẩm ướt, lạnh giá, u ám và cực kỳ lãng mạn,” nàng nói.
“Ta sẽ không đi đâu!” chàng thốt lên. “Ta không tin nổi là mình lại đi tranh luận chuyện này với em.”
“Sẽ vui lắm mà,” nàng nói. “Một chuyến phiêu lưu.”
Một chuyến phiêu lưu. Lúc nào chàng chẳng phiêu lưu. Nhưng không phải với Olivia trong suốt những năm vừa qua.
Nhưng đây không phải Olivia ngày xưa nữa. Với Olivia ngày xưa thì chàng có thể xoay xở được, ở một mức độ nào đó. Song khi ấy chàng là một cậu bé mười ba tuổi, và hiển nhiên là hoàn toàn mù tịt về phụ nữ.
“Đây là cơ hội cuối cùng, số một và duy nhất của em,” nàng nói. “Gia đình đã ngán tận cổ những trò bồng bột của em, và ông bà ngoại Hargate đang kiên quyết yêu cầu em kết hôn. Một khi họ đã bắt đầu kiên quyết làm gì thì đừng hòng có ai chống đối. Ngài biết họ thích mọi người phải kết hôn và ổn định cuộc sống thế nào rồi đấy. Em sẽ phải quyết định chọn một ai đó, rồi ổn định cuộc sống, rồi làm vợ làm mẹ. Ổn định, ổn định, ổn định. Em sẽ không bao giờ có cơ hội làm cái gì thú vị nữa, không một lần nào nữa.”
Chàng nhớ nàng đã từng không biết sự là gì, một mình chuẩn bị lên đường... nhảy vào xe ngựa... rủ rê hai cậu giữ ngựa đánh bài. Chàng nghĩ về cuộc đời nàng lúc này đây, chỉ biết quẩn quanh hết bữa tiệc này sang bữa tiệc khác.
“Chết tiệt, đừng làm thế với ta, Olivia,” chàng nói.
“Ngài biết đúng là thế mà,” nàng đáp. “Phụ nữ sống cuộc đời thật chật hẹp. Bọn em là con gái của ai đó, rồi vợ của ai đó và mẹ của ai đó. Bọn em chẳng bao giờ làm bất cứ cái gì, chẳng như đàn ông.”
Chàng lắc đầu. “Không,” chàng nói. “Ta sẽ không để cha mẹ ép buộc ta đâu.”
“Chàng không có lựa chọn nào cả,” nàng nói. “Vốn dĩ lúc nào chàng cũng có thể bỏ mặc và lảng tránh họ, nhưng cuối cùng họ đã nhận ra họ có một quyền lực áp chế được chàng.”
“Và em định cho họ giữ thế thượng phong,” chàng nói. “Em có nghĩ ra cái gì dính dáng đến chuyện xây dựng lại một lâu đài cổ không?”
“Em có một ý tưởng tuyệt diệu lắm,” nàng đáp.
“Nó có thể phải mất nhiều năm. Nhiều năm trời! Ở Scotland. Với kèn túi!”
Nàng mỉm cười. “Em mà giúp ngài thì chẳng mất đến nhiều năm trời đâu,” nàng lên tiếng. “Và để cho cha mẹ ngài nghĩ họ vừa thắng trận cũng chẳng phương hại gì. Nếu chúng ta biết cách chơi trò này, ngài sẽ được trở lại Ai Cập vào - ờ, mùa xuân này, chắc chắn đấy.”
Nụ cười của nàng đủ khiến chàng phải đầu hàng.
Nhưng giọng nói cảnh giác vốn đã giúp chàng sống sót qua ngần ấy năm thì nói: Khoan nào. Nghĩ kỹ đi.
Thật khó mà nghĩ được gì khi mãnh lực của đôi mắt xanh kia phủ chụp lấy chàng và có gì đó cứ nhói lên trong tim chàng.
Nhưng chàng không chịu khuất phục hoàn toàn. Chàng vẫn là cậu bé cứng đầu đã quen biết nàng từ lâu, chàng còn là một học giả, người quan sát khách quan mới đây đã để ý nàng rất cẩn thận. Chàng biết nàng có thể khiến người ta, đặc biệt là đàn ông, tin mọi điều nàng nói.
“Không,” chàng lấy giọng hết sức nhẹ nhàng. “Nếu ta để họ điều khiển ta thế này, họ sẽ diễn đi diễn lại thôi. Nếu ta chịu nghe theo yêu cầu này, họ sẽ đòi hỏi thêm nữa.”
Nụ cười của nàng vẫn rạng rỡ y nguyên. “À, được thôi, nếu chàng không đồng tình thì đành vậy,” nàng nói vui vẻ.
“Ta biết em sẽ hiểu mà.”
“Ồ, em hiểu chứ. Rất rõ.”
“Tốt, bởi vì...”
“Ngài không cần giải thích,” nàng nói. “Em hiểu hết. Giờ em không nán lại được nữa. Hôm nay em có việc quan trọng phải làm.”
Nàng đưa tay lên chạm vành mũ rồi phi ngựa đi.
HCHƯƠNG 4
ai phút sau.
“Ôi thưa tiểu thư,” Bailey thốt lên. “Họ giết nhau mất.” Ngay khi chộp được Belder, Lisle liền hất văng anh ta, nhưng Belder có vẻ như không muốn mọi chuyện dừng ở đó. Anh ta đẩy Lisle, nhưng Lisle đẩy anh ta còn mạnh hơn, làm Belder đập người vào tường. Belder bật lên, giật găng tay ra, ném mũ đi, vung nắm đấm. Lisle cũng làm y như thế.
Đừng chạm vào cô ấy, chàng đã nói thế, giọng hạ thấp một cách đáng sợ khiến nàng run rẩy.
Thật ngớ ngẩn làm sao. Nàng đâu phải cô nữ sinh bé bỏng, nhưng trái tim nàng vẫn đánh trống liên hồi như chưa bao giờ như thế, cho dù chuyện thanh niên đánh nhau vì nàng đã quá thường tình, và nàng cũng biết câu nói ấy không có gì đặc biệt với Lisle. Chàng chỉ hành động theo bản năng, bảo vệ theo bản năng. Đánh nhau cũng theo bản năng.
Nhưng nhiều năm nay rồi Olivia không thấy chàng đánh nhau.
Thật ra nàng đã không tận mắt chứng kiến cảnh đánh nhau nhiều năm rồi. Cánh đàn ông thường gặp nhau vào buổi bình minh, tránh xa con mắt cộng đồng, bởi vì đấu kiếm là bất hợp pháp.
Đấu tay bo thì không bị cấm. Nhưng xét cho cùng, các quý ông chẳng bao giờ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay giữa ban ngày ban mặt, trên một con phố chính của London.
Dĩ nhiên là nàng rất hào hứng.
“Họ sẽ cố giết nhau,” nàng nói với Bailey. “Nhưng tất cả những gì họ làm được sẽ chỉ là đấm nhau thùm thụp, mà như thế thì quả là thú vị hơn nhiều so với trò đứng cách nhau hai mươi bước chân rồi đấu súng. Belder đang rất máu chiến, còn Lisle sẽ vui lòng làm đối thủ của anh ta.”
Nhìn ánh mắt của Bailey, nàng biết cô hầu cũng không hề thờ ơ. Là một cô gái da màu nhỏ nhắn xinh đẹp nhưng Bailey không yếu ớt như vẻ bề ngoài. Nếu chẳng vậy thì cô đã không thể sống sót nổi khi phục vụ Olivia.
“Em chưa bao giờ thấy Lisle đánh nhau đâu,” Olivia nói. “Ta biết là với mái tóc vàng sáng và đôi mắt xanh xám đó, ngài ấy trông chẳng khác gì thiên thần, nhưng ngài ấy quả thực là một võ sĩ hung dữ đáng sợ đấy. Có lần ta đã thấy ngài ấy đập tơi tả một gã to khỏe như bò mộng, dễ chừng phải lớn gấp đôi ngài ấy.”
Chuyện đó xảy ra vào ngày nàng bắt đầu Hành trình Chinh phục tới Bristol. Lisle đã không tán thành khi biết Nat Diggerby trở thành bạn đồng hành của nàng.
Nói thực, nàng cũng không thích Diggerby cho lắm. Dù vờ như chẳng bận tâm nhưng nàng vẫn thấy vô cùng nhẹ nhõm khi Lisle thay thế hắn ta.
Trở lại với cuộc ẩu đả, Olivia ước gì có thể thấy rõ hơn. Nàng nghe thấy tiếng gầm
gừ và tiếng đấm đá huỳnh huỵch lên cơ thể, nhưng đám đàn ông đã chắn mất tầm nhìn của nàng. Họ đang hét hò cổ vũ, cá cược xem ai sẽ chiến thắng.
Dù cá tính có mạnh mẽ đến mấy, nàng cũng biết rằng tốt nhất là không nên cố chen vào vòng người đó. Một quý cô thì không được đứng chung với đám đàn ông khát máu. Một quý cô phải đứng đợi ở một khoảng cách an toàn khi thấy có đánh nhau.
Nếu trèo lên phía sau xe ngựa - chỗ đứng của gia nhân - thì nàng sẽ thấy rõ hơn, nhưng nàng cũng không được phép làm như thế.
Nàng chỉ có thể chờ đợi, lắng nghe và nhìn loáng thoáng, lòng thầm hy vọng Lisle sẽ lành lặn rời khỏi cuộc chiến. Nàng tự nhủ đánh nhau thì chàng quá quen rồi. Ở Ai Cập, người ta luôn cố giết chàng. Thế nhưng chẳng hiểu sao Belder cứ ghen tuông phát điên với chàng, hơn nữa Lisle đã làm bẽ mặt anh ta trước đám đông cử tọa toàn những người có địa vị.
Mấy phút trôi qua mà có cảm giác như đã mấy tiếng đồng hồ, đột nhiên một tiếng hét vang lên, rồi tất cả im bặt. Vòng người dãn ra. Nàng thấy Belder đang nằm trên đất, mấy người bạn của anh ta đang chạy lại đó.
Nàng rảo bước về phía trước, lấy cùi chỏ và cái ô mở lối đi giữa đám đông đang thưa dần.
Nàng chộp tay Lisle giật mạnh. “Đi thôi,” nàng nói.
Chàng ngây ra nhìn nàng. Tóc chàng rối bù và bẩn thỉu, môi chàng chảy máu. Máu rỏ xuống cả cà vạt tơi tả. Một ống tay áo khoác của chàng rách toạc xuống từ đường chỉ trên bờ vai.
“Đi thôi,” nàng nói. “Anh ta không đánh được nữa đâu.”
Lisle nhìn vào gã đàn ông đang nằm trên mặt đất, rồi quay lại nhìn nàng. “Em không định an ủi anh ta à?”
“Không.”
Chàng lấy khăn tay ra lau môi, mặt nhăn lại.
Nàng lấy cái khăn từ tay chàng và chấm nhẹ lên môi chàng. “Ngày mai mắt ngài sẽ thâm tím mất thôi, và trong vòng mấy ngày tới ngài sẽ phải ăn đồ ăn mềm,” nàng nói.
“Em có sở trường về chuyện những gã ngốc đánh nhau đấy,” chàng nói.
Nàng ngừng tay. “Môi ngài rồi sẽ sưng phồng lên,” nàng nói. “Nếu gặp vận rủi thì ngài còn không nói được nữa ấy chứ.” Nàng lắc lắc đầu, quay người bước về phía xe ngựa.
Chàng bước theo. “Nếu không thích họ thì em không nên khuyến khích họ,” chàng nói.
“Em đâu cần phải khuyến khích họ,” nàng nói. “Phụ nữ nhà DeLucey rất quyến trai. Mà đàn ông thì về căn bản đều là lũ ngốc. Cả ngài cũng thế thôi. Ngài đã kiếm cớ để đánh lộn, y như anh ta vậy.”
“Có lẽ đúng thế,” Lisle nói. “Ta không nhớ nổi lần cuối mình được phấn khích đến thế này khi đánh bại đối thủ là bao giờ nữa.”
Chàng đưa bàn tay bẩn thỉu và thâm tím ra đỡ nàng bước lên bậc tam cấp nhỏ hẹp của xe ngựa. Nàng nhìn xuống bàn tay chàng, cau mày.
“Ghê lắm à?” chàng hỏi.
“Không hẳn,” nàng nói. “Em chỉ nghĩ nó sẽ còn đau lâu lắm đấy.” “Cũng đáng thôi,” chàng đáp.
Ôi đàn ông, nàng thầm nghĩ.
Nàng nắm lấy tay chàng, bước vào trong xe ngựa rồi an vị trên ghế. Bailey theo sau và ngồi phía đối diện.
“Em không chắc niềm vui đánh bại Belder đáng cái giá ấy,” nàng nói. “Ta quen với chuyện mắt thâm đen và hàm đau điếng lắm rồi,” chàng bảo.
“Em không có ý đó,” nàng nói. “Chuyện này mà đến tai cha mẹ ngài thì sẽ chẳng vui vẻ gì đâu.”
Chàng nhún vai.
“Tốt hơn ngài nên để em đưa về nhà,” nàng nói.
Chàng lắc đầu. “Em không phải làm thế đâu. Nichols sẽ đến đây ngay sau khi đi nhặt mũ cho ta.”
Cậu bé người hầu mảnh khảnh đang bước nhanh về phía họ, vừa đi vừa rút khăn phủi mũ cho Lisle.
Bailey đưa ánh mắt sắc lẹm liếc cậu đầy tớ điển trai của Lisle, rồi khịt mũi ra vẻ miệt thị. “Chúng ta nên về thẳng nhà thôi thưa cô,” Bailey lên tiếng.
“Cô ấy đúng đấy,” Lisle nói. “Chẳng mấy chốc nữa cả London sẽ kháo nhau chuyện em dùng ô đánh Belder. Chắc chắn em sẽ muốn về nhà trước khi tin đó kịp đến, như vậy em mới có thể nhào nặn câu chuyện theo ý mình.”
Nàng có kể với cha mẹ phiên bản nào của câu chuyện này đi nữa thì cũng không quan trọng. Họ đã quá mệt mỏi với những vụ tai tiếng của nàng, ông bà cụ Hargate thì sẽ nói gì đó, nhưng chắc cũng không dễ chịu. Họ nghĩ nàng đến tuổi kết hôn lâu rồi. Họ tin rằng nàng cần có chồng con thì mới hết lông bông được. Họ đã sắp xếp cho con cái đâu ra đó cả. Nhưng các con của họ đều là con trai, họ tuyệt nhiên không có điểm nào giống nàng. Nói cho đúng thì trên đời này chẳng có ai giống nàng, ngoại trừ những DeLucey Đáng sợ khác: những sinh vật bất kham, không thể tin tưởng được.
Nếu kết hôn, cuộc đời nàng sẽ quanh quẩn với việc làm vợ và làm mẹ, rồi năm tháng sẽ chậm chạp trôi đi trong ngột ngạt. Nàng sẽ không đời nào được làm cái gì thực sự thú vị, không bao giờ nữa. Đương nhiên, nàng sẽ không còn được tham gia vào những chuyến phiêu lưu kỳ thú mà nàng hằng mơ ước.
Nói như thế không có nghĩa là lúc này nàng đang có nhiều mơ ước, khi mà xã hội này bị bó buộc bởi những luật lệ ngày càng hà khắc hơn.
Nhưng một khi nàng chưa phải là vợ của ai - và một khi Bà Cố còn sống và chiến đấu với những kẻ khác để bảo vệ nàng - thì ít nhất Olivia vẫn còn một chút tự do.
Nàng quyết không từ bỏ sự tự do ấy cho đến chừng nào không còn lựa chọn nào khác.
“Về nhà em ăn tối đi,” nàng nói với Lisle. “Rồi chúng ta sẽ trò chuyện.” “Ta nghĩ ta nên tắm trước đã,” chàng nói.
Chàng cười với nàng, cảm giác như mình là một nam sinh lôi thôi nhếch nhác, và gợi nhắc nàng về cậu bạn đã đánh bại Nat Diggerby rồi đóng vai người hộ vệ trung thành của nàng trên con đường tới Bristol.
Nụ cười tươi rói cùng với ký ức vừa trỗi dậy khiến mọi thứ trong nàng đảo lộn. “Em cũng nghĩ thế,” nàng nói.
Chàng đóng cửa xe ngựa lại.
Nàng dựa lưng vào ghế để chống lại sự thôi thúc phải ngó ra cửa sổ dõi theo chàng quay lưng bước đi.
Nàng thấy chiếc xe ngựa khẽ nảy lên khi mấy người hầu nhảy lên chỗ đứng của mình. Một người gõ nhẹ lên mái xe, thế là chiếc xe lắc lư chuyển bánh.
Vài phút sau, Bailey lên tiếng, “Tiểu thư, cô vẫn cầm chiếc khăn tay của ngài ấy đấy ạ.”
Olivia nhìn xuống chiếc khăn. Nàng sẽ cho giặt sạch rồi bổ sung vào bộ sưu tập của mình. Chiếc găng tay phải của nàng che đi cái mặt đá hình con bọ hung mà chàng đã gửi cho nàng từ lâu. Nàng đã đính nó vào một chiếc nhẫn và thường xuyên đeo. Chàng cũng gửi thư cho nàng nữa, nhưng rất ít: nàng gửi dăm bảy bức thì chàng mới gửi được một bức.
Nàng giữ gìn tình bạn cũng như từng bức thư của chàng. Nàng giữ gìn những món đồ trang sức rẻ tiền chàng gửi cùng với mọi vật kỷ niệm linh tinh vớ vẩn nàng sưu tầm được. Nhưng nàng biết, chàng chưa bao giờ cho ai nhiều hơn thế. Chàng đã dâng hiến bản thân - trái tim, trí óc, tâm hồn - cho Ai Cập từ lâu lắm rồi.
“Ngài ấy sẽ không nhớ đâu,” nàng nói.
Dinh thự Atherton
Tối hôm ấy
“Ôi Peregrine, sao con có thể làm thế?” Phu nhân Atherton gào lên. “Đánh lộn! Như một đứa côn đồ dung tục! Trên phố Strand! Giữa bàn dân thiên hạ!”
