"
Sếu Đầu Mùa - Chingiz Aitmatov full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sếu Đầu Mùa - Chingiz Aitmatov full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
BìaĐầu
LờiGiớiThiệu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Bìa Đầu
CHINGHIZ AITMATOV
Sếu đầu mùa
(Tiểu thuyết)
ĐÀO MINH HIỆP dịch
-----
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Tsinghiz Aitmatov. "Con tàu trắng". Tuyển tập truyện vừa. Nhà xuất bản Văn học thiếu nhi. Moskva 1980.
Xuất bản theo hợp đồng sử dụng bản dịch giữa dịch giả và Nhà xuất bản Văn học
Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Mọi hoạt động công bố, xuất bản, sao chụp, trích đăng... tác phẩm dưới mọi hình thức mà không có sự cho phép bằng văn bản của Nhà xuất bản đều bị coi là xâm phạm bản quyền và làm tổn hại đến quyền lợi của Nhà xuất bản và tác giả.
-----
Tặng con trai Axkar
Akxai, Kokxai, Saryxai.
Ta đi khắp nơi,
Nhưng chẳng tìm đâu ra mảnh đất nào giống như người…
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Lời Giới Thiệu
Chinghiz Aitmatov, sinh năm 1926 tại làng Sheker, huyện Talas, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Kirghizia thuộc Liên Xô trước kia, nay là Cộng hòa Kyrgyzstan, mất năm 2008 tại Nuremberg, Đức. Aitmatov bắt đầu
xuất hiện trên văn đàn từ năm 1952, nổi tiếng ngay từ những tác phẩm đầu tay và được trao nhiều giải thưởng văn học cao quý: Giải thưởng Lenin (1963), giải thưởng Quốc gia Liên Bang Nga (1969), giải thưởng Quốc gia Liên Xô (1968, 1977, 1983), Anh hùng Lao động Liên Xô, viện sĩ Viện Hàn lâm châu Âu.
Các tác phẩm chính: Giamilia (1958), Truyện núi đồi và thảo nguyên (1961, giải thưởng Lenin 1963), Cánh đồng mẹ (1963), Vĩnh biệt Gunxarư (1968), Con tàu trắng (1970), Con chó khoang chạy ven bờ biển (1977), Sếu đầu mùa (1978), Và một ngày dài hơn thế kỷ (1983), Đoạn đầu đài (1986)...
Chinghiz Aitmatov sinh ra, lớn lên, học tập và lao động ở quê hương vùng núi đồi Kyrgyzstan và hầu hết các tác phẩm của ông đều viết về những vấn đề nảy sinh trên quê hương ông. Nhưng điều kỳ lạ là những tác phẩm đó lại nhận được sự đồng cảm nồng nhiệt của đông đảo bạn đọc trên khắp thế giới với những nền văn hóa rất khác nhau. Bằng một bút pháp chân thực, giảndị, với những đề tài rất gần gũi với cuộc sống lao động hàng ngày, song giá trị của tác phẩm lại làm cho nhiều thế hệ người đọc còn phải suy ngẫm.
“Sếu đầu mùa” là câu chuyện về một lứa học sinh chưa đến tuổi trưởng thành nhưng đã phải sớm từ giã mái trường thân yêu để thay cha anh đang ở ngoài mặt trận, bắt tay vào công việc lao động nặng nhọc làm ra lúa mì cung
cấp cho tiền tuyến. Bạn đọc Việt Nam có thể nhận ra mình trong số các nhân vật trong cuốn sách, bởi nhiều thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam cũng đã phải tạm biệt mái trường không chỉ để làm ra lúa gạo cho tiền tuyến mà còn trực tiếp cầm súng chiến đấu. Một câu chuyện chân thực và cảm động về tuổi trẻ nhọc nhằn, sôi nổi và thú vị, với những mối tình đầu lãng mạn sẽ còn im đậm trong tâm hồn cho đến suốt cuộc đời - đó là câu chuyện về những chú chim sếu non đã sớm biết xòe rộng đôi cánh của mình để lao thẳng vào bầu trời xanh bao la.
Cuốn sách không chỉ dành cho tuổi trẻ, nó còn dành cho tất cả những ai biết trân trọng giữ gìn những tháng năm đẹp đẽ nhất của cuộc đời - tuổi trăng tròn. Và, đúng như Aitmatov có lần đã nói về tiêu chuẩn của một cuốn sách hay: “Bạn đọc lấy làm tiếc là cuốn sách đã hết và sau đó còn suy nghĩ mãi về những điều đã đọc”.
ĐÀO MINH HIỆP
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Trong giờ địa lý, cô giáo Inkaman-apai đang rét co ro trong chiếc khăn len đan bằng sợi thô, nhưng vẫn say sưa kể về Sri Lanka, hòn đảo kỳ diệu nằm giữa đại dương, gần bờ biển Ấn Độ. Trên tấm bản đồ học sinh, hòn đảo trông giống như một giọt nước so với lục địa. Vậy mà theo lời cô giáo, ở đấy hầu như chẳng thiếu một thứ gì: Nào là khỉ, voi, nào là chuối (một loại trái cây kỳ lạ nào đó), còn chà là loại ngon nhất thế giới, rồi còn vô số loại thực vật, loại trái cây kỳ lạ khác nữa. Nhưng điều hấp dẫn nhất chính là ở đó khí hậu lúc nào cũng nóng, suốt cả năm cứ việc sống nhởn nhơ, chẳng phải bận tâm đến giày, mũ, đến vải bọc chân, áo lông. Còn củi đốt thì hầu như cũng chẳng cần đến. Như vậy có nghĩa là chẳng phải ra đồng kiếm đồ đun nấu, chẳng phải còng lưng đến sát đất vác trên vai những bó cành khô về nhà. Thế mới gọi là cuộc sống chứ! Muốn làm gì thì làm, tha hồ sưởi nắng, còn nếu không muốn thì chui vào bóng râm mà nghỉ. Cả ngày lẫn đêm lúc nào cũng ấm áp, dễ chịu, quanh năm chỉ có mỗi mùa hè. Có thể tắm tùy thích, từ sáng sớm đến chiều tối cũng được. Tắm chán lại chạy lên đuổi bắt đà điểu, những con chim to lớn và ngốc nghếch ấy còn biết sống ở đâu nữa nếu không ở đấy. Nhưng giống chim thông minh nhất ở Sri Lanka có lẽ là con vẹt. Nếu muốn, có thể bắt chúng rồi dạy chúng hát, cười, tiện thể dạy luôn cả khiêu vũ nữa. Giống vẹt có thể làm được tất cả mọi chuyện. Người ta bảo, có những con vẹt còn biết nói nữa. Có người ở bản đã từng nhìn thấy ở chợ Giambun một con vẹt biết đọc. Cứ mang cho nó một tờ báo, thế là nó đọc như máy, không hề ngắc ngứ…
Đúng, trên hòn đảo Sri Lanka ấy chẳng thiếu thứ gì và còn biết bao điều kỳ diệu khác nữa. Cứ việc sống thoải mái và chẳng phải bận tâm về chuyện gì cả. Có điều đừng bao giờ để cho bọn chủ đồn điền thấy mình là được rồi.
Bọn ấy bao giờ cũng lăm lăm một chiếc roi trong tay và người dân Sri Lanka thường bị đánh đến oằn lưng như những người nô lệ. Đúng là đồ áp bức! Chà, giá mà được tạt tai chúng nó một cái cho nảy đom đóm mắt nhỉ! Sau đó tước lấy cái roi và bắt chúng phải làm việc. Đối với những kẻ bóc lột và những tên tư bản ấy thì chẳng phải khoan dung và nhiều lời làm gì: Làm lấy mà ăn, chỉ có vậy thôi! Bọn phát xít cũng từ đây mà ra cả!.. Và cũng chính vì thế mới nổ ra chiến tranh. Bao nhiêu người trong bản đã hy sinh ngoài mặt trận. Ngày nào mẹ cũng khóc, cứ khóc mãi mà chẳng nói gì. Mẹ sợ rồi đến lượt bố cũng bị giết, nên có lần than vãn với bà hàng xóm: Khi ấy tôi biết nương thân vào đâu với bốn đứa con dại trên tay.
Co ro trong lớp học lạnh ngắt, cô giáo Inkaman-apai kiên nhẫn chờ cho những cơn ho của lũ trẻ dịu đi rồi lại tiếp tục kể về Sri Lanka, về biển và về những đất nước có khí hậu nóng bức. Dù tin hay không tin vào những lời cô giáo kể (những miền đất ấy mới tuyệt làm sao), song lúc ấy Xuntanmurat vẫn cảm thấy thấy tiếc rằng mình không được sống ở Sri Lanka. “Sống ở đấy mới gọi là sống chứ!” - cậu thầm nghĩ, mắt liếc ra cửa sổ. Xuntanmurat làm như đang chăm chú nhìn cô giáo nhưng kỳ thực mắt cậu lại đang liếc ra cửa sổ, cậu giả vờ khéo lắm. Ngoài của sổ trời vẫn u ám. Những làn tuyết nặng bay xiên xiên đập vào cửa sổ. Một vài bông tuyết mỏng lởn vởn bám vào cửa kính. Dần dần các ô cửa kính phủ một lớp băng mỏng như bánh cuốn làm cho các cửa sổ mờ hẳn đi. Lớp matit xung quanh các khung cửa kính bị nứt ra vì lạnh, đôi chỗ bong ra, rơi xuống bệ cửa sổ loang lổ vết mực. “Có lẽ ở Sri Lanka người ta chẳng cần đến matit, - cậu nghĩ. - Dùng vào việc gì được! Vì cửa sổ cũng chẳng cần, mà ngay cả nhà ở cũng chẳng cần nốt. Chỉ cần làm một túp lều nhỏ, lấy lá cây phủ lên, thế là sống được rồi”.
Gió cứ đều đều lùa từ cửa sổ vào, nghe rõ từng tiếng rít khe khẽ qua các kẽ hở giữa những khung kính nên phía bên phải cửa sổ lạnh lắm. Nhưng cũng phải chịu thôi. Chính cô giáo Inkaman-apai đã xếp Xuntanmurat ngồi chỗ đó ngay cạnh cửa sổ: “Em là người khỏe nhất lớp, - cô giáo giải thích. - Em mới
chịu được”. Hồi trời chưa lạnh, Myrzagun vẫn ngỗi chỗ này, bây giờ cô giáo đã phải chuyển cho bạn ấy chỗ ngồi của Xuntanmurat, ít bị gió lùa hơn. Nhưng tốt nhất là cô giáo cứ xếp cho Myrzagun ngồi cùng một bàn bên cạnh cậu thì hơn, vì đằng nào cậu cũng ngồi phía ngoài và hứng hết phần gió cho Myrzagun khỏi bị lạnh rồi còn gì nữa. Còn bây giờ, cứ đến giờ ra chơi, mỗi khi cậu đến gần, cô bạn lại đỏ mặt lên. Myrzagun đối xử với cậu cũng như với các bạn khác, thế mà vừa thấy cậu bước đến, cô ta liền đỏ mặt lên rồi bỏ chạy ra chỗ khác. Mà cũng không thể đuổi theo Myrzagun được, các bạn sẽ cười ngay. Những cô bạn cùng lớp có thể sẽ nghĩ ra một trò gì đó để trêu cậu. Biết đâu chúng lại chẳng chuyền tay nhau một mảnh giấy với hàng chữ: “Xuntanmurat + Myrzagun = Eki asuk (1)” Giá được ngồi cạnh nhau có phải hay không nào…
Ngoài cửa sổ gió vẫn thổi ù ù, tuyết vẫn rơi… Vào những ngày đẹp trời từ lớp học có thể nhìn rõ những ngọn núi sừng sững trước mặt. Trường học kề ngay dưới chân núi, cao hơn so với khu làng, chính vì vậy mà từ đây có thể bao quát mọi cảnh vật xung quanh. Những ngọn núi phủ tuyết trắng xa xa trông như một bức tranh vẽ. Còn bây giờ, khó mà phân biệt nổi hình dáng ảm đạm của chúng trong màn tuyết mờ đục.
Hai chân tê cóng, hai bàn tay cũng tê cóng, ngay cả sống lưng cũng lạnh ngắt, ở trong lớp quả thật là rất lạnh. Trước kia, khi chưa có chiến tranh, trong lớp học thường đốt lò sưởi bằng phân cừu khô (2). Phân cừu khô cháy rất đượm, chẳng kém gì than. Còn bây giờ người ta người ta chỉ chở ít rơm đến. Rơm cháy vèo vèo trong lò nhưng chẳng được tích sự gì, lớp học vẫn lạnh ngắt, mà rơm mới đốt khoảng hai ngày đã hết, chỉ làm bẩn lớp.
-----
(1) Eki asuk: Hai người yêu nhau.
(2) Ở một số vùng Trung Á, Liên Xô người ta thường dùng phân súc vật
để đốt thay củi.
Tiếc là khí hậu ở vùng núi Talas không giống như ở các nước nóng bức. Khí hậu mà khác đi hẳn là cuộc sống cũng thay đổi. Chắc cũng có voi và voi thì cũng cưỡi được như cưỡi bò vậy, miễn là đừng sợ. Xuntanmurat sẽ là người đầu tiên cưỡi voi. Cậu sẽ ngồi ngay trên đầu, giữa hai tai như người ta vẫn thường vẽ trong sách rồi đi khắp bản. Khi ấy mọi người vây quanh sẽ phải trầm trồ thán phục: "Nhìn kìa, chạy ra mà xem kia, thằng Xuntanmurat con trai của Becbai đang cưỡi con voi kìa!”. Lúc ấy Myrzagun sẽ nhìn thấy nó và sẽ phải hối tiếc… Cứ tưởng mình là hoa khôi thì không ai được phép đến gần cơ đấy! Rồi cậu sẽ nuôi một con khỉ và một con vẹt biết đọc nữa. Cậu sẽ đặt chúng ngồi ở phía sau trên lưng con voi. Chỗ ngồi thì chả thiếu, cả lớp có ngồi lên cũng đủ. Chắc chắn là đứa nào trong lớp cũng khao khát như vậy! Cậu thừa biết tâm lý các bạn mình.
Xuntanmurat đã tận mắt nhìn thấy một con voi thật. Chuyện ấy thì cả bản ai cũng biết. Cậu lại còn nhìn thấy cả một con khỉ và những loài thú khác nữa. Cả bản đều biết chuyện này vì nó đã kể đi kể lại cho mọi người nghe bao nhiêu lần. Đúng là lần ấy nó đã gặp may…
Cái chuyện đáng ghi nhớ trong đời ấy xảy ra trước khi có chiến tranh khoảng một năm. Dạo ấy là mùa hè, đúng vào vụ cắt cỏ. Năm ấy, ông Becbai bố cậu đang làm việc vận chuyển nhiên liệu từ thành phố Dzhambul đến kho
dầu của trạm cơ khí kỹ thuật. Nông trang nào cũng phải cung cấp phương tiện để vận chuyển nhiên liệu. Bố cậu thường nói đùa rằng ông “có giá” lắm, bố không phải là một người đánh xe bình thường mà được quý như vàng vì nhờ có bố cùng với cặp ngựa và chiếc xe kéo của ông mà nông trang đã nhận được khối tiền ở ngân hàng. Chả thế mà ông kế toán vừa nhìn thấy bố đã phải vội vàng xuống ngựa chào hỏi…
Chiếc xe ngựa của bố được sửa lại thành xe chuyên chở dầu lửa. Thùng xe không có, vẻn vẹn chỉ có bốn bánh với hai chiếc thùng phuy bằng sắt nằm lọt
thỏm giữa các tấm đệm, còn ở phía trước là chỗ ngồi của người đánh xe. Toàn bộ chiếc xe chỉ có thế. Chỗ ngồi ở đằng trước hai người có thể ngồi vừa, thêm người thứ ba thì không thể nhét nổi. Cặp ngựa của bố thuộc loại tuấn mã đặc biệt, vừa khỏe vừa đẹp trong bộ yên cươngcủa bố!
Cả hai con đều là ngựa thiến, một con màu xám tro tên là Chabdar và con kia màu tía tên là Chontoru. Bộ đồ thắng rất tốt, vừa khớp với chúng. Những chiếc vòng cổ ngựa và dây đai làm bằng da bò non được tẩm nhựa cẩn thận, tha hồ giật cũng không dứt. Nếu không chu đáo như thế thì khó lòng thực hiện nổi những chuyến đi dài ngày. Trong công việc, bố là một người cẩn thận và ưa thích mọi cái phải chắc chắn. Bao giờ bố cũng dong ngựa đều bước. Những lúc con Chabdar và Chontoru chạy nhịp nhàng, bờm dựng lên giống như hai con cá đang bơi, trông thật thích mắt! Mọi người từ xa thường nhận ra bố ngay qua tiếng gõ đều đặn của bánh xe: “Becbai đi Dzhambul đấy!”. Một chuyến vừa đi vừa về mất đúng hai ngày. Mỗi lần trở về trông bố vẫn bình thường như chưa hề phải vượt qua một chặng đường dài hơn một trăm cây số. Mọi người ngạc nhiên: “Chiếc xe của ông Becbai cứ như là tàu hỏa bon trên đường ray ấy!”. Họ ngạc nhiên không phải là không có lý do. Nếu cặp ngựa bị mệt hoặc lười biếng thì chỉ cần nghe tiếng bánh xe lăn cũng đủ biết. Khi một cỗ xe ngựa như vậy đi ngang qua, ai nhìn thấy cũng phải đau lòng. Thế mà cặp ngựa của bố trông lúc nào cũng sung sức. Có thể chính vì vậy mà nông trang đã giao cho bố những chuyến hàng quan trọng nhất.
Thế rồi năm kia, khi vừa bắt đầu nghỉ hè, bố nói:
- Con có muốn theo bố lên tỉnh không?
Nghe bố nói vậy, Xuntanmurat sướng như điên. Chà, còn gì bằng nữa! Sao bố lại đoán biết được từ lâu cậu rất muốn có dịp được lên tỉnh chơi nhỉ? Từ bé đến giờ cậu đã được ra đến thành phố đâu! Thật là tuyệt!
- Chỉ có điều phải giữ mồm giữ miệng, đừng làm ầm lên. - Ông bố âu yếm
dọa con trai. - Nếu không mấy đứa em mày sẽ nổi loạn bây giờ, khi ấy thì đừng hòng mà đi đâu.
Bố dặn trước như vậy, đúng quá! Thằng Adzhimurat nhỏ hơn cậu ba tuổi nhưng ngang bướng như một con lừa và không bao giờ chịu thua anh trong bất cứ chuyện gì. Mỗi khi bố ở nhà là nó bám riết lấy ông, tranh hết phần âu yếm, làm như trong gia đình chỉ có mỗi mình nó, ngoài ra chẳng có ai hết. Hai đứa em gái, khi ấy còn nhỏ thành ra muốn được bố âu yếm chỉ còn có cách là khóc toáng lên. Ngay cả những người láng giềng cũng không sao hiểu nổi sự quyến luyến quá đáng của thằng con thứ đối với người cha. Bà lão Aruukan người gầy gò, khô đét, giọng nói the thé cả làng ai cũng sợ đã vài lần vừa túm tai Adzhimurat bằng những ngón tay xương xẩu, vừa đe:
- Ôi, mày cứ bám lấy bố như vậy thì chẳng tốt lành gì đâu, thằng lỏi con ạ! Rồi sẽ xảy ra một tai họa gì đấy cho mà xem. Có đời thuở nhà ai, con trai mà cứ đeo riết lấy bố như vậy trong khi bố mày vẫn còn đang sống sờ sờ ra đấy! Con cái gì mà lạ lùng thế không biết. Ôi, mọi người cứ nhớ lấy lời tôi,
chính thằng oắt này sẽ làm cho chúng ta phải điêu đứng đấy!
Mẹ lầm bầm trách móc, nhổ nước bọt rồi bợp cho Adzhimurat mấy cái nhưng không dám ngắt lời bà lão Aruukan. Ai cũng phải sợ bà ấy.
Té ra những lời nói của bà lão Aruukan thế mà đúng. Mọi việc xảy ra y như thế. Tội nghiệp cho Adzhimurat. Nó đã lớn, học lớp ba rồi. Nó thường tránh mặt mọi người và cố giữ vẻ mặt bình thường nhất là khi có mặt mẹ, vậy mà trong thâm tâm nó vẫn thầm mong không hôm nay thì ngày mai bố sẽ từ mặt trận trở về. Trước khi đi ngủ nó thầm thì cầu nguyện như một người lớn: “Cầu trời, cầu trời, ngày mai bố về”. Mà ngày nào cũng thế, thằng bé lạ thật. Nó cứ nghĩ rằng ngủ dậy là tất cả mọi chuyện sẽ thay đổi, phải có một điều gì đó xảy ra.
Nhưng nếu sau chiến tranh bố có trở về thật thì Xuntanmurat cũng chấp
nhận bố sẽ hoàn toàn thuộc về Adzhimurat, mặc sức cho bố bế nó trên tay hay cho nó ngồi trên cổ. Miễn là bố trở về. Miễn là được nhìn thấy bố lành lặn, khỏe mạnh. Đối với Xuntanmurat thì niềm hạnh phúc ấy đã quá lớn rồi. Miễn là bố trở về.
Cậu ước giá bây giờ bố được trở về như sau lần bố đi dân công tham gia công trình thủy lợi đào kênh Chuiski vào mùa hè năm kia, thì có phải tuyệt không. Hồi đó, suốt năm tháng liền, từ đầu hè cho đến cuối thu bố chuyên vận chuyển đất ở công trường và cuối đợt bố được phong danh hiệu Lao động tiên tiếnXtakhanov (1).
Lần ấy bố trở về vào lúc chiều tối. Mọi người trong nhà bỗng nghe thấy tiếng bánh xe lọc cọc ngoài sân, tiếng ngựa thở phì phì. Đám trẻ con chạy ra. Bố! Trông bố có gầy hơn một chút, da rám nắng như một người Di-gan. Quần áo trên người bố, như sau này mẹ nói, chẳng khác gì một kẻ hành khất, chỉ có đôi ủng bốc-can là còn mới. Adzhimurat là đứa đầu tiên chạy đến, nhảy lên ôm chặt lấy cổ bố và không rời ra nữa. Nó òa lên khóc, nghẹn ngào và cứ lặp đi lặp lại:
- Ata, atake, ata, atake (2)…
-----
(1) Danh hiệu lao động xã hội chủ nghĩa mang tên người Anh hùng Lao động Xtakhanov.