Bà quay sang nhìn chồng. “Anh thấy không Jasper? Đây là hệ quả của việc để Rupert Carsington coi sóc thằng bé trong ngần ấy năm đấy.”
Nói thế thật chẳng có lý chút nào. Lisle đã biết đánh nhau từ cách đây quá lâu rồi, chính chàng cũng không nhớ nổi. Chàng chẳng cần sự dìu dắt của chú Rupert trong lĩnh vực này. Từ bé đến giờ, chàng chưa từng né tránh ẩu đả, bất kể đối thủ là ai, lớn nhỏ thế nào, đông đảo đến đâu. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ.
“Con đã thành kẻ mọi rợ mất rồi!” cha chàng nổi trận lôi đình. “Con thậm chí chẳng thể trình bày một tài liệu trước Hội Khảo cổ mà không gây ầm ĩ.”
“Đâu có gì mà ầm ĩ,” Lisle lên tiếng. “Một cuộc tranh luận thì đúng hơn. Các tài liệu
còn có nhiều thứ thú vị hơn để nói.”
“Báo chí chẳng thích gì hơn là những chuyện khủng khiếp về đám đàn ông đánh nhau vì Olivia Carsington,” mẹ chàng lên tiếng. “Mẹ không tin nổi cô ta cũng biến cả con thành một thằng khờ. Mẹ thấy mất mặt quá. Sau chuyện này mẹ phải đối diện với bạn bè ra sao đây? Làm sao mẹ còn ngẩng đầu lên được?” Bà ngồi thụp xuống chiếc ghế dài và òa lên nức nở.
“Đây là hậu quả của việc nuông chiều thú vui vô nghĩa ở Ai Cập của con,” cha chàng nói. “Được thôi, cha sẽ đặt dấu chấm hết cho việc này, một lần và mãi mãi. Chừng nào còn chưa thấy một chút xíu bổn phận làm con, phong thái cư xử ra dáng quý tộc, thì con sẽ không nhận được một xu nào từ ta nữa đâu.”
Lisle nhìn ông hồi lâu. Như thường lệ, chàng nghĩ đây chỉ là một màn kịch. Cha mẹ chàng mà không nổi trận lôi đình thì mới lạ.
Nhưng chuyện này thì quả là mới mẻ. Chàng không chắc mình nghe có rõ không. Giống như bao cậu con trai của các gia đình quý tộc khác, Lisle hoàn toàn phụ thuộc vào cha mình về mặt tài chính. Tiền là tất cả những gì chàng nhận được từ cha mẹ mình. Họ chưa bao giờ cho chàng tình yêu thương và sự thấu hiểu. Nhà Carsington thì cho chàng điều đó, rất nhiều. Nhưng chàng không thể xin tiền của gia đình bên ấy.
“Cha sẽ cắt trợ cấp của con à?” chàng hỏi.
“Con đã cười nhạo, phớt lờ, lợi dụng chúng ta, và lạm dụng sự rộng lượng của chúng ta,” cha chàng nói. “Chúng ta đã dốc hết kiên nhẫn chịu đựng điều đó, nhưng lần này thì con quá đáng lắm rồi. Con đã làm mẹ con bẽ mặt.”
Như kịch bản đã lên sẵn, mẹ chàng ngất xỉu.
“Chuyện này thật điên rồ,” Lisle kêu lên. “Thế thì con phải sống làm sao?”
Cha chàng vội vã chạy lại bên cạnh đưa cho mẹ chàng muối hít. “Nếu muốn có tiền, con sẽ phải cư xử như những quý ông khác,” ông vừa nói vừa khẽ nâng đầu mẹ chàng khỏi chiếc gối mà bà vừa khéo léo ngả lên. “Con sẽ phải tôn trọng ý muốn của cha mẹ con. Con sẽ phải đến Scotland như yêu cầu của chúng ta, và lần đầu tiên trong đời, con sẽ phải gánh vác trách nhiệm. Nếu muốn tới Ai Cập, con sẽ phải bước qua xác cha!”
Cuối cùng, Lisle không tới nhà Olivia ăn tối. Chiều muộn hôm đó, Olivia nhận được một mảnh giấy nhắn của chàng: Nếu tới ăn tối, ta sẽ phải giết một ai đó. Tốt nhất là nên tránh xa. Có lẽ em cũng có đủ rắc rối rồi.
L
Nàng viết lại:
Viết Thư không an toàn. Gặp em ở góc đường Công viên Hyde. Ngày mai. Mười giờ Sáng. ĐỪNG ĐỂ EM ĐỢI ĐẤY.
O
Công viên Hyde
Sáng hôm sau
Mới mấy năm trước, những quý ông sành điệu nhất London còn có cái mốt sáng sáng dạo bộ trong công viên Hyde, rồi chiều chiều tầm từ năm tới bảy giờ lại trở lại đấy đi dạo.
Nhưng giờ đây thú đi dạo buổi sáng không chỉ lỗi thời mà còn bị xem là thô thiển.
Tuy nhiên, buổi sáng là thời điểm tuyệt vời để Hẹn hò Bí mật, như sau này Olivia viết trong thư.
Như thông lệ, nàng đến muộn, mà Lisle thì chưa bao giờ giỏi chờ đợi. Nhưng cảm giác sốt ruột của chàng tan biến ngay khi nàng xuất hiện trong tầm mắt, cái lông chim to đùng màu xanh nhạt vẫy vẫy trên chóp mũ giống như ngọn cờ khiêu chiến. Nàng mặc chiếc váy cưỡi ngựa được cắt may theo kiểu nhà binh, màu xanh của váy tiệp với màu xanh của đôi mắt nàng.
Ánh mặt trời ban mai nghiêng nghiêng sà xuống mái tóc xoăn đang cố trốn khỏi mũ và những chiếc kẹp tóc, nắng làm tóc nàng lung linh như ngọc hồng lựu.
Khi nàng tới bên cạnh, chàng vẫn còn chưa hoàn hồn.
“Ngài không biết phải khó khăn thế nào em mới thoát được Bailey đâu,” nàng nói. “Chắc ngài nghĩ cô ấy sẽ thấy nhẹ nợ, vì cô ấy ghét phải đi xe ngựa vào thành phố, nhưng không phải vậy đâu, cô ấy đã quyết định đi với em đấy. Em mất vô khối thời gian mới thuyết phục được cô ấy ở nhà và dịu bớt nghi ngờ. Để làm được thế, em
buộc phải mang theo thằng hầu giữ ngựa.” Nàng hất cái đầu đính lông chim về phía cậu thanh niên mặc chế phục lịch sự giữ khoảng cách khá xa phía sau nàng. “Không phải là ngài với em có cái gì bí mật phải giấu giếm, nhưng cả nhà đang bực điên lên với em vì em đã khiến ngài đánh nhau với Belder.”
“Tự ta muốn vậy,” chàng đáp.
“Mắt ngài tệ quá,” nàng nói, rướn người ra trước một chút để nhìn vào đấy.
“Trông thì vậy thôi,” chàng nói. “Nichols biết cách xử lý mấy chuyện này.” Nếu cậu ta mà không biết cách thì giờ con mắt ấy đã sưng húp rồi. “Mấy ngày tới nó sẽ chuyển sang mấy màu hơi xấu một chút, nhưng rồi vết thâm sẽ mờ dần. Hôm trước rõ ràng em đã rất lo ngại cho cái miệng của ta, nhưng thực ra nó không tệ đến thế đâu.”
“Hôm nay ngài không đẹp mã bằng hôm ở dạ tiệc,” nàng nói. “Ai đó đã tả rất tỉ mỉ cho mẹ em về cuộc ẩu đả và những vết thương của ngài, mẹ em giận lắm. Bà bảo tốt nhất là em nên tránh xa ngài ra. Mẹ bảo chẳng cần em lôi kéo vào rắc rối thì ngài cũng có đủ khó khăn rồi.”
“Vô lý,” chàng đáp. “Nếu em tránh xa thì ta nói chuyện với ai được? Lại kia đi. Ở đây ồn ào quá.”
Mặc dù công viên này vô cùng vắng vẻ - đặc biệt là không có ai trong giới thượng lưu - nhưng góc đường Công viên Hyde lại rất nhộn nhịp. Dân buôn ma túy, người bán sữa, lính tráng, và đủ kiểu người thả bộ tụ tập đông đúc trên vỉa hè. Trên đường Knightsbridge, xe chở thư và xe ngựa công cộng tranh giành khoảng trống với những chiếc xe kéo chậm chạp, xe ngựa tư nhân, người cưỡi ngựa và khách bộ hành. Bọn trẻ chơi rông, rồi chó mèo lao như thiêu thân giữa xe với ngựa.
Ngày xưa, chính tại góc đường Công viên Hyde này đã khởi sự cuộc phiêu lưu đầu tiên của họ. Ký ức trỗi dậy thật sống động: Olivia, đứng bên cạnh một thằng con trai đầu bò đầu bướu... Lisle phải đánh thằng đó văng khỏi đường... rồi trèo lên một chiếc xe kéo chạy theo phía sau nàng...
Mỗi lần đợi nàng, chàng đều mong chờ sẽ nhìn thấy cô gái gầy nhẳng ngày trước, cô gái có mái tóc và đôi mắt không lẫn vào đâu được. Mỗi lần nhìn thấy nàng như lúc này, chàng lại thấy rối tung rối bời. Chàng vẫn chưa quen được với nhan sắc hiện giờ của nàng. Lòng chàng nhói lên khi nhìn thấy khuôn mặt ấy, và những nét cong mềm mại trên thân hình nàng được bộ váy cưỡi ngựa bó sát tôn lên khiến chàng rạo rực bao nhiêu cảm xúc.
Những cảm xúc sai trái. Kiểu cảm xúc mà những phụ nữ quyến rũ khuấy lên trong đàn ông. Mấy cô nàng lả lơi có thể tạo ra những cảm xúc đó.
Ngay lúc này, cái chàng đang cần là một người bạn, một đồng minh.
Nhưng ngay cả khi đã vào trong công viên, chàng nhận thấy mình vẫn chưa sẵn sàng lên tiếng. Chàng cần phải xóa bỏ cảm xúc xáo trộn ra khỏi trí não hoặc con tim - chàng không chắc chính xác thì cảm xúc ấy nằm ở đâu nữa.
“Đua không?” chàng hỏi.
Mắt nàng sáng lên.
Ngựa của họ tràn đầy năng lượng, hào hứng phi nhanh về hướng Tây trên con đường Rotten vắng vẻ. Ngựa của nàng dũng mãnh không kém gì ngựa của chàng, và nàng phi ngựa với kỹ năng và lòng dũng cảm mà nàng vẫn dành cho mọi thứ trong đời. Chàng về đích trước nàng không bao lâu, và khi dừng ngựa, họ cùng nhau cười vang - với chính họ, với niềm vui thuần khiết đến từ chuyến phi ngựa trong buổi sáng mùa thu đẹp trời.
Họ phi nước kiệu thẳng vào trong công viên.
Khi tới một hàng cây, khuất hẳn khỏi tầm nhìn của khách bộ hành, họ hãm ngựa đi thong dong.
Rồi chàng kể cho nàng nghe chuyện đã xảy ra.
“Họ cắt trợ cấp của ngài sao?” nàng nghi hoặc. “Không thể nào! Ngài sẽ phát điên ở đây mất. Ngài phải trở lại Ai Cập chứ.”
“Ta bảo rồi đấy, họ quyết giữ ta ở nhà,” chàng đáp. “Nhưng ta không nhận ra họ quyết tâm đến thế nào. Ta cử nghĩ có lẽ mấy hôm nữa họ sẽ bình tâm lại hoặc quên chuyện này đi, như bao nhiêu lần khác. Nhưng hôm nay họ thậm chí còn cứng rắn về chuyện cái lâu đài phải gió ấy hơn cả hôm qua. Cha ta chỉ tiếp tục cung cấp tài chính cho ta trong trường hợp ta đảm nhận công việc khôi phục tòa lâu đài ấy.”
“Em có thể hiểu được ông ấy đang nghĩ gì,” nàng nói. “Ông ấy nghĩ một khi đã bắt tay vào dự án này, sẽ có lúc ngài chuyển tình yêu của mình cho nó.”
Tim chàng nhói lên cảm giác có lỗi. “Tình yêu ư?” chàng hỏi.
“Cha mẹ chàng ghen tị với Ai Cập,” chàng nói. “Họ không hiểu sự khác nhau giữa một cái lâu đài cũ kỹ và những di tích cổ xưa. Với họ tất cả đều là công trình ‘cũ’.”
Chàng không cho rằng Ai Cập là tình yêu, nhưng Olivia thì có đấy, mà có lẽ cũng phải, trong cảm nhận của chàng có tình yêu đối với miền đất ấy và công việc nơi đấy.
Nàng hiểu quá rõ, đôi khi còn rõ hơn cả bản thân chàng. Nhưng nói cho cùng, nàng là người nhà DeLucey cơ mà, và họ đã tồn tại được qua nhiều thế hệ là nhờ giỏi nắm bắt tâm lý và thao túng người khác.
“Ta nghĩ mình nên thấy biết ơn vì trước đây họ không nghĩ tới chuyện sử dụng biện pháp thắt chặt hầu bao.”
“Nếu họ có nghĩ ra thì ngài Rathbourne cũng sẽ chi trả cho cuộc sống của ngài.” “Dượng em đã cho ta nhiều thứ quá rồi,” Lisle nói.
“Giờ ông ấy phải lo cho em và và anh chị của em nữa.”
“Em sẽ đưa tiền của em cho ngài,” nàng nói. “Ngài biết em sẽ làm thế mà.”
“Như thế thì thật là khủng khiếp,” chàng nói. “Ta mừng vì chuyện đó không thể xảy ra.” Chàng biết tiền bạc của nàng bị quản lý rất chặt, không chỉ để ngăn ngừa những kẻ đào mỏ mà còn để hạn chế chính nàng. Nàng đầy mâu thuẫn đến lạ kỳ: đầu óc rất tính toán nhưng con tim vô cùng rộng rãi. Hành động quên mình bảo vệ thằng bé đầu đường xó chợ hôm qua đã cho thấy điều đó.
Nàng xích lại gần, đặt bàn tay đeo găng lên tay chàng. “Em sẽ không để ngài phải mắc kẹt ở đây đâu,” nàng nói. “Chúng ta sẽ nghĩ kế.”
Chắc đã nghĩ ra điều gì đó nên đôi mắt to xanh thẳm của nàng sáng rỡ. “Không, không được,” chàng cương quyết.
Nàng là bạn tâm giao và là đồng minh của chàng, nhưng cái tính bốc đồng, coi thường lề thói, nhiệt tình sôi sục của nàng đôi khi khiến chàng phải dựng tóc gáy - chàng, con người ngày nào cũng đối mặt với rắn độc, bọ cạp, cá sấu, trộm cướp, bọn sát nhân, và tồi tệ nhất là đám quan chức.
Thật sự ra, nói óc duy lý của nàng cực kỳ mơ hồ là còn nhẹ đấy.
Chín năm trước, nàng đã dụ chàng cùng đi tới Bristol để truy tìm kho báu của một tay cướp biển, thật đáng kinh ngạc. Đó là một trong những Ý Tưởng của nàng. Mọi chuyện có lẽ đã kết thúc thật khủng khiếp với chàng - bị tống vào một ngôi trường tàn bạo ở Scotland chẳng hạn - nếu ngài Rathbourne không can thiệp.
Thay vào đó, Lisle được tới Ai Cập, và chàng biết rõ tất cả là nhờ có Rathbourne. Lisle cũng biết rằng con người ta không thể sống nhờ vào những điều kỳ diệu. Hơn nữa giờ đây chàng không còn là một cậu bé nữa, chàng đã là người đàn ông. Chàng không thể trông đợi, mà cũng chẳng muốn bạn bè và người thân phải hỗ trợ mình thoát khỏi bất cứ tình huống khó khăn nào.
“Không, Lisle, ngài phải nghe em,” Olivia tha thiết. “Em đã nghĩ ra một Ý Tưởng siêu tuyệt vời đây.”
Ôi, Olivia với một Ý Tưởng.
Chắc cái ý tưởng đó là lợi dụng một chút trí thông minh và bản năng tự bảo tồn nòi
giống để hành hạ trái tim của một gã đàn ông nào đó.
“Không Ý Tưởng gì hết,” chàng nói. “Bất kể cái gì cũng không.”
“Chúng ta đi Scotland nhé,” nàng nói. “Đi cùng nhau.”
Tim nàng đập thình thịch tới nỗi có lẽ ở tận lâu đài Kensington cũng có thể nghe thấy. Từ hôm thứ Bảy tới giờ, nàng không thể không nghĩ về cái lâu đài ở Scotland đó.
“Em mất trí rồi à?”
“Em đã biết thể nào ngài cũng nói thế mà.”
“Ta sẽ không đi Scotland đâu.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi cùng nhau," nàng nói. “Thế sẽ vui lắm. Một chuyến phiêu lưu đấy.”
“Đừng có ngớ ngẩn thế,” chàng nói. “Chúng ta không còn trẻ con nữa. Ngay cả em cũng vậy, em đâu thể đi Scotland với một gã thanh niên được chứ. Cha mẹ em không đời nào đồng ý đâu.”
“Họ đâu cần phải biết chuyện này.”
Đôi mắt xám của chàng trố lên. “Olivia.”
“Sáng mai cha mẹ em sẽ đi Derbyshire,” nàng nói. “Em sẽ ở lại London với Bà Cố.” Chàng nhìn sang chỗ khác. “Chuyện này mỗi lúc một tồi tệ hơn rồi.” “Em đã nghĩ kỹ rồi,” nàng nói.
“Từ khi nào cơ?” chàng hỏi, ánh mắt sắc như dao của chàng hướng lại phía nàng. “Ta vừa kể mọi chuyện với em cách đây chưa đầy một phút thôi mà.”
“Em nghĩ về cái lâu đài ấy lâu rồi,” nàng nói. Điều này thì quả là đúng thật. Với Lisle thì tốt nhất là nói càng thật càng tốt. Không chỉ vì tư duy của chàng cực kỳ logic và hết sức thẳng thắn, mà còn vì nàng nghĩ chàng có thể đọc được phần nào suy nghĩ của nàng. “Em đang nghĩ một kế giúp chàng thoát khỏi chuyện này.”
“Em không phải cứu ta,” chàng nói. “Em không phải hiệp sĩ mặc áo sắt sáng choang hay bất cứ cái gì em nghĩ. Ta gần hai mươi bốn tuổi rồi, và hoàn toàn có thể chăm sóc bản thân.”
“Làm ơn đừng mang lòng kiêu hãnh nam nhi ra dọa em,” nàng nói. “Chỉ cần lắng nghe, ngài sẽ thấy Ý Tưởng của em rất thực tế.”
“Chín năm trước em đã có một kế hoạch rất thực tế để cứu mẹ em khỏi cảnh nghèo túng bằng cách bỏ đến Bristol đào kho báu của bọn cướp biển ở trong vườn nhà Bá tước Mandeville!”
“Phải, và chuyện đó rất vui, đúng không?” nàng nói. “Đó là một cuộc phiêu lưu. Ngài thì lúc nào cũng được phiêu lưu. Em thì...” Nàng khoát tay. “Em hủy hôn ước và dùng ô đánh đàn ông.”
Chàng ném cho nàng một cái nhìn mà nàng không hiểu được. Rồi chàng thúc ngựa phi nhanh.
Chàng cần khoảng cách.
Chàng không muốn nghĩ về chuyện này, về nàng thuở nhỏ, cô bé luôn muốn trở thành kỵ sĩ và dấn thân vào mọi Hành trình Chinh phục.
Nàng phi ngựa theo chàng. “Đừng có khép cửa tâm trí,” nàng nói. “Ngài là một học giả, mà học giả thì luôn phải để cho đầu óc thông thoáng.”
“Đừng có điên rồ,” chàng nói. “Em không thể cứ thế mà đi Scotland chỉ vì em đã chán trò hối hôn và dùng ô đánh bọn đàn ông được. Ta rất tiếc là em phải chịu đựng những quy tắc ngớ ngẩn đối với nữ giới, nhưng ta chẳng thay đổi được gì. Và ngay cả ta cũng biết rõ là em không thể một thân một mình nhảy vào xe ngựa và chu du bốn trăm dặm mà không gây ra vụ việc tồi tệ nào.”
“Lúc nào em chẳng gây chuyện chứ,” nàng nói. “Em nổi tiếng như thế mà. Bất kể em nói hay làm gì ở bữa tối này hay dạ tiệc nọ thì chuyện đó cũng đều lan đi ầm ĩ khắp nơi vào sáng hôm sau. Olivia Carsington, Vụ Bê Bối Đêm Qua, chính là em. Lẽ ra em đã phải khắc dòng đó lên danh thiếp của mình.”
Chàng nhìn quanh. Sáng nay công viên thật tĩnh lặng, những con đường xung quanh yên ắng tới mức có thể nghe rõ tiếng lá xào xạc trên cây, tiếng vó gõ lộc cộc của hai con ngựa họ cưỡi, tiếng một đôi chim ríu rít gọi nhau.
Chàng cũng nghe được cả tiếng tim mình thình thịch nữa. Chàng đang bị cám dỗ, bị lôi cuốn khó mà cưỡng lại nổi.
Nhưng xưa nay lúc nào nàng chẳng cuốn hút chàng. Nàng đã cuốn hút chàng từ thuở mười hai. Nếu mười năm qua chàng không sống ở Ai Cập thì hẳn nàng đã đảo lộn cuộc đời chàng từ lâu rồi.
“Lẽ ra ta không phải nói với em điều này,” chàng nói. “Nhưng vì em mất trí rồi nên ta nghĩ ta phải nói cho em hay: Có thể em nghĩ về ta như một người anh trai nhưng sự thực đâu phải vậy. Em không thể đi cùng ta mà không có ai đi kèm được.”
“Tất nhiên là em phải có người đi kèm,” nàng nói. “Nhưng ngài cứ để em sắp xếp tất cả. Ngài chỉ cần...”
“Ta sẽ không làm gì cả,” chàng nói. “Trong tất cả mọi kế hoạch liều lĩnh điên rồ thì...” Chàng ngừng lời, lắc đầu. “Ta không tin nổi chuyện này. Cha ta cắt trợ cấp, ta chẳng có chỗ nào mà đi và chẳng có gì để sống. Vào tháng Mười, thật khủng khiếp! Em có biết Scotland vào tháng Mười như thế nào không?”
“Trời tối sầm, ẩm ướt, lạnh giá, u ám và cực kỳ lãng mạn,” nàng nói.
“Ta sẽ không đi đâu!” chàng thốt lên. “Ta không tin nổi là mình lại đi tranh luận chuyện này với em.”
“Sẽ vui lắm mà,” nàng nói. “Một chuyến phiêu lưu.”
Một chuyến phiêu lưu. Lúc nào chàng chẳng phiêu lưu. Nhưng không phải với Olivia trong suốt những năm vừa qua.
Nhưng đây không phải Olivia ngày xưa nữa. Với Olivia ngày xưa thì chàng có thể xoay xở được, ở một mức độ nào đó. Song khi ấy chàng là một cậu bé mười ba tuổi, và hiển nhiên là hoàn toàn mù tịt về phụ nữ.
“Đây là cơ hội cuối cùng, số một và duy nhất của em,” nàng nói. “Gia đình đã ngán tận cổ những trò bồng bột của em, và ông bà ngoại Hargate đang kiên quyết yêu cầu em kết hôn. Một khi họ đã bắt đầu kiên quyết làm gì thì đừng hòng có ai chống đối. Ngài biết họ thích mọi người phải kết hôn và ổn định cuộc sống thế nào rồi đấy. Em sẽ phải quyết định chọn một ai đó, rồi ổn định cuộc sống, rồi làm vợ làm mẹ. Ổn định, ổn định, ổn định. Em sẽ không bao giờ có cơ hội làm cái gì thú vị nữa, không một lần nào nữa.”
Chàng nhớ nàng đã từng không biết sự là gì, một mình chuẩn bị lên đường... nhảy vào xe ngựa... rủ rê hai cậu giữ ngựa đánh bài. Chàng nghĩ về cuộc đời nàng lúc này đây, chỉ biết quẩn quanh hết bữa tiệc này sang bữa tiệc khác.
“Chết tiệt, đừng làm thế với ta, Olivia,” chàng nói.
“Ngài biết đúng là thế mà,” nàng đáp. “Phụ nữ sống cuộc đời thật chật hẹp. Bọn em là con gái của ai đó, rồi vợ của ai đó và mẹ của ai đó. Bọn em chẳng bao giờ làm bất cứ cái gì, chẳng như đàn ông.”
Chàng lắc đầu. “Không,” chàng nói. “Ta sẽ không để cha mẹ ép buộc ta đâu.”
“Chàng không có lựa chọn nào cả,” nàng nói. “Vốn dĩ lúc nào chàng cũng có thể bỏ mặc và lảng tránh họ, nhưng cuối cùng họ đã nhận ra họ có một quyền lực áp chế được chàng.”
“Và em định cho họ giữ thế thượng phong,” chàng nói. “Em có nghĩ ra cái gì dính dáng đến chuyện xây dựng lại một lâu đài cổ không?”
“Em có một ý tưởng tuyệt diệu lắm,” nàng đáp.
“Nó có thể phải mất nhiều năm. Nhiều năm trời! Ở Scotland. Với kèn túi!”
Nàng mỉm cười. “Em mà giúp ngài thì chẳng mất đến nhiều năm trời đâu,” nàng lên tiếng. “Và để cho cha mẹ ngài nghĩ họ vừa thắng trận cũng chẳng phương hại gì. Nếu chúng ta biết cách chơi trò này, ngài sẽ được trở lại Ai Cập vào - ờ, mùa xuân này, chắc chắn đấy.”
Nụ cười của nàng đủ khiến chàng phải đầu hàng.
Nhưng giọng nói cảnh giác vốn đã giúp chàng sống sót qua ngần ấy năm thì nói: Khoan nào. Nghĩ kỹ đi.
Thật khó mà nghĩ được gì khi mãnh lực của đôi mắt xanh kia phủ chụp lấy chàng và có gì đó cứ nhói lên trong tim chàng.
Nhưng chàng không chịu khuất phục hoàn toàn. Chàng vẫn là cậu bé cứng đầu đã quen biết nàng từ lâu, chàng còn là một học giả, người quan sát khách quan mới đây đã để ý nàng rất cẩn thận. Chàng biết nàng có thể khiến người ta, đặc biệt là đàn ông, tin mọi điều nàng nói.
“Không,” chàng lấy giọng hết sức nhẹ nhàng. “Nếu ta để họ điều khiển ta thế này, họ sẽ diễn đi diễn lại thôi. Nếu ta chịu nghe theo yêu cầu này, họ sẽ đòi hỏi thêm nữa.”
Nụ cười của nàng vẫn rạng rỡ y nguyên. “À, được thôi, nếu chàng không đồng tình thì đành vậy,” nàng nói vui vẻ.
“Ta biết em sẽ hiểu mà.”
“Ồ, em hiểu chứ. Rất rõ.”
“Tốt, bởi vì...”
“Ngài không cần giải thích,” nàng nói. “Em hiểu hết. Giờ em không nán lại được nữa. Hôm nay em có việc quan trọng phải làm.”
Nàng đưa tay lên chạm vành mũ rồi phi ngựa đi.
OCHƯƠNG 5
livia thấy hai quý bà đồng hành cùng mình đã ngồi thoải mái bên một chiếc bàn rộng rãi trong góc của căn phòng chung dành cho khách, đồ ăn thức uống bày trước mặt. Những du khách khác bị kẹt lại do trời mưa cũng tụ tập ở đây. Vài người đang hong mình bên lò sưởi, một số khác ngồi ở bàn, và cũng có những người tranh thủ thời gian nghỉ ngơi để cạo râu hoặc lau giày.
Nàng vốn luôn thích dừng lại ăn uống ở quán trọ. Ở đó người ta gặp được rất nhiều loại người, thuộc mọi tầng lớp, khác hẳn với trong xã hội thượng lưu, nơi ai cũng hao hao giống nhau, và hầu hết mọi người đều có quan hệ dây mơ rễ má.
Thường thường những lần nghỉ chân của nàng chẳng được bao lâu, thế nên nàng hẳn sẽ rất vui khi được nhập vào đám đông ở đây, nếu như lần chợp mắt trên xe ngựa vừa nãy không làm nàng nhận ra mình đang mệt mỏi đến thế nào.
Bình thường phải mất một tuần hoặc hơn để chuẩn bị cho một hành trình dài như thế này. Nàng đã sắp xếp mọi thứ - cho cả nàng lẫn hai quý bà - trong vòng chưa đầy bốn mươi tám tiếng. Việc này khiến nàng hầu như chẳng có thời gian để ngủ.
Đó là lý do vì sao thay vì nhập vào đám đông, nàng lại thuê căn phòng mà người chủ quán trọ cam đoan là tốt nhất trong quán trọ. Nàng vùi mình vào chiếc ghế bành rộng rãi thoải mái trước lò sưởi.
Dù không gian ấm áp và yên tĩnh nhưng tâm trí nàng không thể nghỉ ngơi. Phải rất lâu sau, những suy nghĩ và cảm xúc cuồn cuộn trong lòng nàng mới lắng xuống và nàng chìm vào quên lãng. Chừng một phút sau, nàng thấy ai đó chạm nhẹ vào cánh tay, khiến nàng giật mình tỉnh dậy.
“Em xin lỗi đã làm tiểu thư giật mình, thưa tiểu thư,” Bailey nói.
Đầu óc vẫn đờ đẫn, Olivia ngước mắt lên. Một nét cau có xuất hiện giữa đôi mày thanh tú của Bailey. Không phải là một dấu hiệu tốt lành. Bailey vốn không hay lo lắng.
“Hai quý bà,” Olivia nói. Nàng đứng phắt dậy, đầu chao đảo.
“Vâng, thưa tiểu thư. Một vụ cãi lộn trong lúc đánh bài. Em xin lỗi vì làm phiền tiểu thư, nhưng họ vừa chọc giận con trai trưởng hạt này. Ông ta đang nổi trận tam bành, gọi cho cảnh sát và nhà chức trách, chẳng ai làm ông ta dịu đi được cả. Chủ quán trọ sợ ông ta, có vẻ thế. Em nghĩ tiểu thư sẽ muốn đưa các quý bà thoát khỏi chỗ đó an toàn.”
Vừa nói Bailey vừa chải tóc cho Olivia, phủi những nếp nhăn trên váy nàng và che đi dấu hiệu cho thấy nàng vừa ngủ dậy.
Nhận thức được rằng có thể họ sẽ phải nhanh chóng rời khỏi quán trọ này, Bailey cố gắng choàng áo khoác cho Olivia trong lúc họ vội vã bước dọc hành lang. Từ trên đầu cầu thang, nàng đã nghe rõ mồn một những giọng nói chói tai. Olivia vội vã đi xuống, bước vào phòng khách chung.
Nàng chợt nhận ra mình đã dành nhiều thời gian để xoa dịu cái tâm trí lộn xộn hơn nàng tưởng. Không chỉ mưa đã tạnh mà ánh bình minh mờ xám cũng đã chiếu sáng khung cảnh bên ngoài những ô cửa sổ. Phòng khách ồn ào quá. Cơn mưa chắc đã níu chân rất nhiều người, và tất cả họ đều đang hối hả. Những người mong ngóng lên đường vội vã nuốt trôi thức ăn rồi khởi hành. Tuy nhiên, căn phòng vẫn đông hơn mấy giờ trước. Những người hầu tất bật chạy ra chạy vào với khay thức ăn trên tay.
Trong khi đó, giọng một người đàn ông vẫn nói liên hồi kỳ trận, không khí trong phòng mỗi lúc một xấu đi. Người chủ quán trọ không thể làm chủ tình hình, một cuộc cãi lộn ầm ĩ đang nổ ra.
Bình thường thì Olivia không bận tâm. Ẩu đả lộn xộn càng hay. Chỉ có điều như thế thường dẫn đến việc nhà chức trách được triệu tới. Mà thế thì họ sẽ phải lưu lại đây rất lâu, lúc này nàng hoàn toàn không muốn vậy.
Tất cả suy nghĩ này vụt qua đầu trong khi nàng đang cân nhắc về nguồn cơn của vụ hỗn loạn này.
Một thanh niên to khỏe có mái tóc gợn sóng, hẳn đã uống suốt đêm qua, đang đấm sầm sầm lên chiếc bàn mà Olivia đã đi khỏi để lại hai quý bà ngồi đó. Qua vẻ mặt những người ngồi quanh bàn, nàng biết hai quý bà đã làm cạn cả kho rượu và tủ thức ăn của ông chủ cũng như túi của vị khách kia.
“Các người chơi ăn gian!” gã say rượu hét. “Ta thấy rõ các người làm vậy!”
Quý bà Cooper đứng lên khỏi ghế. “Nếu trên đời có cái gì ta không chịu đựng được thì đó là một kẻ thua cuộc cay cú. Gian lận, thật tình.”
“Thôi nào, thôi nào, ngài Flood, thưa ngài,” ông chủ quán trọ kêu lên. “Đây chỉ là một trò chơi cho vui...”
“Chơi cho vui! Hai bà này đã cướp trắng của tôi năm mươi bảng!”
“Cướp của cậu, thật tình,” Quý bà Withcote nói. “Đâu phải lỗi của bọn ta nếu cậu chẳng giữ được cốc rượu trong tay cho chắc.”
“Và chẳng thể nhìn cho ra nhìn,” Quý bà Cooper tiếp lời. “Và chẳng thể phân biệt quân bồi với quân già.”
“Chẳng phải trách nhiệm của bọn ta nếu đầu óc cậu quá tù mù tới nỗi chẳng nhớ được những quân bài trên tay chính mình,” Quý bà Withcote nói.
“Tôi đủ tỏ để thấy các người ăn gian, mấy mụ già chơi đểu ăn gian!” “Chơi đểu?” Quý bà Withcote rít lên.
“Ta sẽ chơi đểu với mi, đồ đần độn say xỉn!” Quý bà Cooper hét lên. “Trời ơi, nếu ta là đàn ông...”
“Nếu bà là đàn ông thì tôi đã hạ đo ván bà rồi!” gã thanh niên thét lại. Olivia rẽ đám đông đi vào.
“Quý bà ơi, đi thôi,” nàng nói. “Người này rõ là không còn tỉnh táo nữa rồi, nếu không anh ta đã chẳng xử sự thô lỗ thế này, lại còn đe dọa những người phụ nữ vô tội.”
Gã thanh niên say xỉn đỏ bừng mặt, quay người sang phía nàng. Gã mở miệng nhưng chẳng nói được lời nào.
Đàn ông nhìn Olivia lần đầu bao giờ cũng có phản ứng tương tự như thế. Anh chàng say mèm nhưng đâu có mù.
Thừa lúc gã nhất thời lơ đễnh, nàng cố đưa hai quý bà ra khỏi phòng. Nhưng nàng sớm phải bực mình vì gã nhanh chóng bừng tỉnh.
“Ôi, không, cô không được làm thế!” gã hét. “Bọn họ đã chuốc ta say rồi thừa cơ cướp giật của ta, họ không thể cứ thế mà bỏ đi! Ta sẽ đưa họ tới quan thị chính và ta muốn thấy họ bị đánh vì tội trộm cắp!” Gã chộp một cái ghế rồi ném bốp vào tường. “Ta muốn tiền của ta!”
Lời đe dọa chẳng làm nàng e ngại. Bất cứ DeLucey Đáng sợ nào cũng có thể điều khiển quan thị chính trong lòng bàn tay. Nhưng Olivia không có tâm trạng tiêu khiển với các quan thị chính hay phí phạm thời gian đấu dịu những gã khó bảo, khó chịu.
Nàng vừa trải qua hai ngày điên cuồng chuẩn bị lên đường - tất cả chỉ vì một gã đần độn, thô lỗ, ngang ngạnh. Giờ nàng lại vừa mới bị dựng dậy vì một gã đần độn, thô lỗ, ngang ngạnh nữa.