(2) Atake: Bố yêu quý.
Bố ôm chặt lấy nó rưng rưng nước mắt. Ngay lúc ấy hàng xóm đổ xô đến và khi nhìn thấy cảnh ấy mọi người cũng không cầm được nước mắt. Còn mẹ, bối rối vì mừng quá và cứ chạy quanh hai cha con, định kéo Adzhimurat ra:
- Mày thả bố ra xem nào! Thôi, đủ rồi, còn để cho đứa khác nữa chứ. Đúng là thằng bé ích kỷ. Trời đất ơi, xem kìa, bà con đến thăm hỏi đầy sân rồi kìa…
Thế mà thằng bé vẫn cứ bám riết lấy bố nó.
Xuntanmurat cảm thấy như có cái gì đang chẹn nơi cổ, nghẹn ngào, miệng khô khốc. Thế mà cậu đã từng nói cậu sẽ không bao giờ khóc vì bất cứ chuyện gì. Cậu cố tự chủ… Xuntanmurat bỗng như tỉnh giấc.
Vẫn đang trong giờ học. Cô giáo Inkaman-apai đang kể về hòn đảo Java, đảo Borneo, về châu Úc, vẫn là những miền đất kỳ diệu, quanh năm chỉ có mùa hè. Lại những con cá sấu, những con khỉ, những cây dừa và biết bao sinh vật kỳ thú khác. Rồi đến chuyện loài chuột túi - đúng là một con thú kỳ lạ! Chúng bỏ con vào một cái túi đeo nơi cổ và thế là mẹ con lúc nào cũng bên nhau, muốn nhảy đi đâu mà chẳng được. Quả thật chỉ có những con chuột túi, hay nói cho đúng hơn là chỉ có thiên nhiên mới nghĩ ra những điều lý thú như vậy…
Riêng chuột túi thì nó chưa bao giờ nhìn thấy. Cái gì chưa nhìn thấy thì phải thừa nhận là chưa nhìn thấy. Kể cũng tiếc thật. Nhưng voi, khỉ và những thú vật khác thì nó đã nhìn tận mắt, gần đến nỗi chỉ cần vươn tay ra là chạm vào chúng…
Cái hôm mà bố nói, sẽ cho Xuntanmurat đi theo vào thành phố, cậu sung sướng đứng ngồi không yên, thần kinh căng thẳng quá mức vì sốt ruột và thích thú, nhưng bực nhất là không được nói điều ấy với ai cả. Nếu Adzhimurat biết được chuyện này chắc chắc nó sẽ la hét ầm ĩ: Tại sao bố cho Xuntanmurat đi mà lại không cho con? Lúc ấy thì còn biết nói sao? Chính vì thế mà trong niềm sung sướng thầm lặng, trong sự chờ đợi cuộc du lịch vào sáng ngày mai, Xuntanmurat cảm thấy như mình có lỗi với em trai. Mặc dù vậy nó vẫn muốn kể cho mấy đứa em biết về cái sự kiện trọng đại sắp tới. Nó
rất muốn tiết lộ điều bí mật ấy, nhưng bố và đặc biệt là mẹ đã nghiêm khắc dặn đi dặn lại là không được hé răng. Khi nào nó lên đường rồi thì mấy đứa em biết cũng được, như thế sẽ tốt hơn. Xuntanmurat phải cố gắng lắm mới
kiềm chế được bản thân, mới giữ nổi được điều bí mật ấy. Cậu thấy khốn khổ tưởng như chết đi được vì điều đó. Để bù lại, chưa có khi nào cậu lại trở nên chăm chỉ, ân cần, chu đáo và tốt bụng với tất cả mọi người như trong ngày hôm đó. Cậu sẵn sàng làm tất cả mọi việc, không nề hà. Nào là dùng dây thòng lọng bắt con bê dẫn đi chăn chỗ khác, nào là vun khoai tây trong vườn, nào là giúp mẹ giặt giũ quần áo, nào là tắm rửa cho đứa em bé nhất khi nó ngã vào vũng nước và còn bao nhiêu việc khác nữa. Nói tóm lại, trong ngày hôm ấy cậu đã cố gắng hết mức đến nỗi mẹ phải bật cười, lắc đầu thốt lên:
- Mày làm sao thế? - Mẹ cố nhịn cười. - Lúc nào mày cũng như thế này thì mẹ sung sướng biết bao! Không biết có phải là điềm gở không! Hay là thôi, không cho mày vào thành phố nữa. Thiếu một tay giúp việc tốt như thế này mẹ cũng tiếc lắm.
Nhưng đấy là mẹ chỉ vui miệng nói thế thôi chứ chính mẹ đã nhào bột, nướng bánh mì dẹt và chuẩn bị các thứ thực phẩm khác cho hai cha con đi đường. Mẹ còn nấu bơ đổ vào chai. Món này cũng để cho hai bố con mang theo.
Buổi chiều, cả gia đình quây quần xung quanh ấm nước Samovar đặt dưới gốc táo cạnh con mương, uống trà với kem chua và bánh mì dẹt nóng hổi. Bố ngồi giữa đám trẻ, một bên là Adzhimurat, bên kia là mấy đứa em gái. Mẹ rót trà, còn Xuntanmurat sắp đặt những chiếc bát và bỏ thêm than vào ấm
Samovar. Cậu tỏ ra rất thích khi được làm những việc ấy. Vừa làm cậu vừa nghĩ đến việc ngày mai cậu đã có mặt ở thành phố. Bố đã hai lần nháy mắt với cậu. Đúng là bố đã chơi cho thằng emmột vố.
- Thế nào Adzhike (1)- Sau khi hớp một ngụm trà, bố quay sang phía nó hỏi. - Con đã cưỡi chú lừa bờm đen của mình lần nào chưa?
-----
(1) Adzhike: Tên gọi âu yếm của Adzhimurat.
- Chưa ạ! - Adzhimurat phàn nàn. - Con lừa ấy ranh ma lắm. Con cho nó ăn, cho nó uống, thế là nó cứ bám theo con như con chó ấy. Có một lần nó còn theo con đến trường nữa, cứ đứng dưới cửa sổ chờ cho đến khi con ra chơi, cả lớp đều nhìn thấy. Thế mà cứ ngồi lên lưng nó là nó lại đá hậu…
- Thế không có ai giúp con tập cưỡi nó á? - Bố giả vờ hỏi lại. - Con sẽ giúp Adzhike. Nhất định sẽ cưỡi được…
- Hu-ra! - Thằng em trai bật dậy. - Nào đi ngay đi.
- Ngồi yên đấy! - Mẹ ngăn lại. - Ngồi yên đấy và đừng có bắng nhắng. Uống trà xong xuôi đã, đi đâumà vội.
Đấy là mọi người đang nói đến con lừa hai tuổi của Adzhimurat. Mùa xuân năm ấy, cậu Nurgazy đã tặng cho bọn trẻ con lừa này. Đến mùa hè thì con lừa đã lớn phổng lên. Đã đến lúc phải huấn luyện con vật tai dài này và cho nó tập làm quen với cái yên và công việc. Trong công việc gia đình, một chú lừa nhỏ bao giờ cũng cần thiết - nào là chở lúa đến cối xay, nào đi lấy củi hoặc chở những thứ lặt vặt khác. Chính vì thế mà cậu Nurgazy đã tặng nó cho bọn trẻ. Ngay hôm đầu tiên Adzhimurat đã nhận con lừa về mình. Thằng bé bướng bỉnh và nghịch ngợm chăm sóc cho con lừa cẩn thận đến mức không cho ai đến gần. Hơi một tí là nó hét ầm lên: Không được đụng đến con lừa! Tự em sẽ cho nó ăn, cho nó uống. Đã có lần hai anh em đánh nhau vì nó. Lúc đó mẹ đã nện cho thằng anh một trận vì con lừa được coi như của thằng em. Từ dạo ấy đến nay, Xuntanmurat vẫn còn tức. Đến khi cần phải huấn luyện con lừa thì nó gạt phăng: Nếu là lừa của mày thì mày tự lo lấy, đừng nhờ tao, tao không có liên quan gì đến nó hết. Mặc dù trong chuyện này Xuntanmurat
là một tay lành nghề. Ngay từ nhỏ nó đã quen với việc này và bây giờ thành thạo lắm rồi. Nó thích trị những con vật bướng bỉnh. Công việc ấy giống như một cuộc đọ sức xem ai thắng ai. Tất cả lũ ngựa, bê và lừa non của hàng xóm đều do một tay nó trị cả. Thông thường công việc vực súc vật non thường giao cho một trong số những đứa trẻ tháo vát vì không phải bất cứ chuyện gì người lớn cũng làm được. Người ta đến nhờ Xuntanmurat với lời yêu cầu hết sức nhã nhặn: “Xuntanmurat, cháu tranh thủ thời gian vực hộ con bò tơ của ta nhé”, hay là: “Xuntanmurat, cháu hãy giúp cho chú lừa con bướng bỉnh của ta trở nên biết điều một chút nhé! Nó không chịu cho thằng Mukhe nhà này ngồi lên lưng, không những thế lại còn cắn, còn đá mới khiếp chứ. Ngoài cháu ra, không có ai có thể làm được việc này cả…”
Xuntanmurat đã đạt được đến đỉnh vinh quang như vậy đấy, thế mà cậu lại từ chối giúp cho em mình, đã thế lại còn mỉa mai, châm chọc khi thằng em hai lần bị lộn cổ từ trên lưng lừa xuống đất, sưng cả trán.
- Nó chỉ chạy theo mày như con chó thôi! Mày sẽ khóc chán với nó!
Chà, đúng là cư xử như vậy thật chẳng đẹp mặt tí nào. Chỉ đến lúc bố nói bóng gió nó mới hiểu ra điều ấy. Nó đúng là một thằng ngốc khi trả thù em mình một cách hèn hạ như vậy. Bây giờ trước chuyến đi vào thành phố mà thằng em không hề biết, nó đã bị lương tâm cắn rứt và cảm thấy hối hận vô cùng. Xuntanmurat sẵn lòng xin lỗi, sẵn lòng làm tất cả mọi việc cho em.
Uống trà xong, Xuntanmurat đi với bố ra bãi cỏ sau vườn rau. Trước tiên, hai cha con nhặt hết những hòn đá, ném ra xa rồi sau đó đóng yên cho con Bờm Đen - Adzhimurat thường gọi con lừa của mình một cách trịnh trọng như vậy. Bố giữ tai con Bờm Đen còn cậu nhanh nhẹn thắng cương cho nó.
Xuntanmurat thắt lại dây cương cho chặt, công việc không hề đơn giản, và ngay lúc ấy những tiết mục xiếc bắt đầu. Sau một thời gian dài sống tự do thoải mái dưới sự bảo trợ của Adzhimurat, con Bờm Đen đã kịp học được
những thói ngang ngược. Vừa thấy có người động đến lưng, nó liền tung hai chân sau đá hậu rồi chổng mông lên, nhảy phắt sang một bên. Chú lừa con đã biết cách hất chàng kỵ sĩ xuống đất. Nhưng chuyện ấy đâu phải dễ dàng. Vừa chạm người xuống đất, Xuntanmurat đã bật ngay được lên trên lưng con Bờm Đen, cậu áp bụng vào lưng nó và bằng một động tác tiếp theo cậu đã ngồi ngay ngắn trên yên. Con vật lại nổi xung, lại ngã, lại bật dậy…
Xuntanmurat thực hiện tất cả những động tác ấy một cách thành thạo với vẻ thích thú. Vấn đề là ở chỗ phải biết cách ngã! Tại sao người ta vẫn thường nói ngã từ trên lưng lừa xuống còn nguy hiểm hơn là từ trên lưng ngựa hay lạc đà, mà đáng lý ra phải ngược lại mới đúng. Bí quyết chính là ở chỗ khi ngã, người ta phải có thời gian để kịp chống hai tay xuống đất trước. Khoảng cách từ trên lưng ngựa hoặc từ trên lưng lạc đà xuống đến đất cho phép người ta có thể định hướng một cách dễ dàng. Trong khi đó, từ trên lưng lừa, người kỵ sĩ không có kinh nghiệm thường rơi xuống như một bao gạo, không kịp định thần…
Xuntanmurat biết rõ điều đó qua kinh nghiệm bản thân, nên cậu chẳng sợ gì hết. Mọi người cười đùa, la hét ầm ĩ. Ngay cả bố cũng ôm bụng cười ngặt nghẽo đến chảy cả nước mắt. Bọn trẻ nghe tiếng ồn ào liền đổ xô ra xem. Trong số đó có một thằng bé mang theo một chú chó con. Con chó nghĩ rằng mình cũng phải có trách nhiệm tham gia vào cảnh nhốn nháo ấy, bèn sủa ầm lên và chạy theo con Bờm Đen làm cho con lừa hoảng sợ lại càng tiến nhanh hơn. Xuntanmurat được dịp trổ tài trình diễn những ngón nghề điêu luyện của chàng kỵ sĩ như các hội viên của Hội hỗ trợ xây dựng ngành hàng không và hóa chất làm cho bọn trẻ trố mắt thán phục. Cậu nhảy từ lưng con Bờm Đen xuống rồi bay lên lưng nó trong lúc nó đang chạy, cứ thế liên tục.
Trước chiến tranh, các kỵ binh hội viên Hội Hỗ trợ xây dựng ngành hàng không và hóa chất thường tập luyện ở bãi cỏ bên cạnh trụ sở Xô Viết xã. Còn các chàng kỵ sĩ của bản thường tập luyện vào buổi chiều, sau giờ làm việc.
Họ vừa cho ngựa phi nước đại vừa tập chém những cành liễu, vừa chạy vừa nhảy lên lưng ngựa rồi lại nhảy xuống. Các chiến sĩ xuất sắc được thưởng huy hiệu. Những chiếc huy hiệu thật là đẹp, có giây đeo hoặc có kim gài. Bọn trẻ đứng xem mà thấy thèm. Mỗi khi họ luyện tập bao giờ bọn trẻ cũng tụ tập đông nghịt đến xem. Không biết bây giờ các chàng kỵ binh ấy đang ở nơi đâu? Trên lưng ngựa hay trong chiến hào? Nghe nói bây giờ trong chiến tranh người ta không dùng kỵ binh nữa…
Vừa liếc nhìn ra sân qua cửa sổ Xuntanmurat vừa nghĩ, mùa đông lũ ngựa có thể bị rét cóng còn xe tăng thì chẳng sợ gì giá rét, nhưng dù sao ngựa vẫn hơn chứ!
…Chiều hôm ấy, mọi người được một bữa cười vỡ bụng, nhưng chỉ một lát sau con Bờm Đen đã phải chịu quy phục. Nó đã hiểu ra người ta muốn gì ở nó: Lúc nào thì đi bước một, lúc nào thì chạy nước kiệu, lúc nào thì đi vòng tròn, còn lúc nào thì đi thẳng…
- Nào, bây giờ mày ngồi lên đi. - Xuntanmurat gọi em. - Ngồi lên, không có chuyện gì nữa đâu!
Adzhimurat đỏ bừng mặt vì thích thú, nó dùng hai gót chân thúc con Bờm Đen đi loanh quanh. Bây giờ mọi người đều thấy rõ là agai (1)của nó tài ba đến thế nào. Sao lại không tự hào về một người anh như vậy được nhỉ!
-----
(1) Anh trai.
Trời chiều hôm ấy trong vắt, mãi vẫn chưa tối, mọi người trở về nhà mệt mỏi nhưng rất hài lòng, Adzhimurat chễm chệ ngồi trên con Bờm Đen tiến thẳng vào sân khoe với mẹ.
Adzhimurat lăn ngay ra giường ngủ mê mệt, không hề nghi ngờ một điều
gì. Nhưng Xuntanmurat không sao ngủ được. Cậu cứ nghĩ miên man đến việc ngày mai cậu đã có mặt trong thành phố, sẽ nhìn thấy những gì và những điều kỳ diệu nào đang chờ đón cậu ở đó. Khi bắt đầu mơ màng cậu còn nghe tiếng bố mẹ thì thầmvới nhau:
- Tôi định mang cả thằng em đi nữa, có anh có em hai đứa sẽ vui hơn. - Bố nói. - Chỉ có điều là không đủ chỗ trên cái xe ngựa quái quỷ ấy. Phải ngồi ngay ở đằng trước, sát chiếc thùng phuy mà đường thì dài, thằng bé có thể ngủ quên, rơi xuống bánh xe thì khốn.
- Thôi, ông ạ! - Mẹ tỏ vẻ sợ hãi. - Lạy trời phù hộ, ông đừng nghĩ đến chuyện cho cả hai anh em nó đi làm gì, một đứa đi thôi. - Mẹ nói tiếp giọng thì thầm: - Để lần sau cho thằng cu em đi cũng được. Ông nhớ phải cẩn thận
đấy, đừng có lúc nào rời mắt khỏi con. Con mình lớn xác thật đấy, nhưng ngoài thành thị nó khác…
Xuntanmurat thiếp đi trong một giấc ngủ ngọt ngào, văng vẳng bên tai giọng nói đầy sự quan tâm của bố mẹ. Thật là dễ chịu khi nghĩ rằng từ mờ đất sáng mai cậu sẽ lên đường cùng với bố…
Và khi đã thiếp đi rồi cậu vẫn còn cảm thấy như mình đang bay lên. Cảm giác ấy gây cho cậu một sự thích thú đến lặng tim. Thật kỳ lạ, không hiểu tại sao cậu lại biết bay nhỉ? Con người chỉ có thể biết đi, biết chạy, biết bơi, thế mà cậu lại bay được mặc dù cũng không hoàn toàn giống như chim. Chim thì phải đập cánh vậy mà cậu chỉ việc dang tay ra, hơi động đậy đầu ngón tay một tí. Cậu bay nhẹ nhàng, thoải mái, không hiểu là mình đã cất cánh từ đâu và sẽ bay về đâu trong khoảng không gian tĩnh lặng “như đang mỉm cười” với mình… Có thể đó là linh hồn của cậu đang bay hay có thể là cậu lớn phổng lên trong giấc mơ.
Xuntanmurat giật mình tỉnh dậy khi bố chạm vào tay, vào vai và nói nhỏ vào tai cậu:
- Dậy đi Xuntanmurat, chúng ta đi thôi.
Và trước khi tỉnh dậy hẳn, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, Xuntanmurat cảm thấy trong lòng bỗng dâng lên một tình cảm trìu mến và biết ơn đối với bố qua những lời bố nói, qua động tác bố khẽ dụi bộ râu cứng của mình vào tai cậu. Lúc ấy cậu đâu có ngờ rằng sẽ đến một lúc nào đó, cậu sẽ nhớ lại cảm giác khoan khoái khi bố nhẹ nhàng dụi bộ râu của bố vào tai cậu cùng với câu nói “Dậy đi, Xuntanmurat, chúng ta đi thôi”, với một nỗi đau đớn xót xa và một nỗi buồn da diết.
Mẹ đã dậy từ lâu. Bà đưa cho đứa con trai chiếc áo sơ mi đã giặt sạch sẽ, đội lên đầu nó chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây hơi rộng mà bố mang về hồi năm ngoái sau chuyến đi dân công làm thủy lợi ở công trường kênh đào Chuiski. Chiếc mũ giống như các ông thủ trưởng vẫn hay đội. Sau đó, mẹ đưa cho nó đôi giày vải, đôi giày cũng do bố mang về từ chuyến đi ấy.
- Con đi đôi giày này xem nào, không bó chân chứ? Mẹ hỏi.
- Không, không bó đâu mẹ ạ. - Xuntanmurat trả lời, mặc dù đôi giày hơi chật một tí. - Cũng chẳng hề gì, nó sẽ giãn ra thôi.
Khi hai cha con ra khỏi sân và chia tay với mẹ và khi chiếc xe ngựa chở dầu kêu cọt kẹt băng qua con mương lớn hai bên bờ ốp đá, Xuntanmurat bỗng cảm thấy tim đập thình thịch. Nó rùng mình, co người lại vì thích thú và cũng bởi những giọt nước lạnh bắn lên. Nó hiểu rằng giờ đây không còn là giấc mơ nữa mà là nó đang được đi vào thành phố thật.
Rạng đông đang hửng dần, rọi những tia nắng vàng trong suốt lên cảnh vật mùa hạ. Mặt trời vẫn còn lấp ló đâu đó sau những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng, nhưng nó đang nhích dần lên, chuẩn bị nhô ra khỏi rặng núi. Sau đêm, con đường ẩm ướt, mát dịu và yên tĩnh. Tiếc là lúc này không có đứa bạn nào nhìn thấy nó đang cùng đi với bố ra khỏi bản. Chỉ có những con chó vẫn còn
đang mơ ngủ sủa lăng nhăng theo tiếng gõ lọc cọc của bánh xe…
Con đường chạy men theo chân núi vươn thẳng ra thảo nguyên, mất hút dần sau những dãy núi chập chùng màu tím nhạt. Phía sau những rặng núi ấy là thành phố Dzhambul, cái đích cuộc hành trình của họ.
Những con ngựa no nê chạy nước kiệu nhẹ nhàng như không hề biết đến những sợi dây cương và cỗ xe, thỉnh thoảng theo thói quen lại khịt phì phì, lúc lắc túm bờm trán. Đối với chúng, con đường quá quen thuộc vì chúng đã bao lần đi lại. Ông chủ vẫn ngồi ở vị trí của mình, tay nắm chặt dây cương, còn chú bé ngồi bên cạnh cùng là người nhà và chẳng làm phiền chút nào.
Họ cứ đi như thế, bánh xe lăn đều đều phát ra những tiếng kêu cọt kẹt cũng giống như tất cả những chiếc xe ngựa khác trên trái đất này. Trong khi đó, mặt trời cứ lên cao dần giữa hai đỉnh núi, bình thản rọi những tia nắng vàng ấm áp xuống lưng những con ngựa ướt đẫm mồ hôi làm cho màu lông con Chabdar trở nên xám hơn giống như màu trứng chim cút, còn màu lông con Chontoru lại trở nên sáng hơn, biến thành màu hồng nhạt. Ánh nắng ấm áp chiếu lên gò má màu đồng hun của bố làm cho những vết nhăn nơi khóe mắt như sâu hơn, còn cánh tay đang cầm sợi dây cương nổi lên những bắp thịt gân guốc, rắn chắc; ánh nắng ấm áp như một dòng thác sống động ào ạt tỏa lên khắp con đường đang lùi dần dưới vó ngựa; ánh nắng ấm áp mang lại cuộc sống cho tất cả vạn vật trên trái đất.