Nàng mệt và đói, và chàng trai mà nàng xem là bạn thân nhất không ngờ lại chẳng khác gì bao gã đầu đất khác.
“Ông, thưa ông,” nàng nói, với giọng điệu rành mạch, lạnh lùng mà dượng nàng vẫn dùng để trấn áp bọn nhà giàu mới nổi hợm mình và những kẻ ngu dốt. “Ông đã xúc phạm các quý bà đây. Ông sẽ phải xin lỗi.”
Gã ngừng tay trong khi đang vác một chiếc ghế khác lên. Gã đặt nó xuống và nhìn nàng chằm chằm. “Gì hả?”
Tiếng rì rầm của đám đông người xem lắng xuống. “Xin lỗi,” nàng nói.
Gã cười ngặt nghẽo. “Với hai mụ già độc ác đó ư?” Gã chỉ ngón tay thối về phía những người bạn đồng hành của nàng. “Cô bị mất trí à?”
“Thế thì ông chọn vũ khí đi,” nàng nói.
“Cái gì?”
“Chọn đi,” nàng nói. “Súng hay gươm.”
Gã nhìn quanh phòng. “Cô đùa phải không? Bởi vì ta sẽ không làm cái trò ngu ngốc đó.”
Nàng cởi phăng găng tay ra, đi lại phía gã, và lấy một chiếc găng đánh gã. “Đồ hèn,” nàng quát lên.
Ai nấy há hốc miệng kinh ngạc.
Nàng vừa lùi lại một bước vừa len lén quan sát xung quanh: lối thoát, chướng ngại vật, và những vũ khí khả dĩ.
“Lối cư xử của ông thật bẩn thỉu,” nàng nói. “Ông là đồ đê tiện.” “Sao cô...”
Gã hét lên với nàng. Nàng chộp lấy bình cà phê trên cái bàn phía tay phải liệng vào đầu gã.
Thế rồi mọi chuyện trở nên rắc rối hơn, thực tình như thế.
Trong khi cơn bão đổ ập xuống, Lisle đã phải trú lại tại một quán trọ ở Eníield, cách đó chừng một dặm.
Khi chàng phi ngựa vào sân trong của quán trọ Falcon, mặt trời đã nhô lên. Chàng những tưởng mảnh sân của quán trọ sẽ huyên náo tiếng những khách lữ hành bị mắc kẹt vì cơn mưa tối qua giờ đang háo hức lên đường. Nhưng không, chàng lại thấy rất nhiều người tụ tập quanh cửa vào phòng khách, có vẻ như ai nấy đều đang cố xem cho được chuyện gì đang xảy ra bên trong.
Chàng xuống ngựa, đưa dây cương cho Nichols rồi rảo bước về phía cửa. “Gì thế nhỉ?” chàng nghe ai đó nói.
“Con trai ngài trưởng hạt, lại say rượu, và đang nổi giận vì chuyện gì đấy,” một người khác trả lời.
“Chuyện thường ngày ở hạt.”
“Lần này một cô gái tóc đỏ đang mắng nhiếc cậu ta.”
Lisle vội vã đi vào phòng khách, vừa kịp lúc nghe thấy Olivia đang xỉ vả ai đó. Chàng lách qua đám đông, nhưng không đủ nhanh. Chàng thấy - và nghe - nàng dùng găng tay đánh một anh chàng rõ ràng là đang say rượu.
Vì một người đứng xem chặn mất lối vào, Lisle không kịp ngăn gã say rượu lại trước khi gã tấn công Olivia. Olivia đánh gã bằng cái bình cà phê, thế là gã ngã gục xuống. Một người hầu đang bưng khay vấp phải gã và làm một vị khách lộn nhào theo. Một số người chạy tới cửa, mấy người nhảy lên bàn ghế, nhưng phần lớn vẫn tụ tập đông nghẹt quanh trung tâm vụ ẩu đả.
Trong khi Lisle mở đường tới chỗ Olivia, chàng để ý thấy Bailey. Khác với mọi người, cô hầu gái này vẫn giữ đầu óc tỉnh táo, bình tĩnh đưa hai quý bà lại một chỗ rồi đẩy họ ra ngoài sân.
Tiếng của Olivia kéo sự chú ý của chàng trở lại phía nàng.
“Ông là nỗi ô nhục cho toàn thể đám đàn ông dốt nát,” chàng nghe thấy nàng nói bằng giọng lạnh lùng mà hẳn nàng đã học được từ bà Rathbourne.
Gã say rượu mê man vẫn nằm im tại chỗ, chớp mắt nhìn nàng.
Giờ là lúc nàng nên trốn đi.
Nhưng không.
“Một quý ông thì phải biết đón nhận thất bại của mình và học hỏi từ nó,” nàng nổi cơn thịnh nộ. “Đằng này ông lại đi... đôi co với phụ nữ. Ông nên cảm thấy xấu hổ, một tên say xỉn đại ngu si. Thật đáng tiếc khi không có ai đủ khí chất nam nhi để dạy cho ông một bài học đích đáng.”
“Nói anh ta sáng mắt ra, tiểu thư!” ai đó hét lên từ một góc an toàn của căn phòng.
“Lúc nào cũng cậy to con rồi nghênh ngang.”
“Chẳng ai động vào anh ta vì anh ta là con ông trưởng hạt.”
Họ đang háo hức với một vụ cãi lộn. Bình thường thì chắc Lisle cũng sẽ tham gia. Chàng rất vui nếu được cho con lừa này một bài học mà hắn không bao giờ quên.
Nhưng ẩu đả là chuyện khó lường, và Olivia trong cơn tửc giận điên cuồng cũng khó đoán định. Chàng không thể đảm bảo nàng sẽ không bị giết.
Chàng vỗ vào vai nàng. Nàng ném một cái nhìn thiếu kiên nhẫn về phía chàng - một tia sáng xanh lam đầy giận dữ - rồi mới quay trở lại với bài đả kích.
Lisle không chắc - xét trên tình trạng hiện tại của nàng - liệu nàng có nhận ra chàng được không. Và cứ nhìn hoàn cảnh hiện tại mà nàng đã vướng vào, chỉ có một việc nên làm.
Chàng đi lại gần phía sau nàng, quàng tay qua vòng từ vai phải xuống cánh tay trái của nàng, ấn hông chàng vào tấm lưng mảnh dẻ của nàng để giữ nàng thăng bằng, và lôi nàng đi. Nàng chỉ có thể loạng choạng lết theo chàng, không ngừng chửi bới chàng suốt dọc đường.
“Tôi chưa xong với hắn ta đâu, quỷ tha ma bắt anh đi! Tôi không đi đâu cả! Để tôi yên.”
“Thôi đi,” chàng nói. “Chúng ta sẽ phải ra khỏi đây trước khi quan thị chính trong làng tới và mọi người biết được em là ai và rồi em sẽ lại được lên báo cho xem.”
“Lisle?”
“Còn ai vào đây nữa?”
Một giây im lặng trôi qua, rồi, “Không!” nàng rít lên. “Bỏ tay ra khỏi người em ngay! Em chưa xong với hắn ta đâu, thằng say xỉn đại ngu si đó!” Nàng cố đá ra sau, nhưng chàng vừa giữ chân mình ngoài vùng nguy hiểm vừa lôi nàng đi hết đoạn đường sỏi đá về phía chiếc xe ngựa.
“Nếu em không ngồi yên, ta thề sẽ đánh cho em bất tỉnh, trói chặt và bịt miệng, rồi lôi thẳng em về Derbyshire,” chàng nói.
“Ôiii, ngài quá to và quá khỏe. Còn em thì quá sợ.”
“Hoặc có thể ta sẽ trói em lại rồi quẳng bên lề đường.”
Ông chủ quán trọ đi theo họ nãy giờ, chạy lên để mở cửa xe ngựa trước khi cậu đầy tớ kịp làm. Lisle đẩy nàng lên bậc thang. Nàng ngã nhào vào trong khoang xe, và Bailey đỡ lấy nàng. Chàng đóng sầm cửa lại.
“Đi thôi,” chàng nói với bác xà ích. “Tôi sẽ đi ngay sau xe bác.”
Chàng nhìn chiếc xe lắc lư rời khỏi sân quán trọ.
“Cảm ơn, thưa ngài,” ông chủ quán nói. “Tốt nhất là để phụ nữ tránh xa những trường hợp như thế này. Khuất mắt trông coi, tôi luôn nói vậy đấy.”
Lisle dúi một túi tiền vào tay ông ta. “Xin lỗi về vụ lộn xộn,” chàng nói.
Chàng nhanh chóng tìm thấy ngựa của mình và Nichols. Mấy phút sau, chàng đã lại trên đường Old North.
Nàng sẽ giết chàng.
Trừ phi chàng giết nàng trước.
Ware, Herttordshire
Cách London hai mươi mốt dặm
Kêu ca là sắp chết đói, hai quý bà Cooper và Withcote xuống xe và vội vã vào Saracern’s Head ăn sáng.
Olivia bảo Bailey đi cùng họ, còn nàng vẫn ngồi trong xe, cố gắng lấy lại sức lực. Nàng cần giữ đầu óc tỉnh táo để suy tính cách đối phó với Lisle.
Giữa kiệt sức và cơn bực dọc vì nhận ra mình đã tính toán nhầm, thật khó mà nghĩ cho tỉnh táo. Nghe hai quý bà thì chẳng ích gì, họ toàn nói những chuyện tầm phào. Họ đã nhìn thấy Lisle ném ai đó ra ngoài cửa sổ, và đó là chuyện rùng rợn nhất mà họ từng thấy trong bao nhiêu năm qua. Họ sẽ không ngừng nói về chuyện đó và đoán định theo cái lối bậy bạ quen thuộc của họ về cơ bắp của chàng, rồi khả năng chịu đựng và đủ thứ tương tự.
Những lời bình phẩm của họ gợi nàng nhớ lại sức ép ấm áp khi cánh tay mạnh mẽ của chàng vòng quanh người nàng. Lúc này đây nàng thực sự vẫn có thể cảm thấy nó, như thể chàng đã để một vết hằn, chàng thật đáng ghét.
Thôi bỏ qua. Chàng là một người đàn ông vô cùng nam tính, và chuyện vừa rồi thật hồi hộp, nhưng nàng đã tĩnh trí lại rồi.
Còn về phía Lisle, tất nhiên, chàng dễ bị chọc tức và kích động hơn nàng tưởng.
Nàng biết chàng sẽ đuổi theo mình. Chàng tự nhận mình là anh trai của nàng, và chàng có bản năng che chở. Hơn thế nữa, như bao gã đàn ông khác, chàng tin mình đương nhiên cấp tiến và giỏi giang hơn phụ nữ. Chẳng gã đàn ông nào chịu tin phụ nữ có thể đảm đương được cái gì ngoài việc nội trợ và chăm sóc con cái - và ở những tầng lớp xã hội cao hơn, người ta còn hiếm khi tin rằng phụ nữ có thể đảm đương được những công việc ấy.
Ngay cả mẹ nàng, người vốn biết rõ những khiếm khuyết của nàng, vẫn tin rằng Olivia thừa khả năng thực hiện cả hành trình dài lẫn việc phục chế một cơ ngơi. Nói như thế không có nghĩa là nàng định làm những chuyện ấy một mình - nhưng nàng có thể.
Ờ, xem nào, mọi chuyện đang diễn ra theo kế hoạch, ngoại trừ vụ loạn xị bất ngờ ở quán trọ Falcon. Vụ này nàng khá thích thú. Vẻ mặt của gã đần ấy khi bị nàng dùng găng tay đánh cho thật khôi hài.
Nhưng rồi Lisle đã đến và lôi nàng đi và...
Cửa xe ngựa bật mở.
Chàng đứng đó, nhìn lên nàng, một cầu vồng ngũ sắc vòng quanh một con mắt xám-bạc của chàng.
“Tốt hơn là giờ em nên vào trong ăn sáng đi,” chàng nói. “Đến giữa ngày chúng ta mới lại dừng để ăn trưa đấy.”
“Chúng ta?’’ nàng hỏi. “Ngài sẽ không tới mà. Ngài thấy sống bần hàn ở Ai Cập hoặc chết đói còn tốt hơn là nghe theo lời cha mẹ. Chẳng phải ngài cho rằng phải đi tới Scotland thì còn khổ hơn cả chết đấy thôi.”
“Đi với em thì thậm chí còn hơn cả tai họa ấy chứ, ta dám chắc như thế,” chàng nói. “Em muốn ăn hay không đây? Phải nhiều giờ nữa em mới có cơ hội tiếp theo đấy.”
“Ngài đâu có nắm quyền chỉ huy chuyến đi này,” nàng đáp trả.
“Giờ thì có đấy,” chàng lớn tiếng. “Em nhất quyết buộc ta làm việc này. Giờ em sẽ phải làm theo cách của ta. Ăn hoặc chết đói, tùy em chọn. Ta sẽ đi xem qua chiếc giường trứ danh đây.”
Để ngỏ cánh cửa xe ngựa, chàng quay người bước vào quán trọ. Mười phút sau, Olivia lao vào trong phòng ngủ.
“Ngài,” nàng cất tiếng. Nhưng dù trong cơn giận mờ mắt, nàng vẫn không quên được cái giường ấy, và nàng đứng sững lại. “Chúa ơi!” nàng thốt lên. “Nó to quá.”
Lisle hững hờ nhìn lên trong khi kiểm tra một chiếc cọc đầu giường.
Chiếc mũ của nàng lệch qua bên và mái tóc xõa xuống, những lọn tóc đỏ bám rối trên làn da trắng ngà. Quần áo nàng nhăn nhúm vì đi đường. Sự giận dỗi còn đọng trong đôi mắt xanh lam khó tả, dù chúng mở to khi nhìn thấy chiếc giường từng rất nổi tiếng vào thời Shakespeare.
Trông nàng thật hoang dại, và dù giờ đây chàng đã dần quen với gương mặt đẹp đến thất thần ấy, song vẻ hoang dại đó vẫn khiến chàng chao đảo, và tim chàng đập mạnh, đau nhói.
“Đó là lý do tại sao nó gọi là Cái giường Vĩ đại xứ Ware,” chàng điềm tĩnh nói. “Em chưa thấy nó bao giờ à?”
Nàng lắc đầu, những lọn tóc thi nhau nhảy múa.
“Khá cổ... theo mọi tiêu chuẩn của Anh,” chàng nói. “Shakespeare đã nhắc tới nó trong Đêm thứ mười hai.”
“Em đã từng thấy phong cách này,” nàng nói. “Hàng tấn gỗ sồi, chạm trổ từng li. Nhưng chưa có cái giường nào rộng tới thế này.”
Thật vậy, nó được chạm trổ tỉ mỉ đến hoa mắt. Hoa quả, chim muông, con người và thần thánh được khắc trên từng li của tấm gỗ sồi đen.
“Rộng hai mươi mét vuông và cao ba mét,” chàng nói. Sự thật lúc nào cũng an toàn và dễ chịu. “Thật ra nó là một căn phòng, có rèm buông tứ phía. Xem các tấm mành này.”
Nàng bước lại gần hơn.
Chàng ngửi thấy mùi hương của nàng và nhớ lại cảm giác cơ thể nàng dưới bàn tay mình, khi chàng kéo nàng ra khỏi quán trọ ấy.
Sự thật. Chàng tập trung vào những hình chạm khắc trên giường. Trong khung tò vò chạm trổ tỉ mỉ có hai tấm mành họa cảnh thị trấn này, trên đó có cả hình những con thiên nga vốn nổi tiếng ở đây. Chàng lướt nhẹ ngón trỏ qua lớp gỗ khảm.
Nó thiếu mất sự duyên dáng của nghệ thuật Ai Cập. Tuy nhiên, chàng ngạc nhiên nhận ra bản thân mình lại thấy nó thật lôi cuốn.
“Em thấy không, hai khung tò vò này giống như cửa sổ vậy,” chàng nói. “Nó là nơi để tiêu khiển. Chắc hẳn khi còn mới nó còn đẹp hơn thế này. Ta thấy được các bức họa nhỏ rải rác đây đó. Chắc lúc đầu màu của chúng còn thắm lắm... giống như các đền đài và lăng mộ ở Ai Cập vậy. Và cũng giống như ở Ai Cập, người tham quan đã để lại dấu vết.” Chàng lần theo một loạt chữ cái đầu. “Cả những dấu triện nữa.”
Chàng đưa mắt lên nhìn gương mặt nàng. Giờ đây khuôn mặt ấy tràn ngập vẻ băn khoăn. Nét giận dỗi đã biến mất, cơn bão đã tan đi, bởi vì nàng cũng thấy thật lôi cuốn. Nàng rất tinh ranh, láu cá và chẳng bao giờ ngây thơ. Nhưng trí tưởng tượng của nàng không có giới hạn, và nàng có thể bị cuốn hút, giống như một đứa trẻ.
“Thật lạ là em chưa bao giờ thấy cái giường này,” chàng nói.
Nàng xem xét cái đầu sư tử có dấu triện đỏ trên mũi. “Không hề lạ,” nàng nói. “Vì chúng ta thường tới Derbyshire hoặc Cheshire chứ đâu có đi theo tuyến này. Vả chăng những lần em rời London đều là vì em đã khiến mọi người nổi giận, tức là em phải đi thật xa càng nhanh càng tốt. Đâu có thời gian mà thưởng ngoạn.”
Chàng rời mắt khỏi gương mặt nàng. Thế là quá đủ rồi, đầu óc chàng đã trở nên mụ mị. Chàng nghiên cứu một hình thần rừng khắc trên cột giường. “Đánh gã say đó bằng găng tay rồi gọi hắn là đồ hèn không phải là chuyện khôn ngoan nhất em từng làm đâu.”
“Nhưng nó đem lại cảm giác vô cùng thỏa mãn.”
“Em nóng nảy quá,” chàng nói. Khi nàng mất bình tĩnh, chàng không thể tin tưởng vào bộ óc hay bản năng của nàng. Chàng không tin nàng có thể tự coi sóc bản thân.
Chàng rời khỏi chiếc cột giường, nắm hai bàn tay lại khoanh sau lưng. “Khi em mất bình tĩnh, mẹ em thường bảo gì?” chàng nói. Ngày đầu chàng gặp Olivia, mẹ nàng đã giao việc cho chàng cũng với giọng điệu kiên nhẫn như chàng đang nói lúc này.