Vào cái buổi sáng ngày lên đường ấy, một cảm giác khoan khoái, đễ chịu tràn ngập tân hồn Xuntanmurat.
- Thế nào, con tỉnh ngủ rồi chứ? - Bố hỏi đùa.
- Tỉnh lâu rồi bố ạ!
- Vậy thì cầm lấy! - Bố nói và đưa cho cậu sợi dây cương.
Xuntanmurat mỉm cười biết ơn, cậu đã nóng lòng chờ đợi việc này từ lâu. Có thể hỏi bố nhưng tốt hơn là để bố tự cảm thấy có thể tin tưởng trao cho cậu sợi dây cương, bởi lẽ đây chẳng phải là chuyện đùa mà là hai cha con đang tiến hành một cuộc hành trình dài. Dường như cảm thấy dây cương đã được trao cho một người khác, hai con ngựa vẫy vẫy tai, tỏ vẻ không hài lòng. Chúng vừa chạy vừa ép sát vào nhau như muốn nổi loạn có lẽ vì cho rằng quyền lực đã rơi vào tay một kẻ khác, yếu hơn. Nhưng Xuntanmurat lập tức cho chúng biết ngay uy quyền của mình - cậu giật mạnh dây cương và hét to:
- Nào, nào! Tao cho chúng mày biết tay bây giờ!
Nếu như hạnh phúc của con người chỉ có trong hiện tại chứ không hề biết đến quá khứ và tương lai thì chính trong ngày hôm ấy, trong chuyến đi vào thành phố, Xuntanmurat đã hưởng một niềm hạnh phúc trọn vẹn. Không có giây phút nào, không có một điều gì có thể làm cho tinh thần của cậu trở nên u ám. Ngồi bên cạnh bố, cậu cảm thấy một niềm tự hào chính đáng và niềm tự hào ấy không lúc nào mất đi trong suốt chặng đường. Tiếng động ầm ĩ của chiếc xe chở dầu có thể làm cho một đứa khác phát ngốt lên, nhưng đối với cậu thì đó là những tiếng chuông lảnh lót, ngọt ngào của hạnh phúc. Từng đám bụi cuộn lên phía sau lơ lửng trong không khí; con đường trải dài dưới hai vệt bánh xe, những con ngựa đều đặn gõ nhịp, bộ dây thắng đẫm mùi mồ hôi và mùi nhựa chưng; một đám mây trắng mỏng xốp lửng lơ rất cao trên bầu trời; những búi cỏ đã già đủ màu sắc: Vàng, xanh, tím nhạt, còn đẫm ướt sương đêm; những con mương và những dòng suối nhỏ nước dâng tràn lên cắt ngang đường; những chiếc xe ngựa và những kỵ sĩ phóng ngược chiều; đàn chim én chao lượn, bay đi bay lại quanh xe, có con suýt lao vào mõm ngựa - tất cả cảnh vật ấy tự thân nó đã chứa đựng một niềm hạnh phúc và một vẻ đẹp kỳ diệu. Nhưng Xuntanmurat không hề nghĩ đến những điều đó. Có mấy ai nghĩ đến hạnh phúc khi hạnh phúc đang ở trong tay. Cậu nghĩ rằng thế giới phải được tạo nên như vậy, không thể tốt hơn được nữa. Cũng như bố
cậu, tất nhiên là phải như thế, không ai có thể tốt hơn.
Ngay cả những chú chim nhỏ hai bên cánh có nẹp vàng, đầu đen đậu trên những bụi cây dọc hai bên đường chẳng phải ngẫu nhiên cứ hót đi hót lại mãi một điệu nhạc thánh thót quen thuộc. Những con chim ấy biết rằng mình đang hót cho ai nghe. Chúng biết rằng Xuntanmurat rất yêu chúng. Đó là những chú chim xaraigyr (1). Chúng có tên như vậy bởi lẽ cả đời chúng cứ gọi mãi một con ngựa vàng nào đó bằng tiếng hót của mình: “Chu, chu, xaraigyr! Chu, chu xaraigyr!” Những chú xaraigyr nhỏ xíu kỳ diệu! Nhưng té ra là ở mỗi vùng chúng lại hát bằng những ngôn ngữ khác nhau. Một lần, có một người thợ máy chiếu phim di động đến bản. Đó là một thanh niên người Nga vui tính. Xuntanmurat lẩn quẩn cạnh đấy giúp anh ta chuyển những hộp phim từ trên xe xuống và sau đó đến tối cậu là người đầu tiên được anh ta cho quay chiếc máy phát điện sinh ra dòng điện, còn dòng điện sẽ làm cho những bóng đèn sáng lên. Bóng đèn sẽ chiếu sáng bức tường dùng làm màn ảnh, khi ấy trên màn ảnh sẽ xuất hiện những hình thù chuyển động.
-----
(1) Xaraigyr: Con ngựa màu vàng nhạt, đuôi và bờm màu sáng hơn. Chính lần ấy, người thợ máy sau khi lắng tai nghe liền hỏi nó: - Con chim gì đang hót sau hàng rào đấy, chú em?
- Đó là chim xaraigyr. - Xuntanmurat giải thích cho anh ta. - Nó hót cái gì thế?
- Chu, chu, xaraigyr!
- Thế nghĩa là gì?
- Em không biết. Theo tiếng Nga có lẽ là: “Này, này, con ngựa vàng!”
- Thứ nhất, ngựa không bao giờ có màu vàng, nhưng điều ấy có thể bỏ qua, cứ cho là có đi. Nhưng tại sao lúc nào nó cũng: “Chu, chu, xaraigyr!”
- Tại vì con chim ấy cứ tưởng mình đang cưỡi con ngựa vàng đi dự đám cưới. Đi mãi, đi mãi mà chẳng tới nơi vì thế mà nó gọi: “Chu, chu, xaraigyr!”.
- Thế mà anh lại nghe khác đấy. Hình như con chim xaraigyr ấy đang đánh bài ở ngoài chợ. Suýt nữa thì nó ăn được ba rúp, nhưng chẳng ăn được. Chính vì vậy mà nó cứ hót: “Chút, chút, ăn ba rúp!” Và nó cứ kêu mãi như thế chừng nào chưa ăn được ba rúp.
- Nhưng đến bao giờ thì nó ăn được ba rúp ấy?
- Không bao giờ. Cũng như nó không bao giờ đến được chỗ đám cưới ấy. - Buồn cười thật…
Quả thật, mới nhìn qua con chim ấy chẳng có gì đáng chú ý, thế mà lại rất trứ danh.
Những con chim xaraigyr hót suốt dọc đường. Xuntanmurat mỉm cười với chúng:
- Đi với chúng tôi ra chợ đi. Ở đấy chúng ta sẽ ăn được ba rúp.
Còn chúng thì cứ hót: “Chu, chu, xaraigyr!” Đôi khi lại hót: “Chút, chút, ăn ba rúp!”.
Xuntanmurat đang nóng ruột, muốn đi thật nhanh đến thành phố. Mặt trời đã lên cao trên đỉnh núi. Xuntanmurat thúc đôi ngựa!
- Chu, chu, xaraigyr! - Cậu nói với con Chabdar. - Chu, chu, toraigyr! - Còn câu này cậu nói với con Chontoru.
Bố liền ngăn nó lại:
- Con đừng thúc ngựa chạy nhanh quá. Chúng tự biết phải đi như thế nào. Chạy thì chạy nhưng phảigiữ sức.
- Thế con nào giỏi hơn hả ata (1), Chabdar hay Chontoru?
-----
(1) Ata: Bố (gọi âu yếm).
- Cả hai con đều khá cả, kể cả bước chạy lẫn sức khỏe. Chúng làm việc như những cỗ máy ấy. Chỉ cần phải cho ăn đúng giờ, đầy đủ và chú ý đến bộ đồ thắng là chúng không bao giờ phụ lòng ta. Những con ngựa rất đáng tin cậy. Năm ngoái chúng đã làm việc ở kênh đào Chuiski ngay trên vùng sình lầy. Ở đấy những chiếc xe tải bị chất đầy, lún đến tận trục bánh xe. Đôi khi có những chiếc xe tải bị sa lầy không tiến, không lùi được, có quát tháo thế nào cũng chịu. Thế là họ lại chạy đến gặp bố xin giúp một tay. Chẳng nỡ nào từ chối được! Bố dắt con Chabdar và con Chontoru của mình đến, thắng vào cỗ xe bị lầy. Mà con thấy đấy, ta vẫn gọi chúng là súc vật thế mà chúng khôn ra phết. Chúng hiểu ngay là không phải tự nhiên mà người ta lại thắng chúng vào một cỗ xe lạ, cần phải giúp đỡ người khác. Bố chẳng phải dùng đến roi, chỉ quát một tiếng và thế là ơn Chúa phù hộ, miễn là sợi dây thẳng không đứt, hai con ngựa lết trên đầu gối lôi bật chiếc xe lên khỏi hố. Khắp công trường Chuiski ai cũng biết đến cặp ngựa nhà mình và ghen tị với bố. Họ nói “Anh thật là may, Bécbai ạ!” Cũng có thể là may, chỉ có điều cứ chăm sóc chu đáo cho chúng thì sẽ gặp may thôi.
Chabdar và Chontoru vẫn cứ đều chân chạy trước kiệu chẳng hề quan tâm
đến những gì mà người ta nói về chúng. Chúng cứ chạy, mồ hôi ướt đẫm bụng và tai, vừa chạy vừa dựng bờm lên vừa xua nhưng con ruồi trên đường.
- Ata, thế con ngựa nào già hơn? - Xuntanmurat hỏi bố, Chabdar hay Chontoru?
- Chontoru lớn hơn ba tuổi. Bố để ý thấy Chontoru đã bắt đầu xuống sức rồi. Đôi khi nó tỏ ra sút hơn. Còn Chabdar đang ở độ sung sức. Nó là một con ngựa khỏe, chạy nhanh. Trong các cuộc đua nó có thể vượt qua nhiều con khác. Những con ngựa như thế này trước kia người ta gọi là kỵ mã.
Xuntanmurat thấy mừng cho Chabdar bởi lẽ nó vẫn thích con Chabdar hơn. Màu lông của nó vẫn đặc biệt - màu xám tro đốm trắng, vóc dáng đẹp đẽ, khỏe mạnh, tính nết cũng hiền.
- Con cũng thích Chabdar hơn. - Xuntanmuratnói với bố. Con Chontoru dữ lắm. Mắt nó nhìn cứgườm gườm.
- Không phải là dữ mà thông minh. - Bố mỉm cười. - Nó không thích bị quấy rầy khi không có việc. - Im lặng một lát bố nói tiếp: - Cả hai con đều giỏi cả.
Cậu con trai đồng ý.
- Cả hai con đều giỏi cả. - Cậu nhắc lại, giơ roi,thúc ngựa.
Im lặng một lát bố lại nói:
- Thôi, kéo căng dây cương cho xe dừng lại đi. - Bố thản nhiên huýt một tiếng thật to, vẻ chờ đợi. - Lũ ngựa muốn đái rồi đấy, nhưng chúng dâu có nói được, cần phải để ý mới biết.
Y như rằng, ngay lúc ấy hai con ngựa thiến bắt đầu đái ồ ồ xuống đường.
Một đám bụi nhỏ mịn như bột sủi bong bóng và dần dần ướt đẫm ngay dưới chân chúng.
Sau đó họ lại tiếp tục lên đường. Con đường vẫn trải về phía trước, còn những ngọn núi lại lùi về phía sau mỗi lúc một xa hơn.
Chẳng mấy chốc đã nhìn thấy những khu vườn của vùng ngoại ô. Đường sá ở đây đã nhộn nhịp hơn. Đến lúc này bố lấy lại dây cương và bố làm thế là đúng: Bây giờ Xuntanmurat chẳng còn để ý gì đến dây cương và lũ ngựa nữa. Thành phố đã dần dần hiện ra ồn ào, sặc sỡ và đủ mùi vị. Có cảm giác như cậu bị ném vào một dòng chảy cuồn cuộn, bị những đợt sóng vật qua vật lại và xoay tròn như chong chóng.
Chính ngày hôm ấy, cái ngày hạnh phúc nhất của đời mình, Xuntanmurat lại gặp may một lần nữa: Ở Atchaba, tại cái chợ lớn chuyên mua bán súc vật của thành phố Dzhambul có một vườn bách thú lưu động vừa mới chuyển đến. Quả là một sự trùng hợp lý thú: một kẻ lần đầu tiên vào thành phố lại đúng vào dịp có vườn bách thú lưu động với những con thú kỳ lạ. Ngoài ra lại còn có đu quay và trò chơi những chiếc gương soi biến dạng (1).
-----
(1)Những chiếc gương lồi, lõm… làm cho hình phản chiếu trong gương bị biến dạng hẳn đi, trở nên rất kỳ quặc, tức cười.
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Xuntanmurat đi qua gian phòng gương cười đến ba lần. Cậu cười chán chê, xong ra ngoài nghỉ một lát rồi quay lại đứng trước những tấm gương biến dạng ma quái. Cái mặt của cậu trong gương trông mới gớm ghiếc làm sao! Cứ nghĩ cả đời cũng chẳng thể nào nghĩ ra một trờ chơi nào thú vị hơn.
Sau khi gửi cỗ xe cho một ông chủ quán trà quen thuộc, bố dẫn Xuntanmurat đi xem khắp chợ. Đầu tiên hai cha con đi thăm những người bạn của bố, những người Uzbek sống ở đây. “Assalam, aleikum (1)! Cháu lớn của tôi đây!”. Ông Becbai giới thiệu con trai với mọi người. Những người Uzbek đứng đậy đặt tay lên ngực chào Xuntanmurat. “Quả là một dân tộc lịch thiệp - bố nhận xét với vẻ hài lòng. - Người Uzbek tôn trọng mọi người như nhau, chẳng cần để ý đến việc con cònnhỏ tuổi…”
-----
(1)Assalam, aleikum: Lời chào của một số dân tộc vùng Trung Á.
Sau đó hai cha con đi đến chỗ những quầy hàng và vườn bách thú lưu động. Họ hòa mình vào trong đám đông nhìn ngó khắp các lồng và các bãi nhốt thú. Nào là voi, gấu, khỉ cộc đuôi, khỉ đuôi dài - thôi thì đủ loại…
Đặc biệt, Xuntanmurat nhớ nhất là một chú voi to màu xám tro, trông như một gò đất sau khi đã cắt cỏ. Nó cứ đổi chân liên tục, chiếc vòi đưa qua đưa lại. Trông đồ sộ khiếp chưa kìa! Mọi người xúm quanh trợn tròn mắt lên nhìn ngó và kể đủ chuyện hoang đường về nó. Nào là voi sợ chuột, nào là không nên chọc tức nó, cầu trời phù hộ, nó sẽ giật đứt xích và giẫm tan thành phố ra từng mảnh vụn. Xuntanmurat thích nhất là câu chuyện của một ông lão người Uzbek. Ông nói rằng voi là giống vật thông minh nhất trong tất cả các loài
vật. Nó có thể dùng vòi bốc những cây gỗ khổng lồ bỏ từ chỗ này sang chỗ khác, giúp con người trong việc khai thác rừng, và cũng cái vòi ấy nó lại có thể nhẹ nhàng nhấc bổng một em bé lên để tránh một con rắn hoặc đề phòng một tai nạn nguy hiểm đến tính mạng của em khi không có người lớn ở bên cạnh.
Những câu chuyện như thế làm bố cũng thích. Ông đứng nghe, lắc lắc đầu, tỏ vẻ ngạc nhiên, thỉnh thoảng lại chậc lưỡi quay về phía cậu con trai và hỏi: “Con thấy không? Trên đời có những điều kỳ diệu như vậy đó!”
Và dĩ nhiên là cậu không quên căn phòng cười.
Ở đấy có thể cười ngay chính bản thân mình bao nhiêu tùy thích…
Xuntanmurat nhìn sang phía Myrzagun. Cô bạn gái ngồi cách cậu mấy bàn. “Giá mà bạn được vào phòng cười nhỉ - nó khoái trá nghĩ. - Lúc ấy thì bạn sẽ phải nói bằng một giọng khác ngay thôi, người đẹp ạ! Chỉ cần bạn nhìn thấy hình dạng của mình trong những chiếc gương biến dạng ấy là bạn sẽ hết làm cao ngay”. Nhưng ngay lúc ấy Xuntanmurat cảm thấy xấu hổ vì những ý nghĩ của mình. Cô bạn ấy có làm điều gì xấu đối với cậu, mà sao cậu cứ hay gây sự với cô ấy thế? Con gái thì đứa nào chả vậy. Tất nhiên là bạn ấy đẹp rồi, đẹp nhất lớp cơ đấy. Thì đã sao, cô ấy có lỗi gì đâu trong chuyện ấy? Lẽ dĩ nhiên là đôi khi cô ta cũng bị những điểm “zaman (1)”.
-----
(1)Zaman: Điểm xấu.
Có một lần trong giờ học cô giáo đã tịch thu của Myrzagun một chiếc gương nhỏ. Cô giáo nói, ở tuổi ấy mà đã chú ý đến sắc đẹp của mình là hơi sớm. Myrzagun đỏ bừng mặt vì xấu hổ, thiếu chút nữa là khóc òa lên. Thế mà nó, không hiểu tại sao, lại cảm thấy tự ái thay cho Myrzagun. Có mỗi cái
gương bé tí xíu, mà biết đâu tình cờ bạn ấy mang theo người thì đã sao…
Xuntanmurat quay nhìn sang phía ấy một lần nữa và cậu bỗng cảm thấy thương hại Myrzagun. Khuôn mặt cô bé tái mét, người co ro vì lạnh, cặp mắt ướt lấp lánh như hai viên cuội dính nước. Có thể bạn ấy đang khóc. Myrzagun cũng có bố và anh trai đang ở mặt trận…
Thế mà Xuntanmurat lại cứ nghĩ những điều không tốt về bạn ấy. Đúng là một thằng ngốc, một thằngngốc chính cống.
Trong lớp có mấy bạn đang lên cơn ho vì cảm lạnh. Hay là mình cũng ho một cái? Nó giả vờ rùng mình ho mấy tiếng, nhăn mặt lại. Thì có sao, cả lớp ho mà nó thì thua kém gì các bạn? Cô giáo Inkaman-apai liếc nhìn nó một cách đầy ý nghĩa rồi lại tiếp tục bài giảng…
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Sau khi xem vườn bách thú và phòng cười, hai cha con đến chỗ bán hàng. Tại đây họ mua mấy món quà. Adzhimurat được một khẩu súng đồ chơi rất đẹp, mới tinh, lấp lánh ánh kim loại, trông cứ như một khẩu súng thật. Hai đứa em gái được mấy quả bóng nhỏ nhiều màu sắc sặc sỡ treo trên sợi cao su. Chỉ cần chạm khẽ vào sợi cao su là những quả bóng bật lên, bật xuống. Hai cha con mua cho mẹ một chiếc khăn quàng và sau đó mua thêm một lô bánh kẹo nữa…
Hai người đi khắp chợ, ngắm nhìn tất cả mọi thứ, chỉ có mỗi đu quay là Xuntanmurat không chơi mà bố cũng chẳng khuyến khích. Bố bảo đó là trò chơi mà cậu thì đã là một chàng kỵ sĩ, hai năm nữa có thể lấy vợ được rồi. Tất nhiên là bố đùa vậy thôi. Họ đứng ở chỗ đu quay xem một lát, sau đó bố giục đi ngay. Phải đến trạm xăng dầu để đong dầu vào thùng phuy và quay trở về, muộn rồi. Đúng như vậy, khi họ đến trạm xăng dầu thì mặt trời đã nghiêng về phía bên kia thành phố. Từ đây họ đi thẳng ra ngoại ô, chỉ dừng lại ở một quán trà dọc đường dùng món cơm trộn thịt rồi đi tiếp.
Mãi đến lúc trời chạng vạng hai cha con mới đi hết những khu vườn vùng ngoại ô theo con đường lúc sáng họ đã vào thành phố. Chiều hè ấm áp, thấm đượm mùi cỏ tươi. Những chú ếch kêu ộp oạp dưới mương dọc theo đường cái. Hai con ngựa bước chậm rãi, đều đặn vì mấy chiếc thùng phuy đã đầy ắp dầu. Xuntanmurat cảm thấy buồn ngủ, hai mắt cậu cứ díp lại. Cậu thấm mệt rồi. Mà sao không mệt trong một ngày như thế. Tiếc là trên xe không có chỗ nào để ngả người ra chợp mắt một lúc. Chà, buồn ngủ làm sao. Xuntanmurat ngả người vào vai bố và thiếp đi không hay biết gì nữa. Thỉnh thoảng cậu tỉnh giấc mỗi khi xe qua những ổ gà rồi lại đắm mình vào giấc ngủ không sao cưỡng lại được. Và cứ mỗi lần trước khi thiếp đi cậu còn kịp nghĩ, rằng thật
là tuyệt khi trên trái đất này có những người bố. Cậu cảm thấy hết sức yên tâm, tin tưởng khi dựa vào bờ vai chắc nịch của bố. Trong khi đó chiếc xe vẫn rầm rầm lăn bánh, phát ra những tiếng cọt kẹt, đôi ngựa đều đặn gõ móng.
Xuntanmurat không nhớ là đã đi được bao lâu. Đột nhiên cậu nhận thấy chiếc xe đã dừng lại. Bánh xe không còn phát ra những tiếng cọt kẹt nữa. Xung quanh im lặng như tờ. Cậu lờ mờ nhận ra bố đang bế mình dậy và mang đi đâu đó.
- Chà, thằng bé lớn nhanh quá, khó mà mang nổi. Nặng lắm rồi. - Bố lẩm bẩm, ép chặt cậu vào ngực mình.
Sau đó bố đặt cậu xuống một đống cỏ, đắp lên người cậu chiếc áo bông rồi nói:
- Con cứ ngủ đi, bố tháo ngựa ra cho chúng điăn đã.
Giấc ngủ ngon đến nỗi Xuntanmurat cũng không buồn mở mắt ra, cậu chỉ kịp nghĩ: Thật là tuyệt khi trên trái đất này có những người như bố…
Sau đó cậu còn tỉnh dậy một lần nữa khi bố cởi giày rồi tháo ra khỏi chân cho cậu. Đôi giày đã bó chân cậu suốt cả một ngày. Không hiểu tại sao bố lại đoán được đôi giày bó chân thế?
Rồi Xuntanmurat lại thiếp đi, cảm thấy một sự thoải mái lan khắp cơ thể, như là mình đang bơi, hoàn toàn phó mặc cho dòng nước. Cậu có cảm giác hình như những làn gió nhẹ đang lướt trên thảm cỏ rộng mênh mông. Cậu chạy trên bãi cỏ ấy, đắm mình trong lớp cỏ mềm mại. Và từ trên cao những ngôi sao lặng lẽ sà xuống bãi cỏ đang rạp mình theo chiều gió. Xung quanh cậu, lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ khác có những ngôi sao sáng nhấp nháy bất thình lình rơi xuống, không hề phát ra tiếng động. Nhưng trong khi cậu chạy
đến thì ngôi sao đã tắt. Cậu hiểu, đó là một giấc mơ. Đôi lúc cậu tỉnh dậy, nghe thấy tiếng những con ngựa bị buộc chân đang bứt những ngọn cỏ non, đi đi lại lại xung quanh đống cỏ khô, kéo theo chiếc hàm thiếc đã được nới lỏng. Cậu biết bố đang ngủ bên cạnh, biết hai cha con đang ngủ trên cánh đồng và chỉ cần mở mắt ra là có thể nhìn thấy những ngôi sao từ trên trời đang sa xuống…
Nhưng Xuntanmurat chẳng muốn mở mắt một chút nào vì giấc ngủ rất ngon. Quá nửa đêm trời se lạnh. Cậu lăn đến nép sát vào người bố. Khi ấy, nửa mê nửa tỉnh bố ôm chặt lấy nó và kéo sát vào người mình.
Trên đường đi, hai cha con đã ngủ một đêm như thế trên cánh đồng sạch sẽ, dưới bầu trời thoáng đãng. Một đêm như vậy chẳng giống chút nào với lúc ở nhà, trên chiếc gối êm…
Sau này thỉnh thoảng Xuntanmurat vẫn còn nhớ lại giấc ngủ dưới màn sao đêm ấy…
Chỉ cách độ vài bước ngay bên cạnh là tiếng chim cun cút thánh thót gọi nhau cho đến tận sáng, chắc hẳn tất cả những chú cun cút trên đời này đều hạnh phúc như nhau.
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
- Xuntanmurat, em làm sao thế? - Cô giáoInkaman-apai bước đến gần bàn cậu và mãi đến lúc ấy cậu mới biết.
- Thưa cô, không có gì ạ. - Xuntanmurat đứng dậy, ấp úng trả lời.
Lớp học vẫn yên lặng và lạnh lẽo như trước. Một vài tiếng cười khúc khích, những tiếng ho quen thuộc.
- Tại sao lúc thì em vô cớ cất tiếng ho, lúc thì không nghe cô hỏi? - Cô giáo Inkaman-apai nói với vẻ không hài lòng, hai vai co ro vì lạnh. - Thôi em ra ngoài hiên ôm rơm vào rồi đốt lò lên cho ấm.
Xuntanmurat nhanh nhẹn đứng dậy đi lấy rơm. Kể ra cũng trái lệ, ít khi trong giờ học cô giáo cho làm những việc như vậy. Thường thì đến giờ ra chơi các bạn trực nhật có nhiệm vụ mang rơm vào lớp và nhóm lò.
Xuntanmurat chạy ra hành lang. Gió tuyết ập ngay vào mặt cậu. Chà, đây chẳng phải là Sri Lanka đâu! Nó chạy băng qua sân đến nhà chứa cỏ và bỗng nhìn thấy ông chủ tịch nông trang Tynaliev đang vội vã xuống ngựa. Ông chủ tịch vốn là một thương binh từ mặt trận trở về, ông còn trẻ lắm, dáng đi vẹo sang một bên vì thiếu mất mấy cái xương sườn. Ông đã từng nhảy dù, những người như vậy gọi là lính dù đổ bộ. Nghe nói trước chiến tranh ông là kỹ sư nông nghiệp. Chuyện ấy Xuntanmurat không nhớ rõ lắm. Đối với cậu, tất cả những gì trước chiến tranh giống như là một chuyện xa lạ của hành tinh khác, cậu không thể tin nổi là có một cuộc sống như vậy trước chiến tranh…
Xuntanmurat quơ bó rơm thật to rồi nhanh chóng quay lại. Cậu lấy chân đẩy cửa ra rồi ôm bó rơm lách vào lớp. Lớp học trở nên ồn ào, náo nhiệt.
- Trật tự, các em chú ý vào đây! - Cô giáo Inkaman-apai nhắc lớp. - Còn em, Xuntanmurat, cứ tiếp tục công việc của mình nhưng đừng có làm ồn.
Trong lò, giữa đám tro vẫn còn một đốm lửa cháy leo lét giống như hơi thở phập phồng của một đứa trẻ nhỏ. Xuntanmurat bỏ một nắm rơm nữa rồi một nắm nữa. Lửa trong lò cháy phừng phừng, lem lém ngốn những nắm rơm nhanh đến nỗi không kịp bỏ vào. Lớp học náo nhiệt hẳn lên.
Xuntanmurat muốn quay về phía các bạn, giả bộ nhăn mặt với một đứa nào đó làm cho nó phải bật cười hoặc dứ dứ quả đấm cho một đứa khác, nhất là đối với thằng Anatai ngồi ở bàn cuối. Anatai là đứa lớn nhất lớp. Nó đã mười lăm tuổi rưỡi và cũng là đứa hay gây gổ nhất. Đã có lần nó cứ lẵng nhẵng bám theo Myrzagun. Thằng ấy thì phải gí nắm đấm vào mặt nó mới đáng: Này, coi chừng đấy! Nhưng Xuntanmurat hiểu rằng không thể làm thế được. Cô giáo rất nghiêm, mà hơn nữa nó cũng không muốn làm cho cô giáo phiền lòng. Thời gian gần đây không hiểu tại sao cô lại không nhận được thư của người con trai duy nhất đang ở ngoài mặt trận, Anh ấy là chỉ huy pháo binh. Cô giáo rất tự hào về anh ấy. Còn chồng cô trước chiến tranh không hiểu tại sao cũng biến đi đâu mất. Hình như có chuyện gì đó không may xảy ra với ông ấy, nhưng cụ thể là chuyện gì thì không ai nói ra. Chính vì vậy mà cô giáo đã đến bản này dạy học. Dạo ấy, anh con trai của cô đang học trường trung cấp sư phạm ở thành phố Dzhambul và từ trường anh đi thẳng ra mặt trận. Chỉ cần thoáng nhìn thấy người đưa thư cưỡi ngựa lấp ló ngoài cửa sổ là cô giáo Inkaman-apai lập tức cho ngay một đứa ra nhận thư. Thằng bé ấy phóng ra sân và nếu có thư nó phóng ngay vào lớp. Về việc đứa nào được vinh dự ra nhận thư cho cô giáo, lớp đã đặt ra luật lệ lần lượt từng đứa một.
Mỗi lần cô giáo có thư là cả một ngày hội lớn! Cô vội vã đọc lướt qua bức thư ngắn ngủi và khi cô ngẩng đầu lên khỏi tờ giấy mọi người đều có cảm tưởng như đó là một người khác hẳn. Không ai có thể dửng dưng khi thấy cô giáo của mình với mái tóc hoa râm quấn gọn gàng trong chiếc khăn choàng
bỗng trở nên sung sướng đến thế và cũng không có trái tim nào không đau thắt lại khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn trên khuôn mặt cô.
- Con trai cô gửi đến các em lời thăm hỏi nồng nhiệt nhất. Agai của các em vẫn sống, vẫn mạnh khỏe và vẫn đang chiến đấu. - Cô cố giữ cho giọng khỏi run nhưng không thể giấu nổi niềm vui của mình. Cả lớp mỉm cười với cô như muốn chia sẻ cùng cô niềm hạnh phúc. Nhưng chỉ một phút sau cô đã nhắc:
- Còn bây giờ, các em ạ, chúng ta tiếp tục học thôi.
Những lúc như vậy giờ học bỗng trở nên thú vị biết bao. Mỗi lời cô nói như được tiếp thêm sức mạnh, những ý nghĩ này làm nảy sinh những ý nghĩ khác và tất cả những gì cô giáo kể hoặc giải thích, chứng minh, đều thấm sâu vào trí nhớ và tâm hồn của tất cả học sinh. Mỗi khi cô hứng thú lên như vậy cả lớp học ngồi im phăng phắc như bị bỏ bùa…
Trong những ngày gần đây có điều gì đó làm cô lo lắng. Đúng là có chuyện gì đó… Có thể chính vì thế mà khi ông chủ tịch nông trang Tynaliev cùng với ông trưởng phòng giáo dục xuất hiện ở ngưỡng cửa, cô giáo Inkaman-apai chậm chạp lùi về phía sau bảng đen. Tuy vậy cô vẫn còn đủ sức nói:
- Các em đứng dậy. Còn em, Xuntanmurat, về chỗ.
Xuntanmurat đóng cửa lò sưởi lại rồi vội trở về bàn của mình. Những người mới đến chào cả lớp.
- Chào hai bác ạ! - Cả lớp đáp lại.
Tiếp đó là một sự im lặng căng thẳng đến nỗi không một ai dám ho cả.
- Có chuyện gì thế ạ? - Cô giáo Inkaman-apai hỏi bằng một giọng run run.
- Không có chuyện gì đâu, Inkaman-apai à! - Ông chủ tịch Tynaliev nói ngay cho cô giáo yên tâm. - Tôi đến vì chuyện khác, tôi có việc cần nói với các em. Cô tha lỗi vì đã đột ngột cắt ngang giờ học, nhưng tôi đã xin phép. - Vừa nói ông vừa quay đầu về phía ông trưởng phòng giáo dục, một người đứng tuổi.
- Vâng, có chuyện rất quan trọng. - Ông trưởng phòng giáo dục nhấn mạnh thêm. - Xin cô giáo cho các em ngồi xuống.
Cả lớp đồng loạt ngồi xuống
Mọi người trong lớp đều biết ông chủ tịch nông trang tuy ông mới làm chủ tịch từ dạo mùa thu sau khi từ mặt trận trở về. Có lẽ ông cũng đã kịp biết mặt hầu hết các em học sinh ngồi đây rồi, chắc chắn không phải ông đến để làm quen với các em. Mà làm quen để làm gì kia chứ! Bọn học sinh lớp bảy thì ai mà chẳng biết. Vả lại, muốn nói chuyện với từng em một thì thiếu gì chỗ: Ở nhà, ở văn phòng ban quản trị, trên đường đi, chỗ nào chả được. Nhưng việc ông chủ tịch nông trang đến trường vào giữa giờ học để nói một cậu chuyện quan trọng với học sinh thì chưa bao giờ xảy ra. Mà chuyện gì mới được chứ! Nếu mùa hè thì lại khác, lúc ấy đứa nào chẳng làm việc trong nông trang, còn bây giờ ông đến nói chuyện gì nhỉ!
- Tôi đến đây vì có một việc như thế này. - Ông chủ tịch Tynaliev bắt đầu, đưa mắt nhìn khắp lượt những khuôn mặt đang chờ đợi căng thẳng, trong khi nói ông cố gắng giữ tư thế đứng thẳng cho khỏi lộ vẻ của người bị thương tật: - Lớp học của các em lạnh thật đấy, nhưng tôi không có cách nào khác hơn ngoài việc cung cấp rơm để sưởi. Mà rơm thì các em biết đấy, cháy vèo vèo rồi tắt ngấm. Còn phân khô như vẫn dùng để sưởi ở trường, trước đây ta phải dùng bao bố hoặc xe kéo thồ từ trên núi về, tốn công lắm. Vả lại từ năm ngoái đến nay, ta không lấy đâu ra nhân công và thời gian để đi thồ về cho
các em sưởi nữa. Đành phải chịu vậy thôi các em ạ. Bây giờ thì tiền tuyến là trên hết, mà trong kho của tôi chỉ còn hai tấn than đang được giữ gìn cẩn thận. Số than này ta phải mua lại của bọn đầu cơ ở chợ Dzhambul. Nhưng than đó là để cho lò rèn. Cả sắt cho lò rèn nữa, ta cũng phải mua của bọn đầu cơ đấy. Sẽ đến lúc chúng ta phải tính sổ với bọn ấy, còn bây giờ tình hình rất khó khăn, ở ngoài mặt trận cũng khó khăn như vậy. Năm ngoái chúng ta đã không hoàn thành kế hoạch, không kịp gieo hai trăm héc-ta lúa mì thu. Chẳng ai có lỗi cả. Tất cả chỉ do chiến tranh, có thể đổ lỗi quanh co như vậy đấy. Nhưng nếu khắp nơi trong tất cả các nông trang và nông trường đều để xảy ra tình trạng không hoàn thành việc gieo hạt, việc thu hoạch và những công việc khác như ở nông trang chúng ta thì chúng ta sẽ không thể nào thắng được kẻ thù. Mà muốn thắng được một kẻ thù như vậy chúng ta cần phải có lúa mì và đạn dược. Tôi đến đây để nói với các em rằng, có lẽ một số trong các em phải nghỉ học. Thời gian không chờ đợi ta đâu, chúng ta phải cấp tốc chuẩn bị sức kéo để cày ải ngay cho vụ xuân, mà súc vật của chúng ta, quả thật, nhìn mà đau lòng, tệ hại đến mức không còn đứng nổi nữa. Cũng cần phải chuẩn bị cả những bộ đai thắng, yên cương, mà những thứ đó hiện nay đều hỏng hết rồi. Ngoài ra, còn phải sửa chữa máy cày, máy gieo hạt, những máy móc, dụng cụ ấy đang nằm dưới lớp tuyết… Tôi nói tất cả những điều ấy để làm gì? Để khẳng định rằng, số diện tích của vụ thu, chúng ta nhất quyết phải gieo lại bằng lúa xuân. Phải hoàn thành vô điều kiện công việc này, bằng bất cứ giá nào, giống như ở ngoài mặt trận vậy! Như thế có nghĩa là chúng ta phải hoàn thành vượt mức kế hoạch. Chúng ta phải tự lực bằng chính sức mình, cày và gieo bù hai trăm héc-ta lúa xuân. Hai trăm! Các em hiểu chứ? Nhưng lấy đâu ra nhân lực, chúng ta trông chờ vào ai? Và chúng tôi đã quyết định cùng với tất cả những gì chúng ta có, đã chuẩn bị cho vụ lúa xuân, cần phải thành lập thêm một đội cày hai lưỡi nữa. Lãnh đạo đã suy nghĩ, bàn đi tính lại rất kỹ. Phụ nữ thì chúng ta không thể đưa đi được vì khu đất ấy khá xa, mãi trong vùng Akxai. Ở đấy lại không có người. Vậy là chúng tôi có ý nhờ đến các em, học sinh của trường ta.
Ông chủ tịch nông trang Tynaliev là một con người nghiêm nghị, kín đáo, thường mặc chiếc áo ca-pốt bộ đội màu xám - tất nhiên là chỉ mặc độc một chiếc áo ấy cùng chiếc mũ có vành che tai trên đầu thôi thì cũng vẫn lạnh lắm. Khuôn mặt ông hốc hác, lúc nào cũng có vẻ lo lắng mặc dù ông vẫn còn trẻ, dáng đi xiêu vẹo vì thiếu mất mấy cái xương sườn cùng với chiếc xắc-cốt lúc nào cũng kè kè bên hông… Ông đã nói như thế đấy!
Ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như thế ngay cạnh cái bảng đen có tấm bản đồ địa lý. Tờ bản đồ mà trong đó người ta đã khéo léo xếp đặt tất cả đất đai và biển cả, kể cả những miền đất ấm áp và kỳ diệu như Sri Lanka, Java, Sumatra, Australia, nơi người ta sống xa hoa, chẳng phải lo lắng gì…
Ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như thế khi ông đứng trong lớp học được sưởi ấm bằng rơm mà khi đốt xong chỉ làm bẩn lớp nhiều hơn là mang lại hơi ấm. Và khi ông nói rằng trên vùng đất Akxai xa xôi kia, cần phải gieo thêm hai trăm héc-ta lúa xuân cho tiền tuyến thì hơi nước trong miệng ông bay ra như khói, chẳng khác gì đứng ngoài sân…
Ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như thế…
Ngoài trời gió vẫn gào rít, quay cuồng và lọt qua những khe hở cửa sổ lớp học. Xuntanmurat ngồi cạnh nên nó thấy rõ con ngựa của ông chủ tịch nông trang buộc nơi chiếc cọc đang dậm chân cố tránh những cơn gió mạnh thổi thốc vào mặt, nhưng gió vẫn thổi tung dải bờm và hất chiếc đuôi đang thõng xuống của nó sang một bên. Con ngựa bị rét cóng…
Đúng thế, đây đâu phải là Sri Lanka…
- Tôi không muốn gián đoạn việc học tập của các em và cũng không muốn các em phải sống vất vả. Đây là một biện pháp bất đắc dĩ. Các em nên tự hiểu điều đó. Sau khi chiến tranh kết thúc, mà cũng có thể là sớm thôi, nếu tôi còn sống tôi sẽ đích thân đưa các em trở lại trường và xin cho các em được học
tiếp. Còn hiện nay tình hình là như vậy đấy, các em ạ!
Sau đó ông trưởng phòng giáo dục nói vài lời rồi ông chủ tịch nông trang lại nói tiếp. Lớp học sôi nổi hẳn lên, các em tranh nhau giơ tay xung phong, miệng la lớn: Em, em muốn được đi làm ạ. Ông chủ tịch nói rõ hơn:
- Nếu em nào nghĩ rằng tôi sẽ tuyển bất kỳ ai là không hiểu đúng tinh thần đâu. Thứ nhất, em nào học kém là không làm được việc đâu, thứ hai là chỉ lấy những em giỏi để sau này có điều kiện trở lại để học tiếp. Đấy, vấn đề là như thế. Xuntanmurat, hình như em là người lớn nhất lớp…
Các bạn nhao nhao lên:
- Anatai là người lớn nhất ạ. Bạn ấy sắp mười sáu tuổi rồi.
- Tôi không nói về tuổi mà nói về tầm vóc. Kể ra thì điều ấy cũng chẳng quan trọng cho lắm. Em Xuntanmurat, - ông chủ tịch nông trang lại hướng về phía nó. - Năm ngoái em đã cày đất ở trong vườn phải không?
- Vâng ạ. - Xuntanmurát đứng dậy trả lời. - Em cày khu đất cạnh đường Aranski.
- Loại cày hai lưỡi, bốn ngựa?
- Vâng ạ, loại cày hai lưỡi, bốn ngựa, em cày hộ cho người khác, đó là cày của anh Xarbai, khi đó anh ấy được gọi nhập ngũ, mà thời vụ thì đã muộn, thế là Akxakan Sekis nhờ em cày giúp.
- Tôi cũng biết về việc ấy. Chính vì thế mà tôi bắt đầu danh sách từ em. - Ông chủ tịch nói.
Tất cả các bạn đều quay về phía Xuntanmurat. Cậu bắt gặp ánh mắt của Myrzagun. Cô bé nhìn nó bằng một ánh mắt đặc biệt, không giống như các
bạn khác và đỏ bừng mặt lên cứ như là mọi người đang nói về chính cô ta vậy. Nó cảm thấy bồi hồi, tim đập thình thịch.
- Em cũng đã cày được ạ! - Anatai bật dậy kêu lên.
- Em cũng thế ạ! - Erkinbek tiếp ngay.
Ngay sau đó là hàng loạt những tiếng nói khácvang lên.
Nhưng ông chủ tịch yêu cầu giữ trật tự.
- Nào các em, chúng ta phải tiến hành cho có trật tự chứ! Bắt đầu từ việc học tập. Em học thế nào? - Ông chủ tịch lại quay về phía Xuntanmurat.
- Dạ cũng không đến nỗi ạ. - Xuntanmurát ấp úng.
- Không đến nỗi là thế nào?
- Không đến nỗi kém ạ.
- Và cũng không khá lắm. - Từ đầu đến giờ cô giáo Inkaman-apai vẫn im lặng, bỗng xen vào. - Tôi đã nói với em ấy bao nhiêu lần, em có thể học khá hơn, khá hơn rất nhiều, em là một học sinh có khả năng. Thế mà đầu óc còn lông bông lắm ạ!
- Hừm-ừm!.. - Ông chủ tịch kéo dài giọng vẻ phân vân. - Vậy mà tôi cứ hy vọng… Thôi được rồi. Bố em đang ở ngoài mặt trận cho nên chính em phải tự làm ra lúa mì cho bố. Còn em, thế nào Anatai?
- Dạ, cũng thế ạ. - Anatai đứng dậy nhăn mặt trả lời.
- Có nghĩa là cả hai cậu này chẳng ai hơn ai cả. - Ông chủ tịch Tynaliev mỉm cười, im lặng một lát ông tiếp: - Sau này khi các em quay trở lại trường, các em mới thấy được ý nghĩa của việc học tập. Tôi biết điều ấy qua kinh
nghiệm bản thân. Hơi có chuyện gì một tí thế là nghĩ, cóc cần học nữa, bỏ học đi làm luôn. Chả lẽ con người sinh ra chỉ để làm một công việc nào đó thôi hay sao. Em nghĩ thế nào, Anatai?
Anatai bắt đầu giải thích lằng nhằng một lát rồi sau đó nó đành phải thú nhận.
- Em không biết ạ.
- Tôi cũng không biết được tất cả mọi thứ đâu. - Ông chủ tịch Tynaliev nói. - Nhưng nếu không có chiến tranh, chắc chắn tôi cũng đã đi học rồi, mà chưa biết chừng lại còn được nên người nữa cơ.
Những tiếng cười hồn nhiên vang lên trong lớp. Buồn cười thật. Một người đã lớn tuổi như thế, lại là chủ tịch nông trang nữa vậy mà còn định đi học. Trong khi chúng nó đã chán ngấy việc học tập, chán ngấy ngồi trong lớp!
- Có chuyện gì buồn cười đâu? - Ông chủ tịch cười theo và nói tiếp: - Đúng như thế đấy các em ạ. Tôi rất muốn đi học. Sau này chính các em sẽ hiểu được điều đó.