Nàng nheo mắt nhìn chàng, “Em phải đếm từ một đến hai mươi.” “Ta nghĩ vừa nãy em không đếm đến hai mươi,” chàng nói.
“Em đâu có tâm trạng mà làm thế,” nàng nói.
“Ta ngạc nhiên là em không dành cho hắn một lời xin lỗi.” Chàng đặt tay lên ngực, nói bằng giọng kim, ‘“Ôi, thưa ngài, tôi kính cẩn nghiêng mình xin ngài thứ lỗi.’ Rồi em chớp chớp mắt nhìn hắn ta, và quỳ xuống.”
Nàng đã làm trò này vào lần đầu họ gặp nhau, và màn biểu diễn ấy đã khiến chàng chết lặng người.
“Ngay khi em diễn xong,” chàng nói tiếp, “mọi người hẳn sẽ òa khóc - hoặc quay cuồng chóng mặt. Kể cả hắn ta. Và em có thể chuồn êm.”
“Giờ em thấy tiếc là mình đã không làm thế đấy,” nàng nói. “Như thế hẳn em đã
không bị đối xử thô bạo bên ngoài quán trọ.”
Như thế hẳn đã ngăn được cảm xúc của chàng với cơ thể mềm mại dưới cánh tay của nàng.
“Em không biết tại sao ngài không lôi hắn đi - ra ngoài sân ấy - và dúi đầu hắn xuống đế giày,” nàng nói. “Đó là điều người ta nên làm ngay từ khi những rắc rối này mới manh nha. Nhưng ai cũng sợ hắn. Ngài thì không, em đã nghĩ thế - nhưng ngài lại phải ném tất cả sự hống hách đàn ông lên em.”
“Kéo em đi vui hơn nhiều,” chàng nói.
Nàng bước lại gần hơn để xem xét đôi mắt của chàng.
Mùi hương của nàng vây quanh chàng và tim chàng đập thình thịch. “Gã Belder ấy,” nàng nói, lắc đầu. “Sao anh ta không đánh ngài mạnh hơn nhỉ?” Nàng chạy ào ra khỏi phòng.
Ngày hôm ấy trời xám xịt lạnh lẽo mưa cuốn đi bụi bặm. Hai quý bà nói họ cần không khí trong lành. Ngồi trong cái xe ngựa ngột ngạt, tối om không phải là những gì họ hình dung về một chuyến đi dễ chịu.
Olivia ngờ rằng họ muốn hạ mành cửa sổ xuống là vì họ muốn chiêm ngưỡng cảnh anh chàng cơ bắp phi ngựa bên cạnh.
Đó là một hình ảnh đẹp, và nàng cũng không thể ngăn mình đừng chiêm ngưỡng, dù chẳng ngờ Lisle lại là một Nỗi thất vọng Thảm thương.
Chàng phi ngựa song song xe nàng, ngay bên cạnh vai nàng, giữ tốc độ bằng với xe ngựa chứ không phi lên trước như nàng đã tưởng. Vì lo cho bộ xương già nua của hai quý bà nên xe ngựa của họ chạy chậm hơn Lisle mong muốn. Và tất nhiên là cũng chậm hơn Olivia thích. Nàng ước mình cũng được cưỡi ngựa, nhưng nàng tính trước chuyện đó nên không chuẩn bị gì.
Yên ngựa của nàng đã được nhét vào tận sâu trong đống đồ đạc để ở phía sau xe. Nàng nghĩ trước khi cả đoàn đến Scotland mình sẽ không cần tới nó. Dù người ta dễ dàng thuê được ngựa ở quán trọ, và nàng có thể cưỡi mọi loại ngựa mà chẳng gặp khó khăn gì, nhưng một cái yên là vấn đề hoàn toàn khác. Cái yên ngựa của một quý cô là thứ riêng tư chẳng khác gì áo nịt ngực, nó phải vừa khít với cô ta.
Nói thế đâu có nghĩa là nàng cần có yên. Xét cho cùng, nàng là con gái của Jack Wingate, nàng có thể thong dong trên lưng ngựa không thua gì dân digan.
Nhưng không ai biết rằng nàng vẫn làm những việc như thế. Không ai biết về những bộ quần áo nam nhi mà Bailey đã sửa cho vừa vặn với nàng, những bộ đồ gấp gọn trong một chiếc hộp để giữa đống đồ đạc của nàng.
Nàng nhớ lại Lisle đã sốc thế nào khi lần đầu thấy nàng mặc quần áo con trai. Nàng đang hồi tưởng lại khoảnh khắc ấy - Làm sao nàng quên được vẻ mặt buồn cười của chàng khi ấy cơ chứ? - thì chiếc xe dừng lại.
Xe ngựa khẽ nẩy lên khi đám đầy tớ nhảy xuống khỏi bục đứng phía sau. Nàng thấy một người vội vã đi về phía trước để giữ ngựa.
“Gì vậy?” Quý bà Cooper nói.
“Chắc là Lisle thấy một bánh xe bị trục trặc,” Quý bà Withcote nói.
Cánh cửa bật mở và một người hầu đặt bậc thang xuống. Lisle đợi phía sau cậu ta. “Không cần phải phiền tới hai quý bà đâu,” Lisle nói. “Tôi chỉ muốn Olivia.”
Hai quý bà mỉm cười với nàng.
“Cậu ấy muốn cháu đấy,” Quý bà Cooper nói.
“Ngài ấy bảo ngài ấy sẽ liệng cháu lại bên lề đường,” Olivia nói.
“Đừng ngốc thế,” Quý bà Withcote nói. “Cậu ấy sẽ không như thế đâu.”
Ngài ấy còn làm những việc tệ hơn ấy chứ, Olivia nghĩ. Chàng đã có thời gian để nghiền ngẫm về sự tổn thương nặng nề mà nàng đã gây ra cho lòng tự trọng của chàng. Giờ có lẽ chàng sẽ tuôn ra một bài thuyết giáo chán ngắt và đáng ghét.
“Chúng ta đâu có định dừng ở đây,” nàng nói với chàng. “Phải tới...” Nàng liếc xuống cuốn sách của Paterson. “Phải tới Buntingford.”
“Ta muốn cho em xem cái này,” chàng nói.
Nàng vươn người nhìn ra cửa, hết sang phải rồi sang trái. “Chẳng có gì mà nhìn cả,” nàng nói.
Ngoài một thanh niên đẹp trai đến choáng váng đang thư thái cưỡi trên con ngựa thuê như thể nó là một phần của chàng.
“Đừng có phiền hà như thế,” chàng nói.
“Đúng đấy, đừng có phiền hà thế, cô nương,” Quý bà Cooper nói. “Hãy để thằng bé chỉ cho cháu thấy cái-gì-gì-đó.”
“Ta dừng một chút cũng chẳng sao,” Quý bà Withcote nói. “Ta cũng muốn nhắm mắt một tí mà không bị xóc lên nẩy xuống, ôi cái đầu tôi. Phải có gì để ăn chứ nhỉ.”
Olivia quay người vào trong xe nhìn họ.
“Cháu không muốn nhìn thấy cái thằng bé muốn chỉ cho cháu à?” Quý bà Cooper nói.
Olivia xuống xe.
Hai quý bà vươn người ra theo dõi câu chuyện qua cánh cửa để ngỏ.
Olivia đi về phía chàng. Nàng vỗ vỗ mõm con ngựa của chàng, qua khóe mắt nàng nhìn thấy cái chân cơ bắp cuồn cuộn kề bên.
“Em bảo em chưa khi nào được ngắm cảnh,” chàng nói. “Có một cảnh tuyệt đẹp dưới kia, ngay bên trái.”
Hơi ngạc nhiên, nàng đưa mắt nhìn tấm biển chàng chỉ. Rồi ngước nhìn chàng.
“Ta sẽ không đưa em tới một nơi vắng vẻ rồi thủ tiêu em đâu,” chàng nói. “ít ra là không phải ở đây, vào lúc này. Làm sao ta có thể bỏ đi với em rồi trở lại mà không có em, các quý bà kia sẽ biết ngay. Cả Bailey nữa, dĩ nhiên rồi. Chúng ta chỉ đi một quãng ngắn thôi. Đi bộ cũng được thôi, nhưng mấy con đường quê này đều ngập bùn tới tận đầu gối. Em cưỡi ngựa của Nichols đi.”
Nàng đưa tay ra hiệu trước khi Nichols kịp xuống ngựa. “Không, cậu cứ ở yên đấy. Ta ngồi trên con ngựa này, ngay phía sau quý ông đây cũng được.”
“Không, em không thể làm thế,” Lisle nói.
“Chúng ta chỉ đi một quãng ngắn thôi, ngài chẳng nói thế còn gì,” nàng nói. “Thế thì đâu cần mất thời gian vào hàng tá điều chỉnh này nọ để em có thể ngồi ngay ngắn trên ngựa của Nichols - đằng nào thì chốc nữa cậu ấy chẳng phải mất công điều chỉnh lại. Em có thể ngồi sau ngài dễ như bỡn.”
Chàng nhìn nàng. Rồi nhìn Nichols.
Dù vừa gặp phải trận mưa như trút nhưng cậu đầy tớ vẫn giữ được vẻ thanh lịch và điềm tĩnh. Tuy không tỏ ra, nhưng trong lòng hẳn cậu ta cảm thấy vô cùng mệt mỏi khi phải sắp xếp lại yên ngựa cho nàng. Chẳng có lý gì nàng lại đi tra tấn cậu ta. Cậu ta không phải là kẻ đã xúc phạm và làm đau nàng.
“Điều gì khiến ngài lo lắng thế?” nàng hỏi Lisle. “Ngài sợ em sẽ hất văng ngài khỏi ngựa à?”
“Ta hơi sợ là em sẽ đâm một nhát vào lưng ta,” chàng nói. “Hãy thề với ta là em không mang theo vũ khí đi.”
“Đừng có ngớ ngẩn thế,” nàng nói. “Em sẽ không bao giờ đâm vào lưng ngài. Như thế thì mất danh dự quá. Em sẽ đâm vào cổ hoặc tim ngài.”
“Tốt lắm, được.” Chàng vung chân trái khỏi bàn đạp ngựa. Olivia giẫm chân trái lên cái bàn đạp, níu vào cánh tay chàng, nhún một cái, nhảy lên ngồi phía sau chàng.
“Trời ơi xem con bé kìa!” Quý bà Withcote kêu lên. “Ta chưa bao giờ làm được thế!” “Bà lại nhanh nhẹn theo cách khác, Millicent ơi,” Quý bà Withcote an ủi. Trong khi đó, Olivia nhận ra nàng vừa phạm phải một sai lầm trầm trọng.
NCHƯƠNG 6
àng đã hành động mà không suy nghĩ, tại sao lại thế được chứ?
Olivia cưỡi ngựa thành thạo đâu thua gì dân di gan.
Khi cưỡi ngựa, nàng đã ngồi sau lưng cha không biết bao nhiêu lần.
Nhưng đó là cha nàng, và khi ấy nàng còn bé.
Lisle không phải cha nàng. Trên lưng ngựa, nàng đã ngồi sau chàng một hai lần, nhưng chuyện đó xảy ra cách đây bao nhiêu năm rồi, thuở ấy chàng còn chưa lực lưỡng nam tính thế này.
Nàng đã không nghĩ ra chuyện bám vào áo khoác của chàng mà cứ thế vòng tay quanh hông chàng, bởi vì với nàng việc đó hết sức tự nhiên.
Giờ đây, nàng chợt cảm nhận được vòng hông rắn chắc dưới cánh tay nàng và tấm lưng thẳng thớm tựa vào ngực nàng. Nàng cảm nhận được đùi áp vào đùi, chân tì lên chân và sự chuyển động nhịp nhàng của hai cơ thể khi ngựa chạy trên con đường lầy lội bùn.
Nàng thực sự cảm thấy từng thớ thịt của mình như tan ra.
À, không sao, chỉ là một đoạn đường ngắn thôi, và cuối đoạn đường sẽ là một bài thuyết giáo chán ngắt lê thê. Sẽ vô vị và phiền phức đến khó chịu.
Nàng nhẹ nhàng áp má lên cổ Lisle, hít lấy hương thơm tự nhiên của đàn ông, của ngựa và không khí vùng nông thôn sau cơn mưa, đâu đó thoảng đưa thử mùi nước cạo râu như thể trêu ngươi nàng vậy.
Một lát sau chàng hỏi, “Ta thắc mắc là bà Millicent nhanh nhẹn kiểu gì vậy?”
“Không có gì kỳ cục như ngài tưởng tượng đâu,” nàng nói. “Không có gì giống kiểu những vũ nữ hậu cung của chàng, em đảm bảo đấy. Không điêu luyện bằng.”
“Thứ nhất, ta không tưởng tượng,” chàng đáp. “Thứ hai, nếu em đang ám chỉ đến gái nhảy thì nói chính xác ra họ không phải là vũ nữ hậu cung.”
Ồ, được thôi, một bài giảng ngôn ngữ. Điều đó sẽ giúp tâm trí nàng khỏi phải nghĩ tới vẻ rắn rỏi đầy nam tính và hương thơm đàn ông, những thứ lẽ ra phải đóng chai có dán nhãn nguy hiểm chết người.
“Từ hậu cung, em biết không, thường dùng để chỉ các phụ nữ của một gia đình,” chàng tiếp lời, “mặc dù đó không phải nghĩa chính xác của từ ấy, một từ vốn dùng để chỉ một nơi cấm kỵ và thiêng liêng. Còn gái nhảy lại ngược lại...”
“Em cứ tưởng chúng ta sẽ rẽ trái chứ nhỉ,” nàng nói.
“Ồ. Phải.” Chàng quay ngựa lại.
Vừa kịp lúc. Có thể là do mùi hương của chàng, do sức nóng cơ thể chàng, tất cả vẻ nam tính đó hoặc có khi đúng hơn là toàn bộ sự kết hợp nguy hiểm này, cho nên nàng thấy mình thật lòng càng lúc càng thích cái nghĩa hàm ẩn của từ hậu cung.
Lát sau, họ phi vào một đồng cỏ, tiến tới một khoanh đất nhỏ có rào bảo vệ, bên trong hóa ra là một phiến đá.
“Đây rồi,” chàng nói.
Khi tới gần hơn, nàng nhìn thấy một tấm biển sắt gắn trên phiến đá. “Một tảng đá,” nàng nói. “Ngài dừng ngựa đưa em đi xem một tảng đá ư.”
“Đây là Phiến đá Khinh khí cầu,” chàng nói. “Chiếc khinh khí cầu đầu tiên của nước Anh đã hạ xuống chỗ này.”
“Thế ư, thật không?”
“Người ta đã tịch biên chỗ này, nhưng...”
“Ồ, em phải xem mới được.”
Mong mỏi được tách xa chàng để đầu óc thanh bình trở lại, nàng không muốn chậm trễ giây nào nữa. Nàng đặt một tay lên yên ngựa và một tay lên đùi chàng, chuẩn bị nhảy xuống. Nàng cảm thấy nó ngay lập tức, cú sốc từ sự đụng chạm thân mật, nhưng quá trễ để có thể dừng lại - và thật thô lỗ nếu làm thế. Đây là cách nhanh và dễ nhất để xuống ngựa.
Nàng vung chân qua mông ngựa, cảm nhận sức ép của bàn tay Lisle trên tay nàng... trên chân chàng... giữ nàng chắc chắn. Tim đập mạnh, nàng trượt xuống đất.
Nàng không đợi chàng xuống ngựa mà vội đi tới bên hàng rào, tay xách váy và trèo qua rào để vào khoanh đất nhỏ.
Nàng biết đã để chàng thấy một phần váy lót và bít tất. Nàng biết hình ảnh đó tác động đến đàn ông mạnh chừng nào. Nhưng chàng đã làm nàng xáo động theo cách đó. Trả đũa như vậy mới công bằng.
“‘Hãy Để Hậu Thế Biết,’” nàng đọc to với chất giọng hùng hồn thường sử dụng khi phát biểu, “‘Và Kinh Ngạc Trước Việc Vào Ngày 15 Tháng Chín Năm 1784, Vincent Lunardi Của Thành Lucca Xứ Tuscan Là Người Đầu Tiên Du Hành Bằng Khinh Khí cầu Trên Bầu Trời Nước Anh, Đã cất Cánh Từ Artillery ở London Và Bay Ngang Qua Các Vùng Trong Vòng Hai Giờ Mười Lăm Phút, Tại Địa Điểm Này Con Người Đã Khám Phá Lại Trái Đất.’”
Lisle đứng lại bên hàng rào. Chàng vẫn chưa tĩnh trí được sau quãng đường vừa rồi: cánh tay Olivia vòng quanh hông chàng, bộ ngực phì nhiêu của nàng tì lên lưng chàng, đôi chân nàng ép chặt sau chân chàng. Sự xao động thể xác vẫn còn rung chuyển khắp cơ thể chàng, nhất là nơi chạm vào phía trước yên ngựa.
Nàng đã khiến chàng quá mụ mị tới nỗi chàng phi quá cả chỗ rẽ.
Chàng chưa kịp tĩnh trí lại thì nàng đã bước qua hàng rào, để lộ cho chàng thấy hình ảnh tuyệt vời của váy lót và bít tất nàng mang.
Đó là hành động tinh quái đặc trưng của nàng, trước kia, khi hai người ở bên nhau nàng cũng thường làm như thế. Nàng nghĩ về chàng như một người anh trai. Đó là lý do tại sao nàng không để ý tới váy xống và nàng không ngần ngại nhảy lên ngựa, ngồi ngay sau lưng chàng.
Nhưng chàng đâu phải anh trai nàng và cũng không còn là cậu bé ngày xưa, điếc lác, trì độn, mù tịt trước sự rập rờn của váy áo con gái. Đấy là còn chưa nói tới chuyện hồi bé nàng không đi đôi tất giống bây giờ, với những đường thêu xanh biếc quyến rũ, và cũng không mặc chiếc váy lót có những đường diềm vô cùng nữ tính thế kia. Và ngày ấy nàng không sở hữu đôi chân chắc nịch với mắt cá chân bóng láng - hoặc là nàng vẫn có từ xưa, chỉ là chàng không để ý.