Lợi dụng lúc ấy một đứa cắt ngang lời ông chủ tịch:
- Baskarma agai (1), có đúng là bác đã nhảy dùphải không? -----
(1) Baskarma là tên ông chủ tịch, còn Tynaliev là họ.
Ông chủ tịch Tynaliev gật đầu.
Thằng kia vẫn chưa chịu thôi:
- Ồ, ghê thật! Thế có sợ không hả bác? Một lần cháu nhảy từ nóc nhà kho thuốc lá xuống đống rơm mà hai chân cứ run bần bật!
- Đúng, tôi đã nhảy rồi, chỉ có điều tất nhiên là nhảy bằng dù. - Ông chủ tịch giải thích. - Chiếc dù sẽ mở thành cái vòm lớn, giống như cái lều của ta vậy…
- Chúng cháu biết rồi, chúng cháu biết rồi! - Cả lớp nhao nhao hét lên. - Chúng tôi là lính dù đổ bộ và công việc chính của chúng tôi là nhảy dù. - Lính dù đổ bộ là thế nào, hả bác? - Tiếng ai đó chen vào.
- Lính dù đổ bộ hả? Đấy là một đội quân chiến đấu cơ động, thường được thả xuống hoặc được phái đến một nơi nào đó để thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu quan trọng đặc biệt. Rõ chưa?
Cả lớp im lặng.
- Trong đội quân lính dù đổ bộ có thể có từ vài người đến hàng nghìn người. - Ông chủ tịch Tynaliev giải thích tiếp. - Điều quan trọng là đội quân đổ bộ thường hoạt động trong vùng hậu phương quân địch và chiến đấu độc
lập. Nếu các em vẫn chưa hiểu hết thì tôi sẽ kể vào một dịp khác. Còn bây giờ chúng ta lại tiếp tục công việc. Anatai, em ngồi xuống, sao cứ đứng mãi thế! Bố em cũng đang chiến đấu ngoài mặt trận phải không?
- Bố em cũng thế ạ!
- Bố em cũng thế ạ!
- Cả bố em nữa!
- Cả bố em nữa!
Ông chủ tịch giơ tay lên:
- Tôi biết, tôi biết hết, các em ạ. Các em đừng nghĩ rằng từ sáng đến tối tôi chỉ biết đến công việc của nông trang. Tôi biết tất cả mọi người, ai đang chiến đấu, ai đang điều trị ở quân y viện. Tôi biết tất cả các em. Chính vì vậy mà tôi mới đến đây nhờ đến các em. Thôi, thế này, Anatai à, em cũng sẽ tham gia làm ra lúa mì cho bố, em sẽ dừng việc học tập lại trong một năm, mà có thể lâu hơn.
- Em cũng thế! Cả em nữa! Cả em nữa ạ! - Một số đứa khác cũng bắt đầu nhao nhao lên. Trong những trường hợp như thế này đứa nào cũng muốn trở thành anh hùng. Hơn nữa lại có lý do chính đáng khỏi phải đến trường, lại được làm việc trên lưng ngựa, đứa nào chả muốn!
- Khoan đã, từ từ xem nào! - Ông chủ tịch yêu cầu trật tự. - Không thể làm như thế được. Chúng ta chỉ nhận những em đã biết cày thôi. Nào Erkinbek, em cũng đã cày vườn rau rồi phải không? Bố em đã hy sinh tại ngoại ô Moskva, tôi biết. Có rất nhiều cha anh ta đã hy sinh ngoài mặt trận. Tôi cũng yêu cầu em, Erkinbek ạ, hãy giúp nông trang một tay nhé. Thay vì được học tập em cũng phải cày ruộng, không còn cách nào khác hơn. Còn mẹ em thì để tôi sẽ giải thích...
Sau đó ông chủ tịch Tynaliev gọi tên thêm hai đứa nữa, đó là thằng Erges và thằng Kubatkun. Ông dặn sáng mai tất cả số học sinh nói trên phải có mặt ở trại ngựa trong giờ giao ban buổi sáng của các đội trưởng sản xuất.
Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ, Xuntanmurat kể lại cho mẹ nghe chuyện ông chủ tịch nông trang đến trường. Mẹ im lặng nghe, mệt mỏi đưa tay lên lau trán. Suốt ngày mẹ làm việc ở trại chăn nuôi của nông trang, chỉ đến tối mới trở về với lũ trẻ. Vừa lúc ấy thằng ngốc Adzhimurat lại la hét ầm ĩ lên chẳng đúng lúc tí nào.
- Ôi, thích thật! Không phải học nữa, lại được làm thợ cày, cưỡi trên lưng ngựa! Con cũng muốn đi!
Mẹ quay lại, nghiêm khắc hỏi nó:
- Con đã học thuộc bài chưa?
- Học rồi ạ. - Adzhimurat trả lời.
- Vậy thì đi ngủ đi và đừng ho he gì nữa. Rõ chưa!
Còn đối với đứa con trai cả, mẹ không nói gì, chỉ mãi đến lúc đặt hai đứa em gái ngủ xong, trước khi tắt đèn, mẹ buồn bã ngồi xuống cạnh cây đèn, hai tay ôm đầu và bật khóc. Chắc mẹ nghĩ, Xuntanmurat đã ngủ. Mẹ khóc âm thầm, rất lâu, hai vai rung lên. Xuntanmurat cảm thấy đau nhói trong lòng. Nó muốn ngồi dậy an ủi, xoa dịu, nói với mẹ một câu gì đó. Nhưng nó không dám làm phiền mẹ, cứ để mẹ ngồi một mình như vậy có lẽ lại tốt hơn. Chắc là mẹ đang nghĩ đến bố (không biết bây giờ bố đang làm gì ngoài mặt trận), nghĩ đến những đứa trẻ (chúng nó bốn đứa cả thảy) và nghĩ đến tình cảnh trong nhà cùng những thiếu thốn cơ cực này khác.
Dù sao thì mẹ cũng là một người phụ nữ, mà phụ nữ thường hay khóc. Cả cô giáo Inkaman-apai cũng thế. Khi ông chủ tịch nông trang Tynaliev ra khỏi lớp rồi, cô cũng trở nên bần thần, bối rối mãi. Tiếng kẻng báo giờ ra chơi đã vang lên, thế mà cô vẫn ngồi im bên bàn giáo viên. Và cả lớp cũng ngồi lại, không đứa nào chạy ra ngoài, chờ cho cô giáo đứng dậy bước ra cửa. Ra đến ngưỡng cửa, cô giáo không cầm nổi nước mắt, cô khóc. Chắc cô đã cố nén lại nhưng không được. Cô bước đi, nước mắt đầm đìa. Myrzagun xách tờ bản đồ cô giáo để quên lên đến phòng giáo viên cho cô, khi quay lại trên mặt cũng đầm đìa nước mắt. Đúng, tất nhiên là như vậy, phụ nữ bao giờ cũng là phụ nữ, không thể khác được. Họ thương tất cả mọi người và chính vì thế mà họ hay khóc. Mà thực ra thì có chuyện gì ghê gớm lắm đâu. Ừ thì cứ cho là một
năm hoặc hai năm đi nữa, chiến tranh sẽ kết thúc, khi đó chúng nó sẽ quay lại, về trường học tiếp… Với những ý nghĩ như thế Xuntanmurat thiếp đi, bên tai văng vẳng tiếng bão tuyết gầm rít ngoài cửa sổ.
Sáng hôm sau bão tuyết vẫn tiếp tục thổi mạnh, gió vẫn cứ ào ào mang theo những bông tuyết bồi thêm lên mặt đất một lớp tuyết cứng. Những đám mây đen vần vũ trên bầu trời. Xuntanmurat bị lạnh cóng trên đường đến trại ngựa.
Công việc mà ông chủ tịch nông trang Tynaliev nói, hóa ra khó khăn hơn nhiều so với những gì Xuntanmurat nghĩ. Đầu tiên, chúng cùng đi với ông chủ tịch và ông đội trưởng Sekis - một ông lão gầy guộc có bộ râu màu hung hung, ngay từ đầu đã phát cho mỗi đứa bốn bộ dây thắng - đến chỗ bãi chăn cạnh chuồng ngựa cũ. Ở đây, trên mảnh sân đất ngập đầy tuyết, những con ngựa kéo ủ rũ đi đi, lại lại, cố tìm trong những chiếc máng cỏ những sợi rơm còn sót lại. Ai cũng biết, vào mùa hè lũ ngựa thường khỏe mạnh hơn, đến mùa đông chúng sẽ gầy đi, nhưng ở đây bọn chúng chỉ còn da bọc xương. Làm việc suốt cả mùa hè, đến khi mùa đông ập xuống, chúng bị bỏ mặc ở sân nuôi tập thể, chẳng có người nào chăm sóc, nuôi nấng. Thức ăn cho chúng cũng chẳng nhiều nhặn gì, trong khi đó lại phải còn để dành đến vụ cày xuân.
Lũ trẻ dừng lại bối rối.
- Thế nào, đã thấy rõ cả rồi chứ! - Ông lão Senkis càu nhàu. - Chắc các cháu nghĩ, đến đây sẽ được cầm cương những con tuấn mã của Manas (1)chứ gì. Cứ chọn đi, các cháu không lầm đâu. Chỉ sau hai mươi ngày thôi là con nào cũng sẽ béo mọng lên như con bò mộng. Bác nói thật đấy, không có gì phải nghi ngờ cả! Đó là những con ngựa rất tốt, chỉ cần chăm sóc và cho ăn uống đầy đủ là được! Những việc còn lại thì tự các cháu cũng biết.
-----
(1) Tuấn mã của Manas: Những con ngựa thần trong truyền thuyết về người anh hùng dân tộc Manas.
- Các cháu hãy đi nhận những dụng cụ cần thiết và bắt đầu công việc đi. - Ông chủ tịch khuyên. - Mỗi người chọn lấy bốn con ngựa mà mình thích.
Ngay lúc ấy, một sự bất ngờ bỗng xảy ra. Giữa những con ngựa gầy còm, bị bỏ rơi đang đứng trong sàn, Xuntanmurat nhìn thấy cặp ngựa của bố - con Chabdar và con Chontoru. Đầu tiên là nhờ bộ lông màu xám tro mà Xuntanmurat nhận ra con Chabdar, sau đó là con Chontoru. Hai chú ngựa ốm yếu, lông lá bù xù, bốn chân gầy guộc, có lẽ chỉ cần đẩy một cái là ngã lăn kềnh. Xuntanmurat cảm thấy sung sướng nhưng đồng thời bối rối lo lắng. Nó nhớ lại lần đi cùng với bố vào thành phố. Dạo ấy, trong tay bố, những con ngựa mới tuyệt làm sao. Còn bây giờ? Dạo ấy, Chabdar và Chontoru vừa khỏe mạnh vừa nhanh nhẹn, chạy song song bằng một bước kiệu đều đặn, tin tưởng. Thế mà bây giờ…
- Các bác nhìn xem đây là cặp ngựa của bố cháu! - Xuntanmurat quay về phía ông chủ tịch và ông đội trưởng kêu lên. - Chính chúng đấy! Con Chabdar và con Chontoru!
- Đúng thế, đúng thế. Đây là cặp ngựa của Becbai. - Ông lão Sekis xác nhận.
- Cháu lấy hai con ngựa ấy đi, hai con ngựa của bố ấy. Ông chủ tịch ra lệnh.
Ngoài hai con ngựa của bố ra, Xuntanmurat chọn thêm một đôi nữa - con đuôi trắng và con nâu sẫm. Thế là đã có một bộ tứ cho dàn cày loại hai lưỡi. Những đứa khác cũng chọn cho mình những con ngựa theo ý thích.
Từ ngày hôm ấy, một công việc mới mẻ bắt đầu mà vì nó bọn trẻ đã phải
rời trường học vào mùa đôngnăm 1943…
Công việc rất nhiều, nhiều hơn là chúng nghĩ. Sáng phải đến trại ngựa thật sớm, rồi hàng ngày phải chạy đến lò rèn giúp đỡ ông già Barpy cùng với người giúp việc của ông - anh thợ phụ thọt chân chuyên quai búa - để sửa chữa các dàn cày mà sau này sẽ dùng đến. Mọi thứ trước kia bị vứt lăn lóc như một đống sắt vụn bây giờ phải tháo ra sửa chữa rồi ráp lại, cọ sạch đất cát, han gỉ. Ngay cả những chiếc lưỡi cày cũ mòn vẹt đã hết thời cũng còn được việc. Những người thợ rèn lôi chúng ra đập chan chát, kéo dài lưỡi ra rồi tôi lại trong lửa và nước. Không phải tất cả các lưỡi cày cũ đều có thể rèn lại được, nhưng mỗi khi sửa được một chiếc, ông Barpy tỏ ra đắc ý lắm. Những lúc như thế ông thường bắt anh thợ quai búa trèo lên nóc lò gọi bọn trẻ từ trại ngựa lại:
- Này, các chú thợ cày! - Từ trên nóc lò, anh thợ quai búa thọt chân gọi bọn trẻ. - Lại đây, ustake (1) gọi cáccậu đấy!
-----
(1) Ustake: Người thợ cả lành nghề.
Bọn trẻ chạy lại. Và lúc ấy ông lão Barpy trịnh trọng bê từ trên giá để đồ xuống chiếc lưỡi cày còn nóng, nặng trịch, ánh lên màu thép xám xanh vừa được rèn lại.
- Này cầm lấy. - Ông nói với một đứa trong bọn chúng đến lượt được nhận lưỡi cày dự trữ. - Cầm lấy, cầm lấy. Sao, có đẹp không? Ướm thử xem nào, vừa khít với diệp cày chứ? Thế nào? Cứ như là chú rể với cô dâu ấy. Khi làm việc trên đồng ruộng nó sẽ sáng bóng lên, hơn cả những chiếc gương Tashkent đấy. Có thể tha hồ ngắm dung nhan bằng những chiếc lưỡi cày này đấy! Hay là ta tặng cho cô gái nào đó chiếc lưỡi cày này thay cho chiếc gương, hả các cậu? Một món quà vĩnh cửu, không bao giờ hỏng! Còn bây giờ
thì để vào cái giá kia, ở chỗ của nó ấy, khi nào ra đồng hãy mang đi. Thế đấy! Những đứa khác chờ lưỡi sau. Đứa nào cũng có phần cả. Chẳng ai để cho chúng mày thiếu lưỡi cày đâu. Bác sẽ chuẩn bị cho mỗi đứa ba bộ. Chỉ có mỗi việc bác không làm được là rèn cho mình những chiếc răng mới, còn thì việc gì bác cũng làm được tất. Các cháu sẽ còn nhiều lần phải nhớ đến chúng ta, bởi vì bộ phận quan trọng nhất của cái cày là lưỡi cày! Chỉ cần có lưỡi cày là mọi thứ sẽ đâu vào đấy cả. Lưỡi cày mà sắc thì luống cày sẽ sâu, lưỡi cày cùn thì anh thợ cày chẳng làm được tích sự gì đâu. Đấy, câu chuyện cổ tích của bác là như vậy đấy, các cháu ạ…
Ông lão Barpy là người rất tốt. Suốt đời ông làm việc ở lò rèn. Tính tình ông có vẻ hơi khoe khoang một chút, nhưng công việc thì rất thành thạo.
Lũ trẻ cũng phải thường xuyên có mặt trong xưởng làm yên cương. Ông đội trưởng Sekis bắt phải như vậy. Cần phải giúp họ một tay, ông nói, để họ sửa chữa cho xong các bộ dây thắng, yên cương. Không có dây thắng với yên cương thì đừng hòng đi đâu. Có cày, có ngựa đấy mà không có dây thắng thì cũng như không. Ông nói cũng đúng. Vì vậy, đứa nào cũng chạy ngược, chạy xuôi, cố gắng giúp đỡ những người thợ để họ làm cho mình trước.
Nhưng công việc quan trọng nhất chính là việc chăm sóc lũ ngựa. Suốt ngày từ sáng đến chiều, có hôm đến tận tối, chúng làm việc ở trại ngựa. Sau khi ném cho lũ ngựa suất cỏ khô cuối cùng lũ trẻ trở về nhà thì trời đã tối. Phải khẩn trương, khẩn trương lắm.
Thời gian còn lại rất ít. Đã cuối tháng Giêng. Chỉ còn khoảng ba mươi ngày, cùng lắm là ba mươi lăm ngày nữa để vỗ béo lũ ngựa. Liệu những con ngựa kéo ấy có kịp bình phục, đảm bảo sức khỏe để bắt đầu vụ cày không? Việc ấy bây giờ hoàn toàn phụ thuộc vào chính những người thợ cày. Lũ ngựa đang ngủ, nhưng đối với loại súc vật ấy thì trước mặt chúng, trong máng cỏ bao giờ cũng phải có thức ăn, cả đêm lẫn ngày…
Theo tính toán của ông chủ tịch Tynaliev, đến cuối tháng Hai, sau khi tuyết vừa tan, phải đưa tất cả dụng cụ cày bừa lên vùng đất Akxai. Ngày xưa, lâu lắm rồi, có thời kỳ người ta đã từng cày bừa và gieo hạt trên khu đất Akxai ấy. Nhưng sau đó, không hiểu vì sao vùng đất lại bị bỏ hoang. Cũng có thể vì Akxai là một nơi quá xa lại không có dân cư. Hơn nữa, ở đấy lại không có nước tưới, các đám ruộng phần lớn nằm trên các sườn đồi… Ông đội trưởng Sekis kể là cụ thân sinh ra ông đã từng nói với ông rằng, từ mảnh đất Akxai ấy người nông dân có thể hoặc là phải đi tha hương khắp trái đất hoặc là phải gọi người khác đến để giúp mình chở thóc. Điều quan trọng nhất là phải gieo hạt đúng thời vụ, còn mùa màng sẽ phụ thuộc vào lượng mưa. Chính ông lão Sekis đã nói như thế.
“Người nông dân bao giờ cũng dám đánh liều với trời đất, song bao giờ họ cũng hy vọng”, ông chủ tịch Tynaliev lại nói như vậy. Ông cũng hy vọng và chính vì thế mà ông đã tổ chức những đội cày với niềm tin chắc chắn rằng trời sẽ có mưa và sẽ thu hoạch được lúa mì ở vùng đất Akxai…
Ngày lại ngày trôi qua. Đến cuối tuần, những chú ngựa đã tươi tỉnh hẳn và đầy đặn lên rõ rệt, sức khỏe của chúng đang hồi phục. Ban ngày mặt trời đã bắt đầu xuất hiện và sưởi ấm đất đai. Mùa đông đang chậm chạp rút lui. Chính vì thế mà hằng ngày lũ ngựa được dẫn ra sưởi nắng ở chỗ máng ăn ngoài trời. Ngoài nắng, lũ ngựa ăn được nhiều hơn và chóng lại sức. Năm bộ tứ gồm hai mươi chú ngựa của đội quân đổ bộ Akxai xếp thành một hàng dài bên máng cỏ dọc theo hàng rào.
Vào giờ kiểm tra buổi sáng, khi ông chủ tịch xuất hiện, bọn trẻ đã có mặt sẵn sàng bên các bộ tứ của mình. Chính ông chủ tịch Tynaliev đã gọi chúng là đội quân đổ bộ Akxai. Từ đó, các đội trưởng sản xuất, những người đánh xe và chăn ngựa cũng đều gọi chúng là đội quân đổ bộ, những người lính đổ bộ hoặc là những con ngựa Akxai, rơm Akxai, những chiếc cày Akxai. Bây giờ, mỗi khi có dịp đi ngang qua trại ngựa, mọi người đều ghé vào tìm hiểu
công việc của đội quân đổ bộ ra sao. Cả bản đều nói đến đội quân đổ bộ Akxai. Và mọi người cũng đều biết rằng ông chủ tịch Tynaliev đã chỉ định Xuntannmurat, con trai của Becbai, làm người chỉ huy của đội quân đổ bộ ấy. Thật ra mà nói, việc chỉ định này cũng gặp phải sự phản đối của Anatai. Nó cằn nhằn:
- Tại sao người chỉ huy lại là Xuntanmurat? Có thể chúng cháu không đồng ý như vậy!
Câu nói làm Xuntanmurat đỏ bừng mặt. Nó không chịu nổi, liền nói ngay:
- Nói chung, mình cũng không muốn làm chỉ huy đâu! Nếu cậu muốn thì cậu làm đi.
Erkinbek và Kubatkun liền lên tiếng:
- Này Anatai, cậu ghen tị à?
- Cậu muốn gì, tiếc hả? Người ta đã chỉ định như vậy có nghĩa là Xuntanmurat sẽ làm chỉ huy.
Còn Erges lại bênh Anatai:
- Tại sao Anatai lại không làm được? Cậu ấy khỏe mạnh, chỉ thấp hơn Xuntanmurat một tí thôi. Ở trong lớp, chúng ta vẫn bầu lớp trưởng thì bây giờ chúng ta cũng bầu chỉ huy. Nếu không, hơi một tí cái gì cũng Xuntanmurat, Xuntamurat.
Ông chủ tịch Tynaliev im lặng nghe tất cả, sau đó ông mỉm cười, lắc đầu rồi nói, giọng nghiêm trang,lạnh lùng:
- Thôi không bàn cãi nữa! Tất cả lại đây, xếp thành một hàng ngang. Thế! Nếu các cháu đã thừa nhận mình là những người lính đổ bộ thì hãy hành động
như những người lính đổ bộ. Còn bây giờ thì nghe bác nói đây. Hãy nhớ rằng người chỉ huy không phải là do bầu lên. Người chỉ huy bao giờ cũng được cấp trên chỉ định.
- Thế người chỉ huy cấp trên ấy thì do ai chỉ định? - Erges xen ngang vào. - Do cấp chỉ huy cao hơn nữa.
Mọi người im lặng.
- Thế đấy, các cháu ạ! - Ông chủ tịch nói tiếp: - Trong chiến tranh, chúng ta phải sống theo kiểu thời chiến. Hãy nhớ rằng, bác chịu trách nhiệm về các cháu. Hai cháu có bố đã hy sinh, còn ba cháu kia có bố đang chiến đấu ngoài mặt trận. Bác chịu trách nhiệm về các cháu trước những người đã mất và
những người đang sống. Nhưng bác dám nhận trách nhiệm ấy vì bác tin ở các cháu. Các cháu sẽ lên đường đến vùng đất Akxai xa xôi cùng với dụng cụ cày bừa. Ở đấy, trong một thời gian, các cháu sẽ phải sống ngày đêm tự lập giữa thảo nguyên mênh mông giống như những người lính đổ bộ được giao một nhiệm vụ đặc biệt. Làm sao có thể sống và làm việc được ở đấy nếu như trong bất cứ chuyện gì các cháu cũng tranh luận, cãi cọ?
Đấy, ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như thế trước toàn đội ngay trong sân trại ngựa. Người cựu chiến binh lính dù đổ bộ đứng trước mặt chúng vẫn mặc chiếc áo ca-pốt bộ đội màu xám, vẫn đội chiếc mũ quân nhân có vành che tai cũng màu xám, với khuôn mặt hốc hác lúc nào cũng có vẻ lo lắng - mặc dù ông vẫn còn trẻ - dáng đi xiêu vẹo vì thiếu mất mấy cái xương sườn cùng với chiếc xắc-cốt lúc nào cũng kè kè bên hông.
Ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như thế trước đội quân đổ bộ Akxai với người chỉ huy do ông chỉ định là Xuntanmurat, con trai của Becbai.
- Cháu phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi chuyện. - Ông nói. - Về con người, về súc vật, về dụng cụ cày bừa, về các bộ dây thắng. Cháu phải chịu trách nhiệm về công việc làm đất ở Akxai. Chịu trách nhiệm có nghĩa là phải hoàn thành nhiệm vụ. Nếu không hoàn thành, bác sẽ chỉ định người chỉ huy khác. Còn bây giờ bác sẽ không chấp nhận bất cứ một sự phản đối nào.
Ngày hôm ấy, trong sân trại ngựa, ông chủ tịch nông trang Tynaliev đã nói như vậy trước hàng quân ít ỏi của những người lính đổ bộ Akxai.
Những chú thợ cày nhìn ông tin tưởng, kính phục, sẵn sàng hoàn thành bất cứ một chỉ thị nào. Ông đứng trước mặt chúng giống như Manas với khuôn mặt hung dữ và bờm tóc màu xám, trong chiếc áo giáp sắt, còn chúng đứng trước ông giống như những hiệp sĩ đáng tin cậy, tấm lá chắn trong tay và thanh kiếm dắt ngang lưng. Những hiệp sĩ quang vinh ấy là ai mà Manas đã đặt tất cả hy vọng và sự nghiệp của mình vào tay họ?
Người hiệp sĩ quang vinh đầu tiên chính là Xuntanmurat. Cho dù nó không phải là đứa lớn tuổi nhất, nhưng do trí thông minh và lòng dũng cảm, nó - con trai của Becbai - vẫn được chỉ định là người chỉ huy. Còn bố nó là người bố tuyệt diệu nhất trong tất cả những người bố đang chiến đấu ngoài
mặt trận, trong các cuộc hành quân quang vinh đầy gian khổ. Ông đã trao lại cho nó con ngựa chiến Chabdar của mình. Ngoài ra, nó lại còn một đứa em trai nữa - thằng Adzhimurat. Nó rất yêu em, mặc dù thằng nhóc đôi khi có làm cho nó bực mình. Ngoài tất cả những chuyện đó ra, Xuntanmurat còn thầm yêu cô bạn gái xinh đẹp Myrzagun-bikets. Myrzagun-bikets có nụ cười đẹp nhất thế gian, có thân hình cân đối như một cây phong Turkmenia, khuôn mặt trắng như tuyết, còn cặp mắt thì như hai đốm lửa nhấp nháy trong đêm trên sườn núi…
Người kỵ sĩ vinh quang thứ hai là Anatai-batyr. Đó là người lớn tuổi nhất trong hàng quân - gần mười sáu tuổi. Nó không hề thua kém ai trong bất cứ chuyện gì, chỉ có điều tầm vóc hơi thấp một chút, nhưng lại được cái khỏe
nhất trong cả bọn. Con ngựa của nó tên là Oktora cũng tương xứng với người hiệp sĩ. Đó là con ngựa tía phóng nhanh như tên bay. Bố của Anatai cũng đang chiến đấu ngoài mặt trận, trong các cuộc hành quân quang vinh đầy gian khổ. Và Anatai cũng thầm yêu cô bé Myrzagun-bikets xinh đẹp, có khuôn mặt tròn như vầng trăng. Nó ước ao được một lần hôn lên má người đẹp.
Người hiệp sĩ thứ ba là chàng thanh niên dễ thương Erkinbec-batyr. Cậu là con lớn nhất trong gia đình. Erkinbec là một người bạn tốt và đáng tin cậy. Thỉnh thoảng nó có hay thở dài và khóc thầm vì bố nó đã hy sinh anh dũng trong cuộc hành quân quang vinh để bảo vệ Moskva. Con ngựa chiến của Erkinbec cũng xứng đáng với người hiệp sĩ có tên là Akbaipak-kuliuk. Tên ấy có nghĩa là “Tuấn mã đi tất trắng”.
Còn người hiệp sĩ thứ tư là Erges-batyr, cũng là một người bạn và một người đồng chí. Cậu vừa tròn mười lăm tuổi. Erges thích nói thẳng ra những ý nghĩ của mình và thích tranh luận, nhưng trong công việc thì nó là một người đáng tin cậy. Bố của Erges cũng đang chiến đấu ngoài mặt trận trong các cuộc hành quân đầy gian khổ. Con ngựa của Erges cũng xứng đáng với người hiệp sĩ tên là Antyntuiak. Đó là một con ngựa có bộ móng màu vàng.
Bên cạnh các hiệp sĩ nói trên còn hiệp sĩ thứ năm nữa, đó là Kubatkun batyr! Cậu này cũng vừa tròn mười lăm tuổi và cũng là con lớn nhất trong gia đình. Bố của Kubatkun cũng có mặt trong các cuộc hành quân đầy gian khổ và đã anh dũng hy sinh trong những cánh rừng Belarus. Kubatkun là một người lao động không biết mệt mỏi. Và cũng như bất cứ một người hiệp sĩ nào, cậu cũng yêu quý con tuấn mã của mình tên là Zhibekzhan. Đó là một con ngựa có dải bờm mượt như tơ.
Đấy, những hiệp sĩ như thế đang đứng trước mặt ông chủ tịch Tynaliev. Còn đằng sau chúng, đằng sau những bả vai gầy gò, đằng sau những mái đầu và những chiếc cổ khẳng khiu là những bộ tứ đứng dọc theo máng cỏ ngoài trời. Có tất cả năm bộ tứ, gồm hai mươi chú “nghẽo” sẽ phải kéo những chiếc
cày hai lưỡi trên mảnh đất Akxai xa xôi…
Tiến vào Akxai, tiến vào Akxai! Những cánh đồng đang kêu gọi. Tiến vào Akxai khi tuyết vừa tan! Tiến vào Akxai, tiến vào Akxai với những chiếc cày! Tiến vào Akxai khi mặt đất vừa lộ ra và bắt đầu nhịp thở!
Nhưng tuyết vẫn còn đang bao phủ khắp nơi thành những lớp dày chặt. Tuy nhiên, ngày ấy đang đến gần. Và tất cả mọi công việc đang được chuẩn bị cho
ngày ấy…
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Và những ngày ấy đang đến gần…
Người ta gọi những con ngựa cày Akxai theo nhiều cách khác nhau - người thì gọi là ngựa Akxai - nhưng sự thật hiển nhiên mà ai cũng thấy rõ là sau hai tuần được chăm sóc, chúng đã khác hẳn so với những con ngựa khác
trong chuồng. Những chú ngựa Akxai được ăn uống đầy đủ xếp thành một hàng dài dọc theo mảng cỏ của đội quân đổ bộ. Ai cũng cảm thấy vui mắt khi nhìn những bắp thịt lại nổi cuồn cuộn trên mình các chú tuần mã, những cặp mắt lanh lợi, những đôi tai rất thính luôn luôn ve vẩy. Tư chất ngựa trong các con vật này được phục hồi và chúng trở thành những con ngựa tử tế. Những tính nết, những thói quen đã bị quên lãng từ lâu, nay lại xuất hiện. Những chú ngựa đã quen dần với chủ mới của mình. Chỉ cần một giọng nói, một bước chân quen thuộc là những chú ngựa sẽ lẳng lặng tiến đến với chủ, khe khẽ hí lên đầy vẻ âu yếm, dụi dụi cặp môi có những cái lông tơ xúc giác mượt mà vào chủ ra vẻ tin tưởng. Còn lũ trẻ cũng quen với bầy ngựa đến mức cũng đã bắt đầu quát tháo chúng như những ông chủ và đôi khi còn chui cả xuống bụng ngựa: “Nào, nào, nhấc chân lên, lùi lại! Đứng lại, đứng lại, ôi cái đầu ngu ngốc, vẫn còn kịp cơ mà! Ái chà, cũng biết xáp đến gần, cũng biết âu yếm cơ đấy, đồ ranh ma! Ông lại cho quả đấm bây giờ, đâu phải chỉ có mình mày!”.
Những ngày đầu, khi lũ ngựa được dẫn ra sông uống nước, chúng lê bước uể oải như đang mơ ngủ, nhưng dạo này chúng bắt đầu đùa nghịch, nhất là sau khi uống nước xong trở về. Bọn trẻ thường cưỡi trên lưng những con ngựa chiến của mình xua cả đàn ra sông. Xuntanmurat cưỡi con Chabdar, Anatai cưỡi con Oktora, Erkinbec cưỡi con Akbaipak, Erges cưỡi con Antyntuiak và Kubatkun cưỡi con Zhibekzha. Cả bọn quây xung quanh đàn
ngựa và dồn chúng ra sông.
Vào mùa đông, điều quan trọng cần phải lưu ý là chỗ uống nước cho ngựa phải thuận tiện, lối đi không được trơn trợt, nhất là khi có nhiều con cùng uống một lúc. Muốn vậy, trước đó phải đập hết những tảng băng bám ở mép nước, rải rơm vào những chỗ nguy hiểm, còn vào những ngày giá lạnh phải đục những lỗ băng trên mặt sông để lấy nước. Xuntanmurat đã phân công rất cụ thể, mỗi người phải trực một ngày, làm những công việc chuẩn bị cho ngựa uống nước.
Những chú ngựa chậm rãi, không bao giờ chen lẫn nhau vục mõm xuống dòng nước mát lạnh, trong vắt dưới sự giám sát của những chàng thợ cày. Dòng nước chảy lặng lờ dưới lớp băng dọc theo bãi bồi phủ đầy đá. Dưới lớp băng cứng nước vẫn chảy róc rách, đập vào những đám tuyết dày xốp…
Đôi lúc những con ngựa ngừng uống, lắng tai nghe tiếng nước chảy, đắm mình dưới những tia nắng vàng yếu ớt, sau đó lại tiếp tục vục mõm xuống nước. Khi đã uống no nê, chúng chậm rãi quay trở về chuồng, thỉnh thoảng lại nhảy cẫng lên đùa giỡn ầm ĩ, thở phì phì qua lỗ mũi, ve vẩy đuôi và chạy lồng lên. Bọn trẻ cưỡi ngựa vờn xung quanh, la hét om sòm.
Chỉ sau một thời gian ngắn, mọi người hay ghé vào trại ngựa để nhìn ngắm những chú ngựa của đội quân đổ bộ. Chúng thay đổi đến mức không ai có thể nghĩ rằng chính những con ngựa này lại là những bộ xương “nghẽo” cách đây hơn một tháng. Các già làng trong bản không bỏ lỡ cơ hội bắt đầu bàn tán về sự kiện này, họ cho rằng trên đời không có giống vật nào nhạy cảm hơn những con ngựa nên chúng được trao vào tay những người tốt bụng và cần cù. Chỉ cần anh đối xử tốt với nó, cho dù đó chỉ là một sự việc rất nhỏ như cái móng tay là nó sẽ trả ơn anh gấp trăm lần. Rồi các cụ lại bắt đầu kể ra những câu chuyện về các giống ngựa khác nhau từ thời xa xưa.
Chỉ riêng ông chủ tịch Tynaliev là còn tiết kiệm lời khen. Với cặp mắt
nghiêm khắc, xoi mói, ông chú ý xem xét bầy ngựa còn kỹ hơn cả chính những người lính đổ bộ. Ông còn kiểm tra từng chiếc cày, từng bộ đai thắng. Ngay cả những chiếc quần bị rách đầu gối, ông cũng hỏi tại sao không vá lại. Nếu mẹ có bận thì chẳng lẽ tự mình không biết cầm lấy cây kim hay sao? Ông còn hỏi cả về chăn phủ mình ngựa, khi nào thì những chiếc chăn ấy làm xong? Không thể mang theo cả chuồng ngựa đi Akxai được, mà ở đó, giữa thảo nguyên, ban đêm sẽ rất lạnh. Ông chủ tịch thúc giục, nhắc nhở, nhấn mạnh rằng thời gian còn lại rất ít, rằng có những việc nếu bây giờ không hoàn thành thì khi đến Akxai sẽ không kịp làm nữa. Đôi khi ông còn la hét, quát tháo, trách mắng cả ông đội trưởng Sekis khi những người đánh xe không kịp đưa xe tải chở cỏ chẽ ba dự trữ về cho ngựa cày, mà chủ yếu là ưu tiên cho những con ngựa Akxai.
Chỉ còn những bà mẹ của đám trẻ là chưa ai tỏ ý hoan hỉ cả. Bà này nặng lời, bà kia đay nghiến, nào là bịa đặt ra cách trừng phạt con cái người ta, vẽ vời ra chuyện đội quân đổ bộ mà từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay, chưa ai thấy bao giờ, nào là bố chúng đã ở ngoài mặt trận, bây giờ lại đến lượt con nữa chẳng khác gì những người lính, nào là chúng chẳng còn lúc nào để giúp đỡ gia đình, chẳng còn lúc nào để mẹ con tâm sự, chuyện trò, suốt ngày từ sáng đến tối chỉ lăn lóc ở chuồng ngựa… và các bà còn nói nhiều điều khác, nghĩ lại cho đến cùng cũng có điều nghe ra hợp lý.
Tất cả những lời phàn nàn ấy phần lớn trút xuống đầu Xuntanmurat, bởi lẽ nó là người chỉ huy. Nó phải chịu trách nhiệm về tất cả các bạn. Nhưng khó hơn cả là việc thuyết phục cho các mẹ yên lòng. Về việc này, mẹ cậu chỉ phẩy tay rồi nói, giọng mệt mỏi: “Chỉ mong sao bố trở về, khi ấy bố sẽ phán xử. Còn mẹ, thế là đủ lắm rồi. Con sẽ tỉnh ngộ ra khi nào phải nằm liệt ra đấy, nhưng lúc ấy chắc sẽ muộn…”. Tội nghiệp cho mẹ, nhưng nó biết làm sao, người khác ở địa vị nó sẽ hành động thế nào? Mỗi đứa trong đội quân đổ bộ đều có bốn con ngựa phải chăm sóc, ngoài ra còn bao nhiêu việc khác nữa. Nào cho ăn, cho uống, nào tắm rửa, chuẩn bị thức ăn rồi lại cho ăn, cho uống,
lại tắm rửa, dọn phân, công việc cứ thế lặp đi lặp lại liên tục… Rồi còn công việc lau rửa và chữa chạy các vết hắc lào cũ, các vết lở loét trên vai, trên cổ những con ngựa. Người thú y khu vực cấp đủ các loại dung dịch, thuốc mỡ,
nhưng công việc chữa chạy thì chính bọn trẻ phải đảm nhiệm. Mà việc ấy phải làm hàng ngày nếu không sẽ chẳng khỏi. Dù lũ ngựa có được ăn uống tốt đến đâu đi nữa nhưng cũng không thể đặt vòng cổ lên những vết thương của chúng được. Công việc như vậy đấy, biết làm sao đây! Đàn ngựa chẳng có con nào nguyên vẹn cả. Con nào cũng đầy những vết lở loét trên vai, những vết sây sát ở chân. Nhưng con ngựa đâu có hiểu là người ta đang chữa chạy cho nó, đố mà giữ được nó đấy.
Khi những con ngựa đã trở nên có da có thịt, lại phải cho chúng vận động, chạy nhảy để giãn gân, giãn cốt. Hàng ngày phải cho mỗi con ngựa chạy nước kiệu khoảng một tiếng rưỡi, nếu không, như ông đội trưởng Sekis lắm lời: “Công ấy cũng biến thành công cốc”. Và đến đây một chuyện không may đã xảy ra…
Cả bọn mỗi đứa cưỡi trên lưng một con “ngựa chiến” lùa đàn ngựa đi tập luyện. Xuntanmurat trên lưng con Chabdar, Anatai cưỡi con Oktora, Erkinbec cưỡi con Akbaipak, Erges cưỡi con Antyntuiak và Kubatkun cưỡi con Zhibekzhan. Như đã thỏa thuận từ trước, ban đầu chúng cho ngựa phi nước kiệu chạy vòng quanh sân, sau đó sẽ phi dọc theo đường cái ra ngoài bản. Ở đây, chúng cho ngựa phi nước kiệu nhanh trên cánh đồng ngập tuyết.
Hôm ấy là một ngày nắng ấm. Không khí tràn ngập ánh sáng lấp lánh, thấm đượm hương vị của mùa xuân. Những đỉnh núi phủ đầy tuyết sừng sững hiện rõ trên nền trời, người ta có cảm giác nếu như có một con ruồi xuất hiện
trên sườn núi trắng tinh ấy thì chắc hẳn ở đây cũng nhìn thấy và nghe rõ cả tiếng vo ve của nó.
Mùa đông đang lui dần, vạn vật bắt đầu được mặt trời sưởi ấm.
Những chú ngựa được phi thoải mái. Chính bản thân chúng cũng muốn chạy nhảy, đùa giỡn. Nới lỏng dây cương ra, phi nhanh hơn nữa, nhanh hơn nữa! Đàn ngựa muốn chuyển sang phi nước đại. Xuntanmurat đang chạy dẫn đầu thì Anatai thúc sau lưng:
- Sao chậm thế? Phóng nhanh lên đi!
Nhưng Xuntanmurat với cương vị của người chỉ huy không cho phép phóng nhanh hơn nữa. Đây là chạy tập luyện chứ đâu phải là cuộc đua, mục đích là rèn luyện cho đàn ngựa để sau này chúng có thể kéo cày dễ dàng hơn. Đội quân vẫn tiếp tục cho đàn ngựa chạy như cũ. Một lát sau chúng ngoặt ra phía cánh đồng và chuẩn bị quay trở về thì bỗng nghe thấy tiếng người vọng từ phía bên kia đồi sang. Đám học sinh tan học đang lũ lượt kéo nhau về. Khi
chúng nhìn thấy những chú lính đổ bộ liền giơ tay vẫy lia lịa. Các chú lính cũng giơ tay vẫy lại, to mồm la hét. Đó là các bạn học sinh lớp bảy cũ của các cậu cùng học sinh các lớp khác. Bọn học sinh đi thành một đám đông, cười nói ầm ĩ. Xuntanmurat nhận ra ngay Myrzagun trong đám đông ấy. Không hiểu tại sao cậu lại nhận ngay ra được, nhưng đúng là cô ấy. Có thể cậu nhận ra Myrzagun qua khuôn mặt của cô lấp ló trong chiếc khăn choàng nhỏ, qua vóc dáng, bước đi, giọng nói. Và Myrzagun có lẽ cũng nhận ra cậu. Cùng với các bạn, từ trên đồi cô chạy xuống giơ cặp lên vẫy vẫy, mồm cũng kêu la. Hình như cô kêu: “Xuntanmurat-at!”, hình như cô đang chạy thẳng đến chỗ cậu, hai tay dang rộng. Và ngay lúc ấy, trong óc Xuntanmurat một tia sáng bỗng lóe lên và cậu chợt hiểu ra rằng cậu vẫn thường xuyên nghĩ đến Myrzagun, vẫn thương nhớ cô trong suốt những ngày qua… niềm sung sướng giống như một đợt sóng bỗng dâng lên, choán ngợp tâm hồn, cuốn cậu quay tròn trong cơn xoáy…
Và thế là cả bọn chẳng ai bảo ai đều phi nước đại về phía ngọn đồi, nơi có các bạn học của mình đang ùa xuống. Các cậu phi vùn vụt, băng qua cánh đồng lên đến sườn đồi. Chúng có thể phóng dọc theo sườn đồi, diễu qua trước
những cặp mắt thán phục của các bạn như một đoàn kỵ sĩ sau cuộc ngao du rồi sau đó phóng thẳng về chuồng. Xuntanmurat đã tính toán như vậy. Nhưng bỗng nhiên Anatai phóng vọt lên trước. Con ngựa Oktora của nó là một chú ngựa chạy khá nhanh.
- Dừng lại, đi đâu thế kia! - Xuntanmurat hét lên cảnh cáo, nhưng Anatai không thèm quay lại.
Một ý nghĩ kỳ lạ bỗng lóe lên làm Xuntanmurat nóng ran cả người: “Chắc cậu ta làm như vậy là để Myrzagun nhìn thấy cậu ta!”. Xuntanmurat điên tiết, không chịu thua bạn. Cậu điên cuồng thúc con Chabdar phóng theo Anatai, vừa phóng vừa la thét ầm ĩ, cúi rạp người trên lưng ngựa, Anatai càng ra roi mạnh hơn. Thế là hai chàng ganh đua xem ai thắng ai và chàng nào đến trước với cô gái, chàng nào dũng mãnh và hơn tài. Chà, chúng phi mới khiếp làm sao! Nói gì thì nói, con Chabdar vẫn khỏe hơn, chả thế mà bố nó đã từng nói Chabdar có khả năng trở thành một con ngựa đua kỳ diệu. Với vẻ đắc thắng Xuntanmurat đuổi kịp Anatai trong một cơn lốc. Cậu liếc sang và nhìn thấy tất cả lũ bạn học đang chạy ào ào bỗng dừng lại theo dõi cuộc đo sức cuồng nhiệt và cậu cũng nhìn thấy, nhìn thấy rất rõ Myrzagun giữa đám bạn ấy. Mà có lẽ là cậu cũng chỉ nhìn thấy có cô ấy thôi. Chính vì cô ấy mà cậu đã xông vào cuộc đọ sức tay đôi và đã chiến thắng. Xuntanmurat vượt qua Anatai và phóng thẳng lên sườn dốc để đến gần Myrzagun hơn và may sao là cậu đã cho ngựa vượt qua sườn đồi một chút nếu không thì ai mà lường trước được sự việc này sẽ kết thúc ra sao. Bởi vì ngay vào khoảng khắc ấy, sau khi Xuntanmurat đuổi kịp Anatai và vừa vượt được nửa thân ngựa, cậu nhận thấy hình như có chuyện gì đó xảy ra với Anatai. Thấy mọi người bỗng kêu thét lên, Xuntanmurat ghìm cương, quay đầu lại và không nhìn thấy Anatai đâu nữa. Khó khăn lắm cậu mới hãm được con ngựa đang quá đà và quay lại, bây giờ cậu mới nhìn thấy ngựa của Anatai đã bị ngã, trượt theo sườn dốc, cày trên mặt tuyết một vệt rộng nham nhở, còn chính Antai đã bị hất văng sang một bên. Lũ trẻ chạy đến chỗ Anatai lúc ấy đang khó nhọc chậm chạp đứng
dậy.