Sau khi xua đuổi được những ý nghĩ này, toàn thân dịu xuống và trí óc tĩnh lại, chàng bước qua hàng rào, đứng sau lưng nàng trong lúc nàng đọc xong lời vinh danh được trang trí lộng lẫy dành cho nơi chiếc khinh khí cầu đầu tiên của nước Anh hạ xuống.
Cuối cùng nàng nhìn chàng, nói, “Không phải kỳ lạ lắm sao? Cánh đồng yên tĩnh này đã chứng kiến một sự kiện quan trọng như thế. Thật tuyệt vì họ đã đánh dấu địa điểm này.”
“Em bảo em chưa bao giờ đi ngắm cảnh,” chàng nói. Và dù đã rất bực - tới giờ vẫn bực - nhưng chàng cũng thấy rất thương nàng. Khi chàng còn nhỏ, dượng nàng thường đưa chàng đi chu du cùng. Ngài Rathbourne luôn dành thời gian chỉ cho chàng xem các thắng cảnh và kể những câu chuyện về chúng, đặc biệt là những câu chuyện kinh dị mà bọn con trai ưa thích, về những kẻ giết người rùng rợn và ma quỷ.
Thật kỳ cục và bất công khi một cô gái với trí tưởng tượng sống động như thế, người luôn khao khát thay đổi và thích sự phấn khích như thế, lại có quá ít cơ hội thăm thú đó đây.
“Em chẳng biết gì về chuyện này,” nàng nói. “Chỉ có tưởng tượng thôi. Gần năm mươi năm rồi. Không biết người dân quanh đây nghĩ gì khi thấy chiếc khinh khí cầu ấy nhỉ?”
“Họ đã sợ hãi,” chàng đáp. “Thử hình dung em là một người trong làng vào thời ấy xem.” Chàng nhìn lên bầu trời xám xịt. “Em nhìn lên và đột nhiên thấy xuất hiện một thứ khổng lồ ở nơi vốn chỉ có chim lượn và mây bay.”
“Em không biết mình có thấy sợ không nữa.”
“Ta không nói là em,” chàng nói. “Mà ta đang nói giả sử em là một dân làng, một người bình thường.”
Thật không thể hiểu nổi. Tối thiểu thì Olivia cũng là người bình thường chứ. “Em luôn muốn được lên một chiếc khinh khí cầu,” nàng nói.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
“Chắc hẳn phải sướng run người,” nàng nói, “khi được nhìn xuống toàn bộ thế gian từ độ cao như thế.”
“Lên cao thì tuyệt lắm,” chàng nói. “Nhưng hạ xuống lại khác hẳn. Lunardi không biết làm cách nào để lái cái khinh khí cầu. Ông ấy đã mang theo mái chèo với ý nghĩ mình có thể chèo trong không khí.”
“Nhưng ông ấy đã thử,” nàng nói. “Ông ấy hình dung ra một thứ và theo đuổi nó. Một Hành trình Chinh phục. Và đây là viên đá ghi dấu sự kiện đó, cho tất cả hậu thế,
đúng như lời khắc trên đây.”
“Em không thấy đoạn văn ấy bị thổi phồng quá đáng à?” chàng nói. Đó là một câu chơi chữ liều lĩnh, nhưng chàng không thể cưỡng lại được.
“Thổi phồng, ôi, Lisle. Đó là...” Nàng khịt mũi, cố nén cười, chuyện đó khiến nàng suýt nghẹt thở. “Xấu xa.”
“Ông ấy mang theo một con mèo, một con chó, một con bồ câu, và một hòm đồ dự trữ,” chàng nói. “Đồ dự trữ thì ta hiểu. Còn lũ động vật thì ta chịu. Dù sao đi nữa, chẳng mấy chốc con bồ câu đã bay mất, và con mèo không hợp với chu du trên không, thế nên ra khỏi London chưa bao xa thì nó phóc ra ngoài mất.”
Lúc này thì nàng phá lên cười thực sự, một chuỗi âm thanh êm ái khiến chàng phải giật mình xao xuyến. Nó không hề giống tiếng cười giả tạo của đa số phụ nữ. Tiếng cười của nàng trầm thấp, một âm thanh mỏng manh như làn khói vuốt ve dọc xương sống chàng.
Nó khuấy lên những hình ảnh nguy hiểm - một chiếc giường buông màn rung rinh trong gió nhẹ, chăn ga nhàu nhĩ - và nó lập tức khiến chàng tiêu tan cơn giận. Chàng ngu ngơ mỉm cười với nàng.
“Cũng là một thứ hay,” nàng nói. “Sao ngài không thể vẽ lại cảnh ấy? Cái giỏ của chiếc khinh khí cầu - một không gian nhỏ chật ních đồ ăn thức uống và mái chèo rồi cả dụng cụ nữa, cộng thêm con mèo, con chó và con bồ câu. Và kia là con mèo, nằm bệt trên sàn. Em có thể thấy vẻ mặt của Lunardi. Ông ta hẳn phải rất muốn đá con mèo chết tiệt ấy ra ngoài! Em băn khoăn không biết khi ông ta phóng thích nó thì chiếc khinh khí cầu đã chạm đất chưa.”
“Ồ, Olivia, em biết ta không có trí tưởng tượng...” Chàng khịt mũi, rồi trong chốc lát cũng phá lên cười, không ngừng được, trước những cảnh tượng nàng vẽ nên trong đầu chàng.
Trong một thoáng, mọi oán thán tức giận trong chàng tan biến hết, chàng trở lại là cậu bé vô tư ngày xưa. Chàng dựa lưng vào hàng rào, cười như lâu lắm mới được cười.
Rồi chàng kể cho nàng nghe chuyện bà Letitia Sage nặng gần một tạ, “phụ nữ Anh đầu tiên chu du trên không trung,” bà đã lên một chuyến khinh khí cầu khác cùng với bạn của Lunardi là Biggins.
Tự nhiên, Olivia phác ra một bức tranh: cái giỏ chao đảo trong gió, và người phụ nữ béo phục phịch bò dưới sàn, vô tình lại bị trôi về phía ông Biggins đang sợ chết khiếp. May thay đúng lúc ấy gió lại thổi lên, thế là ông Biggins không bị đè bẹp.
Với ý nghĩ này nàng không chỉ kể; mà còn biểu diễn nó, chêm những giọng nói khác nhau vào từng phần, kể cả tiếng động vật.
Cùng nhau kể bao nhiêu câu chuyện và cười thoải mái, họ xích lại gần nhau hơn. Họ không hề tính tới điều này, tất cả đều hết sức tự nhiên. Ngày xưa họ vẫn luôn như vậy.
Chàng đã ở đó rất rất lâu, quên béng mất cơn giận dữ và bực bội của mình, cứ thế say sưa vui thích vì có nàng ở bên. Chàng đã rất nhớ nàng, đó là một sự thật không thể chối cãi. Chàng nhớ thế giới dường như đã trở lại cân bằng khi nàng kéo chàng
vào căn phòng chờ đêm hôm ấy - mới chỉ cách đây vài hôm - và nói, “Kể em nghe.”
Tất nhiên, nàng cũng chẳng mất nhiều thời gian để lại đảo lộn thế giới của chàng, tới một mức độ khủng khiếp, và chàng vẫn muốn giết nàng. Nhưng lúc này đây, chàng đang vô cùng choáng ngợp và hạnh phúc như đã từng như vậy bao nhiêu năm về trước.
Chàng không vội quay về xe, ngay cả khi gió mạnh đang thổi vù vù như quật vào mặt.
Nhưng nàng đang run, thế nên chàng bảo, “Tốt hơn là chúng ta nên quay lại.”
Nàng gật đầu, mắt vẫn nhìn phiến đá. “Chắc chắn chúng ta đã dành cho hai quý bà rất nhiều thời gian để đoán xem chính xác thì chúng ta vừa làm gì.”
“Bộ đôi ấy,” chàng nói. “Làm thế quái nào em thuyết phục được cha mẹ em là họ phù hợp làm người giám hộ? Mà nhân tiện, ta chẳng hiểu sao em có thể thuyết phục mọi người...”
“Lisle, ngài thừa biết giải thích trò bịp là chống lại luật lệ nhà DeLucey cơ mà.”
Chàng ngắm nét mặt nhìn nghiêng thoảng nụ cười của nàng. “Thế nghĩa là em đã bịp bợm,” chàng nói.
Nàng quay lại nhìn chàng, đôi mắt xanh biếc ngây thơ, như thể chẳng có điều gì che giấu. “Xét trên mọi phương diện đều đúng. Ngài vẫn còn giận em sao?”
“Giận điên lên,” chàng đáp.
“Em cũng giận điên lên với ngài đây,” nàng nói. “Nhưng tạm thời em sẽ gác chuyện đó qua một bên bởi vì ngài đã chỉ cho em phiến đá này chứ không lên lớp em một bài chán ngắt về đạo đửc, lương tâm và đủ thứ khác.”
“Ta không lên lớp!” chàng nói.
“Thường xuyên ấy chứ,” nàng đáp trả. “Thường thì em thấy chuyện đó cũng khá dễ thương, nhưng hôm nay em chẳng có tâm trạng. Vì ngài đã kiềm chế, em sẽ hôn để đền bù. Nói một cách ẩn dụ thôi. Đối với lần này thì là thế.”
Chàng nhận ra ánh mắt mình đã lướt xuống bờ môi nàng. Chàng thận trọng tập trung trở lại vào tai phải của nàng, đối tượng này có vẻ an toàn. Nhưng không. Nó thật nhỏ nhắn và xinh xắn. Nó lúc lắc một chiếc bông tai bằng vàng, với rất nhiều vật trang trí xung quanh miếng ngọc bích. Chàng nhận ra đầu mình đang cúi xuống sát nàng hơn.
Chàng buộc mình phải nhìn hẳn ra xa - vào Phiến đá Khinh khí cầu, đồng cỏ, bất cứ cái gì miễn là không phải nàng. Hương thơm thiếu nữ ngào ngạt quá gần chàng - mà ngọn gió chết tiệt ấy từ đâu ra vậy? Nó đột ngột thổi, rồi đột ngột tắt lịm, và giờ đây chàng có thể ngửi thấy nàng.
Chàng quay sang để bảo nàng đã đến lúc phải đi. Cùng lúc đó, nàng quay đầu lại và ngả người vào.
Môi nàng chạm môi chàng.
Một luồng run rẩy xẹt khắp người chàng.
Trong một giây đầy xáo động, họ cứ thế nhìn nhau chằm chằm.
Rồi họ nhảy lùi ra như thể sét vừa đánh vào hàng rào.
Nàng day môi thật mạnh, như thể một con côn trùng vừa đậu ở đó. Trống ngực đập thình thịch, chàng cũng làm như thế.
Day môi chẳng ích gì. Olivia biết nàng sẽ chẳng bao giờ xóa bỏ được nó: cảm giác ấm áp, rắn chắc của đôi môi chàng, thoáng hương vị như trêu ngươi.
“Đáng lẽ ngài không nên đưa miệng lại đó,” nàng nói.
“Ta đang quay lại để nói với em,” chàng nói. “Lẽ ra miệng em không nên ở gần như thế.”
Nàng trèo qua hàng rào. “Em đã bảo em sẵn sàng hôn để đền bù một cách ẩn dụ thôi mà,” nàng nói.
“Em đã hôn ta!”
“Ý em chỉ là cái hôn vào má của một người em gái.”
Nàng hy vọng mình nghĩ như thế thật. Nàng mong sao mình đã nghĩ cái gì đó. Nàng ước mình không loạn trí thế này.
“Em không phải em gái ta,” chàng vừa nói bằng giọng nghiêm trang như thường lệ vừa bước theo nàng ra khỏi khoảng đất. “Chúng ta chẳng có họ hàng gì cả. Cha dượng em trước đây lấy cô của ta, thế thôi.”
“Cảm ơn ngài về bài giảng phả hệ,” nàng nói.
“Vấn đề là...”
“Em sẽ không làm thế nữa đâu,” nàng nói. “Ngài hãy tin như vậy đi.”
“Vấn đề là,” chàng khăng khăng nói tiếp, “đàn ông có sự phân biệt trong những chuyện như thế. Khi một phụ nữ quyến rũ ở gần thì dường như cô ấy đang đưa ra lời mời mọc...”
“Đó không phải một lời mời mọc!”
“Dường như,” chàng nhắc lại. “Dường như. Em không nghe à?”
“Ngay lúc này thì em ước gì mình bị điếc.”
“Phụ nữ rất tinh tế,” chàng nói. “Họ giỏi phân biệt. Đàn ông thì không. Đàn ông giống như loài chó, và... Chúa ơi, sao ta lại giảng giải chuyện này với em cơ chứ? Em biết rõ đàn ông thế nào mà.”
Trước đây thì nàng nghĩ là mình biết thật.
Họ đi tới chỗ con ngựa. Olivia nhìn nó, rồi nhìn chàng. “Tốt nhất là chúng ta nên quay lại, trước khi các quý bà chết vì tò mò,” nàng nói. “Ngài có thể tiếp tục bài giảng trong khi chúng ta trở lại xe ngựa.”
“Ta không lên ngựa với em nữa đâu,” chàng nói.
Nàng cũng không muốn thế. Cơ bắp và sức nóng cùng mùi hương đàn ông là thuốc
độc đối với tâm trí phụ nữ. Nàng không chịu đựng được chuyện mình trở nên ngớ ngẩn vì đàn ông, đặc biệt là vì chàng.
Chàng đan chéo hai tay lại. “Em lên đi.”
Đó là điều khôn ngoan duy nhất đáng làm. Nhưng mà...
“Đường lầy lội bùn đấy,” nàng nói. “Ngài sẽ làm hỏng đôi ủng mất.” “Ta có ủng khác,” chàng nói. “Lên đi.”
Nàng thở dài ra vẻ cáu kỉnh để giấu đi cái thở phào nhẹ nhõm thật sự trong lòng, cầm lấy dây cương, và đặt chân lên hai bàn tay đan vào nhau của chàng. Nàng nhún người phóc lên ngồi trên yên ngựa rồi khởi hành.
Nhanh nhẹn và khéo léo, chàng giúp nàng điều chỉnh bàn đạp, rồi kéo váy nàng rủ xuống.
“Ôi, vì Chúa,” nàng kêu lên.
“Mọi người có thể thấy hết đấy,” chàng nói.
“Giờ ngài mới khắt khe làm sao chứ,” nàng nói.
“Em quá khinh suất đấy,” chàng càu nhàu, “để lộ ra tất cả... tất cả vẻ nữ tính trước toàn thế giới.”
A, được lắm, điều đó quấy rầy chàng, phải không?
Tốt. Chàng xao động vì nàng.
Nàng mỉm cười, rồi khẽ vỗ vào hông con ngựa, ra hiệu cho nó khởi hành.
Khi Olivia trở lại thì hai quý bà đang ngủ, và khi xe tiếp tục lên đường họ vẫn không tỉnh giấc.
Trong lúc họ ngáy, Olivia mở cuốn Những nẻo đường của Paterson ra. Để giết thì giờ, nàng đọc cho Bailey nghe thông tin về các thị trấn, làng mạc họ đi qua, tên những nhân vật quan trọng sống quanh đây, và những mô tả về nơi ở của những người đó.
Chiếc xe ì ạch chạy lên đồi, đưa họ tới một điểm đổi ngựa ở Buntingford. Con đường tiếp tục dốc lên tới điểm đổi ngựa tiếp theo ở Royston. Từ sau đó, vận tốc của ngựa tăng lên khi họ băng qua một quãng đường đất đẹp bằng phẳng. Họ tiếp tục đi tới sông Cam, rồi lên Arrington. Tại đây, họ dừng lại ở quán trọ HardWicke Arms, được chính nữ chủ nhân ra đón tiếp, chuyện này không có gì đáng ngạc nhiên. Bà ta nhận ra chiếc xe ngựa chạy đường trường của nữ Bá tước thừa kế, như mọi chủ quán trọ khác trên xa lộ của hoàng gia, bà ta biết cái huy hiệu gắn trên chóp xe được diễn giải là: Tiền, Rất nhiều tiền, Tiêu tiền không cần nghĩ.
Ở điểm dừng này, hai quý bà đã tỉnh giấc. Kêu ca đói bụng và khát nước, họ xuống xe ngựa ngay khi cậu đầy tớ đặt bậc thang xuống.
Olivia đang soạn sửa bước xuống thì Lisle đi bộ tới mở cửa xe cho nàng.
“Em biết ngài bảo ngài lãnh quyền chỉ đạo, nhưng chúng ta phải dừng lại ăn thôi,” nàng nói. “Ai cũng đói lả rồi.” Vì có vụ ẩu đả ở quán trọ Falcon, nàng đã không ăn sáng ở đó. Ở Ware, nàng quá bực mình nên không thiết ăn uống gì.
“Ta không định làm em chết đói,” chàng nói. Chàng đưa tay ra và nàng hững hờ nắm lấy bàn tay ấy, lờ đi sự xáo động dữ dội tràn ngập trong lòng, vội vã bước xuống bậc thang chật hẹp. Ngay khi đứng vững trên mặt đất, nàng thả tay chàng ra đoạn rảo bước đi về phía quán trọ.
Tuy nhiên, nàng không thể đi nhanh hơn chàng. Chàng sải bước khoan thai, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp nàng.
“Lẽ ra ta nên dừng sớm hơn, sao em không nhắc ta là em chưa ăn sáng,” chàng nói. “Tốt hơn em không nên phó mặc ta phải để ý tới những chuyện như thế. Nếu không đói, ta chẳng bao giờ nghĩ tới thức ăn. Ở Ai Cập, khi bọn ta chu du, ta không khi nào lo chuyện ăn uống, bởi vì có người hầu chuẩn bị tất cả. Hơn nữa, bọn ta thường lái dahabeeya, với một người đầu bếp, đồ dự trữ và dụng cụ nấu nướng. Bọn ta không phải dừng ở quán trọ để ăn uống - mà ở ngoại ô Cairo cũng chẳng có nhiều quán trọ ven đường. Đi bằng dahabeeya cũng giống như chu du trong một ngôi nhà vậy.”