Xuntanmurat hoảng hồn. Khi nhảy xuống ngựa cậu nhìn thấy máu trên tay Anatai và càng hoảng sợ hơn. Trong một giây ánh mắt của cậu và Myrzagun gặp nhau, trông vẻ mặt cô gái tội nghiệp và bối rối, nhưng cô vẫn đẹp nhất…
Vừa hoàn hồn, Anatai liền chạy xuống ngay chỗ con ngựa đang giãy giụa trong đống tuyết chưa đứng dậy được vì bị vướng víu trong đám yên cương. Vừa lúc ấy những chú lính đổ bộ còn lại cũng kịp xô tới. Cả bọn xúm lại mỗi người một tay nâng con ngựa dậy. Lúc ấy Xuntanmurat loáng thoáng nghe thấy các bạn nói gì đó với nhau và nó hiểu rằng hình như sự việc không đến nỗi nghiêm trọng lắm.
Việc khoe mẽ trước mắt Myrzagun-bikets của các chàng hiệp sĩ đã kết thúc một cách sượng sùng như vậy. Bây giờ mà nhìn thấy Myrzagun thì xấu hổ chết. Cả bọn lặng lẽ quay về vì đã đến lúc phải đưa ngựa về chuồng. Chỉ khi về gần đến bản, Erges mới thấy con Oktora của Anatai đi khập khiễng.
- Dừng lại đã! - Nó kêu lên. - Cậu không thấy con ngựa của cậu đi khập khiễng à!
- Khập khiễng thật không? - Anatai hốt hoảnghỏi lại.
- Cậu thúc ngựa cậu vượt lên một tí xem nào! - Xuntanmurát ra lệnh. - Đi đi, để chúng tớ nhìn xem có đúng không.
Quả thật đúng như vậy. Con Oktora nghiêng hẳn sang phía chân trước bên phải. Bọn trẻ xúm lại sờ nắn và thấy khớp xương ở cổ chân con ngựa đã bắt đầu sưng lên. Thật là tai hại. Biết làm thế nào bây giờ? Bao nhiêu công lao chuẩn bị cho đàn ngựa cày vậy mà bây giờ cơ sự lại như thế. Sao lại có thể chạy đua trên sườn đồi ngập tuyết như vậy cơ chứ, vì bất cứ lúc nào ngựa cũng có thể bị trượt chân và lăn xuống chân đồi. Sự việc đã xảy ra đúng như
thế. Còn may là không chết người đấy.
- Tại cậu đấy. - Bất ngờ Anatai thốt lên, mặt đỏ bừng, tức giận. - Tại cậu đã đuổi theo!
- Thế không phải chính mình đã bảo cậu: “Dừng lại, đi đâu thế kia?” hay sao?
- Thế thì đừng vượt tớ có hơn không nào!
- Thế tại sao cậu lại phóng đi?
Lũ trẻ bắt đầu cãi cọ ầm ĩ, thiếu chút nữa là đánh nhau nhưng chúng đã kịp tự kiềm chế. Thế là sau cuộc chạy tập dượt đàn ngựa trở về với một con bị khập khiễng. Cả bọn lặng lẽ đi tiếp, lặng lẽ đưa ngựa vào chuồng. Con Oktora cũng được buộc vào cạnh máng cỏ. Mà chúng còn biết làm gì hơn? Đứa nào cũng bối rối, cố tránh mặt nhau. Chúng hiểu rằng thế nào rồi cũng phải trả lời về việc này. Mấy đứa khuyên Anatai nên đến chỗ người coi ngựa và trình bày sự việc đã xảy ra, nói rằng con Oktora bị khập khiễng, bây giờ phải làm gì? Nhưng nó cứ khăng khăng:
- Tại sao mình phải đi? Mình đâu có lỗi. Chúng ta có người chỉ huy, cứ để cậu ấy đi báo cáo.
Và thế là bọn trẻ lại cãi nhau, thiếu chút nữa là đánh lộn. Điều làm cho Xuntanmurat bực mình nhất là Anatai cứ khăng khăng cho mình là không có lỗi.
- Cậu là đồ đàn bà! - Xuntanmurát nói đầy vẻ khinh bỉ. - Cậu chỉ anh hùng cái mồm! Hơi một tí là chui ngay vào bụi! Cậu tưởng mình sợ à? Nếu đã vậy thì mình sẽ đi và sẽ nói.
- Thì cứ đi đi! Cậu là chỉ huy cơ mà. - Anatai vẫn không chịu thua.
Xuntanmurat lấy hết sức can đảm kể cho người coi ngựa nghe toàn bộ sự việc đã xảy ra. Người coi ngựa hoảng hốt chạy lại xem xét con ngựa què. Mọi việc thế là ầm ĩ cả lên. Đâu phải chuyện đùa, làm ảnh hưởng đến sức kéo ngay sát vụ làm đất. Và ngay lúc ấy ông đội trưởng Sekis bỗng xộc đến. Hình như có người đã kịp nói với ông. Lúc ấy người coi ngựa vừa xem xét chân đau của con Oktora, cố xác định xem tại sao khớp xương bị sưng - bị bong gân hay bị rạn xương - thì bỗng có tiếng vó ngựa lộp cộp phía sau. Mọi người ngoái cổ lại thì thấy ông đội trưởng lù lù ngồi trên lưng ngựa đứng ngay sau lưng họ. Ông đội trưởng lặng lẽ xuống ngựa tiến lại phía bọn trẻ, mặt hầm hầm, mái tóc rối bù:
- Có chuyện gì ở đây?
- Chúng tôi nghĩ mãi mà không biết là bị bong gân hay rạn xương.
- Nghĩ, nghĩ cái gì? - Ông đội trưởng Sekis gầm lên, đỏ bừng mặt vì tức giận. - Phải đưa ngay tất cả bọn chúng ra tòa! Tôi sẽ bắn ngay tại chỗ!
Ông Sekis vung roi xông vào đám thợ cày. Bọn trẻ bỏ chạy tán loạn. Ông đuổi theo, nhưng chẳng bắt được đứa nào, chỉ tái mặt thêm vì thở dốc và lại càng tức giận hơn, tay vung mạnh chiếc roi ngựa, miệng la hét ầm ĩ:
- Chúng tôi giao những con ngựa cày ấy cho bọn nào cơ chứ! Đúng là đồ phá hoại! Đồ phát xít! Cần phải bắn hết không chừa đứa nào! Bao nhiêu công sức, bao nhiêu thức ăn trở thành công cốc! Bây giờ biết cày bằng cái gì?
Ông lão la hét, chửi toáng lên khắp sân và bỗng đụng phải Xuntanmurat. Khi các bạn bỏ chạy, Xuntanmurat vẫn đứng nguyên một chỗ. Nó đứng yên, mặt tái mét, hoảng sợ nhìn thẳng vào mặt ông đội trưởng nhưng vẫn không dám lẩn trốn trách nhiệm.
- Á à, mày đây hả! Mày vẫn còn dám nhìn mặt tao à! - Không kìm nổi,
ông Sekis quất cho người chỉ huy một roi chéo từ vai xuống. Nhưng khi giơ roi lên lần thứ hai ông sực nghĩ lại, thở khò khè, giậm chân thình thịch: - Chạy đi! Đồ chó đẻ! Tao bảo mày chạy đi cơ mà! Chạy đi! Tao quật chết bây giờ!
Xuntanmurat né người sang một bên, bất giác giơ hai tay lên che mặt nhưng vẫn đứng im như cũ nhìn ông lão bằng cặp mắt sợ hãi. Nó chờ ngọn roi thứ hai quất xuống vắt chéo sau lưng, xoắn da xoắn thịt. Nó cố tập trung mọi sức lực để không bỏ chạy, để chịu đựng…
- Thôi được rồi! - Bỗng dưng ông hạ giọng sau khi đã chứng kiến sự ngang bướng của thằng bé. - Phần còn lại sau này mày sẽ nhận tiếp khi bố mày từ mặt trận trở về. Lúc ấy tao sẽ nện thêm cho mày một trận nữa vì chuyện này!
Xuntanmurat vẫn im lặng, còn ông Sekis vẫn chưa nguôi cơn giận. Ông dẫm bạch bạch hai chân, đi đi, lại lại, hai tay giơ lên:
- Người ta nói với nó là chạy đi thế mà nó cứ đứng trơ trơ! Mày thử nghĩ xem, chẳng lẽ tao đuổi kịp mày à! Sức đâu mà tao đuổi kịp chúng mày! Ít ra thì mày cũng phải chạy đi vì kính trọng tao chứ và tao cũng đỡ đau lòng hơn! Còn đánh mày, quần áo thì mỏng dính, người thì gầy như mõ làng. Cái xác mày đâu phải để cho roi vọt. Giá mà mày có da có thịt thì tao cũng nện tiếp rồi! Thôi được rồi! Mày tha lỗi cho lão già này. Khi bố mày về, hai cha con mày đánh lại tao cũng được! Còn bây giờ thì nói đi, chúng mày đã làm cái trò ngu ngốc gì vậy?
Tất cả đầu đuôi câu chuyện không may ngày hôm ấy là như vậy. Xuntanmurat là người phải hứng chịu cả. Thật đáng đời! Lúc ấy thì làm sao mà ngăn được ông đội trưởng khỏi đánh. Bao nhiêu công lao, bao nhiêu mồ hôi vất vả đổ hết xuống sông, xuống ao cả. Con ngựa què thì còn làm gì được nữa? Họa chăng chỉ để làm thịt. Mà ai nỡ lòng nào ăn thịt súc vật cày kéo!
Hy vọng duy nhất, như sau này ông lão Sekis và những người am hiểu ngựa đã nói, là chỗ bị thương không nguy hiểm lắm. Con ngựa của Anatai được dẫn đến nhà một ông lão biết chữa chạy cho ngựa. Thế là hàng ngày phải chở cỏ đến, rồi lúa kiều mạch, phải cử người trực nhật ở đó. May mắn làm sao, năm ngày sau con Oktora được dẫn trở lại chuồng ngựa, nó đã khỏi.
Và nói chung là tuần lễ ấy đã trôi qua một cách nặng nề. Ở nhà, mẹ lại bị ốm. Lúc đầu mẹ chỉ cảm thấy khó chịu trong người, sau đấy thì nằm hẳn và sốt cao. Xuntanmurat đành phải ở nhà để chăm sóc mẹ và mấy đứa em. Chỉ đến khi ấy nó mới nhận thấy căn nhà của mình quả là tuềnh toàng, thiếu thốn. Khi bố ra mặt trận, trong nhà vẫn còn chục cừu, thế mà bây giờ không còn lấy một con. Hai con đã làm thịt, số còn lại đã phải bán đi để trả nợ và đóng thuế quốc phòng cùng những thứ thuế khác. Rất may là họ vẫn còn một con bò cái, bầu vú đã căng, chắc là sắp đẻ. Ngoài ra, chú lừa Bờm Đen của Adzhimurat cũng đã lớn. Đấy, tất cả gia súc của họ chỉ vậy. Mà ngay chỉ từng ấy thôi cũng chẳng biết lấy gì cho chúng ăn. Trên nóc nhà kho vẫn còn giữ lại được một số bắp khô, may ra cũng chỉ đủ cho con bò cái đến kỳ sinh nở nếu như mùa đông không kéo dài, còn nếu mùa đông kéo dài, ai mà biết được sự thể sẽ ra sao. Riêng chú lừa con phải tự kiếm lấy thức ăn. Nó có thể gặm cỏ dại mọc quanh sân. Về chuyện củi đốt, lại còn gay hơn nữa - phân khô sắp hết mà củi cành còn lại cũng chỉ đủ cho vài ngày. Còn sau đó? Con chó Aktos cũng đói rã. Xuntanmurat buồn bã, chán nản. Nó cảm thấy hổ thẹn cho chính bản thân mình. Suốt ngày cắm đầu vào công việc ở trại ngựa chuẩn bị cho đội quân đổ bộ Akxai, nó không để ý thấy nhà cửa đã lâm vào tình trạng hoang vắng. Khi bố còn ở nhà có khi nào lại như vậy đâu? Bao giờ bố cũng dự trữ cỏ khô đủ cho mùa đông và mùa xuân. Củi đốt cũng chuẩn bị đầy đủ. Nói gì nữa, khi bố còn ở nhà cuộc sống của gia đình được sắp đặt khác hẳn, hợp lý, đầy đủ, đâu ra đấy. Mà chẳng phải chỉ ở nhà, ở đâu bố cũng làm được như thế. Chỉ nói riêng cái sân thôi, bây giờ trông cũng đã khác. Có cảm giác, như thiếu thiếu một cái gì, cứ như là lá trên cây vào mùa thu vậy. Bản làng vẫn ở nguyên chỗ cũ, đường sá và những ngôi nhà vẫn như cũ, thế mà không biết
tại sao trông vẫn không giống như hồi bố còn ở nhà. Ngay cả những tiếng gõ lọc cọc của những chiếc xe tải đi trên đường cái bên cạnh sân, nghe cũng không còn có vẻ háo hức, thích thú như dạo bố còn ở nhà, bố cũng đi trên những chiếc xe ấy, trên con đường ấy…
Những người có dịp đi Dzhambul về kể lại rằng mọi thứ ở đấy đều trở nên đắt đỏ, dân chúng cũng bị đói kém, lo âu và ai đến đấy cũng muốn về cho mau. Nghĩa là thành phố cũng không còn như xưa nữa, như hồi hai cha con đã tới.
Tại sao lại thế nhỉ? Hắn là vì không có bố nên mọi chuyện đã trở nên tồi tệ… Không biết bố đang ở đâu, có chuyện gì xảy ra với bố không? Bức thư cuối cùng gia đình nhận được cách đây đã một tháng rưỡi. Mẹ thở dài, an ủi rằng thư từ hay bị thất lạc, nhất là những bức thư từ mặt trận. Hơn nữa, chắc
ở ngoài ấy chẳng ai còn thời gian đâu mà nghĩ đến chuyện viết thư. Mẹ nghĩ như vậy cũng có lý. Hồi bố đi công trường thủy lợi đào kênh Chuiski, thư về chậm là một chuyện, còn đằng này là những bức thư từ mặt trận. Ai cũng phải suy nghĩ về điều ấy, cả mẹ và đám con cái trong nhà.
Hôm kia, lúc trời còn sớm, bỗng nhiên con chó sủa rộ lên một lát sau đó nó thôi sủa và rên ư ử tỏ vẻ mừng rỡ. Có tiếng gõ vào cửa sổ. Mẹ đang ốm nằm trên giường liền nhỏm dậy vẻ mặt tươi tỉnh. Xuntanmurat chạy ngay lại chỗ cửa sổ. Có người đang đứng ngoài cửa. Mẹ là người đầu tiên nhận ra người đó.
- Cậu Nurgazy đến. - Mẹ nói với nó. - Con ra đón cậu đi. - Sau đó mẹ lại vào giường, hai hàm răng đánh lập cập vì lạnh.
Người anh ruột của mẹ là cậu Nurgazy sống ở trên núi, cả đời làm nghề chăn cừu cho nông trang bên cạnh. Có lần người ta đã gọi cậu nhập ngũ mặc dù cậu đã quá tuổi tòng quân từ lâu rồi, nên sau đó từ Dzhambul người ta lại trả cậu về cùng với một số người chăn cừu khác. Cậu đi, đàn cừu chẳng có ai
chăm sóc, không lẽ lại bỏ mặc. Đã lâu cậu Nurgazy không đến, vì vậy khi thấy cậu xuất hiện cả nhà rất mừng. Lần này, khi nghe tin em gái bị ốm, cậu tranh thủ xuống núi từ tối, lúc đàn cừu đang giữ trong bãi chăn. Cậu không ở chơi được lâu chỉ đến thăm một chút xem mọi chuyện ra sao rồi phải về ngay.
Với vóc dáng to lớn, chắc nịch, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng lấm tấm những hạt sương muối, trong chiếc áo choàng bằng lông dày, đầu đội mũ rộng bằng lông cáo, chân đi ủng bằng dạ ống cao tới đầu gối, cậu bước vào nhà mang theo cả hơi lạnh lẫn mùi cừu. Ngay lập tức căn phòng trở nên chật chội và náo nhiệt. Cậu bỏ mũ ra, ngồi xuống cạnh giường mẹ, cầm lấy bàn tay nóng bỏng của mẹ trong bàn tay chắc nịch của mình rồi xem mạch. Cậu nghe rất kỹ. Cổ tay xương xẩu của mẹ nằm lọt thỏm trong bàn tay cứng cáp với những ngón màu nâu sẫm co lại một cách vụng về của cậu. Hình như cậu đã xác định được một điều gì đó. Cậu ho khẽ một tiếng và sau khi suy nghĩ một lát cậu đưa tay lên cằm vuốt râu, mỉm cười nói với Xuntanmurat:
- Không có gì đáng ngại cả! Mẹ cháu chỉ bị cảm lạnh, hơi nặng một chút thôi. Chắc là bị nhiễm lạnh quá lâu. Cậu cũng đoán thế nên có mang về ít thịt và mỡ cừu ướp muối. Chỉ cần húp một bát surba (1)nóng với mỡ cừu ướp muối, cho thêm hành, hạt tiêu để mồ hôi toát ra là khỏi ngay thôi. Cậu dặn mẹ như vậy. Còn cháu, Xuntanmurat, cháu hãy mang cái túi đồ trên lưng ngựa vào đây, lấy hết các thứ trong đó ra... Cậu ngồi chơi một lát rồi phải đi ngay, không thể bỏ đàn cừu được.
-----
(1)Surba: Súp thịt.
Trong lúc mẹ nói chuyện với cậu về mọi chuyện sinh hoạt, đời sống, Xuntanmurat đã kịp nhóm lò, pha trà. Lúc ấy mấy đứa em cũng vừa thức dậy. Chưa kịp mặc quần áo, chúng nhảy xuống giường, sà ngay vào lòng cậu. Cậu ủ chặt lũ trẻ trong chiếc áo choàng để ngồi cạnh mình, nhưng chúng cứ leo
lên đùi, lên cổ cậu. Nhất là thằng Adzhimurat - đứa cháu cưng của cậu - dở trò nũng nịu, hệt con nít. Nó cứ quấn quýt, rúc rúc đầu vào người cậu, cứ như một chú bê con, mặc dù đã học lớp ba rồi chứ ít đâu. Nó lấy mũ lông cáo của cậu đội lên đầu, với lấy chiếc roi da của cậu rồi leo phắt lên cổ cậu và nhún nhảy làm điệu bộ của người đang cưỡi ngựa vậy.
- Mày không biết xấu hổ à? Xuống ngay! - Xuntanmurat giật nó xuống hai lần, nhưng chính cậu Nurgazy lại bảo:
- Đừng động đến nó, cứ để nó nghịch một tí.
Sáng hôm ấy ồn ào, vui vẻ làm sao! Song đã đến giờ Adzhimurat đi học nhưng nó chẳng chịu sửa soạn gì. Khi ấy mẹ buộc phải quát nó một tiếng, thế mà nó vẫn cứ lì ra và tiếp tục quấn quýt quanh cậu nó. Cậu Nurgazy đành phải nhắc nó nhanh nhanh lên. Khó khăn lắm mới bắt được nó mặc quần áo. Rồi sau đó, chính Xuntanmurat phải lôi nó ra cửa. Thằng bé bướng bỉnh cự lại và khi đã bị lôi ra khỏi cửa nó liền hét toáng lên. Thật tội nghiệp cho nó, cuối cùng nó cũng vẫn đi học, nhưng vừa đi vừa ấm ức khóc.
Cậu Nurgazy bênh đứa cháu cưng:
- Cháu làm gì thằng bé thế? - Ông nhìn Xuntanmurat vẻ trách móc. - Có gì đâu, taiake (1), cháu có động đến ngườinó đâu.
-----
(1)Taiake: Cậu.
- Sao nó lại khóc?
- Anh ơi, Xuntanmurát không làm gì em nó đâu. - Mẹ như hiểu ý, nhấc đầu dậy nói chen vào. - Không phải đâu, anh Nurgazy ạ, nó nhớ bố nó đấy
thôi. Chính vì thế mà lũ trẻ cứ bám lấy anh. Thật là khốn khổ. Cả nhà chờ tin bố nó hết cả hơi anh ạ, giá mà biết được dù chỉ một tin nhỏ. Đã gần hai tháng rồi mà chẳng nghe ngóng được gì...
Cậu Nurgazy an ủi mẹ, khuyên giải đừng khóc và giữ sức khỏe để chăm sóc cho bọn trẻ. Cậu kể những trường hợp đôi khi người ta cứ tưởng là đã chết rồi, thế mà nửa năm sau lại bỗng nhận được thư. Chiến tranh là như vậy...
Chính lần ấy, bên cạnh người mẹ đau yếu, Xuntanmurat đã cảm nhận được một cách đầy đủ sự trống vắng trong cuộc sống khi thiếu bố. Giá còn bé như Adzhimurat, nhất định nó sẽ gào khóc lên cho thỏa nỗi thương nhớ. Và nó sẽ lao ra ngoài đường khóc cho mọi người thấy. Chỉ cần một chút hy vọng mong manh nào đó thôi. Cho dù bố không về ngay bây giờ cũng được, miễn là bố vẫn còn sống, khi ấy chắc sẽ dễ thở hơn và sẽ chịu đựng được, sẽ đợi được. Lúc này Xuntanmura mới thông cảm được một cách sâu sắc nỗi lòng của cô giáo Inkaman-apai của mình.