Những hình ảnh bủa vây tâm trí nàng, đủ sống động để giúp nàng quên đi những cảm giác phiền phức. “Thế thì tuyệt vời lắm nhỉ,” nàng nói. “Một con thuyền bơi giữa dòng sông Nile, người lái thuyền mặc áo dài trắng và đội khăn xếp. Khác hẳn ở đây.” Nàng khoát tay chỉ xung quanh cái sân. “Ngài đi dọc con sông. Hai bên bờ trải dài những khung cảnh hùng vĩ. Một vùng cây cối xanh tươi, trù phú. Nơi thảm thực vật kết thúc, sa mạc và núi non trải ra, và ở giữa nơi đó xuất hiện những đền đài và lăng tẩm, những bóng ma của một thế giới cổ đại.”
Nàng vừa miêu tả xong hình ảnh tưởng tượng của mình thì họ cũng bước chân vào quán. Nàng thấy chàng nhìn mình chăm chăm như thể nàng là một nét chữ kỳ lạ trên mảnh đá vậy.
“Gì thế?” nàng nói. “Gì nào? Em nói lung tung quá à?”
“Sao em dễ tưởng tượng thế nhỉ,” chàng thốt lên.
Điều đó với nàng tự nhiên như hơi thở vậy.
“Trong trường hợp này, em chỉ cần nhớ lại thôi,” nàng nói. “Ngài đã gửi cho em bao nhiêu tranh, và nhà em có hàng đống sách.” Hầu hết trong số đó được nàng mua về để theo dõi những hành trình mà chàng kể lại cho nàng qua những lá thư ngắn ngủi. “Em không thể tận mắt ngắm nhìn như ngài, nhưng em hiểu được ngài đã nhớ nơi ấy như thế nào.”
“Thế tại sao...” chàng bỏ lửng, lắc đầu. “Mà thôi. Chúng ta vừa tuyên bố thỏa thuận tạm ngừng tranh cãi.”
Nàng biết điều chàng muốn hỏi. Nếu nàng biết chàng nhớ Ai Cập chừng nào, tại sao nàng lại bẫy chàng vào chuyến đi khủng khiếp tới một trong những nơi chàng ghê sợ nhất thế giới này, để nhân nhượng với cha mẹ, những người chẳng hề bận lòng tới hạnh phúc của chàng và cũng không mảy may hiểu chàng dù chỉ một chút?
Rõ hơn bất kỳ ai, nàng hiểu niềm khao khát có một cuộc sống khác ấy, để theo đuổi một giấc mơ.
Nàng muốn chàng sống cuộc đời ấy.
Nàng cũng muốn sống cuộc đời như thế, nhưng nàng đã nhận ra từ rất lâu rằng điều
đó gần như không thể xảy ra với phụ nữ.
Nói thế không có nghĩa nàng hoàn toàn từ bỏ hy vọng hoặc ngừng nỗ lực kiến thiết một con đường để điều đó có thể xảy ra. Gần như không thể không có nghĩa là không thể.
Nhưng chừng nào còn chưa tìm được câu trả lời - nàng sẽ phải sống bằng những trải nghiệm của người khác. Nếu cuối cùng Lisle ở lại hẳn nước Anh - mà thôi, nàng không dám nghĩ tới điều đó. Có lẽ chàng sẽ treo cổ, và nàng cũng tự vẫn theo vì quá tiếc thương - nếu nàng không chết trước vì buồn chán.
Chàng chắc cũng biết điều đó, nhưng chàng là đàn ông, và ngu ngốc.
Và vì là đàn ông và ngu ngốc, chàng chắc không hiểu được sự khôn ngoan trong kế hoạch của nàng.
Chàng có lẽ sẽ vừa bỏ chạy vừa la hét giận dữ với những gì nàng sẽ làm. Không, chàng sẽ bóp cổ nàng.
Nhưng đó là bởi vì chàng quá thiếu trí tưởng tượng.
George, Stamford, Lincolnshire,
cách London tám mươi chín dặm
Vừa qua nửa đêm
Tiếng hét khiến Lisle giật mình choàng tỉnh khỏi giấc ngủ mệt mỏi đầy tiếng ồn ào ầm ĩ.
“Những kẻ chè chén no say,” chàng lẩm bẩm. “Rõ là thế.”
Hộ tống ba quý bà quý cô rắc rối đi bốn trăm dặm không phải một nhiệm vụ dành cho kẻ nhát gan. Giống như ngựa, bọn họ phải được cho ăn, cho uống. Khác với ngựa, họ không thể đổi chác cho tươi tỉnh, khỏe mạnh hơn. Khác với ngựa, họ không chịu để bị gò cương. Điều đó có nghĩa ta phải tính toán thận trọng về thời gian dừng chân. Ta không được để các quý bà quý cô lần lữa, nếu không họ sẽ cứ chậm chạp mãi, và họ lưu lại ở đâu đó càng lâu thì khả năng xảy ra rắc rối càng cao.
Thật đáng mừng, chín rưỡi đêm hôm đó họ đã tới được George mà không gặp thêm bất trắc nào. Ở đây, hai chiếc xe ngựa khác nhập đoàn với họ. Với chừng ấy người hầu và hành lý, họ chiếm gần hết dãy phòng dọc theo một hành lang. Thật nhẹ nhõm biết bao cho chàng, ba quý bà quý cô nhanh chóng chọn phòng cho họ - sau khi Olivia nói với chàng là nàng cần tắm.
“Hai bà bảo em bốc mùi như nông trại ấy,” nàng nói. Đương nhiên là bộ đôi tinh quái đó còn nói ối điều khác nữa: những ám chỉ tà dâm về lũ ngựa và những người phụ nữ giạng chân cưỡi ngựa và, nói chung, mọi thứ chàng đã nghĩ và ước mình có thể tẩy ra khỏi não.
Phải nói thêm là, chàng không cần đến những hình ảnh gây bấn loạn tâm thần về Olivia khi tắm.
Chàng trở người, lôi một cái gối úp lên mặt. Tiếng hét vẫn rất to, nhưng chàng không nghe rõ từng lời.
Giấc ngủ gây nên cảm giác mụ mị.
Những tiếng nói, kèm theo tiếng bước chân giận dữ, tiến tới gần hơn. “Tôi đã thấy anh làm thế!”
“Cô đang tưởng tượng mọi thứ!”
“Anh đã liếc mắt đưa tình với cô ta!”
“Cô thì sao? Tôi đã thấy cô tán tỉnh thằng đó.”
“Anh say rồi.”
“Tôi không say và tôi không mù.”
Lisle đầu hàng, ném cái gối xuống, và lắng nghe - những người khác trong hành lang hẳn đều đang làm như thế, dù muốn hay không.
“Anh là đồ cặn bã!” người phụ nữ thét lên. “Anh đã làm gì phía sau cái xe ngựa đó?” “Đi đái, mụ đàn bà ngu ngốc!”
“Tôi không ngu và tôi cũng không mù. Tôi thấy các người, hai đửa các người, ở sân sau.”
“Thế thì cô đã thấy mọi thứ. Mẹ kiếp cô, Elspeth, đừng để tôi phải đuổi cô xuống dưới hành lang này.”
“Đúng đấy, Elspeth,” Lisle lầm bầm. “Hãy để anh ta đuổi cô xuống hành lang khác.” “Mẹ kiếp tôi?” người phụ nữ gào lên. “Đồ vũ phu xấu xa, lỗ mãng, đê tiện!” “Quay lại đây!”
Thêm một tiếng thét nữa. “Bỏ tay anh ra khỏi người tôi!”
“Cô là vợ tôi, tiên sư nhà cô!”
“Ồ, phải, tiên sư nhà tôi. Anh phản bội tôi - rồi anh nguyền rủa tôi? Tôi hận anh! Sao tôi lại không nghe lời bố cơ chứ?”
Khi ấy có ai đó gõ cửa. Cửa phòng Lisle?
“Thưa ngài?”
Lisle ngồi lên. Cái bóng lờ mờ của Nichols xuất hiện ở giường ngủ bên cạnh. “Tôi mở cửa nhé?” cậu đầy tớ khẽ hỏi.
“Ôi, không,” Lisle nói. “Tránh xa những cuộc cãi vã yêu đương. Không lường trước được chuyện gì...”
“Bỏ tôi ra nếu không tôi sẽ hét lên!”
Thêm tiếng gõ cửa, nhưng lần này là cánh cửa đối diện.
“Thưa ngài?” Nichols cất tiếng.
“Tôi ghét anh!” người đàn bà gào lên.
“Elspeth, tôi ngán chuyện này lắm rồi!”
“Tôi ngán anh lắm rồi!”
“Đừng để tôi phải lôi cô lại.”
“Anh giống như một kẻ vũ phu ấy nhỉ?” Giờ là một tiếng cười nhạo báng. Tiếng gõ cửa dồn dập hơn, xa xa phía cuối hành lang.
“Con đàn bà ngu ngốc. Lúc này không ai mở cửa cho người lạ đâu...” Tất cả đột ngột im lặng.
Rồi có một giọng nói khác. Dù ở quá xa nên không nghe rõ lời, Lisle vẫn dễ dàng nhận ra người nói: Olivia.
“Quỷ tha ma bắt nàng đi,” chàng lầm rầm. Chàng hất tung chăn rồi chạy ra cửa.
NCHƯƠNG 7
gười phụ nữ sụt sùi lao về phía Olivia, nàng dịu dàng vòng tay quanh người cô ta đẩy vào phòng.
Olivia trao cô gái đang thổn thức cho Bailey.
“Này!” gã đàn ông hét lên. “Đó là vợ tôi.”
Nén tiếng thở dài, Olivia quay ra cửa. Nàng không định đôi co, nhưng những cuộc cãi cọ vợ chồng không phải những cuộc ẩu đả hợp tình hợp lý. Nàng biết sự xung đột luôn tạo nên bất lợi lớn cho phụ nữ. Hôn nhân sắp đặt như thế, trao tất cả quyền lực cho đàn ông.
Nhưng điều đó không có nghĩa rằng người vợ chẳng bao giờ cư xử ngu ngốc. Lúc này nàng lấy làm ngờ tình huống chính là như thế. Tuy nhiên, người ta không thể quay lưng lại với một người phụ nữ đang gặp tai họa.
Nàng căm ghét những cuộc cãi vã vợ chồng.
Nàng ban tặng gã đàn ông một nụ cười ngất ngây. Gã lùi lại một bước. “Vợ anh có vẻ đang hoảng hốt thất thần,” nàng lên tiếng.
“Phải nói là loạn trí mới đúng,” gã nói. “Cô ta...”
“Tôi nghe rồi,” nàng chặn lời. “Tôi nghĩ cả thị trấn này ai cũng nghe thấy cả rồi. Nói thẳng nhé, tôi nghĩ lẽ ra anh có thể giải quyết chuyện này một cách khôn ngoan hơn. Nếu là anh, tôi sẽ bỏ đi và nghĩ ra một kế hoạch tuyệt hơn. Tỉnh rượu hẳn sẽ là một khởi đầu hay.”
“Tôi đâu có say,” gã gầm gừ. “Và tôi sẽ không để cho đàn bà điều khiển.” “Trông bộ dạng của anh không được đẹp mắt cho lắm,” nàng vui vẻ châm biếm. “Tôi cóc quan tâm! Cô đưa cô ta ra đây ngay!”
Hắn ngả người về phía Olivia với vẻ đe dọa.
Tuy không cao, nhưng gã đô con và vạm vỡ, cánh tay như tay thợ rèn. Nếu muốn, có thể dễ dàng nhấc bổng Oliva và ném nàng ra khỏi lối đi. Mà lúc này thì có thể thế lắm, cơn say đã khiến gã trở nên cực kỳ thô lỗ và hung bạo.
Nàng đứng thẳng dậy, khoanh tay, cố quên đi chuyện mình đang mặc đồ ngủ, và độc chiếc váy ngủ mà thôi. Quá vội và trong phòng tối om, Bailey không tìm được áo choàng còn Olivia quá sốt ruột ra mở cửa.
Nàng giả vờ như mình không chỉ ăn mặc tươm tất mà còn được trang bị đầy đủ vũ khí nữa. “Hãy tỏ ra có lý trí một chút đi,” nàng nói. “Tôi không thể yên tâm đưa cô ấy ra nếu đó không phải là điều cô ấy muốn. Sao anh không thử dỗ dành cô ấy xem sao?”
“Elspeth!” gã gào lên. “Ra ngoài này ngay!”
Gã gọi thế là dỗ dành đấy. Ôi, đàn ông.
“Đồ vũ phu!” Elspeth thét lên. “Quân phản bội! Đồ trăng hoa! Quân đồi bại!”
“Đồi bại? Khốn kiếp, Elspeth, tất cả những gì tôi làm là đi dạo một vòng ở sân trong. Cô thật lố bịch. Cô không ra là tôi sẽ xông vào đấy!”
Gã nhìn Olivia. “Tiểu thư, nếu là cô tôi sẽ đưa cô ấy ra hoặc tránh qua một bên. Đây không phải chuyện của cô.”
Gã tiến lên một bước.
Rồi đột nhiên gã lùi lại một bước, khi một cánh tay trần chộp lấy gã và quật ngay sang bên. “Đừng có mơ tới chuyện đó nhé,” Lisle nói.
“Cô ta giấu vợ tôi!”
“Đúng là cô ấy làm thế. Nhưng anh không thể tấn công cô ấy.”
Gã đàn ông nhìn xuống bàn tay túm chặt tay mình, rồi nhìn lên gương mặt Lisle. Lisle vẫn giữ vẻ mặt cực kỳ bình tĩnh như vốn dĩ trước những tình huống ẩu đả. Hầu hết mọi người đều không khó gì để hiểu được vẻ mặt đó.
Anh chồng đang giận dữ này hẳn cũng hiểu được, thay vì thử bẻ hàm Lisle, gã quay sang gào lên với Olivia, “Ôi, đàn bà!”
“Tôi rất thông cảm, hãy tin tôi,” Lisle nói. “Nhưng lúc này anh chẳng thể làm gì. Người ta bảo tránh mặt sẽ làm nguôi giận. Sao anh không đi xuống dưới và đợi vợ anh tĩnh trí lại nhỉ?”
“Lũ đàn bà ngu ngốc ngớ ngẩn,” gã đàn ông thốt lên, nhưng không mấy tha thiết nữa. Thái độ bình tĩnh đáng sợ của Lisle đã làm tiêu tan hết nhuệ khí của gã.
Lisle buông tay ra, thế là gã đàn ông bỏ đi, miệng vẫn còn lẩm bẩm về đàn bà.
Lisle quan sát cho tới khi gã đi khuất. Rồi chàng quay sang nhìn Olivia. Ánh mắt lấp lánh của chàng lướt khắp người nàng, từ mái tóc rối xuống chiếc váy ngủ mỏng manh rồi xuống đôi chân trần. Nàng cảm nhận được từng chút cuộc khảo sát ấy từng chút một.
Nàng nhìn lại chàng, đưa mắt chầm chậm trượt xuống, từ mái tóc bù xù, qua con mắt bị thương, tới chiếc áo choàng ngủ chỉ dài tới gối, và xuống bắp chân săn chắc, đến đôi chân trần.
Rồi nàng ước gì mình đã nhìn vào bức tường sau lưng chàng. Nàng đang nhớ lại mùi hương của chàng và cảm giác về cơ thể chàng, sức nóng của sự đụng chạm. Có cái gì đó cuộn lên, khuấy đảo trong bụng nàng.
“Em được đấy nhỉ,” Lisle nói. “Loạn trí hết cả. Giờ là nửa đêm rồi. Em ra cửa - phong phanh như chẳng mặc gì - và mở cửa cho người lạ nữa chứ.”
“Đâu có phải em chẳng mặc gì,” nàng nói. “Mà nếu em thế thật thì ngài cũng thế.”
Như thể để phủ nhận điều nàng vừa nói, Nichols bước đến cạnh giúp chàng mặc chiếc áo choàng lụa xanh bóng có một lớp vải lót đỏ thẫm.
Vẫn không hề rời mắt khỏi Olivia, Lisle lơ đễnh đón nhận sự chăm sóc của cậu đầy tớ, rồi vẫy tay cho cậu ta lui. Nichols biến mất cũng kín đáo như khi xuất hiện. Sao một người như Lisle lại có thể thuê một cậu đầy tớ hợm hĩnh, tinh tướng thế này, với
nàng điều đó cũng bí ẩn như các bức tranh nhỏ và chữ tượng hình kỳ lạ mà Lisle gửi kèm trong những lá thư của chàng, để giải thích cho một vấn đề nào đó.
Chiếc áo choàng thanh lịch đó hẳn là do cậu đầy tớ chuẩn bị. Lisle không phải người quan tâm tới áo xống. Olivia luôn cho rằng soạn sửa quần áo cho chàng hẳn là một việc rỗi hơi vô ích. Nhưng cậu đầy tớ cứ như hình với bóng với chàng, và đồng cam cộng khổ bất chấp gian khó cùng chàng ở Ai Cập.
Trong nàng trỗi lên cảm giác ghen tị, tuy nhiên nàng nhanh chóng trấn áp được. Sao lại phải ghen tị với một người sống cả đời như cái bóng cơ chứ?
Trong lúc đó, vì Bailey phải chăm sóc cô vợ khích động nên chỉ còn một mình Olivia là phong phanh như chẳng mặc gì.
“Đây là trường hợp khẩn cấp,” nàng nói. “Người ta không thể đợi ăn mặc chỉnh tề trong khi có người gặp nguy đang cầu cứu.” Nàng khoát tay về phía cô gái, có vẻ như cô ta đang xì mũi vào mấy cái khăn tay của Olivia.
“Một cô gái đang hoảng loạn,” Olivia nói tiếp. “Ngài bảo em phải làm gì đây?”
Lisle lắc đầu. Ngọn đèn phía sau tỏa ánh sáng mơ màng trên mái tóc cháy nắng của chàng, giống như một vầng hào quang - như thể vẻ đẹp như thiên thần của chàng cần phải được làm nổi bật.
Nàng đưa mắt xuống thấp hơn, để chống cự lại khao khát được luồn những ngón tay vào mái tóc rối bù của chàng. Thế là nàng chuyển sang nhìn dải thắt lưng trên chiếc áo choàng của chàng, nhưng như thế chỉ khiến nàng nhớ tới vòng hông rắn chắc mà mình đã ôm chặt mấy tiếng đồng hồ trước. Nàng thật không biết phải nhìn vào đâu nữa.
“Ta sẽ bảo em phải suy nghĩ,” chàng nói.
“Ôi, không đâu,” nàng nói. “Ngài sẽ bắt em ngồi yên, chờ cho đến khi một gã đàn ông nào đó tới nghĩ hộ em,” nàng nói.
“Dù ta không dốt tới mức mong em sẽ ngồi yên,” chàng nói. “Nhưng ta nghĩ em dốt tới mức tham gia vào một vụ cãi lộn vợ chồng. Em chưa bao giờ nghe cha dượng em bảo à? Đó không phải là quy định của nhà Rathbourne còn gì?”
Nàng liều lĩnh nhìn đôi chân trần của chàng, cách chân nàng chỉ chừng một tấc. “Em tin ông ấy cũng đã dạy ngài quy tắc về cãi nhau với phụ nữ.”
“Cảm ơn vì đã nhắc ta,” chàng nói. “Em đã và vẫn luôn luôn bốc đồng đến mức có thể tự hại mình. Chỉ có thừa hơi mới đi cãi nhau với em, nhất là trong một hành lang lạnh ngắt vào lúc nửa đêm thế này.”
“Ngài đang mặc áo choàng ấm áp kia mà,” nàng đối đáp. “Còn em chẳng thấy lạnh.”
Ánh mắt của chàng trượt xuống, tới ngực nàng. Nàng không nhìn theo. Nàng chẳng cần phải làm thế. Nàng hoàn toàn ý thức được tình trạng đôi nhũ hoa của mình lúc này.
“Một phần cơ thể em thấy lạnh,” chàng đáp. “Nhưng em cũng sẽ cãi phăng đi thôi, và ta thấy thế là đủ rồi.” Chàng quay người, sải bước trên hành lang.
Nàng đứng yên một lát, nhìn chàng cất bước bỏ đi.
Chàng luôn bước chân ra đi... hoặc phi ngựa đi... hoặc lái tàu đi - tới những hành trình phiêu lưu của chàng, tới với người tình của chàng, Ai Cập. Thời gian chàng quay lại chỉ đủ để đảo lộn mọi thứ. Trong một khoảng thời gian ngắn, nàng có lại người bạn, kẻ đồng minh, nhưng rồi sau khi chàng đi, nàng lại thấy bồn chồn và bất mãn hơn. Nàng đợi thư chàng, để chia sẻ cuộc sống của chàng, còn chàng - ôi, chàng sẽ quên tất cả nếu nàng không thường xuyên viết cho chàng, nhắc nhở chàng về sự tồn tại của nàng.
Nàng siết chặt nắm tay và đi theo chàng.
Lisle bước vào phòng, đóng cửa lại sau lưng rồi dựa người vào đó, mắt nhắm nghiền. Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi! Olivia bán khỏa thân.
Và đứng trên hành lang của một quán trọ ven đường cho cả thế gian nhìn ngắm. Chồng của Elspeth hẳn nhiên đã được một bữa no mắt: núm vú Olivia nhô ra dưới lớp áo ngủ mỏng như tơ ấy.
Của quý của Lisle cũng cương lên, như thể vừa rồi nó không được giải tỏa hết năng lượng.
“Xuống nhà lấy cho ta ly rượu,” chàng bảo Nichols. “Không, tốt hơn hết là một chai. Mà thôi, ba chai đi.”
“Tôi có thể lấy rượu sữa cho cậu, thưa cậu chủ,”
Nichols nói. “Rất êm dịu sau chừng ấy chuyện ầm ĩ.”
“Ta không muốn êm dịu,” Lisle nói. “Ta muốn lãng quên. Đám phụ nữ đáng nguyền rủa ấy.”
“Vâng, thưa ngài.”
Cậu đầy tớ đi ra.
Cánh cửa vừa đóng lại thì tiếng gõ cửa vang lên.
“Đi đi,” Lisle nói. “Bất kể là ai.”
“Em không đi. Sao ngài dám quay lưng bỏ em mà đi. Sao ngài dám mắng em và ra lệnh cho em và...”
Chàng mở cửa ra.
Nàng đứng đó, vẫn phong phanh như vừa nãy, cánh tay đưa lên định gõ cửa lần nữa.
“Về phòng em đi,” chàng nói. “Em bị làm sao vậy hả trời?”
“Ngài,” nàng nói. “Ngài đã không về nhà nhiều năm rồi. Cứ về được một chốc là lại đi ngay.” Nàng nhẹ nhàng di chuyển, khiến lớp vải tơ căng phồng trên bầu ngực. “Ngài không có quyền chỉ bảo em này nọ hay can thiệp vào chuyện của em. Đúng như ngài từng chỉ ra, ngài không phải anh trai em. Ngài chẳng có họ hàng gì với em cả. Ngài không có quyền sai khiến em.”
Lại thêm những cử động gây ấn tượng mạnh. Mái tóc nàng đung đưa xáo động quanh bờ vai. Một chiếc nơ buộc áo của nàng sắp bung ra.
“Nếu em muốn cho mười người phụ nữ vào phòng em thì ngài cũng đâu có quyền cản,” nàng gào lên. “Nếu em muốn cho mười gã đàn ông vào phòng em, ngài cũng chẳng được ngăn. Em sẽ không để bị điều khiển đâu. Em sẽ không chịu bị khiển trách vì đã làm những gì em cho là đúng. Em sẽ không...”
Nàng ngừng lại rồi hét lên khi chàng chộp một cánh tay đang vung vẩy của nàng, lôi nàng vào phòng rồi đóng cửa lại.
Nàng quẫy tay hất chàng ra.
Chàng thả nàng ra rồi bước lùi lại.
“Chuyện này bực mình quá đi mất,” chàng nói.
“Về điểm này thì chúng ta đồng thuận đấy,” nàng nói. “Em đã quên bẵng mất ngài có khả năng chọc giận như thế nào.”
“Ta đã quên bẵng mất em mất trí khủng khiếp khi có một tâm trạng nào đó bao trùm lấy em.”
“Đây không phải một tâm trạng, đồ đầu đất!”
“Ta chẳng quan tâm em gọi nó là gì,” chàng nói. “Em không thể ra ngoài chỗ công cộng mà ăn mặc phong phanh như thế. Nếu gã đáng thương đó mà không quẫn trí vì cô vợ nóng nảy của hắn - hoặc nếu đó là loại đàn ông khác - hoặc nếu có hai gã liền - thì khi em mở cửa, hậu quả... Không, ta không muốn nghĩ tới nữa. Quỷ tha ma bắt em đi, em không bao giờ suy nghĩ trước khi hành động sao? Em không bao giờ dành một phút... một giây... để tính xem cái gì sẽ xảy ra à?
“Em biết cách chăm sóc bản thân,” nàng nói, hếch cằm lên. “Ngài và tất cả mọi người phải biết điều đó.”
“Ôi, thật sao?” chàng nói. “Thế thì hãy chăm sóc lấy mình đi, Olivia.” Chàng vòng một tay quanh nàng, kéo lại gần.
“Ôi, không, ngài...”
Chàng nâng cằm nàng lên rồi hôn.
Olivia thực sự biết cách chăm sóc bản thân. Nàng nhón người, cào móng tay lên hông chàng. Nàng trụ vững để ép đầu gối vào những phần mềm mại của chàng.
Nhưng có cái gì đó ngoài tầm kiểm soát.
Nàng không thể quay mặt đi vì chàng đang giữ cằm nàng, nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Và nàng không cách nào thoát được cảm giác mê ly của đôi môi chàng và sức ép từ khuôn miệng chàng, kiên quyết, đòi hỏi, tham lam. Chàng cực kỳ ngang ngạnh, và dù có làm gì đi nữa, chàng đều dành sự tập trung cao độ, khiến nàng không thể trốn chạy hoặc quay đi. Nàng không thể không đáp lại. Nàng không thể không nhấm nháp cảm giác từ đôi môi chàng và hương vị của chàng.
Rồi mùi hương đàn ông như trêu ngươi thoảng vào mũi nàng và lan tỏa trong đầu nàng làm nảy nở bao nhiêu mơ ước khát khao nóng bỏng. Mặt đất dưới chân nàng như trôi đi, như thể nàng đang bay bổng trên khinh khí cầu.
Nàng trượt tay khỏi vai chàng. Rồi tay nàng vòng quanh cổ chàng, nàng đu lên, như
thể nàng sẽ rơi hàng trăm dặm xuống đất lạnh dưới chân nếu nàng không làm thế.
Nàng muốn đá vào gót chân chàng. Nhưng thay vì thế, bàn chân trần của nàng lại trượt theo chân chàng. Bàn tay còn rảnh của chàng trượt xuống lưng nàng rồi xuống nữa, ôm lấy mông nàng, và kéo nàng lại gần, tì vào giữa hai chân chàng. Chỉ có hai lớp tơ lụa mỏng manh ngăn giữa họ. Họ không giấu giếm gì, không bảo vệ gì. Của quý của chàng, nóng bỏng và cương cứng, ấn lên bụng nàng.
Nàng không phải cô gái hoàn toàn thơ ngây. Nàng đã từng cảm thấy cái đó của đàn ông, nhưng sức nóng không chạy rần rật khắp người nàng như ngọn lửa lan quanh nòng súng thế này. Trước đây nàng đã từng bị kích động và chao đảo, nhưng nàng không thấy khao khát tới nhức nhối như bây giờ. Nàng chưa từng cảm thấy sự buông thả cuồng nhiệt này.
Chàng ngả lại lưng vào cửa, kéo theo cả nàng, và mọi sự tỉnh táo của nàng tan biến. Mọi kiến thức và mưu mẹo của nàng đều trở thành vô nghĩa. Tất cả những gì nàng có thể làm là khao khát, và đó không phải là niềm mong ước lãng mạn trong trẻo mà là nỗi điên cuồng. Nàng cọ người lên chàng, và mở miệng để nếm hương vị chàng. Thật nóng bỏng và say đắm, nụ hôn với lưỡi đưa qua đẩy lại, giống như một sự móc nối mà bản năng đòi hỏi.
Nàng nghe thấy tiếng động, nhưng mặc kệ. Một âm thanh mơ hồ thì có nghĩa lý gì lúc này.
Cái gì đó đập, ở đâu đó. Nàng không biết ở đâu. Đó chắc là tiếng trái tim nàng, đập thình thịch cùng với những xáo động thể xác khi từng li trên cơ thể người đàn ông vạm vỡ ấn lên người nàng. Đó cũng có thể là tiếng đập của sự ham muốn, dường như sẽ kéo dài mãi mãi.
Có tiếng gõ, nhưng tim nàng đang gõ mạnh vào khuôn ngực, với sức nóng và nhu cầu khẩn thiết... Và nỗi sợ hãi, bởi vì chuyện đang xảy ra là ngoài tầm kiểm soát của nàng.
Thêm tiếng gõ. Rồi giọng nói.
“Thưa ngài?”
Một giọng đàn ông. Nghe quen quen. Bên kia cánh cửa này.
Bản năng tồn tại của người nhà DeLucey, được bồi đắp thêm lên qua nhiều thế hệ, giằng nàng ra khỏi những cảm xúc chao đảo điên cuồng vừa phủ chụp nàng. Nàng trở lại với thực tại: một nơi lạnh lẽo, đột ngột.
Nàng cảm thấy Lisle cứng đờ và bắt đầu lủi ra.
Nàng gỡ khỏi tay chàng.
Nàng đánh liều đưa mắt nhìn khuôn mặt chàng. Một sự điềm nhiên tuyệt đối. Chân chàng vẫn đứng yên trên sàn nhà cứng lạnh.
Chàng bình tĩnh kéo váy ngủ của nàng cho thẳng thớm.
Để tỏ ra bình thường, nàng vuốt phẳng áo cho chàng.
Thêm nữa, nàng vỗ nhẹ ngực chàng theo kiểu bạn bè. “Ừm, được rồi, hãy xem đó là một bài học cho ngài,” nàng nói.
Nàng kéo cửa, gật đầu ngạo nghễ với Nichols, và bước ra ngoài, đầu quay cuồng và chân run rẩy, nàng hy vọng mình không đâm vào tường hoặc ngã dúi dụi.
Sáu rưỡi sáng
Chủ nhật, ngày 9, tháng Mười
Trong giấc mơ, Olivia choàng một tấm vải lanh mỏng. Nàng đứng ở bậc cuối của cầu thang cẩm thạch, đưa tay vẫy. Sau lưng nàng là bóng tối thăm thẳm. “Lại đây, xem kho báu bí mật của em này,” nàng nói.
Lisle dợm bước xuống cầu thang.
Nàng mỉm cười với chàng rồi lách người qua cánh cửa. Nó đóng sập lại phía sau nàng.
“Olivia!”
Chàng đập mạnh vào cửa. Chàng nghe thấy tiếng sấm dội xuống đáp lời. Nhưng không, đó không phải tiếng sấm. Chàng biết tiếng động đó rồi. Đá, đang lăn xuống bên trong đó. Một cái bẫy tầm thường. Chàng ngoái nhìn lại. Đen đặc. Chỉ có tiếng đá tảng ầm ầm lăn xuống lối vào.
Sầm. Sầm. Đập mạnh vào tấm gỗ.
Tiếng gì ồn ào thế nhỉ?
Không phải đá. Một cánh cửa.
Ai đó đang đập cửa.
Lisle tỉnh hẳn, chàng đã rèn luyện bao năm ở Ai Cập mới được như vậy, ở đó phản xạ nhanh trong khi ngủ là một cách để tồn tại.
Chàng ngồi dậy. Ánh sáng lờ mờ chiếu qua rèm cửa báo hiệu mặt trời đã lên.
Nichols đi đâu rồi nhỉ? Vào giờ này, cậu ta đang trên giường một cô hầu gái, có vẻ thế - hay là đã tìm đường đến buồng ngủ của một nữ khách nào đó rồi?
Nguyền rủa thằng đầy tớ, Lisle lê người ra khỏi giường, khoác áo choàng, xỏ chân vào dép, rồi nặng nề bước ra cửa.
Chàng kéo cửa.
Olivia ngừng lại, tay đang giơ lên.
Chàng lắc đầu. Chàng vẫn đang mơ.
Nhưng không. Hành lang sau lưng nàng tràn ngập ánh sáng xanh xám y như trong phòng ngủ của nàng.
Nàng ăn mặc chỉn chu. Tâm trí hỗn độn của chàng từ từ sáng rõ ra: chiếc mũ trang trí rắc rối... Cái cổ cao của chiếc váy cưỡi ngựa có ống tay phồng hợp mốt... đôi bốt mỏng. Quần áo du lịch, cái đầu mụ mị của chàng tự nhủ. Nhưng thế thì có nghĩa gì đâu.
“Sao?” chàng nói. “Chuyện gì thế?”
“Bọn em đã sẵn sàng lên đường,” nàng nói. “Xe của người hầu đã đi trước. Các quý bà vào xe cả rồi.”
Chàng chẳng hiểu nổi nàng đang nói gì. Tâm trí chàng gợi lại những hình ảnh đêm qua: nàng, gần như trần trụi... Chàng, thất thần mất trí. Một sai lầm. Một sai lầm chí tử, khủng khiếp, kinh hoàng.
Nhưng nàng đã đứng đó, mặc mỗi chiếc váy ngủ mỏng manh trông như sắp tuột, tóc xõa xuống khi nàng khoát tay, và cả cơ thể nàng cũng chuyển động theo.
Chàng từng ngắm vũ nữ ở Cairo. Ngay giữa chốn đông người, trang phục đầy đủ, họ vẫn múa rất khêu gợi. Ở những bữa tiệc riêng tư, chàng quan sát họ còn mời gọi hơn thế, đôi khi còn để ngực và bụng trần, hoặc nhảy múa mà chỉ quấn mỗi một tấm khăn mỏng tang trên người. Nhưng dù tấm thân mềm dẻo tuyệt vời ấy có làm gì đi nữa, chàng vẫn giữ được đầu óc tỉnh táo.
Olivia đã đứng trước mặt chàng, giận dữ, không cố tình quyến rũ chàng, về căn bản nàng vẫn ăn mặc đầy đủ - thế mà chàng trở nên tâm thần bấn loạn.
Nếu Nichols không lên gõ cửa...
“Mấy giờ rồi?” chàng hỏi. Hôm nay là ngày nào? Có phải chàng vẫn đang mơ? “Sáu giờ rưỡi,” nàng nói.
“Buổi sáng?”
Nụ cười của nàng thật ngây ngất, cám dỗ đầy nguy hiểm. “Nếu đi bây giờ, chúng ta có thể tới York lúc hoàng hôn.”
“Đi?” chàng thốt lên. “Bây giờ sao?”
“Chúng ta sẽ dễ dàng đến York trước xe của Bưu điện Hoàng gia,” nàng nói. “Ta mới ngủ có ba tiếng thôi. Em bị làm sao vậy?”
“Em muốn tới Gorewood càng nhanh càng tốt,” nàng nói. “Càng tới đó sớm, chúng ta càng nhanh hoàn thành nhiệm vụ và ngài càng sớm được trở về Ai Cập.” Nàng nhìn chàng từ đầu tới chân. “Có vẻ như ngài chưa sẵn sàng.”
“Tất nhiên là ta chưa sẵn sàng!”
Thêm một nụ cười ngây ngất nữa. “Ồ, vậy thì em phải nói là, ngài tới York lúc nào thì tới.”
Nàng quay người đi mất.
Chàng đứng ở hành lang, quan sát trong nghi hoặc khi nàng thong dong đi xuống hành lang, hông ngúng nguẩy.
Chàng trở vào trong phòng và đóng cửa lại.
Một giây sau, cánh cửa bật mở.
“Ta biết thế này là gì rồi,” chàng nói. “Sự trả thù.”
“Gì cơ thưa ngài?”
"""