Có lần cô giáo đến trại ngựa để chờ xe đi nhờ lên huyện. Vẫn trong chiếc khăn len đan sợi thô, cô đứng bên cái cổng xiêu vẹo, dáng vẻ đơn độc, khuôn mặt già hẳn đi với cặp mắt buồn tê tái. Nhưng chỉ một ngày sau khi cô ở trên huyện về, cô trở nên một người khác hẳn, cô trẻ lại nhiều đến mức khó nhận ra cô giáo hôm qua. Hay nói cho đúng hơn, cô đã trở lại như xưa. Ngay cả những nếp nhăn trên mặt cô cũng biến đi đâu mất cả. Cô niềm nở, quan tâm đến công việc của những đứa học trò của mình. Xuntanmurat dẫn cô đi xem khắp chuồng ngựa, chỉ cho cô xem những con ngựa của đội quânđổ độ.
- Đây là những bộ tứ của chúng em, cô Inkaman-apai ạ! Chúng đứng dọc theo máng cỏ ấy.
- Những con ngựa đẹp thật, nhìn là biết ngay chúng được chăm sóc cẩn thận. - cô giáo khen.
- Giá cô nhìn thấy trước kia chúng như thế nào. - Xuntanmurat kể: - Con nào cũng kiệt sức, lở loét đầy mình, vai bị trầy da, mưng mủ, chân cẳng xây xước. Còn bây giờ thì chính chúng em cũng không nhận ra ngựa của mình nữa. Con Chabdar của em đây, cô Inkaman-apai ạ. Cô thấy có tuyệt không? Con này bố em để lại đấy. Còn đây là con Akabakai, đây là con Gientaman…
Sau đó, nó chỉ cho cô giáo xem những bộ đai thắng chuẩn bị cho vụ cày đã làm gần xong, rồi đi xem những chiếc cày. Tất cả đã được chuẩn bị đâu vào đấy, ngay bây giờ có thể thắng ngựa, cày ngay được...
Cô giáo tỏ ra rất hài lòng. Đến lúc chia tay, cô mới thú nhận rằng lúc đầu cô rất đau khổ vì chuyện này, trong thâm tâm cô không đồng ý với việc bắt lũ trẻ phải bỏ học. Còn bây giờ cô đã nhận thấy sự hy sinh ấy không phải là vô ích. Điều quan trọng nhất hiện nay,cô nói, là chúng ta phải chiến thắng để mọi người từ
mặt trận sớm trở về, còn sau đó chúng ta sẽ làm bù lại những công việc đã bị bỏ qua. Nhất định chúng ta sẽ làm được...
Té ra là cô giáo Inkaman-apai vừa đến gặp một bà thầy bói nổi tiếng. Bà này có cái lệ là nếu như quẻ bói là điềm tốt thì bà sẽ không lấy một xu tiền công, vì bà có thói quen bao giờ cũng mừng cho hạnh phúc của người đi cầu may như hạnh phúc của chính mình, bởi vậy mà bà không bao giờ bà nói láo. Sau khi đã rút bài ba lần, bà thầy bói nói với cô rằng con trai cô vẫn còn sống, không bị bắt mà cũng chẳng bị thương, chỉ có điều anh đang đảm nhận nhiệm vụ không được phép viết thư. Còn lúc nào người ta cho phép thì lúc ấy cô sẽ thấy, thư về liên tục... Không biết chuyện ấy có thật hay không nhưng chính người đánh xe đã chở cô lên huyện kể cho Xuntanmurat nghe lúc họ ở trong trại ngựa.
Xuntanmurat rất ngạc nhiên khi biết rằng chính cô Inkaman-apai lại đi xem bói, nhưng bây giờ khi hiểu được những nỗi lo lắng và đau khổ của cô,
nó thầm nghĩ, khi nào mẹ đỡ hơn nó cũng sẽ khuyên mẹ đi xem bói để hỏi về tin tức của cha xem sao.
Mỗi khi nghĩ về tất cả những chuyện ấy quả thật là nặng nề và đáng sợ. Tuy nhiên, vẫn có những giây phút mà những ý nghĩ của Xuntanmurat trở nên tươi sáng và dễ chịu hơn giống như những dòng nước từ sâu dưới lòng đất vẫn lặng lẽ tuôn trào lên qua những mạch ngầm. Đó là những ý nghĩ về Myrzagun. Mặc dù cậu dường như cố tình không nghĩ đến chuyện ấy nhưng những ý nghĩ như vậy cứ tự nhiên kéo đến giống như cây cỏ tự vươn lên khỏi mặt đất. Chính điều ấy từ trong bản chất của nó đã chứa đựng một niềm sung sướng ngọt ngào và vì vậy mà Xuntanmurat không muốn chia tay với những ý nghĩ ấy, vẫn cứ muốn nghĩ mãi về Myrzagun. Và mỗi khi nghĩ đến cô, cậu lại muốn làm một việc gì đó, không hề run sợ trước bất kỳ chuyện gì, bất cứ một tai họa hoặc một khó khăn nào. Nhưng điều cậu mong muốn hơn cả là Myrzagun sẽ phải biết tất cả những điều đó, tất cả những gì mà cậu nghĩ về cô.
Xuntanmurat không thể hiểu được một cách rõ ràng, tất cả những điều đang xảy ra với mình gọi là gì. Tuy nhiên, cậu cũng lờ mờ đoán ra rằng có lẽ đấy chính là tình yêu mà cậu vẫn thường nghe người khác nói hoặc đã từng đọc trong sách. Không chỉ một lần các chàng kỵ sĩ trước khi lên đường ra mặt trận đã từng nhờ cậu chuyển những bức thư dán kín cho một cô gái hay một phụ nữ nào đó. Cậu hãnh diện thực hiện những nhiệm vụ bí mật ấy mà không hề lộ ra một lời nào với bất cứ ai. Chẳng lẽ đàn ông lại đem nói ra những chuyện như vậy! Lại còn có cả chuyện một anh người họ hàng xa đã nhờ cậu viết thư. Giamankun là một thanh niên còn trẻ, chữ nghĩa ít lắm, sống lang thang ở trên núi với đàn cừu, từ nhỏ không được học hành tử tế. Anh nhận được giấy gọi nhập ngũ. Chàng thanh niên muốn chia tay với người yêu của mình bằng cách giãi bày trên giấy những tình cảm chân tình đối với cô gái, vì việc gặp gỡ trực tiếp với một cô gái chưa chồng ở trong bản là điều không được chấp nhận. Và thế là anh chàng ít chữ Giamankun phải nhờ đến cậu con
trai người họ hàng. Giamankun đọc và Xuntanmurat ghi lại tất cả những lời của anh nói. Khi đó Xuntanmurat cảm thấy tức cười vì cái sáng kiến ấy, vì nỗi Giamankun tỏ ra rất hồi hộp và xúc động khi chọn từng lời để cho cậu em viết hộ. Khi anh ta đọc xong bức thư, cậu có cảm giác như cổ họng anh ta khô rát. Trước đó, Xuntanmurat đã một mực từ chối món quà tặng của anh ta là một con dao nhỏ có cán bằng sừng cừu nhưng không được, cuối cùng cậu đành phải nhận. Giờ đây, cậu đâu có ngờ rằng chỉ sau đó một năm chính cậu cũng phải trải qua tất cả những gì đã làm hộ cho người anh họ Giamankun tội nghiệp kia.
Bây giờ, bỗng cậu nhớ lại những câu thơ của Giamankun tự sáng tác trong những giây phút tâm hồn cô đơn ở trên núi. Cậu lẩm nhẩm đọc:
Akxai, Kokxai, Xaryxai.
Ta đi khắp nơi,
Nhưng chẳng tìm đâu ra mảnh đất nào giống như người...
Và Xuntanmurat chợt nảy ra ý nghĩ: Cậu cũng sẽ viết thư cho Myrzagun! Và khi đã tìm ra cách để có thể diễn đạt những tình cảm của mình trong lúc hai đứa xa nhau mà không sợ xấu hổ, cậu cảm thấy trong lòng dâng lên một khát vọng muốn thực hiện ý nghĩ tốt đẹp nào đó để tất cả mọi người cũng được hạnh phúc như mình. Trước hết, cậu cần phải giúp đỡ mẹ để mẹ chóng bình phục, để mẹ ít phải lo lắng hơn về bố, để mẹ lại có thể tiếp tục làm việc ở trại chăn nuôi, để căn nhà trở nên ấm cúng, để mẹ có thể đoán biết được phần nào chuyện thằng con trai của mẹ đang yêu đứa nào đó và vì vậy tất cả mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp hơn....
Sau hai, ba ngày ở nhà, Xuntanmurat đã làm được hàng núi công việc mà suốt cả năm chưa chắc nó đã làm nổi. Khắp trong nhà ngoài ngõ được dọn dẹp, sửa sang lau chùi sạch sẽ. Thỉnh thoảng cậu lại ngó vào giường mẹ nằm
và hỏi:
- Mẹ thấy trong người thế nào? Mẹ có cần gì không?
Mẹ mỉm cười chua chát trả lời:
- Bây giờ có chết mẹ cũng chẳng sợ nữa. Đừng lo gì con ạ, nếu cần gì mẹ sẽ nói....
Đến tối, lúc mọi người đã ngủ cả, Xuntanmurat ngồi viết bức thư. Cậu cảm thấy bối rối mặc dù không có ai và chẳng có điều gì làm phiền cậu. Thế mà cậu vẫn cứ thấy hồi hộp. Đầu tiên cậu suy nghĩ xem nên bắt đầu bức thư
như thế nào. Cậu cầm bút lên, rồi đặt bút xuống, ướm đi ướm lại cho vừa ý. Những ý nghĩ cứ lộn xộn giống như những quầng sóng trên mặt nước khi có hòn đá ném xuống, không theo một trật tự nào cả. Cậu muốn giãi bày tất cả
những gì đang ấp ủ trong lòng, vậy mà khi ngòi bút vừa chạm xuống trang giấy là cậu cảm thấy những từ ngữ ấy chẳng ăn nhập chút nào với những điều mình muốn nói. Đầu tiên, cậu muốn nói với Myrzagun rằng cô là một người con gái xinh đẹp, đẹp nhất bản, chẳng những chỉ đẹp nhất bản thôi, mà còn đẹp nhất thế giới nữa. Cậu sẽ nói với cô rằng, đối với cậu trên đời này không có gì hạnh phúc bằng được ngồi trong lớp và ngắm nhìn cô, chiêm ngưỡng sắc đẹp của cô. Nhưng bây giờ cuộc sống của cậu đã thay đổi rồi, rằng cậu cùng với đội quân đổ bộ của mình không được đến trường nữa mà cũng chẳng biết đến bao giờ mới trở lại trường để học tiếp. Bây giờ cậu ít được nhìn thấy cô hơn và chính vì thế mà cậu rất đau khổ và thương nhớ, nhớ lắm, nhớ đến muốn khóc lên được. Cậu cũng không định thú nhận điều đó bởi lẽ một người đàn ông luôn luôn phải là đàn ông, nhưng đúng là có lần nước mắt cậu đã trào lên mi, chỉ chực rơi xuống. Trong lá thư này cũng cần phải giải thích cho Myrzagun hiểu rằng chẳng phải ngẫu nhiên hoặc vô cớ mà vào giờ ra chơi có lần cậu đã xán đến chỗ cô với dáng điệu có vẻ xấc xược như vậy. Và đáng lý ra cô không nên lảng tránh cậu như thế, vì cậu hoàn toàn không có một ý định xấu xa nào. Cậu cũng muốn giải thích với Myrzagun rằng
trường hợp xảy ra trong lúc đua ngựa là do thằng Anatai đểu cáng đã nghĩ ra chuyện muốn tỏ ra mình là người mạnh nhất, dũng cảm nhất và nói chung là người quan trọng nhất trong đội quân đổ bộ. Nhưng kết quả như chính Myrzagun đã thấy, nó chẳng đạt được một thắng lợi nào cả. Chỉ tiếc một điều là con ngựa Oktora lại bị thương. Nhưng cái điều quan trọng nhất mà nó muốn nói là khi nó vừa nhìn thấy Myrzagun trên đỉnh đồi giữa đám bạn cùng lớp, nó bỗng hiểu ngay ra rằng nó đã yêu cô từ lâu lắm rồi, yêu tha thiết. Và khi cô chạy từ đỉnh đồi xuống, hai tay dang rộng, miệng kêu lên một tiếng gì đó, lúc ấy trông cô rất đẹp. Myrzagun chạy đến với cậu giống như giai điệu kỳ diệu của bản nhạc, như dòng thác, như ngọn lửa.
Ngọn đèn trên bệ cửa sổ đã hai lần phải đổ thêm dầu, bấc đã cháy gần hết. May là mẹ nằm ở buồng khác nên không nhìn thấy cậu đốt hết chỗ dầu hỏa cuối cùng. Vậy mà bức thư vẫn chưa đâu vào đâu và không phải vì chẳng có gì để nói mà ngược lại, chính vì cậu muốn nói tất cả mọi chuyện cùng một lúc.
Trong bản, tất cả các cửa sổ đã tối om, không một tiếng chó sủa, mọi người cũng đã ngủ từ lâu trong cái đêm tháng hai sâu lắng, dưới thung lũng, bên ngọn núi Manas phủ đầy tuyết trắng. Ngoài cửa sổ, màn sương dày đặc lan tỏa khắp nơi. Có cảm tưởng như trên khắp trái đất này chỉ còn mình cậu cùng với đêm đen là vẫn còn thức với những ý tưởng đang phiêu diêu về với Myrzagun.
Cuối cùng, Xuntanmurat quyết định dứt khoát. Sau khi đã mở đầu bức thư bằng hàng chữ “Ashyktyk kat” (1), cậu đề bức thư này dành cho cô gái kỳ diệu M hiện đang sống ở bản, sắc đẹp của nàng có thể thay thế cho ánh sáng của ngọn đèn trong căn nhà này. Tiếp theo, cậu viết: Ở ngoài chợ có hàng nghìn người vẫn thường gặp nhau nhưng chỉ có những người muốn bắt tay nhau mới dừng lại để chào hỏi. Tất cả những điều ấy cậu nhớ lại trong bức thư viết hộ người anh họ Giamankun. Sau đó, cậu cam đoan rằng cậu muốn
hiến dâng tất cả cuộc đời mình cho đến hơi thở cuối cùng cho Myrzagun, rồi vân vân và vân vân....Kết thúc bức thư cậu nhớ lại mấy vần thơ của Giamankun:
Akxai, Kokxai, Xaryxai.
Ta đi khắp nơi,
Nhưng chẳng tìm đâu ra mảnh đất nào giống như người... -----
(1)Ashyktyk kat: Một bức thư tình.
SẾU ĐẦU MÙA
Chinghiz Aitmatov
www.dtv-ebook.com
Hôm sau, khi Adzhimurat vừa ở trường về, Xuntanmurat liền rủ em ra đồng kiếm củi. Chúng thắng yên cương cho con Bờm Đen của Adzhimurat rồi buộc tất cả liềm, bao tay và dây thừng để bó củi lên yên con lừa. Hai anh em cho cả con chó Aktos đi theo. Aktos tung tẩy chạy theo sau. Adzhimurat bé hơn nên được cưỡi trên lưng lừa, còn Xuntanmurat là anh lớn nên đi bên cạnh để còn vừa đi vừa thúc lừa cho mau đến nơi. Đường ra đồng khá xa. Xuntanmurat biết một chỗ có rất nhiều cây khô, nhưng hơi xa một chút, mãi tận khe Tyuc-Dzhar. Cứ vào mùa xuân tuyết tan và mùa hè mưa nhiều, nước từ tứ phía dồn cả xuống khe núi. Mùa ấy trong khe lúc nào sấm cũng nổ đùng đùng, mưa rất to, nước chảy ào ào nên sang mùa thu những cây cỏ thân cứng đã mọc cao ngang đầu. Nơi đây ít người lai vãng và chính vì vậy nên ai đã cất công vào đến đây chắc chắn sẽ không phải về tay không.
Khắp vùng quanh bản chẳng còn chỗ nào có củi, bởi vậy nên hai anh em mới phải đến tận khe Tyuc-Dzhar. Xuntanmurat đã hứa với mẹ, trước khi lên đường đi Akxai cậu sẽ kiếm đủ củi dự trữ.
Mới đầu, Xuntanmurat vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ, không chú ý đến câu chuyện của thằng em lắm mồm, hơn nữa cậu đang còn phải bận tâm đến những chuyện khác. Sắp đến lúc các chú thợ cày phải lên đường đi Akxai. Chỉ còn vài ngày nữa thôi và càng gần đến ngày ra đi cậu lại càng thấy còn nhiều việc chưa làm xong, nhất là những công việc lặt vặt. Ở đó, trên thảo nguyên Akxai, nếu không chuẩn bị thì dù chỉ cần một cái đinh cũng không hỏi đâu ra. May sao mà ông chủ tịch Tynaliev ghé lại thăm gia đình cậu. Ông muốn biết tình hình sức khỏe của mẹ cậu và công việc của người chỉ huy đội quân đổ bộ lên Akxai ra sao, nhân thể ông bàn thêm với cậu một số việc nữa. Ông hỏi từ việc chuẩn bị chỗ ở trên thảo nguyên - mọi người đã quyết định
phải dựng một cái lều - đến việc cung cấp thực phẩm và thức ăn cho ngựa và điều quan trọng nhất là ông đã trực tiếp nói chuyện với mẹ. Thời gian gần đây, vì đau ốm và cũng vì không nhận được thư bố nên mẹ trở nên dễ bị xúc động. Hai người tranh luận với nhau. Mẹ nói: Các anh định đưa lũ trẻ đi đâu? Chúng sẽ chết gục ở đó, trên thảo nguyên ấy. Tôi sẽ không cho thằng con đi, mẹ nói, tôi đau ốm thế này, lũ trẻ lại còn nhỏ mà bố chúng thì chẳng có tin tức gì. Trong khi đó thì cỏ khô hết, củi cũng hết. Còn ông chủ tịch thì nói: Cỏ khô thì nông trang sẽ giúp cho một ít, nhiều thì không có vì vụ làm đất mùa xuân đã tới rồi. Còn củi đốt thì ông không dám hứa hẹn gì. Sau đó ông nói tiếp, mặt hơi tái đi như bị chóng mặt: Còn về lũ trẻ định đưa lên thảo nguyên thì chị đã lo lắng vô ích và tôi cũng biết là chị chỉ nói thế thôi, chứ tôi hiểu lòng chị. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối với tiền tuyến. Mà đã là nhiệm vụ thì dù chị có muốn hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì, nhiệm vụ vẫn phải được hoàn thành, không được bàn cãi gì hết. Đấy, lấy ví dụ như các ông chồng của các chị chẳng hạn, trước giờ phút xông trận liệu các anh ấy có ngồi mà nỉ non về công việc xó nhà: Nào là ở nhà thiếu cái này, thiếu cái nọ, không có củi đun và cũng chẳng có gì để ăn. Làm thế có được không nào? Ai cho phép để những chuyện như vậy xảy ra ngoài mặt trận? Mà đối với chúng ta ở đây, Akxai cũng là một chiến dịch lớn. Chúng ta cần vét sức xông vào chiếc dịch ấy. Trong bản có còn ai nữa đâu mà chúng ta chẳng phải vét đến những đứa trẻ còn đang đi học này? Đấy, chị thử nghĩ lại mà xem!
Giữa mẹ và ông chủ tịch đã có một cuộc nói chuyện như vậy. Tội nghiệp cho mẹ và cả cho ông chủ tịch Tynaliev. Nhưng cũng cần phải hiểu cho ông ấy, bởi lẽ ông đề xuất ra chuyện này cũng chỉ vì mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông đề nghị Xuntanmurat nhanh chóng thu xếp để có thể tiếp tục công việc. Thời gian, ông nói, còn rất ít, khi nào thấy mẹ đỡ hơn là phải bắt tay vào việc ngay, không được chậm trễ một phút...
Từ hôm qua mẹ thấy trong người có đỡ hơn và đã có thể làm được một số việc lặt vặt trong nhà. Xuntanmurat có thể trở lại với công việc, với các bạn ở
trại ngựa. Nhưng sống chết cậu cũng phải lo cho xong chuyện củi đuốc ở nhà đã, không thể để tình trạng trong nhà không có ánh lửa, không củi sưởi ấm được...
Hôm ấy là một ngày đầu xuân. Giữa trưa trời ấm áp. Thời tiết không còn là mùa đông nữa nhưng cũng chưa hẳn là mùa xuân. Không khí trong lành, thoáng đãng. Một khung cảnh thanh bình, tĩnh mịch bao trùm khắp cảnh vật xung quanh. Rải rác đây đó, giữa những đám tuyết mỏng đã xỉn màu lộ ra những bãi cỏ rộng tàn úa, bị xéo nát. Xa xa trong làn không khí trong suốt hiện rõ những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng nhìn đến chói mắt. Đất đai trải rộng khắp xung quanh và cần biết bao sức lực của con người đổ xuống đấy.
Xuntanmurat dừng lại đưa mắt nhìn về phía Tây, nơi cánh đồng Akxai trải dài trên thảo nguyên mênh mông dưới chân dãy núi Akxai vĩ đại. Nhưng cậu chẳng nhìn thấy gì ở phía ấy, nơi người ta vẫn thường gọi là vùng Akxai. Ở đấy chỉ có một khoảng không gian và ánh sáng. Vài ngày nữa các cậu sẽ lên đường đến đấy. Ở đó rồi sẽ ra sao? Những gì đang chờ đợi các cậu trên vùng đất ấy? Một nỗi lo âu bỗng thoáng qua...
Hôm ấy quả là một ngày đẹp tươi. Thằng bé Adzhimurat đang ngây ngất vì sung sướng, vì một ngày được tự do, thoải mái, vì bên cạnh nó là người anh trai cùng con chó đáng tin cậy đang chạy theo sau, vì trong khắp cả thế giới này chỉ có mình chúng với nhau, vì hai anh em đang đi lấy củi. Nó ngồi trên lưng lừa và bằng một giọng thánh thót hát những bài hát có từ thời trước chiến tranh,
Ber komanda, marsaldar
(Các ngài nguyên soái hãy ra mệnh lệnh)
Kanbai tegiz chygabyr
"""